PDA

View Full Version : [Truyện dài] Japanese Spirit: Miyamoto Musashi



Acmagiro
28-01-2008, 01:19 PM
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


Yoshikawa Eji, một trong những ngôi sao vĩ đại nhất trong làng văn học Nhật Bản, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết thời đại (Jidai Shosetsu) đã trở thành bất tử với trường thiên tiểu thuyết "Miyamoto Musashi" này. Đây là cuốn sách được nhiều người đọc nhất tại Nhật Bản cùng với " Saka no ue no kumo" của Shibaryo Taro qua nhiều thập niên và được ví như là " Cuốn theo chiều gió " hay " Chiến tranh và hòa bình " của Nhật Bản.
Cuốn sách xây dựng cuộc đời kiếm thánh Miyamoto Musashi dựa trên những sự kiện lịch sử có thật với cái nhìn phóng khoáng, hào hùng và bằng nhãn quan của Phật Môn. Chắc chắn, nếu có cái gì được gọi là " Japanese Spirit " thì cuốn sách này đã nắm bắt hầu như trọn vẹn.
Bạn đọc sẽ thấy được tính cách, tinh thần Nhật Bản chân chính qua nhân vật kiếm hào vĩ đại nhất lịch sử Miyamoto Musashi này. Một cuốn sách không thể bỏ qua đối với những ai yêu thích văn học, những người ưa chiêm nghiệm cuộc sống, những bậc trí giả và cuốn hút cả những người bình thường có tâm cầu đạo, sự tinh tấn dũng mãnh, ý chí đi lên cái tận cùng, rốt ráo từ một xuất phát điểm thấp.
Tinh thần chính của tác phẩm chính là sự cầu đạo với nỗ lực tinh tấn không ngừng, luôn luôn hướng tới cái hoàn thiện, hoàn mỹ, rốt ráo, cực ý và qua đây người đọc có thể nhận ra yếu tố " Kiếm Thiền Nhất Như" ( Kiếm Đạo và Thiền Đạo là một ) và yếu tố "giàn tố " ( Thanh nhã, đơn giản mà thuần khiết sâu lắng ) trong văn hóa Nhật Bản. Bên cạnh đó là sự vô thường luôn theo sát
mọi nhân vật trong tác phẩm. Sự vô thường, biến đổi trong tâm con người, sự vô thường của thế giới tự nhiên luôn vận động khồng ngừng. Một tinh thần chính nữa là tình thương yêu với Bồ Đề Tâm. Yếu tố này luôn bàn bạc xuyên suốt tác phẩm, nó thể hiện đặc sắc qua hai nhân vật : Kiếm Hào Musashi và cô thôn nữ Otsu. Nếu như tình thương yêu của Musashi thể hiện qua sự nhận thức, giác ngộ và đồng nhất với tình thương của Phật Đà thì tình thương yêu của Otsu đồng nhất với bậc Bồ Đề Tát Đóa.
Tác giả xây dựng ba nhân vật tượng trưng cho ba loại đức tính của con người. Musashi tượng trưng cho sự cầu đạo tinh tiến, khổ hạnh và nghiêm khắc với bản thân, phóng khoáng và sâu sắc trong nhận thức, đánh giá thì Hon Iden Matahachi tượng trưng cho sự sa ngã, những điều xấu trong con người. Otsu là tượng trưng cho hình mẫu Bồ Tát với tình thương yêu dào dạt.
Xuyên suốt tác phẩm là một tinh thần nữa : " Bồ Đề Tâm có công năng diệt trừ thảy mọi ác pháp ".
Theo ý kiến chủ quan của tôi thì tác phẩm này xứng đáng dành được một nửa vị trí trong nền văn học Nhật Bản. Không biết đến "Miyamoto Musashi" của Yoshikawa Eiji cũng tương đồng với việc không biết đến một nửa của văn học Nhật.
Bản dịch Việt văn của dịch giả Cung Vũ, mong bạn đọc thưởng thức...

Acmagiro
28-01-2008, 01:19 PM
Vài lời về Miyamoto Musashi

Như nhiều người đã biết, Miyamoto Musashi trước khi mất đã để lại hai bộ sách có giá trị là Gorin no sho và Dokkodo. Về Gorin No Sho thì đó là một quyển sách chỉ nam về kiếm thuật, nhưng người ở những giới khác nhau lại thấy được trong nó những giá trị khác nhau. Những nhà quân sự luôn xem đó là một quyển sách không thể thiếu trong tủ sách chiến thuật, binh thư trong khi những nhà mỹ thuật lại không thể xem nhẹ nó. Những nhà kinh doanh, giáo dục đều có những đánh giá cao về quyển sách viết về kiếm thuật này. Ở đây không có ý định đi sâu vào phần này mà xin để một dịp khác. Còn Dokkodo là quyển sách mang nhiều ảnh hưởng của Chứng Đạo Ca (Shoudouka), một quyển sách về Thiền, nó thể hiện nhân sinh quan của Musashi đối với cuộc đời trong cõi Ta Bà. Luôn đứng trên đôi chân của mình và đi trên đôi chân của mình, không dựa vào tha lực, không mong cầu vào tha lực. Nó thể hiện sự tinh tấn dũng mãnh cũng như tinh thần cầu đạo tích cực của Musashi . Musashi còn là một nhà mỹ thuật tuyệt vời mà người ta không thể không nhắc đến khi nói về tranh thuỷ mặc, điêu khắc và thư pháp. Rất nhiều tác phẩm của Musashi ở ba lĩnh vực nghệ thuật này còn được lưu giữ đến ngày nay. Trong số đó có nhiều hoạ phẩm Thiền không xa lạ với chúng ta, như bức Bồ Đề Đạt Ma (Bodai Daruma) và con hổ, Bố Đại (Hotei) với cặp gà chọi,… Musashi còn là đề tài bất tận cho không biết bao nhiêu loại hình nghệ thuật, giải trí như điện ảnh, văn chương, hội hoạ và ngày nay là đề tài cho nhiều tác phẩm Manga, Anime,Game…
Miyamoto Musashi còn đựơc biết đến nhiều qua bộ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Yoshikawa Eiji sống vào thời Meiji. Ông viết rất nhiều, nhưng có lẽ chính bộ tiểu thuyết Miyamoto Musashi mới là thứ làm cho tên tuổi ông sống mãi với thời gian.

Acmagiro
28-01-2008, 01:23 PM
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


QUYỂN 1 : Chi no maki

CHƯƠNG 1
TIẾNG CHUÔNG



Takezo nằm giữa những xác chết. Xác nhiều lắm, có đến hàng ngàn chứ không ít. Hắn thấy thế giới xung quanh hắn đảo lộn, quay cuồng, dường như điên khùng hết cả. Kiếp người thật quá mong manh, chẳng khác gì chiếc lá thu, mặc cho gió đưa đẩy.
Cũng như những xác chết bất động nằm kia, Takezo phó mặc mưa nắng hành hạ. Chưa bao giờ hắn thấy yếu đến thế. Hắn tự hỏi không biết đã nằm đây từ bao giờ, thử cất đầu lên nhưng cố lắm cũng chỉ khỏi mặt đất được chừng non tấc.
Ruồi bay vo ve trên đầu. Takezo định đưa tay xua nhưng không đủ sức. Tay hắn cứng đơ, chỉ vài ngón là còn cử động. “Có lẽ mình nằm đây khá lâu rồi. Chẳng biết bị thương ở những chỗ nào”, hắn thầm nghĩ.
Mây đen từng đám, thấp và nặng những đe dọa đuổi nhau trên bầu trời u ám. Đêm trước, có trận mưa lớn đổ như trút lên đồng cỏ Sekigahara này, bây giờ tuy quá ngọ nhưng thỉnh thoảng vẫn còn những giọt mưa lớn lộp bộp rơi lên chiếc áo vải thô bết bùn và máu hắn đang mặc.
Cổ họng Takezo khô rang. Mỗi lần thấy nước mưa rơi lên mặt, Takezo há miệng hớp hớp những giọt mưa như con cá mắc cạn ngáp tìm dưỡng khí. Hắn khoan khoái uống những giọt nước ngọt lịm, tưởng mình là kẻ hấp hối đang được thân nhân thấm nước lên môi.
Đầu Takezo nặng trĩu. Ý tưởng hắn mơ hồ, nhưng Takezo cũng biết được phe hắn đã thua. Vào phút chót, Kobayakawa Hideaki bí mật phản chủ, trở cờ thành ra cánh quân của hắn bị đánh tập hậu. Trận chiến kết thúc mau chóng. Tokugawa Ieyasu, một sứ quân nổi tiếng mưu lược và thế lực nhất vùng Edo, không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ trở thành sứ quân đầu lĩnh.
Hình ảnh chị hắn và dân làng Miyamoto, một ngôi làng nhỏ miền sơn cước, nơi hắn sinh trưởng, hiện ra bềnh bồng trong sương khói. “Có lẽ ta sắp chết”, Takezo tự nhủ. “Thì ra chết như thế này đây”. Nhưng Takezo chẳng mảy may buồn rầu hay sợ hãi. Hắn chỉ thấy yên bình, có cảm giác như đang bị lôi cuốn vào một cõi mông lung nào đó như đứa trẻ bị mê hoặc khi nhìn ngọn lửa bập bùng cháy.
- Takezo !
Tiếng gọi thình lình khiến Takezo sực tỉnh. Hình ảnh dân làng và chị hắn nhạt nhòa, biến mất. Như vừa từ cõi âm trở về, hắn nghe âm thanh quen thuộc lắm nhưng không rõ là ai.
- Takezo ! Mày còn sống chứ ?
Nỗi vui mừng bỗng tràn ngập, Takezo dường như vừa được tiếp thêm sinh lực; vì giọng ấy chính là giọng Matahachi, bạn chí thân cùng dự trận Sekigahara với hắn.
- Mata ... Matahachi hả ?
- Ừ ! Thì ra mày cũng chưa chết !
Takezo muốn hét thật to và cười thật lớn để tỏ nỗi vui mừng. Hắn không chết ! Mà bạn hắn cũng không chết ! Thật không gì sung sướng cho bằng, nhưng tiếng cười của hắn khàn khàn, vướng trong cổ họng, không ai rõ là hắn cười hay hắn khóc.
Takezo nghiêng đầu về phía Matahachi, thấy bạn đang bò lại gần. Hắn đưa tay ra nắm tay bạn. Qườ quạng mãi mới nắm được một ngón. Cử chỉ này khiến hai đứa nhớ đến lúc còn nhỏ chơi với nhau thường ngoắc tay như thế mỗi khi có điều gì giao kết. Bất giác, trên bộ mặt nhem nhuốc bùn đất của chúng, phát một nụ cười thỏa mãn.
- Có lẽ chỉ hai đứa mình sống sót.
- Có lẽ thế. Nhưng đừng mừng vội. Tao yếu quá.
Takezo:
- Tao cũng thế. Nhưng không sao. Mình sẽ dìu nhau ra khỏi bãi này mới hy vọng.
Câu nói của hắn bị đứt quãng vì có tiếng đất chuyển lục ục như nước sôi.
- Nằm xuống ! Nằm xuống ! Chúng trở lại !
Một đoàn người ngựa đen ngòm phóng tới. Matahachi kinh hãi định bò vào bụi trốn. Takezo giữ tay gã lại.
- Chớ động đậy ! Giả chết đi. Đừng để chúng nghi mình còn sống. Nguy lắm !
Đoàn ngựa chiến to lớn rần rần qua mặt hai kẻ bại trận. Hàng trăm cặp móng sắt sắc như dao bổ lên đám thây người rải rác khắp nơi. Hết đợt này đến đợt khác, toán kỵ binh phóng ào ào, bụi đất văng tứ tung, binh khí chạm vào giáp sắt nghe rổn rảng.
Matahachi dán mặt xuống cỏ, mắt nhắm nghiền, nhưng Takezo vẫn mở mắt thao láo nhìn đoàn chiến mã chạy qua, gần đến nỗi hắn ngửi thấy cả mùi mồ hôi ngựa.
Đoàn quân đi đã xa, hai đứa vẫn còn nằm yên chưa hết sợ. Lúc sau, đứa nọ đưa mắt nhìn đứa kia, không tin ở sự may mắn phi thường chúng vừa được hưởng. Thật là kỳ diệu:
chúng không bị phát giác !
- Lại thoát lần nữa !
Matahachi và Takezo nắm chặt tay nhau, nụ cười vui mừng nở trên cặp môi tím còn run rẩy vì xúc động. Giọng Matahachi nghẹn ngào:
- Chắc có quý nhân phù hộ !
Trên cao, mây vần vũ. Bãi chiến trường vào một buổi chiều ảm đạm, thê lương vô hạn. Hai kẻ chiến bại dìu nhau đứng dậy giữa những tiếng quạ kêu, rẽ cỏ hướng về phía đồi xa chậm chạp bước. Takezo hy vọng khu rừng rậm hắn trông thấy trước mặt có thể tạm dùng làm nơi ẩn náu. Đến chiều, tới được khu rừng, đói và mệt rã rời, cả hai nằm lăn ra ngủ, chẳng nghĩ gì đến mà cũng không còn sức để đi tìm thức ăn và nước uống nữa.
Hai ngày liền lang thang trong khe núi Ibuki, Matahachi và Takezo đào rễ cây rừng và nhặt hạt dẻ sống để ăn. Sức khỏe của họ đã hồi phục được đôi chút, các vết thương cũng bắt đầu lành nhưng Matahachi bị đau bụng. Thức ăn dường như không giữ được lâu trong cơ thể hắn. Mỗi khi đau hắn gập đôi người lại, mặt mày xanh mét.
Trong hai đứa, Takezo bây giờ lại là đứa khỏe nhất.
Trận mưa vừa rồi là trận mưa cuối mùa. Matahachi và Takezo ngày nghỉ đêm đi, tránh sự ruồng xét của quan quân tuần tiễu. Họ biết đi trốn vào những đêm trăng sáng như đêm nay rất nguy hiểm vì dễ bị phát giác, nhưng họ cứ liều, Cả hai đều thèm cơm hoặc một thứ gì đã được nấu chín, mà Matahachi lại đau bụng quá, nếu không có thuốc chữa, sẽ bỏ mạng trong rừng. Cho nên lần theo dòng suối, chúng đi về phương nam, đến một nơi mà theo trí nhớ của Takezo, có thể là thị trấn Tarui. Matahachi xem chừng khó mà đi được xa vì cứ vài chục bước lại phải vào trong bụi. Dù đã dùng một cành cây khô làm gậy chống, mỗi bước hắn đi là một bước cực nhọc. Takezo phải kiên nhẫn đỡ lưng gã, miệng luôn luôn khích lệ:
- Cố lên mày ! Cố lên ! Nằm lại là chết.
Những lúc tạm nghỉ, Matahachi luôn mồm kêu khổ, than vãn đủ điều.
- Hay để tao ngồi đây, mày đi đi. Tại tao làm mày chậm trễ.
Lúc đầu, Takezo còn gạt đi, sau phát cáu:
- Thôi ! Đáng lẽ tao phải xin lỗi mày mới phải, vì chính tao đã kéo mày vào hoàn cảnh này mà ! Mày nhớ không ? Tao đã kể mày nghe ý tao muốn làm một cái gì để ba tao phải nể, đừng nhiếc tao là đồ vô dụng nữa. Đâu phải lỗi tại mày !
Quả vậy, cha Takezo, ông Munisai, trước đây là bộ thuộc của sứ quân Shinmen ở Iga. Cha hắn là kiếm khách, tất nhiên hắn cũng phải là kiếm khách. Hắn nóng lòng muốn tỏ can trường, chặt đầu tướng địch, danh vang làng xóm để chứng tỏ hắn là người đáng được kính nể chứ không phải vô dụng như cha hắn vẫn nhiếc móc, nên khi nghe tin có chiêu binh mãi mã, Takezo thấy thời cơ đã đến, rủ Matahachi đăng lính ngay.
Takezo nhắc lại tất cả những chuyện ấy cho bạn nghe.
- Ừ, tao biết, tao biết ! ...
- Lại còn bà cụ đẻ ra mày nữa, rêu rao khắp nơi tao là thằng vô tích sự, thành ra ...
- Ừ ừ ... mẹ tao tính vẫn thế.
- Tao muốn mày theo tao vì làm việc gì, tao với mày cũng đều có nhau. Mày nhớ không, chị tao chẳng muốn tao đi, mà phần mày vợ chưa cưới của mày cũng vậy. Họ bảo trai làng phải sống ở làng ...
Ngừng một lát, hắn mỉm cười:
- Có lẽ họ nói đúng. Hơn nữa tao với mày con một, chết đi ai nối dõi. Nhưng thây kệ, sống như vậy thật không đáng sống.

Acmagiro
28-01-2008, 01:24 PM
Matahachi và Takezo yên lặng ngồi nhìn trời. Chúng nghĩ đến lúc trốn khỏi làng, non năm trước, tin chắc sẽ được công thành danh toại. Nhưng đến trại của sứ quân Shinmen, cả hai chưng hửng trước sự thật phũ phàng. Họ cho biết, mặc dù ông Munisai có làm gì đi nữa chúng cũng không thể tức thì là kiếm khách. Phải tập luyện, phải xông pha trận mạc đã. Bây giờ chúng chỉ được coi như những nông dân thô lậu chẳng khác gì những thiếu niên mới tập vài đường giáo mác. May lắm là cho làm lính trơn. Trách nhiệm, nếu được gọi là trách nhiệm, chỉ là khuân vác binh khí, gạo muối và đồ làm bếp, cắt cỏ, đắp đường, đôi khi theo chân người khác đi do thám chút đỉnh.
- Kiếm khách ? Chém đầu tướng địch ? Takezo cười hềnh hệch. Có bao giờ tao được đến gần một kiếm khách đâu mà hòng chém tướng ? Nhưng thôi, chuyện đã lỡ rồi, giờ làm gì đây ? Tao không thể bỏ mày ở đây được vì còn mặt mũi nào trông thấy bà cụ và Otsu, vợ chưa cưới của mày nữa ?
Matahachi gật đầu:
- Chung qui cũng tại thằng Kobayakawa phản chủ mà mình nên nông nỗi này. Tội nó thật đáng giết. Takezo, giúp tao đứng dậy chút. Mày có chắc con suối này chảy đến Arui không ?
Takezo không đáp. Thật ra, trong bụng hắn cũng không tin tưởng gì. Đi một lúc lâu, có lẽ đêm đã khuya lắm, Takezo và Matahachi mới đến ven một cánh đồng nhỏ, lác đác nhiều đám cỏ gai và ở ven suối những đám sậy tả tơi như sau một cơn bão.
Không một căn nhà. Không một ánh lửa. Dưới trăng chỉ thấy ngổn ngang thây người, lúc chết thế nào giờ vấn nguyên thế. Có xác đầu khuất trong đám cỏ cao, có xác nằm vắt vẻo trên cành cây thấp, nửa thây trên bờ, nửa thây dưới suối. Có xác còn trên yên ngựa, người vật lẫn lộn với nhau, chẳng ra hình thù gì.
Nước mưa đã rửa sạch hết vết máu. Dưới ánh trăng, những thớ thịt chết lộ ra, trắng bợt tựa vẩy cá.
Xung quanh hai đứa, trong đêm thu tiếng dế kêu ri rỉ, đều đều buồn bã. Matahachi bỗng thấy nước mắt đầy tròng, tràn xuống hai gò má bẩn thỉu. Nó thở dài, cái thở dài sầu thảm của một người ốm nặng không tin mình có thể qua khỏi.
- Takezo ! Tao chết đi mày có săn sóc Otsu hộ tao được không ?
- Mày nói nhảm gì vậy ?
- Hình như tao sắp chết.
Takezo bực mình:
- Ừ thì chết. Mày nghĩ vậy thì mày sẽ chết !
Takezo giận lắm. Hắn mong bạn có đôi chút nghị lực về tinh thần để hai đứa dựa lẫn nhau. Không ngờ thằng này hèn yếu quá.
- Thôi đừng than nữa mày !
Tuy nói dỗ và mắng bạn như thế, nhưng hắn vẫn thương thằng bạn gặp cảnh không may.
- Mẹ tao còn có người chăm sóc, chứ Otsu mồ côi, chẳng có ai. Lúc nào nó cũng cô đơn. Takezo ! Nếu tao chết, mày hứa săn sóc nó hộ tao !
- Yên tâm ! Tiêu chảy sao chết được. Sớm muộn gì mình cũng tìm được chỗ nằm nghỉ và uống thuốc. Rồi khỏi. Đừng than mà cũng đừng nói chuyện chết nữa.
Xa hơn một chút, chúng thấy một chỗ xác người nằm chất đống. Hai đứa bây giờ đã quen với ruột gan người chết sổ lòng thòng nên đứng nhìn cảnh đó chẳng xúc động gì. Chúng đến bên gốc cây ngồi nghỉ.

Thình lình, giữa đám tử thi có tiếng động. Takezo giật mình thụp xuống theo bản năng tự vệ, mắt mở banh, mọi giác quan căng thẳng tột độ. Một bóng đen giữa những thây ma nhảy vụt ra, bất ngờ như con thỏ bị người bắt gặp rồi lại lẳng lặng ngồi lẩn vào trong đám xác chết. Tưởng gặp tay kiếm khách nguy hiểm, Takezo và Matahachi sẵn sàng chấp nhận một cuộc giao đấu một còn một mất, nhưng cả hai ngạc nhiên hết sức khi bò đên gần, thấy đó là một thiếu nữ. Nàng trạc mười lăm, mười sáu, mặc áo rộng tay, chiếc obi (thắt lưng to bản) quấn quanh ngườ i chạy chỉ vàng lóng lánh tuy đã sờn cũ. Dưới ánh trăng vằng vặc, giữa đám tử thi, cảnh đó thật là kỳ dị.
Nàng ngồi đó, giương đôi mắt đen láy nhìn Takezo và Matahachi, vừa tinh quái vừa nghi kỵ.
Cả hai tự hỏi:
“Chẳng biết một người con gái, nửa đêm làm gì ở cái bãi hoang đầy tử khí và ma quỷ này ?”. Nhưng chúng không nói, chỉ giương mắt tò mò nhìn lại thiếu nữ.
Sau cùng, Takezo lên tiếng:
- Cô là ai ? Làm gì ở đây ?
Không đáp, thiếu nữ vùng bỏ chạy.
- Cô kia, đứng lại ?
Nhưng thiếu nữ đã vụt ra xa, chạy chữ chi, tránh dẫm lên những xác chết. Áo trắng của nàng loang loáng dưới ánh trăng. Có tiếng chuông lanh canh vọng lại rồi cũng xa dần, kỳ bí chìm dần vào bóng đêm sâu thẳm cùng những bụi gai dày ở xa.
Sương xuống mờ mờ. Takezo nhìn sương, nói khẽ:
- Người hay ma ?
Matahachi run nhong nhóc, cười gượng:
- Nếu là ma, chắc là ma lính.
- Bỏ đi mày ! Sợ hả ? Nó chạy đằng này chắc là phải có làng mạc quanh đây. Biết đâu nó chẳng chỉ đường cho mình ?
Quên cả nghỉ, cả hai tiếp tục hành trình, leo lên ngọn đồi gần nhất. Dốc đồi bên kia là bãi lầy chạy đến chân núi Fuwa. Xa xa, khoảng chừng nửa dặm, một đốm lửa leo lét.
Takezo và Matahachi cho đó là một căn lều. Dù sao cũng tốt, một căn lều tránh mưa nắng, tạm dưỡng bệnh còn hơn không. Đến gần thì ra là một trang trại, xung quanh có lớp tường đất dầy bao bọc. Cổng vào, trước kia chắc rất lớn, nhưng nay đã đổ nát. Tất cả ẩn dưới những tàng cây rậm rạp và lau cao hơn đầu người, mang một vẻ hoang phế khó tả. Takezo đến trước trại, đập cửa:
- Có ai trong nhà không ?
Không nghe trả lời, hắn lại đập cửa lần nữa.
- Xin lỗi làm rộn quý trại vào giờ này. Bạn tôi đau nặng. Chúng tôi thật chẳng muốn phiền, chỉ xin nghỉ chân đôi chút.
Trong nhà có tiếng thì thào rồi một giọng con gái vọng ra:
- Các chú là tàn quân trận Sekigahara phải không ?
- Dạ phải. Chúng tôi là quân dưới trướng sứ quân Shinmen ở Iga.
- Đi đi ! Quan quân đang ruồng bắt những lính bỏ ngũ. Nếu họ thấy các chú ở đây thì phiền lắm !
- Xin thứ lỗi vì chúng tôi đi đã nhiều rồi. Bọn tôi cần được nghỉ đôi chút.
- Không ! Đi ngay đi !
- Vậy xin cô cho ít thuốc đau bụng. Bạn tôi đau bụng lắm, không đi nổi nữa.
- Trời ơi ! Các chú lằng nhằng quá … Sau câu nói, có tiếng chân bước và tiếng chuông ngân nhè nhẹ đi về phía nhà trong.
Ngay lúc ấy, cả hai đều nhìn thấy khuôn mặt. Một khuôn mặt trắng của đàn bà đang chăm chú quan sát chúng qua cửa sổ bên hông.
- Akemi ! Người đàn bà lên tiếng. Cho họ vào. Lính trơn đấy mà, có gì mà sợ.
Tụi kia hơi đâu mất thì giờ với họ.
Lúc sau Akemi ra mở cửa. Người đàn bà tự giới thiệu mình là Oko. Nghe chuyện xong, bà bằng lòng để cả hai tá túc trong nhà và ngụ Ở kho chứa củi.
Bà cho Matahachi uống bột than tử dương để trị chứng tiêu chảy và nấu cho ăn cháo loãng với hành lá.

Acmagiro
28-01-2008, 01:25 PM
Mấy ngày sau đó, Matahachi ngủ li bì. Takezo vừa săn sóc bạn vừa tự lấy rượu trị những vết thương ở đùi. Một tuần qua đi, hai đứa ngồi dậy chuyện gẫu được.
- Chắc bà ấy phải làm nghề gì chứ !
- Chẳng biết nghề gì, nhưng giúp mình thế này là quý rồi !
Nhưng Matahachi tò mò bứt rứt không yên.
- Bà mẹ còn trẻ. Hai mẹ con như vậy sống cô độc trên núi, thực là kỳ ! Hà, mà mày thấy cô con giống Otsu không ?
- Có vài điểm hao hao, nhưng tao không thấy giống. Mỗi người một vẻ. Lần đầu tiên thấy nàng, mày nghĩ cô ta đang làm gì ở bãi hoang cạnh những xác chết đó ? Cô ta có vẻ không bối rối, lúc nào mặt cũng thanh thản như một con búp bê bằng sứ vậy.
Cảnh đó tao thấy còn như hiện ra trước mắt.
Bỗng Matahachi khẽ suỵt, bảo im:
- Nghe có tiếng chuông ngân. Chắc nàng tới.
Tiếng gõ cửa cạch cạch như tiếng mỏ chim gõ thân cây.
- Matahachi ! Takezo !
- Ai đó ?
- Tôi, Akemi.
Takezo đứng dậy kéo then gài. Nàng bước vào, tay bưng cái khay đựng thức ăn và thuốc, rồi hỏi thăm sức khỏe cả hai.
- Cảm ơn cô. Nhờ ơn bà và cô, chúng tôi khá hơn trước.
- Mẹ tôi bảo nếu các chú đã đỡ thì chớ ra ngoài mà cũng đừng nói lớn.
- Chúng tôi thật áy náy đã phiền bà và cô …
- Không sao, nhưng các chú phải để ý, quan quân Tokugawa tuần tiễu ngặt lắm, vì chưa bắt được Mitsunari. Ai chứa tàn quân của Shinmen cũng bị liên lụy.
- Thật hả ?
- Vì vậy mẹ tôi bảo dù các chú là lính trơn, quan quân bắt gặp, chúng tôi cũng bị tội.
- Dạ, chúng tôi hứa sẽ theo lời bà và cô. Tôi đã có khăn sẵn để bịt mồm Matahachi, phòng khi hắn ngáy lớn.
Akemi mỉm cười quay ra:
- Thôi, các chú ngủ ngon. Mai tôi lại đến.
- Thưa cô. Takezo chạy theo. Sao cô không lưu lại chuyện vãn chút nữa ?
- Không được đâu.
- Sao vậy ?
- Mẹ tôi không cho phép.
- Cần gì ! Cô bao nhiêu tuổi ?
- Mười sáu.
- Có hơi nhỏ người phải không cô ?
- Cảm ơn chú cho biết.
- Cha cô đâu ?
- Cha tôi mất rồi.
- Chết, xin lỗi. Vậy bà và cô sống bằng gì ?
- Chúng tôi chế ngải cứu.
- Thứ thuốc vẫn dùng để trên da rồi đốt xông khói trị bệnh ấy hả ?
- Phải rồi. Ngải cứu vùng Ibuki này nổi tiếng. Mùa xuân chúng tôi lên núi hái thuốc, đến hè thì phơi, thu đông chế thành ngải đem đi Tarui bán. Khách thập phương mua đông lắm.
- Làm chuyên đó, cô cần đàn ông giúp không ?
Akemi nguýt Matahachi:
- Nếu chú chỉ muốn biết chuyện ấy thì tôi đi đây.
- Xin cô lưu lại chút nữa, tôi có câu này muốn hỏi.
- Gì vậy ?
- Đêm trước, cái đêm chúng tôi đến xin ngủ nhờ nhà cô đó, tôi có gặp một cô gái ở bãi hoang cạnh các xác chết, giống cô như hệt. Phải cô không ?
Akemi quay phắt ra, mở cửa.
- ... Cô làm gì ở đó ?
Nàng đóng sập cửa lại và khi nàng chạy lên nhà, Takezo và Matahachi còn nghe vọng lại tiếng chuông ngân lanh tanh, theo một nhịp khác thường và kỳ dị.

Acmagiro
28-01-2008, 01:26 PM
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Yoshikawa Eiji
Dịch giả: Cung Vũ


QUYỂN 1 : Chi no Maki
CHƯƠNG 2
CHIẾC LƯỢC



Takezo cao một thước bảy lăm, so với những người cùng tuổi, có thể coi là lớn vóc. Hắn như con tuấn mã, khỏe và dai sức, chân tay dài rắn chắc, môi đầy đặn đỏ hồng, mày đen rậm nhưng thanh tú chứ không quăn rối, kéo dài quá đuôi mắt làm tăng thêm vẻ ngang tàng của gương mặt.
Nhờ có những nét khôi ngô trên mức trung bình ấy, dân làng gọi hắn là “thằng bé được mùa”. Tuy chẳng ngụ ý gì giễu cợt, nhưng hỗn danh này làm cho những đứa trẻ đồng tuổi lánh xa, hắn lấy thế làm phiền muộn.
Còn Matahachi, tuy không tuấn tú nhưng hỗn danh trên đôi với nó hợp hơn. Mập và lùn hơn Takezo, Matahachi tròn quay, gương mặt cũng tròn. Mỗi khi nói, đôi mắt tròn xoe hơi lồi đưa láo liên trông khôi hài như một thằng hề. Mọi người thường chế giễu, ví hắn như con ếch.
Thanh niên đang tuổi lớn, nếu có bị thương cũng mau lành. Khi cả hai đã hoàn toàn bình phục, Matahachi bứt rứt, không chịu nổi cảnh tù túng. Nó bực dọc đi lại trong nhà chứa củi như con thú bị nhốt trong chuồng, mồm không ngớt than vãn cảnh giam hãm. Nhiều lần nó tự ví là con dế kẹt trong hang tối khiến Takezo được dịp chế nhạo:
- Thì dế với ếch có khác gì ! Dế ở được thì ếch cũng ở được !
Đôi khi chắc Matahachi có để tâm dò xét hai mẹ con ở căn nhà trên, vì một hôm nó ghé tai người bạn đồng cảnh thì thầm ra vẻ quan trọng:
- Đêm nào bà mẹ góa cũng đánh phấn làm đẹp mày ạ !
Takezo cau mặt. Như đứa trẻ mười hai không ưa con gái, thấy bạn bắt đầu chú ý đến ỡ lũ ấy, nó nhìn Matahachi khinh bỉ.
Matahachi bắt đầu lên nhà trên, lân la gần bếp lửa cạnh Akemi và bà mẹ góa.
Sau ba bốn ngày chuyện cà kê và đùa cợt, Matahachi mặc nhiên được coi như người nhà. Nó không trở về ngủ ở vựa củi nữa, năm thì mười họa có về thì cũng say sưa, hơi thở sặc mùi sa-kê và cố gò Takezo lên ở nhà trên bằng cách khoe khoang cảnh sống vui thú ở cách đó chỉ vài bước.
Takezo khó chịu:
- Mày điên hả ? Rồi đến bị giết hết, nếu không cũng bị bắt cả đám. Đã thua phải trốn còn không biết thân. Tao với mày bây giờ phải lẩn cho kỹ, chờ khi nào yên đã.
Nhưng mãi rồi cũng chán. Không khuyên bảo được tên bạn thích hưởng lạc ấy, Takezo chỉ trả lời gióng một:
“Tao không ưa rượu sa-kê “, hoặc “tao thích ở vựa củi, thoải mái hơn”.
Cho đến một hôm, không chịu nổi nếp sống buồn tẻ, Takezo đã có những dấu hiệu yếu đuối.
- Mày có chắc là không có lính tuần không ? Có thật không can gì không ?
Và Takezo, sau hai mươi ngày tự trốn mình trong vựa củi, đã chịu thò đầu ra ngoài. Hắn như tên tù sắp chết, da xanh mét, chẳng bù với Matahachi, hồng hào vì nắng và rượu. Takezo ngước nhìn trời, mắt hấp háy, vươn vai ngáp dài như con thú mới được thả. Ngáp xong, hắn nhíu lông mày, nét mặt đăm chiêu. Rồi sau một lúc suy nghĩ, khẽ nói:
- Chúng ta lợi dụng lòng tốt của hai mẹ con nhà này nhiều rồi. Nếu cứ ở đây mãi họ sẽ bị nguy. Phải về thôi !
- Mày nói đúng. Nhưng ra khỏi vùng này khó lắm. Chúng đang kiểm soát gắt gao.
Bà mẹ cho biết hai đường Kyoto và Ise đều không đi được, phải ở đây đợi đến đầu mùa tuyết. Cô con gái cũng đồng ý, bảo mình nên tạm ẩn thân thêm một thời gian nữa. Nó nói phải vì hàng ngày nó đi khắp nơi, không xó xỉnh nào không biết.
- Vậy như mày ngồi nhậu nhẹt cạnh bếp là ẩn thân đấy hả ?
- Chứ sao ! Hôm trước có lính tuần qua đây lục soát trong nhà. Mày biết tao làm thế nào không ? Tao điềm nhiên bước ra cửa đón. Thế mà chẳng thằng chó nào biết.
Chúng nhìn qua rồi bỏ đi.
Takezo trố mắt không tin. Matahachi cười lớn:
- Nghe tao. Ra ngoài an toàn hơn là nằm trong đó rình rập từng bước chân người qua lại, đến phát điên mất.
Rồi nó là cười nhạo báng. Takezo phân vân:
- Có lẽ mày nói phải. Cách đó xem ra hay đấy.

Acmagiro
28-01-2008, 01:28 PM
Tuy còn ngờ vực nhưng Takezo cũng dọn đồ lên nhà trên ở. Oko hoan hỉ ra mặt. Bà ta có vẻ thích đàn ông, tiếp đãi chúng nồng nhiệt, nhưng có lúc đã làm chúng giật mình vì ngỏ ý muốn gả con gái cho một trong hai đứa.
Matahachi hơi bẽn lẽn, nhưng Takezo coi thường, không để ý hoặc tìm cách gạt đi bằng những câu nói đùa khéo.
Đã đến mùa nấm hương trổ đầy bên những gốc thông già trên rặng núi sau trại.
Khi nấm bắt đầu thơm và mập, Takezo cùng với Akemi mang giỏ đi hái nấm.
Cô bé đi từ gốc này sang gốc khác. Mỗi khi ngửi thấy hương nấm bốc lên ở chỗ nào, nàng lại chạy tới, giọng hồn nhiên vang dội cả khu rừng tịch mịch:
- Takezo ! Đến đây ! Chỗ này nhiều lắm !
Nhưng chàng thanh niên chỉ đáp suông, mắt không ngớt tìm kiếm:
- Chỗ này cũng chẳng thiếu gì !

Takezo đáp, vẻ tự mãn.
Akemi giật lấy giỏ của hắn mở ra và, với một niềm vui rạng rỡ chỉ thấy ở những thiếu nữ mười sáu, không pha một chút bối rối hoặc e lệ giả tạo, nàng vừa cười vừa nói:
- Biết ngay mà ! Chú hái cả nấm độc !
Rồi lấy tay nhặt từng cái vất ra xa, cố tình và thong thả đến nỗi dù không đếm, Takezo có nhắm mắt cũng phải thấy.
Nhặt xong, nàng ngẩng mặt lên, hài lòng:
- Nào, bây giờ giỏ của tôi có nhiều hơn của chú không nào !
Takezo đỏ mặt lẩm bẩm:
- Muộn rồi, về thôi !
- Chú giận vì thua cuộc chứ gì ?
Nói đoạn Akemi chạy xuống đồi, bước chân thoăn thoắt như bước chân trĩ.
Đến lưng chừng đồi, đột nhiên nàng khựng lại, lộ vẻ sợ hãi. Một người to lớn như trái núi đang bước những bước dài từ một chỗ rẽ đi tới. Gặp Akemi hắn trừng mắt nhìn. Vẻ hung dữ như dã thú của hắn làm cô bé rùng mình:
lông mày chổi xể xếch ngược, môi dày, răng vổ, kiếm nặng giắt ngang lưng, giáp sắt, áo da thú, tất cả đều mang vẻ man rợ của một kẻ chỉ biết có luật rừng để tranh sống. Hắn đến gần cô gái, nhe hàm răng cải mả ra cười và nói như bò rống:
- Akemi !
Mặc dầu hắn cười, Akemi cũng không khỏi sợ hãi.
- Akemi ! Con mẹ xinh đẹp của mày có nhà không ?
Hắn hỏi, vẻ giễu cợt.
Akemi đáp lí nhí:
- Dạ có.
Hắn làm bộ lễ phép:
- Vậy tao nhờ mày chút việc. Làm ơn giúp tao được không ?
- Dạ được.
Giọng hắn đanh lại:
- Bảo mẹ mày đừng có qua mặt tao. Tao sẽ đến lấy phần đấy nghe chưa ?
Akemi lặng thinh.
- Đừng tưởng tao không biết. Người mua hàng đã nói hết với tao ! Còn mày nữa, tao cá là mày cũng đến Sekigahara, đúng không, nhỏ ?
Akemi phản đối yếu ớt:
- Đâu có.
- Vậy được ! Nhắn mẹ mày như thế. Nếu cứ tiếp tục, tao tống cổ ra khỏi nơi này đấy !
Hắn giận dữ đứng nhìn Akemi một lúc, rồi nặng nề lê bước về bãi lầy phía dưới chân núi. Takezo trông theo, quay lại hỏi cô bé:
- Thằng đó là ai vậy ?
Mặt tái mét, Akemi run rẩy đáp:
- Tsujikaze Tenma ở thôn Fuwa.
Giọng Takezo trầm xuống:
- Cướp phải không ?
Cô bé gật.
- Sao nó dữ vậy ?
Akemi lặng thinh.
- Sao không cho tôi biết ? Tôi không nói với ai đâu !
Akemi ngần ngại, dáng băn khoăn thiểu não. Đột nhiên ghé đầu gần ngực Takezo, nàng khẩn khoản:
- Chú hứa không nói cho ai biết, nhé !
- Cô coi tôi là người thế nào ?
- Chú có nhớ cái đêm chú thấy tôi ở Sekigahara không ?
- Nhớ !
- Vậy chú vẫn chưa biết tôi làm gì à ?
- Chưa. Tôi không bao giờ nghĩ tới.
- Tôi ăn cắp đó !
Nói xong, nàng nhìn Takezo, dò xét.
- Ăn cắp ?
- Ừ, ăn cắp. Cứ sau mỗi trận đánh nhau, tôi lại ra bãi lấy cắp đồ của xác chết:
gươm giáo, đồ trang sức, áo mũ ... bất cứ thứ gì bán được cũng lấy ...
Nàng liếc nhìn Takezo xem hắn có tỏ thái độ gì bất bình không, nhưng hắn vẫn thản nhiên. Nàng khẽ thở dài:
- Cũng sợ lắm, nhưng biết sao ! Chúng tôi cần sống. Nếu không đi, mẹ tôi mắng !
Mặt trời chưa lặn. Akemi kéo Takezo cùng ngồi xuống cỏ. Xa xa dưới chân đồi, căn nhà của hai mẹ con nàng hiện ra sau những tàng thông cao.
Takezo khẽ gật đầu như vừa hiểu chuyện. Một lúc sau hắn mới nói:
- Vậy chuyện chế thuốc là chuyện bịa à ?
- Không ! Cũng có làm chứ, nhưng mẹ tôi ưa xa hoa nên tiền bán thuốc không đủ.
Khi cha tôi còn sống, chúng tôi ở căn nhà lớn nhất làng, có khi lớn nhất cả trong bảy làng vùng Ibuki này nữa. Nhiều gia nhân lắm. Mẹ tôi lúc nào cũng ăn vận sang trọng.
- Chắc cha cô buôn bán ?
- Không. Ông là chúa đảng cướp vùng này.
Mắt Akemi sáng lên kiêu hãnh. Bây giờ nàng không ngại Takezo bất bình nữa. Nàng nghiến răng, nắm chặt hai bàn tay nhỏ bé:
- Chính thằng Tsujikaze vừa rồi đã giết chết ông. Mọi người đều nói thế.
- Vậy là cha cô bị ám sát hả ?
Akemi yên lặng gật đầu và nước mắt trào ra. Takezo không cầm được xúc động. Lúc đầu hắn chẳng ưa gì cô bé, vì so với các thiếu nữ khác cùng lứa, Akemi hơi nhỏ người lại nói năng như bà cụ làm nhiều khi hắn phải giữ kẽ. Nhưng bây giờ thấy những giọt nước mắt chứa chan trên đôi mi đen dài, hắn động lòng thương, muốn ôm cô bé vào lòng, nói những lời an ủi và che chở.
Akemi không được dạy dỗ. Nàng cho rằng không có nghề nào cao quý hơn nghề của cha mình. Mẹ nàng dạy nàng lột đồ của người chết đem bán là một điều hợp pháp để kiếm sống, hơn thế nữa, để sống sung sướng. Nhiều tên cường đạo khác đâu dám làm chuyện đó !
Sau nhiều năm chịu cảnh chiến tranh phong kiến, không thiếu gì những tên vô lại ở miền quê sống về lột các xác chết như vậy, lâu rồi người ta cũng coi thường.
Khi có chiến tranh lâu, các đại danh địa phương cần đến bọn vô lại này, thuê chúng đốt nhà, cướp lương, cướp ngựa, phao tin thất thiệt ... Thường thường chúng được trả công, nhưng trong thời chiến, chúng chẳng cần gì công xá. Ngoài những đồ vật quý giá lột được ở các xác chết ra, có khi chúng còn chặt đầu những kiếm khách chẳng may bỏ mình nơi trận địa đem về lĩnh thưởng.
Chỉ một trận quan trọng cũng đủ cho những tên vô lại như vậy sống sung túc hàng năm hay ít nhất sáu tháng. Vào những năm quá tao loạn, giới tiều phu và trại chủ lương thiện cũng học thói kiếm lời trên xương máu và sự đau khổ của người khác. Khi chiến tranh xảy ra gần làng, trồng trọt cày cấy không được, họ vội vã khai thác ngay hoàn cảnh mới, tìm cách sống như những con kên kên trên xác chết đồng loại. Cũng vì thế các tay cường đạo chuyên nghiệp đã phải kiểm soát gắt gao khu vực làm ăn của chúng và ra tay trừng phạt không thương xót kẻ nào xâm phạm vào những khu vực ấy.
Akemi rùng mình nói:
- Bây giờ làm sao ? Tôi chắc bộ hạ của Tenma thế nào cũng đến đây.
- Cô đừng lo ! Nếu chúng đến tôi sẽ cho chúng biết tay.
Khi hai người xuống đến chân núi, hoàng hôn đã bắt đầu phủ lên miền hoang dã.
Cảnh vật đìu hiu, cô tịch. Một vệt khói lam từ trong bếp do Oko đun nước tắm bốc ra còn vương trên đầu những ngọn sậy cao, như con rắn uốn éo trên không.
Oko đã trang điểm xong, đứng tựa cửa sau nhìn ra ngoài. Thấy con gái đi cùng với Takezo, bà cất cao giọng:
- Akemi ! Mày làm gì ở ngoài đó mà đến bây giờ mới về ?
Ánh mắt bà có vẻ nghiêm khắc. Akemi giật mình. Hơn tất cả mọi thứ, nàng sợ nhất những cơn thịnh nộ của mẹ. Oko biết vậy nên lợi dụng sự sợ hãi ấy, sai khiến nàng như sai khiến một con rối, nhiều khi chỉ bằng cái lừ mắt hoặc cái trỏ tay.
Akemi rời Takezo, mặt đỏ bừng, chạy vào trong nhà.
Ngày hôm sau, Akemi kể cho mẹ nghe chuyện gặp Tenma. Bà mẹ không giữ được bình tĩnh:
- Sao mày không nói ngay cho tao biết ?
Rồi như con điên, bà vò đầu bứt tai, mở tung các ngăn kéo lấy ra đủ thứ đồ linh tinh lỉnh kỉnh xếp một đống giữa nhà.
- Matahachi ! Takezo ! Giúp tôi một tay ! Phải đem giấu hết !
Oko bảo Matahachi lật tấm ván trên trần chui vào đó. Trần gian nhà hẹp, chỉ vừa đủ chỗ cho một người chui lọt, nhưng cách xếp đặt để giấu những đồ vật trên đó chắc là do thâm ý của Oko mà cũng là của người chồng xấu số trước kia của bà nữa.

Acmagiro
28-01-2008, 01:30 PM
Qua đám cành thông nhỏ đan nhau, nắng thu chiếu dịu dàng xuống hai người.
Dưới gốc thông già mát rượi, lớp thảm lá khô dầy ửng lên màu hồng nhạt như vừa được rắc phấn.
Khi hái đã mệt, Akemi quay lại cười và thách:
- Nào xem ai hái nhiều hơn nào !
- Ừ, coi đây !
Takezo đứng trên ghế đẩu giữa hai mẹ con, luân phiên chuyền tay cho Matahachi những vật dụng mà nếu không được nghe chuyện Akemi kể hôm trước, có lẽ hắn phải ngạc nhiên lắm.
Tuy biết hai mẹ con Oko sống về nghề lột xác chết đã lâu, nhưng hắn không ngờ số vật dụng lại nhiều và tạp nhạp đến thế ! Nào giáo, nào đầu mũi mác, một cái tay áo giáp, một chiếc mũ đã mất vành, một bàn thờ Phật nhỏ xíu, chuỗi tràng hạt, cái cán cờ... có cả một bộ yên ngựa bằng gỗ sơn then, chạm trổ tinh vi cẩn xà cừ và nạm vàng bạc nữa.
Xếp dọn một hồi, Matahachi ở trên trần thò đầu ra:
- Hết rồi à ?
- Chưa. Còn một thứ nữa.
Oko chạy ra khỏi phòng và trở lại mang theo một thanh kiếm gỗ sồi màu đen, dài chừng ba thước. Takezo cầm thanh kiếm định trao cho Matahachi nhưng thấy kiếm đẹp, dáng thuôn thuôn vừa tay, thật cân đối nên mân mê mãi không muốn rời.
Quay sang Oko, ham muốn lộ trên ánh mắt, hắn ngượng ngùng hỏi:
- Bà cho tôi nhé ?
Nhưng vội cúi ngay xuống vì tự biết chưa làm gì xứng đáng để được tặng món quà ấy. Như bà mẹ hiền từ, Oko dịu dàng hỏi lại:
- Chú thích lắm hả ?
- Dạ, thích lắm.
Và tuy chẳng nói là cho, Oko mỉm cười, đôi má lúm đồng tiền quyến rũ. Takezo biết là mình đã được thanh kiếm.
Matahachi nhảy từ trên trần nhà xuống, giận dỗi giơ tay vỗ vào vỏ kiếm.
Oko bật cười:
- Coi kìa, chú bé không có quà đương giận kìa !
Bà cho Matahachi một cái túi da cẩn mã não nhưng Matahachi vẫn không hài lòng. Nó đưa mắt nhìn thanh kiếm tỏ vẻ hờn dỗi, rõ ràng không kìm nổi lòng tự ái bị thương tổn.
Khi trượng phu còn sống, Oko thường có lệ mỗi chiều phải tắm nước nóng, khoan thai trang điểm rồi uống một chút sa-kê. Nàng kề cà trong phòng tắm thật lâu không khác gì một danh kỹ được hậu đãi. Không phải ai cũng như vậy, nhưng Oko ưa nếp sống xa hoa và tập cho con gái sống theo mình dù Akemi không thích và thấy không cần thiết. Oko không những ưa sống xa hoa mà còn quyết tâm muốn giữ cho trẻ mãi.
Đêm đó mọi người ngồi quanh bép lửa. Oko rót rượu cho Matahachi và cố mời Takezo một chén.
Takezo từ chối. Nàng để chén rượu vào tay hắn, cầm cổ tay bắt hắn đưa lên miệng uống.
- Đàn ông phải biết uống rượu. Nếu chú không uống được, tôi giúp.
Matahachi nhìn nàng không bằng lòng. Oko biết thế, càng tỏ ra thân mật với Takezo. Nàng để tay lên đùi hắn, miệng khe khẽ hát một bài ca tình tứ.
Lần này thì thật quá lắm ! Matahachi quay sang Takezo gằn giọng:
- Chúng ta sắp đi thôi !
Câu nói có hiệu quả ngay tức khắc. Oko ngạc nhiên, lắp bắp:
- Các ... các chú định đi đâu ?
- Trở về Miyamoto. Mẹ và vợ chưa cưới của tôi ở đó.
Oko chưng hửng nhưng lấy ngay được bình tĩnh. Đang vui, nàng lim dim đôi mắt nhỏ như hai sợi chỉ, thôi không cười nữa và cất giọng chua như giấm:
- Vậy xin lỗi đã giữ các chú ở đây, cho các chú tá túc và tiếp đãi các chú. Nếu có cô nào đang đợi các chú thì xin cứ tự tiện, tôi chẳng giữ làm gì ?
Từ khi được thanh kiếm gỗ đen, Takezo nâng niu, không chịu rời nó nửa bước. Cầm trong tay thanh kiếm, hắn sung sướng vô hạn. Hắn thường nắm chặt chuôi kiếm hoặc vuốt nhẹ lưỡi kiếm để hưởng cái thú cảm thấy trong tay đường cong rất mực cân đối và tuyệt mỹ của nó.
Khi ngủ, hắn cũng ôm nó vào lòng. Cảm giác mát rượi và nhẵn của lưỡi kiếm gỗ áp trên má làm hắn nhớ lại mảnh sàn trơn bóng nơi võ đường xưa kia về mùa đông hắn vẫn thường tập luyện. Thứ võ khí đẹp và chết người đó đã đánh thức tinh thần tranh đấu hắn hấp thụ được của cha khi trước.
Takezo rất yêu mẹ, nhưng mẹ hắn đã bỏ ra đi ngay từ khi hắn còn nhỏ.
Cha hắn, ông Munisai, là một hiệp sĩ rất cương nghị và ưa nguyên tắc, giá có muốn chiều con cũng chẳng biết làm thế nào. Vì vậy đứng trước mặt cha, Takezo luôn luôn sợ sệt, không bao giờ được thoải mái.
Khi lên chín, hắn thèm những lời âu yếm đến nỗi đã có lần trốn nhà, một mình lặn lội tới tỉnh Harima gặp mẹ. Takezo chẳng hiểu sao cha mẹ hắn lại không cùng ở với nhau. Chẳng ai giải thích cho hắn biết, mà ở tuổi ây giá có giải thích cũng bằng thừa. Mẹ hắn lấy một Samurai khác ở Harima và có một con với người ấy.
Đến Harima, hắn tìm thấy mẹ chẳng khó khăn gì. Hai mẹ con đưa nhau vào một khu rừng thưa sau miếu để mọi người khỏi trông thấy. Mẹ hắn ôm ghì hắn vào lòng, nước mắt chan hòa, nức nở khuyên hắn trở về với cha. Takezo không bao giờ quên được cảnh đó vì những chi tiết cuộc gặp gỡ hôm ấy suốt đời vẫn ghi vào tâm khảm hắn.
Dĩ nhiên Munisai, con người chỉ biết có nguyên tắc, sau khi thấy con bỏ đi, đã sai gia nhân lùng bắt. Người ta đoán biết chỗ hắn trốn nên tìm được hắn dễ dàng, trói gô lại rồi tải lên lưng ngựa mang về như bó củi.

Acmagiro
28-01-2008, 01:30 PM
Munisai không tha thứ cho thằng con hỗn láo đánh hắn một trận thừa chết thiếu sống trong cơn giận dữ như điên dại. Takezo nhớ nhất lời ông đe dọa, quyết liệt:
- Nếu mày còn trở lại theo mẹ mày nữa, tao từ mày !
Chẳng bao lâu sau, Takezo được tin mẹ bị bệnh chết.
Cái chết của mẹ hắn đã thay đổi nội tâm hắn ghê gớm. Từ một đứa trẻ hiền lành và đa cảm, Takezo trở nên tên côn đồ hung bạo nhất làng, Munisai cũng phải sợ. Munisai đánh hắn bằng gậy, hắn đánh lại bằng chày. Chỉ Matahachi là dám đương đầu với hắn, còn những đứa trẻ khác đều sợ chạy cả. Năm mười hai, mười ba tuổi, hắn đã lực lưỡng như người lớn.

Một năm có tay kiếm khách giang hồ tên Arima Kihei đến dựng đài diễn võ, thách dân làng tỉ thí. Takezo lên đài, giết Arima dễ như bỡn. Dân làng hoan hô hắn nhiệt liệt, nhưng lòng ngưỡng mộ chẳng được bền. Càng ngày Takezo càng tỏ ra hung bạo và bất trị. Nhiều người cho là hắn hiếu sát, thấy mặt đâu là lánh. Thái độ hắn đối với dân làng càng làm cho dân làng lạnh nhạt.
Đến khi người cha nghiêm khắc chết đi, bản tính hung tợn của Takezo còn ghê gớm hơn nữa. Nếu không nhờ chị hắn là Ogin can thiệp, chắc Takezo đã bị đuổi khỏi làng từ lâu rồi.
Hắn thương chị hết sức. Mỗi khi thấy chị khóc, hắn không đành lòng từ chối chị một điều gì cả.
Việc Matahachi và Takezo đăng lính đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời hắn. Ít ra nó cũng chúng tỏ là Takezo vẫn còn muốn hội nhập vào xã hội, nhưng trận thất bại Sekigahara đã tàn nhẫn đập tan những ước vọng ấy và lại đẩy hắn rơi vào vực sâu đen tối hắn tưởng vừa thoát khỏi.
Tuy nhiên Takezo có một tâm hồn vô tư lạ lùng, chỉ thấy trong những thời kỳ loạn lạc. Khi ngủ, mặt Takezo bình thản như một đứa trẻ không nghĩ đến ngày mai. Hắn cũng có những mộng ước, dù thức hay ngủ, nhưng chưa bao giờ phải chịu nỗi thất vọng sâu xa. Bước vào đời tay trắng, hắn chẳng có gì để mà tiếc nuối. Nếu bảo hắn là một tên mất gốc thì cũng phải công nhận rằng hắn chẳng bị một điều gì ràng buộc.
Takezo nằm kia, tay ôm thanh kiếm gỗ, cánh mũi phập phồng, nhịp thở đều hòa trong giấc ngủ. Có lẽ hắn đang mơ, nụ cười tươi hé trên môi. Dưới đôi hàng mi đen, hắn thấy gì ? Người chị hắn thương yêu hay ngôi làng bé nhỏ bình yên ở đó hắn đã sinh trưởng ?
Oko tay cầm đèn bước vào phòng. Nhìn Takezo, nàng đứng yên, khẽ thốt:
“Nét mặt mới bình thản làm sao !”. Rồi đưa tay phớt nhẹ lên đôi môi hé mở của hắn, nàng thổi tắt đèn, rón rén nằm xuống bên cạnh như con mèo cuộn tròn trên tấm thảm.
Thong thả, nàng xích lại gần Takezo từng chút, khuôn mặt nhồi phấn trắng và bộ áo ngủ sặc sỡ hiện rõ trong bóng tối.
Bên ngoài hoàn toàn yên lặng. Vài giọt sương đêm rơi nhẹ trên thành cửa sổ.
Oko tự nhủ:
“Không biết anh chàng này đã biết mùi đàn bà chưa !” và đưa tay định cầm thanh kiếm gỗ. Nhưng vừa chạm vào thanh kiếm, Takezo đã giật mình chồm dậy, hất nàng ra và kêu ầm ĩ:
- Ăn trộm ! Ăn trộm !
Oko bị hất bắn ra ngoài, va phải cây đèn. Takezo nhảy tới bẻ tay nàng quặt ra sau.
- Trời ơi ! Chú làm gẫy tay tôi bây giờ !
- Ủa, tôi tưởng kẻ trộm ! Xin bà tha lỗi !
- Úi chà, đau ! ... Chú làm gì mà dữ vậy ?
- Tôi xin lỗi. Thế bà vào đây làm gì ?
Oko nắn tay xuýt xoa, không đáp. Đột nhiên nàng dùng cánh tay ấy ôm chặt lấy cổ Takezo vít xuống, âu yếm:
- Takezo, chàng khỏi phải xin lỗi.
Rồi đưa tay vuốt má hắn. Takezo nhảy lui:
- Bà làm gì vậy ? Điên hả ?
- Takezo ! Làm gì mà rầm lên vậy ? Không biết tôi thương chú lắm sao ?
Nàng dùng những lời ngon ngọt để dụ dỗ, nhưng chàng thanh niên ngu ngốc cố né như người bị Ong đốt.
- Biết chứ. Anh em chúng tôi rất ơn bà đã thương cho trú ngụ lại còn giúp đỡ mọi thứ.
- Không phải thế ! Tôi muốn nói tình tôi thương chú, tình âu yếm của tôi đối với chú ...
- Khoan ! Để thắp đèn lên đã !
- Sao độc ác thế ?
Nàng khóc thút thít rồi lại định giơ tay ra ôm lấy Takezo.
- Đừng động vào tôi ! Tôi nói thật ! ...
Giọng nói và dáng điệu hắn có một cái gì mạnh mẽ, quyết liệt làm Oko sợ hãi, khựng lại.
Hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, chân mềm như bún, Takezo kinh sợ quá chừng ! Chưa bao giờ hắn gặp một địch thủ ghê gớm đến thế ! Cả lúc nhìn đoàn người ngựa chạy rầm rầm trên bãi hoang còn tanh mùi máu ở Sekigahara, tim hắn cũng không đập loạn đến thế ! Hắn giật lùi vào góc phòng:
- Bà về đi ! Bà trở về phòng đi ! Nếu không, tôi đánh thức Matahachi và cả nhà dậy bây giờ.

Acmagiro
28-01-2008, 01:31 PM
Oko đứng lặng người trong bóng tối, thở hổn hển, mắt nhìn Takezo không chớp. Nàng nhất định không chịu để bị ruồng rẫy như vậy.
- Takezo không hiểu lòng tôi hay sao ?
Takezo không trả lời.
- Takezo, chú phải hiểu ...
- Bà cũng phải hiểu chứ ! Tôi đang ngủ, bà làm tôi giật mình, như con cọp cái trong bóng tối xông đến ...
Đến lượt Oko đứng lặng. Cơn giận ứ lên cổ, nàng dằn từng tiếng:
- Tại chú mà tôi bối rối thế này !
- Sao lại tôi được !
- Chú làm tôi cụt hứng !
Hai người nhìn nhau, tinh thần căng thẳng, không để ý đến tiếng đập cửa gấp rút bên ngoài. Tiếng đập cửa càng mau rồi những tiếng nói vội vàng vọng vào:
- Chuyện gì trong ấy vậy ? Takezo ! Mở cửa mau !
Áng sáng đèn bên ngoài chiếu qua khe vách. Akemi đã thức dậy, tiếp theo là bước chân vội vã của Matahachi:
- Chuyện gì thế ?
Tiếng Akemi ở ngoài hành lang gọi mẹ, lo lắng:
- Mẹ có ở trong ấy không, mẹ ?
Oko sờ soạng đi lần về phòng mình sát với phòng Takezo rồi trả lời vọng ra.
oo Bên ngoài, bóng người lố nhố. Có lẽ bọn họ vừa phá cửa chính xông vào phòng khách. Oko thấy sáu bảy người đàn ông lực lưỡng đứng chen nhau trên nền đất nện thấp hơn nhà ngoài một bậc. Một người trong bọn lớn tiếng:
- Đại ca đã đến ! Thắp đèn lên !
Đèn thắp, họ ùa ra phòng khách. Chẳng thèm cởi bỏ giầy, họ chia nhau lục soát khắp nơi, mở tủ, mở ngăn kéo, lật chiếu, giật rèm ... không chỗ nào không ngó tới.
Tsujikaze Tenma ngồi giữa nhà nhìn bộ hạ tung hoành. Một lúc sau như không vừa ý, hắn đập tay xuống chiếu.
- Oko, những đồ ấy đâu cả rồi ?
- Ta không hiểu ngươi định nói gì.
Oko ở phòng bên đáp vọng sang, giọng hơi run.
- Đừng vờ ! Ta biết những thứ đó ở nhà này. Mang ngay ra đây !
- Chả có gì cả !
- Không có gì ?
- Không có.
- Vậy người ta báo cáo sai hay sao ?
Hắn ngờ vực nhìn Oko, đưa tay gãi râu. Lúc sau quay sang bảo bộ hạ:
- Thôi, chúng bay ngừng lại. Đủ rồi !
Oko vẫn ngồi trong phòng, tỏ vẻ bất cần như thách thức bọn Tenma. Tsujikaze cao giọng, hách dịch:
- Oko !
- Gì ?
- Có gì uống không ?
- Có, nước lã !
- Coi chừng ! Đừng trêu gan ta ! Giọng hắn đanh lại, đe dọa.
- Sa-kê ở trong tủ ấy ! Muốn uống lấy mà uống !
Tsujikaze hơi ngán sự bướng bỉnh và gan dạ của Oko, gã dịu giọng:
- Thôi mà, đã lâu không đến thăm, chẳng lẽ tiếp ta như thế sao ?
- Viếng thăm gì lạ vậy ?
- Một phần lỗi tại nàng. Người ta nói nhiều về nàng quá, bỏ qua không được ! Họ đồn nàng bán thuốc trên núi làm ăn khá lắm. Có người còn bảo nàng cho con gái đi lột xác chết. Đúng không ?
- Nói láo ! Chứng cớ đâu ?
- Nếu muốn chứng cớ, ta đâu cần cảnh cáo con Akemi ! Luật lệ Ở đây, nàng biết chứ ? Vùng này là lãnh thổ của ta, nếu làm ngơ, mọi người còn coi ta ra gì nữa ?
Oko quay lại nhìn Tenma, mắt sắc như dao, mặt hơi vênh lên, thách đố.
- Thôi, lần này ta tha cho. Đặc ân đấy nhé !
- Đặc ân cái gì ? Bộ ngươi ra ơn cho ta hả ?
- Oko ! Lại đây rót rượu !
Oko vẫn ngồi yên không nhúc nhích.
- Đồ ngốc ! Mày không thấy nếu ngoan ngoãn nghe lời ta thì đâu đến nỗi vất vả thế ?
Rồi một lúc sau đã bình tĩnh, hắn khuyên:
- Hãy nghĩ lại đi, Oko ...
- Chà, quý hóa quá !
- Nàng không có thiện cảm với ta mấy nhỉ !
- Vậy ta hỏi ngươi:
Ai giết chồng ta ?
- Nếu nàng muốn báo thù, ta sẵn sàng giúp. Hết sức.
- Này, đừng có làm bộ ngây thơ.
- Nàng nói gì vậy ?
- Nối gì thì ngươi biết ! Ai cũng bảo thủ phạm giết trượng phu ta là Tsujikaze Tenma. Chỉ có ngươi giả vờ không rõ. Ta là vợ tướng cướp thật, nhưng không khốn nạn đến độ đi lăng nhăng với tên đã giết chồng ta đâu !
- Hà ! Ra thế đấy !
Hắn ực nốt chén rượu cầm trên tay, rót thêm rồi tiếp:
- Hãy giữ mồm miệng ! Có hại cho nàng và cả con Akemi lắm đấy !
- Ta dạy con ta nên người. Nó lấy chồng xong, sẽ cho ngươi biết tay ! Thề với ngươi như vậy !
Tenma phá lên cười, toàn thân rung động. Hắn uống nốt ngụm rượu, làm hiệu cho tên bộ hạ cầm giáo đứng cạnh gần bếp:
- Mày cầm giáo chọc lên trần nhà tao coi thử, mày !
Tên cướp đi quanh phòng lấy mũi giáo chọc lên trần mấy cái. Những vật dụng Oko lấy được giấu trên đó rơi xuống loảng xoảng.
- Hà hà, đúng như ta đã dự đoán từ đầu. Chúng mày thấy chưa ? Chứng cớ đấy chứ đâu ! Con mẹ này coi thường bọn ta. Hãy bắt nó đem ra trị tội !
Bộ hạ Tenma ào vào phòng, nhưng đột nhiên khựng lại. Oko đứng ở ngưỡng cửa, điềm nhiên như tượng, lạnh lùng thách đố.
- Chúng mày đợi gì nữa ? Bắt nó đem ra đây !
Không một ai động đậy, tuồng như không nghe thấy lời hắn nói. Oko đứng trên bực cửa cao, nhìn chúng từ đầu đến chân, khinh bỉ.
Tenma giận dữ, tặc lưỡi đứng lên, hăm hở xông vào. Nhưng đến gần cửa, hắn cũng đột nhiên dừng lại:
Đằng sau Oko, nấp trong bóng tối, hai thanh niên lực lưỡng, dáng dữ dằn đã chực sẵn.
Takezo, tay cầm ngang thanh kiếm gỗ, sẵn sàng phạt gãy cẳng tên nào ngu dại xông vào trước. Bên kia, Matahachi lăm lăm cây đoản đao, chỉ chờ bổ xuống gáy những kẻ nhảy qua cửa. Còn Akemi biệt tăm, không thấy bóng dáng đâu cả.
- Á à ... Thì ra tên này đây !
Tenma nhớ lại cuộc gặp gỡ ven rừng mấy hôm trước.
- Tao biết thằng cầm gậy, còn thằng kia là đứa nào ?
Matahachi và Takezo không nói câu gì, nhất định dùng võ lực.
Tình hình căng thẳng, không khí như bốc lửa.
Tenma gầm lên:
- Ta không ngờ trong nhà này có đàn ông. Hai đứa mày ở Sekigahara phải không ?
Liệu hồn, đừng trách tao không báo trước !
Matahachi và Takezo vẫn không đáp.
- Vùng này ai cũng nghe danh Tsujikaze. Đồ lính chết, chúng mày sẽ biết tay ta !
Im lặng.
Tenma lấy tay gạt bộ hạ sang bên. Một đứa mất thăng bằng ngã ngồi ngay vào bếp than, tàn bắn tung tóe. Lửa tắt, khói bốc lên mù mịt.
- Á á á ...
Tenma thét một tiếng dài, nhảy vào phòng. Matahachi, hai tay nắm chắc đốc đoản đao, hạ xuống như vũ bão, nhưng Tenma nhanh chân tránh được. Lưỡi đao trượt trên đầu vỏ kiếm của hắn dội lại. Matahachi cảm thấy đau điếng, tưởng rách hồ khẩu.
Oko chạy nấp vào góc phòng.

Acmagiro
28-01-2008, 01:32 PM
Takezo chỉ chờ có thế, dùng hết sức đưa thanh kiếm gỗ phạt ngang một đường thấp là là mặt đất. Trong bóng tối, gió kiếm nghe đánh vù nhưng không có tiếng người ngã. Tenma đã nhảy lên vừa kịp. Khi rớt xuống, hắn lấy hết sức bình sinh đè lên Takezo như một tảng đá. Takezo tưởng gặp một con gấu. Chưa bao giờ hắn phải đối địch với một người khỏe như thế. Tenma chặn cổ hắn, tay kia đấm lên đầu làm hắn choáng váng mặt mày, sọ như vỡ ra. Trong cơn nguy khốn, Takezo nghiến răng, thu hết sức đạp thật mạnh một cái. Tenma bắn tung lên không, rơi đập vào tường. Cả căn nhà rung chuyển.
Nhanh như cắt, Takezo vung kiếm giáng xuống địch thủ. Tenma lăn tròn, tránh được, chồm dậy nhảy ra ngoài chạy trốn. Takezo đuổi theo sát nút, nhất định không để Tenma chạy thoát. Hắn mà thoát được thì nguy hiểm quá !
Takezo đã quyết định:
không đánh hắn nửa chừng, hoặc Takezo chết, hoặc Tenma phải chết !
Bản chất Takezo như vậy:
lúc nào cũng cực đoan. Từ nhỏ, trong máu hắn đã có một cái gì man rợ, hung bạo của những võ sĩ thời cổ Nhật Bản, một cái gì vừa dã man vừa thuần túy:
không biết ánh sáng văn minh, không có sự Ôn nhu của tri thức, và không biết dung hòa là gì.
Tính đó tự nhiên nhưng cha hắn không chấp nhận. Munisai đã nhiều lần dùng những hình phạt nghiêm khắc theo lề lối quân ngũ, cố kiềm chế bản chất hung tợn ấy, nhưng hình phạt chỉ làm hắn tàn bạo hơn, tỷ như con lợn rừng càng trở nên hung dữ khi không được ăn đủ. Dân làng càng khinh ghét hắn bao nhiêu, hắn càng kháng cự lại kịch liệt chừng ấy.
Đến khi trưởng thành, gã thanh niên hoang dại ấy chán không muốn ở làng phá phách nữa. Hắn bắt đầu mơ mộng những chuyện to lớn. Sekigahara đã dạy hắn bài học thực tế đầu tiên về cuộc sống. Những mộng ước của hắn thuở thiếu thời mặc dù chẳng có bao nhiêu, đã tan vỡ. Hắn chẳng thèm để tâm suy nghĩ gì về những thất bại đã qua hoặc lo tương lai đen tối. Hắn không biết, hay chưa biết đến ý nghĩa của sự tự khép mình vào kỷ luật và thản nhiên chấp nhận những đổ vỡ ấy. Ngẫu nhiên bây giờ gặp Tsujikaze, tay tướng cướp nổi tiếng, một địch thủ xứng đáng hắn hằng mong ước được gặp mặt ở Sekigahara.
- Đồ hèn ! Đứng lại !
Trên cánh đồng tối đen như mực, Takezo xẹt nhanh như lằn chớp. Còn mười bước nữa hắn đuổi kịp Tenma. Tóc bạt ra đằng sau, gió thổi vù vù bên tai, hắn cảm thấy sung sướng như chưa bao giờ trong đời hắn được sung sướng như thế ! Càng chạy hắn càng tận hưởng cảm giác đê mê, thuần túy thú vật đang thức dậy trong người hắn.
Takezo chồm lên lưng tướng cướp. Một tia máu phọt ra trên đầu kiếm. Một tiếng thét ghê rợn xé màn đêm tịch mịch. Thân hình nặng nề của Tenma đổ xuống, lật ngược trở lại, chân tay giật liên hồi rồi mới im lặng.
Dưới ánh sao lờ mờ, sọ tên cướp vỡ toang, mắt lồi ra khỏi tròng trợn trắng dã.
Takezo giáng thêm mấy nhát kiếm nữa. Vài rẻ xương sường gãy đâm ra khỏi ***g ngực.
Bấy giờ, Takezo mới đưa tay áo lên quẹt mồ hôi chảy đầy mặt.
Takezo thong thả trở bước. Khách qua đường không biết, tưởng hắn đi dạo về, thanh thản. Hắn thấy hoàn toàn thoải mái, không một chút hối hận. Takezo đã biết, nếu địch thủ của hắn thắng, hắn sẽ như cái thây ma nằm kia, cô độc.
Trong bóng tối, tiếng Matahachi vang lên:
- Takezo ! Mày hả ?
- Ừ, gì thế ?
Matahachi chạy đến, hổn hển:
- Tao giết được một thằng. Mày sao ?
- Tao cũng giết được một thằng.
Matahachi giơ đoản đao, màu còn nhuốm đến tận chuôi, ưỡn ngực kiêu hãnh:
- Tụi nó chạy hết rồi. Những thằng chó chết ấy chẳng có tài cán gì, hèn và nhát như cáy. Chỉ ra bộ can đảm khi ăn cắp của xác chết. Ha ha, hợp lắm, hợp lắm !
Đầy vẻ tự mãn, cả hai áo quần nhuốm máu, vừa đi vừa chuyện như pháo ran, trông hướng đèn ở xa xa mà tiến. Takezo cầm thanh kiêm gỗ bê bết máu tươi, Matahachi vác đoản đao máu còn rỏ giọt.
oo Một con ngựa đi lạc thò đầu qua cửa sổ, ngơ ngác nhìn vào trong nhà. Tiếng hí của nó làm hai thanh niên đang ngủ giật mình tỉnh giấc. Takezo bực tức, đập vào mõm nó một cái. Matahachi ngồi dậy vươn vai ngáp, khoan khoái vì vừa được một giấc say sưa.
- Mặt trời lên cao rồi đó !
- Trưa rồi hả mày ?
- Ừ, chắc thế !
- Sau giấc ngủ dài, Takezo và Matahachi gần như quên hết chuyện hôm trước. Đối với chúng, chỉ hôm nay và ngày mai là đáng kể.
Takezo chạy ra phía sau nhà, cởi áo ngồi xổm bên bờ suối, bụm tay hắt nước lên rửa mặt. Hắn chụm hai tay múc nước trong và mát té lên đầu, lên lưng, lên ngực, khoan khoái, rồi ngẩng mặt hít những hơi thật dài như muốn hớp cả bầu không khí trong lành và ánh sáng ban mai tươi đẹp vào ***g ngực.
Matahachi còn ngái ngủ, lệt sệt sang phòng khách. Nhìn Oko và Akemi ngồi ủ rũ, hắn ngạc nhiên:
- Ô hay, sao hai mẹ con mặt như đưa đám vậy ? Tenma bị giết rồi, đàn em nó chạy tứ tán, còn lâu mới dám ho he, có gì mà buồn vậy ?
Matahachi ngồi xuống chiếu, cầm tách trà Akemi đưa. Uống từng ngụm trà đắng ngắt, hắn lắc đầu tự nhủ:
“Thật khó hiểu ! Khó làm vừa lòng bà này quá !”. Oko cười mệt mỏi. Nàng muốn được như chàng thanh niên vô tư kia, chẳng biết cuộc đời là gì.
- Matahachi ! Hình như chú chưa hiểu. Tenma có hàng trăm bộ hạ.
- Dĩ nhiên ! Những thằng như vậy tất nhiều lâu la chứ ! Nhưng chúng tôi đâu có ngán. Giết được chủ thì cũng giết được tớ. Nếu chúng đến, tôi sẽ ...
- Không làm gì được ! Oko ngắt lời.
- Sao vậy ? Cứ để những đồ ăn hại đó đến. Bà tưởng chúng tôi là những thằng hèn sẽ chạy trốn sao ?
- Các chú không phải là những thằng hèn, nhưng còn ngây thơ lắm. Tenma có một thằng em tên là Kohei. Nó mà mò đến trả thù thì cả hai chú có nhập một cũng đừng hòng thoát !

Acmagiro
28-01-2008, 01:32 PM
Matahachi không muốn nghe chuyện đó, nhưng nghĩ kỹ thấy Oko có lý ! Kohei có nhiều đồng đảng trong vùng Kiso, gã lại là tay cao thủ, định giết ai toàn đánh lúc xuất kỳ bất ý. Kẻ thù gã không mấy khi toàn mạng. Đánh nhau tay đội, Matahachi không sợ, nhưng bất ngờ bị đột kích, hắn cũng ngán, nhất là vào lúc hắn đang ngủ.
- Ờ ờ ... Tôi có tật ngủ say lắm, khi ngủ chẳng biết trời đất gì !
Matahachi ngồi chống tay vào cằm suy nghĩ. Theo ý Oko, tình thế này không thể lưu lại đây được nữa rồi, phải bỏ nhà đi xa lánh mặt ít lâu mới được.
Nàng hỏi Matahachi xem ý kiến Takezo thế nào.
- Tôi sẽ bàn với hắn. Không biết hắn đâu rồi ?
Matahachi bước ra cửa, đưa mắt tìm bạn. Gã đưa tay lên che mắt, thấy xa xa ở ven đồi, Takezo đang cưỡi con ngựa hoang hồi nãy. Matahachi nghĩ thầm:
“Thằng này thật liều lĩnh !”. Gã lấy tay bắc loa gọi:
- Takezo ! Về ngay có chuyện cần bàn.
Một lát sau, hai đứa nằm ở chân đồi, miệng nhai lá cỏ tóp tép, cùng nhau bàn tính những chuyện phải làm.
- Thế nào ? Mày nghĩ chúng ta có nên về không ?
- Về chứ ! Ở đây hoài với họ thế nào được !
- Tao cũng nghĩ thế.
- Tao không ưa đàn bà.
- Vậy thì cùng về.
Matahachi ngẩng lên nhìn trời:
- Bây giờ đã định xong, tao nóng ruột muốn về quá ! Nhớ Otsu lạ ! Kìa, đám mây kìa ! Mày xem có giống mặt nàng nhìn ngang không ? Lại cái dạng mây chung quanh nữa, không khác gì những lọn tóc của Otsu khi mới gội đầu xong.
Matahachi vừa nói vừa dậm chân chỉ trỏ.
Takezo mãi nhìn con ngựa hoang vừa thả đương lững thững đằng xa. Hắn thương ngựa hoang như thương những kẻ lang bạt, khi không ai cần đến chúng nữa, chúng lặng lẽ bỏ đi, không đòi hỏi một điều gì.
Akemi gọi hai người về ăn cơm chiều. Takezo đề nghị chạy thi. Cả hai ra sức ganh nhau trên con đường nhỏ về nhà, hắt bụi bắn tung lên phủ trắng những ngọn cây thấp.
Sau bữa cơm, Oko ngồi trang điểm rất kỹ. Đôi mắt nàng trong gương đăm đăm nhìn Takezo. Hắn thấy rõ và đột nhiên nhớ lại mùi hương nồng ấm ở tóc nàng tỏa ra trong đêm trước.
Matahachi với hũ rượu trên kệ, san ra bình nhỏ và ngồi xuống chiếu cạnh Takezo, tự nhiên như chủ nhà. Vì là đêm cuối nên cả ba quây quần bên khay rượu uống say túy lúy. Oko lè nhè:
- Uống cạn hết đi. Để lại cho chuột vầy hay sao ?
- Ờ ... Ờ ... hay để sâu bọ làm hư cũng thế !
Oko dựa đầu vào vai Matahachi, ngả nghiêng cười cợt làm Takezo đôi lúc khó chịu quay mặt nhìn đi nơi khác.
Oko say quá, Matahachi phải dìu nàng về phòng. Đến cửa, nàng quay lại hướng về phía Takezo, hờn dỗi nói mát:
- Ngủ nhà ngoài nghe ! Thích ngủ một mình mà !
Takezo không đáp, gục xuống chiếu rượu. Hắn say rồi, mà đêm cũng đã khuya lắm.
oo Khi Takezo tỉnh dậy, trời đã sáng rõ. Hắn mở mắt, linh cảm một điều gì khác lạ. Hình như mọi người đã bỏ đi cả.
Bọc quần áo của mẹ con Oko xếp cạnh vách hôm qua, giờ không còn nữa. Hắn gọi tên mọi người, không có tiếng trả lời. Cửa trước, hiên sau, vựa củi, tất cả đều vắng lặng.
Căn nhà hoang phế có một cái gì lạnh lẽo, cô đơn, buồn khó tả.
Một chiếc lược màu đỏ son nằm chơ vơ trên nền đất, cạnh cái máng nước tre.
Takezo nhặt chiếc lược lên, mùi hương thoang thoảng tỏa ra làm hắn sực nhớ đến cái đêm Oko vào phòng hắn. Hắn nghĩ thầm:
“Matahachi thua vì cái này đây !”.
Và tự nhiên ở đâu cơn phẫn nộ kéo đến, không dằn được:
- Đồ súc vật ! Mày lừa dối Otsu như vậy không đủ sao !
Vất chiếc lược xuống đất, hắn lấy chân đi lên, giận đến phát khóc chẳng phải vì hắn, mà vì thương cho Otsu, hắn mường tượng, đang đợi ở làng, một lòng son sắt.

TakeshiTakamori
28-01-2008, 07:16 PM
Có nguyên bộ ko bác, ở ACC không hiểu sao chỉ post đến quyển 5

Acmagiro
29-01-2008, 02:09 PM
QUYỂN 1 : Chi No Maki
CHƯƠNG 3
NGÀY HỘI HOA



Vào đầu thế kỷ thứ , con đường Mimasaka là một trục lộ giao thông lớn.
Khởi đầu từ Tatsimo thuộc tỉnh Harima, đường này chạy dài, uốn khúc như bất tận, lên đèo xuống dốc, hun hút qua vùng núi Tatsuno đồi núi chập chùng và song song với hàng cột mốc phân ranh hai tỉnh Mimasaka và Harima.
Khách du đứng trên đèo cao, nhìn thấy thung lũng sông Aida dưới chân và ở triền sông, một ngôi làng. Đấy là làng Miyamoto.
Miyamoto thực ra chẳng phải là một làng mà chỉ là tên một khu tập hợp nhiều sơn thôn nhỏ rải rác:
mấy căn nhà cất dọc theo bờ sông, một hai cái chòi vắt vẻo trên sườn đồi, vài trang trại cũ giữa cánh đồng bỏ hoang lâu ngày vì sỏi đá không trồng cấy được.
Tuy vậy, dân cư cũng khá đông, đủ mang danh là một làng, theo tiêu chuẩn thời ấy.
Cho đến mãi mấy năm trước đây, đại danh Shinmen vẫn cư ngụ Ở vùng này trong một tòa lâu đài ngay trên thượng lưu sông Aida, cách bờ sông khoảng non một dặm. Phía bắc lại có mỏ bạc, bây giờ đã cạn, nhưng trước kia trong những năm thịnh vượng, quy tụ rất nhiều công nhân từ phương xa tới.
Khách thương từ Tottori đi Himeji, muốn dùng sơn đạo đến Bizen, tất phải theo đại lộ Mimasaka và nghỉ chân tại Miyamoto. Do đấy, Miyamoto là chỗ giao lưu của hai sơn lộ chính thời đó và vì thế mang một sắc thái riêng do dân từ nhiều nơi khác đem đến.
Làng có quán ăn, tiệm bán quần áo, và cả một trà thất nhỏ với mấy cô ca kỹ ngực thoa phấn trắng theo thời trang quẩn quanh trước cửa như bầy dơi trắng quanh tổ.
Đấy là Miyamoto, nơi mà hai gã thanh niên nông phu Takezo và Matahachi đã từ biệt để lên đường theo đuổi công danh.
Otsu ngồi mơ mộng nhìn những nóc nhà rải rác dưới chân. Nước da tươi mát, tóc đen mượt, chân tay nhỏ nhắn, dáng người thanh tú, Otsu có một vẻ đẹp siêu thoát, khác với những thôn nữ hồng hào, vạm vỡ đang làm công việc đồng áng dưới kia. Ngồi đăm chiêu trên bậc đá cổng chùa Shippoji, trông nàng như một pho tượng bằng sứ toàn mỹ.
Otsu bị bỏ rơi từ khi còn trứng nước, được chùa đem về nuôi nên có dáng cách khiêm cung ít thấy ở những thiếu nữ mười sáu. Ngay từ nhỏ, nàng đã không được tiếp xúc nhiều với những trẻ khác cùng trang lứa. Vì sống cách biệt với thế giới bên ngoài nên trong ánh mắt nàng có một vẻ gì trang nghiêm trầm mặc, làm cho những thanh niên ưa nếp sống phóng túng ngại không dám gần. Năm trước, nghe lời sư cụ, nàng đã nhận lời cầu hôn của Matahachi. Nhưng ít lâu sau, vị hôn phu của nàng cùng với Takezo bỏ làng ra đi, cho đến nay vẫn bặt tin tức. Những tháng đầu xuân trôi qua trong chờ đợi. Bây giờ đã là tháng tư, nàng không còn dám hy vọng nữa.
Otsu ngước nhìn trời, dõi những đám mây theo nhau bay đi, nghĩ vơ vẩn. “Chẳng bao lâu nữa đã hết năm rồi, chị anh Takezo cũng không nhận được tin gì của hai người, sao ta lại điên cứ nghĩ rằng họ còn sống !”.
Đôi lúc tâm sự với người quen, qua ánh mắt cũng như giọng nói, nàng như ngầm ý van lơn họ khuyên nàng rán chờ thêm ít lâu nữa, nhưng không ai để ý. Những nông dân thô lậu chất phác ấy thấy quan quân đã chiếm đóng lâu đài thì cho rằng hai người không lý gì còn sống. Gia nhân, thủ túc của Shinmen chẳng ai trở về, vì họ là Samurai, đã thua trận, còn mặt mũi nào gặp lại người quen ? Nhưng Takezo và Matahachi là lính trơn, có chuyện gì ngăn trở chúng đâu ? Chắc chết rồi, chứ không, sao đến nay vẫn tuyệt vô âm tín ?

Acmagiro
29-01-2008, 02:11 PM
“Tại sao ? Ừ, tại sao ?” Otsu nhiều lần tự hỏi. Rồi suy nghĩ miên man, nàng thấy đàn ông ưa chiến tranh quá, không như nàng. Sự khác biệt ấy khiên Otsu buồn. Hôm nay, đã hàng giờ, ngồi cô đơn trên bậc đá trước cổng chùa, Otsu vẫn chưa tìm được lời giải đáp.
- Otsu !
Tiếng gọi thình lình khiến Otsu giật mình tỉnh mộng. Từ phía giếng, một người đàn ông tuổi trung niên thong thả đi tới. Ông ta mặc vỏn vẹn một miếng vải thô làm khố.
Màu da bánh mật ánh lên dưới trời chiều trong như nước sơn lâu ngày trên pho tượng cũ.
Đấy là một thiền sư ngụ tại chùa. Ông từ tỉnh Tajima đến bốn năm trước, mến cảnh chùa Shippoji u tịch, xin với sư cụ lưu lại rồi không đi nữa.
- Otsu ! Ngươi nghĩ gì vậy ?
Otsu không đáp, mỉm cười chào nhà sư. Nàng có cảm tình với vị thiền sư này vì sự hiểu biết uyên bác và vì tính tình phóng dật tuy hơi kỳ dị của ông, đôi khi ngây thơ như con trẻ, đôi khi lại hành động tựa người điên, nhưng lúc nào cũng vô hại.
Thấy Otsu không nói gì, nhà sư lẩm bẩm:
- Xuân sắp qua rồi đấy. Mùa xuân đem phước lành tới, nhưng xem chừng chẳng phải là chân phúc ! Chỉ thấy chấy rận bò ra, đông và khó trị.
Lúc sau lại nói:
- Chiếc áo mình giặt rồi chẳng biết phơi đâu ! Treo lên cành mận này chắc không được ! Ai lại đi xúc phạm thiên nhiên, đem che đi những bông hoa đẹp thế kia bao giờ ?
Hà hà ... chùa thế này mà không tìm được chỗ phơi áo. Otsu ! Cho ta mượn sợi dây một chút !
Trông thấy nhà sư trần trùng trục, Otsu hơi ngượng:
- Thầy Takuan ! Thầy cởi trần như vậy đi dạo đợi áo khô hay sao ?
- Vậy ta đi ngủ được không ?
- Mô Phật ! Thầy thật quá quắt !
- Đáng lẽ ta nên để đến mai giặt áo mới phải.
Rồi Takuan một tay giơ lên trời, một tay chỉ xuống đất, bắt chước dáng điệu tượng Phật cởi trần Phật tử vẫn đem ra tắm nước trà đường hàng năm, nói tiếp:
- Ngày mai Phật Đản, mồng tám tháng tư, nếu ta cứ đứng thế này đợi trà dội lên đầu có phải được dịp liếm môi thưởng thức trà, nhưng chắc mọi người bất bình lắm !
Rồi với giọng sùng kính, Takuan nhại lời Phật:
- Thiên thương địa hạ, duy ngã độc tôn !
Nhìn dáng điệu Takuan, Otsu cười như nắc nẻ:
- Thầy bắt chước giống quá !
- Dĩ nhiên, ta là hiện thân của thái tử Tất Đạt Đa mà !
- Vậy thầy cứ đứng yên, con đi lấy nước trà đổ lên đầu !
Một con ong vo ve bay quanh mình Takuan. Nhà sư sợ Ong đốt, lấy tay xua lia lịa. Ong bị xua, chui vào khe vải khố. Nhà sư rối rít vừa nhảy vừa khoa chân múa tay làm Otsu lại cười như phá.
Từ khi Takuan đến tá túc tại chùa, không mấy ngày là không có những chuyện khôi hài như vậy, làm Otsu dù trang nghiêm đến đâu cũng không thể không lây niềm vui của nhà sư tính tình kỳ dị. Một lúc sau nàng nói:
- Thôi, không đùa nữa. Con phải đi làm vài việc cần đây.
Otsu xỏ chân trắng muốt vào đôi dép, đứng dậy. Takuan ngây thơ hỏi:
- Việc gì vậy ?
- Thầy quên à ? Dáng điệu thầy lúc nãy làm con sực nhớ lời sư cụ sai con đi hái hoa treo trong chùa và sửa soạn buổi lễ tắm Phật ngày mai. Chiều nay con còn phải nấu trà nữa.
- Hái hoa ở đâu ?
- Ở bờ sông, gần cánh đồng.
- Ta đi với.
- Thầy cởi trần vậy mà đi à ?
- Ta không giúp thì hái không đủ hoa đâu. Vả lại người ta sinh ra đâu có quần áo gì. Vậy cứ để tự nhiên, đâu có sao !
- Thầy nói cũng có lý, nhưng con không thấy thế là tự nhiên. Thôi, để con đi một mình.
Otsu quày quả ra đi, vòng về phía sau chùa để tránh Takuan. Nàng đeo giỏ sau lưng, tay cầm liềm, men theo cửa hông ra con đường nhỏ. Một lúc sau quay lại, nàng đã thấy Takuan lặng lẽ đi theo, mình quấn một tấm vải thô lớn, thứ vải vẫn thường được dùng để gói đồ, Takuan cười rất tự nhiên:
- Mặc thế này coi được không ?
- Dĩ nhiên là không được. Trông thầy kỳ cục quá, như thằng khùng !
- Sao vậy ?
- Chẳng sao cả, nhưng thầy đừng đi cạnh con.
- Có phải đây là lần đầu tiên ngươi không muốn có đàn ông đi cạnh không ?
- Thầy Takuan, thầy thật bất trị !
Otsu chạy nhanh đi trước, Takuan theo sau, chân bước chững chạc như những bước chân đức Phật hạ sơn, tấm vải thô quấn quanh mình theo gió bay phần phật.
- Otsu ! Ngươi đừng giận, ta đùa đấy mà ! Nếu ngươi hay hờn giận như vậy, những người yêu ngươi sẽ chán không theo đuổi ngươi nữa !
Dưới chân đồi, ở ven sông cách chùa khoảng non một dặm, hoa xuân nở đầy. Otsu để giỏ xuống. Giữa hàng ngàn vạn cánh bướm muôn màu sặc sỡ bay lượn xung quanh, nàng bắt đầu đưa liềm cắt từng cụm hoa sát đến gốc.
Takuan ngồi yên một lúc rồi khẽ thở dài như vừa qua một cơn tư lự:
- Ở đây yên tĩnh quá nhỉ ! Niết bàn đầy hoa tươi đẹp thế này sao mọi người không chịu ở, lại thích lao đầu vào chốn cuồng phong đầy dục vọng để rồi mãn kiếp đau khổ, khóc than và phải chịu cực hình nơi địa ngục. Otsu, ta ước mong ngươi đừng phải chịu cảnh ấy !
Otsu vẫn tiếp tục cắt hoa xếp vào giỏ. Đủ loại:
cúc dại trắng như bông, mào gà đỏ thắm, hoa cải vàng tươi mong manh như cánh bướm, hoa tử thảo tím ngắt.
- Thôi mà thầy, đừng thuyết pháp nữa. Cẩn thận kẻo ong đốt đấy !
- Ta sợ gì ong đốt. Ta chỉ muốn nhắc lại cho ngươi biết những lời dạy của đức Phật về thân phận phụ nữ như ngươi mà thôi.
- Thân phận những phụ nữ như con thầy để ý làm chi ?
- Mô Phật, ngươi lại vọng ngôn rồi ! Ta có bổn phận phải để ý đến chúng sinh chứ !
Tuy nghề của ta có hơi tò mò thật nhưng không đến nỗi vô ích hơn những nghề khác như thợ may, thợ mộc, lái buôn hay Samurai. Nghề ta phải có là vì cần thiết.
Otsu dịu giọng:
- Có lẽ thầy nói đúng !
- Không ai lạ gì từ ba ngàn năm nay, phái tăng lữ vẫn kỵ phụ nữ. Kinh Phật đã dạy đàn bà là ngạ quỷ xấu xa, từ ngục A Tỳ lên quấy nhiễu dương thế. Ta đã nhiều năm dày công nghiên cứu kinh điển nên biết chẳng phải ngẫu nhiên mà ta và ngươi hay có thái độ xung khắc.
- Thế theo kinh điển, tại sao đàn bà lại xấu xa ?
- Vì họ ưa lừa dối đàn ông.
- Thế đàn ông không lừa dối đàn bà bao giờ à ?
- Có chứ ! Nhưng tại ... tại ... đức Phật là đàn ông !
- Theo ý thầy thì nếu đức Phật là đàn bà, kinh điển sẽ dạy ngược lại à ?
- Đức Phật là đàn bà thế nào được ! Ngạ quỷ sao thành Phật được !
- Điều thầy nói phi lý lắm !
- Dĩ nhiên. Nếu những lời dạy trong kinh điển đều có lý cả thì đâu cần chư tăng đi hoằng pháp !
- Thầy chỉ ngụy biện để cầu lợi.
- Đúng là lập luận đàn bà ! Tại sao ngươi lại thích công kích riêng ta ?
Otsu ngưng tay liềm, chán nản:
- Thôi chẳng nói nữa. Hôm nay con không muốn nói thêm đâu !
- Nữ nhân đa ngôn quá !
- Chính thầy nói nhiều thì có !

Acmagiro
29-01-2008, 02:13 PM
Takuan nhắm mắt yên lặng như muốn thêm kiên nhẫn:
- Để ta giải thích thêm cho ngươi rõ. Lúc đức Phật ngồi tĩnh tọa dưới gốc bồ đề, nhiều quỷ cái ngày đêm hiện ra cám dỗ nên ngài không có hảo cảm với đàn bà. Nhưng Phật là đấng chí nhân nên lúc về già, ngài cũng vẫn thu nhận nữ đệ tử.
- Vì ngài khôn hơn hay vì ngài già rồi ?
- Đừng có báng bổ ! Và ngươi cũng phải nhớ rằng đức Bồ Tát Na-già-giu-na tuy rất ghét, đúng hơn, rất sợ đàn bà như đức Phật vậy, cũng phải khen bốn loại phụ nữ:
những cô em ngoan ngoãn, những người vợ hiền thục, những bà mẹ tốt và những nữ tỳ biết chiều chuông. Ngài tán dương đức hạnh những người đó và khuyên đàn ông chỉ nên lấy những người đó làm vợ mà thôi.
- Em ngoan ngoãn, vợ hiền thục, mẹ tốt, nữ tỳ khéo chiều ... con thấy chỉ có lợi cho đàn ông.
- Tự nhiên là thế. Xã hội Ấn độ thời đó trọng nam khinh nữ hơn xã hội Nhật. Dù sao Na-già-giu-na đã khuyên phụ nữ một câu bất hủ ...
- Khuyên sao thầy ?
- Ngài nói:
“Nữ nhân ! Đừng phối ngẫu với đàn ông” ...
- Sao kỳ vậy ?
- Khoan ! Ta chưa nói hết. Ngài nói:
“Đừng phối ngẫu với đàn ông, hãy phối ngẫu với chân lý”.
Otsu nhìn nhà sư, không hiểu.
- Ngươi không thấy ư ? Câu ấy có nghĩa là không nên mê một người thường mà nên tìm gửi thân cho một điều gì vĩnh cửu.
- Nhưng thưa thầy, thế nào là chân lý ?
Takuan bỏ thõng hai tay, mắt nhìn xuống đất, trầm mặc:
- Thực ra chính ta cũng không rõ nữa.
Otsu phì cười, nhưng Takuan không để ý.
- Nhưng có một điều ta biết chắc là đối với phụ nữ, điều đó có nghĩa ngươi phải thủ tiết. Chớ nên ra thành thị để rồi sinh ra những đứa con yếu đuối như gà chết. Hãy ở lại nông thôn, nơi đó hợp với ngươi, lập gia đình và sinh những đứa con lành mạnh.
Otsu bực mình không kiên nhẫn được, giơ liềm lên:
- Thầy đến đây giúp con hái hoa phải không ?
- Phải, ta có hứa.
- Vậy đừng thuyết lăng nhăng nữa, thầy cầm liềm cắt hoa đi !
- Nếu ngươi không muốn ta hướng dẫn tinh thần thì thôi, ta cũng không ép.
Nhà sư ra vẻ giận.
- Trong khi thầy cắt hoa, con chạy đến nhà Ogin xem chị ấy đã khâu xong thắt lưng chưa. Ngày mai con phải dùng.
- Ogin là chị Takezo đã có lần ngươi dẫn lên chùa phải không ? Để ta đi với.
- Thầy ăn mặc như vậy à ?
Takuan làm như không nghe, tiếp tục:
- Chắc ta sẽ được mời uống trà. Khát quá !
Otsu không cách gì từ chối, đành gật đầu. Và cả hai men theo bờ sông cùng đi.
Ogin là một thiếu nữ trạc hai mươi lăm, tuy không còn ở tuổi trăng tròn nữa nhưng cũng không xấu. Mặc dầu ai cũng sợ Takezo, nhưng không phải vì thế mà nàng thiếu người nhòm ngó. Ogin có dáng chững chạc, cách cư xử mềm mỏng làm mọi người chú ý. Nàng chưa lấy chồng cũng chỉ vì muốn có thêm thì giờ để săn sóc đến em mà thôi. Căn nhà nàng ngụ hiện nay là do Munisai, cha nàng dựng lên từ lúc sinh thời, khi ông còn coi việc quản giáo binh sĩ dưới trướng Shinmen. Vì dốc lòng thờ chủ nên ông được mang họ Shinmen.
Căn nhà xây trên nền đá tảng dầy, tường đất cao vây quanh, đứng ngạo nghễ trong ra sông, thật quá lớn đối với một Samurai thôn quê. Căn nhà trước đồ sộ nhưng nay đã đổ nát, hoa dại mọc đầy trên mái. Nơi võ đường xưa kia Munisai thường ra giảng võ bây giờ trắng những phân chim. Cảnh điêu tàn trông thấy rõ. Munisai bị thất sủng, mất hết chức tước và qua đời trong cảnh nghèo túng. Sau khi ông chết đi, gia nhân tán lạc, nhưng đôi khi vẫn lui tới thăm hỏi vì họ đều là người địa phương cả. Họ mang rau đậu đến làm quà, dọn dẹp phòng ốc hoang phế, khiêng nước đổ đầy chum vại, quét tước cổng ngõ và tìm mọi cách giữ cho căn nhà không đến nỗi tiêu điều quá.
Ogin đang khâu vá ở phòng trong, nghe tiếng mở cửa sau, tưởng là một trong những gia nhân cũ tới thăm. Đột nhiên thấy Otsu, nàng giật mình:
- Ồ, Otsu đấy ư ? Em làm chị hết hồn ! Chị vừa khâu xong thắt lưng cho em đây.
Ngày mai em cần dùng phải không ?
- Vâng, cảm ơn chị. Đáng lẽ em phải làm lấy mới phải, nhưng vì bận nhiều việc ở chùa quá nên không có thì giờ.
- Thì giúp em chị cũng vui chứ ! Chẳng làm gì, chị thấy buồn và ngày dài quá !
Otsu ngửng lên. Trên bàn thờ hai ngọn nến cháy leo lét. Ánh sáng lờ mờ chiếu không rõ đôi bài vị làm sơ sài bằng gỗ đặt sau chén nước và đĩa hoa cúng. Trên mỗi bài vị là một tấm giấy viết nắn nón trang trọng những hàng chữ:
Chân linh Shinmen Takezo, mười bảy tuổi.
Chân linh Honiden Matahachi, mười bảy tuổi.
Otsu hoảng hốt:
- Chị Ogin ! Chị được tin họ chết cả rồi à ?
- Lạy Trời Phật, chưa em ạ. Nhưng còn mong gì nữa ! Chị tin là họ đã bỏ thây ở Sekigahara rồi. Đành chấp nhận vậy.
Otsu lắc đầu:
- Đừng nói vậy, chị Ơi ! Xui lắm ! Họ không chết đâu. Rồi nay mai họ lại trở về mà.
Ogin cúi xuống nhìn chiếc áo đang khâu dở, dịu dàng hỏi:
- Em có mơ thấy Matahachi không ?
- Có, thường mơ thấy luôn. Có sao không chị ?
- Vậy phải rồi. Hắn đã chết thật. Chị không lúc nào là không mơ thấy Takezo.
- Ogin, em van chị đừng nói thế !
Rồi Otsu chạy đến bàn thờ bóc hai mảnh giấy trên bài vị ra:
- Bỏ nó đi chị ạ ! Để làm gì, chỉ thêm xui xẻo !
Nước mắt rưng rưng, nàng với tay tắt nến, mang hoa và nước chạy sang phòng bên vất hoa ra xa và tiện tay đổ nước qua thành cửa sổ. Nước dội trúng đầu

Acmagiro
29-01-2008, 02:14 PM
Takuan đang ngồi xổm bên ngoài.
- Ái chà ! Nước gì lạnh dữ !
Takuan vừa la vừa nhảy lên lấy vạt áo lau đầu.
- Ngươi làm gì vậy ? Ta đến đây để uống trà, đâu phải để tắm !
Otsu cười. Những giọt lệ sầu muộn đã trở thành những giọt lệ tươi vui.
- Xin lỗi, con không biết thầy ngồi đó !
Và nàng chạy vội đi lấy trà mang lại. Ogin nhìn ra hiên, hỏi:
- Ai thế em ?
- Sư bác trên chùa. Chắc chị nhớ cái ông sư dơ bẩn chị gặp hôm đi cùng với em lên chùa đấy nhỉ, cái ông nằm sấp ở ngoài nắng, tay chống cằm nhìn chăm chắm xuống đất xem rận chọi nhau đó !
- À ra ông ấy đó hả ?
- Vâng, tên thầy là Takuan.
- Thầy ta tính hơi kỳ dị phải không em ?
- Kỳ dị còn là ít đấy !
- Thầy ấy mặc áo gì thế ? Trông không phải áo người tu hành.
- Đâu phải áo. Miếng vải bố đấy chứ.
- Mặc áo bằng vải bố à ? Lạ nhỉ. Thầy ta bao nhiêu tuổi ?
- Thầy ấy bảo băm mốt, nhưng em tưởng em còn đáng làm chị thầy ta nữa đấy !
Thầy ngớ ngẩn lắm ! Thế mà các thầy trên chùa bảo trông bên ngoài như vậy nhưng Takuan là một nhà sư đáng trọng.
- Có thể lắm, chả nên trông mặt mà bắt hình dong. Thầy ta ở đâu đến thế ?
- Ở Tajima chị ạ. Quy y từ năm lên mười, bốn năm sau vào tu trong thiền viện Tịnh Giác. Ở thiền viện ra, thầy ta là đệ tử của một hòa thượng tại chùa Đại Từ, cùng với sư phụ thầy đi hành hương đến Kyoto và Nara rồi lại theo học nhiều danh tăng khác. Thầy ta dành nhiều thì giờ nghiên cứu kinh điển lắm.
- Có lẽ vì thế nên thầy ta hơi khác người.
- Vâng. Thầy Takuan trước đã là viện trưởng thiền viện Nansoji và có sắc phong trụ trì chùa Đại Từ, nhưng không hiểu sao mới được ba ngày đã bỏ đi.
Ogin khẽ gật đầu. Otsu nói tiếp:
- Nghe nói hình như những danh tướng và những nhà quý tộc như Hosokawa và Tokugawa Ieyasu nhiều lần đã cố giữ thầy lại, xây chùa để cầm chân thầy nhưng thầy không màng. Thầy thích cuộc đời phiêu lãng khất cái, đi đâu mang rận chấy đến đấy. Em cho là thầy ta hơi khùng.
- Có lẽ theo nhãn quan của Takuan, chúng ta mới là những người không bình thường.
- Thì thầy ta vẫn nói thế !
- Thầy Takuan định lưu lại chùa bao lâu ?
- Nào ai biết được. Nay đến mai đi là thường.
Takuan đứng ngoài hiên nói vọng vào:
- Hà hà ... ta nghe hết rồi đấy nhé !
- Con có nói xấu gì thầy đâu ?
- Ngươi thích nói xấu thì cứ nói, ta không cần, nhưng ít ra phải cho ta cái bánh gì để uống trà chứ ?
- Đấy chị coi, thầy Takuan lúc nào cũng như vậy đó !
- Như vậy là thế nào ? Takuan nói vọng ra. Ngươi ngồi đó làm ra vẻ hiền lành, không làm hại đến con ruồi con muỗi, nhưng thật ra tàn nhẫn vô cùng !
- Đâu, con tàn nhẫn ra sao ?
- Thì bỏ ta một mình với chén trà nguội rồi ngồi đó mà than khóc mối tình dang dở là tàn nhẫn chứ sao !
oo Chuông trên hai chùa Daishoji và Shippoji thong thả buông từng tiếng ngân nga.
Những hồi chuông lễ bắt đầu từ sáng sớm, đến bây giờ đã quá ngọ rồi vẫn không dứt.
Suốt buổi sáng, thiện nam tín nữ nô nức lên chùa không lúc nào ngớt:
thiếu nữ thắt lứng đỏ tươi, vợ các thương gia và những người đứng tuổi mang thắt lưng màu trang nhã hơn.
Đây đó một vài bà già mặc kimono màu sẫm, tay dắt trẻ.
Đại sảnh chùa Shippoji chật ních những người. Thanh niên đông vô kể. Họ đến hình như cốt để ngắm Otsu hơn là để lễ Phật. Một chàng khẽ rỉ tai bạn:
- Nàng đấy !
- Ờ, đẹp thật !
Giữa đại sảnh là một cái kiệu làm theo hình ngôi chùa nhỏ, mái kết bằng lá bồ đề, cột quấn từng tràng hoa tươi. Trong ngôi “chùa hoa” ấy có một tượng Phật màu đen, cao chừng sáu tấc, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, đứng trong một cái bể cạn bằng sành. Thiện nam tín nữ xếp hàng đi qua, dùng gáo tre múc nước trà đường dội lên đầu Phật.
Takuan túc trực cạnh kiệu, đổ nước cam lộ vào ống tre để phân phát cho Phật tử mang về lấy phước. Vừa phân phát, Takuan vừa quyên giáo:
- Chùa nghèo, xin quý thí chủ mở lòng đại lượng. Bần tăng biết quý vị dư giả, mặc áo lụa, mang thắt lưng thêu, nhưng đa tài tất đa nạn. Xin quý thí chủ phát bồ đề tâm, công đức thật vô lượng.
Phía bên kia kiệu, Otsu ngồi sau chiếc bàn thấp sơn then. Mặt nàng rạng rỡ phớt hồng như những cánh hoa treo trên vách. Nàng mang chiếc thắt lưng mới, tay thoăn thoắt viết bài kệ ngắn trên giấy ngũ sắc thỉnh thoảng lại lăn đều ngọn bút trên nghiên mực dát vàng để cạnh:
Mồng tám tháng tư Ấy ngày đại cát Sâu độ bọ hoang Phá mùa hại tiết Mau mắn diệt tan Hăng hái trừ hết.
Từ ngàn xưa, dân vùng này vẫn có lệ lên chùa vào ngày Phật Đản, thỉnh những câu kệ như trên về dán vách không những để trừ trùng, mà còn để phòng bệnh và tránh vận xui. Otsu chép đi chép lại bài kệ hàng trăm lần, đã thấy mỏi tay, nét chữ không còn sắc sảo như trước. Bỏ bút xuống nghỉ, nàng nói vọng sang phía dưới:
- Thôi thầy ạ, chẳng nên đòi nhiều. Họ cũng không có.
- Ta quyên những nhà giàu đấy chứ ! Đa tài đa nạn. Tiền bạc nhiều thì lắm khổ đau. Cất đỡ cho họ gánh nặng khổ đau là làm phúc đấy !
- Thầy nói như vậy thì ra những tên đạo chích lấy tiền bạc của người ta đều là phát tâm bồ đề cả sao ?
Takuan mãi nhận lễ cúng nên không đáp. Nhà sư bận ngăn đám đông đang chen lấn nhau đến gần tượng Phật.
- Mô Phật ! Xin quý thí chủ cứ thong thả. Ai cũng đến lượt được cầu phúc. Xin đừng chen lấn !
Một thanh niên gọi to:
- Này sư bác !
Takuan ngưng tay phát lộc, tự chỉ vào mũi, hỏi lại:
- Thí chủ gọi ta đấy à ?
- Phải, thầy nói chúng tôi cứ thong thả đợi đến lần, nhưng sao thầy luôn luôn phát cho phụ nữ trước vậy ?
- Vì ta thích phụ nữ hơn.
- Vậy ra thầy đây là một trong những thầy chùa hiếu sắc người ta thường nói tới trong vùng này đấy ư ?
- Anh ngốc này ! Anh tưởng ta không biết anh đến đây để làm gì hả ? Anh đến chẳng phải để lễ Phật hay cầu phúc mà chỉ để nhìn Otsu cho sướng mắt. Có đúng thế không ? Đừng chối. Này, ta nói thật, nếu anh kẹo quá thì chẳng ăn thua gì đâu !
Otsu đỏ mặt:
- Thầy Takuan, thầy nói gì thế ?
Và nàng ngẩng lên nhìn ra cửa sổ để tránh những tia mắt tò mò của mọi người.
Bỗng thoáng thấy một bộ mặt quen hiện ra, Otsu ngạc nhiên hết sức, đánh rơi cây bút đang cầm trên tay, chạy vội ra cửa suýt làm đổ cả bàn viết.
Nhưng bộ mặt vừa thoáng hiện ra đã biến mất, như con cá lặn dưới nước sâu.
Quên tất cả mọi người chung quanh, Otsu lật đật chạy ra ngoài, vừa chạy vừa gọi rối rít:
- Takezo ! Takezo !

Acmagiro
30-01-2008, 09:48 PM
QUYỂN 1 : Chi No Maki
CHƯƠNG 4
CƠN CUỒNG NỘ




Gia đình Matahachi thuộc dòng dõi Honiden, là một trong những gia đình hào phú miền quê nhiều đời làm Samurai và tự cầy lấy ruộng đất.
Chủ gia đình, lão bà Osugi, mẹ Matahachi, là một lão phụ cương nghị, bướng bỉnh không ai bì kịp.
Tuy xấp xỉ lục tuần, bà vẫn còn cai quản gia nhân và làm việc quần quật suốt ngày ngoài đồng không chịu kém ai. Mùa cấy, bà nhổ mạ cấy lúa. Mùa gặt, bà phơi, đập. Đến chiều, xong công việc, bao giờ bà cũng cố mang về nhà một chút gì, khi bó rơm, lúc bó lá dâu. Nhiều bận, bó rơm lớn đến nỗi che khuất cả người, làm thân bà còng xuống.
Buổi tối, bà bận chăn tằm.
Trưa ngày hội hoa ở chùa Shippoji, đang hái dâu trong vườn, cụ Osugi thấy cháu chạy đến, chân không mang dép. Nó thở hổn hển.
- Đi đâu về đấy ? Bà hỏi giọng nghiêm khắc. Lại ở trên chùa xuống phải không ?
- Hì ... hì ... Dạ !
- Otsu có trên chùa không ?
- Dạ ... có. Nó vừa thở vừa đáp. Chị ấy đang viết kệ, thắt lưng mới đẹp lắm.
Nghe nói viết kệ, bà sực nhớ ra:
- Thế mày có mang trà và kệ trừ sâu về cho bà không ?
- Dạ, không !
Đôi mắt nhăn nheo của bà bỗng nhiên mở lớn:
- Sao lại không ?
- Chị ấy không đưa. Chị ấy bảo cháu chạy ngay về nói với bà ...
- Nói gì ?
- Takezo. Chị ấy trông thấy Takezo, ở bên kia sông.
Giọng cụ Osugi bỗng dưng trầm xuống:
- Thật hả ? Có thật Otsu trông thấy nó không ?
- Thật !
Cụ Osugi đột nhiên như mất hết nghị lực. Tâm thân cường tráng của bà bỗng nhiên yếu hẳn đi. Mắt nhòa lệ, bà quay lại, tưởng như trông thấy đứa con trai yêu quý của mình đứng sau lưng. Nhưng không có ai. Bà vội lấy lại bình tĩnh:
- Mày hái dâu cho bà.
- Bà đi đâu ?
- Về nhà chứ còn đi đâu. Nếu Takezo về được thì Matahachi cũng về được.
- Cháu về với.
- Không, mày ở lại đây.
Đoạn quày quả bước, để đứa cháu một mình đứng ngẩn ngơ, chẳng hiểu ra sao cả.
Trang trại nhà Honiden khá lớn, hàng sồi cổ thụ bao quanh. Cụ Osugi rảo bước len lỏi qua hàng sồi cao, thẳng hướng đến lẫm thóc, chỗ gia nhân đang làm việc.
Còn cách một thôi đường bà đã gọi rối rít:
- Ngừng tay, ngừng tay ! Matahachi đã về ! Nó có đấy không ?
Mọi người ngạc nhiên, tưởng bà mất trí.
- Không ! Một người mau mắn đáp.
Nhưng dường như cụ Osugi không để ý. Trong cơn xúc động, bà cho đấy không phải là một lời đáp. Nhìn mọi người đứng ngơ ngác, bà thấy họ đần độn quá sức. Nếu Takezo về được, thì Matahachi cũng về được. Trong thâm tâm bà, đó là lẽ đương nhiên và bà không chấp nhận bất cứ một giải thích nào khác.
Cụ Osugi hách dịch ra lệnh cho mọi người phải đổ đi tìm, mỗi người một ngả, còn bà ở nhà chờ tin. Thấy tiếng chân ai đến gần, bà cũng vội vã ra ngay hỏi xem đã tìm được Matahachi chưa.
Gần tối, vẫn chưa có tin tức gì của con, nhưng Cụ Osugi không thất vọng. Bà đi thắp đèn, đặt trước hàng bài vị trên bàn thờ gia tiên rồi ngồi xuống chiếu trước bàn thờ. Lòng nặng trĩu ưu tư, bà lâm râm cầu nguyện.
Bà cứ ngồi như thế, như pho tượng giữa ánh đèn vàng vọt vây bọc chung quanh.
Mọi người chưa ai về, bếp lửa vắng lạnh. Mãi sau, bà mới uể oải đứng dậy, bước ra tựa cửa ngoài, trong bóng tối của buổi chiều chạng vạng. Qua những cành sồi, trăng suông mờ ảo chiếu xuống. Đằng xa, một màn sương trắng đục trùm lên đồi núi. Mùi hoa lê ngòn ngọt dâng lên phảng phất trong không khí.

Acmagiro
30-01-2008, 09:49 PM
Đứng như vậy chẳng biết bao lâu, đột nhiên bà thấy có bóng đen men theo vườn lê đến gần. Nhận ra Otsu, bà lên tiếng gọi.
- Otsu ! Có người nói con thấy Takezo phải không ?
- Vâng. Chắc chắn là anh ấy ! Anh ấy lẩn trong đám đông trước chùa.
- Thế có trông thấy thằng Matahachi không ?
- Không. Con chạy vội ra hỏi tin nhưng Takezo bỏ trốn. Con bắt gặp ánh mắt anh ấy thoáng nhìn con rồi mất luôn. Tính Takezo từ trước đến nay vẫn khác thường nhưng không hiểu sao lần này lại phải trốn như vậy.
Cụ Osugi phân vân nhắc lại:
- Trốn à ?
Bà cau mày suy nghĩ. Một mối nghi ngờ hiện lên trong trí, rồi càng lúc càng in vào trong óc làm bà tin rằng chính Takezo, tên vô lại mà bà ghét cay ghét đắng đã dụ dỗ con bà đi lính, lại làm chuyện gì bậy rồi. Giọng bà trở nên dọa nạt:
- Đồ khốn kiếp ! Chắc nó lại để cho Matahachi chết dấm chết dúi ở đâu rồi một mình bỏ trốn về chứ gì. Thằng hèn mạt !
Tức giận, bà rít lên giữa hai hàm răng:
- Rồi nó biết tay bà !
- Con chắc không phải thế đâu. Nếu Matahachi có mệnh hệ nào thì Takezo phải mang thư hoặc một kỷ vật gì về chứ !
Nàng có vẻ bất bình vì bà cụ đã hấp tấp kết tội Takezo. Nhưng Cụ Osugi lắc đầu, nhất định cho ý mình là đúng:
- Không ! Không phải ! Thằng đó làm gì có tình nghĩa. Con ta chẳng nên kết bạn với nó mới phải.
- Thôi, bà ... Otsu giọng làm lành. Hay chúng ta đến nhà Ogin, may ra gặp Takezo ở đó.
Bà lão có vẻ nguôi giận:
- Ừ, cũng được. Ogin là chị nó, chắc nó không đến nhà ai khác đâu !
- Vậy bà cháu ta đi.
Nhưng cụ Osugi khựng lại:
- Á ! Tại sao ta lại phải đến nhà nó kìa ! Nó biết em nó dụ con ta vào chỗ chết mà chẳng bao giờ thèm đến xin lỗi hoặc thăm ta lần nào. Bây giờ em nó trở về, nó cũng chẳng báo ta biết. Sao ta phải hạ mình đến nhà nó ! Không được, ta cứ đợi ở đây.
Otsu đáp:
- Nhưng đây là trường hợp bất thường. Ta phải gặp Takezo càng sớm càng tốt để xem sự thể ra sao chứ ! Thôi, con xin bà, cứ đi với con đi, bà không phải làm gì cả, để mặc con xử sự.
Tuy bực mình nhưng Cụ Osugi cũng nghe theo lời Otsu. Bà nóng lòng muốn biết tin con trai nhưng thà chết chứ không chịu xin xỏ điều gì của gia đình Shinmen cả.
Ogin ở cách trang trại gia đình Honiden chừng non một dặm. Cả hai gia đình đều thuộc giai cấp hào trưởng thôn quê, từ mấy đời trước cùng chung một đảng tộc. Bây giờ mỗi nhà riêng một ven sông, tuy không tranh dành quyền lợi gì của nhau nhưng cũng chẳng giao thiệp với nhau thân thiết.
Đến trước cửa nhà Ogin, hai người thấy cổng đóng. Vườn cây dày, lá đan chằng chịt không để lọt ánh sáng ra ngoài. Otsu định vòng ra phía sau nhưng bà lão không đi theo, nhất định đứng ở cổng trước.
- Ta là gia trưởng nhà Honiden, không đời nào lại vào cửa sau nhà Shinmen. Nhục lắm !
Thấy không kéo được bà đi, Otsu một mình rảo bước về phía cửa hậu. Lát sau, có ánh đèn lấp ló trong vườn rồi thấy chính Ogin bước ra đón bà vào.
Cụ Osugi đột nhiên thay đổi thái độ. Từ một bà già quê mùa cầy sâu cuốc bẫm, bà bỗng trở thành một mệnh phụ cao ngạo:
- Xin lỗi đến làm rộn lúc đêm khuya nhưng ta có chuyện cần không đợi được. Nhà ngươi ra đón ta thế này thật quý hóa !
Rồi đường bệ qua mặt Ogin vào trong nhà, bước thẳng tới phòng danh dự như một sứ giả trên trời sai xuống, bà đĩnh đạc ngồi trước bức liễn đại tự, cạnh bình hoa cắm tỉa công phu, rồi mới sẵn sàng đón nhận những lời chúc tụng của chủ nhân.
Thủ tục xã giao thường lệ xong, bà nói thẳng vào vấn đề. Bà không mỉm cười giả dối nữa mà lạnh lùng nhìn thẳng mặt Ogin:
- Ta nghe nói tên quỷ sứ nhà này mới lén về phải không ? Bảo nó ra đây cho ta hỏi.
Cụ Osugi vẫn nổi tiếng là tay độc miệng nhưng lần này câu nói tàn ác trên làm Ogin tức giận. Tuy vậy nàng cố nhịn:
- Thưa bà, bà nói tên quỷ sứ nào vậy ?
Honiden vội đổi ngay chiến thuật. Như con tắc kè đổi màu, bà vừa cười vừa đáp:
- Ồ ! Ta lỡ lời. Tại người trong làng vẫn gọi thế nên ta bắt chước. Ta muốn nói Takezo ấy mà ! Cậu ấy trốn ở nhà này phải không ?
- Mô Phật ! Không !
Ogin ngạc nhiên thật sự nhưng cũng không giấu vẻ khó chịu khi thấy người ta gọi em mình là quỷ sứ. Nàng cắn môi suy nghĩ. Otsu vội giải thích là nàng có trông thấy Takezo trong ngày hội hoa trên chùa. Và để trấn an, nàng thêm:
- Lạ nhỉ ! Anh ấy không về đây sao chị ?
- Không. Chị chẳng biết gì về chuyện này. Nhưng nếu nó có về đây thật thì chẳng bao lâu nữa cũng gọi cửa thôi !
Bà lão ngồi xếp bằng trên gối, hai tay nghiêm túc bắt chéo để trên đùi, dáng điệu như một bà mẹ chồng bị xúc phạm, cau mặt lớn tiếng:
- Sao ? Nhà ngươi nói không được tin tức gì của nó mà nghe được à ? Nhà ngươi không biết con ta đã bị thằng em vô lại của ngươi dụ dỗ đi lính hay sao ? Ngươi không biết nó là đứa con độc nhất kế thừa dòng họ Honiden hay sao ? Nó bị thằng em ngươi lôi vào chỗ chết. Nếu nó chết thì chính em ngươi đã giết nó và đừng tưởng là cứ men tường trốn về nhà mà xong đâu !

Acmagiro
30-01-2008, 09:49 PM
Bà nói một hơi không kịp thở, ngưng một chút lại tiếp tục, mắt đổ hào quang:
- Còn ngươi nữa ! Ai cũng biết nó trốn về một mình mà ngươi là chị nó lại không đưa nó đến cho ta hỏi. Cả hai đứa chúng bay đối xử với một người già cả như thế à ?
Thật đáng phỉ nhổ. Các ngươi không coi ta ra gì cả !
Rồi không đợi trả lời, bà lại thao thao:
- Nếu thằng Takezo có trở về thì dẫn Matahachi lại cho ta. Nếu không được, ít nhất cũng phải điệu thằng quỷ non ấy đến ngay đây để tra hỏi nó xem nó đã làm gì con ta, đứa con yêu quý của ta bây giờ ở đâu ...
- Bây giờ bà muốn tôi làm gì ? Em tôi không có đây !
- Nói láo không biết ngượng miệng. Mày phải biết nó ở đâu !
- Không, tôi không biết !
Giọng Ogin run run, mắt đầy lệ. Mặt nàng hơi cúi về phía trước. Trong thâm tâm, Ogin thầm mong cha nàng còn sống.
Thình lình có tiếng động ngoài hiên, rồi những bước chân người chạy rầm rập. Honiden đảo mắt nhìn láo liên. Otsu định đứng dậy. Một tiếng thét ghê rợn trong bóng đêm từ bên ngoài đưa vào, tiếp theo là tiếng kêu đau đớn kéo dài như tiếng hú của con vật bị chọc tiết. Rồi một giọng đàn ông hét lớn:
“Bắt lấy nó !”.
Lại tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng la hét cùng với tiếng rào rào của những cành gẫy và những nhánh tre rung động.
Cụ Osugi thét lên:
- Takezo rồi !
Bà đứng phắt dậy, quắc mắt nhìn Ogin quỳ dưới chân, gay gắt nói:
- Ta biết nó ở đây. Thật rõ như ban ngày mà ngươi còn cố giấu. Nhưng ta không quên đâu !
Rồi bà vụt chạy ra, mở tung cửa. Cảnh tượng bên ngoài làm cho mặt bà đã tái lại càng thêm nhợt nhạt:
một thanh niên, ống chân còn mang giáp cứng, nằm ngửa mặt lên trời, đang giẫy chết, máu từ mắt và mũi ri rỉ chảy ra thành từng đường đen sẫm. Cứ xem như vết thương trên sọ của nạn nhân cũng đủ thấy kẻ chém hắn phải mạnh lắm và võ khí là một vật bằng gỗ !
Bà lão lắp bắp:
- Có ... có ... người chết ngoài kia !
Otsu mang đèn ra hiên rồi cùng với Cụ Osugi đến gần xác chết. Bà run sợ nhìn chăm chú vào mặt nạn nhân. Không phải Takezo mà cũng không phải Matahachi, chỉ là một Samurai còn trẻ tuổi cả hai đều không biết rõ danh tính.
Cụ Osugi lẩm bẩm:
- Ai giết hắn vậy ?
Rồi quay lại Otsu, bà bảo:
- Ta đi chỗ khác thôi, đừng nên dính vào chuyện này.
Nhưng Otsu không đành lòng bỏ đi chỗ khác. Bà lão đã nói nhiều câu bất công và độc ác với Ogin, nàng thấy nếu không ở lại an ủi Ogin đôi chút thì thật là tàn nhẫn. Nếu Ogin có điều gì che giấu, hẳn phải có lý do chính đáng, bèn nói với Cụ Osugi xin bà cứ về trước rồi nàng sẽ trở lại sau.
- Tùy ngươi.
Bà đáp khô khan và định cất bước. Otsu đưa đèn ***g cho bà nhưng bà gạt đi, giọng kiêu hãnh:
- Ta không cần ! Gia trưởng nhà Honiden đâu đã lẫn mà phải dùng đèn !
Rồi vén áo kimono, bà bước những bước dài, mạnh bạo xông vào màn sương đêm mỗi lúc một dày đặc.
Đi được một quãng, một bóng đen gọi giật bà lại. Bóng đen cầm gươm trần, ống chân và cánh tay mang giáp sắt trong như Samurai chuyên nghiệp, không phải người trong làng. Bóng đen hỏi lớn:
- Bà vừa ở nhà Shinmen ra hả ?
- Phải.
- Bà có họ hàng gì với nhà Shinmen ?
- Lạy trời, ta đâu có họ hàng gì với chúng ! Ta là gia trưởng họ Honiden ở bên kia sông.
- Vậy bà là mẹ Matahachi hả ? Takezo với hắn dự trận Sekigahara mà !
- Phải ! Nhưng con ta đâu có tự ý đăng lính. Thằng quỷ đó dụ con ta đi đấy chứ !
- Thằng quỷ nào ?
- Thì thằng quỷ Takezo chứ ai ?
- Hình như tên đó không được lòng dân làng phải không ?
- Được lòng gì ? Ngươi không biết đấy thôi chứ nó là một tên vô lại ai cũng gớm !
Từ khi con ta chơi với nó, gia đình ta chịu không biết bao nhiêu là phiền nhiễu.
- Hình như con bà đã chết ở Sekigahara rồi mà !
- Chết rồi ! Trời ! Matahachi chết rồi ư ?
- Không ! Ta cũng không biết rõ lắm ! Nhưng để bà đỡ buồn phiền, ta sẽ giúp bà trả thù.
Cụ Osugi nhìn người đàn ông nghi hoặc:
- Quan nhân là ai vậy ?
- Ta thuộc binh đoàn của đại danh Tokugawa. Sau trận chiến, ta được phái đến trấn thủ ở lâu đài trên thượng lưu sông này. Theo lệnh thượng cấp, ta có cho chặn đường chỗ biên giới liên tỉnh Harima để khám xét người qua lại. Tên Takezo, nhà ở đằng kia - hắn giơ tay chỉ xóm Ogin ở - phá rào chặn rồi phóng chạy về phía làng Miyamoto này. Ta phái người đuổi theo nhưng hắn khá quỷ quyệt. Tưởng đâu vài ngày hắn phải nhược, nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra hắn. Trước sau thế nào rồi cũng tóm cổ được. Sức đâu mà hắn trốn mãi.
Cụ Osugi gật đầu. Bây giờ bà mới hiểu tại sao Takezo phải lẩn trốn trong ngày hội hoa ở Shippoji tự và tại sao hắn không dám về nhà, vì chắc chắn lính sẽ đến xét nhà hắn trước tiên. Nhưng nghe tin Takezo trở về làng có một mình, cơn giận của bà càng tăng. Còn tin Matahachi chết, bà thấy khó lọt tai quá. Bà nói khéo:
- Tên Takezo khỏe và quỷ quyệt thật, nhưng gặp quý quan binh, làm gì mà không bị bắt.
- Ờ ... Ở ... lúc đầu ta cũng nghĩ thế. Nhưng bọn ta ít người mà mới đây nó lại giết mất một rồi !

Acmagiro
30-01-2008, 09:50 PM
Bà không biết cấp bậc của người đối thoại nhưng cứ gọi bừa là đội trưởng:
- Đội trưởng cho phép già khuyên một câu nhé !
Rồi cúi đầu ghé sát tai người kia nói nhỏ. Những lời bà thì thầm có lẽ làm viên đội trưởng khoái chí lắm. Thỉnh thoảng hắn lại gật đầu đồng ý và thốt lên:
- Hay lắm ! Hay lắm ! Tuyệt !
Bà lão quay đi nhưng không quên dặn với:
- Nhớ đấy ! Mà phải làm đến nơi, chớ có bỏ nửa chừng mà mang họa.
Ogin và Otsu ngồi trên chiếu, đang than thở và lau nước mắt bỗng giật mình trông ra.
Bốn, năm kẻ lạ mặt mặc binh phục nhẩy qua cửa sổ xông thẳng vào phòng khách, kéo lê bùn đất bê bết. Otsu tái mặt, nhưng Ogin không hổ danh con gái Munisai, vẫn bình tĩnh. Nàng lạnh lùng hỏi:
- Các ngươi là ai, vào đây làm gì ?
Một tên cao giọng:
- Đứa nào là chị thằng Takezo ?
- Ta. Ogin điềm tĩnh đáp. Đêm khuya, các ngươi tự tiện vào phá nhà phụ nữ, không biết xấu hổ sao ?
Viên đội trưởng vừa vào tới, giơ tay chỉ Ogin, quát lớn:
- Trói con bé này lại !
Vừa nghe tiếng quát, đèn đóm tắt hết, tối om. Nhà cửa rung động, bàn ghế đổ lổng chổng. Lính ùa đến bắt Ogin. Nàng kháng cự mãnh liệt, nhưng đàn bà sức vóc bao nhiêu, chỉ mấy phút sau đã bị trói gô như bó giò nằm vất chỏng chơ dưới đất. Những tên lính dã man còn xúm lại đạp thêm cho mấy cái. Otsu sợ quá vùng chạy ra cửa.
Nàng không nhớ đã chạy ra ngả nào, nhưng trốn thoát được bọn lính. Tâm thần hoảng hốt, chân không còn cả dép, nàng nhắm mắt chạy bừa trong làn sương dày mờ mịt trắng xóa như sữa dưới ánh trăng suông, hoàn toàn phó mặc cho bản năng định hướng, hy vọng về được đến chùa Shippoji. Sống yên ổn từ tấm bé trong một khung cảnh êm đềm thuần hậu, Otsu cực kỳ xúc động và thấy thế giới xung quanh mình như vừa sụp đổ.
Gần đến chân đồi, bỗng nghe tiếng gọi. Ngẩng nhìn bóng người ngồi trên phiến đá dưới tàn cây, nàng nhận ra là Takuan.
- Mô Phật ! Ngươi đấy ư ? Ta đang lo không biết hôm nay sao ngươi về trễ.
Takuan nhìn xuống chân Otsu:
- Dép ngươi đâu ?
Takuan chưa hết ngạc nhiên thì Otsu đã chạy đến bên, miệng không ngớt rên rỉ:
- Thầy ơi ! Ghê quá ! Ghê quá !
Takuan lấy giọng bình tĩnh, cố trấn an thiếu nữ:
- Nào ... nào ... cái gì mà ghê quá ? Tên đời này làm gì có chuyện gì ghê đến thế !
Bình tĩnh kể ta nghe chuyện gì nào !
- Ghê quá ! Chúng bắt chị Ogin trói lại rồi ! Không có tin gì của Matahachi mà chị Ogin hiền dịu như vậy bị chúng đá, thật khổ ! Thầy, bây giờ phải làm sao, thầy ?
Vừa run rẩy vừa khóc nức nở, Otsu sợ hãi bám chặt lấy Takuan, đầu nép vào ngực nhà sư cầu xin che chở.
oo Buổi trưa mùa xuân ẩm ướt và lặng gió. Takezo lang thang trong rừng, mồ hôi chảy đầy mặt. Sương mờ mờ như còn lãng đãng xung quanh. Hắm mệt lắm rồi, tưởng không còn cất nổi bước. Một tiếng chim đậu trên cành cũng làm hắn hốt hoảng thủ thế.
Sau cơn thử thách vừa qua, con người hắn trở lại hung bạo và man rợ cũng như bản năng sinh tồn của hắn. Takezo giận dữ văng tục:
- Tổ cha những thằng khốn nạn chó má !
Không tìm được vật gì trút bỏ nỗi bực dọc trong lòng, hắn vung mạnh thanh kiếm gỗ, thuận tay chặt một cành cây lớn trước mặt. Trừng trừng nhìn chỗ vết thương trên vỏ cây, thấy giòng nhựa trắng chảy ra ri rỉ, hắn nghĩ đến sữa mẹ. Mất mẹ, không còn ai để quay về những khi tuyệt vọng, Takezo thấy cô đơn lạ lùng. Ngọn suối trong, rặng đồi uốn éo đằng xa kia, ở chính quê hương hắn mà sao hắn thấy vô tình quá, đôi khi còn như chế nhạo hắn nữa.
Đã bốn ngày nay, Takezo lẩn trốn trong vùng rừng rậm triền núi Sanumo.
Qua làn sương mong ban chiều, thấp thoáng ngôi nhà của cha hắn xưa kia, bây giờ do chị hắn ở. Dưới thung lũng là chùa Shippoji, mái chùa ẩn hiện sau những tàn cây dày lá.
Hắn biết những nơi đó nguy hiểm không thể đến được vì đấy là những chỗ đầu tiên lính tới khám xét. Ngày Phật Đản vừa qua, hắn đã dám bò tới gần chùa. Mặc dầu đông người dễ trốn nhưng quả thật hắn đã quá liều lĩnh. Khi nghe tiếng gọi, hắn bỏ chạy vì không còn cách nào khác. Ngoài mục đích tự cứu, hắn không muốn gây phiền cho Otsu.
Đêm hôm trốn về nhà, ngẫu nhiên có bà mẹ Matahachi ở đó. Đứng ngoài hiên, ghé mắt qua khe cửa nhòm vào, hắn đương mãi nghĩ cách giải thích cho bà cụ biết tại sao con bà không về thì bị lính bắt gặp. Hắn phải giết chết một tên rồi vùng chạy, vẫn không có dịp nói với ai câu nào.
Từ đó sống chui nhủi trong vùng rừng núi này, hắn thấy như bị bao vây càng ngày càng chặt. Binh sĩ Tôn gia kiểm soát gắt gao các miền phụ cận, chúng tuần tiễu khắp các nẻo đường từ chân núi trở đi và bắt dân làng chia nhau thành từng toán lục soát khắp sườn núi.
Takezo tự hỏi chẳng biết Otsu nghĩ gì về hắn và bắt đầu nghi có lẽ nàng cũng chẳng ưa gì hắn. Biết mọi người ai cũng coi mình như kẻ thù, Takezo thấy bị dồn vào ngõ cụt. Hắn nghĩ:
giải thích cho Otsu hiểu tại sao vị hôn phu của nàng không về, thật khó quá ! Chi bằng kể cho bà già nghe, tốt hơn. Ừ phải, để ta nói cho bà cụ biết rồi bà cụ sẽ từ từ khuyên giải Otsu sau. Xong chuyện này, ta đi đâu cũng được, không còn gì phải bận tâm !
Ý đã quyết, Takezo lại cất bước nhưng hắn biết hắn không thể về làng trước khi trời tối. Nhặt hòn đá, đập thành từng mảnh, hắn ném chim bay ngang. Vì đói qua, giết được con nào hắn vặt lông sơ rồi ngồm ngoàm ăn sống. Cầm con chim máu bê bết, hắn vừa đi vừa ngoạm vào thịt chim nóng hổi, ăn ngon lành không nghĩ gì đến chuyện khác.
Đột nhiên có tiếng kêu khẽ trong bụi cây. Hắn khựng lại. Một người nhảy ào ra, chạy trốn. Nghĩ đến chuyện ai cũng khinh ghét và tìm cách xa lánh hắn một cách vô cớ, Takezo tức giận hét:
- Đứng lại !
Và không đợi phản ứng, hắn chạy theo nhanh như thú dữ vồ mồi. Chỉ một loáng đã đuổi kịp. Thì ra là một người làng hắn biết mặt thường lên núi đốt than. Hắn nắm cổ lôi lại dẫn vào khu rừng thưa gần đấy.
- Sao chú bỏ chạy ? Chú không nhận ra ta à ? Takezo ở Miyamoto đây mà !
Ta có ăn thịt chú đâu mà sợ ? Người làng gặp nhau chẳng chào hỏi gì cả, xấu thế ?
- Dạ ... dạ ...
- Ngồi xuống !
Hắn buông tay ra, nhưng người kia vừa được thả đã vội co cẳng chạy. Takezo chận phía sau, giơ kiếm lên như định chém. Người kia ngã ngồi xuống, hai tay chắp lại, lạy như tế sao:
- Lạy ngài, xin ngài tha cho con !
- Vậy trả lời câu ta hỏi đây !
- Dạ dạ ... xin ngài đừng giết. Con còn vợ con nhỏ dại.
- Không ai giết chú. Quanh đây nhiều lính lắm phải không ?
- Dạ.
- Dân làng hôm nay còn đi kiếm ta không ?
Không có tiếng trả lời.
- Chú có phải là một trong những người đi kiếm ta không ?
Người kia đứng dậy lắc đầu quầy quậy:
- Dạ không ! Không !
Takezo lại tóm cổ người đốt than:
- Thôi được ! Chị ta ra sao ?
- Chị nào ?
- Chị ta, Ogin nhà Shinmen. Đừng làm bộ ngớ ngẩn. Chú đã hứa trả lời những câu ta hỏi. Ta không trách dân làng, họ bị lính bắt phải theo, nhưng ta muốn biết chị ta có sao không ?
Người kia làm bộ ngây ngô đáp:
- Dạ, con không biết gì hết.
- A ! Nghi quá ! Không nói ta chém chết tức khắc !
Nói rồi hắn giơ kiếm.
- Ấy, lạy ngài ! Con xin nói ! Con xin nói !

Acmagiro
30-01-2008, 09:51 PM
Rồi hai tay chắp lại run rẩy, người đốt than sợ hãi lắp bắp kể lại chuyện Ogin bị bắt dẫn đi và lệnh rao trong làng hễ ai chứa chấp Takezo sẽ bị coi như đồng lõa. Hàng ngày, lính dẫn từng nhóm dân lên núi bắt đi sục sạo và mỗi nhà cứ hai ngày lại phải cử một người tham dự.
Takezo nghe chuyện, tóc dựng ngược, không phải vì sợ mà vì giận. Hắn hỏi lại cho chắc:
- Chị ta có tội gì ?
Và mắt hắn mờ lệ.
- Trong làng không ai biết. Lệnh trên như vậy, chẳng ai dám trái.
- Thế chúng dẫn Ogin đi đâu ?
- Có lẽ lên đồn Hinagura. Ấy là nghe nói vậy, con cũng không chắc.
Takezo lẩm bẩm nhắc lại:
- Hinagura ... Hinagura ...
Và hắn quay nhìn rặng núi xa, sát vùng biên hai tỉnh, mây chiều đã kéo đến làm loang lổ vài nơi trên đỉnh.
Takezo thả người đốt than. Anh ta vừa mừng vừa sợ chạy xuống chân đồi.
Takezo vừa ngao ngán vừa tức giận những Samurai đê mạt đã bắt một người con gái yếu đuối không phương tự vệ. Một mình, hắn lững thững quay đi, yên lòng vì không bị ai làm rộn. Hắn cần yên tĩnh để suy nghĩ.
- Ta phải cứu Ogin. Trời ơi, chị ta ! Nếu chúng làm gì chị ta, ta sẽ giết hết !
Trời đã chiều. Takezo rảo bước xuống núi, nhắm hướng làng Miyamoto thẳng tiến.
Một giờ sau, Takezo đến gần chùa Shippoji. Chuông thu không vừa ngưng tiếng, hoàng hôn sập xuống. Chùa đã lên đèn, Takezo trông thấy người đi lại rộn rịp dưới bếp và cả ở tăng phòng.
“Giá Otsu ra ngoài được một lúc !”, hắn nghĩ.

Ngồi thu lu trong xó tối cạnh hành lang dẫn từ bếp lên chùa, mùi thức ăn lởn vởn trong không khí khiến bụng hắn cồn cào, nghĩ đến những bát cháo thơm phức. Đã mấy ngày nay, chỉ ăn toàn thịt sống và cỏ dại, bây giờ con tỳ con vị hắn làm reo, nước miếng ứa ra suýt làm hắn sặc.
- Tiếng gì thế ? Một giọng nói cất lên.
- Chắc con mèo.
Otsu đáp. Ở bếp bước ra, hai tay bưng mâm thức ăn dành cho bữa tối, Otsu men theo hành lang ngay trên đầu Takezo. Hắn định gọi, nhưng cơn xúc động làm nghẹn lời. Thật may cho hắn vì đúng lúc đó có tiếng đàn ông hỏi ngay đằng sau Otsu:
- Phòng tắm chỗ nào cô ?
Người đàn ông đi sau mặc kimono mượn của nhà chùa, ngang lưng giắt chiếc khăn mặt nhỏ. Takezo nhận ra đó là một Samurai đồn trú tại lâu đài Himeji. Hiển nhiên phải là cấp chỉ huy vì như vậy hắn mới được ở trong chùa, suốt ngày ăn uống no say để mặc quân lính dưới quyền và dân làng vất vả ngày đêm tìm Takezo.
Otsu đáp:
- Ngài muốn dùng phòng tắm xin đi phía này.
Đặt mâm thức ăn xuống, nàng dẫn người lạ mặt đến cuối hành lang.
Đột nhiên, người kia giơ hai tay ôm ngang lưng Otsu. Bằng một giọng cợt nhả, hắn nói:
- Nàng vào phòng tắm với ta đi !
- Mô Phật !
Nhưng hắn đã giữ chặt Otsu và ghé môi hôn lên má nàng. Otsu vùng vẫy.
- Sao vậy ? Không thích đàn ông à ?
Otsu sợ hãi kêu:
- Bỏ ra ! Không được làm hỗn !
Tên kia hoảng hốt, bịt mồm nàng lại. Nhưng nhanh như cắt, Takezo chồm lên khỏi chỗ nấp, nhảy xổ tới, đấm một cú tựa trời giáng vào gáy tên Samurai. Trong lúc bất ngờ không kịp phản ứng, hắn ngã nghiêng, tay vẫn bám lấy Otsu. Otsu vừa hét vừa vùng vẫy tìm cách gỡ ra rồi đẩy mạnh hắn ngã ngồi xuống đất. Hắn la hoảng:
- Bắt lấy nó ! Takezo đây rồi ! Quân lính đâu, bắt nó ! Bắt nó !
Từ trong chùa, tiếng chân rầm rập chạy ra lẫn với tiếng la hét. Chuông mõ gióng liên hồi, ai cũng kêu:
Bắt được Takezo ! Bắt được Takezo !
Nhưng Takezo đã không còn ở chùa nữa. Một số người chia nhau lên núi, vào rừng tìm kiếm. Chính Takezo cũng không rõ tại sao hắn đã may mắn thoát khỏi màng lưới bủa vây hắn. Trong khi mọi người ra công lục soát khắp nơi thì hắn đã sang bên kia sông, chạy vào trong căn bếp rộng lớn nền đất nện của nhà Honiden.
Áng sáng căn bếp lờ mờ. Takezo cất tiếng gọi khẽ:
- Bà ơi ! Bà !
- Ai đó ? Giọng bà già hách dịch hỏi lại.
Cụ Osugi tay cầm đèn ***g từ phòng trong bước ra. Trông thấy hắn, bộ mặt nhăn nheo của bà tái đi. Bà hỏi:
- Mày hả ?
Takezo vội đáp:
- Con có chuyện gấp muốn nói. Matahachi chưa chết đâu, hắn vẫn khỏe nhưng giờ theo một người đàn bà đi nơi khác ở rồi. Con chỉ biết có thế. Bà làm ơn bảo cho Otsu biết, con không thể gặp nàng để báo tin được !
Nói xong những lời đó, Takezo thoải mái như vừa cất được gánh nặng.
Định bước đi thì cụ Osugi gọi giật lại:
- Mày định đi đâu bây giờ ?
- Con lên đồn Hinagura cứu Ogin. Giọng hắn buồn bã. Xong rồi đi đâu cũng được. Con chỉ muốn nói để bà và Otsu biết là không phải con đã bỏ Matahachi, ngoài ra chẳng còn chuyện gì khác.
Cụ Osugi đổi tay cầm đèn, lặng thinh suy nghĩ. Bà muốn kéo dài thì giờ, bèn ra hiệu cho Takezo:
- Mày có đói không, Takezo ?
- Mấy hôm nay chẳng được hột cơm nào.
- Tội quá ! Vậy vào đây. Bà đang làm cơm, xong ngay bây giờ. Vào ăn cơm nóng đã. Trước khi đi, bà đãi con bữa cơm nhé ! Hay là con đi tắm, đợi bà làm bữa.
Takezo ngạc nhiên ngẩn người.
- Đừng làm bộ mặt vậy ! Gia đình ta và gia đình con cùng một tộc, con không biết à ? Ta nghĩ con chẳng nên đi, nhưng nếu ý con đã quyết thì bà muốn đãi con bữa cơm trước khi lên đường vậy mà !
Takezo chẳng biết trả lời sao. Hắn giơ tay chùi nước mắt. Đã lâu lắm hắn không thấy ai thương và nói với hắn những lời âu yếm như thế. Hắn tưởng ai cũng khinh miệt và nghi kỵ hắn, ngờ đâu ... Hắn bỗng thấy một cảm giác kỳ lạ khi được đối xử như một người.
- Thôi con đi tắm đi. Cụ Osugi nói với hắn như bà nói với cháu. Đứng đây có người trông thấy thì nguy hiểm lắm. Để ta mang khăn cho, trong khi con tắm ta lấy cái áo của thằng Matahachi để sẵn đây, tắm xong thì mặc. Vào phòng, tắm đi cho khỏe.

Acmagiro
30-01-2008, 09:51 PM
Bà đưa Takezo cây đèn rồi trở lên nhà. Lúc sau, thấy cháu bà chạy đi, biến vào trong đêm tối.
- Thế nào ? Nước vừa đủ nóng không con ?
- Vừa vặn bà ạ. Con thấy như tỉnh hẳn lại.
- Cứ thong thả, cơm chưa được đâu.
- Cảm ơn bà. Nếu biết thế này con đã đến sớm hơn.
Takezo nói thêm vài câu nữa, nhưng tiếng nước rào rào làm át tiếng hắn.
Vả bà già cũng không còn đứng đó nữa.
Không bao lâu sau, đứa cháu đã trở về, thở hổn hển, theo sau lục tục những binh sĩ và dân làng mang gậy gộc. Cụ Osugi ở trong nhà bước ra, ghé tai thì thầm với viên đội trưởng.
- Hay lắm ! Tuyệt diệu ! Bà đã dụ cho hắn tắm. Thật diệu kế ! Lần này có chạy đằng trời !
Rồi chia hai toán, mọi người cẩn thận nằm rạp xuống theo hướng bếp lửa bò vào như đàn cóc châu vào đốm lửa sáng.
Đột nhiên Takezo linh cảm một điều gì khác lạ khó tả làm hắn nhột nhạt.
Ghé mắt nhìn qua khe cửa, hắn nổi da gà, tóc dựng ngược.
- Chết rồi ! Ta bị trúng bẫy rồi !
Nhà tắm nhỏ và chật. Hắn thì trần như nhộng, ngoài cửa, người mang gậy gộc giáo mác lố nhố sắp tiến vào. Trông trước trông sau vô kế khả thi, hắn đâm liều. “Được rồi !
Nếu chúng bay muốn, ta sẽ cho biết tay !”.
Hắn chẳng cần biết bên ngoài có bao nhiêu người. Từ trước đến nay hắn vốn là tên liều mạng, luôn luôn tấn công trước. Trong khi mọi người đang theo nhau từ từ bò vào, không do dự, hắn đột nhiên đạp tung cửa phòng ra, thét một tiếng rợn người !
Không mảnh vải che thân, tóc bay tung tứ phía, Takezo cướp ngay ngọn giáo của tên lính gần nhất đang chĩa vào hắn, thuận chân đạp tên kia bắn văng vào bụi. Hai tay cầm ngang ngọn giáo, hắn quay cuồng như điên trong đám đông, mạnh tựa vũ bão.
Trong trận Sekigahara, hắn đã học được bài học này và thấy thật hiệu nghiệm khi phải đối đầu với số địch thủ đông gấp bội. Cán giáo nhiều khi còn lợi hại hơn ngọn giáo. Hắn đá đông, phạt tây, đâm nam, gạt bắc, ào ào như gió cuốn làm mọi người sợ hãi dạt ra hai bên. Toán binh sĩ không cho người vào phá nhà tắm trước khi tấn công, đến khi biết lầm thì đã muộn. Lính và dân chỉ đứng vòng ngoài la hét, rõ ràng ai cũng sợ không dám xông vào. Khi ngọn giáo của hắn giáng xuống lần thứ mười thì bị gẫy làm hai đoạn. Takezo nhặt hòn đá lớn ném vào phía quan quân và thừa cơ nhốn nháo phóng ra khỏi vòng vây.
- Nó chạy vào nhà rồi !
Mẹ con Cụ Osugi bỏ chạy ra vườn. Takezo vừa chạy vào nhà vừa hét:
- Áo tao đâu ? Áo tao đâu ?
Trong nhà quần áo ngổn ngang, có cả một chiếc rương to đựng đầy kimono mở nắp, nhưng Takezo không để ý. Hắn đảo mắt nhìn quanh tìm bộ áo rách bươm của hắn. Thấy nó cạnh bếp, hắn vơ quàng nhảy vội lên lò đất, chui qua lỗ trần leo lên mái nhà.
Dân chúng ở dưới chỉ trỏ, mắng nhiếc và đổ lỗi cho nhau đã để hắn trốn thoát.
Đứng trên nóc nhà, Takezo khoan thai mặc lại bộ kimono cũ, lấy răng xé một miếng thắt lưng buộc mớ tóc ướt. Hắn thắt sợi dây vải chặt đến nỗi chân tóc bị kéo mạnh ra đằng sau, làm đôi lông mày hắn xếch ngược.
Bầu trời đêm ấy trên đầu hắn lấp lánh đầy sao.

Acmagiro
01-02-2008, 12:27 PM
QUYỂN 1 : Chi No Maki
CHƯƠNG 5
TRÍ DŨNG




Takezo bị truy nã gắt. Khắp ngả đường và trước cổng nhà xã trưởng đều có treo cáo thị trọng thưởng cho ai giết chết hay bắt sống được Takezo hoặc chỉ chỗ hắn ẩn nấp. Cáo thị mang triện son của Ikeda Terumasa, tổng trấn lâu đài Himeji.
Dân trong làng lo lắng ra mặt, nhất là gia đình cụ Osugi. Công việc đồng áng bỏ bê, chẳng ai có thì giờ cày cấy hay tầm tang gì nữa. Đêm nào cụ Osugi cũng thúc giục gia nhân chặn hết mọi lối ra vào trang trại, khóa cửa cài then kỹ lưỡng đề phòng Takezo trở về báo thù. Dân quân họp nhau nhiều bận bàn kế lùng bắt phạm nhân mà vẫn không kết quả.
Hôm nay, mới tinh sương, đã có thanh niên hớt hải chạy về báo cáo:
- Lại một người nữa bị giết !
- Ở đâu ? Lần này ai vô phúc vậy ?
- Một Samurai không rõ tên. Xác còn nằm ở đường mòn chân núi.
Dân xóm tuy sợ nhưng không nén được tò mò, kéo nhau đi xem. Xác nạn nhân dựng ngược, đầu chúi vào bụi cây bên cạnh cái cọc treo bảng cáo thị còn dính máu. Nạn nhân bị vỡ sọ, có lẽ bị đánh bằng cọc này.
Ai ai cũng lắc đầu lè lưỡi. Đọc cáo thị, mọi người không khỏi ngao ngán trước sự thật phũ phàng:
Takezo mạnh quá. Nó ra tay tàn nhẫn như thế, ai còn lòng nào đi bắt nó hay dám chỉ chỗ nó trốn ?
Otsu cũng theo dân xóm đến coi xác chết. Rời khỏi đám đông, sắc mặt nàng nhợt nhạt, hình ảnh kẻ bất hạnh còn lởn vởn trong trí. Trở về chùa, đến chân núi, nàng gặp viên đội trưởng dẫn năm sáu thuộc hạ đi tra xét. Otsu khép nép tránh sang vệ đường, không muốn cho gã trông thấy.
Nhưng đã muộn. Thấy thiếu nữ, gã cười toe toét:
- Otsu đi đâu về thế ?
- Đi mua đồ.
Otsu đáp cụt lủn, rồi không đợi gã nói thêm câu nào, vội vã trèo những bậc đá để lên chùa. Nàng không có thiện cảm với viên đội trưởng, có lẽ vì bộ ria lởm chởm như bàn chải của gã làm nàng gớm ghiếc và nhất là sau cái đêm hắn làm hỗn với nàng, nàng càng ghê sợ.
Đến cổng chùa, Otsu thấy Takuan đang đùa với một con chó hoang. Nàng len lén tránh xa, ghê con vật bẩn thỉu, không ngờ nhà sư đã trông thấy, gọi:
- Otsu ! Ngươi có thư đấy ?
Ngạc nhiên, nàng hỏi lại:
- Thư của con ư ? Ai gửi đến thế ?
- Không biết ! Nhưng vì ngươi không có ở chùa, ta giữ hộ cho đây.
Đoạn thò vào tay áo lấy ra một cuốn giấy trao cho thiếu nữ.
- Trông ngươi không vui. Có chuyện gì vậy ?
- Chuyện đau lòng, thầy ạ. Có người chết ở ven rừng, mắt còn mở và máu đọng ...
- Hừ. Những cảnh ấy chẳng nên xem. Ít lâu nay ta cũng thường thấy xác chết, cứ đà này đi đâu có lẽ phải nhắm mắt lại mất ! Vậy mà mình cứ tưởng đất này là tiên cảnh...
- Sao Takezo hạ sát nhiều người quá vậy thầy ?
- Thì để cho hắn khỏi bị giết chứ sao ! Nam mô a di đà Phật, lòng hiếu sinh và hiếu sát của gã thiếu niên ấy thật ghê gớm. Họ đi tìm giết hắn thì hắn phải tự vệ ...
- Nếu hắn về làng này giết người thì thầy phải làm sao ?
Takuan ngồi yên không đáp. Mây đen đùn lên từng đám che khuất cả đỉnh núi.
Otsu mở cửa phòng, đặt cuộn thư lên chiếc bàn thấp, định ngồi xuống bồ đoàn đọc cho yên tĩnh. Liếc nhìn khung cửi, một tấm lụa còn đang dệt dở. Từ năm ngoái, Otsu đã ươm tơ định dệt một tấm kimono cho Matahachi, với lòng thành khẩn mong mỗi đường tơ sẽ là một sợi dây ràng buộc nàng với vị hôn phu thêm bền chặt. Và nàng thầm ước tấm áo đừng bao giờ hư rách. Nhưng Matahachi đã bỏ đi dự trận Sekigahara, và đến bây giờ vẫn không tin tức.
Otsu đăm chiêu nhìn cuộn giấy trên bàn rồi băn khoăn tự hỏi:
“Chẳng biết thư của ai ?”.
Nàng đọc đi đọc lại địa chỉ nhiều lần, sợ nhầm lẫn. Nhưng rõ ràng thư đề tên nàng, địa chỉ là chùa Shippoji, làng Miyamoto. Giấy bọc ngoài sờn rách nhem nhuốc nước mưa và vết tay chứng tỏ nó đã được chuyển qua nhiều trạm.
Otsu bật dấu niêm, thấy rơi ra hai mảnh giấy. Mảnh thứ nhất mang bút tự của một thiếu phụ nàng không quen và có lẽ nhiều tuổi hơn nàng:
“Tôi viết thư này để xác nhận những điều Matahachi nêu trong thư kia là đúng nên không nói rõ chi tiết.
Xin thông cảm. Tôi đã thành hôn với Matahachi và coi Matahachi như người nhà. Nhưng thấy anh ta còn áy này về cô nên phải gửi thư này. Đường đời mỗi người một ngả, mong cô nương hãy quên người cũ. Vạn cảm. Oko“.
Otsu tái mặt, tay run run mở mảnh giấy kia. Rõ ràng bút tích của Matahachi, vị hôn phu nàng. Trong thư, Matahachi kể lể tại sao hắn không về làng được và xin rút lại lời hứa hôn để nàng có cơ hội đi lấy chồng khác. Matahachi còn nói thêm hắn không dám gửi thư cho mẹ vì khó viết quá và nhờ Otsu chuyển lời nói với bà cụ hắn vẫn khỏe mạnh và hiện đang cư ngụ tại một tỉnh khác.
Đọc xong hai lá thư, Otsu bủn rủn cả chân tay, mắt đờ ra không chớp mà cũng không khóc. Những ngón tay cầm thư trắng bệch tựa da người chết nàng vừa thấy cách đây một lúc.
Thời gian trôi qua. Người làm trong bếp chẳng biết nàng đi đâu. Viên đội trưởng để thuộc hạ ngủ trong rừng, một mình trở về chùa đòi được cung phụng những tiện nghi xứng với cấp bậc của hắn. Nào nước tắm phải vừa nóng, món cá tươi mới bắt ở sông lên phải nấu cho khéo hợp với khẩu vị và rượu sa-kê phải là thứ ngon nhất xóm. Hầu hạ đội trưởng công phu lắm, dĩ nhiên Otsu phải gánh một phần trách nhiệm, nhưng bây giờ chẳng biết nàng ở đâu thành ra bữa ăn tối của đội trưởng bị trễ.

Acmagiro
01-02-2008, 12:28 PM
Takuan đi tìm Otsu chẳng phải vì quan tâm gì đến bữa ăn sớm hay muộn của viên đội trưởng nhưng vì lo cho Otsu. Chưa bao giờ Otsu đi đâu lâu mà không nói cho chùa biết. Takuan băng vườn sau, vừa đi vừa gọi. Nhiều lần qua phòng dệt thấy cửa đóng, ông cũng sơ ý không nhìn vào.
Sư cụ lộ vẻ hoảng hốt:
- Mô Phật ! Không thấy nó trong chùa. Hay thầy sai người xuống chân núi xem sao.
Nếu không có nó đứng hầu, đội trưởng không chịu uống rượu.
Takuan sai người cầm đèn xuống núi nhưng đồng thời cũng tự đi lục soát khắp chùa một lần nữa. Lần này ông không quên mở cửa ngó vào phòng dệt. Cảnh tượng bên trong làm ông giật mình:
Otsu gục đầu trên khung cửi, bất động. Takuan rón rén bước vào phòng, đứng lặng nhìn hai phong thư nhàu nát vật dưới đất như bị giầy xéo lên chẳng khác gì những hình nhân bằng giấy sau buổi cúng cháo thí. Nhà sư nhặt những phong thư, dịu dàng bảo Otsu:
- Có phải thư sáng nay không con ? Sao không cất đi ?
Otsu lắc đầu mệt mỏi.
- Ai cũng lo không biết con đi đâu. Ta đã tìm khắp nơi mà không thấy. Thôi, lên chùa đi. Ta biết con không thích nhưng con còn nhiều việc phải làm như hầu cơm đội trưởng chẳng hạn. Sư cụ đang cuống lên vì con đó !
- Con nhức đầu lắm ... Thưa thầy con muốn được yên tĩnh ... chỉ tối nay thôi.
Takuan thở dài:
- Thực ra ta nghĩ con chẳng có bổn phận gì phải hầu đội trưởng, dù tối nay hay bất kỳ tối nào khác. Nhưng sư cụ không nghĩ vậy. Người phải lo việc thế tục lại không đủ uy đức làm cho họ nể và giúp đỡ cho nên người thấy có bổn phận phải chăm sóc đội trưởng.
Và Takuan nhẹ nhàng vỗ vai Otsu:
- Sư cụ là người đã cưu mang con, tất nhiên con phải đền đáp. Mọi người đang đợi... Thôi, con lên chùa đi.
Otsu bất đắc dĩ đứng dậy. Mắt còn ngân lệ, nàng ngập ngừng nói:
- Con sẽ đến đó, nhưng thầy phải ở lại với con.
- Ta không thấy trở ngại. Có điều thằng “râu bàn chải” ấy chẳng ưa gì ta, mà mỗi khi thấy nó, ta chỉ muốn bảo thẳng vào mặt nó là bộ râu nó làm ta phì cười. Thật trẻ con, nhưng có những người làm ta có cảm giác như vậy !
- Con không muốn đến đó một mình.
- Sư cụ cũng ở đó mà !
- Vâng, nhưng mỗi khi con đến người lại bỏ đi.
- Hừ, vậy không tốt. Thôi để ta cùng đi với con. Bây giờ ra rửa mặt đi.
Khi Otsu lên đến chùa, viên đội trưởng đã ngà ngà say. Thấy nàng, nét mặt hắn tươi hẳn lên. Hắn sửa lại vành mũ lệch và đòi chuốc thêm rượu. Nhưng niềm vui của hắn không trọn vì có Takuan ngồi thu lu ở góc phòng, đầu cúi xuống đọc mãi miết một cuốn sách đặt trên đùi.
Cho đó chỉ là một chú tiểu vô danh trong chùa, viên đội trưởng hất hàm, sẵng giọng:
- Này chú kia !
Takuan vẫn chăm chú đọc. Otsu phải lấy khuỷu tay hích làm hiệu, nhà sư mới chậm rãi nhướng mắt:
- Đội trưởng gọi bần tăng ?
- Ừ, ta không cần ngươi. Đi chỗ khác.
Takuan làm bộ ngớ ngẩn:
- Bần tăng ngồi đây không phiền gì mà !
- Vậy hả ? Ngươi không cho là phiền hà ?
- Không ! Không phiền gì ! Nói xong, Takuan lại cúi xuống đọc sách.
- Nhưng ta, ta thấy phiền ! Hắn cao giọng. Có người đọc sách ngồi bên, ta uống rượu mất ngon !
- Mô Phật ! Vậy xin gấp sách lại.
- Ta không muốn ...
- Hay để Otsu cất sách đi.
- Ta không nói sách ! Đồ ngu, ta nói mày. Thấy mày ta khó chịu.
Takuan nghiêm giọng:
- Rất tiếc bần tăng không làm được như Trang Chu, hóa thành bướm đậu lên mâm rượu của đội trưởng.
Bị chế nhạo, viên đội trưởng căm giận, cổ bạnh ra đỏ gay, mắt lồi trông như con cá nóc:
- Cút ngay ! Cút khỏi đây tức khắc !
Takuan điềm nhiên cúi đầu:
- Xin tuân lệnh.
Rồi cầm tay Otsu, nhà sư nói:
- Qúy khách đây muốn độc ẩm. Bậc hiền giả vốn ưa tĩnh mịch, ta chẳng nên làm rộn.
- Sao ? Sao ? Mày định ...
- Đội trưởng bất bình chuyện gì vậy ?
- Ai cho phép mày dẫn Otsu đi, thằng ăn xin khốn nạn kia ?
Khoanh tay trước ngực, Takuan nhìn hắn khinh bỉ.
- Càng sống lâu ta càng thấy phái tăng lữ chẳng mấy ai coi được. Phái Samurai thì lại tệ quá ! Như nhà ngươi chẳng hạn !
Mắt viên đội trưởng tóe lửa:
- Mày nói gì vậy ?
- Ngươi có soi gương bao giờ không ? Có tự hỏi xem bộ râu ngươi có trông được không ?
Viên đội trưởng với tay ra phía sau, cầm thanh kiếm dựa bên vách:
- Mày liệu hồn !
Takuan liếc mắt nhìn hắn chống tay đứng dậy:
- Liệu hồn sao ?
Viên đội trưởng nắm đốc kiếm, hét:
- Rồi mày biết !
Takuan cười ngất trước cơn cuồng nộ của tên vũ biền, thong thả đáp:
- Nhà ngươi định chặt đầu ta chứ gì ? Ha ha ! Thật vô ích !
- Hả ? Mày nói gì ?
- Ta nói:
Thật vô ích. Vì không có gì phi lý hơn là chém đầu thầy chùa. Nếu ta có rơi đầu thì ta cũng vẫn cười, nhà ngươi chẳng giải quyết được gì mà võ công ấy có gì là oanh liệt ? Thật vô ích !
- Ít ra ta cũng khóa được cái mõm hỗn láo của nhà ngươi lại.
Hắn cười khành khạch, đầy vẻ tự mãn và kiêu căng của hạng người ỷ có vũ khí trong tay, lăm lăm cầm kiếm tiến đến trước mặt Takuan:
- Thôi chứ, đội trưởng !
Thái độ điềm tĩnh của nhà sư làm hắn càng uất, kiếm trên tay run lẩy bẩy. Otsu sợ hắn không dằn được cơn giận, chạy vội ra đứng giữa hai người mong dàn hòa và tìm cách che chở cho Takuan:
- Sao thầy lại nói với một Samurai như thế ? Nàng khẩn khoản. Thầy xin lỗi đội trưởng đi.
Nhưng Takuan vẫn tiếp tục:
- Tránh ra, Otsu, ta không hề gì đâu ! Ngươi tưởng cái thằng ngu xuẩn này có thể chém đầu ta được hay sao ? Chỉ huy cả hàng mấy chục người có vũ khí trong tay mà ròng rã gần tháng trời không bắt được tên phạm nhân kiệt lực sắp chết đói thì làm sao gạt ta nổi !
- Thằng kia ! Có giỏi cứ đứng đó ! Otsu tránh ra để ta xả thằng to mồm này ra làm hai mảnh.
Otsu quỳ xuống chân viên đội trưởng, van lạy:
- Xin đội trưởng bớt nóng, tha cho thầy Takuan. Thầy tâm trí không được bình thường, gặp ai cũng nói thế nhưng chẳng có tâm địa gì đâu !
Và nàng khóc nức nở.
Takuan vội chữa:
- Otsu lầm rồi. Ta hoàn toàn bình thường, ta chỉ nói sự thật mà sự thật thì khó làm cho người nghe lọt tai. Thằng này ngu thì ta gọi nó là đồ ngu, sao có thể gọi khác được. Như vậy chẳng hóa ra ta dối trá à ?
- Mày nhắc lại câu nói ấy là ta giết ngay, đừng hỗn !
- Ta thích nói thì cứ nói, đâu sợ ! Đối với tụi lính tráng như ngươi, bắt được Takezo hay không cũng chẳng hề gì, nhưng đối với những nông dân ở đây, chúng bây là một gánh nặng cho họ. Nếu cứ tiếp tục như thế này, ta đoan chắc vụ mùa này sẽ thất thu và rồi đói cả làng ! Ngươi là cấp chỉ huy mà không nghĩ gì đến chuyện họ phải bỏ tất cả công việc để đi “săn vịt trời” cho nhà ngươi. Thật xấu hổ !
- Câm mồm lại ! Mày muốn phỉ báng chính quyền đại danh Tokugawa hả ?
- Ta không chỉ trích chính quyền đại danh Tokugawa, ta chỉ chê những tên vô dụng như ngươi, ăn cơm của đại gia để bảo vệ dân mà làm không được việc. Ngươi không xứng đáng với đồng lương được lãnh. Thứ nhất, lấy danh nghĩa gì mà ngươi la cà trong chùa, ăn ngon mặc đẹp, đòi phải có gái tơ hầu rượu trong khi quân sĩ của ngươi vất vả ngoài rừng. Như vậy là phục vụ chủ soái đó sao ?
Viên đội trưởng đứng yên lặng không nói.

Acmagiro
01-02-2008, 12:29 PM
- Bổn phận của một Samurai phải chăng là trung thành và tích cực phụng sự chủ soái, lo bảo vệ dân đang khốn khổ nai lưng ra làm lụng để đón góp giữ vững quyền lực đại gia ? Ngươi bắt họ bỏ bê công việc, những công việc mà nếu không làm họ sẽ không có ăn. Ngươi làm ngơ trước sự vật vả của thuộc cấp, lợi dụng địa vị để có phì mã với khinh cừu, ở nhà tốt, uống rượu ngon. Ta nói thẳng:
ngươi chỉ là hạng tồi bại, thối nát, vị kỷ, mượn danh thượng cấp để mưu cầu tư lợi mà thôi !
- ...
- Bây giờ hãy chặt đầu ta đi ! Mang đầu ta đến trình cho đại gia Tokugawa được rõ. Ngài sẽ hỏi mình ta đâu, bấy giờ ngươi khó mà giải thích. Chắc ngươi không rõ ta đã nhiều lần uống trà với đại gia ở chùa Mẫn Giác và là bạn thân của người khi ta còn trụ trì tại chùa Đại Từ.
“Râu bàn chải” nghe Takuan nói, nửa tin nửa ngờ nhưng cũng hơi ngán, đứng im có ý sợ. Cơn say đã bớt đi nửa.
Takuan được thể, tấn công luôn:
- Bây giờ đội trưởng hãy ngồi xuống. Nếu không tin, ngày mai ta sẽ đích thân đi với đội trưởng đến yết kiến đại gia và mang biếu đạnh danh một ít nếp than ta biết người rất thích. Thực ra ta cũng chẳng muốn, nhưng nếu gặp người, ta không thể nói dối. Nếu chuyện này đến tai đại gia, ta e ngươi sẽ phải tự xử vì đã tỏ ra bất lực trước nhiệm vụ.
Ngay từ trước, ta đã khuyên ngươi chớ có dọa ta nhưng các ngươi có bao giờ suy nghĩ sâu và lường hậu quả đâu. Nào, bỏ gươm xuống, ta có chuyện khác muốn nói.
Như bị thôi miên, viên đội trưởng dựng kiếm vào vách rồi ngồi vào chỗ cũ.
- Chắc đội trưởng không lạ gì binh pháp của Tôn Tử, nhà chiến lược nổi danh của Trung quốc. Binh gia cấp bậc như đội trưởng tất phải đọc qua. Vì thế ta chỉ lưu ý đội trưởng về một nguyên tắc rất quan trọng trong sách. Ta sẽ chỉ cách cho đội trưởng bắt Takezo mà không tốn thêm một người nào nữa và khỏi làm phiền đến dân làng.
Vì là nhiệm vụ của đội trưởng, hãy nghe cho kỹ.
Rồi quay sang Otsu, Takuan bảo:
- Otsu, rót cho đội trưởng chung rượu.
Viên đội trưởng trạc tứ tuần, hơn Takuan đến gần chục tuổi, nhưng trông nét mặt hai người lúc bấy giờ thấy rõ sức mạnh tinh thân không đợi tuổi tác. Những lời đanh thép của Takuan làm cho viên đội trưởng cảm thấy mình hèn mọn và tội lỗi. Bao nhiêu dáng điệu hung hăng trước tự nhiên biến mất.
- Thôi, không uống nữa. Ta tin ngươi là bạn của đại gia. Tha lỗi cho ta tội lỗ mãng khi nãy, ta sợ đã quá chén.
Takuan không nói thêm, chỉ khẽ bảo:
- Bỏ chuyện ấy đi. Bây giờ hãy bàn cách bắt Takezo, vì đó là chủ ý và cũng là cách bảo toàn danh dự cho đội trưởng, đúng thế không ?
- Đúng.
- Chắc đội trưởng không quan tâm mấy đến việc bắt Takezo sớm hay muộn. Muộn có lẽ tốt vì đội trưởng có thì giờ lưu lại chùa ăn uống thỏa thuê và ngắm Otsu.
- Thiền sư đừng nhắc đến chuyện ấy nữa, nhất là trước mặt đại gia.
Viên đội trưởng có vẻ thành khẩn.
- Được rồi, ta sẵn sàng giữ kín chuyện. Nhưng nếu ngày nào ngươi cũng cứ trưng tập dân làng đi làm một việc thật vô ích thì tai hại lắm. Không phải chỉ nông dân bị thiệt mà còn nhiều người khác nữa. Họ lo sợ không còn lòng nào làm việc. Chỉ vì ngươi đã dùng sai chiến thuật hay chẳng hiểu chiến thuật gì hết. Nếu ta không lầm thì có lẽ ngươi chưa đọc binh pháp ?
- Quả vậy !
- Đáng thẹn ! Đáng thẹn ! Đội trưởng mà kiến thức nông cạn như thế thật đáng thẹn. Vậy không nên bàn thêm nữa làm gì. Ta chỉ có một đề nghị:
ta sẽ thay ngươi bắt Takezo trong vòng ba ngày !
- Thầy mà bắt được Takezo ?
- Ngươi tưởng ta đùa chăng ?
- Không, nhưng ...
- Nhưng sao ?
- Kể cả quân tiếp viện từ Hameji đến và dân làng luân phiên lùng kiếm có đến hàng trăm người suốt gần tháng nay mà không bắt được Takezo ...
- Ta biết chuyện đó.
- Bây giờ mùa xuân, thức ăn trên núi không thiếu, Takezo có thiên thời, khó lắm ...
- Vậy ngươi đợi đến mùa tuyết hay sao ? Còn những tám tháng nữa ...
- Không ! Làm sao đợi được !
- Dĩ nhiên ! Vì vậy ta mới đề nghị thay ngươi để bắt hắn. Ta không cần ai giúp, một mình ta sẽ làm chuyện đó. Hay nghĩ cho cùng, có thể nhờ Otsu một tay cũng được.
- Thầy không nói giỡn đấy chứ ?
- Takuan này không phải lúc nào cũng nói giỡn. Ta tin là ngươi đã thất bại thảm hại cũng chỉ vì không biết cách dụng binh. Ta tuy là thiền sư nhưng cũng tự hào lý hội được phần nào ý của Tôn Tử. Nhưng với một điều kiện, nếu ngươi không thuận, ta sẽ không làm, để tùy ngươi ngồi chờ ngày tuyết rơi và cái đầu ngươi cũng rụng luôn thể.
- Hừ ... điều kiện gì ?
- Bắt được tên đó, phải để ta quyết định số phận hắn.
Viên đội trưởng lấy tay gãi râu, suy nghĩ:
- Thế là thế nào ?
Những ý tưởng hắn lộn xộn trong trí. Làm sao biết được nhà sư kia không gạt hắn ?
Y nói thì hùng biện lắm nhưng có thể là một thằng khùng hay bạn đồng lõa với Takezo và biết chỗ ẩn nấp của nó. Nhưng dù sao, cứ để y thi hành cái kế điên khùng ấy cũng chẳng hại gì. Biết đâu đến phút chót y chẳng bỏ cuộc ?
Nghĩ vậy, viên đội trưởng gật đầu:
- Được ! Nếu bắt được, thầy cứ định đoạt số phận hắn. Nhưng trong ba ngày, nếu không bắt được thầy tính sao ?
- Ta nguyện sẽ chịu chết treo trên cành cây đại bách sau chùa.
Hôm sau, mới sáng sớm, chú tiểu đã hớt hải chạy xuống bếp báo tin:
- Hỏng rồi ! Thầy Takuan mất trí rồi ! Thầy hứa đi bắt Takezo cho đội trưởng.
Mọi người trố mắt:
- Thật không ?
- Mô Phật. Vọng ngôn là phạm vào ngũ giới đấy, chú đừng nói bậy.
- Thầy Takuan làm sao mà bắt được Takezo !
Đa số mỉm cười không tin, nhưng cũng có người thì thầm lo ngại. Sư cụ lắc đầu, cho rằng miệng lưỡi chúng sinh quả là nhân duyên của nhiều nghiệp chướng.
Nhưng Otsu bối rối hơn cả. Mới hôm qua thư Matahachi đến đã làm nàng đau xót hơn là tin hắn chết. Nàng tin tưởng vào mối tình chung thủy của vị hôn phu và chấp nhận về làm dâu nhà Honiden, nhưng bây giờ ...bây giờ nàng biết than thở cùng ai ?

Acmagiro
01-02-2008, 12:30 PM
Trong cơn thất vọng, nàng chỉ thấy còn Takuan là niềm an ủi duy nhất, tia sáng cuối cùng mà nàng trông cậy. Hôm qua ở phòng dệt, Otsu đã khóc hết nước mắt và điên cuồng, cầm dao rạch nát tấm áo kimono mà trong những tháng gần đây, nàng đã để hết tâm hồn tạo nên. Nàng đương có ý định đâm cổ tự vẫn thì Takuan đến. Những lời an ủi và thương xót của nhà sư làm nàng nguôi ngoai đôi chút, cánh tay trìu mến vỗ vai nàng truyền một hơi ấm dễ chịu nàng tưởng như vừa được nghe những lời khuyên bảo của đấng Từ Bi.
Thế mà bây giờ thầy Takuan lại hứa làm chuyện điên rồ ấy ! Otsu lo sợ mất người bạn độc nhất còn lại. Nàng cảm thấy bối rối vừa vì sự an nguy của nhà sư vừa vì sự an nguy của chính nàng. Người bình thường không ai tin được Takuan và nàng có thể bắt được Takezo trong một thời gian ngắn như thế.
Hơn nữa, Takuan còn dám đến miếu thần linh thề với “Râu bàn chải” trước bàn thờ, cái đó mới thật liều lĩnh. Otsu trách Takuan quá táo bạo nhưng nhà sư chỉ mỉm cười, nói rằng chẳng có gì đáng quan ngại.
Ông có ý muốn giải thoát cho dân làng khỏi một gánh nặng, để cho đường xá an ninh hơn và nhất là chấm dứt những vụ giết người vô ích. So với số người khỏi bị Takezo tàn sát, mạng nhà sư thật chẳng đáng gì. Takuan muốn Otsu hiểu ý ấy, khuyên nàng đi nghỉ sớm để chiều hôm sau lên đường và mong nàng hết lòng tin tưởng nơi ông.
Otsu quá xúc động, không phản đối. Nếu cứ ở lại chùa, nàng còn bối rối lo âu hơn, thà đi với Takuan.
Hôm sau đã quá ngọ, nhà sư vẫn còn ngủ say trong góc phòng với con mèo nằm cạnh. Nét mặt tiều tụy, Otsu đi ra đi vào. Sư cụ và những người giúp việc trong chùa, ai cũng can Takuan, khuyên nên trốn đi, nhưng Otsu không hiểu sao, đã không thêm ý kiến gì khác.
Bóng chiều xuống nhanh. Khe núi hai bên ven sông Aida bắt đầu đổi màu đen sẫm. Con mèo nằm cạnh Takuan trở dậy vươn vai nhẩy ra khỏi cửa, và chẳng bao lâu sau, nhà sư cũng bước ra hiên ngoài.
- Otsu, ta sắp sửa đi thôi !
- Vâng. Con đã sửa soạn xong hết:
giầy cỏ, gậy, xà cạp, giấy dầu ... đủ cả.
- Ngươi còn quên một thứ.
- Gì vậy ? Chắc thầy muốn mang thêm vũ khí, thanh gươm hay cây giáo ...
- Không. Ta muốn mang thêm chút thức ăn. Ta đi bắt giặc mà ! Đâu phải đi du ngoạn !
- Ấy thế mà cần lắm đấy. Ta muốn con mang thêm gạo, đậu muối và chút sa-kê nữa. Có cái gì ngon ngon cứ mang theo. Cả nồi niêu. Nhớ gói thành gói lớn rồi kiếm cái gậy để ta với con khiêng.
Trời tối đã lâu. Những ngọn núi gần chùa đen như mực, cắt rõ trên nền trời xám đục. Dãy núi xa nhạt màu hơn, lẩn trong sương đêm mờ ảo. Tiết quý xuân, trời mát, gió thổi hiu hiu thoảng đưa mùi hương nồng ấm và ngai ngái của đồng nội. Những lá tre đã bắt đầu thấm ướt sương đêm. Takuan và Otsu càng đi sâu vào triền núi càng thấy quang cảnh như chìm trong một màn mộ vũ, lá rừng loang loáng dưới mưa xuân.
Hai thầy trò kẻ trước người sau gánh chiếc đòn tre treo lủng lẳng một bọc lớn, khấp khểnh theo nhau trên con đường khúc khuỷu.
- Tối nay trời êm đi du ngoạn thật đẹp, phải không Otsu ?
- Cũng chẳng đẹp lắm, nhưng chúng ta đi đâu vậy thầy ?
Takuan dừng chân, suy nghĩ:
- Ta chưa có định kiến. Có lẽ tiến tới chút nữa tốt hơn.
- Không sao. Đi thêm nữa cũng được.
- Con không mỏi chân chứ ?
- Không.
Tuy nói thế nhưng Otsu thật không thoải mái. Cây đòn cứng và nặng làm nàng phải đổi vai luôn.
- Lính đâu cả ấy nhỉ ? Từ nãy đến giờ đã lâu mà chẳng gặp ma nào !
- Chắc “Râu bàn chải” gọi họ về hết rồi, để mặt ta rảnh tay trong ba ngày. Thầy Takuan ! Thế kế bắt Takezo của thầy ra sao ?
- Yên tâm, chớ ngại. Ta có cách làm Takezo sớm muộn gì cũng phải ra mặt.
- Nếu hắn không ra thì sao ? Bị bao nhiêu người săn bắt bấy lâu nay, hắn tới đường cùng rồi ! Hắn chẳng nghe lời ai, thế nào cũng chống lại kịch liệt. Hắn còn khỏe lắm, cứ nghĩ đến con đã bủn rủn cả chân tay.
- Cẩn thận ! khéo ngã !
Tiếng Takuan đột nhiên làm Otsu giật mình khựng lại.
- Trời ơi, cái gì vậy ? Thầy làm con hết hồn !
- Không sao. Ta muốn lưu ý con đi cho cẩn thận. Takezo chưa thò mặt ra đâu, nhưng ở đây nhiều bẫy và bụi gai lắm, lỡ chân thì khốn.
- Lính giăng bẫy bắt Takezo hay sao ?
- Ừ. Nếu không chú ý, không chừng chính chúng ta lại rơi vào bẫy của họ.
- Thôi thầy đừng nói nữa, con sợ chẳng dám bước đâu !
- Nói vậy chứ nếu có sập bẫy, ta sẽ rơi trước, ngươi đừng theo ta là được !
Và Takuan quay lại cười hì hì.
- Thật vô ích, phí sức mà chẳng được việc gì.
Hai người lại lầm lũi đi. Một lúc sau Takuan hỏi:
- Hình như đường hẹp hơn trước phải không Otsu ? Đây là đâu rồi ?
- Con không biết, nhưng đã quá đồi Sanumo lúc nãy. Đây chắc là Tsujinohara.
- Như vậy ta phải đi cả đêm chắc ?
- Con có biết thầy định đi đâu đâu ? Sao thầy lại hỏi con ?
- Hay ta đứng lại nghỉ chân chút đã ?
Để bọc vải và đòn tre xuống đất xong, Takuan men đến gần một ghềnh đá.
- Thầy đi đâu thế ?
- Tiểu.
Hàng chục trượng dưới chân nhà sư, giòng sông Aida cuồn cuộn chảy, nước đổ như thác từ mỏm đá này đến mỏm đá khác. Takuan vừa đi tiểu vừa ngửa mặt lên trời đếm sao, thấy trong lòng lâng lâng khoái hoạt.
- Chà ! Thật dễ chịu ! Không biết ta đang hợp nhất với vũ trụ hay là vũ trụ đang hợp nhất với ta ?
- Thầy Takuan ! Sao lâu thế ?
Takuan trở ra, dáng trầm ngâm:
- Trong khi tiểu, ta ôn lại kinh Dịch. Bây giờ đã rõ đường đi, thật sáng như ban ngày.
- Thầy mang theo kinh đấy à ?
- Ngươi dốt quá ! Ta nói kinh Dịch trong lòng chứ đâu phải kinh sách ! Đứng ở ghềnh đá ngoài kia, xem kỹ thế đất, chỗ nước chảy và chiều trời, ta đã biết chỗ nấp của Takezo, và có thể khẳng định “đến chỗ ấy” !
Rồi Takuan lấy tay chỉ mỏm núi.
- Thầy muốn đến mỏm Takateru hả ?
- Ta không biết tên. Nhưng chỗ mỏm núi ở lưng chừng có đám rừng thưa ấy !
- Vâng. Chỗ đó là bãi hoang Itadori.
- Vậy hả ? Bãi đó cũng có tên ư ?
Khi hai người tới triền núi mới thấy rõ bãi hoang thực ra là một đồng cỏ trải dài thoai thoải về phía đông nam, từ đấy có thể bao quát cả vùng lân cận. Các trại chủ quanh vùng hay thả bò, ngựa đến ăn cỏ, nhưng tối hôm ấy chẳng thấy bóng một sinh vật nào, chỉ có gió đêm thổi nhẹ làm xào xạc rặng lau thưa.
- Ta hại trại ở đây thôi ! Chờ địch quân rơi vào tay ta như Khổng Minh tiên liệu Tào Tháo chạy vào đường hẻm Hoa Dung vậy !
Đặt gánh và xếp dọn xong, Otsu hỏi:
- Bây giờ phải làm gì, thầy ?
- Ngồi xuống đây chứ làm gì !
- Thầy nói lạ. Ngồi đây làm sao bắt được Takezo ?
- Giăng lưới tất bắt được chim, cần gì bay mới bắt được !
- Thế lưới đâu ? Chắc thầy bị chồn hớp hồn rồi !
- Đốt lửa lên con ạ ! Nếu ta bị chồn hớp hồn thì có lửa, chắc nó sẽ chạy mất, không sao !
Hai thầy trò nhặt củi khô, chụm lại nhóm lửa. Có việc làm và nhìn ngọn lửa bốc cao, Otsu tự nhiên thấy phấn khởi:
- Ấm hơn phải không thầy ? Ở trong rừng mà cứ phải chui rúc chỗ tối tăm, chịu sao nổi ! Nhưng ngộ mưa thì sao ?
- Gần đây ta thấy có cái hang nhỏ có thể đến trú mưa được.
- Thầy nói đúng. Có lẽ Takezo chọn chỗ này vì nhiều hang hốc, dễ trốn tránh.
- Dĩ nhiên rồi ! Nó không khôn lắm nhưng cũng biết cách đụt mưa chứ !
Otsu đăm chiêu:
- Không hiểu sao dân làng ghét hắn đến thế ?
- Một phần do giới cầm quyền đẩy họ. Dân quê vốn chất phác, quan trên bảo sao thì làm vậy. Nếu ra chiếu chỉ bắt họ phải từ bỏ người thân trong nhà, chắc họ cũng làm.

Acmagiro
01-02-2008, 12:31 PM
- Như thế là họ chỉ nghĩ đến bản thân mình thôi hay sao ?
- Thực ra họ chẳng có tội gì. Họ thấp cổ bé miệng, không có quyền hành, mình cũng phải rộng lượng cho đó là sự đương nhiên, một phương cách để tự vệ. Họ chỉ ước có một điều:
được yên ổn làm ăn không bị ai quấy rầy.
- Thế binh gia Samurai làm gì mà phải náo động lên vì một chuyện nhỏ, không đáng kể như chuyện cá nhân Takezo ?
- Takezo tượng trưng cho sự hỗn loạn, phá hoại trật tự của phái Samurai cầm quyền. Sau trận Sekigahara, hắn bị ám ảnh bởi mặc cảm bị ruồng rẫy, bị săn đuổi như thú vật. Hắn đã phạm vào một lỗi lầm lớn là phá hàng rào cản ở biên giới. Khôn ra thì nên tìm một kế gì đó mà lẩn trốn, hoặc cải trang, hoặc lợi dụng bóng tối ban đêm, mưa gió ... cách gì cũng được, nhưng đừng dùng vũ lực. Takezo không nghĩ thế, hắn đánh tên lính gác rồi xuống tay giết thêm nhiều người nữa, thành ra chuyện nọ kéo chuyện kia, bây giờ như cục tuyết lăn từ núi xuống, càng ngày càng lớn. Mà hắn vẫn tưởng phải làm thế mới cứu được mạng sống của hắn. Tựu trung cũng chỉ vì hắn cạn nghĩ.
- Thầy cũng ghét Takezo à ?
- Ghét sự ngu xuẩn của hắn. Nếu ta nắm quyền chính, ta sẽ cho hắn nếm mùi hình phạt nào nặng nhất. Hắn chẳng khác gì con thú dữ. Làm nhà cầm quyền, phải biết duy trì trật tự xã hội, nếu không, sao bảo vệ được dân lành, nhất là trong thời buổi tao loạn như thế này !
- Con tưởng thầy tốt, không quan tầm gì đến luật lệ, hóa ra trong thâm tâm, thầy khắc nghiệt quá lắm !
- Sao ta lại không quan tâm đến luật lệ ? Khuyến thiện trừng ác là cần, mà cũng vì lý do ấy chúng ta mới đến đây chứ !
Đột nhiên Otsu hạ giọng:
- Có tiếng chân bước sau gốc cây.
- Tiếng chân bước ?
Takuan ngạc nhiên, nghe ngóng rồi chạy ra phía gốc cây, lúc sau trở lại cười ha hả:
- Không phải người đâu ! Khỉ đấy !
Và lấy tay chỉ một con khỉ mẹ đương bế con đánh đu trên cành cây.
Otsu thở mạnh, ngồi xuống:
- Thế mà con tưởng ... Sợ quá !
Rồi hai thầy trò lại ngồi yên, mắt đăm đăm nhìn lửa cháy bập bùng nhảy nhót trên đám củi khô. Họ bỏ thêm củi vào cho lửa bốc to hơn.
- Con đương nghĩ gì thế, Otsu ?
- ...
- Ta ít nói, nhưng thật ra cũng rất sợ phải độc thoại.
Khói củi làm Otsu cay mắt. Nàng ngửa mặt nhìn trời đầy sao lấp lánh, khẽ thở dài:
- Tạo vật thật kỳ diệu, thầy nhỉ ! Những vì sao trên kia, trong khoảng không vô tận... Không, con lầm, không phải khoảng không. Vũ trụ thật tròn đầy, ôm ấp ta, phải không thầy ? Trông những ngôi sao lấp lánh, con thấy chúng như đang chuyển động và vũ trụ cũng chuyển động theo. Và thầy với con trong vũ trụ bao la này là hạt bụi, hạt bụi nhỏ nhoi do một đấng quyền năng nào điều khiển mà con không thấy được. Đúng lúc này, ngồi đây, con cảm thấy số phận con như đang bị xoay vần từng chút, từng chút. Ý nghĩ con bị quay cuồng không biết đâu là nhân đâu là quả nữa !

Takuan nghiêm nghị:
- Otsu, con không nói thật. Con tuy có những ý tưởng ấy nhưng ta biết con còn nghĩ đến một chuyện khác.
Otsu ngồi yên không đáp.
- Xin lỗi, ta hơi tò mò. Ta đã đọc hai lá thư của con.
- Ý ! Thầy đọc rồi à ? Hồi nào vậy ? Dấu niêm còn nguyên mà !
- Ta đọc sau khi ở phòng dệt ra. Vì con không muốn giữ nữa nên ta đã bỏ chúng vào tay áo để đọc chơi lúc rảnh.
- Xấu quá ! Sao thầy lại có thể làm việc ấy được, nhất là để đọc chơi lúc rảnh.
- Xấu hay không xấu, không quan hệ. Bây giờ ta đã biết tại sao con khóc đến thế.
Nhưng thôi, đó là may cho con, thà là chuyện xảy ra như vậy. Con thử nghĩ coi.
- Thầy bảo nghĩ gì ?
- Matahachi là tên vô trách nhiệm. Nếu con lấy nó, thế nào cũng có ngày nó bỏ con, bấy giờ con phản ứng ra sao ? Đừng nói, ta biết. Con sẽ thất vọng nhảy xuống ghềnh đá mà chết. Bây giờ xong rồi, ta mừng rằng chuyện đó kết thúc như vậy.
- Đàn bà nghĩ khác, thầy ạ.
- Nghĩ thế nào ?
- Lúc bấy giờ con giận lắm, muốn hét to cho hả.
Nàng không dằn được cơn tức bực, nghiến răng cắn lấy áo cho khỏi khóc.
- Con đã thề thế nào cũng phải gặp Matahachi. Con sẽ mắng vào mặt và nói cho hắn biết con nghĩ sao về hắn. Cho đáng đời và đáng với dã tâm của con mẹ Oko.
Otsu bật lên khóc nức nở. Takuan nhìn nàng thương hại, lẩm bẩm:
- Đã bắt đầu rồi đấy phải không ?
Mắt đăm đăm nhìn ngọn lửa, nhà sư thong thả nói:
- Otsu, ta thực tâm hằng mong con tránh được mọi nỗi đau thương và dối trá, để bản chất ngây thơ và nhu hòa của con được nguyên vẹn trên những bước đường con đi ở đời này. Nhưng cơn gió phũ phàng của định mệnh hình như không muốn buông tha con và đã lay chuyển con như đã lay chuyển thân phận của nhiều người khác !
- Takuan ! Thầy Takuan, con khổ lắm !
Nàng gục đầu vào hai tay, thổn thức.

Acmagiro
01-02-2008, 12:32 PM
Sáng hôm sau, mặt trời vừa ló dạng, hai thầy trò rút vào hang nằm nghỉ sau một đêm canh thức. Otsu mệt mỏi vì khóc nhiều. Đêm thứ hai, họ lại ra chỗ trống đốt lửa, rồi ban ngày lại trở về hang. Họ không thiếu thực phẩm, nhưng Otsu tỏ vẻ băn khoăn không biết Takuan dùng cách gì để bắt Takezo. Takuan, trái lại, vẫn điềm nhiên, không nóng nảy khi không thấy phạm nhân. Đêm thứ ba, hai thầy trò lại đốt lửa canh thức như những đêm trước.
Otsu không kiên nhẫn được nữa:
- Thầy Takuan, đêm nay là đêm chót. Mai hết hạn rồi đấy !
- Hừ ... đến hạn rồi à ?
- Thầy định sao chứ ?
- Định gì ?
- Thì thầy biết đấy. Thầy hẹn đội trưởng ba ngày ...
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên ...
- Nếu ta không dẫn được Takezo về ...
- Ta biết chứ. Ta sẽ tự treo cổ trên cây đại bách. Nhưng yên chí, ta chưa sẵn sàng chết đâu !
- Vậy sao thầy không đi tìm Takezo ?
- Nếu ta đi tìm, biết có thấy hắn không ? Núi non trùng điệp thế kia ...
- Con chẳng hiểu được thầy. Nàng cười. Nhưng con cũng cảm thấy vững tâm ngồi đây mặc cho chuyện ra sao thì ra.
Rồi cười to hơn:
- Có lẽ con cũng điên theo thầy mất !
- Ta đâu có điên. Ta chỉ cả gan một chút. Quan trọng là ở đó !
- Chỉ vì cả gan mà thấy dám làm chuyện này đấy ư ?
- Đúng vậy.
- Chỉ vì cả gan thôi ! Thật chẳng đáng khích lệ chút nào. Con lại tưởng thầy có kể gì hay lắm chứ !
Otsu thất vọng ra mặt. Nàng tin tưởng vào Takuan, không ngờ sự thể lại xẩy ra như vậy. Hay là nhà sư này điên thật. Nhiều khi có những người điên làm cho người khác tưởng họ là bậc kỳ tài. Takuan có thể vào hạng này lắm. Và Otsu bắt đầu nghi hoặc, tìm cách tự cứu.
Trong khi đó, nhà sư vẫn điềm nhiên ngồi nhìn lửa cháy. Một lúc sau ông mới lẩm bẩm một mình:
- Khuya rồi nhỉ ?
- Vâng, khuya rồi. Chẳng bao lâu nữa thì sáng !
Otsu cay đắng thêm, và nàng tự trách sao lại ngu xuẩn đi tin ông sư điên khùng này.
- Kỳ thật !
- Thầy nói gì nữa thế ?
- Ta đột nhiên có cảm giác Takezo sắp tới.
- Chắc hắn quên giờ hẹn với thầy đấy mà !
Không thấy Takuan mỉm cười, Otsu hối hận, dịu giọng:
- Thầy chắc hắn tới không ?
- Dĩ nhiên là cái chắc.
- Tại sao hắn ngu nhảy vào bẫy như vậy ?
- Không phải hắn ngu. Đó chỉ là bản chất con người. Lòng người vốn yếu chứ không mạnh. Bản chất con người không chịu được cô đơn, nhất là khi bị bao vây tứ phía. Có thể con cho là tự nhiên, nhưng ta sẽ lấy làm lạ nếu hắn không mò đến sưởi ấm bên đống lửa này.
- Thầy mong thế thì tưởng thế chứ. Biết đâu hắn không ở cách xa đây hàng chục dặm.
- Không, không phải ta mong thế thì tưởng thế đâu. Đây không phải là ý kiến ta nhưng là ý kiến của một bậc thầy về chiến thuật.
Nghe Takuan nói một cách tin tưởng như thế, Otsu cũng đỡ lo lắng.
- Ta nghĩ rằng Takezo cũng chỉ quanh quẩn đâu đây thôi, nhưng hắn chưa biết chúng ta là thù hay bạn. Hắn đang phân vân không biết nên tiến hay lùi. Ta đoan chắc với con rằng giờ phút này, hắn đương nấp ở đâu đó trong bóng tối để nhìn trộm chúng ta đấy. À, nghĩ ra rồi. Con đưa ta mượn cây sáo.
- Cây sáo trúc của con ?
- Ừ, cho ta mượn thổi một bài.
- Không được. Không bao giờ con cho ai mượn.
- Sao vậy ?
Otsu lắc đầu:
- Con không nói lý do được !
- Để ta thổi một bài, có sao đâu ? Sáo càng dùng nhiều càng tốt, ta không làm hỏng đâu !
- Không !
Và nàng đưa tay giữ chặt chiếc túi đựng cây sáo giắt ở thắt lưng.
Takuan ngạc nhiên. Ông biết Otsu quý cây sáo lắm, đi đâu cũng mang theo, nhưng không ngờ nàng lại nhất định không cho ông mượn. Nhà sư phải năn nỉ:
- Ta không làm hỏng sáo của con đâu. Trước đây ta đã dùng qua hàng chục chiếc; ta chỉ mượn một lúc thôi.
- Không.
- Nhất định ?
- Nhất định.
- Cô này bướng quá !
- Thì con bướng thế đấy !
Takuan đành chịu thua:
- Vậy con thổi ta nghe một bản. Chỉ một bản thôi.
- Cũng không được.
- Tại sao thế ?
- Vì ... vì cứ thổi sáo thì con lại xúc động phát khóc. Con không thể nào khóc mà thổi sáo được !
Takuan ngồi yên, dáng đăm chiêu suy nghĩ.
- Hừ ...

Cảm thông sự trống trải vô cùng trong tâm hồn những đứa trẻ côi cút, nhà sư càng thêm thương xót Otsu. Những đứa con côi như thế suốt đời bị đà y đọa trong một ước mơ không bao giờ đạt:
tình yêu thương của cha mẹ chúng hằng thiếu thốn. Tuy không biết cha mẹ là ai nhưng Otsu không lúc nào là không nghĩ đến. Cây sáo trúc là kỷ vật độc nhất cha mẹ nàng để lại, hình ảnh của những người thân nàng chưa từng biết mặt.
Khi mới mở mắt chào đời, Otsu đã như con mèo hoang, bị bỏ rơi trước thềm chùa Shippoji với một cây sáo trúc đặt nằm cạnh. Cây sáo là sợi dây liên lạc duy nhất giúp nàng nhận diện được người thân, hơn thế nữa, nhận được tiếng của song thân mà nàng không hề biết.
“Thảo nào mỗi khi thổi sáo, Otsu lại khóc. Thảo nào nàng không cho ai mượn sáo!”. Và Takuan lại càng thêm thương cảm.
Đêm thứ ba trong rừng, lần đầu tiên, vầng trăng trong như ngọc hiện ra, rực rỡ trên nền trời cao. Đàn ngỗng trời thiên di về phương nam trong mùa thu, nay thấy tiết xuân ấm áp, đã bắt đầu trở lại, tiếng kêu đồng vọng trên những tầng mây xa.

Acmagiro
01-02-2008, 12:32 PM
Takuan chợt tỉnh giấc mơ. Ông khẽ gọi Otsu:
- Lửa sắp tàn rồi, con bỏ thêm củi vào ! Kìa, con sao thế ?
Otsu không đáp.
- Con khóc đấy ư ?
Vẫn không có tiếng trả lời.
- Ta rất ân hận đã gợi lại quá khứ làm con đau lòng. Ta không có ý ấy.
- Không sao đâu thầy. Đáng lẽ con chẳng nên bướng như thế mới phải. Đây, thầy cầm lấy sáo mà thổi.
Nàng lấy cây sáo trong bọc ra, đưa cho Takuan. Cây sáo được gói trong một cái bao gấm cũ, đường chỉ và dây đeo đã sờn nhiều chỗ, nhưng tất cả vẫn còn mang một vẻ thanh lịch tàn tạ.
Takuan hỏi:
- Ta mở được không ?
- Vâng, thầy cứ mở. Bây giờ chẳng còn gì quan trọng nữa.
- Con thổi đi. Để con thổi ta ngồi đây nghe có lẽ hơn.
Nhà sư cúi đầu, tay bó gối, yên lặng. Otsu khiêm tốn:
- Con thổi không hay lắm, nhưng xin cố gắng, thầy đừng cười.
Nàng trịnh trọng quỳ xuống cỏ, xốc lại cổ áo, đặt cây sáo trước mặt rồi kính cẩn cúi đầu. Takuan ngồi yên như tượng, tâm hồn ông để tận đâu đâu, như tan biến vào không gian cô tịch. Trong cái hun hút của đêm sâu, hình ông ngồi đó mà thật chẳng khác gì phiến đá ở sườn non.
Đầu hơn nghiêng, Otsu đưa cây sáo trúc lên môi. Bây giờ nàng là hiện thân của nghệ thuật, quyền uy và chững chạc. Nàng khẽ thấm ướt miệng sáo rồi quay lại Takuan nghiêng đầu xin lỗi một lần nữa. Nhà sư trang trọng đáp lễ theo nghi thức.
Trong bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya, tiếng sáo bắt đầu nổi lên, trong vắt. Những ngón tay búp măng thoăn thoắt nhẹ nhàng nhảy múa trên ống trúc. Takuan thấy tâm hồn phiêu diêu theo điệu sáo bay vút tận trời xanh, vương vấ n cùng mây ngàn trên những đỉnh cao sơn thanh khiết. Khi trầm, tiếng sáo tựa nước chảy qua khe, khoan như gió thoảng rừng thông, mau như chim ca ríu rít, tiếng nọ theo tiếng kia cùng nhau hòa hợp gây thành một âm hưởng mê hồn, vừa như ca ngợi niềm hoan lạc, vừa như than thở nỗi phù du của cuộc sống.
Takuan ngồi yên nghe sáo, ngơ ngẩn xuất thần. Ông mường tượng sống trong huyền thoại về hoàng tử Hiromasa đương thổi sáo dưới trăng trước một cổng chùa ở Kyoto bỗng nghe tiếng địch đâu đâu họa lại. Hoàng tử lần theo điệu nhạc tìm đến thì thấy một người cũng đang say mê đắm chìm trong tiếng nhạc. Hai người đổi sáo cho nhau và cùng hợp tấu đến khi trời sáng. Sau biết ra thì tri âm của ông chính là một ngạ quỷ biến thành người.
“Đến giống quỷ xấu xa còn cảm thông được với âm nhạc huống chi con người có thất tình, làm sao mà cưỡng lại được tiếng sáo của Otsu”. Ông muốn khóc nhưng mắt vẫn khô.
Lửa lụi dần, chẳng ai để ý. Người thổi sáo cũng như người nghe đều thả hồn theo âm thanh réo rắt, thể xác đó mà lòng tận đâu đâu, hòa đồng cùng với cỏ cây trời đất.
Đêm càng khuya, tiếng sáo càng tha thiết. Nàng gọi ai trong đêm tối ? Cha nàng ?
Mẹ nàng ? hay đã xen lẫn trong tiếng sao bi thương, nỗi lòng cay đắng của một thiếu nữ bị ruồng bỏ đương tuổi xuân thì ?
Otsu say sưa với âm nhạc, chìm ngập trong niềm xúc cảm của chính mình. Mặt nàng ửng đỏ và mồ hôi rịn ra quanh chân tóc. Nước mắt chảy ròng ròng, nàng cố nén để không bật ra tiếng nức nở.
Đột nhiên, có tiếng động trong bụi cây gần đó, chỉ cách đống lửa chừng năm, sáu thước, nghe như tiếng chân thú. Takuan ngẩng đầu lên nhìn chăm chú rồi giơ cao tay lên như chào đón.

Acmagiro
01-02-2008, 12:33 PM
- Này anh kia ! Trong rừng lạnh lắm, hãy đến đây sưởi ấm và trò chuyện cho vui.
Otsu giật mình, đặt sáo xuống:
- Thầy Takuan, thầy nói lảm nhảm gì thế ?
Takuan chỉ bóng người đang bò tới:
- Takezo đến từ lâu ngồi nghe con thổi sáo, thấy không ?
Otsu quay lại, kêu một tiếng khẽ. Takezo giật mình nhỏm dậy, chạy biến vào trong rừng. Takuan có cảm tưởng màng lưới ông khổ công xếp đặt vừa bị đứt, con cá sắp bắt được tuột khỏi tầm tay. Ông đứng bật dậy, gọi lớn:
- Takezo ! Đứng lại !
Giọng ông có một cái gì uy mãnh khiến Takezo đang chạy phải dừng ngay lại, ngơ ngác. Hắn nhìn ông, nghi hoặc. Nhà sư khoanh tay trước ngực, lặng yên. Cả hai nhìn nhau không chớp, tưởng cùng hòa chung một nhịp thở. Dần dần mắt Takuan dịu xuống, những nét nhăn trên mặt báo hiệu nụ cười thân thiện. Ông dang hai tay ra, hiền từ gọi:
- Nào, đến đây, con !
Nghe tiếng gọi, Takezo chớp mắt, vẻ ngạc nhiên còn như đọng trên khuôn mặt đen sạm và sợ sệt của hắn.
- Đến đây, chúng ta ngồi nói chuyện cho vui.
Yên lặng, phân vân.
- Có cơm đây, có thức ăn ngon lại cả rượu nữa. Chúng ta là bạn con mà ! Đến bên lửa này sưởi ấm đi con.
Vẫn im lặng.
- Takezo ! Con đã phạm vào một điều lầm lẫn quan trọng. Ở làng có lửa ấm, có cơm, có rượu và tình người. Sao lại dại dột cứ khăng khăng vất vưởng trong cõi u minh con tự tạo ra như vậy ! Con nhìn mọi người xung quanh sai lạc cả rồi ! Nhưng thôi, ta chẳng bàn luận thêm nữa. Tình trạng con bây giờ thật không phải là lúc để nghe lời phải trái. Lại đây con, ngồi nghỉ cho đỡ mệt. Otsu bỏ thêm khoai vào nồi cháo đi, ta cũng đói rồi.
Otsu gây cho lửa bốc cao hơn, thêm khoai vào cháo, còn Takuan lấy vò rượu hâm nóng. Cảnh êm đềm, ấm cúng làm Takezo yên lòng. Hắn nhích lại gần từng tấc, từng tấc. Khi đến bên đống lửa, hắn dừng lại, rụt rè chưa quyết.
Takuan thúc giục:
- Ngồi xuống đây con !
Takezo sợ hãi, nhưng cũng ngồi xuống. Otsu tránh không nhìn người bạn cũ của vị hôn phu của mình ; nàng có cảm tưởng như ngồi bên một con thú.
Takuan mở vung nồi cháo:
- Có lẽ được rồi đấy !
Rồi lấy đũa gắp khoai, thổi ngược bỏ vào miệng.
- Chà ! Ngon quá, vừa chín tới. Takezo “làm” một miếng không ?
Takezo gật đầu. Lần đầu tiên hắn cười, nhe hàm răng trắng nhởn. Otsu múc khoai ra bát đưa hắn. Hắn vừa thổi vừa húp xì xụp, tay run rẩy, răng đánh vào thành bát lập cập. Hắn đói quá rồi, không sao kềm chế được lòng ham muốn, trông thật tội nghiệp. Takuan để đũa xuống.
- Ngon đấy chứ, con ? Uống chút sa-kê nhé ?
- Không, không uống.
- Con không thích rượu à ?
- Có, nhưng bây giờ con chưa muốn uống.
Bao nhiêu lâu ở trong rừng, chịu đói khát, hắn sợ rượu làm hắn bệnh. Một lúc sau, hắn lễ phép hỏi:
- Cám ơn thầy và Otsu.
- Con ăn đủ chưa ?
- Thưa đủ.
Takezo đưa trả bát cho Otsu và hỏi:
- Cô lên đây làm gì ? Đêm trước tôi cũng thấy cô đốt lửa.
Câu hỏi đột nhiên làm Otsu ngẩn người, chẳng biết đáp ra sao. Mau mắn, Takuan đỡ ngay:
- Thật ra bọn ta đến bắt ngươi đấy !
Takezo không tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng hơi lo lắng, hết nhìn Takuan lại nhìn Otsu. Nhà sư thấy đã đến lúc phải hành động. Ông nhìn thẳng vào mặt Takezo, nghiêm giọng:
- Con nghĩ cho kỹ, sớm muộn gì rồi con cũng bị bắt. Luật của đại gia là luật, mà luật của Phật gia cũng là luật, nhưng Phật pháp nhân ái, từ bi ...
- Không, không ... Takezo lắc đầu.
Takuan vẫn dịu dàng tiếp tục:
- Con hãy nghe ta. Ta biết con nhất định kháng cự đến cùng, nhưng vấn đề là con có thắng được hay không ...
- Thầy nói sao ?
- Ta muốn nói liệu con có kháng cự được luật lệ của cả làng, cả tỉnh, và điều này quan trọng, liệu có thắng được chính lòng con không ?
Nước mắt lưng tròng, Takezo nhăn mặt, đau đớn:
- Con biết sẽ thua, sẽ bị giết như một con vật, nhưng con thề trước khi chết, sẽ hạ cho bằng được thằng đội trưởng và tụi lính. Giết càng nhiều càng tốt, con thù chúng nó.
- Thế còn chị con thì sao ?
- Ơ ...a..a ...
- Ogin đấy ! Chắc con biết chị con hiện giờ đang bị giam tại đồn Hinagura ?
Nghe nhắc đến Ogin, Takezo thấy bao nhiêu hào khí như tiêu tan hết.
- Con phải biết Ogin đã hết lòng với con như thế nào ! Lại còn bổn phận con phải giữ thanh danh và nối dõi giòng Shinmen nữa chứ. Con quên rằng con thuộc hệ phái Hirato trong đảng tộc Shinmen, một đảng tộc danh giá hay sao ?
Takezo lấy tay che mặt, đầu gục xuống. Hắn khóc, hai vai gầy guộc rung động. Bị khích động vì quá khứ vinh hiển của giòng họ, hắn tự giận mình, nhưng không biết làm sao, chỉ khóc. Những giòng nước mắt cay đắng chảy dài trên má, hắn lắc đầu:
- Con biết, nhưng giờ phải làm sao ?
Takuan nắm tay đấm một quả như trời giáng vào mặt Takezo làm hắn ngã ngửa.
- Đồ ngu ! Đồ phản bội ! Đồ vô ơn ! Mày không có bố mẹ để dạy mày, ta sẽ dạy mày ! Mày phải sống, tu tâm dưỡng tính để ra người xứng đáng với tổ tiên ! Này, hãy nhớ lời ta !
Và Takuan bồi thêm một quả đấm nữa. Takezo không phản ứng, chỉ khóc.
- Có đau không con ?
- Đau !
- Nếu biết đau thì vẫn còn nhân tính đó. Otsu, đưa sợi dây đây, ta trói lại. Đây không phải là sợi dây của thế quyền mà là sợi dây trắc ẩn của Phật pháp. Con đã hiểu ý ta. Còn con, Otsu, từ nay con không phải thương xót và sợ hắn nữa.
Takezo nằm yên dưới đất, mặc cho Takuan trói. Nếu muốn, hắn có thể vùng dậy dễ dàng, hất Takuan bắn đi như một cọng rơm, nhưng không hiểu một sức mạnh vô hình gì đã giữ hắn lại không cho phản ứng.

Acmagiro
03-02-2008, 10:57 AM
QUYỂN 1 : Chi No Maki
CHƯƠNG 6
CÂY ĐẠI BÁCH



Trời còn tối mà chuông chùa Shippoji đã rộn rã đổ hồi vang dội khắp nơi, lan đến tận khu rừng già chân núi. Dân làng giật mình tỉnh giấc. Hôm nay, ngày chót Takuan phải dẫn phạm nhân về nên ai cũng nóng lòng ngóng đợi. Mọi người tự hỏi không biết nhà sư có làm được như lời đã hứa không, thì có tin đến.
- Takezo bị bắt ! Takezo bị bắt !
Một đồn mười, mười đồn trăm, câu Takezo bị bắt truyền từ miệng người này đến miệng người khác nhanh như mồi lửa cháy.
- Ai bắt Takezo ?
- Thầy Takuan.
- Thật hả ? Thầy Takuan giỏi quá, chắc có võ !
Rồi họ sầm sập chạy lên chùa. Đã thấy phạm nhân bị trói chặt vào lan can trước tiền đình đại sảnh, xung quanh người bu đông nghịt, ồn ào bàn tán. Có người miệng há hốc, mắt tròn xoe, đứng trân trân nhìn Takezo như nhìn ma quỷ hiện hình. Có người nuốt nước bọt.
Takuan ngồi trên thềm đá cao, chống khuỷu tay ra sau lưng, trầm ngâm không nói một lời. Lát sau, khi dân làng đến đông, ông mới khoan thai đứng dậy, giọng sang sảng:
- Xin yên lặng ! Kể từ nay, thế là chúng ta có thể yên tâm lo việc đồng áng. Binh gia sẽ không còn đóng ở làng này nữa !
Tiếng hoan hô vang dậy không ngớt. Đối với dân quê chất phác, Takuan giờ đây là một anh hùng, một hiệp sĩ đã cứu vớt và che chở họ. Nhiều người đến trước mặt ô ng cúi đầu tỏ vẻ biết ơn. Có người sụp lạy hoặc tranh nhau đến gần sờ tay, sờ gấu áo.
Takuan bối rối, ông không quen với sự sùng kính cá nhân thái quá như vậy nên ngượng nghịu thấy rõ. Rẽ đám đông, ông chắp tay trước ngực, ấp úng:
- Mô Phật ! Xin quý thí chủ giữ trật tự, bần tăng có điều quan trọng muốn nói.
Mọi người đứng giãn ra xung quanh, yên lặng.
Takezo trở về là do thiên định, bần tăng thật chẳng dám nhận công lao.
Luật trời như vậy, mọi người chúng ta ai cũng phải theo, ai trái tất sẽ bị trừng phạt !
- Không, không phải ! Thầy quá khiêm ! Chính thầy bắt được nó mà, đâu phải luật trời gì !
- Chúng tôi biết công thầy !
- Chúng tôi cảm ơn thầy đã bắt nó !
Takuan đỏ mặt:
- Thôi cũng được. Nếu quý thí chủ muốn cám ơn, bần tăng xin nhận, nhưng luật pháp thì phải theo. Bây giờ việc đã xong, xin quí thí chủ giúp cho một tay.
Đám đông hơi ngạc nhiên, tò mò hỏi:
- Giúp gì vậy ?
- Giúp việc này:
Takezo đã bị bắt, giờ phải làm gì ? Bà con chắc rõ nếu không bắt được hắn, bần tăng sẽ phải treo cổ trên cây đại bách, ngược lại nếu bắt được hắn, bần tăng có quyền làm gì hắn thì làm ...
- Có, chúng tôi có biết chuyện đó !
- Vậy bây giờ phải làm gì ? Takezo kia kìa, hắn bị trói chặt rồi, bằng xương thịt hẳn hoi chứ không phải hồn ma của hắn đâu ! Cũng chẳng có gì ghê gớm lắm ! Nói cho đúng ra, hắn đã tự đến nộp mình, không kháng cự. Giờ ta tha hay giết ?
Tiếng bàn tán xầm xì. Đa số phản đối ý kiến tha Takezo. Một người mạnh miệng:
- Phải giết ! Đồ vô tích sự ! Tội nó nặng lắm ! Thả ra, dân làng sẽ khốn khổ với nó!
Takuan im lặng, đảo mắt nhìn quanh. Tiếng ồn ào nổi lên, rồi những người đứng phía sau la lớn:
- Giết ! Giết !
Bỗng một bà già ở đâu hớt hải chạy lại, rẽ đám đông, hích bên nọ, gạt bên kia, chen lấn lên trước. Khi tới được hàng đầu, Cụ Osugi, vì bà ta chính là Cụ Osugi, vừa thở hổn hển vừa trừng trừng nhìn vào mặt Takezo. Bà cầm cây gậy dâu, quay lại nhìn dân làng, mặt đằng đằng nộ khí:
- Không được ! Không giết ngay được ! Phải cho nó đau đớn ê chề rồi hãy giết !
Coi kìa ! Trông bộ mặt nó, thật gớm ghiếc !
- Bà đến gần Takezo giơ cao cây gậy vụt lấy vụt để xuống thân hình tiều tụy của hắn.
- Đồ khốn kiếp ! Đồ đốn mạt ! Này ...này ...
Những ngọn roi liên tiếp giáng xuống đầu, xuống mình Takezo như mưa bấc làm hắn đau đớn, dẫy dụa. Hắn không kêu la, còn cụ Osugi thì mệt nhoài, thở hổn hển. Đánh chán tay, bà quay sang nhìn Takuan:
- Thằng này làm con lão hư hỏng !
Rồi giọng run lẩy bẩy, đứt quãng, bà tiếp:
- Matahachi bỏ đi, lấy ai nối dõi tông đường cho lão ?
- Mô Phật ! Matahachi đâu phải là đứa tốt lành gì, sao bà không để cho rể kế tự ?
Bà ngó Takuan trân trân:
- Sao nhà thầy lại nghĩ về con lão như thế ?
Tủi thân, bà khóc:
- Ai nghĩ sao, mặc ! Con ta ... nó chẳng phải là đứa xấu !
Nhưng cơn giận kéo đến lại làm cho bà đột nhiên khác hẳn, liều lĩnh và ương ngạnh. Bà trỏ Takezo:
- Mày làm hư nó ! Nó trở nên vô lại cũng vì mày. Tao có quyền băm vằm mày rạ..
Rồi quay lại đám đông, bà năn nỉ:
- Bà con cô bác để cho lão quyết định. Lão xin xử nó xứng đáng ...
Một tiếng thét giận dữ cắt ngang lời Honiden. Đám đông quay lại nhìn về phía sau, rồi không ai bảo ai, đứng giạt sang hai bên, nhường chỗ cho một người ăn mặc theo lối binh gia, hùng hổ tiến vào. Đội trưởng “râu bàn chải” nghênh ngang trước mặt Takuan, quay một vòng nhìn đám đông và lên giọng hách dịch:
- Có chuyện gì vậy ? Đây không phải là trò chơi ! Mọi người hãy giải tán, ai về nhà nấy lập tức.
Đám đông yên lặng, ngần ngừ nhưng không ai chịu bỏ đi.
- Các ngươi nghe ta nói không ? Giải tán ngay, không được tụ họp nữa !
“Râu bàn chải” tay nắm đốc kiếm, nét mặt gườm gườm, dọa nạt, nhìn những người đứng ở hàng đầu làm cho họ sợ hãi, mắt mở lớn, lùi xa thêm vài bước.
- Không ! Takuan lên tiếng. Họ không có lý do gì phải dời khỏi nơi đây. Chính bần tăng đã mời họ đến để định đoạt số phận Takezo !
- A ! Thầy mời họ lại ? Nhưng thầy lấy quyền gì can thiệp vào chuyện này ?
Rồi tay nắm đốc kiếm, ưỡn ngực, viên đội nhìn Takuan, lão bà Cụ Osugi và đám đông bằng đôi mắt hống hách. Hắn cao giọng:
- Tên Shinmen Takezo này không những đã phạm trọng tội đối với luật pháp hàng tỉnh, hắn lại còn là đào binh trong trận Sekigahara nữa. Dân chúng không được làm tội hắn mà phải để nhà cầm quyền xét xử !

Acmagiro
03-02-2008, 10:57 AM
Takuan lắc đầu:
- Nhảm ! Vọng ngôn !
Thấy viên đội trưởng định nói thêm, nhà sư giơ tay chận lại:
- Đấy không phải là những điều đội trưởng đã hứa với ta !
Thấy tình hình nghiêm trọng có thể làm hại đến uy tín của mình, “Râu bàn chải” bèn dịu giọng:
- Chắc chắn thầy Takuan sẽ được trọng thưởng. Nhưng ở đây, ta là đại diện chính thức của đại gia, ta có bổn phận phải giữ phạm nhân lại. Bà con không cần phải lo lắng !
Takuan không trả lời, bật lên cười ha hả. “Râu bàn chải” quay lại, nghiêm trọng:
- Thầy hãy giữ thái độ đứng đắn. Ta không đùa và chẳng có chuyện gì đáng cười !
- Thái độ đứng đắn ? Takuan vẫn không thể nén cười. Thế nào là thái độ đứng đắn ? Này “Râu bàn chải”, nhà ngươi quên lời hứa với ta rồi chăng ? Nếu thật vậy thì cứ nói, ta sẵn lòng và lập tức thả ngay Takezo !
Mọi người giật mình lùi ra xa, lấm lét nhìn Takuan và viên đội trưởng ?
- Sẵn sàng chưa ?
Takuan vừa hỏi vừa kề dao gần dây trói.
“Râu bàn chải” ngẩn người, luống cuống. Takuan trỏ viên đội trưởng:
- Ta sẽ cho hắn xông đến ngươi trước để hắn tự xử. Ta không trách nhiệm. Để xem ngươi có khả năng đối phó với hắn không !
- Khoan ! ... Khoan ! ... “Râu bàn chải” hối hả xua tay.
- Ta đã giữ lời hứa ! Bây giờ ... tùy ngươi.
Mồ hôi đổ lấm tấm trên trán, “Râu bàn chải” vội nói:
- Khoan ...khoan ... Đừng cắt !
- Vì sao ?
Hắn lắp bắp:
- Bắt ... bắt ... bắt được nó rồi thì đừng thả. Nguy hiểm lắm. Bây giờ thế này:
Thầy giết nó đi. Đây gươm đây, nhưng để ta mang đầu về. Thế là công bằng. Thầy nghĩ sao ?
- Hà ...hà ...Để ngươi lấy đầu nó hả ? Không đời nào ! Chùa chỉ nhận làm tang lễ, đâu có bao giờ giết người, giao xác hay giao một phần nhục thể cho người khác ! Vậy còn ra thể thống gì nữa ? Hà ... hà ... ngươi nghĩ xem, làm thế còn ai dám lên chùa tụng niệm mà chư tăng còn ai được đồng xu nào nữa ?
Ngay cả trong tình trạng như vậy mà Takuan vẫn không ngớt trêu trọc “Râu bàn chải”. Nhưng nói xong, ông vội vã quay lại trước mặt dân làng và nghiêm giong:
- Xin quý thí chủ xét cho kỹ, bây giờ ta phải làm gì ? Hay ta treo nó trên cây đại bách vài ngày, mặc cho gió mưa vùi dập, quạ sẽ đến mổ mắt nó. Qúy thí chủ nghĩ sao ?
Trước ý kiến quá tàn bạo, ai cũng rùng mình, nhưng chẳng ai dám phản đối. Chỉ có Cụ Osugi lên tiếng:
- Ý thầy Takuan rất hay, nhưng lão cho vài ngày chưa đủ. Phải lâu hơn thế nữa.
Treo nó chừng nửa tháng cho nó thật đói khát để rồi chính tay lão đưa nó về âm phủ !
Takuan gật đầu:
- Cũng được ! Vậy cứ y thế mà làm !
Rồi Takuan cởi dây buộc Takezo khỏi lan can, lôi hắn đi như lôi một con vật ra sau chùa, đến bên cây đại bách. Tội nhân đầu cúi gầm, lầm lũi đi không nói, những vết roi hằn trên da thịt còn rướm máu làm mọi người động lòng thương hại. Tuy nhiên, trong lúc say sưa vừa mới bắt được tên tội nhân nguy hiểm, họ vẫn tiếp tay nối thêm dây và hè nhau kéo hắn lên cao buộc vào cành đại bách lớn nhất.
Bị trói chặt chân tay, treo lủng lẳng trên cây, Takezo trông chẳng khác gì một hình nhân bằng dạ ướt.
Từ trên núi về chùa, một mình trong gian phòng lạnh lẽo, Otsu cảm thấy mỏi mệt và buồn vô hạn. Niềm trống trải đối với Otsu không phải là một điều mới lạ, nhưng sao bữa nay nàng thấy cô đơn hết sức. Chùa đông gia nhân, tương đối đủ tiện nghi, Otsu vẫn không cảm thấy bình yên như khi chỉ có nàng và Takuan ở trên núi. Ngồi một mình bên chiếc bàn thấp, ngó mông lung ra cửa sổ, nàng suy nghĩ về những tình cảm phức tạp của lòng mình mà vẫn không sao tìm được một kết luận thích đáng. Nhưng biến cố vừa qua đã mở mắt cho nàng thấy rõ lòng mình hơn. Nàng cho rằng nỗi cô đơn giống như cơn đói, không phải ở ngoài vào mà chính ở trong lòng mình. Cảm thấy cô đơn không khác gì cảm thấy thiếu một cái gì hết sức cần thiết, tối quan hệ cho cuộc sống, một cái gì không có không được. Nhưng cái gì ? Nàng không biết ... Chẳng phải người chung quanh, cũng chẳng phải những tiện nghi của đời sống yên ổn trong chùa.
Những thứ đó không làm giảm bớt được cảm giác đơn độc đang đè nặng lên tâm hồn nàng bữa nay. Ở trên núi chỉ có cây rừng tịch mịch, sương mù âm u, nhưng có Takuan. Đột nhiên nàng chợt hiểu và bừng tỉnh. Phải rồi ! Sự thông cảm ! Những lời an ủi, khích lệ của nhà sư bàng bạc một niềm cảm thông đi thẳng vào tâm hồn nàng làm cho Otsu thấy ấm áp dễ chịu như chưa một ngọn lửa nào sưởi ấm được như thế ! Và tự nhiên, nàng cảm thấy sự thiếu vắng nhà sư đã làm tăng thêm nỗi cô đơn ấy.
Otsu đứng dậy, óc suy nghĩ vẩn vơ về những ý tưởng vừa qua. Sau khi quyết định treo Takezo lên cây, Takuan gần như bận rộn suốt ngày trong nhà khách với các Samurai từ Himeji đến. Ông không có lúc nào rảnh rỗi ngồi nói chuyện với nàng như những ngày ở trên núi. Otsu thở dài, lại ngồi xuống.
Giá nàng có một người bạn. Không cần nhiều, chỉ một người bạn thôi, một người hiểu nàng, để cho nàng dựa dẫm, một người bạn trung thành, có khí phách và đáng cho nàng tin cậy. Nhưng biết ai bây giờ ?
Dĩ nhiên nàng còn cây sáo trúc, nhưng một thiếu nữ mười sáu tuổi có những cảm nghĩ, những băn khoăn, vật vô tri như cây sáo làm sao giải đáp ? Nàng trông cậy một tâm hồn biết thông cảm, tham dự hẳn vào cuộc sống của nàng chứ không phải chỉ làm khách bàng quang.
Những giọt nước mắt chua cay chảy trên má, nàng thấy người nóng hừng hực, máu dồn lên thái dương khiến nàng khó chịu, muốn hét to lên cho hả cơn bi phẫn.

Acmagiro
03-02-2008, 10:58 AM
Cánh cửa khép hờ phía sau nhẹ nhàng mở. Trong bếp, lửa cơm chiều đã bắt đầu nhóm và tiếng động nồi niêu theo cửa mở tràn vào. Otsu quay lại, bóng Honiden đã in đậm trên nền khung cửa sáng.
- Á à, cô này trốn ở đây hả ? Chiều rồi, cả ngày không làm việc gì sao ?
Nàng hơi ngạc nhiên, chưa kịp phản ứng. Quên cả chào hỏi, nàng luống cuống xếp gối ngay ngắn và mời bà lão ngồi. Cụ Osugi không làm khách, thản nhiên ngồi xuống vào đề ngay, giọng trịnh trọng:
- Này con dâu ta ...
Trước dáng điệu đầy tự tin và kẻ cả ấy, Otsu khẽ dạ, cúi rạp đầu xuống chiếu.
- Ừ ! Bây giờ con đã nhận làm dâu ta, ta có điều muốn nói. Nhưng hãy mang trà lại đã. Ta vừa nói chuyện với thầy Takuan và các Samurai từ Himeji tới, khát khô cả cổ mà chẳng được hớp nước.
Otsu lật đật đi pha trà mang lại.
- Ta muốn nói chuyện với con về thằng Matahachi. Ta không tin thằng Takezo, nhưng hình như Matahachi vẫn còn sống và hiện nay đang ở tỉnh khác, phải không con ?
Otsu đáp, lạnh nhạt:
- Thế ạ ?
- Ta không chắc, nhưng có điều là sư cụ đã đồng ý cho con kết hôn với nó mà gia đình Honiden ta cũng đã coi con như vị hôn thê của nó rồi. Dù sao đi nữa, mong con chớ từ ...
- Mô Phật !
- Con vẫn giữ lời hứa chứ, Otsu ?
Otsu khẽ thở dài.
- Vậy được ! Ta bằng lòng lắm.
- ...
- Con biết đấy, miệng lưỡi thế gian, làm sao mà bịt được ? Ta không biết bao giờ thì Matahachi trở về nên ta muốn con đến ở với gia đình ta, giúp ta một tay. Công việc bề bộn quá, rể và gái ta làm chẳng xuể ...
- Thưa bà ...
- Ngoài con là dâu ra, còn ai đến ở với ta được ?
- Thưa bà, con không biết, nhưng ...
- Con không muốn đến hả ? Con không thích hay sao ? Nhiều người khác chắc không ngần ngại gì mà không nhảy vào ngay đấy !
- Không phải thế ... nhưng chỉ vì ...
- Không nhưng gì hết. Cô đi sắp xếp quần áo ngay đi !
- Ồ, đi ngay à ? Con nghĩ nên đợi ít lâu thì hơn.
- Đợi gì ?
- Đợi Matahachi về.
- Không được ! Nhất định không được !
Giọng bà đanh lại, không cho cãi.
- Để cô một mình, cô nghĩ đến những đứa khác hả ? Bổn phận tôi phải trông nom cô. Tôi sẽ dạy cô chăn tằm, làm công việc đồng áng, may vá thêu thùa và giữ phong cách con nhà chứ !
Otsu phân vân không biết phản đối ra sao. Hai bên thái dương nàng nóng rần rật.
Chuyện Matahachi làm lòng nàng đau thắt. Nàng sợ. Nàng sợ bất cứ lời nói gì cũng sẽ tăng thêm nỗi đau đớn ấy và làm nàng bật khóc.
Không để ý gì đến nỗi phiền muộn của Otsu, cụ Osugi tiếp theo, ngạo mạn:
- Còn chuyện nữa, ta vẫn không rõ rồi sư bác sẽ xử thằng Takezo ra sao, nên muốn con để mắt canh chừng nó cho đến khi nó chết hẳn. Cả ngày lẫn đêm. Nhất là về đêm vì ta nghi chúng nó đồng lõa với nhau quá !
- Vậy bà vẫn để con lưu lại đây chứ ?
- Ừ, tạm thời thôi. Không lẽ bắt cô phân thân ra được à ! Khi thấy nó chết hẳn rồi, cô mang quần áo lại ngay nhà ta, nghe chưa ?
- Dạ.
- Nhớ kỹ đấy !
Đoạn bà hối hả bước ra khỏi phòng.
Ngay lúc đó có bóng người thấp thoáng bên song cửa. Rồi một giọng đàn ông gọi khẽ:
- Otsu !
Tưởng Takuan, nàng chạy vội ra, nhưng vừa đến bên cửa thì dừng ngay lại.
Người đứng ngoài là “Râu bàn chải”. Hắn thò tay qua cửa sổ nắm chặt lấy tay nàng.
- Otsu, nàng đối với ta rất tốt, nhưng đáng tiếc, ta phải đi Himeji ngay bây giờ !
Otsu không trả lời, cố rút tay ra, nhưng viên đội trưởng càng giữ chặt.
- Nghe đâu Himeji đang phái người đến điều tra chuyện Takezo. Ta hận không lấy được đầu nó. Giá ta giết được Takezo thì cũng gọi là làm tròn trách nhiệm, nhưng thằng trọc cản không cho ta làm theo ý định. Ta biết nàng có cảm tình với ta nên đến đây đưa thư này, lúc nào rỗi thì đọc, đừng cho ai biết. Ta đi đây !
Nói xong, hối hả dúi phong thư vào tay Otsu và đi vội, tiếng chân bước trên những bậc thang gỗ cọt kẹt nghe đến tận cửa ngoài.
Cuốn giấy không phải chỉ có bức thư mà còn một đồng tiền vàng nữa. Ý tứ thật rõ ràng:
“Râu bàn chải” yêu cầu Otsu chặt đầu tội nhân mang đến Himeji, hắn sẽ kết hôn với nàng, Otsu sẽ là vợ hắn, suốt đời giàu sang, phú quý. Cuối thư, hắn ký tên Aoki Tanzaemon và xác nhận hắn là một trong những hiệp sĩ thuộc dòng dõi thế phiệt nhất trong vùng.
Otsu phẫn nộ nhưng chỉ mỉm cười thương hại. Vừa lúc đó, Takuan đến.
- Otsu, chưa ăn cơm chiều à ?
- Chưa ! Con không đói mà nhức đầu quá !
- Ngươi cầm vật gì vậy ?
- À, bức thư.
- Lại thư !
- Vâng.
- Của ai vậy ?
- Thật là ... Thầy thóc mách quá !
- Không, tò mò tìm hiểu thôi, đâu có thóc mách !
- Thầy muốn xem không ?
- Nếu ngươi không thấy gì phiền ...
- Để thầy đọc chơi lúc rảnh thôi nhé !
- Thì cớ nào cũng là cớ, có gì quan trọng !
- Đây, thầy cứ đọc, chẳng sao.
Otsu chìa lá thư ra. Takuan đọc xong cười ha hả. Otsu cũng không nhịn được, nhìn nhà sư hỏi ý.
- Tội nghiệp ! Hắn thất vọng quá đấy mà ! Phải dùng cả tình lẫn tiền để dụ ngươi.
Bức thư này thật khôi hài, may mà xã hội ta lại có những hiệp sĩ kiêu hùng như hắn, dám yêu cầu một thiếu nữ cắt đầu giặc thay mình và lại còn viết thư nữa mới đáng phục chứ !
- Con chẳng lưu tâm đến thư, nhưng tiền thì phải làm gì hả thầy ?
Otsu đưa đồng tiền vàng cho Takuan xem. Ông nhấc thử trong lòng bàn tay:
- Khá nặng đấy ! Có giá lắm !
- Thế mới phiền.
- Việc gì mà phiền ! Ta biết cách dùng, đừng lo.
Takuan đến bên thùng phước sương kê sát vách, định bỏ vào, nhưng nghĩ sao lại đổi ý. Ông đến trước bàn thờ Phật, thắp hương và cúi đầu làm lễ. Một lúc sau, đứng dậy, ông nói:
- Con giữ lấy. Sau này sẽ có dịp dùng đến.
- Con chẳng giữ làm gì, chỉ gây thêm oan nghiệt. Lỡ có người hỏi đến thì biết nói sao. Con tưởng cứ coi như không có là hơn.
- Vàng này không còn là của Tanzaemon nữa, ta đã đem cúng đường tam bảo và đức Phật cho lại con đấy. Con cứ giữ lấy.

Acmagiro
03-02-2008, 10:59 AM
Otsu ngần ngại, nhưng cũng nghe lời Takuan, giắt đồng tiền vào thắt lưng, đoạn nghiêng đầu nhìn trời qua khe cửa, lẩm bẩm:
- Trời nổi gió. Chắc đêm nay mưa mất. Đã lâu lắm không thấy mưa.
- Đầu tháng ba rồi còn gì ! Đêm nay hẳn mưa to. Càng tốt, mưa lớn làm rụng bớt hoa úa và làm lòng người thêm mát mẻ.
- Bạch thầy, nếu mưa to thì Takezo ra sao ?
- Hừ ...Takezo ...
Takuan nhìn ra phía cây đại bách, không nói.
Ngoài kia, đột nhiên có tiếng tội nhân gọi vọng vào:
- Takuan ! Takuan !
- Á à ! Takezo còn sống hả ?
Tiếng Takezo gay gắt, tục tằn:
- Thằng trọc chó lợn kia ! Đồ sư hổ mang ! Đến đây ta nói câu chuyện !
Gió thổi qua cành cây rào rào, tiếng hắn chửi rủa nghe khi được khi mất. Những lá úa bắt đầu rụng tơi tả, quay cuồng quanh gốc cây rồi tản mát trên những ngọn cỏ đã chớm vàng vì thiếu nước.
Nhà sư bật cười, bước ra sân, nhìn lên tàng cây cao:
- Khá lắm ! Ngươi còn khỏe lắm ! Hy vọng sinh lực ấy không phải như ngọn đèn dầu phựt sáng trước khi sắp tắt.
- Câm mồm ! Nếu sợ chết, ta đâu có để cho nhà ngươi trói dễ như vậy !
- Ngươi bị trói vì ta khỏe, ngươi yếu !
- Láo ! Nói láo ! Ngươi phải biết là ngươi đang nói láo !
- Vậy ta nói khác đi:
Ta khôn, ngươi dại. Dại hết sức !
- Ừ, dại thật ! Tự nhiên chui vào bẫy ! Thật là dại !
- Đừng dãy dụa như vậy, mất sức vô ích !
- Ở trên núi, nếu ta muốn thoát thân thì dễ quá. Ta có thể giết ngươi dễ dàng như dẫm chết con giun vậy !
Takuan cười khà khà:
- Sự so sánh làm ta chẳng hài lòng chút nào. Nhưng việc đã rồi, có hối cũng không kịp nữa. Bây giờ phân bua làm gì !
- Đồ khẩu Phật tâm xà ! Tại ta nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của ngươi nên tin tưởng, giờ bị lừa. Ta tưởng ngươi là một thầy tu khác với những người khác chứ !
- Thôi đừng khùng nữa, muốn gì nói đi !
- Tại sao ngươi đối với ta tàn nhẫn vậy ? Sao không giết ngay đi ? Ngươi muốn giết thì cứ giết, sao để chúng hành hạ ta thế này ? Ngươi là người tu hành, tất biết thế nào là hiệp sĩ đạo ...
- Dĩ nhiên biết chứ, biết hơn ngươi chứ !
- Giá ta để cho dân làng bắt lại hơn ! Họ còn ít ác độc hơn ngươi.
- Đấy là lỗi lầm độc nhất của ngươi đấy ư, Takezo ? Chuyện gì ngươi làm cũng lầm lỗi, không nhiều thì ít. Ở trên đó sao ngươi không suy nghĩ về những việc ngươi đã làm đôi chút ?
- Đồ giả nhân giả nghĩa ! Ta chẳng làm điều gì đáng phải xấu hổ. Mẹ Matahachi tìm đủ mọi cách hại ta, nhưng trước sau ta vẫn coi hắn là bạn. Bổn phận ta phải trở về báo cho mẹ hắn biết tin. Ta phá rào, giết người cũng vì vậy, đâu có gì xấu, đâu có gì trái với đạo người hiệp sĩ ?
- Không phải vậy ! Vấn đề của ngươi là không biết cân nhắc, suy nghĩ. Không phải cứ khinh cái chết là trở nên hiệp sĩ. Chết lúc chưa đáng chết chỉ là xuẩn động. Tin tưởng vào một điều gì phải, là tốt nhưng cứ nhắm mắt làm bừa chỉ có hại, chỉ đưa ngươi đến tình trạng như ngày nay, bị trói thúc thủ trên cây cao này mà thôi.
Takuan ngừng một lát rồi hỏi kháy:
- Thế nào, ở trên đó nhìn phong cảnh có đẹp không ?
Takezo hét lên:
- Thằng trọc ! Ta sẽ không bao giờ quên mối nhục này !
- Sẽ quên ! Sẽ quên ! Trước khi trở thành cái xác khô đét, còn chút thì giờ, ngươi hãy cố gắng quan sát mọi vật xung quanh, quan sát mọi người rồi bỏ những ý nghĩ thiển cận, vị kỷ của ngươi đi. Chừng nào về chầu tổ tiên, nhớ nói với các cụ rằng một tăng sĩ nghèo tên Takuan đã khuyên ngươi như vậy. Tổ tiên ngươi sẽ hối tiếc ngươi không nghe ta nên đã chết, mang tủi nhục về cho dòng họ.
Otsu đứng gần đó lắng tai nghe, chạy vội lại:
- Thầy Takuan ! Sao thầy lại có thể tàn nhẫn với người không còn tự vệ được như thế ? Thầy là người tu hành hay chỉ khoác áo thầy tu ? Takezo đã tin tưởng ở thầy, không kháng cự ...
- Này, chuyện gì vậy ? Đồng minh của ta bây giờ quay lại chỉ trích ta đấy hả ?
- Xin thầy thương hắn. Thầy đối với hắn như thế con không trọng. Nếu thầy muố n giết thì giết quách ngay đi, hắn chịu chết mà, để cho linh hồn hắn được siêu thoát.
Trong cơn phẫn khích, Otsu nắm vạt áo Takuan giật liên hồi. Takuan gạt tay nàng, giọng nghiêm nghị:
- Yên ! Đàn bà biết gì mà nói ! Nếu ngươi không im, ta sẽ treo lên cây như nó !
- Không im ! Con có quyền nói ! Con có công đi lên núi bắt hắn, con có quyền !
- Không được ! Takuan này muốn phạt Takezo ra sao thì phạt !
- Vậy thầy giết hắn đi ! Giết ngay đi ! Làm nhục hắn trong khi hắn nửa sống nửa chết thật không xứng đáng ...
- Đó là nhược điểm duy nhất của ta. Ta thích hành hạ những thằng ngu như nó !
- Bất nhân !
- Đi đi, để ta yên !
- Không !
- Đừng bướng ! Đi !
Takuan lấy tay đẩy mạnh Otsu. Nàng ngã ngồi xuống đất, bên gốc đại bách.
Cạnh gốc cây, áp má vào lớp vỏ xù xì, nàng rên khe khẽ. Nước mắt trào ra, Otsu không ngờ Takuan tàn nhẫn đến mức ấy. Người trong làng ai cũng tưởng Takezo chỉ bị treo ít lâu rồi sẽ được thả, ai ngờ chính Takuan vừa xác nhận ông thích nhìn Takezo đau đớn. Otsu rùng mình ghê sợ cho sự dã man của con người.
Nếu Takuan, người mà nàng tin tưởng bấy lâu nay, đã tỏ ra tàn ác như vậy thì ở ngoài kia, xã hội còn ghê gớm đến bực nào ! Nàng còn ai để trông cậy nữa ? Bất giác, Otsu cảm thấy thân cây đại bách ấm áp hơn, dường như máu tội nhân từ trên cành cao dồn xuống đang luân lưu trong những thớ gỗ. Takezo kiên cường, không hổ với dòng dõi hiệp sĩ. Lúc đầu bị trói ở trên núi và ngay bây giờ đây, nàng thấy Takezo vân còn nhân tính. Hắn còn biết khóc. Không hiểu sao cái gì đã là mọi người khinh ghét hắn, coi hắn như một con quỷ và xua đuổi hắn đến thế ?
Nước mắt tràn trề, hai vai rung động, Otsu ôm gốc cây, không kể gì đến gió rít bên ngoài và những giọt mưa bắt đầu rơi trên vai và cổ áo. Takuan kéo vạt tăng bào lên che đầu, gọi:
- Otsu ! Vào thôi, ướt hết bây giờ !
- ...
- Lỗi tại ngươi đó ! Tại ngươi hay khóc nên trời cũng bắt chước.
Không nghe trả lời, ông đổi giọng nghiêm trang:
- Gió mạnh rồi. Có lẽ bão. Về phòng thôi, đừng dư nước mắt khóc một người chẳng còn sống bao lâu nữa !
Nói xong, nhà sư tay giữ vạt áo, tay che đầu chạy vào hậu liêu !
Vài giây sau, nước đổ như trút. Những giọt mưa to rơi lộp bộp trên sân đất. Otsu ngồi bất động dưới gốc cây, mặc cho mưa rơi trên đầu trên tóc. Chiếc kimono nàng mặc dán vào mình ước sũng và lạnh buốt, nhưng nghĩ đến nỗi đau khổ Takezo phải chịu, nàng thấy mưa gió không có nghĩa lý gì. Nàng thầm cầu nguyện cho tính mệnh hắn toàn vẹn.

Acmagiro
03-02-2008, 10:59 AM
Otsu quanh quẩn bên gốc cây, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên nhìn, nhưng mưa to quá, không trông thấy Takezo đâu hết. Nàng gọi tên hắn. Không nghe tiếng trả lời. Có lẽ giọng nàng đã lạc đi trong mưa bão, mà cũng có lẽ hắn không trả lời thực, vì hắn coi nàng như mọi người khác trong làng có ý tưởng thù nghịch, chỉ tìm đến để làm khổ hắn mà thôi.
Mưa thế này mà không cứu Takezo thì hắn chết mất. Trong cơn tuyệt vọng, nàng bỏ chạy vào chùa, gió thổi sau lưng khiến nàng suýt ngã.
Trong chùa, cửa bếp cũng như cửa các tăng phòng đều khép kín. Nước mưa từ các máng xối đổ xuống, đào những rãnh nhỏ sâu trên sân đất, ào ào chảy xuống chân đồi.
Đến phòng Takuan, nàng vừa đập cửa vừa gọi lớn.
- Ai đó ?
- Con đây ! Otsu !
- Ngươi còn ngoài đó hả ? Làm gì ngoài đó ?
Cửa mở, nước mưa theo gió tạt vào làm Takuan lùi lại mấy bước. Ông ngạc nhiên nhìn Otsu trong bộ quần áo ướt sũng, giục:
- Vào đi !
- Không cần ! Con không đến để trú mưa, chỉ xin thầy rủ lòng thương, cho hắn xuống !
- Không ! Nhất định không được !
- Con lạy thầy, thầy cứu hắn, con đội ơn thầy suốt đời.
Nàng quỳ xuống, không nghĩ gì đến chiếc kimono bê bết bùn đất:
- Xin thầy đừng quan tâm đến con, mà thương hắn. Thầy không thể để hắn chết thế được ! Con xin làm theo bất cứ lệnh gì của thầy, nhưng lạy thầy, xin thầy cứu hắn !
Tiếng gió ù ù, mưa đổ sầm sập át cả tiếng Otsu van xin khóc lóc. Hai tay chắp trước ngực, trông nàng chẳng khác gì một phật tử đang thành kính đội mưa chịu lễ sám hối trước tòa sen.
Takuan đứng im như tượng, mắt nhắm nghiền. Không ai biết bên trong khuôn mặt bình thản ấy có những xao động thầm kín gì. Lúc sau, mở mắt ra, ông nghiêm nghị:
- Otsu, về phòng ngay đi ! Sức ngươi yếu đuối, để bị cảm hàn là tự chuốc lấy cái chết vô ích.
- Con lạy thầy, con van thầy ! Xin thầy thương hắn ...
Trước mắt Takuan, Otsu vẫn quỳ, đầu cúi rạp. Nhà sư với tay đóng cửa. Một giọng nói như băng vọng ra lẫn trong tiếng mưa rơi vẫn còn nặng hạt:
- Khuya rồi, ta đi nghỉ. Ngươi cũng nên về thôi. Ta khuyên ngươi đấy.

Acmagiro
04-02-2008, 07:12 PM
QUYỂN 1 : Chi No Maki
CHƯƠNG 7
CƯƠNG THẠCH VÀ ĐẠI THỤ




Sáng hôm sau, những dấu vết của mùa xuân gần như đã bị trận bão đêm trước quét sạch. Nắng ban mai gay gắt làm những người đi làm đồng bắt đầu phải mang nón. Cụ Osugi nhọc mệt leo lên chùa, thở hổn hển. Cổ khô, miệng khát, mồ hôi đẫm trán chảy dài xuống má làm khó chịu, nhưng bà vẫn không nghỉ. Và nóng nảy muốn tới chùa ngay để xem Takezo thế nào. Mới đến cổng, bà đã gọi tới tấp:
- Thầy Takuan ! Thằng đó liệu có qua khỏi không ?
Takuan bước ra hàng hiên, mắt hấp háy:
- À, cụ Osugi ! Đêm qua mưa to quá há !
- Phải. Bà cười ác độc. Trận mưa chết người chứ không bỡn.
- Dầm mưa vài đêm chẳng sao. Sức người bền bỉ lắm, nhưng nắng buổi trưa mới thật ghê gớm.
Honiden hướng bộ mặt nhăn nhúm về phía cây đại bách:
- Thầy nghĩ hắn còn sống à ?
Bà lấy tay che mắt cho đỡ chói, đôi mắt sắc nheo lại dưới ánh nắng, đứng chăm chú nhìn một lúc rồi lẩm bẩm:
- Trông như cái giẻ rách thế kia, khó sống lắm, khó sống lắm !
- Không thấy quạ bu xung quanh mổ mắt, vậy là chưa chết.
- Ờ phải ! Mô Phật, sức học uyên bác như thầy, khó ai mà lừa được.
Rồi nghểnh cổ, đưa mắt tò mò nhìn qua vai Takuan vào trong, bà nói:
- Không thấy dâu lão đâu. Thầy gọi nó giùm lão với !
- Bần tăng biết dâu bà là ai mà gọi.
- Chà ! Thầy gọi giúp chút mà ! Nó ở trong chùa ấy !
- Nhưng ai mới được chứ ?
- Otsu. Honiden sốt ruột. Otsu chứ ai nữa !
- Vậy sao bà không bảo Otsu lại bảo dâu bà ? Cô ấy đâu đã về làm dâu nhà Honiden ?
- Chưa. Nhưng lão có ý định đưa nó về giới thiệu với họ hàng là dâu của lão.
Takuan mỉm cười:
- Liệu được không ? Bần tăng chưa từng thấy ai lấy chồng vắng mặt như thế bao giờ !
Cụ Osugi giọng bất mãn:
- Thầy nhiều chuyện ! Thì cứ gọi hộ lão ! Đâu phải việc của thầy !
- Chắc cô ấy còn ngủ trong phòng !
- Ờ nhỉ, lão quên mất. Bà nói nửa như với mình, nửa như với Takuan. Lão có bảo nó ban đêm phải để ý trông thằng Takezo, chắc sáng ra nó mệt. Nhân thể hỏi thầy, có phải ban ngày thầy trông chừng hắn không ?
Nhưng không đợi Takuan trả lời, bà bước vội ra gốc đại bách, nhìn chăm chú lên cây một lúc, thừ người ra suy nghĩ, lát sau quày quả bỏ đi, tay vung vẩy cây gậy dâu.
Takuan không nói, cũng trở về phòng, ngồi tư lự đến chiều.
Otsu ở cách phòng Takuan không xa. Nàng đóng cửa phòng từ sáng, trừ hai bận mở cho một chú tiểu mang bát thuốc và liễn cháo đến. Đêm trước, người ta đã phải khiêng Otsu về khi thấy nàng ngất đi ở ngoài hiên dưới mưa gió. Dỗ dành lắm nàng mới uống hết chung trà nóng. Sư cụ quở Otsu không biết bao nhiêu, nàng chỉ yên lặng không đáp. Giờ đây, ngồi dựa lưng vào vách ván, đầu nặng và nhức như búa bổ, nàng thấy cơn sốt kéo đến, trong người nóng hầm hập. Cố lắm nàng mới húp được vài thìa cháo loãng.
Hoàng hôn tắt đã lâu, bóng tối ập xuống bao phủ cả gian phòng hiu quạnh. Trái với đêm trước, vầng trăng hôm nay hiện lên rực rỡ, ánh sáng long lanh như rung động trên nền trời sâu thẳm.
Chờ mọi người ngủ yên, Takuan mới bỏ sách xuống, xỏ chân vào đôi guốc gỗ, bước ra sân. Ông khẽ gọi:
- Takezo !
Tiếng đáp lớn từ trên cây vọng xuống, mạnh và đầy giận dữ:
- Gì vậy, thằng trọc ?
Ít khi Takuan bị bất ngờ như vậy. Ông không giấu được vẻ ngạc nhiên:
- Sắp chết mà còn hét to nhỉ ! Ngươi là cá hay thuộc loài thủy quái gì vậy ? Cứ sức này thì còn chịu được vài trận mưa nữa. Sao, giờ thấy đói chưa ?
- Đừng hỏi lôi thôi. Chặt phứt đầu tao đi cho rồi !
- Không được ! Chặt bây giờ để đầu ngươi rớt xuống cắn ta hả ?
Rồi nhìn trời, ông nói:
- Trăng đẹp quá ! Ở trên đó, ngươi ngắm trăng chắc thú hơn ta.
- Này thằng trọc hổ mang kia ! Mở mắt nhìn cho rõ:
ta chưa yếu sức đâu, ta muốn làm gì vẫn còn làm được.
Dứt lời, Takezo uốn cong mình tung lên cao rồi buông xuống, vùng vẫy dãy dụa như con cá mắc câu. Sức mạnh của hắn làm cành đại bách rung chuyển, lá và vỏ cây rơi lả tả trên đầu Takuan. Nhà sư vẫn thản nhiên, nhưng vẻ ung dung có hơi giả tạo. Ông đưa tay khoan thai phủi lá cây rụng trên vai:
- Được lắm. Cứ giận, càng giận điên cuồng càng tốt. Hãy tỏ cho mọi người biết ngươi hãy còn sung sức ! Có người nói kềm chế được nóng giận là cương nghị, khôn ngoan, nhưng ta, ta cho đó là ngu xuẩn. Ta không khen những người biết tự kềm chế và có giáo dục như vậy. Thanh niên phải tỏ ra có nhiều sức lực hơn bậc đàn anh chứ ! Giữ sức mà làm gì ! Dãy đi, cứ dãy cho khỏe, càng mạnh càng tốt.
- Ta giật đứt sợi dây này, xuống ăn thua đủ với ngươi !
- Dọa hay làm thật vậy ? Nếu thấy đủ sức thì cứ làm, ta đợi.
- Câm họng !
- Ngươi còn khỏe lắm ! Dãy rung cả cành đại bách, nhưng tiếc rằng đất vẫn chưa chuyển. Khỏe nhưng vẫn yếu. Sự cuồng nộ của ngươi chỉ do lòng hung bạo mà ra, vì xúc cảm nhất thời mà có, không phải là sự phẫn nộ của người vì thấy điều bất bình mà giận dữ. Sự phẫn nộ chỉ đáng kể khi nó bắt nguồn từ một niềm bất mãn tinh thần. Giận những chuyện không đâu là cái giận của đàn bà, không giải quyết được gì hết !
Takezo không nghe, vừa chửi rủa vừa giẫy dụa. Càng dãy, sợi dây càng thắt chặt. Hắn mệt phờ người, những chỗ dây thừng siết vào da thịt rớm máu.
Takuan đứng nhìn một lúc, lắc đầu. Ông lấy giọng thân thiết khuyên nhủ:
- Takezo ! Ngươi chẳng nên ngu ngốc như vậy. Dãy dụa bao nhiêu cũng chẳng làm cây gẫy được mà thế gian này đâu có sứt mẻ đi chút nào ?
Takezo rên khe khẽ. Cơn cuồng nộ của hắn đã qua, hắn thấy lời Takuan nói đúng.
- Ta khuyên ngươi mang sức mạnh dùng vào việc gì có ích cho nhà cho nước. Hãy cố gắng làm một điều gì hữu ích cho những người chung quanh, tuy bây giờ có hơi trễ.
Ngươi cứ thử cố gắng đi, Trời Phật sẽ độ trì cho. Cả những người dân tầm thường trong làng này cũng sẽ cảm động và đối xử với ngươi khác trước.
Giọng Takuan trở nên buồn và nhu hòa:
- Thật đáng tiếc ! Ngươi sinh ra làm người mà hành động như loài dã thú, không bằng giống sói lang. Thật buồn ! Một thanh niên đang tuổi hăng hái như ngươi mà chết vô dụng, không có cơ hội nên người !
- Thế ngươi là người đấy hả ?
- Lúc nào ngươi cũng ỷ và sức mạnh vô địch. Bây giờ ai thắng, ai bại, ngươi đã thấy rõ.
- Ta không có gì phải xấu hổ. Cuộc đấu không ngay thẳng.
- Có gì khác đâu ? Ngươi bại không phải vì thiếu sức mạnh mà vì bất trí. Ta không dại gì đấu sức với một người khỏe như ngươi. Bạo hổ băng hà, tử nhi vô hối ! Ai đưa tay không ra bắt cọp bao giờ ! Người khôn hơn cọp là vì thế. Trong cuộc giao đấu giữa người và cọp, nếu cọp thua, chẳng ai bảo là cuộc đấu không ngay thẳng.
Takezo không tỏ dấu hiệu gì nghe lời Takuan.
- Vũ dũng của ngươi cũng thế, không hơn gì sự hung tợn của một con vật. Đấy không phải là cái dũng của người hiệp sĩ. Lòng dũng cảm thật phải biết thế nào là sợ, sợ những điều đáng sợ. Người hiệp sĩ yêu cuộc sống, coi cuộc sống là vật báu vô giá và chỉ chết khi cần, tự quyết định lúc nào đáng chết và chết một cách đĩnh đạt ...

Acmagiro
04-02-2008, 07:13 PM
Vẫn không có tiếng đáp lại.
- Takezo, tội nghiệp cho ngươi ! Ngươi dũng cảm và có sức mạnh, nhưng thiếu kiến thức và không ngoan. Dũng cảm, sức mạnh chỉ là phương tiện. Kiến thức, khôn ngoan mới thực sự là cốt tủy của người hiệp sĩ khi hành đạo. Hợp những điều ấy lại, ngươi sẽ chỉ thấy có một đường ! Ngươi rõ không, Takezo ? Một đường thôi !
Cây đại bách vẫn yên lặng. Yên lặng như phiến đá Takuan ngồi, như bóng đêm vây quanh gốc đại thụ.
Lát sau, Takuan đứng dậy:
- Nghĩ kỹ đi, Takezo ! Nghĩ thêm một đêm nữa rồi chết cũng không muộn !
Nói xong, ông bỏ đi, đầu cúi, lòng nặng trĩu ưu tư. Nhưng được vài bước, tiếng Takezo đã gọi giật ông lại:
- Thầy Takuan !
- Gì vậy ? Ngươi đã nghĩ chín rồi hả ?
- Takuan ! Xin thầy cứu con !
Tiếng Takezo vang lên trong đêm khuya yên tĩnh. Một cơn gió nhẹ thoảng qua, lá cây xào xạc như than khóc càng làm tăng thêm nỗi bi thiết của lời kêu cứu.
- Con muốn trở nên người tốt. Sắp chết, con mới hiểu được giá trị của sự sống thì đã muộn, xin thầy giải thoát cho con.
- Lần đầu ta thấy con nói như một người. Con đã biết suy xét rồi đó !
- Con không muốn chết. Con muốn cố gắng làm lại tất cả.
Và hắn khóc:
- Takuan ! Xin thầy giúp con !
Nhưng nhà sư lắc đầu:
- Ta rất tiếc chẳng có quyền ấy. Đó là quyền của tạo hóa. Đầu chặt đi rồi, không gắn lại được nữa, luật thiên nhiên như vậy. Ta thương con nhưng không cởi trói cho con được, vì không phải ta đã trói con mà chính con đã tự trói con đấy ! Ta chỉ còn một điều khuyên:
Hãy anh dũng trước cái chết, và vì danh dự của ông cha, hãy cố giữ vẻ bình thản. Đọc kinh đi, ta mong sẽ có người nghe thấy lời con sám hối.
Rồi Takuan bước đi hẳn, tiếng guốc gỗ xa dần về phía tăng phòng.
Takezo không kêu nữa. Nghe lời khuyên của nhà sư, hắn nhắm mắt lại lâm râm cầu nguyện và quên hết mọi sự, cả sự chết cũng như sự sống. Tâm hồn hắn lâng lâng, siêu thoát. Đối với hắn giờ đây mọi việc đều là hư ảo dưới bầu trời vằng vặc trăng sao, với gió đêm thì thào thổi qua những tàn lá. Hắn thấy lạnh, lạnh lắm.
Thời gian trôi qua. Takezo cảm thấy như có người ở dưới gốc cây đang tìm cách trèo lên. Người đó ôm thân cây, cố gắng một cách vụng về bám lấy cành thấp nhất nhưng hai ba lần đều trượt và tuột xuống. Hắn nghe tiếng vỏ khô rào rạo mỗi khi người đó rướn mình lên và tiếng thở hổn hển. Sự vụng về và yếu đuối của người trèo làm hắn mường tượng có lẽ tay chân người ấy bị xây xát nhiều hơn là lớp vỏ xù xì của cây đại bách. Nhưng hình như người đó quyết tâm lắm, vì chẳng bao lâu sau đã thấy một bóng đen bò đến gần chỗ cành cây treo hắn. Takezo nhịn thở, banh mắt ra nhìn. Có tiếng gọi đứt quãng, nhẹ như tơ lẫn trong hơi thở hổn hển:
- Takezo !
- Ai đấy ?
- Otsu. Otsu lên cứu chàng.
- ...
- Nghe chàng van xin, tiếng đau thương tự tâm khảm, Otsu không nỡ ...
- Nàng định cởi trói cho ta thoát sao ?
- Vâng, trốn đi ... Otsu cũng muốn rời khỏi chỗ tàn bạo và vô lý này. Otsu sẽ giúp chàng, chúng ta cùng nhau đi trốn.
Bấy giờ Takezo mới nhận thấy Otsu đã sẵn sàng. Nàng mặc áo chẽn, một túi vải hành trang đeo sẵn trên vai.
- Vậy nhanh lên ! Cắt ngay dây đi, Otsu !
- Đây ! Cắt ngay đây !
Nàng rút trong lưng ra một con dao nhỏ, một tay ôm cành cây, một tay cứa vào sợi dây. Sợi chão đứt dần và sau một tiếng phựt, Takezo rơi xuống như hòn đá, kéo theo cả thiếu nữ. Một cành thấp gần gốc cây đập vào lưng hai người làm nàng đau điếng rồi cả hai ngã lăn trên nền đất.
Takezo ê ẩm cả người. Otsu ngất đi, nằm yên như khúc gỗ. Một lúc sau tỉnh lại nàng mới gượng đau, bò đến chỗ Takezo nằm, cắt nốt dây trói cho hắn.
- Nàng không sao chứ ?
- Cũng không biết nữa, nhưng chắc còn đi được.
- May mà có cái cành thấp này đỡ, nếu có việc gì cũng không đến nỗi nặng lắm !
- Còn chàng thì sao ? Có yếu quá không ?
- Ờ ...ờ ...ta ...ta ...
Hắn ngưng lại một chút, giơ tay định hét lớn, bỗng nhiên khựng lại, vui mừng ghé vào tai Otsu:
- Sống rồi ! Ta sống thật rồi !
- Dĩ nhiên là chàng sống.
- Sống ! Không dĩ nhiên gì cả ! Rõ ràng là ta sống rồi !
- Bây giờ phải trốn khỏi nơi này ngay. Chần chừ có người trông thấy, mình khó thoát lắm !
Rồi chống tay đứng dậy, Otsu khập khiễng bước đi, theo sau là Takezo, yên lặng và run rẩy như hai con sâu yếu ớt bị thương trong trận tuyết giá đầu mùa.
Họ lầm lũi đi như trong mơ, thất thểu trên con đường rừng rậm rạp cho đến khi tiếng gà văng vẳng đằng xa làm họ thức tỉnh. Otsu dừng chân trông về hướng đông, bảo Takezo:
- Trời hửng sáng rồi đấy !
- Đây là đâu thế ?
- Đỉnh đồi Nakayama.
- Đã đến đỉnh đồi Nakayama rồi cơ à ? Nhanh quá nhỉ !
Otsu mỉm cười yếu ớt. Nàng gắng gượng đáp lời Takezo mà như nói với chính mình:
- Ờ, nhanh thật ! Nếu quyết tâm, ta có thể làm những việc không ai ngờ được !
Rồi bỗng sực nghĩ ra điều gì, nàng vội vã thêm:
- Chết ! Quên mất. Chắc anh đói lắm. Mấy ngày nay có được ăn gì đâu !
Nghe nói đến ăn, Takezo thấy bụng cồn cào, đau quặn, nước rãi ứa đầy miệng. Otsu ngồi xuốn vệ đường, mở đẫy lấy ra bốn chiếc bánh nếp. Ngồi trông nàng mở đẫy, hắn thấy sao chậm quá, tưởng có đến hàng giờ mới xong. Tay run run bóc bánh, mùi thơm của lá gói đưa lên mũi khiến hắn choáng váng. Hắn nhai trệu trạo vài cái đã nuốt ngay, nhưng vẫn tận hưởng được hương vị ngọt ngào của đậu xanh quyện với bột nếp nhuyễn tan trong miệng.
“Ta sống thật rồi !”, hắn nguyện thầm sẽ khôn ngoan hơn và quyết tâm sống một cuộc đời khác.
Trên trời, mây hồng lên rực rỡ. Takezo nhìn nét mặt người bạn đồng hành đã rõ hơn. Hắn no bụng, yêu đời và không còn lo sợ nữa.
- Trời sáng rồi ! Otsu nói. Chúng ta phải hết sức cẩn thận. Đây là ranh tỉnh rồi đó!
Takezo ngạc nhiên:
- Ranh tỉnh ... Ta phải đi Hinagura kia mà !
- Đi Hinagura làm gì ?
- Cứu Ogin. Ogin bị giam ở đó. Nàng với ta chia tay tại đây thôi !
Otsu nhìn hắn, kinh ngạc:
- Chàng muốn đi một mình à ? Nhưng nếu biết thế, Otsu đã không bỏ Miyamoto.
- Làm sao được ? Chẳng lẽ cứ để Ogin bị giam ở đấy mãi !
Otsu cầm tay Takezo nhìn vào mắt hắn, chứa chan thông cảm và say đắm:
- Takezo, khi nào thuận tiện, Otsu sẽ nói rõ chàng nghe cảm tình của Otsu đối với chàng, nhưng bây giờ chàng đừng bỏ Otsu ở đây. Đi đâu cho Otsu theo với!
- Không được đâu.
- Chàng nên nhớ - Nàng nắm chặt tay Takezo - lúc nào Otsu cũng muốn ở bên chàng. Đi cứu Ogin, nếu thấy Otsu theo làm phiền thì Otsu sẽ đến Himeji đợi chàng vậy !
- Cũng được ! Như thế tiện hơn !
- Thế nào chàng cũng trở lại nhé.
- Dĩ nhiên.
- Otsu đợi chàng ở cầu Hanada ngoại ô thành Himeji đấy ! Dù lâu một trăm hay một ngàn ngày, Otsu cũng đợi !
Takezo gật đầu, rảo bước lên núi. Otsu đứng lặng trông theo cho đến khi bóng hắn khuất dần trong những lùm cây rậm rạp.

0n1zuk4
05-02-2008, 06:48 PM
truyện hay lắm càng đọc càng ko chán
Típ tục post nhé bạn

Acmagiro
06-02-2008, 03:34 PM
QUYỂN 1 : Chi No Maki
CHƯƠNG 8
VẾT CHÂN DÃ THÚ




Mặt trời mới lên khỏi con sào, cháu ngoại cụ Osugi đã hốt hoảng chạy tới, tay xách dép, tay quệt mũi, thở hổn hển:
- Bà ơi, bà ! Trên chùa có chuyện !
Cụ Osugi mãi quạt lò, tiếng quạt giấy phành phạch. Bà không lưu ý mà cũng hầu như không nghe tiếng thằng bé.
- Bà ! Có chuyện trên chùa !
- Chuyện gì ?
- Takezo trốn rồi !
- Trốn rồi ? Thật hay bỡn ?
Trong cơn thảng thốt, bà vô tình để cây quạt bị lửa cháy táp một miếng. Bà lấy chân dậm tắt, hỏi lại:
- Chắc không ? Mày bịa chuyện đấy chứ ?
- Thì ai cũng nói vậy. Trên chùa đương rối loạn cả kia kìa. Otsu và thầy Takuan cũng biến mất luôn.
Mặt cụ Osugi tái mét, chân tay run lẩy bẩy như bị trúng gió. Thằng cháu giương mắt ngạc nhiên nhìn bà và sợ hãi giật lùi ra cửa.
- Heita !
- Dạ.
- Chạy ba chân bốn cẳng tìm ba mày về đây. Rồi đến nhà cậu Gon mời cậu lại ngay bà bảo. Nhanh lên, không được la cà dọc đường, chết ...chết đòn đấy !
Giọng bà có vẻ luống cuống.
Nhưng thằng bé chưa bước ra khỏi cổng ngoài, cụ Osugi đã thấy một đoàn người lũ lượt kéo đến, đi đầu là cậu Gon cùng con rể bà và một số lực điền trong xóm.
Họ xôn xao bàn tán:
- Otsu chắc theo thằng Takezo rồi !
- Cả sư bác cũng không thấy đâu, lạ quá !
- Thì một đồng một cốt cả. Không biết bà già nghĩ sao đây ? Gia đình Honiden phen này cứ gọi là mất hết danh giá.
Cậu Gon và rể cụ Osugi mỗi người mang một ngọn giáo cũ, binh khí của tổ phụ để lại. Bên ngoài họ làm bộ hung hăng lắm nhưng trong lòng bối rối chưa có định kiến.
Họ kéo vào nhà báo tin cụ Osugi hay để xem bà xử trí ra sao vì từ trước đến nay đối với họ, bà vẫn là tay cứng cỏi.
- Takezo bỏ trốn rồi, bà biết chưa ?
- Biết rồi. Đợi đấy, ta ra ngay.
Cụ Osugi thật không hổ là người cầm đầu đảng tộc. Khi biết chuyện Takezo bỏ trốn, sau phút chấn động ban đầu, bà lấy ngay được bình tĩnh. Bà vào nhà trong, yên lặng quỳ trước bàn thờ gia tiên cầu xin phù hộ rồi đến bên tủ đựng đồ gia bảo, mở ngăn kéo lấy thanh kiếm cũ. Kính cẩn nâng ngang mày, bà lâm râm khấn vái và giắt kiếm vào thắt lưng. Rồi thay áo chẽn, đi dép cỏ, buộc chặt quai dép vào cổ chân, bà điềm tĩnh mở cửa bước ra nhà khách. Mặt bà đanh lại.
Đám gia nhân yên lặng đứng nhìn, lòng ngưỡng phục lộ ra trên những khuôn mặt rám nắng. Họ đã hiểu và tin tưởng:
gia chủ nhà Honiden không làm họ thất vọng.
- Chuyện đâu còn có đấy. Ta sẽ thân hành đi bắt nó đem về xử tội xứng đáng.
Cụ Osugi bước ra cửa giữa hai hàng người đứng dạt ra hai bên. Một kẻ lên tiếng:
- Nếu bà già đi thì chúng ta đâu ở nhà được !
Thế là đám đông cùng ùa ra cổng, gặp gì cầm nấy. Dao gậy không đủ, họ chặt tre vót nhọn làm vũ khí, náo nhiệt ồn ào trong bầu không khí hỗn loạn. Họ theo chân Honiden lên núi, hăng hái đi không nghỉ. Đến trưa tới đỉnh đồi. Mặt trời đã đứng bóng, chỉ thấy nắng chói chang đổ trên đồng cỏ gianh xa tắp, không bóng người cũng như bóng vật.
- Trốn rồi ! Chúng nó trốn xa rồi !
Họ giận dữ sục sạo khắp nơi ra đến tận ranh tỉnh gần đồn thương chánh. Binh sĩ trong đồn cản lại không để số đông như vậy vượt ranh giới. Cậu Gon bước ra giải thích:
- Takezo là một tên tội phạm nguy hiểm, Otsu là gái mất nết, nếu không cho chúng tôi đuổi theo bắt chúng thì còn mặt mũi nào nhìn ai nữa. Gia đình chúng tôi mất hết thể diện, đến phải bỏ làng đi mất.
Viên đội trưởng thông cảm nhưng nhất quyết không để mọi người vượt ranh tỉnh.
Luật như vậy, muốn đi phải có giấy phép, mà xin được phép cũng lâu lắm. Honiden bàn cùng mọi người rồi quay lại nói:
- Thế ta và cậu Gon, hai người đi được không ?
- Được ! Luật cho phép tới năm người.
Cụ Osugi gật đầu vừa ý. Bà nói với gia nhân:
- Vậy mọi người hãy trở về. Không phải lo gì cả. Ta biết chuyện này trước khi đi nên đã khấn tiền nhân và mang sẵn gươm đây. Ta thề phải làm xong hai việc, một là bắt Otsu, nó bôi tro trát trấu vào danh dự nhà ta ; hai là tìm cho được thằng Matahachi về để có người nối dõi, dù phải buộc dây lôi cổ nó về cũng không ngại. Ta sẽ tìm cho nó một con vợ đức hạnh gấp trăm lần con Otsu để bảo toàn danh giá nhà ta. Ta thề như vậy !
Tiếng hoan hô vang dậy, nhưng con rể bà cúi mặt không nói. Cụ Osugi chăm chú nhìn hắn, tiếp lời:
- Ta và cậu Gon nhiều tuổi rồi, đáng lẽ được quyền nghỉ ngơi, nhưng ý ta đã quyết.
Dù đôi ba năm ta cũng phải đi khắp, tìm bằng được nó. Trong khi ta không có nhà, anh là con rể hãy thay ta quán xuyến mọi việc. Còn các ngươi phải chịu khó chăm chỉ làm ăn, không được biếng nhác. Ai trễ nải việc chăn tằm, nhổ cỏ, ta sẽ không để yên đâu !
Các ngươi nghe rõ cả chứ ?
Cậu Gon đã gần năm mươi, cụ Osugi hơn cậu mười tuổi. Đám gia nhân ngại không muốn để hai người xông pha chống cự với một địch thủ hiển nhiên vừa khỏe, vừa trẻ hơn nhiều, lại có tiếng là hung bạo và khát máu như Takezo.
- Hay bà với cậu mang thêm vài người chúng tôi nữa đi cùng. Họ cho phép tới năm cơ mà !
Bà lão lắc đầu quầy quậy:
- Không cần ! Không cần ! Ta đâu đã yếu sức ! Ai cũng cho là Takezo khỏe nhưng ta không sợ. Nó là đứa con nít, ta biết từ khi còn ẵm ngửa. Nó trẻ và có sức mạnh thật, nhưng mình dùng mưu chứ ! Vả lại cậu Gon cũng chưa già kia mà. Thế nào chúng ta cũng bắt được nó ! Giờ về đi, nhớ lời ta dặn đấy !
Cụ Osugi làm hiệu xua mọi người trở lại rồi cùng cậu Gon tiến qua hàng rào ranh tỉnh. Không ai ra cản, hai chị em bà thong thả qua cổng đồn. Có người còn bắt loa tay gọi lớn:
- Nếu đau ốm, nhớ báo tin anh em chúng tôi biết !
- Nhớ giữ gìn sức khỏe !
Họ quay lại nói với nhau:
- Bà già thế mà còn gan dạ lắm !
Cậu Gon sống về nghề thợ săn, lúc trẻ cũng là tay giang hồ tham dự nhiều trận chiến đẫm máu. Giờ có tuổi nhưng trông cậu vẫn còn trang kiện, tóc chưa bạc, da chưa mồi. Cậu là em cụ Osugi, chính tên là Gonroku, dân làng gọi tắt là cậu Gon. Trước những biến cố mới đây làm nhục gia phong, cậu Gon rất quan tâm nên hết lòng nghe theo những quyết định của bà chị.
- Chị Honiden này !
- Gì thế cậu ?
- Chị đi xa đã sắp xếp trước, còn tôi chẳng có gì, vẫn đeo bộ quần áo thường ngày.
Phải dừng chân chỗ nào cho tôi kiếm đôi dép và cái nón đã chứ !
- Ờ, gần đây hình như có quán trà.
- Chắc quán của chú Mikazuki. Quán khá lớn bán đủ đồ nhật dụng.
- Vậy ta tạt qua đấy, cần gì thì mua.
Gần đến quán, họ ngạc nhiên thấy trời đã về chiều. Trên núi, ánh sáng vẫn còn thịnh, họ tưởng còn lâu mới tối, nhất là đương mùa hè, ngày dài đêm ngắn.
Hai chị em rảo bước vào quán, gọi trà uống và nghỉ ngơi. Cụ Osugi nói:
- Từ đây tới Takano còn xa, cứ mửng này đi hết đêm chưa chắc tới. Hay ta qua quán Thiên Phúc trọ tạm, cậu nghĩ thế nào ?
- Thì cứ đi được đến đâu hay đến đấy.
Nghỉ ngơi và mua đồ nhật dụng xong, cậu Gon cầm nón đứng dậy, nhưng nghĩ sao lại để xuống.
- Chị đợi tôi một chút.
- Cậu đi đâu ?
- Tôi đi lấy nước mang theo phòng khi khát.
Cậu Gon tháo ống tre đeo vai, lần theo sân ra suối. Dìm ống tre xuống dòng nước đợi cho bong bóng không sủi lên nữa, cậu mới xách ống, men theo phòng trọ trở về. Qua cửa sổ hé mở, tò mò nhìn vào, cậu ngạc nhiên thấy có người nằm đắp chiếu trùm chăn.
Tuy không rõ mặt, nhưng nhìn mớ tóc đen dài xõa ra hai bên, cậu cũng đoán chừng là phụ nữ. Mùi thuốc sắc hăng hăng cay từ trong phòng bay ra đến tận cửa ngoài.
Tiếng cụ Osugi sốt ruột gọi:
- Cậu Gon ! Làm gì lâu thế ?
- Xong rồi đây.
- Mau lên còn đi chứ !
Cậu Gon bước vội đến gần bà, rụt rè giải thích:
- Hình như có người ốm nằm trong phòng.
- Trong phòng có người thì có gì lạ ! Quán trà mà ! Cậu chỉ để ý những chuyện đâu đâu, chẳng khác gì trẻ nít !

Acmagiro
06-02-2008, 03:35 PM
Cậu Gon cười bẽn lẽn. Cũng như mọi người, cậu thường bị cụ Osugi nạt nộ, nhưng khác với số đông, cậu biết tính bà nên tìm cách khôn khéo tránh né không để bà giận dữ.
Hai người lầm lũi theo đường đồi dốc, hướng về phía thị trấn Harima. Vì là con đường hàng ngày có nhiều người và lừa ngựa tới lui khu mỏ bạc nên mặt đường lồi lõm rất khó đi.
- Chị cẩn thận kẻo ngã !
- Chà ! Giờ trứng lại khôn hơn vịt đấy ! Đường này ta nhắm mắt đi cũng được. Có cậu phải dè chừng thì có !
Đột nhiên có tiếng vó ngựa và tiếng nói sau lưng:
- Hai bác đi nhanh gớm nhỉ !
Quay lại, cụ Osugi thấy chủ quán trà cưỡi ngựa gần tới.
- Phải ! Chúng tôi mới nghỉ ở quán xong nên khỏe thêm được chút. Còn bác đi đâu đấy ?
- Đi Tatsumo.
- Đi Tatsumo giờ này hả ?
- Ở đó mới có thầy lang. Đi ngựa thì chừng nửa đêm sẽ tới.
- Bác gái đau hả ?
- Không. Chủ quán hơi cau mặt. Nếu vợ con thì còn nói gì. Đây là khách qua đường đấy chứ !
- À, người đàn bà nằm trong phòng ấy phải không ? Lúc lấy nước ở suối về tôi có thấy.
Cậu Gon đỡ lời chị. Lần này đến lượt bà lão cau mặt.
- Phải đấy. Cô ta tạt qua quán nghỉ chân nhưng trông có vẻ sốt nặng. Tôi mời vào phòng trong nằm, đến bây giờ cũng không đỡ. Tôi sợ còn nặng thêm !
Cụ Osugi cắt ngang:
- Có phải cô bé khoảng mười sáu mười bảy tuổi, người mảnh dẻ không ?
- Dạ phải, cỡ tuổi ấy. Cô ấy bảo từ Miyamoto đến.
Bà lão đưa mắt nhìn cậu Gon rồi lấy tay sờ vào thắt lưng như muốn tìm vật gì. Lúng túng một lát, bà thất vọng kêu lên:
- Thôi rồi ! Lại quên rồi !
- Chị quên gì ?
- Chuỗi tràng hạt. Tuổi già lú lấp quá, bây giờ mới nhớ ra, hình như ta để trên ghế đẩu ở quán trà. Lúc đi vội, quên khuấy mất !
Chủ quán nhanh nhẩu đỡ lời:
- Thế để tôi quay ngựa lại lấy giúp.
- Không sao, không dám phiền bác. Bác đương đi tìm thầy thuốc kia mà. Cứu bệnh như cứu hỏa, chớ nên trì hoãn. Để chúng tôi trở lại lấy cũng được.
Dứt lời, Cụ Osugi liếc nhìn cậu Gon, rồi bước vội theo đường cũ trở lại quán nước.
Hai người hối hả đi trong bóng chiều bắt đầu đổ xuống nhanh trên thung lũng. Họ thở hổn hển, không ai nói với ai lời nào. Trong thâm tâm, cả hai đã biết chắc đó là Otsu.
Sau khi bị nhiễm lạnh vì trận mưa ngoài sân chùa mấy hôm trước, Otsu vẫn chưa bình phục. Nàng đã cố gắng rất nhiều để cứu Takezo và trên đường đi trốn, bản năng sinh tồn đã làm nàng quên hết mệt mỏi. Nhưng từ khi Takezo bỏ đi, sự chán nản về tinh thần và đau đớn về thể chất đã làm nàng không chịu đựng được nữa.
Cơn sốt hừng hực kéo đến, nàng thất thểu đến gần quán trà, đầu nhức như muốn vỡ, chân tay rời rã.
Otsu chỉ nhớ mang máng đã vào trong quán, nhưng không biết tại sao lại nằm đây và nằm đây từ bao giờ. Trong cơn mê sảng, nàng chỉ thấy khát, xin nước uống luôn miệng. Hình như chủ quán có nói gì và cho nàng uống thuốc nhưng Otsu không nhớ rõ.
Da khô, miệng đắng, nàng thì thào:
- Có ai đấy không, cho tôi xin hớp nước:
Không thấy trả lời, nàng chống tay ngồi dậy bò ra cửa. Đến bên lu nước, với tay cầm chiếc gáo tre, nàng bỗng nghe ngoài cửa có tiếng động như tiếng liếp sập xuống.
Quán trà tuy lớn nhưng vẫn là một ngôi hàng miền sơn cước, cửa ngõ đến khuya mới khóa, khách vãng lai chỉ cần đẩy chiếc then gỗ cài lỏng lẻo là vào được dễ dàng.
Cụ Osugi và cậu Gon bước qua ngưỡng cửa. Trong nhà tối đen như mực. Bà lão rỉ tai em:
- Tối quá ! Nó nằm ở đâu vậy ?
- Để tôi đi nhóm lửa. Hồi chiều tôi thấy nó ở bên này.
Khi mồi lửa đã gây xong, ánh sáng vàng vọt càng làm tăng thêm sự trống trải của gian phòng rộng. Hai chị em bước nhẹ sang căn bên:
chiếc chiếu vẫn còn nguyên đó nhưng trên chiếu chỉ trơ trọi một túi vải thô. Otsu không còn nằm đấy nữa !
Cụ Osugi nhìn cánh cửa hé mở phía sau và bóng Otsu thấp thoáng cạnh lu nước. Bà kêu lên:
- Kia kìa ! Nó kia kìa !
Otsu giật mình, tiện tay cầm chiếc gáo ném ngay vào mặt bà lão rồi bỏ chạy xuống đồi, vạt kimono xòe rộng như cánh hạc trắng trong đêm tối. Cụ Osugi vuốt nước lạnh trên mặt, gọi rối rít:
- Cậu Gon ! Cậu Gon ! Đuổi theo nó đi !
- Nó chạy rồi hả ?
- Dĩ nhiên nó chạy rồi ! Tại cậu mở cửa làm rơi tấm liếp, nó thấy động chạy mất rồi. Thật chẳng được cái tích sự gì !
Bà dậm chân tức giận, cầm gậy đuổi theo. Trong màn đêm bắt đầu xuống dày đặc ở ven rừng, bóng Otsu thấp thoáng trên đồng cỏ gianh như một con nai vừa vượt thoát khỏi tay đám thợ săn tàn ác.
- Không sao ! Chị để tôi. Nó đang ốm mà chân con gái bì với tôi thế nào được. Bắt lại khó gì !
Cậu Gon hít một hơi dài, phóng theo. Tiếng cụ Osugi chạy sau dặn với:
- Dùng gươm dọa nó chứ đừng giết. Đem nó về đây cho ta hỏi tội !
Nhưng mới được một quãng, cậu Gon kêu lên kinh ngạc. Cụ Osugi lo sợ hỏi:
- Cái gì thế ?
- Chị coi kìa !
Bà lão chạy đến:
ngay dưới chân hai người, sâu chừng một trượng là một khe đất hở khá rộng chạy dài mãi đến tận khu rừng kế cận, bụi gai và tre chen nhau mọc chi chít.
- Sao ? Nó nhảy xuống đấy à ?
- Vâng. Chắc cũng không sâu lắm !
Cụ Osugi nắm vai câu em lắc mạnh:
- Vậy cậu còn đợi gì nữa ?
Có tiếng sột soạt trong lòng khe như tiếng vải bị xé rách và tiếng chân đạp cành khô tìm chỗ đứng.
- Trời tối như thế, chị thử nhảy xuống coi ! Phải về quán đốt đuốc mới tìm được chứ !
oo Takezo khoanh tay ngồi trên phiến đá lớn, chăm chú nhìn đồn Hinagura bên kia thung lũng. Chị hắn đang bị giam tai đó. Hắn ngồi từ sáng đến chiều hôm trước, rồi gần như cả ngày hôm nay vẫn chưa tìm được cách gì cứu Ogin. Hắn nhất định không chịu rời khỏi nơi này khi chưa cứu được chị. Binh sĩ trong đồn có đến trên dưới năm chục người canh gác. Nhìn địa thế xung quanh, cân nhắc đường tiến thoái, hắn thấy khó quá. Sau đồn có khe núi sâu hiểm trở; trước đồn, hai lần cửa gỗ dày kiên cố.
Hơn nữa tứ bề đều là bãi hoang, cỏ thấp và cằn cỗi, không một lùm cây hay bụi rậm khả dĩ len lỏi trốn tránh. Vào một ngày trong sáng như ngày hôm nay, tấn công vào đấy chỉ làm bia cho tên đạn trong đồn bắn ra. Có lẽ phải đợi đến đêm. Nhưng Takezo quan sát thấy cửa đồn đóng sớm lắm, ngay sau khi mặt trời lặn. Ban đêm, bò đến gần mở cửa, chắc chắn sẽ làm cho đường dây báo động rung các mõ gỗ đánh thức cả đồn dậy. Suy đi tính lại mãi mà không tìm được kế gì tạm gọi là an toàn để lẻn vào đồn một cách êm thấm. Takezo buồn bã vì bất lực.

Acmagiro
06-02-2008, 03:35 PM
“Cách gì cũng nguy hiểm vừa cho chị ta và cũng cho ta nữa. Mà không biết có kết quả gì không !”. Hắn thở dài. “Sao bây giờ ta hèn quá ! Trước đây đâu có vậy, cần gì đắn đo sống chết !”.
Hôm sau hắn lại ra chỗ cũ, ngắm đồn Hinagura, bồn chồn lo lắng. Hắn không dám lại gần, chỉ quanh quẩn bên hốc núi, tự trách mình mất hết can đảm. Chưa bao giờ hắn thấy kém cỏi như vậy, phân vân không biết như thế là hèn nhát hay thận trọng. Hắn đăm chiêu suy nghĩ về những lời khuyên của Takuan:
bạo hổ băng hà tử nhi vô hối.
Hắn có một mình phải đương đầu với mấy chục người, thất bại là chết. Hắn chết, chị hắn chết. Hai cái chết vô ích. Hắn trở lại bình tĩnh hơn, tính chất nghiêm trọng của vấn đề làm hắn tự thấy mình có trách nhiệm phải đắn đo, cân nhắc.
Dũng cảm không phải là hung bạo. Đột nhiên hắn thấy rõ ý nghĩa của những lời nói khôn ngoan ấy.
Takezo thở phào nhẹ nhõm như vừa giải quyết xong được một chuyện khó khăn, như vừa trút bỏ được cái xác nặng nề của một con vật để trở thành người dũng cảm, không ngoan, không bị những hành động hiếu thắng nhất thời chi phối.
Như viên ngọc thô, mạng sống của hắn là một vật báu vô giá, nếu không được giũa mài, viên ngọc chỉ là đồ vô dụng.
Takezo ngửa mặt nhìn trời cao, màu xanh trong vắt huyền diệu. Tâm hồn hắn hôm nay cũng giống như màu xanh kia, không bị một đám mây thù hận nào làm vẩn đục. Nhưng nghĩ đến chị, lòng hắn lại dạt dào thương xót. Không lẽ để Ogin cứ bị giam mãi trong đó ! Hắn nhất định cứu chị ra, dù lần này có phải dùng đến những hành động trái với bài học hắn vừa mua bằng nhiều đau thương nhục nhã. Hắn quyết định thi hành kế hoạch.
“Đợi đêm khuya, ta vòng ra sau núi. Ghềnh đá dốc như vậy mà lại hay, chắc chúng ỷ vào địa thế thiên nhiên hiểm trở không canh gác kỹ. Chờ xem động tĩnh ra sao, ta sẽ trèo vào đồn sau”. Vừa nghĩ đến đó, một mũi tên bay đến cắm phập xuống đất, cạnh chỗ hắn ngồi chừng vài bước. Bên kia thung lũng, lính canh lố nhố chỉ trỏ. Chắc chúng đã trông thấy hắn và bắn thử một mũi tên xem phản ứng.
Hắn yên lặng, ngồi nguyên chỗ cũ.
Mặt trời sắp lặn. Từ sau những chỏm núi về phương tây, ánh nắng chiếu lên các tầng mây hắt xuống tỏa ra thành những tia sáng như nan quạt vàng rực. Một con chim bay ngang, Takezo cầm đá ném. Con vật bất hạnh rơi xuống cỏ, hắn nhặt lên vặt lông ăn bữa chiều. Cắn vào thịt chim bê bết máu và nóng hổi, hắn lại thấy khơi dậy bản năng dã thú, lòng sôi sục đau thương và căm giận, hắn muốn giết.
Tiếng la hét từ chân núi theo chiều gió vang đến tai Takezo. Một toán chừng hai chục binh sĩ trong đồn cầm vũ khí ào ào leo đường mòn đến gần chỗ hắn đứng. Họ chỉ trỏ bao vây hắn.
- Nó đấy ! Nó đấy ! Bắt lấy nó !
- Takezo ở Miyamoto đấy. Cẩn thận, nó khỏe lắm !
Takezo chưa ăn hết con chim. Đưa mắt nhìn toán lính, ánh mắt hắn đầy tức giận như mắt của loài dã thú nguy hiểm bị quấy rối lúc đang ăn.
Hắn ngồi xổm xuống, hai tay quơ hai hòn đá lớn.
- A ...á ...á Sau tiếng thét ghê hồn, hai hòn đá bung ra, thây người ngã xuống. Hàng rào binh sĩ dạt ra hỗn loạn. Bóng Takezo như lằn chớp phóng xuống chân đồi chạy thẳng đến cổng đồn.
Không ai kịp phản ứng, lúc sau mới ùa theo la hét. Takezo đã như con hổ bị thương, nhảy đến cổng đồn vượt qua lần cửa thứ nhất. Hắn say máu không để ý đến toán binh sĩ đuổi phía sau, đấm một quả như trời giáng vào đầu tên lính gần đó định nhảy lại cản hắn. Tiện tay hắn nhổ luôn cây cột rào, vung loạn xạ, gặp gì đánh nấy.
Không cần biết là người hay vật, hắn đập liên hồi trong tiếng kêu thất thanh của bọn lính, phá tung lần cổng gỗ thứ hai chạy vào các phòng giam.
- Ogin ! Chị Ogin ! Em đây, Takezo ! Em vào cứu chị ...
Mắt hắn đổ lửa, nhìn láo liên. Phòng nào cửa đóng, hắn lấy cây cột rào đập tan nát. Trong bóng đêm chập choạng, những tiếng kêu đau đớn lẫn với tiếng chân sầm sập chạy tứ tán, điên cuồng như trong một trận hỗn chiến.
- Ogin ! Ogin ... ! Ogin ... !
Không thấy Ogin, tiếng Takezo kéo dài và lạc đi như tiếng hú.
Trong bóng tối một gian phòng giam bẩn thỉu, có người đương tìm cách chui ra ngoài. Takezo nhảy bổ tới, lấy chân chặn cổ. Hình thù nhỏ thó ấy kêu thất thanh, lạy van rối rít. Takezo nắm cổ áo gã xách lên, gầm như rống:
- Chị tao đâu ? Ogin đâu ? Không nói tao đập chết !
- Dạ ...dạ ...Ogin không ở đây nữa, bị giải đi nơi khác rồi.
- Bao giờ ? Ở đâu ?
- Dạ ... hôm kia, đi Himeji.
- Himeji ?
- Dạ phải.
- Mày nói láo tao giết.
Takezo nắm tóc hắn. Hắn rên rỉ:
- Dạ dạ ... tôi không nói láo ... Tôi thề ...
- Vậy được. Mong mày nói đúng, nếu không ...
Toán lính ập tới cửa. Takezo tung người đó ra như một võ khĩ, ném vào đầu bọn lính rồi lẩn vào bóng tối nhà giam, thoát ra cửa sau chạy trốn.
Hàng chục mũi tên bắn theo veo véo. Một mũi tên trúng vào vạt áo hắn như một cây kim khâu lớn. Takezo vụt qua sân, nhảy lên hàng rào rồi nhanh như chớp, vượt ra khỏi đồn. Đằng sau hắn, tiếng súng nổ hồi vang dội trong đêm tối.
Takezo tụt nhanh xuống ghềnh đá. Hắn nghe văng vẳng lời khuyên của Takuan:
“Người hiệp sĩ yêu cuộc sống ... Hung tợn là sức mạnh của loài thú ... Phải sợ những điều đáng sợ ...”.

Acmagiro
06-02-2008, 03:38 PM
QUYỂN 1 : Chi No Maki
CHƯƠNG 9
MIYAMOTO MUSASHI





Takezo đợi ở vùng ngoại ô thành Himeji, lúc đứng trên cầu Hanada kín đáo ngó người qua lại, lúc ẩn dưới chân cầu, lần theo những đường phố nhỏ hẹp ra vào thị trấn hay đi lẫn trong đám đông. Chiếc nón sụp xuống tận mắt, manh chiếu cũ quấn quanh mình đến cằm, trông hắn chẳng khác gì một tên ăn mày nghèo khó.
Hắn ngạc nhiên không thấy Otsu đâu. Nàng hứa đợi trăm ngày hay ngàn ngày cũng đợi mà sao mới có một tuần đã không thấy bóng dáng. Takezo rất sợ khi hứa với ai điều gì không giữ được lời. Đã nhiều lần hắn muốn bỏ đi, nhưng còn nấn ná, một phần vì chưa gặp Otsu, một phần muốn nhân cơ hội tìm chỗ giam chị.
Theo dòng người tiến sâu vào thị trấn, đương miên man suy nghĩ, đột nhiên hắn nghe tiếng gọi phía sau:
- Takezo !
Giật mình quay lại, thấy Takuan rảo bước đi tới. Hắn ngạc nhiên bực bội, không ngờ nhà sư này đã nhận ra hắn trong bộ cải trang rách rưới.
Takuan nắm tay Takezo, giọng gọn và sắc:
- Theo ta !
Giữa đường phố chẳng biết phản ứng ra sao, hắn lúng túng. Nhìn ánh mắt hiền hòa nhưng nghiêm nghị của Takuan, Takezo như bị thôi miên.
- Đừng làm bậy ! Ta mất công tìm ngươi đã lâu.
Takezo líu ríu theo nhà sư. Hắn không mảy may biết Takuan dẫn mình đi đâu, nhưng một lần nữa, không thể nào chống lại ý muốn của vị tăng kỳ lạ này. Không hiểu sao, hắn linh cảm mình sẽ bị dẫn về cây đại bách sau chùa hoặc đem đi nhôt ở một căn hầm tối tăm nào đó trong lâu đài, có thể cùng một chỗ với chị hắn. Tự nhiên hắn mong được gặp mặt chị. Bây giờ nếu có phải chết thì Ogin, người mà hắn thương yêu nhất, sẽ là người cùng hắn chia sẻ những giây phút cuối cùng trên dương thế.
Takuan dẫn Takezo đi một lúc thì thấy lâu đài Himeji sừng sững hiện ra trước mặt. Nhìn tòa nhà đồ sộ, hắn hiểu tại sao người ta lại gọi nó là Bạch Hạc lâu. Lâu đài trắng toát, uy nghi đứng trên thành đá hoa cương cao vút không khác gì một loài kỳ điểu từ trên trời đậu xuống ngạo nghễ.
Takezo theo Takuan qua chiếc cầu lớn bắc ngang chiến hào bên ngoài.
Toán lính mặc giáp sắt, nghiêm chỉnh canh phòng trước cổng thành, gươm giáo loang loáng dưới nắng hè làm hắn chột dạ. Takuan không quay đầu nhìn lại nhưng cũng biết ý, nắm chặt tay hắn để trấn an và khích lệ. Hai người qua cổng thành thứ nhất, đến cổng trong, thấy binh sĩ còn đông và nghiêm túc hơn như sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc. Đây là nội điện, nơi quan đầu lãnh cư trú. Những cảnh này, dân chúng không khỏi sợ hãi. Sống trong cảnh tranh chấp hỗn loạn đã lâu, cũng như tại nhiều lâu đài ở các địa phương khác, sự thanh bình là một nếp sống xa xỉ làm họ bỡ ngỡ không quen.
Takuan đến gần toán lính canh, nói với viên đội trưởng:
- Hắn đây !
Rồi yêu cầu làm theo những điều ông dặn:
- Đội trưởng cẩn thận ! Mãnh sư chưa thuần, đừng có khinh lờn, nguy hiểm lắm !
Và tiếp tục đi qua cổng lớn tiến vào nội điện. Mọi người để ông tự do, dường như đã quen với sự lui tới của vị thiền sư này.
Viên đội trưởng yên lặng nhìn Takezo, giơ tay ra hiệu mời hắn theo mình đến một dãy nhà thấp và bảo hắn vào tắm cho sạch sẽ. Takezo ngần ngại. Hắn nghĩ đến lần tắm trước ở nhà cụ Osugi và cái bẫy hắn đã ngu dại chui đầu vào để suýt nữa thì mất mạng. Đứng giáp vào tường, khoanh tay trước mặt, hắn đưa mắt nhìn quanh.
Nơi đây thật yên tĩnh. Đúng là cảnh thái bình, an lạc ; cây cỏ xanh mướt, tươi tốt như ở một hoang đảo, xa mọi chuyện thị phi. Chắc đại gia dùng nơi này để hưởng mọi lạc thú sau khi trận mạc vất vả.
Một gia nhân bước vào mang bộ kimono đã gấp sẵn, cung kính để trên ghế cùng với các đồ trang phục khác.
- Để ngài dùng khi tắm xong. Cần gì, đại nhân cứ truyền, tiểu tốt túc trực ngoài kia.
Rồi lặng lẽ cúi đầu lui bước.
Những đồ trang phục để trên ghế, ngoài bộ kimono đen, còn có một cây quạt, vài chiếc khăn lụa với một cặp kiếm, một trường, một đoản. Tất cả đều giản dị, không đắt tiền nhưng đủ dùng cho một Samurai. Thấy được đãi ngộ một cách quý trọng, hắn cảm động, muốn cúi xuống cầm khăn lên áp vào má để hưởng mùi thơm và hơi ấm của lụa mới. Hắn yên tâm, mở cửa bước vào phòng tắm.
Ikeda Terumasa đứng tì tay trên lan can trước hàng hiên tư dinh, nhìn ra vườn. Ông lùn và mập, nửa đầu phía trước cạo trọc theo kiểu các Samurai đã được thụ phong, mặt lấm tấm rỗ hoa. Tuy không mặc triều phục nhưng dáng điệu rõ ra phong cách đại gia, nghiêm trang và đĩnh đạt.
Thấy Takezo từ đằng xa, ông cầm quạt chỉ và hỏi Takuan:
- Phải hắn đấy không ?
- Dạ phải.
Nhà sư cung kính cúi đầu.
- Trông được đấy chứ. Đại sư cứu hắn là phải lắm !
- Đó là nhờ ơn đại gia, không phải do bần tăng.
- Đại sư quá khiêm tốn ! Nếu ta được vài người như đại sư giúp đỡ thì biết bao kẻ hữu ích đã không uổng mạng và toàn dân miền này cũng khá hơn !
Nói xong, ông ta thở dài:
- Điều làm ta đau lòng là hầu như tất cả thủ hạ của ta đều chỉ biết có việc bắt trói và chặt đầu người.
Lát sau, Takezo được dẫn đến trình diện Ikeda. Ngồi trong vườn, đầu hơi cúi, hay tay kính cẩn để trên đùi, hắn nghe tiếng Ikeda Terumasa hỏi, giọng trầm và ấm:
- Ngươi tên Shinmen Takezo phải không ?
Takezo ngước mắt nhìn khuôn mặt của đại danh, rồi tỏ vẻ tôn kính đáp:
- Dạ, thưa phải.
- Họ Shinmen là một chi trong dòng họ Akamatsu. Và Akamatsu Masanori, chắc ngươi cũng biết, trước đây là lãnh chúa cư ngụ tại lâu đài này.
Takezo thấy cổ họng như thắt lại. Hắn chẳng biết trả lời sao. Là đứa nghịch tử của dòng họ, từ nhỏ hắn đã làm nhiều chuyện động trời, không kiêng nể gì các lãnh chúa nhưng không ngờ đồi trụy đến mức làm mất cả danh giá tổ tông như thế ! Bây giờ có người nhắc lại quá khứ, hắn xấu hổ mặt đỏ bừng.

Acmagiro
06-02-2008, 03:39 PM
- Những điều ngươi làm không tha thứ được !
Lời Ikeda trở nên nghiêm khắc như những lời buộc tội:
- Ta buộc lòng phải trừng phạt ngươi.
Quay sang Takuan, Ikeda Terumasa hỏi:
- Thủ hạ của ta, Aoki Tanzaemon, đã tự tiện hứa nếu đại sư bắt được tên này thì có toàn quyền muốn trừng phạt ra sao mặc ý, đúng không ?
- Xin đại gia hỏi thẳng Tanzaemon.
- Ta hỏi hắn rồi.
- Vậy đại gia cho rằng bần tăng đã dối gạt đại gia chăng ?
- Dĩ nhiên là không. Tanzaemon đã thú nhận, nhưng ta muốn đại sư xác quyết.
Mặc dầu không được phép, nhưng hắn là thủ hạ của ta. Lời hắn đã hứa, ta phải trọng.
Cho nên tuy là đại danh vùng này, ta không có quyền phạt Takezo nữa. Tùy đại sư định liệu.
- Bần tăng đã có dụng ý.
- Ta đoán không sai. Vậy đại sư cho nghe cao kiến.
- Bần tăng thiển nghĩ nên giữ tội nhân lại một thời gian để huấn phục.
- Nữa ?
- Bần tăng nghe nói phía nam lâu đài có một căn thạch thất bỏ phế lâu ngày, không ai dám lai vãng vì nhiều ma quỷ ...
- Đúng ! Thạch thất đó ở riêng một khu, không dùng được việc gì nên tối tăm ẩm thấp lắm. Đã lâu không ai mở cửa.
- Vậy đại gia không phiền lòng khi trong lâu đài của đại gia có nhiệm vụ soi sáng muôn dân lại có một căn phòng không ánh sáng hay sao ?
- Ờ, ta chẳng bao giờ nghĩ đến điều đó đấy !
- Bá tánh có thể nghĩ như vậy và có hại đến uy tín đại gia. Bần tăng đề nghị xin được soi sáng ngôi thạch thất ấy !
- Hừ ...
- Nếu đại gia cho phép, bần tăng sẽ sử dụng nó làm nơi giam giữ Takezo cho đến khi nào hắn đủ sáng suốt. Hắn sống tối tăm đã lâu rồi, bây giờ là lúc cần chỉ cho hắn một con đường quang đãng. Takezo, ngươi nghe ta nói không ?
Takezo không đáp, nhưng Ikeda cười ha hả. Ông gật đầu vừa ý:
- Được lắm ! Được lắm ! Thật hợp ý ta !
Takuan và Ikeda tuy không cùng địa vị trong xã hội nhưng thông cảm nhau thật dễ. Cả hai đều là thiền hữu và coi nhau thân thiết tựa anh em. Ông tiếp:
- Sau khi dẫn hắn đến thạch thất, xin đại sư trở lại dùng trà. Ta đợi.
Nói xong, ông khoan thai trở vào nội sảnh. Hình dáng đại danh Tokugawa thấp lùn nhưng sự hiện diện của ông như bao trùm khắp tòa lâu đài to lớn.

Acmagiro
06-02-2008, 03:40 PM
oo Đêm đã khuya lắm. Trong căn nhà đá trên đỉnh vọng lâu, Takezo vẫn còn ngồi suy nghĩ. Ở đây, thời gian như ngưng hẳn, không đồng hồ, không lịch, không xuân hạ thu đông, bốn mùa qua đi chẳng ai hay biết. Trong phòng tối âm u, chỉ còn ngọn đèn dầu leo lét tỏa ánh sáng vàng vọt lên khuôn mặt xanh xao của Takezo ngồi yên lặng trước tập Tôn Tử binh pháp đặt trên chiếc kỷ thấp. Cuốn sách mở tới thiên “Địa hình”:
“Tôn Tử nói:
Hình đất có chỗ thông, chỗ vướng, chỗ trống, chỗ hẹp, chỗ hiểm, chỗ xa. Hình thông, chiếm trước chỗ cao sáng, giữ đường lương thuận thì lợi. Hình vướng, quân địch không phòng, ra quân sẽ thắng. Quân địch có phòng, ra quân không thắng, rút về khó, ắt không lợi ...”.
Mỗi khi đọc đoạn nào không hiểu, Takezo lại ngồi thừ người suy nghĩ, đọc đi đọc lại. Đoạn nào hay, hắn lẩm nhẩm thuộc lòng tựa người tụng kinh. “Cho nên kẻ biết việc binh, công không lầm, thủ không quẫn. Biết mình biết người, phần thắng đã đành ; biết đất biết trời, trăm trận trăm được ...”.
Khi mỏi mệt hoặc buồn ngủ, hắn với tay lấy bát nước để sẵn bên vã lên mặt cho tỉnh táo. Hết dầu, hắn rót ở hũ ra. Góc phòng, sách xếp hàng đống:
binh thư, kiếm pháp, kinh điển, chữ Nhật có, chữ Hán có, nhiều vô số kể. Suốt ngày, hắn vùi đầu vào đọc theo những thư chỉ dẫn của Takuan gửi vào, cùng với các bộ sách tham khảo mượn trong thư các của Ikeda.
Trước khi tự nguyện giam mình vào thạch thất, Takezo đã nghe lời Takuan:
- Ta sẽ gửi sách vào cho ngươi đọc. Hãy trau dồi kiến thức trước khi trau dồi võ công. Một danh tăng đã nói:
“Vùi đầu trong kinh điển, ta đọc thiên thư, vạn quyển. Đọc xong, thấy lòng thông suốt”. Ngươi hãy coi căn thạch thất này như bụng mẹ và hãy chuẩn bị tái sinh. Nếu ngươi coi nó bằng mắt thì đây chỉ là một căn phòng tầm thường, trống rỗng, tối tăm ; nhưng nếu ngươi coi nó bằng trí óc rồi để tâm phán đoán, suy xét thì phòng này chính là con thuyền đại giác đưa ngươi tới ánh chân quang. Tùy ngươi quyết định.
Takezo từ lâu đã không còn đếm ngày tháng. Trời lạnh là mùa đông, trời nóng là mùa hè, hắn không cần biết thêm mà bốn mùa cũng không ảnh hưởng gì đến hắn. Không khí trong phòng lúc nào cũng ẩm thấp. Nhưng có điều chắc chắn là lần này nếu chim én lại bay đến làm tổ dưới mái vọng lâu thì là lần thứ ba, kể từ khi hắn đến ở căn thạch thất. Mùa xuân thứ ba trong bụng mẹ !
Hắn tự nhủ:
“Sắp hăm mốt rồi ! Ta đã làm gì đời ta trong suốt hăm mốt năm ấy?”.
Nghĩ đến những điều đã làm, nhiều khi hối hận khóc rưng rức lên như đứa trẻ. Cơn đau đến dằn vặt làm hắn mệt mỏi, ê chề có khi cả ngày, lòng đau như cắt.
Cho đến một hôm, khi đàn én đầu xuân đã bắt đầu bay đến chao đi chao lại trên mái vọng lâu, hắn bỗng nghe tiếng ai gọi tên ngoài cửa sắt. Âm thanh quen thuộc, nhưng tiếng nói dường như lạ tai. Đã lâu lắm, hắn không được nghe tiếng đồng loại.

Acmagiro
06-02-2008, 03:42 PM
- Takezo, ngươi vẫn mạnh chứ ?
Sau tiếng mở khóa lách cách, dáng quen thuộc của Takuan hiện ra trên khung cửa. Takezo quá xúc động, không nói nên lời, giơ tay vụng về nắm áo nhà sư kéo vào phòng. Mấy năm nay, những gia nhân mang cơm nước vào cho hắn đều như câm điếc, bây giờ nghe lại giọng và trông mặt người quen cũ, hắn không thể nào không mừng rỡ.
- Ta mới đi xa về. Ba năm rồi đấy nhỉ, chắc giờ ngươi đã giác ngộ hơn trước.
- Thầy Takuan ! Con biết thầy hết lòng thương con. Con thành thật cảm ơn thầy.
Takuan ngạc nhiên, mỉm cười vỗ vai Takezo:
- Trong căn thạch thất vắng vẻ này, mấy năm nay không có ai trò chuyện, vậy mà bây giờ con đã biết xử sự như một người. Tốt lắm ! Hôm nay ta dẫn con ra khỏi nơi đây.
Hãy giữ lấy những kiến thức đã thu thập được sau nhiều năm tháng khổ luyện. Ra đời, tiếp xúc với xã hội, vốn đó quý lắm đấy con ạ !
Takuan dẫn Takezo đến ra mắt Ikeda Terumasa, lần này trong đại sảnh chứ không ở ngoài vườn như trước. Sau phần nghi lễ thường lệ, đại danh ngỏ ý muốn thu hắn làm thuộc hạ, Takezo từ chối:
- Tiểu nhân rất cảm kích, nhưng tự xét bây giờ chưa phải lúc. Vả lại vong hồn người đã khuất hẳn sẽ ngăn cản không cho tiểu nhân nhận ân sủng ấy.
- Sao vậy ? Ngươi đã gặp những hồn ma trong căn thạch thất chăng ?
- Thưa không. Khi còn ở căn nhà đá, tiểu nhân có thấy trên xà nhà và vách tường nhiều vết đen lấm tấm. Mới trông tưởng là sơn, nhưng cầm đèn soi kỹ thì không phải.
Đó là những vệt máu người, máu tổ tiên của tiểu nhân còn lưu lại trước khi chết để bảo vệ dòng họ.
- Hừ ... có thể lắm !
- Nhìn những vết máu ấy, tiểu nhân đau đớn và xấu hổ. Ông cha tiểu nhân đã có một thời oanh liệt, rồi vì lầm lỗi đã thất bại và chết thảm, oan hồn vật vờ như lá thu trước gió. Nhưng những giọt máu hào hùng ấy vẫn còn luân lưu trong huyết quản của tiểu nhân đây ...
Takezo nói đến đấy, mắt quắc lên, sáng như đổ lửa:
- Một ngày nào đó, giòng máu ấy sẽ khôi phục lại khí thế xưa. Tuy bất xứng, nhưng tiểu nhân vẫn thuộc dòng họ của tổ tiên. Anh linh các Người sẽ đưa đường chỉ nẻo để tiểu nhân trả mối cừu hận, bấy giờ e rằng tiểu nhân không thể không nghe lời ... Thưa đại gia, thời này chưa phải thời thái bình. Vì dân và vi ơn đức của đại gia, tiểu nhân có bổn phận không nên để mối thù ấy khơi dậy.
Takuan gật đầu:
- Ta hiểu ý. Đi là phải, nhưng đi đâu ? Con định trở về Miyamoto, sống cả đời ở đó chăng ?
Takezo mỉm cười buồn bã:
- Con muốn một mình trở lại Miyamoto một lần thôi.
Ikeda quay lại nói với Takuan:
- Ta hiểu. Vậy xin đại sư bảo với thuộc hạ lo tiền bạc và quần áo chu tất cho hắn.
Takuan cúi đầu:
- Đa ta đại gia đã quan tâm.
Ikeda mỉm cười:
- Takuan ! Lần đầu tiên ta thấy đại sư cám ơn ta đấy !
Thiền sư cũng cười:
- Quả có thế. Bần tăng sẽ không tái phạm nữa.
- Hắn còn trẻ, đi cho biết đó biết đây là tốt. Tái sinh, có phải đại sư dùng chữ tái sinh không, thì phải có họ tên mới chứ. Hắn sinh tại Miyamoto, đặt họ là Miyamoto để không quên cái gốc. Đại sư nghĩ thế nào ?
- Đại gia nói rất phải. Còn tên Takezo, theo Hán tự thì là Musashi, vậy bần tăng xin đặt tên mới là Musashi.
- Hay lắm ! Hay lắm ! - Ikeda gật đầu. - Takezo ! Kể từ nay, tên ngươi là Miyamoto Musashi. Gắng giữ lấy cái chí để trở nên người hữu ích !
Takezo cúi rạp đầu, kính cẩn:
- Tiểu nhân xin tuân mệnh !
- Miyamoto Musashi ! Cái tên thật hay ! Nào chúng ta hãy uống rượu mừng tên mới !
Ikeda lãnh đứng dậy, theo sau là Takuan và Takezo. Ba người kéo nhau sang phòng bên, khay rượu bày ra, chén thù chén tạc cho đến tối. Thân hữu và bộ tướng của Ikeda cũng được mời đến. Trong bữa tiệc, Takuan cao hứng đứng dậy, biểu diễn một vũ điệu xưa.
Takezo, bây giờ là Miyamoto Musashi, ngạc nhiên không ngờ ân nhân của mình không những là một học giả uyên bác mà còn là một nghệ sĩ tài hoa làm hắn càng thêm cảm phục.
Cuộc vui kéo dài đến khuya mới dứt.
Hôm sau, Miyamoto Musashi và Takuan cùng rời khỏi lâu đài.
Musashi chập chững những bước đầu tiên trong nếp sống mới, một nếp sống khắt khe hắn tự nguyện tuân theo để rèn luyện kiếm pháp mà trong ba năm khổ hạnh hắn đã phần nào lãnh hội được lý thuyết.
Còn Takuan có những dự tính riêng:
ông tiếp tục cuộc hành hương thăm các chùa chiền để trau dồi thêm về thiền đạo.
Bây giờ đã đến lúc hai người phải chia tay. Ra khỏi thị trấn, Musashi quay lại giã từ ân nhân. Takuan nắm tay hỏi:
- Con muốn gặp ai nữa không ?
- Ai ?
- Ogin.
- Chị con còn sống hả thầy ?
Hắn không ngờ người chị thương yêu đã nhiều lần săn sóc hắn như một người mẹ vẫn còn trên dương thế, nhưng hắn không dám hỏi. Takuan cho biết ba năm trước đây, Ogin bị giải đến lâu đài, nhưng vì không chứng cớ nên đã được tha. Chị hắn không muốn trở về làng cũ, hiện ở cùng với người bà con xa tại trấn Sayo, cuộc sống bình yên và sung túc.
- Con muốn gặp chị con không ? Nàng mong lắm. Ba năm trước ta đã nói với nàng là con chết rồi, nhưng ta có hứa sẽ dẫn đến thế cho nàng một người em mới, khác với Takezo xưa kia.
Musashi giơ hai tay chắp ngang trán, tỏ vẻ kính trọng như đứng trước Phật đài, giọng run run cảm động:
- Không những thầy đã hết lòng thương con mà còn quan tâm đến chị con như thế, lòng từ bi ấy con biết lấy gì báo đáp !
- Vậy để ta dẫn con đến thăm Ogin, đấy là cách con cảm ơn ta đó.
- Không, con nghĩ không cần thiết. Thầy cho con biết tin là đủ. Để chị con coi con như chết, và con cũng tin như thế. Bây giờ không phải lúc quay lại dĩ vãng mà cần hướng về tương lai. Con đường chập chững trên đường đi tìm chính mình, không biết có đủ quyết tâm để cải thiện bản thân hay không, chừng nào tiến bộ đôi chút, bấy giờ có lẽ nhìn về quá khứ cũng không muộn, nhưng bây giờ thật chưa phải lúc.
- Ừ, con nghĩ thế cũng được.
- Con nói không được gãy gọn, mong thầy hiểu cho.
- Ta hiểu chứ. Ta rất vui lòng thấy con quyết tâm theo đuổi mục đích như vậy. Hãy cứ làm những gì con cho là đúng với lương tâm.
- Vậy xin giã biệt thầy. Một ngày nào đó, nếu còn hơi thở, con xin lại đến bái yết.
- Tốt lắm, nếu có cơ hội, con chớ bỏ qua.
Takuan quay lưng đi, nhưng được vài bước lại dừng lại.
- À, còn chuyện này nữa. Cụ Osugi và cậu Gon đương tìm con và Otsu đấy. Họ nhiều tuổi rồi, nhưng nhất quyết đi tìm để trả hận. Có thể họ cũng làm phiền con, nhưng không quan trọng lắm đâu, đừng để tâm. Lại còn Tanzaemon nữa. Con không biết hắn, hắn là viên đội trưởng chỉ huy toán binh sĩ lùng bắt con ngày trước, vì không làm tròn bổn phận, giờ bị loại ra khỏi đám thuộc hạ của Ikeda rồi. Chắc ngày nay hắn cũng chỉ là thảo khấu trong vùng mà thôi !

Acmagiro
06-02-2008, 03:42 PM
Takuan trở nên đăm chiêu:
- Miyamoto Musashi ! Đường con đi không phải là không có trở ngại. Phải cẩn thận mới được !
- Con sẽ cố gắng.
- Vậy ta yên tâm. Thôi, ta đi đây.
Takuan quay gót về hướng tây. Musashi đứng nhìn theo cho đến khi bóng nhà sư khuất hẳn, hắn mới cất bước. Để tay vào đốc kiếm, hắn vừa đi vừa suy nghĩ:
“Bây giờ chỉ còn thanh kiếm này là vật duy nhất trên đời ta tin cậy”. Hắn lẩm bẩm như nói với chính mình. “Ta sẽ tuân theo kỷ luật, coi thanh kiếm này như chính hồn ta, tu tỉnh thành người khôn ngoan và lương thiện. Takuan theo thiền đạo, còn ta theo kiếm đạo, chưa chắc ai đã hơn ai. Ta còn trẻ, đâu đã lấy gì làm trễ !” Bước đi của Musashi vững vàng, mạnh mẽ. Hất vành nón lá lên cao, nhìn quãng đường tương lai trước mặt, quãng đường vô định ai cũng phải qua, chẳng nhiều thì ít, hắn thấy lòng chứa chan tin cậy và hy vọng.
Musashi chưa đi xa, mới ra khỏi ngoại ô thành Himeji được một quãng thì một thiếu nữ ở trên cầu Hanada chạy tới. Hắn nheo mắt, lấy tay che cho khỏi chói, rồi ngạc nhiên kêu lớn:
- Otsu !
Otsu chạy đến nắm áo hắn:
- Takezo ! Chàng nhớ cầu này là cầu gì không ? Chàng có nhớ Otsu hứa đợi chàng ở đây không ?
- Otsu đợi ta ba năm ở đây đấy ư ?
- Vâng. Cụ Osugi và cậu Gon suýt nữa bắt được em khi em nằm bệnh ở quán trà chân núi, nhưng may sao em thoạt chạy được và trốn đến đây. Otsu vẫn đợi chàng.
Nàng chỉ một cửa hàng nhỏ, làm những vật kỷ niệm bằng tre đan bán cho khách qua đường gần đó:
- Otsu kể tình cảnh họ nghe. Họ thương tình nhận cho vào giúp việc, nên mới có chỗ trú đợi chàng đấy chứ. Hôm nay là ngày thứ chín trăm bảy mươi, Otsu đâu có quên lời hứa !
Nàng nhìn mặt Musashi như dò xét:
- Takezo ! Chàng dẫn em theo chứ ?
Musashi thật chẳng có chút ý định gì mang theo Otsu hay bất cứ ai. Lúc này hắn vội đi, trong lòng đã quyết muốn tìm chỗ tự mình luyện kiếm. Đến chị hắn, người hắn thương yêu và muốn gặp mặt nhất, hắn cũng phải cố quên, nói gì đến Otsu hắn vẫn coi là vị hôn thê của Matahachi, bạn hắn. Vả lại, làm sao đủ sáng suốt tự buộc mình vào kỷ luật khi luôn luôn có người đi kèm làm rộn. Những ý tưởng này mặc nhiên hiện lên nét mặt không dấu được. Hắn hỏi, giọng hơi sẵng:
- Dẫn Otsu đi ? Nhưng đi đâu mới được chứ ?
- Thì chàng đi đâu, em theo đó.
- Cuộc hành trình của ta dài và gian khổ, không phải là một cuộc du ngoạn.
- Otsu sẽ không làm rộn chàng. Otsu chịu được chút ít cực khổ.
- Chút ít thôi ư ?
- Không. Gian khổ thế nào Otsu cũng chịu.
- Otsu ! Không phải chuyện ấy đâu. Làm sao một người muốn quyết tâm trở thành Samurai, lại để phụ nữ đi theo được ? Kỳ lắm. Người ta sẽ bảo:
“Kìa trông Musashi, hắn là Samurai mà phải có vú nuôi đi theo chăm sóc !”.
Otsu vẫn giữ chặt lấy vạt áo hắn.
- Otsu ! Bỏ ta ra !
- Không ! Không bỏ ! Chàng đã lừa dối em !
- Lừa dối lúc nào ?
- Ở trên đồi, chàng đã hứa mang Otsu theo mà.
- Chuyện xảy ra đã lâu rồi. Bấy giờ ta vội nên không nghĩ. Vả lại tại nàng đưa ra ý đó, ta gật vì không có cách gì chọn lựa !
- Không ! Không phải ! Nhất định không phải ! Chàng không nói thật phải không ?
Otsu tức giận đẩy Musashi vào thành cầu.
- Ô hay ! Otsu làm gì thế ? Người ta nhìn kìa !
- Không cần. Ai nhìn mặc kệ ! Bấy giờ chàng bị trói trên cây, hỏi có muốn Otsu giúp không, chàng mong quá mà. Chàng bảo tôi cắt dây rồi đi trốn, còn chối nữa không?
Giọng Otsu run run, cố nói gãy gọn, nhưng nước mắt cứ trào ra, chảy dài trên má.
Khi nhỏ đã chịu cảnh côi cút, không cha không mẹ, lớn lên, vị hôn phu bỏ đi, bây giờ lại gặp cảnh này, nàng uất hận nấc lên tức tưởi. Musashi xúc động, nhưng chẳng biết làm sao. Hắn lắp bắp:
- Kìa Otsu, đừng làm thế, người ta trông kìa. Ban ngày ban mặt, mua cười cho khách qua đường ư ?
Otsu buông áo Musashi, gục đầu trên thành cầu thổn thức, tóc rồi bời xõa xuống hai vai.
- Chàng tha lỗi cho em. Đáng lẽ em chẳng nên nói những lời ấy. Thôi, chàng quên đi, em chẳng làm ơn gì cho chàng cả.
Musashi cúi xuống, vén mớ tóc để lộ khuôn mặt đẫm nước mắt của Otsu rồi nhìn thẳng vào mắt nàng, nói bằng một giọng dịu dàng đầy thương cảm:
- Otsu ! Trong suốt thời gian Otsu chờ ta, ta đã bị giam trong thạch thất ở lâu đài Himeji. Suốt ba năm trường ta không nhìn thấy ánh sáng mặt trời.
- Em biết.
- Otsu biết ? Ai nói cho Otsu biết ?
- Thầy Takuan.
- Vậy hả ? Thầy có nói rõ hết không ?
- Cũng đủ để em hiểu. Khi em bị ngất đi dưới đáy vực, thầy Takuan đã cứu và dẫn đường cho về đây. Ba năm rồi, thầy vẫn thỉnh thoảng đến thăm. Hôm trước thầy có ghé dùng trà, nói chuyện về chàng. Thầy nói nếu gặp chàng “thì đấy là chuyện của hai người, ai biết rồi sau sẽ ra sao ?”. Bấy giờ em không hiểu, nhưng nay em đã rõ.
Musashi bỏ tay xuống. Hắn nhìn quãng đường về hướng tây, tự hỏi chẳng biết rồi có còn gặp lại người đã cứu hắn không. Lòng bác ái của nhà sư bao la như biển, thương vạn vật chúng sinh chứ không riêng gì hắn. Ai đau khổ, hoạn nạn, Takuan đều ra tay cứu vớt, an ủi, khích lệ, dạy dỗ với một tinh thần vị tha tuyệt đối không mong đền đáp. So với lòng từ bi ấy, hắn thấy mình nhỏ nhen, hẹp hòi quá đỗi. Bất giác, trong lòng hắn dâng lên một niềm ao ước mạnh mẽ, muốn được trở nên người như thế, dù phải hy sinh tất cả mọi lạc thú trên đời.

Acmagiro
06-02-2008, 03:43 PM
“Ấy là chuyện của hai người”, lời nói của Takuan do Otsu nhắc lại đè nặng lên tâm hồn hắn làm hắn suy nghĩ. Qua hàng đống sách vở đã đọc, không có chương nào, mục nào nói về tình trạng khó khăn như tình trạng Otsu và hắn đương trải qua. Không biết ý Takuan muốn nói đó là chuyện riêng của hai người, chỉ hai người trong cuộc mới có thể giải quyết được, hay đó là chuyện nhỏ không đáng nói, hay đó là một vấn đề quan trọng, một thử thách lớn lao chính hắn và Otsu phải giải quyết.
Mãi suy nghĩ miên man, hắn cúi nhìn nước dưới chân cầu. Nước trôi mau, không trở lại.
- Em đi với nhé !
Tiếng nàng cầu khẩn làm hắn tỉnh mộng.
- Chủ tiệm đã hứa cho em thôi việc lúc nào cũng được. Để em chạy về nói với chủ và thu xếp quần áo xong quay lại ngay.
Musashi đặt tay hắn lên bàn tay nhỏ bé của Otsu trên thành cầu:
- Otsu nghe ta, hãy suy nghĩ một chút ...
- Suy nghĩ gì nữa ?
- Về điều ta mới nói với Otsu. Ta vừa trở nên một người khác. Đã ba năm nay bị giam trong thạch thất tối tăm, chỉ đọc sách, ta đã khóc cho thân thế, đã hối hận biết bao nhiêu nhưng cũng đã tìm thấy ánh sáng. Ta mang họ mới:
Miyamoto, tên là Musashi mà chưa đạt nên phải cố. Ta muốn dành tất cả thì giờ trong đời để tập nên người toàn thiện, không màng lạc thú gì khác. Nếu nàng theo ta, nàng sẽ không bao giờ có hạnh phúc, chỉ có thử thách và khổ đau. Rồi cùng với thời gian, tuổi tác, khổ đau càng thêm chồng chất ...
- Chàng nói như vậy làm em càng thấy gần chàng hơn. Bây giờ em biết chắc em không lầm. Em đã thấy nơi chàng một người lý tưởng có lẽ suốt đời tìm kiếm cũng không chắc đã gặp ...
Musashi giật mình, hắn đi sai đường, kết quả trái với ý muốn !
- Otsu, ta rất tiếc không để Otsu cùng đi được.
- Để em theo vậy. Em không làm gì trở ngại đến công phu luyện tập của chàng đâu. Chàng cũng sẽ không biết có em đi theo nữa.
Musashi không biết trả lời ra sao.
- Em không làm phiền gì mà ! Em hứa với chàng như vậy.
Hắn vẫn im lặng.
- Vậy đồng ý nhé ! Chàng đợi em ở đây, em trở ra ngay. Chàng đi là em giận đấy !
Otsu hối hả trở về cửa hàng bán đồ tre. Được vài bước, nàng quay mặt lại dặn với:
- Nhớ không được bỏ đi đấy !
Và trong niềm vui sướng, nàng cười, để lộ đôi má lúm đồng tiền xinh đẹp.
Musashi vô tình khẽ gật. Bây giờ là lúc hắn có thể bỏ đi dễ dàng, nhưng sao chân hắn vẫn dính chặt xuống đất, lưu luyến như bị đôi má lúm đồng tiền và giọng nói van lơn giữ lại. Con người mới duyên dáng và dễ mến làm sao ! Có lẽ ngoài chị hắn ra, nàng là người yêu thương hắn nhất và hắn cũng dành cho nhiều cảm tình nhất. Hắn nhìn trời, nhìn nước, tay nắm chặt thành cầu, lòng băn khoăn, bối rối. Rút thanh đoản kiếm trong bọc ra, hắn vạch chữ lên thành gỗ.
Otsu trở lại cầu. Nàng mang dép cỏ mới, quấn xà-cạp vàng và đội nón lá rộng vành dùng để đi đường xa, quai lụa đỏ buộc dưới cằm trông thật rực rỡ, tươi tắn. Nhưng Musashi đã không còn ở đấy nữa.
Otsu khẽ kêu lên một tiếng kinh ngạc, rồi như vừa ý thức được sự việc xảy ra, nàng òa lên khóc. Trên thành cầu, chỗ Musashi đứng trước, một hàng chữ mới khắc, rõ ràng như đập vào mắt:
“Tha lỗi cho ta, tha lỗi cho ta !”.

Acmagiro
08-02-2008, 06:54 AM
QUYỂN 2 : Sui No Maki
CHƯƠNG 10
DÒNG HỌ YOSHIOKA



Năm mươi năm trọn kiếp
Hư ảo là cuộc đời
Cơn mê, đừng luyến tiếc
Hiu hắt lá phong rơi ...
Nhân sinh quan coi cuộc đời là phù du, tạm bợ do tướng Oda Nobunaga thâu tóm trong bốn câu thơ ngắn như trên rất được phổ biến trong xã hội Nhật vào đầu thế kỷ mười bảy.
Tướng Oda sau thất trận vì bị phản bội. Ông tự tử tại Kyoto năm bốn mươi tám tuổi.
Vào khoảng hai thập niên sau, cuộc nội chiến giữa các sứ quân kết thúc.
Tokugawa Ieyasu chiến thắng, nắm hết quyền bính, thế lực chỉ thua có hoàng gia ở kinh đô mà thôi. Khắp nơi thái bình an lạc, chỗ nào cũng mở hội, đèn treo hoa kết như trong những thời cực thịnh ngày trước. Nhưng sau cái vỏ thanh bình ấy, chẳng ai thấy cuộc sống yên vui này được bền. Kinh nghiệm hơn một thế kỷ nội chiến đã làm dân chúng càng tin vào tính chất phù du của kiếp người và kích thích họ nhiều hơn trong những cuộc tìm vui thâu đêm suốt sáng.
Lãnh chúa Tokugawa Ieyasu tuy vẫn nắm quyền nhưng chức tước đã chính thức trao cho người con thứ ba tên Hidetada. Có tin đồn tân lãnh chúa Hidetada sẽ đi Kyoto bái kiến hoàng thượng, nhưng ai cũng biết chuyến đi này không phải chỉ có mục đích nghi lễ suông. Ở miền tây, Toyotomi Hideyori, con của Toyotomi Hideyoshi , người kế vị Oda Nobunaga cũng là một lãnh chúa uy quyền rất lớn, trước đây từng là địch thủ của họ Tokugawa. Hideyoshi đã cố duy trì quyền Shougun cho dòng họ Toyotomi, chờ con trai khôn lớn, nhưng thất bại. Họ Toyotomi hiện ở thành Osaka, bề ngoài chịu thần phục họ Tokugawa nhưng bề trong vẫn ngấm ngầm mưu phản.
Tokugawa Ieyasu không phải là không biết. Ông rất quan tâm đến vùng Osaka, cho đó là một lãnh địa tập trung nhiều kẻ bất mãn chống đối ông. Một số người cũng biết vậy, khôn ngoan lui tới cả đôi bên, khi thì tư dinh Hideyori, lúc thì phủ Tokugawa để cầu lợi.
Có người nói gia đình họ Toyotomi tiền bạc như nước, lâu đài đầy rẫy, giá muốn thu dụng tất cả những tay kiếm sĩ giang hồ trong vùng cũng chẳng khó gì. Họ dự đoán tình hình mỗi người một phách, nhưng tựu trung cái tinh thần hưởng lạc không mấy ai không có.
- Đấy rồi các bác xem, chẳng chóng thì chầy, sẽ có đánh nhau ghê lắm !
- Ờ ...chắc cũng chẳng lâu đâu !
- Còn hồ nghi gì nữa ! Đèn này cứ là sẽ dẹp hết !
- Các bác chỉ lo hão ! Còn sống ta chơi cho thỏa cái đã, rồi muốn ra sao thì ra !
Lợi dụng tâm lý ấy, thanh lâu trà thất mọc lên như nấm. Tối đến, thiên hạ đổ xô nhau đi mua vui giải trí, mọi chuyện đều gác sang bên.
Từ căn nhà đường Shijo gần Cấm thành, một toán võ sĩ trung niên ồn ào bước ra, cũng không ngoài mục đích tầm hoa hưởng lạc, tiếng cười nói oang oang, binh khí chạm nhau rổn rảng. Đó là một trang trại khá lớn có tường gạch quét vôi trắng bao bọc.
Cổng ra vào đồ sộ, mái lợp ngói xanh kiên cố. Bên cổng, một tấm biển gỗ to dày nhưng đã cũ, loang lổ và nứt nẻ nhiều chỗ, khắc hàng chữ lớn nét mòn vì mưa nắng:
Võ Đường Yoshioka Kyoto. Ở dưới, hàng chữ nhỏ hơn đề tên đường chủ:
Yoshioka Kempo
Trông dáng điệu, toán võ sĩ có vẻ ham luyện kiếm và sở trường về môn này, vì ngoài hai thanh kiếm thép mang trên lưng, một số còn đeo thêm kiếm gỗ. Vài thanh niên trẻ tuổi hơn vác cả giáo dài.
Mặt họ dữ tợn, trông phát khiếp:
mắt đỏ au như lúc nào cũng sẵn sàng gây ẩu đả.
Họ đi nghênh ngang, vây quanh một người trẻ tuổi ăn mặc sang trọng.
- Đêm nay tiểu chủ muốn đi chơi đâu đây ?
Một người hỏi. Người được gọi là tiểu chủ trả lời dõng dạc:
- Đi đâu cũng được, miễn là đừng đến chỗ hôm qua.
- Sao vậy ? Các em thích tiểu chủ lắm mà. Họ chỉ nhìn tiểu chủ, đâu thèm để mắt gì đến tụi này !
- Tiểu chủ nói phải. Sao ta không tìm đến nơi nào mới, không ai biết chúng ta là ai có hơn không ?
Họ cãi nhau om sòm, không ngoài chuyện uống rượu và tìm gái.
Sau cùng, cả bọn kéo nhau đến xóm bờ sông, nơi tập trung nhiều nhà mới dựng.
Những năm trước đây xóm náy là một bãi hoang, cỏ dại cùng lau lách mọc đầy, cảnh tiêu điều hiu quạnh, chứng tích của một thời tương tàn còn để lại. Nhưng từ khi hòa bình vãn hồi, lác đác có người đến cư ngụ, rồi người nọ bảo người kia, xóm bờ sông bây giờ thành đông đúc. Giá đất tăng lên vòn vọt. Nhiều thanh lâu được mở ra, ngoài cửa treo rèm màu hồng hay hoàng yến, bên trong kỹ nữ ra vào tấp nập, nhất là về đêm. Thôn nữ từ các vùng xa mới vào nghề, mặt trát phấn trắng còn vụng, loang lổ, e thẹn nấp sau khung cửa vẫy gọi khách qua đường. Những thiếu phụ nghèo khó nhiều khi do chủ thanh lâu mua đi bán lại hàng loạt, ngồi túm tụm trong phòng, gảy đàn shamisen hát những bài hát huê tình hoặc thô tục rồi cười với nhau rúc rích.
Người được gọi là tiểu chủ tên Yoshioka Seijuro, vóc dáng cao lớn, mặc bộ kimono màu vỏ già sẫm. Vừa bước chân đến xóm, Seijuro đã quay lại nói với một gã trung niên đồng bọn:
- Toji ! Gọi người đi mua cho ta cái nón !
- Để che mặt phải không tiểu chủ ? Ở xóm này, tiểu chủ cần gì che mặt ?
- Không cần thì nói làm gì ? Đi ngay đi ! Ta không muốn thấy mọi người xầm xì chưởng môn phái Yoshioka đến giải trí ở khu này.
Toji cười:
- Vậy chỉ tổ làm người ta chú ý. Ở đây nàng nào cũng biết ai đội nón rộng vành là con nhà phú quí. Tiểu chủ lại đẹp trai, họ chẳng để yên đâu. Hà ...hà ...kìa, nàng đứng đằng kia khá đấy chứ !
Toji vừa khéo đùa vừa khéo nịnh. Mọi người cười tủm tìm. Tuy nói thế nhưng hắn cũng sai gia nhân chạy đi mua nón và cả bọn đứng ở dưới mái hiên chờ. Nón mang về, Seijuro đội lên đầu, vành lớn che lấp nửa mặt. Seijuro thấy yên tâm và thoải mái hơn.
- Tiểu chủ đội nón này được quá, đẹp trai nhất vùng đấy !
Rồi quay sang đồng bọn, Toji đưa thêm một câu nịnh gián tiếp:
- Kia kìa, thấy không ! Các nàng đổ xô ra cửa nhìn tiểu chủ đấy !
Thực ra Seijuro trông cũng rất có phong độ:
dáng người cao lớn, đi đứng hiên ngang, bên hông đeo song kiếm vỏ chạm trổ công phu, rõ ra con nhà quyền quý. Mặc dầu đội chiếc nón bình dân, hắn cũng không khỏi làm người ta chú ý.
- Ê ! Ê ! Anh chàng đẹp trai kia, mang nón gì kỳ vậy ?
- Vào đây cho chúng em xem mặt nào !
- Thẹn gì nữa ! Vào đây ! Vào đây !

Acmagiro
08-02-2008, 06:55 AM
Nghe những lời mời chào sỗ sàng, Seijuro lại càng làm ra vẻ kiêu kỳ, tuồng như không để ý. Nghe lời Toji, đây là lần đầu tiên hắn đến xóm này, thấy được chú ý cũng nở mũi, nhưng lôi kéo quá, hắn hơi ngán. Là trưởng nam của Yoshioka Kempo, từ nhỏ hắn chẳng phải quan tâm gì đến tiền bạc, nhưng cũng vì vậy mà không rõ đời sống xã hội bên ngoài. Đứng trước mặt phụ nữ, hắn cả thẹn mặc dầu bản tính kiêu căng.
Những lời xu nịnh của bộ hạ cùng với dáng điệu mời mọc của các ả giang hồ như liều độc dược dễ nuốt làm kích thích tính kiêu căng của hắn.
Một nàng đứng trước cổng nói lớn:
- Tưởng ai, té ra là tiểu chủ đường Shijo. Tiểu chủ che mặt làm gì vậy ?
Seijuro quay sang vờ nói với Toji, tuy trong lòng khoan khoái nhưng giả vờ bất mãn:
- Sao họ biết danh tính ta ?
- Dễ quá mà ! Nàng kia đáp. Ở đây ai cũng biết đệ tử phái Yoshioka thường mặc áo màu vỏ già, gọi là màu Yoshioka. Nhiều người mặc lắm !
- Nếu nhiều người mặc, sao nàng lại biết ta ?
- Vì không phải trên tay áo ai cũng có phù hiệu hình hoa thị !
Seijuro nhìn xuống tay áo:
- Hừ ! Bận sau phải cẩn thận hơn mới được !
Ngay lúc ấy, thình lình một bàn tay thò ra nắm chặt lấy áo hắn. Toji kêu lên:
- Chà chà ! Tiểu chủ che mặt nhưng quên che phù hiệu trên áo. Bây giờ thì mọi người đều biết cả rồi, ta phải vào đây thôi !
Seijuro lúng túng:
- Ừ thì vào ! Nhưng bảo nàng bỏ ta ra chứ !
Toji hét to:
- Bỏ ra ! Tiểu chủ nói sẽ vào, làm gì mà níu kéo thế ?
Cả bọn chui qua tấm rèm vào trong phòng. Cảnh nghèo nàn của căn phòng với vài cành hoa đã úa héo cắm lộn xộn trong một cái lọ rẻ tiền làm Seijuro phát chán. Nhưng hình như không để ý đến khung cảnh tồi tàn ấy, mọi người khác vẫn ồn ào cười nói:
- Mang rượu ra đây ! Có bánh trái gì thêm cành tốt !
Ueda Ryohei, môn đệ ngang cấp với Toji, cũng cất giọng khàn khàn truyền lệnh:
- Mang các em ra đây !
Mọi người phụ họa, bắt trước giọng Ueda:
- Mang các em ra đây, đừng để ông già đợi !
- Á à ! Ta đâu đã già mà các ngươi nói vậy ? Ta nhập môn lâu hơn các ngươi thật nhưng chưa già, tóc chưa sợi nào bạc !
- Ngươi nhuộm đi, ai biết !
- Tên nào nói vậy ? Đáng phạt chén rượu !
- Mệt quá ! Mang rượu lại đây ta uống.
Ueda Ryohei tung chén rượu về phía người vừa nói. Người kia bắt lấy, ném ngược lại.
Tình hình có vẻ căng thẳng, Seijuro phải can thiệp:
- Ueda Ryohei ! Hãy biểu diễn màn vũ xem còn trẻ không nào !
Ueda Ryohei nén giận:
- Xin tuân lệnh !
Đứng lên đi vào góc phòng gần bếp, Ueda Ryohei lấy tấm vải đỏ con hầu vẫn dùng đeo trước ngực để nấu ăn, quấn lên đầu, tiện tay ngắt cành hoa mận cài vào khăn, rồi vớ cây chổi dài, dậm chân đánh bịch xuống sàn mở đầu màn vũ.
Mọi người cười bò, la hét:
- Lão huynh đi bài vũ Du Tử Nghinh Xuân đấy. Hát theo đi, Toji !
Toji gật đầu, mời mọi người phụ họa. Đồng bọn cầm đũa gõ lên chén, có người còn dùng cả que gắp than đập vào thành hỏa lò đánh nhịp:
Qua dậu tre xanh Ý ...a ...là dậu tre xanh Cái giậu tre xanh ...
Lá trúc buông mành, Tình tang kìa bóng ai áo trắng, Bóng ai áo trắng ...ý ...a ...
Bên nhành liễu non ...
Tiếng vỗ tay rào rào sau đoạn giáo đầu. Toji vui vẻ cúi đầu chào. Kỹ nữ trong phòng bấm đàn samisen hát tiếp điệp khúc:
Cô em bữa trước, Hôm nay còn đâu.
Cô em hôm nay, Ngày mai chẳng thấy.
Ấy ai âu sầu, Thôi đừng mai mốt tìm lâu, Hãy yêu em nhỏ bên lầu hôm nay ...
Một đệ tử ngồi ở góc phòng, tay cầm bát rượu lớn vừa đưa cho bạn vừa lè nhè:
- Sao không cạn hết đi, bằng hữu ?
- Đủ rồi !
- Đủ rồi ? Thế mà cũng gọi là kiếm sĩ ! Kiếm sĩ gì mà không uống hết bát rượu ?
- Cũng được. Nhưng nếu ta uống hết, ngươi cũng phải uống với ta.
- Được, thế là công bằng.
Họ đổi rượu cho nhau, người này bắt kẻ kia uống, rượu tràn cả ra ngoài mép chẳng khác gì đàn trâu bên máng nước. Một giờ sau, ai nấy mặt đỏ gay, người nôn mửa ra chiếu, người ngồi thừ nhìn quãng không, mắt hằn những tia máu. Một người bị rượu kích thích, hoa chân múa tay thách đố:
- Trong anh em đây, ngoài tiểu chủ ra ... hự ...ai dám tự hào biết hết các chiêu thức...hự ...của kiếm phái Yoshioka ?
Thanh niên ngồi gần đó, cạnh Seijuro, xem chừng còn tỉnh, cất tiếng dõng dạc:
- Ngươi chỉ khéo nịnh ! Kyoto này có nhiều kiếm phái mà Yoshioka chúng ta chỉ là một, có gì mà kiêu ngạo thế !
- Nhiều kiếm phái là những kiếm phái nào ?
- Như Toda Seigen ở Kurotani, Ogasawara Genshinsai ở Kitano; ấy là chưa kể Ito Ittosai ở Shirakawa, mặc dầu phái này còn ẩn danh không thu đồ đệ.
- Những phái đó hơn gì Yoshioka ta ?
- Ta không luận hơn kém. Ta chỉ muốn nói chúng ta chẳng nên tự phụ coi môn phái mình là nhất.
Người kia khoan thai đứng dậy:
- Được lắm ! Ta muốn biết tài ngươi tới mức nào. Ngươi là đệ tử phái Yoshioka mà làm hạ giá bản môn, coi kiếm kỹ của sư tổ không ra gì, không biết ngươi là người thế nào?
- Ta không hạ giá ai cả, chỉ nêu lên những sự kiện. Sư tổ là bậc đệ nhất kiếm khách một thời, từng chỉ dẫn những chiêu kiếm trác tuyệt cho nhiều lãnh chúa, nhưng thời ấy đã qua rồi. Ngày nay số người trau dồi kiếm đạo không phải là hiếm, không những ở Kyoto này mà còn ở Edo, Hitachi, Echizen và khắp các tỉnh khác nữa. Sư tổ là bậc đại kiếm khách nhưng không phải vì thế mà chúng ta là đại kiếm khách cả. Đấy là sự thật, hà tất phải bàn cãi ?
- Đồ hèn nhát ! Ngươi là kiếm sĩ Yoshioka mà lại đi sợ những phái khác !
- Ai nói sợ ? Ta chỉ muốn cảnh cáo mọi người đừng quá tự mãn.
- Mày lấy quyền gì dạy dỗ chúng ta ?
Dứt lời, hắn thoi một quả đấm làm tên kia ngã lăn chiêng ra chiếu. Toji và Ueda Ryohei chạy vội đến can, đẩy hai tên ra, mắng:
- Thôi, không được đánh nhau ! Trước mặt tiểu chủ, không được vô lễ !
Mọi người xúm vào dàn hòa, chuốc thêm rượu và lái câu chuyện sang hướng khác.
Một lúc sau không khí đã dịu, tiếng cười lại nổi lên trong khi anh chàng ưa chỉ trích lúc nãy còn ngồi phân bua với Ueda Ryohei:
- Đấy lão huynh coi, chỉ vì sự an nguy của bản môn mà đệ nói chứ không có ý gì kia khác. Nếu không lưu tâm chấn chỉnh, lòng hợm hĩnh của mọi người sẽ làm phái Yoshioka ta rồi không còn đất đứng.
Một mình, Seijuro ngồi yên lặng, chán nản như chẳng buồn để ý gì đến chuyện vừa xảy ra. Hắn chưa say, nhưng rõ ràng là không thấy thoải mái trong khung cảnh náo nhiệt này. Toji nhận thấy điều đó, ghé tai Seijuro nói nhỏ:
- Tiểu chủ không được vui phải không ?
- Ừ. Ta tự hỏi không biết những huynh đệ kia có vui chăng ?
- Vui chứ ! Họ cho thế là vui !
- Ta không thấy thế ! Ta không hiểu sao họ có thể vui được !
- Hay chúng ta đi nơi khác yên tĩnh hơn. Tiểu chủ nghĩ thế nào ?
Như được gãi đúng chỗ ngứa, Seijuro bằng lòng ngay:
- Ta muốn đến chỗ hôm qua.
- Quán Yomogi ấy hả ?
- Ừ.
- Chỗ ấy được lắm. Đệ biết tiểu chủ thích quán đó nhưng không tiện dẫn những tên thô lỗ kia tới. Để họ Ở đây tốt hơn, hợp với họ mà lại rẻ tiền.
- Vậy đi thôi. Ueda lo chuyện ở đây cũng được.
- Tiểu chủ giả bộ đi tiểu, đợi tiểu đệ ngoài hiên, đệ ra ngay.
- Lúc sau, Seijuro khéo léo rút êm, mọi người không ai chú ý.
oo Trước một căn nhà tại xóm yên hoa ngoại thành Kyoto, một thiếu phụ đang bận treo lại chiếc đèn ***g gió mới thổi tắt. Nàng kiễng cao chân. Áng sáng ngọn đèn rung rinh in bóng những lọn tóc mới gội chưa kịp chải vẽ thành những vết đen lay động lên đôi cánh tay trần trắng muốt. Mùi hoa mận thơm ngọt dịu dàng vương trong gió thoảng từ ngoài vườn vào.
Vừa mới đi tới, Toji đã nhanh nhảu:
- Oko ! Cần ta giúp không ?
- Tiểu chủ đấy ư ? Thế thì còn gì bằng nữa !
- Vậy đợi ta chút.
Toji bước nhanh vào vùng ánh sáng ngọn đèn. Oko biết là mình lầm:
nàng tưởng nghe tiếng nói của Seijuro. Toji cầm đèn treo lên móc rồi hỏi:
- Thế này được chưa ?
- Được rồi. Cảm ơn lắm.
Nhưng Toji nghiêng đầu nhìn và cho là chưa được. Hắn tháo ra treo lại đèn cho ngay ngắn hơn. Oko mỉm cười thấy có những người đàn ông ở nhà chưa chắc đã chịu giúp ai làm việc gì, nhưng đến nơi này lại tỏ ra rất dễ thương và ưa giúp đỡ. Nhiều khi họ tự tay rót rượu lấy, mang gối ra hay mở cửa hoặc vui vẻ làm nhiều việc linh tinh khác mà ở nhà họ không bao giờ chịu làm.
Treo đèn xong, Toji cùng Seijuro bước vào phòng. Trong nhà thật yên tĩnh.
Seijuro buột miệng:
- Ở đây yên lặng quá nhỉ !
Toji nói:
- Để đệ ra mở cửa.
Đứng trên hiên, Seijuro nhìn giòng sông Takase chảy êm đềm; xa hơn nữa, về phía nam, qua cây cầu nhỏ bắc ngang, khu Teramachi rải rác đền miếu bên kia một cánh đồng hoa dại nở rộ gợn sóng dưới ánh trăng.
Ngồi chờ một lát không thấy ai, Toji bắt đầu sốt ruột:
- Hừ ! Sao thế này ? Các em đâu cả ? Hôm nay xem chừng vắng khách mà Oko cũng đi đâu mất, mãi chưa thấy mang trà ra.
Không dằn được nôn nóng, hắn đứng dậy xăm xăm vào nhà trong, suýt và phải Akemi từ trong phòng bước tới. Chùm khánh nhỏ đeo bên hông nàng vang lên lanh canh, rồi tiếng kêu của cô bé:
- Cẩn thận ! Chú làm đổ trà bây giờ !
- Sao lâu vậy ? Tiểu chủ đang đợi ngoài kia. Cô không mong tiểu chủ à ?
- Đó ! Đó ! Chú làm đổ trà ra khay rồi ! Có đi lấy cái khăn để người ta lau đi không?
- À há ! Gớm hách nhỉ ! Oko đâu ?
- Đang trang điểm trong nhà.
- Chưa xong kia à ? Lâu thế !
- Trời ơi ! Cả ngày hôm nay bận tíu tít ...
- Bận gì ? Hôm nay tiếp ai thế ?
- Tò mò vậy ? Đâu phải việc chú ! Tránh ra để người ta đi.
Toji né người sang bên. Akemi bưng khay trà vào phòng, chào Seijuro:
- Kính chào khách quan. Hân hạnh được khách quan quá bộ ...
Seijuro vờ thản nhiên, không nhìn cô bé, hờ hững đáp:
- Akemi đấy à. Cảm ơn chuyện hôm qua nhé !
Hắn có vẻ ngượng. Akemi đặt khay lên bàn, cầm chiếc đĩa nhỏ chạm trổ tỉ mỉ trên để một chiếc ống điếu bằng sành:
- Xin mời khách quan dùng thuốc.
- Ta tưởng thuốc lá bị cấm.
- Vâng. Nhưng chẳng ai tuân, mọi người vẫn cứ dùng như thường. Vậy tốt, ta hút một điếu.
Akemi mở nắp hộp xà cừ, dúm một chút thuốc, nhanh nhẹn nhồi vào ống điếu:
- Xin mời khách quan, để tiểu nữ châm lửa.
Seijuro không quen hút, vụng về rít một hơi ngắn rồi nhăn mặt ho sặc sụa:
- Đắng quá !
Akemi quay đi che miệng.
- Toji đâu ?
- Chắc ở trong phòng mẹ.
- Hắn mê Oko lắm. Có lẽ hắn trốn ta đến đây đã nhiều lần, phải không, Akemi ?
Akemi cười khúc khích không đáp.
- Cớ gì mà cười. Chắc mẹ nàng cũng yêu hắn lắm chứ gì ?
- Tiểu nữ không rõ.
- Hẳn rồi. Mà thế cũng tiện, đôi bên cùng vui vẻ cả:
mẹ nàng với Toji, còn nàng với ta !
Làm vẻ tự nhiên, hắn đặt tay mình lên tay Akemi để trên đùi. Akemi cau mặt, hất tay hắn và nhích ra xa. Cử chỉ ấy càng khiến hắn cả gan hơn. Hắn giơ tay ra quàng ngang lưng cô bé, định kéo tấm thân mảnh dẻ ấy lại gần:
- Ấy chớ có chạy ... Ta không làm hỗn nàng đâu !
Akemi gỡ tay Seijuro:
- Khách quan bỏ ra để tiểu nữ còn đi lấy rượu.
- Ta không uống rượu !
- Nhưng nếu không mang rượu đến mẹ tiểu nữ mắng.
- Mẹ nàng đang ở trong phòng trò chuyện với Toji, mắng gì !
Hắn ghé mặt lại gần Akemi. Nàng quay phắt đi gọi lớn:
- Mẹ Ơi ! Mẹ !

Acmagiro
08-02-2008, 06:55 AM
Hắn buông tay. Nàng chạy vội vào nhà trong. Seijuro thất vọng. Hắn không vừa ý nhưng cũng không muốn nài ép cô bé. Ngồi một mình buồn, một lúc lâu chẳng có ai tiếp, hắn nói lớn:
“Ta về đây !” rồi đứng lên khật khưỡng ra hành lang.
- Tiểu chủ đi đâu đấy ? Ở lại chứ đã về đấy à ?
Oko chạy ra, ôm Seijuro. Hắn thấy tóc và son phấn trên mặt nàng vẫn còn nguyên vẹn. Nàng rối rít gọi Toji ra giữ Seijuro, lại ngọt ngào chuốc rượu còn Toji vào trong nhà tìm Akemi dẫn trở lại phòng. Thấy vẻ mặt khách sượng sùng, Akemi nhoẻn miệng cười.
Oko liếc nhìn con gái, nói nhỏ:
- Akemi, rót rượu mời tiểu chủ đi !
- Dạ !
- Tiểu chủ thấy đấy, nó còn dại lắm, chẳng khác gì con nít !
Toji chen vào:
- Ấy thế mới dễ thương ! Cô ấy còn trẻ mà !
- Hăm mốt rồi đấy !
- Hăm mốt cơ à ! Ta không ngờ, trông chỉ độ mười sáu, mười bảy là cùng !
Đột nhiên nét mặt Akemi trở nên rạng rỡ:
- Thật hả chú ? Tiểu nữ chỉ muốn cứ mười sáu mãi ...
Nàng chắp hai tay lên ngực, nói khẽ:
- Vì năm mười sáu, tiểu nữ đã gặp một chuyện thật thần tiên.
- ...
- Tiểu nữ không nói với ai nhưng chuyện đó xảy ra đẹp quá ! Bấy giờ là năm có cuộc chiến Sekigahara, ở tỉnh ... Ở tỉnh nào thúc thúc biết không ?
Oko cắt ngang, giọng đe dọa:
- Cái con lắm mồm này ! Đừng nói nhảm nữa, vào phòng lấy cây đàn shamisen ra đây !
Akemi cụt hứng, phụng phịu đứng dậy đi vào phòng mang cây đàn ra. Nàng đặt đàn ngồi xuống và bắt đầu dạo một khúc ngắn. Tiếng đàn vừa dứt, mắt xa vắng nhìn vào quãng không, nàng cất tiếng ca nho nhỏ như kể lể với chính lòng mình hơn là làm vui cho khách:
Mây che thì kệ mây che, Mắt em nhòa lệ chẳng hề thấy trăng ...
Ngừng lại, nàng quay sang hỏi Toji:
- Chú có hiểu không ?
- Không hiểu rõ. Hát tiếp đi.
Trong đêm vần vũ tối tăm, Tình anh là ngọn thần đăng soi đường ...
Toji nói bâng quơ:
- Còn trẻ lắm, mới hăm mốt mà !
Seijuro từ nãy đến giờ ngồi yên, hai tay ôm đầu, bấy giờ mới ngẩng lên:
- Akemi, ta muốn mời nàng chén rượu.
Hắn đưa chén cho Akemi, tự tay mang bình rượu đã hâm nóng rót vào. Akemi bình tĩnh dốc một hơi cạn rồi trao chén cho Seijuro. Ngạc nhiên, hắn hỏi:
- Nàng uống đượu rượu à ?
Đến phiên Seijuro uống xong, hắn lại mời Akemi chén nữa. Nàng vui vẻ nhận lời, nhưng hình như thấy chén quá nhỏ, với tay lên kệ lấy chiếc bát lớn. Trong nửa giờ sau đó, hai người thay phiên nhau uống rượu bằng bát. Tửu lượng Akemi chẳng kém gì Seijuro khiến hắn ngạc nhiên quá đỗi. Một cô gái trông chỉ độ mười sáu, mười bảy, môi trinh non thế mà nốc rượu như nốc nước lã. Chẳng biết rồi rượu nó đi đâu trong cái thể nhỏ bé nhường kia ?
Oko can:
- Thôi, tiểu chủ chẳng nên thi nữa. Không biết sao ? Con bé nó có tài uống rượu cả đêm cũng không say đâu. Để nó chơi đàn thôi.
Nghe nói thế, Seijuro sửng sốt:
- Vậy hả ? Thật không ngờ !
Nhưng hắn đã có vẻ lảo đảo ngồi không vững. Toji chạy đến bên ân cần bảo:
- Tiểu chủ say rồi, chẳng nên uống thêm nữa !
Seijuro khoát tay:
- Can gì ! Này Toji, có lẽ đêm nay ta không về được. Ngủ lại đây thôi !
- Không sao. Tùy tiểu chủ muốn ở bao lâu cũng được. Phải không, Akemi ?
Hắn nheo mắt nhìn Oko, kéo nàng sang phòng bên, thì thầm:
- Tiểu chủ đêm nay vui lắm, chắc muốn ngủ lại. Nếu Akemi không bằng lòng thì phiền lắm đấy ! Dĩ nhiên mẹ phải có bổn phận phải lo cho con cái, vậy nàng tính bao nhiêu ?
Oko để tay lên má, suy nghĩ. Toji giục:
- Định ngay đi !
Rồi ghé sát tai Oko, hắn thêm:
- Đám này khá lắm ! Chưởng môn phái Yoshioka, tiếng tăm lừng lẫy thuộc hạng danh gia thế phiệt, tiền bạc chẳng thiếu. Lại chưa vợ con. Bề gì cũng là một mối không phải dễ kiếm !
- Cũng được, nhưng ...
- Không nhưng gì cả. Đồng ý nhá ! Đêm nay chúng ta ở lại !
- Trong phòng, ánh sáng lờ mờ, Toji để tay lên vai Oko. Đúng lúc ấy một tiếng động mạnh ở phòng sau làm hai người giật mình.
- Gì vậy ? Nàng có khách đấy à ?
Oko gật đầu, yên lặng đưa đôi môi ướt nhẫy sát vào tai Toji thì thầm:
- Chốc nữa !
Rồi lấy dáng điệu tự nhiên, cả hai đứng dậy, sánh vai nhau bước ra phòng ngoài.
Seijuro đã ngủ gục bên khay rượu.
Toji vào phòng kế, ngả lưng trên chiếu. Hắn nằm ngước mặt nhìn trần, tay khẽ gõ nhịp, đợi lúc lâu không thấy Oko đến, mắt hắn dần dần nặng trĩu.
Hôm sau tỉnh dậy, trời đã gần trưa, Toji cảm thấy buồn bực. Seijuro ngồi trong phòng trông ra ngoài hiên, đang uống rượu. Dáng điệu tươi cười, Oko và Akemi dường như không để ý gì đến chuyện đêm qua. Cả hai đùa cợt với Seijuro, đòi Seijuro hứa một điều gì:
- Thế tiểu chủ đưa bọn thiếp đi nhé !
- Ờ thì đi. Bảo làm ít món ăn nguội và nhớ mang theo bình rượu.
Thì ra hai mẹ con Oko muốn đi xem tuồng của gánh Okumi trên đường lưu diễn mới đến dựng rạp ở xóm bờ sông gần đường Shijo. Gánh này không phải chỉ là một gánh tuồng cổ như những gánh khác, nhưng biết cách canh cải các tích cũ, đệm thêm nhạc và hát nên rất được sự hâm mộ của quần chúng. Gần đây, trên các nẻo đường đông đúc trong xóm, rất nhiều gánh hát mới được lập ra, đào kép thi đua nhau trổ tài lôi kéo khách mộ điệu. Gánh nào cũng cố tạo ra vài nét đặc thù, bài bản hay điệu múa riêng biệt. Nhiều nữ diên viên trước đây là gái giang hồ, nay vào nghề mới, thành nổi tiếng, được mời đến hát trong những rạp lớn tại kinh đô. Có nàng còn mang tên và cải nam trang, thủ những vai hiệp sĩ khá thành thạo.
Seijuro ngồi thừ người nhìn qua cửa sổ. Dưới chân cầu ven sông, lác đác vài phụ nữ giặt áo, đập vải kêu bồm bộp. Trên cầu, khách qua lại tấp nập.
Hắn quay hỏi Toji:
- Qúa trưa rồi. Họ sửa soạn chưa xong à ?
Rượu ngà ngà, Seijuro chờ mãi đã chán, hết hứng muốn dẫn hai nàng đi coi hát.
Toji vẫn còn buồn bực và thất vọng vì chuyện đêm trước, cau có:
- Đi chơi với họ thật bực mình. Đến phút chót còn thay áo, chải tóc. Mất thì giờ quá !
Seijuro nghĩ lan man đến võ đường ở nhà. Chắc giờ này môn đệ hắn đang tập luyện. Hắn mường tượng nghe tiếng gươm giáo chạm nhau, tiếng thét xung trận chói tai của võ sinh và cả đến những lời ngạc nhiên bất mãn của đàn em khi thấy hắn vắng mặt trong giờ giảng võ.
- Toji, ta chẳng còn lòng nào muốn đi coi hát nữa. Hay về thôi !
- Thế tiểu chủ bỏ lời hứa hả ?
Seijuro thở dài. Toji tiếp:
- Họ đang hớn hở vì chuyện đi coi hát, tiểu chủ làm thế họ giận, bận sau đến ta đâu được tiếp đãi niềm nở nữa. Để đệ vào giục.
Tới cuối hành lang, liếc mắt nhìn vào phòng Oko, Toji thấy quần áo vất bừa bãi nhưng không thấy bóng dáng hai mẹ con đâu. Ngạc nhiên, hắn chạy sang phòng kế.
Phòng kế cũng vắng lặng. “Không biết Oko đi đâu ?”. Toji tự nhủ và sục sạo ra tận sau nhà tìm.
Đến một căn buồng nhỏ bẩn thỉu, hắn rón rén nhìn qua cửa sổ. Buồng tối om như hũ nút, mùi ẩm mốc của quần áo lâu ngày không giặt lẫn với mùi rượu xông ra nồng nặc.
Tò mò, Toji lấy ta kéo nhẹ cánh cửa.
- Ai ?
Tiếng quát giận dữ từ trong buồng phát ra làm hắn giật nẩy mình nhảy lui.
Bóng một người đàn ông nằm ngửa trên mảnh chiếu rách trong cảnh tranh tối tranh sáng có một cái gì rờn rợn bí ẩn. Hắn lợm giọng. Người đàn ông quần áo bẩn thỉu, chân tay thô kệch, chiếc chuôi kiếm lộ bên hông. Trong cách phục sức, không ai không bảo là một tay kiếm giang hồ thường thấy lang bạt khắp nơi trong nước từ quê đến tỉnh.
Anh ta nằm trên chiếu, mắt dán lên trần nhà, chẳng thèm ngồi dậy hay tỏ ra có ý định gì muốn tiếp hắn.
- Xin lỗi. Toji nói. Tôi không biết có khách trong phòng.
- Ta đâu phải khách.
Người nằm trong buồng sẵng giọng, mắt vấn nhìn lên trần.
Tiếng hắn khàn khàn, hơi rượu sặc sụa. Toji chẳng biết là ai, nhưng thấy rõ hắn có ý đuổi mình.
- Vậy xin lỗi đã làm rộn.
Nói xong định quay gót. Người kia chống tay ngồi dậy:
- Khoan ! Đi thì đóng cửa lại !
Toji bực mình về sự thô lỗ ấy. Hắn giơ tay khép cửa và lẩm bẩm câu gì không rõ.
Lúc sau Oko đến. Nàng mới băm tám nhưng rõ ra vẻ kẻ cả, lên giọng mắng người nằm trong phòng:
- Matahachi ! Anh lại làm bậy gì rồi hả ?
Akemi theo sau mẹ nói vọng vào:
- Sao thúc thúc không đi với mẹ ?
- Đi đâu ?
- Xem tuồng Okumi.
Miệng Matahachi nhệch xuống, gã cười cay đắng:
- Thằng chồng nào lại muốn đi cùng với tình nhân của vợ mình bao giờ !
Oko như vừa bị cái tát. Nàng quắc mắt giận dữ:
- Anh nói cái gì ? Có phải anh muốn ám chỉ tôi với Toji không ?
- Ai ám chỉ cái gì ?
- Thì anh vừa nói đó !
Matahachi ngậm miệng quay mặt vào tường.
Mặt cho Oko tỏ vẻ khinh miệt, Matahachi vẫn giữ yên lặng.
- Anh làm tôi lên ruột ! Chỉ được cái ghen hão ghen huyền. Thôi đi ! Akemi !
Mặc thằng khùng ấy ...
Matahachi với tay nắm áo Oko:
- Mày bảo ai khùng ? Nói với chồng như thế hả ?
Oko giật áo ra, gay gắt:
- Ai cấm được tôi nói ? Nếu là chồng, anh phải biết bổn phận làm chồng chứ ! Ai nuôi anh cơm ăn, rượu uống ? Đồ ăn hại, vô tích sự !
- ...
- Từ khi đến đây, anh kiếm được đồng xu nào ? Chỉ bám vào gấu áo tôi để rượu chè bê tha, anh còn than nỗi gì ?
- Ta đã nói sẽ đi làm. Làm phu khuân đá nàng không cho, bảo tiền công không đủ sống ! Nàng nói không ăn được thứ này, không mặc được thứ kia, không ở được nhà bé ... Không cái nọ, không cái kia ... trăm thứ không ...Ta muốn kiếm một nghề lương thiện, nàng gạt đi, mở cái phòng trà khốn nạn này ! Nàng phải thôi ngay !- Hắn hét lên.- Thôi ngay !
Khắp người hắn nóng ran, tay chân run lẩy bẩy.
- Thôi cái gì ?
- Thôi mở phòng trà này !
- Thế lấy gì mà ăn ?
- Ta đi vác đá cũng đủ nuôi cả ba.
- Nếu anh muốn đi vác đá hay cưa gỗ thì cứ đi, muốn làm phu, thợ hay gì cũng được để đủ nuôi cái miệng anh. Anh là thằng nhà quê thì cứ ở nhà quê, sao lại bỏ làng mà đi. Tôi chẳng giữ anh làm quái gì !
Matahachi cố giữ cho nước mắt khỏi trào ra. Hắn nuốt lệ cùng với những nỗi uất ức chua cay đang dâng lên bóp nghẹn cổ họng.
Oko và Akemi bỏ đi từ bao giờ, hắn vẫn ngồi cắm mặt nhìn xuống đấ t. Nghĩ lại từ khi Oko cho hắn tá túc tại căn nhà nhỏ của nàng ở sườn núi Ibuki, hắn tự cho là có diễm phúc được một người thông cảm, yêu thương và săn sóc. Nhưng bây giờ ... hắn không biết như thế có phải là may mắn không ...Làm con chó trung thành của một góa phụ tính tình thất thường và dâm đãng hay để giặc bắt, đằng nào hơn ? Hắn còn phải là người nữa hay không ? Những ước ao của hắn xưa kia, giờ không còn gì nữa ! Hắn luôn bị chế giễu, khinh rẻ.
Matahachi đập tay xuống chiếu, giận run:
- Đồ đĩ rạc ! Đồ điếm thối tha !
Ngồi một mình, hắn để mặc nước mắt trào ra ướt đẫm má. “Ừ, tại sao ta lại không về làng ? Otsu còn đó chắc vẫn một lòng chờ đợi. Mẹ, cậu Gon, chị ta và anh rể ta, ai cũng tha thiết đến ta, sao ta không về nhỉ ? Giờ này, chuông chùa Shippoji đã sắp đổ hồi rồi đấy !”.
Những hồi chuông chiêu mộ văng vẳng trong tâm tư đưa hắn trở về tuổi niên thiếu, sông Aida êm đềm cuộn khúc, hoa dại nở đầy hai bên bờ sông cùng với những loài chim khuyên, chim sao; chim chìa vôi ríu rít trên cành mận sau nhà ...
Matahachi đập hai tay lên đầu than vãn:
- Ta điên rồi ! Ta điên mất rồi !
Cơn say như biến mất, hắn vùng đứng dậy nói lớn với chính mình:
- Phải quyết đi hôm nay !
Thanh âm hắn vang dội trong căn nhà trống khiến hắn ngạc nhiên. Đột nhiên, Matahachi nhận thức được mình đang tự do không ai cản giữ, không còn gì vương vấn.
Đồ đạc vỏn vẹn chỉ có một thanh gươm, hắn cúi xuống nhặt lên giắt vào thắt lưng, lẩm bẩm:
“Ít ra ta cũng vẫn con là người !”.
Như một ông tướng vững vàng tự tin trước khi lâm trận, Matahachi định hiên ngang giơ cao vũ khí xông ra cửa chính, nhưng thói quen vẫn làm hắn xỏ chân vào đôi dép cũ rách, len lén theo cửa bếp ra ngoài.
Mới được vài bước, hắn khựng lại. Không phải vì trời bên ngoài đẹp quá, trong sáng quá hay ánh sáng làm hắn chói mắt, nhưng vì hắn không biết đi đâu. Đối với Matahachi, thế giới bên ngoài chẳng khác gì mặt biển sóng cồn, hắn như người đang vùng vẫy để khỏi chết đuối, không biết bấu víu vào đâu. Ngoài Kyoto ra, hắn không còn biết nơi nào khác trừ làng hắn và Sekigahara, nơi xảy ra trận chiến độc nhất mà hắn tham dự. Trong khi đang phân vân, đột nhiên một ý nghĩ làm hắn hối hả trở lại:
“Tiền ! Mình quên mất, đi thì phải có tiền chứ !”.
Matahachi chạy thẳng đến phòng Oko, lục lọi khắp chỗ, mở tủ, mở ngăn kéo, vất tung cả quần áo ra sàn, hy vọng tìm được thứ hắn muốn. Nhưng vô ích. Oko chẳng dại gì để tiền ở nhà cho hắn thấy. Thất vọng, Matahachi ngồi bệt xuống sàn cạnh đống quần áo và vật dụng bừa bãi. Mùi nước hoa Oko ưa dùng thoang thoảng từ những món đồ lót đắt tiền bay lên quanh quẩn bên hắn. Giờ này chắc nàng đang chăm chú xem diễn tuồng ở rạp hát, làn da nhồi phấn trắng và khuôn mặt đỏm dáng của Oko như theo với mùi nước hoa phảng phất hiện lên trêu chọc Matahachi. Hắn nhổ bọt, chửi thề một câu tục tằn rồi ngồi dựa lưng vào thành tường, thừ người ra buồn bã. Ý tưởng lộn xộn đến trong óc:
Otsu, gia đình hắn ở Miyamoto. Hắn thấy dại dột quá sức, nghe lời người đàn bà ấy viết thư dứt tình với Otsu. Chẳng biết vị hôn thê của hắn bây giờ nghĩ sao, có ruồng bỏ hắn không ? Hắn muốn gọi mẹ và những người thân khác. Cái gì ở làng hắn bây giờ cũng tươi cũng đẹp, cả đến đất trong làng, hắn cũng có cảm tưởng như ấm áp hơn và gợi nhớ hơn trước.
Suy nghĩ miên man, Matahachi không để ý gì đến tiếng đập cửa dồn dập. Mãi khi có tiếng chân người bước vào, hắn mới giật mình quay ra.
- Xin các hạ thứ lỗi, tại hạ Ở võ đường Yoshioka muốn hỏi thăm sư huynh Seijuro.
Không biết vị đó có còn ở đây không ?
Matahachi cau mặt càu nhàu:
- Làm sao ta biết được ?
- Tại hạ chắc vị đó còn ở đây. Tại hạ không dám tự tiện làm rộn, nhưng có chuyện khẩn cấp can hệ đến danh dự của bản phái. Xin các hạ làm ơn thông báo giúp !
- Cút đi ! Ta không biết ai là Seijuro cả !
Người kia ngạc nhiên định quay ra, nhưng nghĩ thế nào lại vớt vát:
- Xin các hạ nói với sư huynh của tại hạ, có một kiếm khách tự xưng là Miyamoto Musashi ở Miyamoto đến võ đường khiêu khích. Anh em không ai địch nổi, hắn ngồi chờ sư huynh để tỷ kiếm. Vậy xin mời sư huynh về ngay cho.
Matahachi mở to mắt, nhìn vào quãng không:
- Miyamoto ? Miyamoto Musashi ? Ai vậy ?

Acmagiro
08-02-2008, 06:57 AM
QUYỂN 2 : Sui No Maki
CHƯƠNG 11
MÃNH HỔ, QUẦN HỔ




Thật là một mối nhục lớn. Trong lịch sử lập phái, Yoshioka chưa bao giờ phải chịu một sự thất bại nặng nề đến thế !
Hai bên hành lang võ đường, võ sinh ngồi bất động, mặt cúi gầm, bàn tay nắm chặt để lên đùi, đốt ngón tay nhợt nhạt chứng tỏ sự tức giận đến cùng cực. Trong phòng kế cận, một số huynh đệ họp bàn, tiếng tranh luận qua khe cửa lọt ra ngoài nghe không rõ, nhưng âm thanh đầy căm phẫn.
Trời đã xế chiều. Giờ này, thường ngày họ ngưng luyện tập, chuẩn bị đi uống rượu hay mua vui ngoài phố, nhưng hôm nay chẳng ai nghĩ đến chuyện ấy. Không khí yên lặng, nặng nề; thỉnh thoảng một tiếng kẹt cửa càng làm tăng vẻ thê lương của gian đại sảnh rộng lớn.
- Tiểu chủ đã về đấy hả ?
- Không, chưa thấy gì cả.
Mẩu đối thoại của người trong phòng với võ sinh đứng đợi ở cửa sổ suốt buổi chiều, vang dội qua dãy hành lang. Mọi người ngẩng nhìn ra ngoài, nhưng rồi lại cúi mặt xuống, không giấu được thất vọng. Vài tiếng nói nhỏ từ trong phòng lọt ra nghe loáng thoáng:
- Có lẽ tiểu chủ không ở đó đâu. Người đã đi tìm những chỗ khác chưa ?
- Dạ chưa, nhưng đã sai người đi khắp các trà thất. Vẫn không được tin tức gì.
Trên bàn thờ chưởng môn tiền bối, nến cháy leo lét. Mọi người không ai ngăn được những ý tưởng chua chát cho rằng anh em Seijuro thật bất xứng với tổ phụ. Lúc sinh thời, Kempo không bao giờ vắng mặt ở võ đường quá một ngày, chứ đừng nói để bị sỉ nhục như vậy.
Yoshioka Kempo xuất thân từ một gia đình bình dân làm nghề thợ nhuộm. Lúc còn trẻ, vì hàng ngày phải làm những động tác nhịp nhàng trong nghề nhuộm lụa như giặt, vắt, phơi, xếp, ông nảy ra ý nghĩ khi học võ, đem áp dụng những động tác ấy vào việc luyện kiếm. Kempo thụ huấn kiếm pháp của một danh tăng ở Kyoto, về sau tự trau dồi, tôi luyện mãi thành kiếm pháp biến ảo khôn lường. Nhiều chiêu thức đặc biệt do ông phát minh đã khiến kiếm kỹ của ông trở thành độc đáo. Ông nổi tiếng đương thời và nghiễm nhiên giữ một địa vị cao trong trong chốn giang hồ, trở thành giảng sư về kiếm thuật cho một số lãnh chúa, và sau đó sáng lập ra phái Yoshioka, thu dụng đồ đệ.
Suốt đời, Yoshioka Kempo đã tỏ ra là một kiếm sĩ gan dạ và tài trí. Hai con trai ông, Seijuro và Denshichiro, cũng được khổ luyện ngay từ khi còn nhỏ, nhưng sau thời kỳ nghiêm phụ mất, tinh thần và kiếm thuật của họ dần dần sa sút. Có người bảo có lẽ vì họ đã được hưởng một gia tài và một danh vọng quá lớn.
Ai cũng gọi Seijuro là tiểu chủ hay Yoshioka chưởng môn, nhưng so về kiếm kỹ và đức độ, hắn còn xa mới được như thân phụ. Vì vậy số môn đệ không được đông đảo như trước. Người ta nhập môn Yoshioka chỉ vì háo danh, bởi làm đồ đệ Yoshioka cũng đủ bảo đảm một chỗ đứng khiến giang hồ phải e dè và kính nể.
Trong những thập niên gần đây, sau vụ thất trận của đại danh Toyotomi, võ đường Yoshioka không còn được trợ giúp dồi dào như thời sinh tiền Kempo, nhưng nhờ nếp sống giản dị và cần kiệm của lão chưởng môn, các con trai ông ngày nay vẫn dư dật. Ngoài ra do sự đóng góp của môn đệ phần nhiều thuộc thành phần giàu có, Yoshioka phái không mất đi chút nào vẻ phong lưu ngày trước. Nhưng vì thế mà nói rằng đó là một võ đường giá trị bậc nhất thì không đúng. Về kiếm thuật, Yoshioka ngày nay chỉ còn là một bóng mờ, một môn phái hữu danh vô thực.
Thế giới bên ngoài bức tường cao, sơn trắng kia đã thay đổi nhiều, nhưng những người bên trong vẫn không hề hay biết hoặc lưu ý. Họ đã quen khoe khoang những chiến tích cũ, ngủ yên trên những chiến tích ấy mất rồi nên ăn chơi buông thả, sao lãng việc luyện tập cho mãi đến hôm nay mới mở mắt bừng tỉnh, ê chề, bất lực trước những hành động hạ nhục của một kiếm khách vô danh, chẳng biết từ đâu đến.
Bấy giờ là khoảng trước giờ ngọ, gia nhân gác cửa vào thông báo có một kiếm khách tự xưng Miyamoto muốn được tiếp kiến. Khách có vẻ quê mùa, chừng hăm hai hăm ba tuổi, vóc người cao lớn, tóc không chải, buộc túm về phía sau, màu đỏ quạch vì phơi nắng và bụi bặm. Bên hông đeo một cái túi bằng da sống, thứ túi các tay Ronin thường dùng mỗi khi phải lang bạt nay đây mai đó. Bộ kimono cũ và rách, đã bạc phếch, không biết trước đây màu gì, đen hay nâu nữa.
Khách nói quê quán ở Miyamoto, vùng Mimasaka. Trông dáng điệu và y phục, đúng là loại kiếm sĩ lang bạt không nơi nương tựa, thấy nhan nhản ở khắp thôn quên cũng như thành thị thời ấy. Miyamoto Musashi trông còn có vẻ tệ hơn:
hình như hắn không lưu tâm gì đến chuyện phục sức bề ngoài, chỉ chú ý vào việc luyện võ. Mắt hắn sắc như dao, dáng đi ngang tàng, nên tuy quần áo rách rưới, tên gia nhân cũng giật mình lui bước.
Nếu hắn chỉ làm một kiếm sĩ lỡ độ đường đến nhờ tá túc hoặc xin bữa ăn lót dạ thì không nói làm gì. Đằng này lại muốn gặp chưởng môn Yoshioka Seijuro để tỷ kiếm.
Cái đó mới làm mọi người ngạc nhiên cười ha hả.
Viên quản gia định đuổi thằng điên đó ra ngoài, nhưng có người tò mò muốn biết hắn thuộc môn phái nào và sư phụ của hắn là ai nên đã sai người ra hỏi lai lịch. Musashi chỉ vắn tắt trả lời hắn không có sư phụ, tự học kiếm trong những năm qua, và suốt năm vừa rồi đã ở trong rừng trau dồi kiếm thuật cùng với cỏ cây và muông thú, tạo nên những đường kiếm riêng biệt. Hắn không xuất thân từ môn phái nào nhất định và muốn được so kiếm với các bậc cao thủ ngày nay như Yoshioka Seijuro để lãnh giáo những cao chiêu. Mục đích và tham vọng của hắn chỉ có thế. Mặc dầu hắn tự cho còn nhiều khuyết điểm nhưng hắn ước mong phái Yoshioka không làm hắn thất vọng.
Tên gia nhân trở vào trình lại, còn nhại giọng nói nhà quê của địa phương hắn để tăng vẻ khôi hài làm mọi người cười lăn lộn:
- Chà chà ! Thằng đó điên hẳn rồi ! Cái gì mà tự tạo nên những đường kiếm riêng, coi người bằng nửa con mắt như thế !
Bèn lại sai đầy tớ ra hỏi một cách giễu cợt:
- Bản phái có lệ không an táng những kẻ đến làm rộn võ đường. Vậy quý khách đã chỉ định ai là người đến mang xác quý khách đi chưa ?
Musashi thật thà đáp:
- Nếu chẳng may tại hạ bị thất thế, xin cứ vất xác xuống sông hay để cho dòi bọ đục rỉa, không quan hệ. Thế nào cũng được, tại hạ không phiền lòng.
Lần này thì cả võ đường không cười nữa. Hiển nhiên hắn đã thách thức một cách đứng đắn và mang sinh mạng ra đánh cuộc.
Bàn tán một hồi, những người thuộc hàng huynh trưởng ra lệnh:
- Dẫn nó vào !
Trong phút đầu, họ tưởng để một vài tay em ra dậy tên điên khùng đó một bài học cũng đủ, nhưng mới qua đường gươm thứ nhất, họ đã kinh hãi cực điểm. Musashi không phải là một tay kiếm tầm thường.
Bình tĩnh đứng giữa phòng, sau một tiếng thét, hắn đã chém môn đệ Yoshioka lăn long lóc trên sàn, cánh tay cụt đến khuỷu, bàn tay văng vào góc tường giật liên hồi vẫn còn nắm chặt thanh đoản kiếm.
Hai người khác luân phiên nhau xông ra, một trong hai người thuộc hàng cao thủ, nhưng Musashi nhanh như chớp xuống tấn tránh lưỡi kiếm chém ngang đầu, thuận tay đưa ngược gươm từ bụng lên cổ người đó. Rút kiếm ra, máu phun như tưới trên mình hắn, Musashi nhăn mặt, quay lại tiếp chiêu ngay, vừa kịp gạt bắn tanh kiếm đâm xéo hông đã đá người kia một cái như trời giáng lăn xuống sàn, lộn vào chân tường, giãy đành đạch.
Mọi người sửng sốt, hét lên phẫn nộ, cùng rút kiếm ra khỏi vỏ. Tình hình không còn là một cuộc so tài thử sức nữa mà là một cuộc nhất tề xông tới lấy số đông áp đảo giết cho được Musashi. Nhưng hắn như con cọp dữ, đâu có để cho dễ bắt. Hắn chém đông, gạt tây, đâm, phát; kiếm quang loang loáng dưới ánh chiều xuyên qua cửa sổ. Musashi hét lên những tiếng ghê rợn, mỗi nhát kiếm lia tới đâu là có người ngã tới đó, không chết thì cũng thương tích trầm trọng.
Môn đệ Yoshioka đã bắt đầu e ngại không dám xông xáo như trước. Musashi đưa mắt nhìn quanh, nhận rõ tình hình, bèn nói lớn, thanh trường kiếm vẫn nắm chắc trên tay, máu nhỏ giọt.
- Như vậy đã đủ, không nên để chết thêm nhiều người nữa. Ta muốn tỷ kiếm với Seijuro chứ không phải với các ngươi.
Môn đệ Yoshioka yên lặng vây quanh Musashi, tuy không nói ra nhưng trong lòng ai cũng kinh hãi. Gờm nhau một lúc, tất cả đều đồng ý tạm dứt cuộc tỷ võ, dẫn Musashi ra nhà khách để gia nhân khiêng những xác chết và người bị thương đi, dọn dẹp võ đường chờ Seijuro trở về quyết định.
Mặt trời lặn đã lâu, tiếng xôn xao và tiếng chân người bước rầm rập ở cổng ngoài mới nghe rõ. Từ trong hành lang, toán võ sinh ngồi bất động từ trước vội đứng dậy ra đón, dẫn chưởng môn Yoshioka và hai huynh trưởng Gion Toji cùng Ueda Ryohei vào hậu sảnh. Chưa kịp an tọa, Toji hỏi ngay:
- Sao ? Chuyện gì vậy ? Kể qua cho tiểu chủ nghe.
Giọng hắn gay gắt nhưng không dấu nổi xúc động. Một võ sinh quỳ bên thi thể bạn đồng môn, quay lại hằn học trách:
- Lỗi ở huynh trưởng đã dẫn tiểu chủ xuống xóm. Tên đó đến làm loạn võ đường như thế này, huynh trưởng phải chịu trách nhiệm.
- Im mồm ! Ngươi nói láo ta cắt lưỡi.
- Khi sinh tiền, lão chưởng môn chưa bao giờ bỏ võ đường đi đâu lâu đến thế !
- Tiểu chủ cần giải trí. Chúng ta đi xem tuồng Kabuki, ngươi là cái thá gì mà dám hạch hỏi ?
- Xem tuồng Kabuki đâu cần phải vắng mặt suốt ngày đêm, huynh trưởng tất phải biết chứ !
Toji gầm lên nhảy đến định chẹt cổ tên võ sinh hỗn láo. Trong khi mọi người đang tìm cách can gián thì một tiếng nói nhỏ đầy bi phẫn làm ai cũng phải chú ý:
- Bây giờ tiểu chủ đã về, không phải lúc đổ lỗi cho nhau nữa. Xin tiểu chủ cứu vãn danh dự cho bản phái, không thể để tên đó thoát khỏi đây mà không trừng trị !

Acmagiro
08-02-2008, 06:58 AM
Những người bị thương, tay chân buộc vải đẫm máu, mặt ủ rũ buồn thiu ngồi rải rác khắp phòng. Có người khóc, có người căm giận chửi rủa. Họ là nhân chứng hùng hồn tỏ rõ sự bất lực của môn phái và mặc nhiên bảo ngầm cho Seijuro biết địch thủ dũng mãnh đến bực nào.
Trong giới kiếm sĩ, điều hệ trọng nhất là danh dự. Các môn phái tranh nhau hơn kém cũng vì danh dự. Cho tới những năm gần đây, các chính phủ đương quyền đều có đặt ra luật pháp để thống nhất việc cai trị và xét xử, nhưng thời bấy giờ, ngay cả ở Kyoto, luật lệ chẳng có gì nhất định. Tất cả sinh hoạt trong nước đều chiếu theo phong tục, tập quán là những thứ luật bất thành văn mà mọi người, từ thứ dân đến sĩ phu đều chấp nhận. Môn phái Yoshioka cũng vậy, tuy gồm nhiều võ sinh vô học, lỗ mãng nhưng không phải là những kẻ vô liêm sỉ không có căn bản đạo đức gì. Vì thế, sau trận thất bại nhục nhã vừa qua, điều họ nghĩ đến trước tiên là danh dự ; danh dự của tông môn, của sư phụ và của chính họ. Lời người vừa nói nhắc họ nhớ đến danh dự ấy, gạt hết mọi hiềm khích cá nhân và có tác dụng như chất keo gắn họ liền với nhau trong niềm tủi hổ.
Tất cả đứng dậy theo Toji vào phòng trong, cùng Seijuro bàn cách đối phó.
Nhưng thật không may, đúng vào lúc này, sau một ngày đêm truy hoan hưởng lạc, chưởng môn phái Yoshioka cảm thấy mỏi mệt, tâm trí rời rã, bao nhiêu nhuệ khí như tiêu tan hết. Tuy nhiên, Seijuro không thể làm gì khác hơn là chấp nhận cuộc thách đấu.
Hắn xắn tay áo lên, dùng dây da buộc cho gọn rồi hất hàm hỏi:
- Thằng đó đâu ?
- Thưa ngồi ở bên nhà khách, phía vườn sau.
- Bảo nó đến đây !
Seijuro thấy môi se, cổ khô. Hắn nuốt nước bọt, bước ra đại sảnh ngồi vào ghế giữa, sửa soạn nhận lễ tiếp kiến theo nghi thức với tư cách chưởng môn. Thanh trườ ng kiếm do một đồ đệ lấy ở giá xuống dựng bên cạnh.
Ba bốn võ sinh định ra vườn sau mời Musashi thì Toji và Ueda vội cản lại. Hai người muốn thảo luận thêm tìm cách bắt giết cho được Musashi.
Họ dẫn nhau vào phòng, nhiều huynh trưởng trong phái cũng đi theo, gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Sau cùng đa số đồng ý là hồi này tiểu chủ không được khỏe, kiếm thuật cũng không có những chiêu thức gì xuất sắc hơn kiếm thuật của những người mới bị đánh bại, nếu cứ để một chọi một thì nguy hiểm lắm. Số thương vong vừa rồi cũng đã đủ làm mất mặt phái Yoshioka, huống chi để chưởng môn bị thua nữa thì còn gì là danh dự, hiểm họa to lớn không biết chừng nào và hậu quả ghê gớm lắm chứ không phải tầm thường.
Giá Denshichiro còn ở nhà thì không ngại, vì so về kiếm kỹ, Denshichiro có phần hơn Seijuro một bậc. Hắn đáng mặt chưởng môn hơn, nhưng là con thứ không có trách nhiệm gì nặng nề, Denshichiro thường hay bỏ đi chơi xa, mặc anh lo liệu. Mới cách đây mấy hôm, hắn cùng vài người bạn lên đường đi du ngoạn miền tây, chẳng bảo cho ai biết bao giờ về cả.
Toji đến gần Seijuro nói nhỏ:
- Bọn tiểu đệ có một kế mọn ...
Và ghé tai Seijuro, hắn thì thầm trình bày cái kế hoạch hắn và đồng bọn đặt ra để bắt Musashi.
- Thế là đánh lừa nó hả ?
Toji khoát tay ra hiệu bảo đừng nói lớn, nhưng Seijuro không nghe:
- Không được ! Ta không khi nào chấp nhận một hành động như vậy ! Hèn lắm !
Nếu chuyện đó đồn đại ra ngoài thì còn gì thanh danh phái Yoshioka nữa ! Họ sẽ cho mình vì sợ một tên giang hồ lạc thảo mà phải dụ nó vào bẫy ...
- Ấy chơ ! Tiểu chủ đừng ...đừng ...
Nhưng mặc cho Toji cản, Seijuro vẫn tỏ vẻ bất bình, mặt đỏ gay, thốt ra những lời phản đối. Toji phải đánh trống lấp:
- Tiểu chủ để đàn em lo liệu ...Tiểu chủ cứ yên tâm !
- Ngươi tưởng Yoshioka Seijuro này, chưởng môn kiếm phái Yoshioka lại chịu thua tên ...tên Musashi gì đó ...ở Mimasa hả ?
- Không ! Không ! Tiểu đệ đâu có ý ấy ! Tiểu chủ ở bậc cao trọng, can chi phải hạ mình đối địch với một tên mãi võ vũ phu tầm thường như vậy ? Chuyện này xin đừng nói lớn, người ngoài biết không tốt. Vấn đề quan trọng là đừng để nó thoát !
Trong khi ấy bọn môn đệ Seijuro đã dần dần phân tán gần hết, lặng lẽ rút êm như một đàn mèo, không một tiếng động. Người ra vườn sau, kẻ nấp trong những xó kẹt hoặc biến đi như tan vào bóng tối của khu trang tại rậm rạp. Một lúc sau không còn thấy ai, Toji mới rút gươm, giọng cương quyết:
- Tiểu chủ, giờ này không nên chần chừ nữa.
Và hắn thổi tắt đèn.
Một mình ngồi trong bóng tối, giữa bầu không khí hoang vắng và căng thẳng đến rợn người, Seijuro đột nhiên cảm thấy cô đơn và buồn khôn tả. Dù cao ngạo đến đâu, hắn cũng đã nhận rõ đồ đệ hắn coi võ công hắn chẳng ra gì, không đủ sức bảo vệ thanh danh môn phái. Từ khi thân phụ quy tiên đến nay, hắn quả đã sao lãng việc luyện tập, giữ được những đường kiếm uy mãnh như xưa cũng đã khó, nói gì đến việc bồi dưỡng hay khai triển.
Seijuro buồn rầu thở dài đứng lên đi ra gần cửa sổ. Qua khung giấy mỏng, hắn nhìn sang phía vườn sau, chỗ Musashi ngồi, thấy có ánh sáng chập chờn leo lét. Đó là ngọn đèn độc nhất còn thắp sáng trong trại.
Ngoài kia, bao nhiêu cặp mắt khác cũng đương chú mục vào ngọn đèn ấy. Những bóng đen nằm rạp xuống đất, nín thở bò lại gần từng chút, từng chút, lắng tai nghe ngóng động tĩnh.
Toji tuy là con người thích hưởng lạc, nhưng khi cần hành động hắn cũng tỏ ra có bản lãnh và khôn ngoan. Hắn tự đặt mình vào địa vị Musashi, tự nêu nhiều câu hỏi và tự giải đáp:
“Musashi là kẻ vô danh, vùng này không ai biết, nhưng phải nhận là hắn khỏe và có võ công thượng thừa. Nếu không, sao chỉ trong khoảnh khắc đã đả thương được tới năm sáu cao thủ Yoshioka. Hắn lại nhiều mưu lược, biết tiến thoái khi cần để giữ sức. Nếu ta là hắn, ta sẽ làm gì ? Không lẽ cứ ngồi nhà khách chờ chưởng môn về ? Hắn ngu gì mà không biết hắn có thể bị bao vây như chuột trong rọ.
Vậy chắc giờ này hắn đã chuẩn bị kỹ, sắn sàng nghênh chiến. Nhưng sao hắn không thổi tắt đèn đi để gây hỗn loạn trong bóng tối mà nắm phần thắng chứ ? À, phải rồi !
Hắn để đèn lừa ta, tưởng hắn không chuẩn bị, rồi nấp đâu đó xuất kỳ bất ý ...Đúng rồi !
Phải rồi ! Ở địa vị hắn, ta cũng làm vậy !” Toji nhìn chung quanh. Dưới ánh sao lờ mờ, môn đệ Yoshioka như những âm binh lom khom từ khắp vườn tiến tới. Đến gần cửa phòng, Toji lên tiếng.
- Musashi ! Xin lỗi để các hạ phải chờ lâu. Chưởng môn Yoshioka muốn được tiếp kiến !
Không nghe trả lời. Toji đồ chừng Musashi án binh bất động, nằm phục đâu đó chờ lúc thuận tiện đánh ra. Hắn đưa mắt lần nữa, thấy bộ hạ đã tề tựu đông đủ, bèn quát như sấm động:
- Giê ...ết !
Đồng thời lấy chân đạp toang cửa. Cánh cửa bằng gỗ mỏng vỡ tung, bay vào trong phòng làm tắt ngọn đèn độc nhất đặt trên kỷ. Căn phòng tối om. Đồ đệ Yoshioka mạnh ai nấy hét, phá cửa sổ nhảy vào như vũ bão, đao kiếm cầm tay chặn hết các lối.
Nhưng phòng trống không, Musashi đã đi đâu mất ! Mọi người nhìn nhau lao xao, nổi lửa châm đèn, ngạc nhiên đến cực điểm. Quái lạ, ấm trà vẫn đây, chén trà rót ra vẫn còn nguyên chưa ai động đến. Người canh cửa bên ngoài nói có trông thấy Musashi cách đây chừng vài khắc đi vào phòng tắm, sao bây giờ đã mất dạng ?
Tiếng chân bước rậm rịch khắp nơi vang động cả khu vườn yên tĩnh.
- Nó là ma à ? Thoát ra đường nào được ?
- Lạ thật !
Toji nổi nóng sai bộ hạ sục sạo không thiếu chỗ nào, vừa văng tục vừa dọa nạt. Bỗng có tiếng reo hò mừng rỡ:
- Đây rồi ! Hắn trốn chỗ này !
Tất cả đổ xô vào buồng tắm, thấy sàn nhà bị gỡ một mảng lớn vừa người chui lọt.
Hiển nhiên Musashi đã chui qua lỗ này trốn ra ngoài.
Toji ra lệnh:
- Nó mới thoát đây thôi ! Anh em đuổi theo tức khắc !
Ai ai cũng hoan hỉ. Vậy Musashi là một thằng hèn, đã không dám ở lại tỷ đấu với chưởng môn, thế thì còn đáng sợ gì nữa ! Mọi người thấy cơn nguy hiểm đã qua, đều lên tinh thần và can đảm, hùa nhau từng tốp ào ra cổng ngoài bắt gian khách.
Được vài bước đã có người chỉ trỏ kêu rầm rĩ:
- Kia kìa ! Nó kia kìa !
Một bóng đen từ trong bụi rậm gần cửa sau vọt ra, lẩn vào đường hẻm bên hông trại. Môn đệ và gia nhân Yoshioka la hét đuổi theo. Khi bóng đen chạy gần đến bãi hoang thì bị toán phục kích ở đó đổ ra chận bắt làm hắn ngã sóng soài. Nhưng bóng đen đã nhanh nhẹn đứng ngay dậy được và chống trả kịch liệt làm ba đệ tử Yoshioka phải lui bước.
Bọn đuổi theo chạy đến nơi trông thấy hắn vội nói:
- Không phải tên này ! Nhầm rồi !
Đương phân vân thì Toji tới:
- Á à ! Ta biết tên này. Nó đâu phải Musashi ...gì đó !
- Huynh trưởng biết hắn hả ?
- Ừ, ta thấy hắn ở quán Yomogi.
Matahachi, vì chính hắn là Matahachi, đứng ngây người nhìn Toji. Không ai nói câu gì. Matahachi vụng về buộc lại tóc và sửa lại bộ áo xốc xếch.
- Hắn là chủ quán Yomogi hả ?
- Không. Oko bảo không phải. Hắn chỉ là kẻ ở đậu.
- Trông khả nghi lắm. Hắn rình rập ở cửa sau làm gì thế ?
Nhưng Toji đã quay gót đi và dặn bộ hạ:
- Bỏ thằng đó đấy, mất thì giờ vô ích. Chia hai ra, cánh tả lên phía bắc, cánh hữu xuống phía nam. Nếu không bắt được nó, ít ra cũng biết nó trú ngụ ở đâu.
Xôn xao một lúc, chúng chia thành hai nhóm làm theo lệnh Toji.
Matahachi ngồi trên phiến đã trông đám gia nhân phái Yoshioka chạy đi chạy lại vội vã. Thấy người tới gần, gã giữ lại hỏi.
- Ngươi muốn gì ?
- Anh chàng tên là Musashi gì đó chừng bao nhiêu tuổi ?
- Làm sao ta biết được !
- Cỡ trạc tuổi ta không ?
- Để coi nào ...Ừ, cũng đại khái vậy.
- Hắn nói ở làng Miyamoto, tỉnh Mimasaka à ?
- Ừ.
- Chắc Musashi cũng là Takezo đấy thôi. Viết khác nhưng đọc cũng tương tự.
- Sao ngươi hỏi ta những câu ấy ? Bạn ngươi hả ?
- À không. Muốn biết vậy thôi mà !
- Này ta bảo thật, lần sau gặp những chuyện như thế này, nên tránh ra xa kẻo lụy vào thân đấy !
Nói xong rảo cẳng bước đi.
Matahachi cũng đứng dậy, men bờ lạch đi về phía bắc. Thỉnh thoảng ngước lên nhìn trời đầy sao lấp lánh, hắn tự nhủ:
“Nghĩ cho cùng, ta cũng chẳng nên gặp hắn làm gì, chỉ thêm xấu hổ. Nhưng để cho tụi Yoshioka bắt được thì chúng giết chết. Không biết hắn trốn đâu ! Bạn bè, ít ra mình cũng phải báo cho hắn biết để đề phòng” ...

Acmagiro
10-02-2008, 05:12 AM
QUYỂN 2 : Sui No Maki
CHƯƠNG 12
GẶP GỠ TRÊN ĐƯỜNG




Con đường đá dốc gồ ghề dẫn lên chùa Kiyomizudera ngoằn ngoèo tựa rắn lượn.
Hai bên đường lác đác vài căn nhà xiêu vẹo, vách ván nhô ra thụt vào như hàm răng khểnh. Trước thềm, cỏ dại mọc đầy, rêu phong loang lổ cả trên mái. Dưới ánh nắng gay gắt ban trưa, mùi cá phơi bốc nồng nặc.
Từ trong một căn nhà ven phố, tiếng la hét tục tằn vang lên, tiếp theo là bát đĩa ném ra cửa rơi vỡ loảng xoảng. Một gã đàn ông trạc trung niên từ trong nhà vùng chạy ra, mặt nhăn nhó, mụ vợ đuổi theo sau, tay cầm chổi, tóc chưa kịp búi, áo xốc xếch, đôi vú mướp lộ ra thỗn thện như vú bò.
- Mày chạy đi đâu, thằng già khốn nạn kia ? Đi rượu chè bỏ vợ con đói khát giờ còn vác mặt về hả ...hả ?
Trong nhà có tiếng trẻ khóc. Vài người hàng xóm thò mặt ra cửa nhìn nhau bàn tán chỉ trỏ.
Musashi mỉm cười. Hắn đã quen với cảnh đó từ khi đến tạm trú ở vùng này chừng hơn một tháng. Đứng trước một cửa hàng xiêu vẹo bán đồ gốm, hắn tò mò nhìn hai người thợ đang chăm chú làm việc cạnh chiếc bàn xoay, mặt ngay ra, say mê như đứa trẻ. Hai người thợ không để ý gì đến hắn, mãi miết chân đạp tay nặn, cả người như hòa đồng với khối đất sét đặt trên bàn.
Musashi thích làm đồ gốm lắm. Ngay từ khi còn nhỏ, hắn đã say mê mọi thứ công việc bằng tay chân, nhất là những việc cần đến sự khéo léo và mỹ thuật. Hắn mong ước làm được một chén trà bằng đất nung, và bây giờ, đúng lúc này, hắn thấy người thợ già đang chăm chú làm một chiếc chén như thế. Nhìn người thợ gọn gàng phối hợp những động tác, chân đạp bàn xoay, tay giữ chén đưa đẩy cho thành hình, hắn ngạc nhiên không ngờ muốn làm một đồ vật giản dị như thế mà cũng cần đến một kỹ thuật tinh vi nhường ấy !
Tự nhiên hắn thấy tôn trọng những con người nghèo khó trước mặt đã đem hết khả năng, nghệ thuật và tấm lòng vào những việc làm tầm thường hàng ngày. Musashi kính cẩn đứng nhìn. Trên chiếc kệ thô sơ ghép bằng gỗ tạp treo ở góc phòng; chén, bát, ấm trà mới nung xếp thành hàng, dưới đất ngổn ngang đất sét, thùng nước và những vật dụng linh tinh khác.
Cửa hàng tồi tàn, hai người thợ quần áo nhem nhếch nhưng làm việc với vẻ mặt đầy vui thích. Những ấm chén họ làm ra bán chẳng được bao nhiêu, nhiều lắm là một vài đồng, cho khách thập phương qua lại lên chùa lễ Phật. Musashi chẳng biết với số tiền khiêm nhượng thu được họ có đủ ăn không, đời sống ngày càng đắt đỏ, không dễ dàng gì ! Trước nỗi cực nhọc và sự kiên nhẫn của hai người thợ, Musashi cảm thấy con đường hắn đi còn dài và gian khổ; sự cần cù của họ là tấm gương để hắn noi theo, cho hắn sức mạnh để không nhụt chí.
Suy nghĩ miên man, hắn nhớ đến những ngày ở thạch thất, vụ thách đấu với phái Yoshioka, rồi mới đây những lần đến thăm viếng một vài môn phái tại Kyoto, đâu đâu hắn cũng toàn thắng, không nơi nào dạy cho hắn được một bài học đáng nhớ. Musashi băn khoăn không biết vì sở học mình cao hay vì kiếm pháp những người kia còn thấp, không đáng tay đối thủ. Hay hắn quá khắt khe với mình ? Có lẽ nào ! Kyoto là nơi tập trung nhiều danh gia, sao lại tồi tệ đến thế ? Musashi thất vọng. Nếu tất cả chỉ tầm thường như vậy thì nền võ nghệ xứ này chẳng hóa ra đáng buồn lắm sao ? Musashi hít mạnh một hơi, khoan khoái và kiêu hãnh. Nhưng đột nhiên hắn nghĩ đến lời nói của người xưa trong sách hắn đã đọc và rùng mình kinh hãi:
“Không gì giết chết tài năng nhanh chóng bằng lòng kiêu ngạo !”. Hắn quay nhìn lần chót người thợ già đang chăm chú vào công việc, tay chân nhem nhuốc bùn đất, rồi lặng lẽ bước đi theo con đường đá lên chùa.
Được một quãng, bỗng có tiếng gọi từ dưới chân núi:
- Này tráng sĩ mang kiếm !
Musashi quay lại:
- Ngươi gọi ta ?
Nhìn người gọi mình tay cầm cây đòn dài, mặc áo chẽn đệm bông ở hai vai, chân trần đi dép cỏ đã vẹt gót, Musashi đoán chừng anh ta là một phu xe hoặc phu cáng. Anh ta đáp bằng một giọng lễ phép ít thấy ở giới thấp kém như vậy trong xã hội:
- Vâng. Tráng sĩ có phải là Miyamoto Musashi ở Miyamoto không ?
- Phải.
- Cám ơn tráng sĩ.
Nói xong bước thẳng về phía cuối phố. Musashi nhìn theo thấy người phu cáng bước vào một tiệm trà. Sực nhớ sáng nay khi qua phố, hắn thấy có một đám xa phu ăn mặc như vậy đứng ngồi lố nhố trong tiệm. Không hiểu chuyện gì nhưng thấy người gọi, Musashi cũng đứng đợi, chừng tàn nén hương, không ai chạy ra hắn mới bỏ đi, thong thả leo lên núi.
Dọc đường, Musashi dừng lại nhiều lần trước những ngôi đền nhỏ rải rác, mỗi lần dừng chân lại khấu đầu làm lễ cầu xin thần Phật phù hộ cho chị hắn. Có nơi hắn còn xin thần linh giúp cho đủ nghị lực và khôn ngoan để trở nên một kiếm sĩ xứng đáng như lòng mong ước. “Nếu chẳng được như nguyện, xin đừng cho đệ tử hưởng lộc trời”. Musashi lâm râm khấn nguyện, hy vọng lòng thành của hắn làm các đấng thiêng liêng xúc động. Gần đỉnh núi, Musashi tìm một phiến đá nhẵn nhụi ngồi nghỉ, chiếc nón lá để bên. Nhìn giải thung lũng chạy dài dưới chân, phong cảnh tươi đẹp như trong tranh vẽ, hắn cảm thấy hãnh diện vô cùng vì còn được sống và thưởng ngoạn. Niềm biết ơn dâng lên dào dạt trong lòng, ơn Trời Phật, ơn các đấng sinh thành, ơn thiền sư Takuan đã chỉ cho hắn con đường mà ngày nay hắn đang theo đuổi.
Musashi nghĩ đến một chuyện cổ tích về thế kỷ thứ mười, có hai anh chàng tên Taira và Fujiwara, cả hai cùng tham vọng ngút trời, cùng nhau hợp tác, hẹn nhau nếu bá chủ được võ lâm sẽ chia hai sơn hà, hùng cứ mỗi người một phương. Chuyện thật khó khăn như trong huyền thoại, nhưng xét cho cùng giấc mơ của hai người ấy so với ước vọng của hắn bây giờ không khác nhau là mấy. Lại như tướng Oda và Hòa Toyotomi với những trận chiến ghê hồn trong thập niên vừa qua cùng với mưu đồ thống nhất nước Nhật của họ chẳng phải là những toan tính, mưu lược và kiên trì đáng cho hắn phải ngưỡng phục sao ?
“Ta sinh chẳng gặp thời. Bây giờ không phải lúc dùng đao kiếm để mưu cầu sự nghiệp, nhưng chẳng hề gì, ước vọng của ta khác”. Hắn nhủ thầm và đưa tay vuốt ve thanh kiếm đeo bên sườn. Trông giây phút, trực giác mẫn nhuệ của hắn lóe lên như một tia sáng giữa đêm sâu giúp hắn nhận chân được đâu là tinh hoa của kiếm đạo và càng làm hắn vững ý chí.

Acmagiro
10-02-2008, 05:13 AM
Mãi suy nghĩ, Musashi không để ý đến tên phu cáng lại vừa xuất hiện trên sườn núi, miêng kêu tay chỉ:
- Kìa, Miyamoto Musashi kia kìa !
Theo sau là một toán xa phu vừa vạch lau vừa trèo lên phía hắn. Định tránh mặt, Musashi đứng dậy, đến gần tấm bảng gỗ vờ đọc những lời yết cáo trên đó, nhưng vẫn ngấm ngầm đưa mắt quan sát. Hắn thấy có một toán xa phu nữa cầm gậy xuất hiện chặn lối lên và tìm cách bao vây hắn vào giữa. Musashi định thét một tiếng thật lớn cho đám xa phu sợ mà bỏ chạy, nhưng nghĩ cho kỹ, hắn thấy không cần. Hắn chưa hiểu ất giáp ra sao và cũng tò mò muốn biết họ vì lý do gì lại tìm cách gây hấn với hắn.
Musashi không muốn sát hại đám người nghèo khổ ấy. Chắc có sự hiểu lầm, nếu mọi chuyện sáng tỏ, họ sẽ bỏ đi. Nghĩ thế nên hắn yên tâm đứng đợi.
Thấy ồn ào ở cổng ngoài, một số tăng ni chạy ra sân chùa thập thò sau hàng rào gỗ. Khách vãng lai hiếu kỳ cũng dừng lại mỗi lúc một đông, lẫn lộn trong đám xa phu, hoặc đứng ngồi rải rác chờ động tĩnh.
Từ xa xa, tiếng chân người rậm rịch đi tới, dường như đang khiêng một vật gì nặng, ì ạch lên núi. Đến gần, thì ra là bốn xa phu khiêng một chiếc cáng nghèo nàn, kiểu hai người ngồi đã cũ, sơn bên ngoài loang lổ nhiều chỗ. Họ đặt cáng xuống khoảng đất trống cạnh chùa. Một bà lão mặc áo chẽn nâu đã bạc màu cùng với một ông già trang phục lối kiếm sĩ thôn quê vén rèm bước ra. Cả hai trạc độ sáu mươi, sáu lăm, tuy đã trọng tuổi nhưng còn quắc thước mặc dầu có vẻ mỏi mệt. Bà lão nheo mắt, lấy tay che cho khỏi chói, quay nhìn về phía Musashi rồi nói với ông già:
- Lần này thì đừng để nó thoát, nghe không cậu Gon !
Thì ra đây là hai chị em cụ Osugi. Cậu Gon gật đầu:
- Chị đừng lo, để mặc tôi !
Rồi quay sang hỏi người phu cáng kế bên:
- Đâu ? Nó đâu ?
Họ chỉ Musashi đứng trước tấm bảng gỗ ở đằng xa đang mãi mê đọc cáo thị như không để ý gì đến xung quanh. Cậu Gon nhổ nước bọt vào tay, nắm đốc kiếm hùng dũng rẽ đám đông đi thẳng đến phía Musashi đứng. Theo sau, cụ Osugi khấp khểnh bước, chân hãy còn tê dại vì ngồi quá lâu. Có tiếng ai gọi với:
- Cẩn thận, lão trượng ! Nó khỏe lắm đó !
Vài người khác hùa theo dặn dò:
- Lão bá cứ thong thả, chuẩn bị kỹ là hơn, đừng vội !
Mọi người giương mắt nhìn, theo dõi cuộc tranh hùng sắp tới mà họ cho là sẽ hào hứng lắm. Họ cười nói ồn ào như sắp được xem một màn kịch ít khi xảy ra tại một nơi hẻo lánh như vậy.
- Bà lão liều quá ! Tuổi bà đáng lẽ phải ở nhà vui với con cháu mới phải !
- Ờ ...ờ ...Nhưng cũng đáng phục lắm chứ ! Danh dự gia đình là trọng ...
- Nghe đâu con dâu bà bỏ đi theo thằng đó đấy !
Một người cầm gáo nước chạy theo:
- Lão bá ! Lão bá ! Uống chút nước đã !
Cụ Osugi dừng lại cầm gáo nước uống một hơi, lấy tay chùi mép rồi đưa cho em:
- Này cậu, giải khát đi. Hình như nó có học võ chút đỉnh, nhưng theo ta, nó vẫn chỉ là thằng con nít, không bằng cậu đâu !
Qua cổng chùa, cụ Osugi nhìn vào. Thói quen kính ngưỡng thần Phật làm bà khựng lại rồi không biết nghĩ sao, bà quỳ xuống ngay trên bực đá trước cổng, mở bọc lấy tràng hạt ra nhắm mắt lâm râm khấn khứa. Cậu Gon cũng dừng lại phía sau chắp tay yên lặng.
Sự việc xảy ra vừa bất ngờ vừa mang vẻ khôi hài làm mọi người bỡ ngỡ. Có người che miệng khúc khích, nhưng cũng có người tán thưởng.
- Phải lắm. Có gì mà cười ! Trước khi đối đầu với một tên hung dữ như thế, xin thần Phật phù hộ cho là phải chứ ! Lão bà đi khắp nơi không gặp kẻ thù, nay thấy nó ở đây, tất do cơ duyên hãn hữu, cám ơn Trời Phật là đúng lắm !
Tiếng khen chê nổi lên, mỗi người một phách, nhưng tựu trung ai cũng cho bà già can đảm.
- Nếu bà lão không bắt được nó giải về làng, ta phải giúp !
Một người nói.
- Ờ. Không có lý gì mà những trai tráng như chúng mình lại không can thiệp !
Khách bàng quan khi biết rõ lý do gì đã khiến hai chị em cụ Osugi phải ra tay như thế đều tỏ lòng kính phục. Họ còn khuyến khích đám xa phu tiếp sức nữa.
Musashi vẫn yên lặng, bất động. Hắn đứng dựa lưng vào tảng đá lớn suy nghĩ nhưng vẫn chưa tìm ra được cách phản ứng thế nào cho phải.
Takuan đã một lần cảnh cáo hắn trên đường hành hiệp thế nào cũng có lúc gặp hai chị em Honiden, nhưng không ngờ câu chuyện lại xoay ra thế này. Chưa bao giờ hắn có ý tưởng là hắn đã làm tan nát gia đình nhà họ Hồ. Hắn luôn luôn coi Otsu là vị hôn thê của bạn, có thân chăng cũng chỉ như người em gái nhỏ đã một lần cứu hắn, hắn biết ơn, thế thôi ! Bây giờ chẳng biết làm sao, dù phải tự vệ, hắn cũng không thể nào rút gươm chống lại hai người già kia, nhất lại là thân mẫu và cửu phụ của bạn mà hắn biết chắc là võ công không thể nào là đối thủ của hắn được.
Musashi đứng nhìn đám đông bao vây trước mặt, bối rối không tìm ra cách giải quyết thỏa đáng. Mọi người đều về phe Honiden, coi hắn như một tên sát nhân đáng ghê sợ và xấu xa, hắn không có cách gì biện minh được. Phải chi Matahachi có mặt ở đây, may ra mới hy vọng hóa giải được sự hiểu lầm này.
Cụ Osugi lần xong chuỗi hạt, đã đứng dậy, giọng run run nhưng dáng điệu cương quyết, nói với đám xa phu:
- Ta vừa khấn Trời Phật phù hộ ta và cậu Gon bắt tên nghịch tử này. Giờ ta cám ơn tất cả anh em. Ta không cần ai giúp mà anh em cũng đừng nhiều lời. Nếu chẳng may ta và cậu Gon có mệnh hệ nào, xin anh em cứ đưa thi thể chúng ta về Miyamoto, sẽ có người đền công xứng đáng.
Dứt lời, rút thanh đoản kiếm gia bảo do tổ phụ để lại mà bà đã cẩn thận giắt theo trước khi lên đường, cụ Osugi hướng về phía Musashi nói lớn:
- Takezo ! Mày là Takezo ở Miyamoto phải không ? Nghe nói mày mới đổi tên gì hay lắm, nhưng ta không cần biết. Đối với ta, mày vẫn là thằng Takezo dẫn con ta đi mất tích và còn dụ dỗ dâu ta nữa ! Bốn năm nay, giờ mới gặp ! Ta với mày một còn một mất. Hãy rút kiếm ra, thằng kia ! Ta đợi !
Cơn giận làm mặt bà đỏ gay, tiếng nói lạc đi, giọng cao the thé như xoáy vào tai, những nếp nhăn dưới cằm rung động, cổ bà bạnh ra tựa cổ rắn. Hiển nhiên bà muốn trút hết niềm căm phẫn dồn nén từ lâu lên đầu địch thủ trước khi giết hắn để trả hận.
Musashi không nói gì. Hắn chẳng muốn phân trần, chỉ đứng yên như pho tượng nhìn hai người. Cậu Gon điềm tĩnh hơn. Tay cầm kiếm, cậu nói với bà chị:
- Để tôi ...
- Không được ! Giọng cụ Osugi dứt khoát. Thần Phật đã phù hộ ta, tiền nhân đã ứng vào lưỡi gươm này, ta phải đích thân lấy đầu thằng nghịch tử. Mày không rút kiếm ra cũng không cần, trông đây !
Bà vừa nói vừa giơ đoản kiếm chạy đến trước mặt Musashi. Nhưng rủi thay, vì quá vội, bà vấp ngã sóng soài chỉ trước mặt hắn có vài bước, thanh kiếm văng sang bên cạnh. Mọi người kinh hãi, kêu lên:
- Chết rồi ! Nó giết bà lão mất !
Cậu Gon sợ quá, đứng lặng như trời trồng. Một số xa phu vừa định ùa tới thì may sao bà lão đã lồm cồm bò dậy, nhặt thanh kiếm chạy vội về phía em. Bà hơi ngượng, nhưng lấy giọng giận dữ khỏa lấp:
- Cậu chẳng được cái tích sự gì ! Rút gươm ra cầm chơi đấy à, sao không chạy lại đâm cho nó một nhát ?
Musashi bên ngoài mặt lạnh như tiền, nhưng trong lòng không khỏi xúc động. Hắn thương bà lão và ông già, nạn nhân của bao nhiêu ràng buộc, của những quan niệm hẹp hòi và lễ nghi phiền phức. Hắn tiếc chẳng đủ thì giờ cùng uy tín đánh tan những ngộ nhận giữa hắn và gia đình Honiden. Một ngày kia, biết đâu một ngày kia, cơ may nào đó cho hắn được dịp biện bạch, thù hận sẽ qua đi, chỉ còn lại tình người nồng ấm như thuở nào lúc còn thơ ấu, hắn vẫn sang chơi nhà Matahachi, ăn cơm và làm giúp mẹ bạn những công việc lặt vặt trong nhà.
Musashi lắc đầu tự nhủ:
“Không được ! Ta không thể làm thế được !”. Hắn hét lên một tiếng to như sấm động, mọi người giật mình, vòng vây vô tình dãn ra đôi chút. Hắn đi thẳng tới trước. Cụ Osugi lắp bắp:
- Takezo, mày đi đâu vậy ?
- Nó trốn đấy ! Nó trốn đấy !
Cụ Osugi hoảng hốt:
- Rút kiếm ra, Takezo ! Ta đợi đã bốn năm ...
Nhưng Musashi lắc đầu. Trong dáng đi và trên vẻ mặt hắn có một cái gì kiêu hùng làm mọi người phải kính nể, e dè không dám ngăn cản. Đến gần nơi ghềnh đá dốc, cỏ cao ngập đầu người, bỗng nhiên hắn nhảy xuống nhanh như tên bắn, một loáng đã mất dạng trong những lùm cây, không còn dấu tích gì nữa.

Acmagiro
10-02-2008, 05:13 AM
QUYỂN 2 : Sui No Maki
CHƯƠNG 13
TIỂU ĐỒ




Cơn mưa trái mùa tầm tã đổ xuống ngoại ô vùng Kyoto. Tiếng mưa rào rào cùng với tiếng chày giã gạo trong xóm quyện vào nhau tạo nên một âm thanh đều đều buồn tẻ làm tăng vẻ tiêu điều của những căn nhà ảm đạm, mái ra. sũng nước và cửa gỗ mục nát không đủ ngăn cơn gió phũ phàng từ đồng không thốc tới.
Đây là một xóm nhỏ nghèo dựng trên một khu đất bỏ hoang ở ven cổ thành, cư dân chỉ độ vài chục người, tay làm hàm nhai, vất vả lẳm mới kiếm đủ sống. Có những ngày hoàng hôn tắt đã lâu, sương chiều bắt đầu xuống làm mờ những mái ra. mà bếp núc trong xóm vẫn lạnh tanh, chỉ lác đác vài căn nhà có khói bốc lên chứng tỏ có cơm tối.
Trước một căn lều trông tiều tụy chẳng kém gì những căn khác, khách vãng lai nhìn chiếc nón nan cũ rộng vành treo bên cửa, trên đề mấy chữ vụng về thì mới biết đó là một cái quán. Nhưng quán mới xơ xác làm sao ! Đồ đạc chả có gì, vài chiếc chiếu trải ngay trên mặt đất dùng làm giường ngủ cho khách trọ qua đêm. Góc quán cũng có ổ rơm, nhưng ai muốn nghỉ lưng phải tra thêm tiền nên ít khi có khách sang dám đụng tới món hàng xa xỉ ấy. Xế vào phía trong, gần cửa ra sân sau là một cái bệ đất đắp cao tới đầu gối, giữa khoét sâu xuống vừa dùng làm bếp vừa dùng làm lò sưởi.
Một đứa bé trai trạc mười, mười một tuổi đứng dựa lưng vào bệ đất. Tóc nó ướt sũng nước mưa, những giọt nước chảy đầy trên cổ, trên trán xuống chiếc kimono rộng thùng thình, bùn đất bắn lên đến tận gáy. Bụng nó quấn sợi dây thừng lớn thay dây lưng, mặt mũi đen đủi nhem nhếch, trông chẳng khác gì một con thủy quái vừa rẽ nước sông lên như thường thấy vẽ trên các bức tranh dân gian bán ngoài chợ.
Đứng một lúc, nó cất tiếng gọi:
- Có ai ở nhà không ?
Trong quán vắng, giọng nó vang át cả tiếng mưa rơi bên ngoài.
- Thằng Jotaro đấy hả ? Tiếng chủ quán trong phòng vọng ra.
Jotaro là đứa bé hầu bàn ở quán rượu gần đấy, được chủ nuôi để sai vặt.
- Vâng. Hôm nay ông có lấy rượu không ?
- Không. Ông khách chưa về. Hôm nay khỏi.
- Ngộ ông khách muốn về uống thì sao ? Để cháu cứ mang sang như thường lệ.
- Ông ấy uống ta sẽ đi lấy.
Jotaro tiu nghỉu. Nó bước vào phòng, đưa mắt nhìn quanh rồi tò mò hỏi:
- Ông làm gì đấy ?
- Tao viết thư để kịp gửi xe ngựa ngày mai đi Kuruma. Mà khó viết quá, ngồi mãi đau cả lưng.
- Ông già vậy mà chưa biết viết hả ? Lạ nhỉ !
- Im mồm ! Đi chỗ khác chơi. Đừng làm rộn !
- Ông để cháu viết giúp được không ?
- Mày mà viết gì !
- Được, cháu viết được.
Jotaro bước đến sau lưng chủ quán nhìn ông già gò lưng trên tờ giấy, tay lem nhem những mực. Nó chăm chú dò từng chữ đã viết rồi bật cười như nắc nẻ:
- Sai rồi ông ơi ! Chữ “than” đâu có nét này. Nếu có thành ra “thang” à ? Ông muốn gửi than hay thang cho người ta ?
- Ờ ...ờ ...tao muốn gửi than.
- Vậy phải xóa nét này đi. Ông đưa chau đọc xem nào ...Thế này không được, ông viết lăng nhăng khó hiểu quá !
- Mày giỏi viết thử tao coi !
Lão quán đưa bút cho Jotaro:
- Lau cái đầu đi đã ! Nước rỏ ướt hết giấy bây giờ !
- Thôi bỏ tờ này đi, để cháu lấy lau đầu. Ông lấy tờ khác cháu viết hộ. Nào đọc đi !
Jotaro ngồi xuống, lăn bút vào nghiên mực rồi thoăn thoắt viết theo lời ông già nói.
Thư viết xong thì ông khách trọ cũng vừa về. Đã hơn nửa tháng nay, Musashi đến trọ ở quán, thấy chủ quán thật thà chất phác rất hợp ý, vả chỗ trọ cũng vừa túi tiền nên hắn cứ nấn ná mãi. Để nón ngoài hiên, hắn vắt khô những chỗ áo ướt:
- Mưa to quá, rụng hết cả hoa mận.
Hắn vừa nói vừa nhìn cây mận ngoài sân, hoa trắng rơi đầy đất, lẫn với bùn và nước. Mưa tuy đã bớt nặng hạt nhưng thỉnh thoảng vẫn còn cơn gió mạnh lay cành làm cánh hoa rơi lả tả.
Vào trong bếp, Musashi ngạc nhiên thấy thằng bé vẫn mang rượu đến cho mình đang ngồi cạnh ông già chủ quán chăm chú viết. Hắn đứng sau lưng đọc và mỉm cười.
Jotaro ngẩng đầu lên, thấy Musashi, bèn quơ vội lá thư và cây bút giấu sau lưng:
- Xấu lắm ! Xem trộm như vậy là xấu lắm !
- Đưa ta xem ngươi viết gì vậy.
- Không !
Musashi muốn trêu thằng bé:
- Cứ đưa ta xem chút nào !
- Ông mua rượu cháu mới cho xem.
- À ra thế ! Được rồi, ta mua rượu.
- Ba xị nghe ?
- Nhiều quá.
- Vậy hai xị.
- Không, ta không uống nhiều thế đâu !
- Vậy bao nhiêu ? Kẹo thế !
- Ta nghèo, tiền đâu mà dám tiêu phí.
- Thôi được, đây ông xem đi. Nhưng đừng quên kể chuyện như ông đã hứa đấy.
Musashi mỉm cười gật đầu. Hắn cầm tờ thư lẩm nhẩm đọc trong khi Jotaro kéo áo che đầu chạy ra khỏi quán. Đọc xong, hắn ngạc nhiên quay sang hỏi ông lão:
- Thằng Jotaro viết thư này đấy hả ?
- Phải, nó viết đấy. Nó có vẻ rành lắm.
Musashi gật gù đi vào trong nhà rửa mặt thay áo, khi ra ngoài đã thấy chủ quán treo xong ấm nước lên móc trên bếp và đương lấy cơm cùng cải muối chua sắp ra đĩa. Hắn ngồi bên bếp lửa, tiếp tục câu chuyện bỏ dở khi nãy:
- Ông biết nó bao nhiêu tuổi không ?
- Hình như mười một. Tôi nhớ có lần nó bảo vậy.
- Có vẻ khôn sớm, phải không ông ?
- Thì làm ở đó từ năm lên bảy, tiếp xúc với đủ mọi hạng người, gì mà chẳng khôn sớm !
- Ờ ờ ...chữ nó viết còn non nhưng dáng cách khoáng đạt, lời thư chân thật. Thằng ấy chắc sau này sẽ khá.
- Vậy hả ?
Lão quán mở nắp ấm, bỏ trà vào:
- Hừ ! Quái lạ. Đến giờ này vẫn chưa mang rượu sang. Lại la cà ở đâu rồi !
Vừa lúc ấy Jotaro bước vào, tay cầm bình rượu.
- Sao lâu thế ? Mày làm ông khách đợi.
- Cháu phải hầu bàn. Có ông khách mới tới hỏi nhiều chuyện mất thì giờ lắm.
- Chuyện gì ?
- Chuyện về Miyamoto Musashi.
- Này giữ mồm giữ miệng, nói bậy chết đó con !
- Cháu biết chứ, nhưng cần gì. Ở đây ai cũng rõ chuyện xảy ra hôm nọ Ở trên chù a.
Chị Keiko và cô con gái ông thợ sơn hôm ấy cũng ở đó mà ! Họ biết hết.
Musashi lắng tai nghe nhưng cả hai yên lặng không nói thêm gì nữa.
Thằng Jotaro cứ quanh quẩn trong quán, nó nhìn Musashi như dò xét và có ý muốn hỏi điều gì.
- Ông khách này !
- Hả ?
- Cháu có chuyện muốn nói. Cháu ở lại đây với ông một lúc được không ?
- Được chứ, nhưng phải xin phép ông chủ cháu trước đã.
- Không sao, hôm nay trời mưa vắng khách, cháu cũng rảnh.
- Vậy được !
- Để cháu đi hâm rượu.
Và nó nhanh nhẹn để bình rượu lên bếp, một lúc sau rượu nóng, bày ra khay gọn gàng trước mặt ông khách trọ. Musashi nhìn thằng bé lăng xăng trong quán, thấy vui bụng và quyến luyến.
- Ông thích rượu sa-kê không ?
- Thích.
- Nhưng nghèo không có tiền uống phải không ?
- Ờ.
- Cháu thấy kiếm sĩ phần nhiều giàu lắm mà. Lương cao, bổng hàng nghìn gia. lúa.
Ở quán, cháu nghe có người nói như tướng quân Tsukahara Bokuden đi đâu cũng hàng năm sáu chục gia nhân theo hầu, ngựa xe thật nhiều, lại mang chim cắt để săn mồi nữa ...
- Đúng đấy.
- Rồi tướng Yagyu, thuộc hạ của lãnh chúa Tokugawa, bổng lộc mỗi năm năm chục ngàn gia. ...
- Đúng.
- Vậy sao ông nghèo thế ?
- Ta còn đang học.
- Bao giờ thì ông có đồ đệ ?
- Không biết. Chắc chẳng bao giờ có.
- Sao vậy ? Võ nghệ Ông dở lắm phải không ?
- Cháu đã nghe người ta nói về ta, hôm ở trên chùa. Dù sao đi nữa, ta là kẻ chạy trốn ...
- Phải rồi ! Mọi người đều bảo ông hèn, cháu nghe thật tức.
- Hà hà ...Việc gì mà tức, họ có nói cháu đâu ?
- Nhưng tức hộ Ông. Mà sao ông bỏ chạy ? Phải đánh lại chứ ! Bây giờ thì trễ rồi, nhưng ở gần đây có cái sân rộng, hàng ngày con ông tiệm giày, con ông thợ đẽo guốc và cả con ông thợ sơn nữa, thường hay tụ tập ở đấy để luyện võ. Ông ra đấy đánh một đứa đi để lấy tiếng chứ !
Musashi cười:
- Cũng được, nếu cháu muốn ta sẽ làm.
Musashi không muốn làm phật ý thằng bé. Hắn còn trẻ, rất hiểu tâm trạng những đứa trẻ giống như hắn trước kia ; hơn nữa trong thâm tâm cảm thấy yêu mến thằng bé, muốn chiều chuộng nó như trước kia hắn vẫn mong được người lớn chiều chuộng.
- Thôi, nói chuyện khác. Bây giờ đến phiên ta hỏi cháu vài câu nhé. Cháu sinh ở đâu ?
- Ở Himeji.
- Vậy là vùng Harima rồi.
- Đúng. Ông ở Mimasaka phải không ? Người ta bảo thế.
- Ờ, ta ở Mimasaka phải không ? Thế bố cháu làm gì ?
- Bố cháu là kiếm sĩ. Kiếm sĩ thứ thiệt, có lính hầu đàng hoàng !
Musashi không ngạc nhiên. Thảo nào thằng bé biết đọc và biết viết khá.
- Bố cháu tên gì ?
- Aoki Tanzaemon. Bố cháu có bổng hàng ngàn gia. lúa, nhưng khi cháu lên bảy thì bố cháu bỏ đi và dẫn cháu đến Kyoto này. Tiêu hết tiền, ông gửi cháu ở tiệm rượu rồi vào chùa tu. Cháu chả muốn làm ở tiệm rượu, cháu muốn học làm kiếm sĩ như bố cháu và học đánh kiếm như ông. Ông nghĩ có phải không ?
Nghỉ một chút, nó nhìn Musashi giọng say sưa:
- Cháu muốn như ông, đi khắp nơi học đánh kiếm. Hay ông cho cháu theo làm đồ đệ ?
Thằng bé có cái vẻ bướng bỉnh, muốn làm gì phải được. Nó nhìn Musashi, kiên nhẫn chờ câu trả lời và không ngờ đã xin làm học trò một người trước đây gây ra sự bất hạnh cho bố nó. Musashi chẳng biết đáp ra sao, vì vấn đề không phải là nhận hay không nhận. Hắn chẳng biết có nên kể cho Jotaro nghe lai lịch cùng những sự liên hệ giữa hắn với Tanzaemon hay không. Hắn thương thằng bé và cảm thấy có trách nhiệm đối với nó. Con đường người kiếm sĩ theo đuổi thật nhiều bất ngờ, không phải chỉ giản dị có giết người hoặc bị người giết. Tấm gương Aoki Tanzaemon và những bon chen của cuộc sống, trách nhiệm cá nhân đứng trước xã hội, cá nhân với cá nhân làm vầng trán hắn nhăn lại.Vài chén rượu uống trước đây không đủ làm Musashi lên tinh thần mà chỉ làm hắn thấy cô đơn hơn. Hắn cần suy nghĩ.
Jotaro ngồi bên cạnh, thấy Musashi mặt lầm lì không nói thì hơi sợ. Nhưng bản tính bướng bỉnh, nó cố hỏi. Lão quán chạy ra đuổi không cho làm rộn khách, nó vùng vằng đáp lại. Nó nắm tay, kéo áo Musashi, sau cùng òa lên khóc.

Acmagiro
10-02-2008, 05:14 AM
Musashi không còn cách gì, bao giờ hắn cũng thấy lòng mềm lại trước nước mắt:
- Được rồi, được rồi ! Ta sẽ thu cháu làm đồ đệ, nhưng cháu phải xin phép chủ đã!
Jotaro mừng rỡ, chạy ù ra cửa.
Sáng hôm sau, Musashi dậy sớm nói với chủ quán:
- Ông sắp giùm ta một ít món ăn nguội mang đi, nhân thể tính tiền trọ. Mấy ngày nay ở đây thật dễ chịu, nhưng không nấn ná mãi được. Ta phải đi Nara bây giờ.
Ngạc nhiên, lão quán không ngờ Musashi lại có quyết định ấy. Lão hỏi:
- Khách quan không ở đây nữa ư ? Hay tại thằng nhỏ làm phiền đấy ?
- Không. Ta có ý định đi Nara từ lâu để tham quan phép xử trường thương của đền Hozoin. Nghe nói có nhiều ngón đặc sắc lắm !
Phút sau, hắn tiếp:
- Còn thằng Jotaro. Đêm qua không thấy lại. Nếu sau khi ta đi, nó đến làm phiền ông điều gì thì cũng xin bỏ qua cho nó.
- Chậc ! Có gì mà phiền ! Con nít bất quá la hét khóc lóc một hồi rồi quên ngay ấy mà !
- Ta nghĩ chủ nó chẳng cho đi đâu ! Ông vào làm thức ăn hộ, ta đợi.
oo Cơn mưa bữa trước đã tạnh hẳn. Buổi sáng tươi mát hứa hẹn một ngày rực rỡ. Gió thổi hây hây, nhẹ như mơn trên da thịt. Nước sông Kamo dâng cao, đục ngầu. Đằng kia, chỗ ngã ba đầu cầu bắc qua sông đi Nara, một toán tuần cảnh đang ồn ào xét hỏi những người qua lại. Họ kháo nhau vì sắp có đại danh tới kinh lý nên lính tuần phải có trách nhiệm giữ an ninh cho ngài. Musashi cũng bị gọi lại khám xét, nhưng thấy không có gì khả nghi nên được phép qua cầu.
Câu chuyện tình cờ nhắc hắn nghĩ đến thân phận những kiếm sĩ giang hồ như hắn, lang thang không biết đâu là định sở và cũng không có lãnh chúa nào để thần phục. Năm năm trước, Musashi cùng với Matahachi đầu quân dưới trướng hệ phái Osaka cũng vì lòng trung thành cố hữu của gia đình hắn đối với hệ phái ấy. Cha hắn làm quản giáo cho nhà Shinmen bấy giờ là thuộc hạ thân tín của dòng họ Toyotomi ở Osaka nên chỉ biết có họ Toyotomi. Lúc còn nhỏ trong những khi ngồi gần bên bếp lửa, nghe cha thuật lại các chiến công hiển hách của dòng họ, hắn hết sức thán phục. Lòng ngưỡng mộ ấy còn lưu lại trong ký ức đến ngày nay và làm hắn có thành kiến coi những lãnh chúa khác như những phe phản loạn. Thân phụ Toyotomi cũng như Shinmen tuy đã khuất, nhưng bây giờ ai hỏi hắn là người của phe nào, hắn chẳng ngần ngại nói hắn thuộc dòng họ Shinmen.
Những năm lang bạt làm hắn khôn lớn và chính chắn hơn. Hắn thấy những điều hắn làm trong tuổi niên thiếu thật vô ích và rồ dại. Phụng sự chủ soái đâu phải chỉ là nhắm mắt xông bừa ra trận, giết cho được nhiều người, mà phải có khả năng, tận tụy và trung thành, nhất là trung thành cho đến chết. Bấy giờ hắn và Matahachi không hiểu và cũng không có một chút ý niệm gì về lòng trung thành. Hai đứa mới chập chững vào đời, hăm hở đi tìm công danh, không ngờ suýt nữa vong mạng trong tăm tối. Thiền sư Takuan dạy cho hắn biết thân mình là quý, không ngờ vì thiếu suy xét, hắn đã mang cái mạng sống trân quý ấy đổi lấy chút hư danh bèo bọt.
Trời đã gần trưa, sắp tới thị trấn Daigo, trán lấm tấm mồ hôi, hắn định dừng lại nghỉ mệt. Bỗng có tiếng gọi sau lưng làm hắn quay lại.
- Ông ơi ! Ông đợi cháu !
Musashi nhận ngay ra là Jotaro, thằng bé làm ở quán rượu. Nó chạy theo, thở chẳng ra hơi, vừa chạy vừa gọi, miệng la tay vẫy rối rít. Đến gần, chưa kịp yên chỗ, nó đã trách:
- Ông nói dối cháu ! Ông nói dối cháu ! Sao ông làm vậy ?
Mặt đỏ gay, lời nói đứt quãng, câu trách móc thật nghiêm khắc nhưng trông vẻ mặt nó thiểu não như sắp khóc. Nó ăn mặc mới thật nực cười. Bộ quần áo hầu bàn cũ lem luốc nay được thay bằng một chiếc kimono mới, nhưng chiếc kimono lại quá ngắn, tay áo chỉ đến khuỷu và gấu áo chỉ vừa quá bụng được một chút. Nó đeo bên sườn thanh kiếm gỗ dài hơn người và sau lưng một cái nón nan thật lớn to như cái dù.
Musashi nhìn thằng bé không khỏi phì cười. Hắn ôm lấy Jotaro và lấy vạt áo chùi những giọt nước mắt bắt đầu chảy xuống đôi má đen sạm của nó. Thằng bé hình như vẫn chưa vừa lòng, còn sụt sịt ấm ức:
- Ông người lớn mà ông nói dối cháu, không biết xấu hổ ! Ông nhận cháu làm đồ đệ rồi lại bỏ đi, không đợi. Người lớn nào cũng nói dối như thế sao ?
- Ta thật không phải. Thôi ta xin lỗi.
Jotaro nhoẻn miệng cười.
- Ta không có ý định nói dối cháu đâu, nhưng vì cháu còn bố cháu, còn chủ quán... Tối qua không thấy cháu sang, ta tưởng chủ cháu không bằng lòng.
- Thì ít nhất ông cũng phải chờ để cháu nói cho biết chứ !
- Vì vậy ta xin lỗi. Thế chủ cháu có bằng lòng không ?
- Có.
Jotaro với tay hái chiếc lá dâu bên vệ đường hỉ mũi. Nó nói:
- Ông chủ bảo cứ đi, không có võ đường hay một kiếm sĩ nào biết tự trọng lại thu dụng cháu làm đồ đệ. Cháu bảo cháu theo ông thì ông chủ phá lên cười. Ông bảo:
“Thằng đó nhận mày là đúng rồi. Mày theo mang gươm cho nó chứ làm gì !”. Ông ấy còn cho cháu thanh kiếm này làm quà đấy !
Musashi mỉm cười.
- Cháu chạy qua quán chỗ ông trọ, không thấy ai. Chủ quán không có đấy, cháu giật luôn cái nón này đội đầu.
- Bảng hiệu của người ta mà mày lấy đội đầu. Mày biết chữ gì viết trên đó không ?
“Giường cho thuê” đó !
- Mặc kệ. Khi mưa đội cũng đỡ lắm chứ !
Thái độ của thằng bé bấy giờ rõ ràng là bất cần. Điều quan trọng đối với nó là gặp Musashi, được hắn cho thờ làm thầy để học võ. Cảm thấy vậy, Musashi không muốn nói thêm gì làm cho nó bối rối. Hắn nghĩ có lẽ đây là điều tạo hóa đã an bài để hắn săn sóc thằng bé, đền lại phần nào những bất hạnh mà nó phải chịu.
Thấy Musashi vui vẻ, không có ý xua đuổi, Jotaro rụt rè:
- Từ nay cháu sẽ gọi ông bằng thầy.
Musashi mỉm cười gật đầu. Thằng bé yên bụng, mặt tươi hẳn lên. Bỗng sực nghĩ đến chuyện gì, nó nói:
- Ấy quên ! Có cái này cho ông ...à cho thầy ...
Jotaro thò tay vào áo lấy cuộn giấy đưa ra. Musashi ngạc nhiên:
- Gì thế ? Thư ai vậy ?
- Thầy nhớ không ? Hôm qua con đã nói có ông khách đi ngang vào uống rượu hỏi con nhiều chuyện lắm. Ông ấy đưa thư này bảo con chuyển cho thầy. Ông ấy uống rượu như hũ chìm.
Musashi không đoán ra là ai, cậy khằn đóng trên bì thư, mở ra nhìn xuống chữ ký ở dưới mời biết là của Matahachi. Hắn càng ngạc nhiên. Chữ viết nghiêng ngả, tuồng như người viết đã say lắm. Musashi thong thả đọc từng chữ, thấy ý tứ lộn xộn, câu kệ không rõ ràng, nhưng cũng hiểu đại lược:
“Từ khi bỏ mày ở Ibuki, tao vẫn không quên làng cũ, không quên mày. Tao nghe nói đến tên mày ở gần võ đường Yoshioka. Chúng tìm mày đó. Tao muốn gặp mày, mà thôi, chẳng cần. Tao uống rượu ở quán này. Say quá !” Đến đây thì một hàng chữ bị nhòe, có lẽ vì rượu đổ vào.
“ ... bị giữ trong thành lâu, sa đọa quá lắm. Năm năm vô công rồi nghề, chẳng biết làm gì. Nghe nói mày thành công, tao mừng cho mày. Có người nói mày là tay kiếm vô địch, nhưng ở đây người ta cho mày là thằng hèn. Giỏi hay hèn, tao cóc cần, miễn là mày làm cho người ta nói tới là tao sướng. Mày đã có danh, còn tao chỉ thụt lùi trong vũng bùn nhơ nhớp. Tao chẳng muốn gặp mày đâu, xấu hổ lắm. Nhưng đời còn dài, mày ạ. Sau này ai biết ai ! Còn mày còn tao. Chúc mày mạnh khỏe”.
Góc thư còn mấy câu tái bút, dặn dò:
“Bảo trọng lấy thân, đừng chết uổng. Thành danh thì phải sống để làm gương cho tao. Sẽ có dịp gặp mày kể nhiều chuyện”.
Musashi đọc xong thư, cuốn lại, lòng buồn man mác.
- Jotaro ! Con có hỏi ông ấy ở đâu không ?
- Không.
- Ở quán có ai biết ông ấy là ai không ?
- Chắc không ai biết.
- Ông ấy đến quán uống rượu thường không ?
- Không. Lần đầu con thấy.
Musashi tự nhủ nếu biết địa chỉ của Matahachi, có lẽ hắn sẽ đến thăm.
Hắn muốn an ủi, khích lệ người bạn cũ, đưa bạn trở về con đường lành mạnh, nếu không bạn hắn dám phẫn chí tự hủy hoại cuộc đời lắm ! Hắn muốn dẫn Matahachi về làng gặp mẹ để đánh tan những hiểu lầm của cụ Osugi đối với hắn.
Hai thầy trò yên lặng bước trên con đường núi gập ghềnh dẫn đến thị trấn Daigo, chẳng bao lâu đã thấy ngã tư đầu thị trấn hiện ra trước mặt. Musashi tạt vào ven rừng ngồi nghỉ. Hắn quay nói với đồ đệ:
- Jotaro ! Ta muốn nhờ con một việc.
- Dạ.
- Con mang cho ta bức thư.
- Mang đi đâu vậy thầy ?
- Đi Kyoto.
- Trở lại à ?
- Ừ. Con mang thư đến võ đường Yoshioka đường Shijo.
Jotaro không nói gì. Nó lấy chân đá những hòn cuội ở ven đường. Musashi nhìn thẳng vào mặt nó:
- Con không muốn đi phải không ?
Jotaro ngập ngừng đáp:
- Không phải con không muốn đi, nhưng ngộ thầy lại bỏ con thì sao ?
Musashi hối hận. Vì một quyết định sai lầm, hắn đã làm mất lòng tin của thằng bé:
- Không. Thầy đã nhận con làm đồ đệ, thầy không bỏ. Lấy danh dự một kiếm sĩ, thầy nói với con như thế. Thầy rất tiếc đã có chuyện hiểu lầm ban sáng, thầy xin lỗi.
- Vậy con đi.
Đến ngã tư, cả hai cùng vào quán, gọi trà và cơm. Musashi mua giấy, thảo thư gửi cho chưởng môn Yoshioka:
“Seijuro chưởng môn nhân nhã giám, Tại hạ được biết quí phái đang cho người đi tìm. Hiện nay, tại hạ trên đường đi Yamoto, có ý định lưu lại vùng Iga và Ise chừng một năm để nghiên cứu thêm về kiếm pháp.
Tại hạ ân hận không được tiếp kiến huynh đài, người mà tại hạ hằng ngưỡng mộ đại danh, để trau dồi thêm sở kiến. Nhưng sang năm, vào ngày trọng xuân, thế nào tại hạ cũng trở lại kinh thành. Từ nay đến đó, hy vọng tiện kỹ sẽ xứng đáng với quý phái hơn và cũng mong quý phái đừng để tại hạ thất vọng.
Thư bất tận ngôn, kính mong huynh đài lượng thứ.
Shinmen Miyamoto Musashi kính bái.” Bức thư lễ độ nhưng cũng thật cao ngạo, đầy tự tin, không những có ý thách thức chưởng môn Yoshioka mà còn cả mọi người trong phái.
Viết xong, Musashi buông bút, niêm phong lại giao cho đồ đệ.
- Con để thư ở ngoài cổng được không ?
- Không. Phải đích thân giao tận tay cho người giữ cửa.
- Dạ.
- Còn điều nữa ta muốn nhờ con làm nhưng hơi khó.
- Chuyện gì vậy thầy ?
- Ta muốn con tìm ông khách đến uống rượu ở quán đưa thư cho con trước đây.
Tên ông ta là Honiden Matahachi. Ông ấy là bạn cũ của ta.
- Việc ấy dễ lắm.
- Con làm sao nói ta nghe thử.
- Thì con cứ đi một vòng hỏi thăm tất cả các quán rượu là thấy ngay chứ gì !
Musashi cười ha hả, khen thằng bé lém lỉnh.
- Ý kiến hay, nhưng theo thư thì hình như ông ta có quen ai ở Yoshioka. Con thử hỏi dò tại đấy xem.
- Thế khi gặp, con phải nói những gì ?
- Con bảo sang năm, nội trong bảy ngày đầu xuân, ngày nào ta cũng đến đợi ở chân cầu Gojo, mời ông ấy đến gặp ta.
- Còn gì nữa không thầy ?
- Bảo ta muốn gặp ông ấy lắm.
- Dạ. Vậy khi trở về, con sẽ tìm thầy ở đâu ?
- Đến Nara, con tìm đền Hozoin. Đền này lớn lắm, nổi tiếng về môn sử trường thương, không ai là không biết.
- Thật nhé ! Thầy đợi con đấy !
- Con không tin ta hả ? Lần này không thấy ta, con cứ chặt đầu ta đi.
Hai thầy trò Musashi cùng cười lớn, bước ra khỏi quán. Đến ngã tư, chia tay mỗi người một ngả, Musashi đi Nara, còn tên tiểu đồ trở lại Kyoto theo đường cũ.
Nơi ngã tư đông nghẹt khách thương hồ, kẻ mua người bán tấp nập, ngựa hí vang rân. Trên trời, én nhỏ như mũi kim, gió thổi qua hàng vi lô xào xạc.
Jotaro quay nhìn Musashi, thấy sư phụ cũng đang ngoái cổ lại nhìn mình, nó toét miệng ra cười, giơ tay vẫy.

Acmagiro
11-02-2008, 07:50 AM
CHƯƠNG 14
CHIM TRỜI CÁ NƯỚC




Akemi ngồi cạnh bờ sông, vừa giặt áo vừa khe khẽ hát một khúc tình ca học được khi xem tuồng Kabuki ở đường Shijo. Lời ca nhẹ nhàng, tiết điệu êm ái ru nàng vào ảo tưởng như được cùng đong đưa với làn gió xuân bên những cành đào nở đầy hoa vẽ trên nền lụa mỏng.
Gió xuân, kìa gió xuân lơi.
Thoáng nhẹ trên đồi.
Phất phơ tung áo, bồi hồi lòng em ...
Gió xuân có nặng bên rèm.
Sao lòng em nặng ...
Jotaro đứng bên bờ sông nhìn thiếu nữ giặt áo và hát. Trong khung cảnh thanh bình êm đềm ấy, nó bỗng thấy vui lây và tuy chẳng hiểu gì cũng mỉm cười:
- Chị hát hay quá !
Akemi giật mình quay lại, ngạc nhiên nhìn thằng bé, nhỏ và đen đủi, đeo thanh kiếm gỗ dài hơn người và đội một cái nón lớn rộng vành trông như cái nấm.
- Em là ai vậy ? Sao gọi chị bằng chị ?
Khi nói, Akemi vô tình để một chiếc áo tuột tay trôi theo dòng nước. Bắt không kịp, nàng kêu lên:
- Trời ơi ! Trôi mất cái áo rồi !
- Để em vớt hộ.
Jotaro chạy trên bờ sông, cầm kiếm gỗ chận áo rồi khều lên. Nó cười vui vẻ:
- Ít ra thanh kiếm này cũng không đến nỗi vô dụng !
Akemi cười theo, thấy thằng bé dễ thương và nhanh nhẹn.
- Tên em là gì ?
- Jotaro.
- Em ở đâu, muốn hỏi chị điều gì thế ?
- Chị biết gần đây có trà thất nào tên là Yomogi quán không ?
- Biết chứ ! Nhà chị đấy ! Ở ngay trong khu vườn đằng sau chỗ em đứng đó !
- Vậy hả ! Thật là may. Thế mà em đi tìm mãi.
- Em tìm làm gì ? Em ở đâu tới ?
- Ở đằng kia.
Nó lấy tay khua khua chỉ phía trước mặt, không rõ ràng nhất định vùng nào.
- Đằng kia là chỗ nào ?
- Em cũng không biết nữa.
Akemi mỉm cười:
- Thôi khỏi cần. Thế em muốn tìm nhà chị làm gì ?
- Em muốn tìm một người tên Honiden Matahachi. Em hỏi ở võ đường Yoshioka, người ta bảo cứ đến quán Yomogi thì thấy.
- Ông ấy không ở quán.
- Chị nói dối !
- Không, chị không nói dối đâu ! Trước kia ông ấy có ở quán nhưng nay đi rồi.
- Đi đâu ?
- Chị cũng không biết.
- Nhưng ở quán, chắc phải có người biết chứ ?
- Không. Mẹ chị cũng không biết. Ông ấy trốn đi chẳng để lại tin tức gì.
- Lạ quá nhỉ ? Sao lại thế được ?
Jotaro ngồi xuống cỏ, mắt đăm đăm nhìn dòng nước chảy, chẳng biết phải làm thế nào.
- Ai sai em đến đây ?
- Sư phụ.
- Sư phụ em là ai ?
- Miyamoto Musashi.
- Em có mang thư gì của thầy em không ?
Jotaro lắc đầu:
- Không.
- Thằng này thật kỳ ! Mang tin gì mà không biết ở đâu đến lại chẳng có thư từ gì cả là thế nào ?
- Sư phụ em chỉ dặn miệng thôi.
- Dặn điều gì cho chị biết được không ? Có thể ông ấy không trở lại nữa, nhưng nếu gặp, chị sẽ chuyển lời cho.
- Không biết em có nên nói cho chị biết không ? Chị nghĩ thế nào ?
- Tùy em, chị chẳng nghĩ gì cả.
Ngồi yên một lúc, Jotaro mới mở miệng:
- Sư phụ em muốn gặp ông Matahachi nên bảo em tin cho ông ấy biết thầy em sẽ đợi ông ở chân cầu Gojo trong vòng bảy ngày đầu năm tới. Sư phụ em muốn gặp ông ấy lắm !
Akemi che miệng cười ngặt nghẽo:
- Thật chưa bao giờ chị thấy chuyện lạ vậy ! Bây giờ thầy em sai đi tìm một người, bảo đợi đến sang năm mới cho gặp. Thầy em cũng kỳ cục chẳng kém gì em cả !
Và nàng lại che miệng cười như nắc nẻ. Jotaro tức giận:
- Ô hay ! Sao chị cười hoài vậy ? Chuyện có gì đáng cười đâu !
- Em giận chị đấy hả ?
- Chứ gì nữa ! Em hỏi chị tử tế, nhờ chị giúp em một việc mà chị lại cười chế giễu!
Akemi bình tĩnh lại:
- Thôi chị không cười nữa. Ừ, để khi nào gặp chị sẽ nói cho ông Matahachi biết.
- Thật nhé.
- Thật.
Nhưng Akemi vẫn không nhịn được cười. Nàng cắn môi một lát mới hỏi:
- À, thế em nói lúc nãy tên sư phụ em là gì ?
- Miyamoto Musashi, chị chóng quên quá !
- Viết thế nào ?
Jotaro nhặt một cành tre khô viết chứ Musashi lên cát.
- Ô, đấy là họ Takezo mà !
- Sư phụ là Musashi, không phải Takezo !
- Họ Takezo cũng viết thế.
- Nhưng không phải là Takezo.
Akemi lặng thinh, không cãi. Nàng nhìn chữ Takezo viết trên cát, tâm hồn như để tận đâu đâu. Một lúc sau mới ngẩng lên nhìn Jotaro, ngắm nghía nó từ đầu đến chân và dịu dàng hỏi:
- Sư phụ em có phải ở vùng Mimasaka không ?
- Phải. Chị biết à ? Em ở Harima còn sư phụ em người làng Miyamoto, cũng gần đấy.
- Ông người cao lớn khỏe mạnh, tóc trên đầu không cạo hết như kiểu các kiếm sĩ phải không ?
- Đúng rồi ! Vậy chị có biết ông ấy ?
- Chị nhớ có lần sư phụ em nói vì cái sẹo lớn ở đỉnh đầu nên không muốn cạo hết tóc.
- Sư phụ nói với chị như vậy à ? Lúc nào thế ?
- Năm năm rồi còn gì, bấy giờ chị mới mười sáu.
- Chị biết sư phụ em lâu thế kia à ?
Akemi không đáp. Những kỷ niệm ngày xưa ấy nay lại hiện lên, rõ ràng và thân thiết như mới xảy ra hôm qua làm nàng bồn chồn không yên. Nghe thằng bé nói, không còn hồ nghi gì nữa, sư phụ nó chính là Takezo. Nàng không lạ gì nếp sống phóng đãng của mẹ, lại chứng kiến tận mắt sự trụy lạc của Matahachi nên khi chọn Takezo, nàng càng vững tin ở sự chọn lựa của mình. Tư cách Takezo khác tư cách Matahachi bao nhiêu ! Rất may nàng chưa lấy ai, mặc dầu ở trà thất đã có nhiều người lui tới xin cưới nàng làm vợ. Đối với những khách làng chơi say sưa và khả ố ấy, nàng thường tỏ vẻ khinh bỉ. Bên cạnh họ, Takezo thật là con người lý tưởng, thường hiện ra trong những giấc mơ êm ái nhất của nàng và trong những lúc nàng hát những bài diễm tình cố ý dâng cho người trong mộng.
Thấy Akemi không trả lời, Jotaro nói:
- Nhé ...Chị đừng quên đấy ! Nếu gặp ông Matahachi, chị nói hộ em.
Và bỏ cô thiếu nữ ngồi mơ mộng bên dòng sông, nó nhanh nhẹn chạy vào trong xóm.
oo Chiếc xa bò chất đầy ngô, gạo và các thổ sản khác đang ì ạch leo dốc. Trên nóc xe, một tấm biển chữ đen viết đậm nét:
“Công đức khách thập phương cúng chùa Đại Từ ở Nara” rung rinh theo nhịp bánh xe quay cút kít.
Jotaro theo sau xe, vừa đi vừa huýt sáo, thỉnh thoảng nhặt viên sỏi ném vào bụi rậm hoặc cuốn lá làm kèn thổi te ... te ... Bỗng nhiên mắt nó sáng lên như vừa tìm được điều gì thú vị. Nó chạy theo xe, bám lấy tấm ván phía sau lấy đà đánh đu leo lên, nhẹ nhàng như một con mèo nhảy trên mái ngói.
Ngồi yên trên một bao gạo thấp, chân bỏ thõng đong đưa theo nhịp xe đi, Jotaro sung sướng nhìn cây cối hai bên đường như chạy lùi trước mặt. Xa xa, những giải đồi tròn trặn trồng toàn trà xanh uốn éo trải dài đến tận chân trời rồi lẩn vào màn sương mờ trắng đục. Vài cây anh đào nở muộn còn hoa lấm tấm hồng, đây đó hai ba nông dân mặc áo chàm lúi húi làm rẫy. Cảnh vùng Yamoto bấy giờ thật thanh bình và tươi đẹp.
Gió mát hây hây thổi, đôi mắt Jotaro nặng trĩu. Nó cố giữ cho khỏi buồn ngủ nhưng thiếp đi lúc nào không hay. Chiếc xe va phải hòn đá lớn chao mạnh làm Jotaro giật mình tỉnh giấc. Nó ước giá đường gồ ghề hơn chút nữa để đỡ buồn ngủ, sợ đến Nara không ai đánh thức.
Xe qua dưới một tàn cây, Jotaro đưa tay ra hái lá kẹp vào hai hàm răng thổi một điệu nhạc nó vẫn thường nghe trong các đám hát dân dã. Tiếng kèn làm gã xa phu chú ý, dừng xe lại. Ngó hai bên không có ai, gã làm lạ bèn vòng ra phía sau thấy Jotaro đang ngồi trên bao gạo. Tức giận, gã túm lấy nó lớn giọng hỏi:
- Ranh con ! Mày làm gì trên đó ?
- Tôi có làm gì đâu !
- Ai cho mày trèo lên xe tao ?
- Tôi đi nhờ mà ! Mà ông có phải kéo xe đâu, bò nó kéo chứ !
- A thằng này hỗn.

Acmagiro
11-02-2008, 07:51 AM
Vừa nói gã vừa nắm cổ áo Jotaro xách lên ném xuống đất, thuận chân đá nó một cái vào mông đau điếng. Jotaro ngã chúi vào gốc cây, nhưng biết phận chẳng dám ta thán, chỉ lẩm bẩm nhìn gã xa phu vừa nguyền rủa vừa đánh xe đi khuất, tiếng lọc cọc của cỗ xe trên đường gồ ghề còn vọng lại như chế giễu.
Ngồi một lúc, bỗng sực nhớ ra chuyện gì, Jotaro đứng bật dậy dáo dác tìm quanh.
Nó sờ lên cổ, lục trong tay áo, nét mặt càng lúc càng tỏ ra lo lắng. Nó vừa nghĩ đến chiếc ống quyển đựng thư phúc đáp của võ đường Yoshioka bảo nó mang về đưa sư phụ.
Nó nhớ rõ đã cẩn thận buộc ống quyển đó bằng một sợi dây gai đỏ, bây giờ không biết rơi đâu mất. Jotaro chạy ra chỗ chiếc xe bò dừng lại lúc nãy rồi lại trở về bên gốc cây, vòng ra xa, lấy ta gạt những đám cỏ cao để tìm cũng không thấy. Nó tỏ ra bối rồi thật sự.
Nhìn vẻ mặt hoảng hốt của thằng bé, một thiếu nữ trang phục theo lối lữ hành đi qua chợt dừng lại:
- Em đánh mất vật gì phải không ?
Qua chiếc nón rộng vành, Jotaro ngước nhìn thiếu nữ, gật đầu.
- Tiền hả ?
Jotaro không nói, chỉ lắc đầu rồi lại cúi xuống tiếp tục tìm quanh quẩn.
- Vậy chắc là cái ống tre dài chừng ba tấc, buộc dây đỏ phải không ?
Jotaro giật mình cuống quít:
- Phải rồi ! Phải rồi ! Sao chị biết !
- Vậy em đúng là thằng bé đã chọc cho ngựa chạy ở gần trại Mampu rồi ! Em đánh rơi ống quyển ở đó, có người nhặt được gọi trả mà em cứ chạy hoài !
- Em lại tưởng họ đuổi theo bắt ! Chị trông thấy ai nhặt được ?
- Một vị ăn mặc theo lối kiếm sĩ, người cao lớn.
- Chị chắc không ?
- Chắc.
- Vậy em phải trở lại.
Nhưng mới chạy được vài bước, Jotaro đã nghe tiếng thiếu nữ gọi:
- Thôi đừng trở lại nữa. Ông ấy kia kìa, ở phía cánh đồng, đang đi đến đây đấy !
Jotaro mở to mắt nhìn. Một tráng sĩ cao lớn trạc ba mươi lăm, bốn mươi tuổi bước những bước dài vội vã đến gần chỗ nó đứng. Cái gì ở ông ta cũng khác với người thường:
vai nở, lưng rộng, râu rậm và đen mọc gần kín cả mặt, tay để trần to lớn, chân đi dép cỏ đã cũ nhưng y phục còn tươm tất lắm. Trông dáng dấp, Jotaro chắc đây phải là một kiếm sĩ có danh vọng, bổng lộc đến ngàn giạ lúa chứ không ít. Nó hơi ngại, giật lùi lại phía sau, không dám hỏi.
May sao tráng sĩ lên tiếng gọi nó trước:
- Bé con ! Có phải mày đánh rơi cái ống đựng thư này gần trại Mampu không ?
- Dạ phải.
Tráng sĩ đưa ống quyển, Jotaro vội vàng giật lấy.
- À há ...Không biết cám ơn à ?
Jotaro lí nhí:
- Dạ, cảm ơn ông.
- Thư quan trọng mà mày không giữ gìn cẩn thận để rớt dọc đường, thật đáng đánh đòn.
- Dạ.
Chợt nghĩ không biết sao ông này lại biết là thư quan trọng, Jotaro vội hỏi:
- Ông mở ống ra xem thư đấy à ?
- Dĩ nhiên ! Nhặt được cái gì thì phải mở chứ ! Nhưng ta không xem thư đâu, vẫn còn nguyên niêm đấy. Mày kiểm lại đi !
Jotaro mở ống quyển, ghé mắt nhìn vào thấy phong thư vẫn còn nguyên vẹn thì yên dạ, đậy nắp lại đeo lên cổ. Nó tự nhủ:
- Lần này mình phải cẩn thận hơn mới được !
Thiếu nữ thấy thằng bé lúng túng, vội đỡ lời:
- Cảm ơn tráng sĩ. Giá không có tráng sĩ thì cuốn thư chắc bị mất rồi.
Tráng sĩ cười:
- Thằng bé này đi với cô đấy à ?
- Không. Tiểu nữ mới gặp nó ở đây thôi.
- Nó đội cái nón gì lạ quá, lại có chữ viết “giường cho thuê” là thế nào ?
Thiếu nữ cũng cười:
- Tiểu nữ cũng không hiểu, nhưng thấy nó có vẻ lo lắng, tội nghiệp quá !
Quay sang Jotaro, nàng hỏi:
- Em định đi đâu ?
Tìm lại được ống thư, Jotaro yên tâm vui vẻ đáp:
- Em đi Nara, đến Đền Hozoin. Chị cho em đi cùng nhé ?
Thiếu nữ gật đầu. Bước sau người con gái, Jotaro bỗng chú ý đến một cái túi nàng giắt ngang lưng, đựng một vật dài như ống tre nó đương đeo trên cổ. Jotaro tò mò hỏi:
- Chị cũng mang thư đấy à ?
- Không. Sao em hỏi thế ?
- Thế cái gì chị giắt ở thắt lưng đó ?
Thiếu nữ mỉm cười:
- À, cái sáo !
- Cái sáo ?
Jotaro bước vội đến gần hơn, không ngần ngại ghé sát mắt vào lưng thiếu nữ nhìn cây sáo. Đột nhiên nó có cảm giác là lạ. Tuy còn bé, nó cũng biết thế nào là một người đẹp và bản năng của nó mơ hồ cho biết đây là một thiếu nữ còn thanh khiết. Jotaro ngẩng lên nhìn thiếu nữ, xúc động trước vẻ dịu dàng và cao quý của gương mặt nàng. Nó lùi lại, nửa e thẹn nửa sợ hãi, không dám nhìn nữa, tự nhủ:
“Chà ! Chị này sao đẹp quá ! Mình có người bạn đồng hành như thế này từ đây đến Nara thật là may !” Nó ấp úng:
- Em thấy cái sáo rồi. Chị biết thổi sáo à ?
Tiếng “chị” nó dùng xưng hô với thiếu nữ làm nó liên tưởng đến phản ứng của người con gái giặt áo ven sông nó mới gặp chiều qua nên không đợi trả lời, nó hỏi tiếp ngay:
- Chị tên gì thế ?
Thiếu nữ đưa mắt nhìn tráng sĩ đi cùng với mình, mỉm cười. Ông này cũng nhếch mép bảo Jotaro:
- Thằng này thật chẳng biết lễ độ gì ! Phàm lệ nếu muốn hỏi danh tính ai, phải xưng tên mình trước đã chứ !
- Tên cháu là Jotaro.
Thiếu nữ và tráng sĩ cùng cười. Jotaro phản đối:
- Các vị làm vậy không công bằng. Cháu đã nói tên rồi, sao các vị lại cười ?
Tráng sĩ hơi thẹn, lập nghiêm:
- Tên ta là Shoda.
- Chắc đó là tên họ. Thôi cũng được. Còn chị tên gì ? Nếu chị không nói thì vị này sẽ chê là vô lễ đó !
- Tên ta là Otsu.
- Otsu ! Otsu ! Nghe quen quá !
Nó lặng yên, đi một lúc, rồi lại liến thoắng:
- Chị mang sáo đi đâu vậy ?
- À, ta thổi sáo kiếm tiền độ nhật.
- Chị làm nghề thổi sáo à ?
Otsu cười:
- Ta không rõ có nghề nào là nghề thổi sáo không, nhưng nhờ ống sáo này ta mới có tiền chi dụng. Nếu em cho là nghề cũng được.
- Chị thổi sáo trong những cuộc lễ lạc ở chùa hay ở miếu phải không ?
- Không.
- Hay cho những ban nhạc rong diễn tuồng Kabuki ?
- Cũng không phải.
- Vậy chị thổi điệu gì ?
- Thì những khúc dân nhạc mọi người vẫn thường nghe ấy mà !
Riêng tráng sĩ rậm râu lại chú ý đến thanh kiếm gỗ của Jotaro:
- Chú bé đeo vật gì sau lưng thế ?
- Thanh kiếm gỗ. Ông không nhìn thấy thanh kiếm gỗ bao giờ à ? Cháu tưởng ông là kiếm sĩ chứ !
- Ta chính là kiếm sĩ, nhưng thấy mày còn bé lại mang thanh kiếm quá dài nên hỏi cho biết.
- Cháu học kiếm thuật.
- Chà ! Vậy mày có sư phụ chưa ?
- Có rồi !
- Người mày mang thư hộ đấy hả ?
- Vâng.
- Chắc sư phụ mày giỏi lắm nhỉ !
- Cũng chẳng giỏi lắm đâu ông.
- Sao ? Mày nói gì ?
- Sư phụ cháu đánh kiếm xoàng lắm, ai cũng chê.
- Thế sao mày theo ông ấy ? Sư phụ kém, mày không buồn à ?
- Không. Cháu đánh kiếm cũng không ra gì nên chẳng cần.
Tráng sĩ nghe thằng bé nói muốn phì cười nhưng giữ ngay được, mặt tuy lập nghiêm mà khóe mắt không dấu nổi vẻ khoái trá.
- Thế mày đã học được chút gì về kiếm thuật chưa ?
- Chưa. Thật ra chưa học được gì !
Lần này thì tráng sĩ không giữ nổi nữa, phá lên cười ha hả. Thiếu nữ nghe chuyện cũng lấy tay che miệng.
- Hà hà ... Đi đường chung với thằng bé này cũng đỡ buồn. Đường ngắn được chút!
Quay sang Otsu, trung niên tráng sĩ lại hỏi:
- Còn chị đi đâu ?
- Tiểu nữ đi Nara, nhưng chưa định trọ Ở chỗ nào cả. Tiểu nữ muốn tìm một người quen cũ là kiếm sĩ. Nghe nói dạo này Ronin lạc thảo đến tụ Ở Nara đông lắm, may ra nhờ ơn trời Phật ...
Qúa trưa, cả ba người tới chân cầu Uji. Dưới mái hiên quán trà nhỏ ven đường, một ông lão râu tóc bạc như cước ngồi giữa chiếu, dùng gáo tre chuyên trà từ ấm lớn sang các bát sành cho khách đứng ngồi lố nhố xung quanh. Thấy Shoda, ông lão ngừng tay gọi lớn:
- Ngài Shoda, vào đây đã ! Lâu lắm lão phu chẳng thấy ai ở nhà Yagyu đi qua.
Nhớ quá ! Nhớ quá !
- Bọn tại hạ chỉ muốn nghỉ chân một lát. Xin lão trượng cho tự nhiên.
Cả ba người cùng bước vào quán:
- Xin lão trượng cho vài cái bánh, thằng nhỏ này chắc đói rồi.
Bánh mang ra, Jotaro nhót lấy hai chiếc, vòng cửa sau mang lên đồi ăn. Với những trẻ hiếu động như nó, ngồi yên chuyện vãn thật chẳng hứng thú gì. Otsu nhấp trà, hỏi lão quán:
- Từ đây đến Nara còn xa không lão trượng ?
- Còn xa. Nếu đi nhanh thì chỉ quá Kizu trước khi trời tối. Sức chị, chắc là phải nghỉ ở Taga hay Ide.
Shoda đỡ lời:
- Chị đây muốn đến Nara tìm người quen nhưng không rõ địa chỉ.
Rồi ngập ngừng, hắn gãi râu:
- Nghĩ chẳng nên phải không lão trượng ? Nara bây giờ không như trước. Thân gái dặm trường đến Nara một mình e không tiện.
Lão quán nhìn Otsu, gật gù:
- Phải, đại nhân nói phải lắm ! Thật không nên !
Khách hàng nghe chuyện cũng phụ họa:
- Đúng vậy. Nara bây giờ nguy hiểm lắm ! Khách phương xa cứ tưởng nơi đó là thị trấn cổ kính, đền đài lăng tẩm mỹ lệ, không giặc giã cướp bọc gì, nhưng lầm lắm. Từ sau vụ Sekigahara, số kiếm sĩ thất trận không biết chạy đi đâu đổ về ẩn trốn ở đó rất nhiều.
Có người khá, nhưng phần đông nghèo đói, sống về nghề thảo khấu, ước lượng có đến hàng ngàn không đủ cơm ăn chứ đừng nói gì khôi phục lại địa vị cũ. Thế lực họ Tokugawa ngày càng mở rộng, vùng Nara thế nào cũng bị càn quét, nhưng hiện nay số kiếm khách lưu lạc lợi dụng nơi người thưa rừng rậm này đặt sào huyệt tụ họp ăn hàng không phải là ít. Khách lạ nếu không rõ đường đi nước bước, khó mà được an toàn.
- Ờ ờ ...Các tay kiếm lừng lẫy một thời đều lẩn quất ở đấy cả.
- Phải rồi. Nhiều tay nghèo đói quá, bán cả gươm lấy tiền độ nhật. Rồi rượu chè, ẩu đả, gây hỗn loạn mong kéo dài tình trạng bất ổn để thừa cơ nước đục thả câu. Chị chẳng nên đến chỗ đó làm gì !
Mỗi người một câu, ai cũng cho Nara là nơi gió tanh mưa máu làm Otsu lo sợ.
Nàng ngồi yên lưỡng lự. Giá có tin gì, dù không đích xác đi nữa, là Musashi có mặt ở đó thì nàng cũng quyết tâm đi cho bằng được. Đằng này, từ khi bỏ nàng lại trên cầu Himeji, hắn như chim trời cá nước, chẳng để lại tung tích gì.
Shoda thấy nàng do dự, hỏi:
- Chị tên là Otsu, lại biết chơi sáo phải không ?
- Dạ phải.
- Tại hạ đề nghị thế này có hơi đường đột, nhưng như chị biết đấy và các vị Ở đây đều đã nói rõ, chị nên bỏ ý định đi Nara, theo tại hạ đến nhà Yagyu. Tại hạ sẽ tiến dẫn chị lên chủ nhân tại hạ.
Rồi như muốn biện minh thêm cho ý định ngay thẳng của mình, Shoda tiếp:
- Tại hạ là Shoda Kizaemon, phục thị tại nhà Yagyu. Chủ nhân tại hạ bây giờ đã già, trên tuổi, chán cảnh bon chen giang hồ nên treo kiếm quy ẩn. Được chị vui lòng thỉnh thoảng cho nghe một vài thanh điệu, chắc người cũng đỡ cô tịch.
Lão quán vui vẻ thêm vào:
- Yagyu đại lão gia chính là tay đại kiếm sĩ Yagyu Muneyoshi, từ khi về ở ẩn còn có biệt hiệu là Sekishusai. Thật là một đại gia, danh vọng ít ai bằng. Hân hạnh ấy, chị chẳng nên từ chối.
Otsu từ khi ở chùa cũng đã nghe danh Yagyu Muneyoshi. Nàng cho là may mắn có cơ duyên gặp được Shoda nhưng vẫn ngần ngại:
- Chỉ sợ tiện kỹ không đáng để lọt tai cốc lão chủ.
- Không sao ! Không sao ! Yagyu đại lão gia tính tình khoáng đạt, không như các kiếm sĩ khác đâu ! Người ưa sự bình dị, có lẽ chị quá khiêm tốn đó thôi !
Otsu ngồi suy nghĩ. Nàng tính nếu đi Nara, không chắc gì đã tìm được Musashi. Vả lại, hiện nay giới giang hồ đều đồng ý cho rằng nhà Yagyu là nơi tập trung nhiều kiếm khách cao thủ, có phần danh tiếng hơn cả Yoshioka phái. Vậy rất có thể Musashi cũng đến đó. Nếu nàng tìm thấy tên Musashi trong danh sách quan khách đến nhà Yagyu thì may mắn chừng nào ! Biết đâu ...
Nghĩ thế, Otsu vui vẻ gật đầu:
- Nếu tráng sĩ thấy tiểu nữ không đến nỗi bất tài thì xin vâng.
- Vậy hay lắm ! Xong tuần trà này ta lên đường thôi. Hành trình còn xa mà chị sức yếu ...Chị biết cưỡi ngựa không ?
- Dạ biết.
Shoda lấy tiền trả chủ quán rồi nhờ người đi thuê ngựa để Otsu cưỡi, còn hắn và mã phu đi bộ dẫn đường. Hắn gọi Jotaro. Thằng bé chạy từ trên đồi xuống, thở hổn hển:
- Các vị đã đi rồi à ?
- Ừ, chúng ta đi thôi kẻo tối.
Dọc đường, Shoda hỏi Jotaro làm gì trên đồi. Jotaro đáp:
- Cháu xem người ta đánh bạc. Có đến chục người quây quần dưới gốc cây cãi nhau ỏm tỏi.
Gã giữ ngựa cười:
- Chắc lại mấy tên Ronin đó chứ gì ! Chẳng có việc gì làm, chúng tụ nhau lại sát phạt.
- Họ kiếm ăn bằng nghề đó à ?
- Vậy còn khá. Có đứa đi cướp đường, cướp chợ, bắt cóc trẻ con đòi tiền chuộc, chẳng chuyện gì tệ hại đến đâu mà chúng không làm !
- Sao quan quân không bắt ?
- Bắt không xuể. Lính tuần thì ít mà chúng thì đông, nhiều đứa võ nghệ khá lắm, lính cũng nể.
Jotaro đỏ mặt chen vào:
- Này ông kia ! Sao ông vơ đũa cả nắm vậy ? Ronin cũng có người tốt kẻ xấu chứ ! Thầy tôi là một Ronin đấy !
- Vậy hả ? Chả trách mày bênh thầy mày !
- Thầy tôi không phục vụ ai nhưng là một kiếm khách có danh dự.
- Thầy mày thuộc môn phái gì ?
- Không biết.
- Thằng này lạ ! Đồ đệ mà không biết tông môn.
Rồi quay sang Shoda, gã giữ ngựa tiếp:
- Bây giờ ai cũng tự cho mình là kiếm sĩ. Khách quan cứ đi trên đường này một lúc là thấy hàng chục kẻ mang kiếm nghênh ngang, chẳng hiểu có tài cán gì không nhưng cũng làm nhiều người e ngại !
Gã liếc nhìn Jotaro:
- Đến như cái thằng bé này cũng vậy. Trông có khác gì con rận vác cái tăm ! Họ cứ tưởng đeo gươm là trở thành kiếm sĩ, có biết đâu không bỏ thây dọc đường thì cũng chết đói.
Nghe giọng khinh mạn của gã mã phu, Jotaro tức đỏ mặt. Nhưng nghĩ đến chuyện bị tên đánh xe ném xuống đất, nó yên lặng quay đi không phản ứng.
Toán người ngựa đi theo đường chính đến tận bến đò sông Kizu. Tới bến, Shoda bảo Jotaro:
- Bé con ! Chúng ta chia tay nhau ở đây. Chiều rồi, chẳng bao lâu nữa mặt trời lặn.
Mày nên để ý đừng làm mất ống thư, và cũng đừng la cà dọc đường.
Jotaro ngạc nhiên:
- Thế còn chị ? Chị đi với em chứ ?
Otsu xuống ngựa vội nói:
- Xin lỗi, ta quên không cho em biết. Ta đi theo tráng sĩ này đến nhà Yagyu.
Jotaro sững sờ, đứng lặng. Otsu tần ngần nói với nó:
- Thôi em đi. Hãy bảo trọng lấy thân.
Jotaro gắng gượng hỏi:
- Chị định tìm ai, tên gì ? Cho em biết được không ?
Nhưng Otsu không trả lời. Nàng lẳng lặng bước xuống thuyền, vẫy tay từ biệt.
Jotaro buồn rầu nhìn người lái đò chở cả bọn sang bên kia sông. Nó nhặt một viên đá ném thia lia trên mặt nước. Viên đá tưng lên vài lần rồi chìm, để lại những vòng tròn theo nhau lan rộng ra xa, xa dần, trên mặt sông sáng loáng dưới bầu trời chiều đỏ rực.

Acmagiro
12-02-2008, 07:05 AM
QUYỂN 2 : Sui no Maki

CHƯƠNG 15
ĐỀN HOZOIN



Trong giới võ lâm, Hozoin không phải là một tên tuổi nhỏ. Từ lâu, đền này đã từng làm chấn động gian hồ nhờ tuyệt kỹ trường thương và những thế mâu, bổng không ai cự nổi. Tổng doanh hội đặt tại khu rừng thông rậm rạp trên triền núi Abura, trong một ngôi đền kiến trúc uy nghi, cổ kính. Xung quanh đền, vách đá sừng sững bao bọc. Trùng trùng điệp điệp, những gốc tùng vạn niên vỏ xù xì, ba người ôm không xuể, cành lá xum xuê xanh biếc, ngọn vươn cao vút, chứng tích thiên nhiên của bao nhiêu triều đại phế hưng, như làm tăng thêm vẻ hùng vĩ của cảnh trí.
Vào những hôm trời u ám, cả khu đền lờ mờ ẩn hiện, bập bềnh trôi trong màn sương mù dày đặc, khiến khách du đứng trước cảnh bao la huyền bí ấy không khỏi ngơ ngẩn xuất thần, thấm thía nỗi hèn mọn của kiếp nhân sinh phù ảo.
Trước đây, rừng này trong thời đại Nara đã nổi danh nhờ một nhà tắm công cộng do một lãnh chúa phu nhân cho xây cất. Nhưng công trình ấy ngày nay chẳng còn gì, họa chẳng chỉ lưu lại chút di tích trên nền đá xanh giờ đây rêu và cỏ dại đã phủ gần kín.
Khách thập phương vãn cảnh đền Hozoinmột phần vì vẻ đẹp hùng vĩ hoang sơ ấy, một phần cũng vì muốn được tận mắt chiêm ngưỡng ngôi đền danh tiếng, nhưng ít ai biết nơi đó còn là chỗ tàng trữ một kho cổ ngoạn vô giá có một không hai trong nước Nhật.
Musashi leo vội những bậc đá gồ ghề và trơn trượt trên triền núi Abura trước khi trời tối. Hắn đảo mắt nhìn quanh, thấy rải rác lẩn khuất trong rừng thông rất nhiều đền miếu. Sau cơn mưa lớn vừa qua, những tàn lá thông xanh biếc hẳn lên giữa đám thân cây nâu sẫm vững vàng ngạo nghễ trên sườn núi. Vài vạt nắng hoàng hôn còn đọng lại trên những đỉnh đồi cao làm ửng vàng cả một vùng sơn lĩnh.
Musashi chú mục nhìn những ngôi đền, tuyệt nhiên không thấy có doanh trại gì chứng tỏ đông người cư trú nên đồ chừng đền Hozoin phải ở sâu trong rừng rậm. Đi một quãng xa chừng hơn dặm nữa, hắn thấy hiện ra tam quan một ngôi chùa cũ kỹ. Dưới mái, một bảng gỗ khắc chữ “Chùa Hozoin” dát vàng trên nền gỗ gơn then, tuy lâu ngày sương tuyết đã làm loang lổ, nhưng nét chữ vẫn còn xương kính. Hắn bước qua tam quan nhưng nghĩ sao lại trở gót, ngước mắt lên đọc kỹ thì thấy là Ozoin chứ không phải Hozoin. Trong lúc vội vàng và nóng lòng muốn được tiếp kiến, hắn đã trông nhầm, tưởng đây là đền Hozoin, tổng doanh của môn phái Hozoin.
Musashi tần ngần đứng trước tam quan, tự trách mình thiếu điềm tĩnh.
Một nhà sư ở trong chùa đi ra, dừng lại nhìn hắn soi mói. Hắn vội vã bỏ nón thi lễ và hỏi:
- Tại hạ muốn được thỉnh giáo vài điều.
- Thí chủ muốn hỏi điều gì ?
- Phải chăng đây là chùa Ozoin ?
- Phải. Nhà sư vừa gật đầu vừa chỉ tay lên bảng gỗ. Có viết rõ ràng trên bảng này.
- Tại hạ được biết đền Hozoin cũng ở gần đây, sao không thấy ?
- đền Hozoin ở phía sau chùa. Chắc thí chủ đến dự thí võ ?
- Dạ phải. Tại hạ quả có ý ấy.
- Vậy bần tăng có lời khuyên, thí chủ nên bỏ qua ý ấy đi.
- Sao thế ?
- Nguy hiểm lắm ! Bần tăng thấy chỉ người què mới đến xin Phật độ cho lành, nhưng người lành mấy ai muốn thành què bao giờ !
Musashi mỉm cười. Nhà sư này trông khỏe mạnh và ưa hí lộng, khác với những nhà sư khác. Có lẽ vị tăng này đã tiếp xúc với nhiều người đến xin thí võ tại đền Hozoin, thấy kết quả không hay nên khuyên vậy. Nhà chùa là nơi hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sinh, dĩ nhiên chăm lo Phật sự là công việc chính, nếu có dùng đến võ công cũng chỉ là điều bất đắc dĩ.
Nhà sư giảng giải:
- Kakuzenbu Innei đại sư, vị tiền bối sáng lập ra đền Hozoin, nay đã già, lẫm cẫm.
Trước đây, người thường giao du với Yagyu Muneyoshi cùng bằng hữu của đại kiếm sĩ này nên có thời kỳ quan tâm đến võ học. Ấy cũng chỉ vì người muốn bảo vệ đền chống lại quân cường đạo nên đã nghiên cứu khai triển một vài thế võ dùng thiền trượng để tự vệ mà thôi. Nhưng bây giờ tuổi đã cao, người trên tám mươi nên không còn minh mẫn và cũng chẳng muốn tiếp khách thập phương nữa chứ nói gì đến chuyện truyền dạy võ học.
Về cách sử trường thương, người không còn để ý gì đến.
Nhà sư tiếp:
- Vì thế thí chủ chẳng nên tìm hiểu thêm làm gì. Người đã ở ẩn, thí chủ chắc không được tiếp kiến đâu, mà có tiếp kiến cũng vô ích !
Trông dáng điệu và nghe cách nói của nhà sư, rõ ràng là vị tăng này có ý ngầm bảo Musashi đi cho khuất mắt. Nhưng không lẽ dụng công tới đây, hắn lại để bị đuổi dễ dàng như thế ! Bèn khẩn khoản:
- Tại hạ cũng có nghe nói Innei đại sư, nhưng được biết vị thủ tòa hiện nay là Inshun thiền sư cũng là tay cao thủ. Người tuy chưa phải là chưởng môn nhưng đã thấu triệt mọi nguyên tắc căn bản và bộ pháp của tôn phái. Tuy đã thâu nhận nhiều đồ đệ nhưng người không bao giờ từ chối chỉ dẫn cho bất cứ ai đến bái kiến ...
- Hừ ! Inshun ... - Nhà sư nói với giọng khinh thường - Người ta đồn vậy chứ chưa chắc đã đúng. Thực ra Inshun còn là đồ tử của viện chủ tệ tự, Ozoin thiền sư. Khi Kakuzenbu Innei tỏ ra có những triệu chứng tinh thần không được mẫn duệ, bản viện chủ thấy cần phải duy trì nên võ học mà người đã khổ công nghiên cứu với Innei trước kia, nên chọn Inshun để truyền thụ và vận động đặt lên chức thủ tòa.
Musashi gật đầu:
- À ra thế !
- Vậy thí chủ còn muốn thí võ nữa chăng ?
- Mô Phật ! Tại hạ cất bao nhiêu công lao tới đây ...
- Vậy tùy thí chủ.
- Xin đại sư cho biết phải đi đường nào mới tới đền, rẽ phải hay trái ?
- Không cần rẽ bên nào cả, cứ xuyên qua tệ tự là nhanh nhất. Nhưng bây giờ sắp tối rồi, thí chủ nên vào hậu liêu nghỉ, ngày mai đến cũng không muộn.
Musashi cảm ơn, theo nhà sư vào hiên chùa ngồi, giở cơm nắm và thức ăn nguội ra dùng bữa tối.
Sáng hôm sau, mặt trời vừa ló dạng, Musashi đã sẵn sàng. Đi qua sân chùa nhìn nhà kho, củi chất ngổn ngang, khói bếp bốc cao, một gia nhân đang quảy nước tưới cây, hắn thấy khung cảnh chẳng khác gì một trang trại nhỏ vùng quê. Sau sân là mảnh vườn rộng chừng hai ba sào, giồng đủ thứ rau đậu.
Bước xuống vườn, men theo những luống cải tươi tốt, sương đêm còn đọng lóng lánh trên những tàu lá xanh non, Musashi thấy lòng lâng lâng khoái hoạt, sức sống dạt dào luân lưu trong cơ thể. Cuối vườn, một ông lão cắm cúi cào cỏ, vuông khăn vải sô quấn quanh đầu giữ cho tóc khỏi xõa. Ông lão chăm chú làm việc, Musashi trông không rõ mặt, chỉ thấy đôi lông mày dài rủ trắng như tuyết. Ngoài tiếng răng cào thỉnh thoảng chạm phải hòn đá kêu “cạch” khô khan, cảnh vật yên lặng như tờ, không nghe tiếng động gì khác.
Musashi định hỏi thăm, nhưng thấy ông lão mãi việc quá lại thôi. Khi đi ngang, hắn đột nhiên thấy ông liếc mắt nhìn chân mình, tuy đầu vẫn cúi và tay vấn đều đều cào cỏ. Một sức mạnh vô hình toát ra từ tia mắt khiến hắn giật mình nhảy tránh sang bên. Tia mắt bất ngờ có uy lực dũng mãnh tựa tiếng sét xé mây đen trong những đêm giông bão. Hắn cảm thấy nhột nhạt khó thở, thân thể nóng ran như vừa thoát khỏi một ngọn lửa táp tới hay như vừa tránh kịp một thế kiếm giết người phạt ngang hạ chỉ.
Phản ứng tự nhiên khiến hắn để tay lên đốc kiếm. Nhìn quanh chẳng có ai, chỉ có lão làm vườn vẫn yên lặng đưa cây cào đều đều bên luống rau, hắn ngạc nhiên kinh sợ. Thế này là thế nào ? Hắn không mơ ngủ, sau một đêm nghỉ ngơi, đang thoải mái dễ chịu, công lực tràn trề, tự nhiên trong một sát na, kinh mạch như đảo lộn. Lạ ! Lạ quá !
Musashi yên lặng bỏ đi, trong lòng phân vân không biết sao giải đáp.
Tiếp tục đi về hướng nam, một lúc sau quả nhiên thấy đền Hozoinhiện ra trước mặt. Trước cổng đền, hắn đứng suy nghĩ:
“Theo lời vị tăng thì tất Inshun phải còn trẻ. Innei đã già và lẫn, không quan tâm gì đến võ công nữa. Nhưng xem ra lão già làm vườn là tay ghê gớm lắm chứ không vừa. Hay là ... hay là ...” Kinh nghiệm quý báu vừa qua bảo hắn phải thức tỉnh đề phòng mọi bất trắc.
Musashi giơ tay đập cửa hai lần không ai trả lời. Ngó quanh thấy chiếc khánh treo trong góc, hắn cầm dùi gióng lên mấy tiếng.
Một lát có tiếng chân người ra mở cổng. Đấy là một tăng nhân còn trẻ, áo màu vỏ dà vắt trên vai để lộ cánh tay trần lực lưỡng, bắp thịt cuồn cuộn. Nếu là võ sĩ dưới trướng một lãnh chúa nào đó, nhà sư này tất phải làm đến chức đoàn trưởng.
Chắc đã quen tiếp xúc với những người như Musashi hàng ngày đến ghi danh xin thí võ, nhà sư thản nhiên hỏi:
- Thí chủ là võ sĩ ?
- Phải.
- Thí chủ muốn điều gì ?
- Tại hạ muốn được bái kiến vị thủ tòa.
- Vậy vào đi.
Tăng nhân đứng tránh sang bên, đưa tay chỉ về phía khạp nước, ngầm bảo phải rửa chân trước khi lên đại sảnh. Một ống tre dẫn nước chảy lanh tanh không ngớt xuống khạp. Bên cạnh để cái gáo cũng làm bằng tre vàng óng. Xung quanh la liệt dép cỏ, cũ có mới có, nhiều đôi đã mòn vẹt và bám đầy bùn đất.
Rửa chân xong, tăng nhân đưa Musashi qua dãy hành lang mờ mờ đến một căn phòng nhỏ bảo ngồi đợi. Mùi hương trầm thoang thoảng trong không khí, vài tàu tiêu in bóng mờ ảo lên nền giấy tàu bạch phất khung cửa sổ gió thổi kêu phần phật. Ngoài cách ăn nói hơi khiếm nhã của tăng nhân trẻ tuổi, cảnh đền thật tịch mịch chẳng có gì khác thường.

Acmagiro
12-02-2008, 07:06 AM
Tăng nhân trở lại, mang theo một quyển sổ, một cây bút và nghiên mực, hách dịch nói như người lớn bảo trẻ con:
- Ghi danh tính, sinh quán và môn phái vào đây !
Musashi nhìn bìa sổ thấy ở trên đề “Danh sách võ sinh”, ở dưới là tên cùng chữ ký của vị tăng chấp quản. Hắn mở sổ, trang nào cũng đặc những chữ. Đến gần cuối, thấy còn chỗ trống, Musashi theo cách những người tới trước, điền tên và sinh quán vào. Nhưng về môn phái, không biết nên viết ra sao, hắn chỉ viết sơ sài là đã thụ huấn môn đánh côn của thân phụ từ khi còn nhỏ. Hắn không có sư phụ, tự luyện tập lấy theo sách vở và theo thiên nhiên, rồi kết luận:
“Tiểu nhân còn phải học hỏi nhiều, muốn được các bậc cao minh chỉ giáo”.
Nhà sư đứng bên theo dõi những điều hắn viết, cắt ngang:
- Thí chủ hẳn rõ bản tự chuyên về trường mâu, danh tiếng lừng lẫy thiên hạ.
Ngay trong những cuộc đua tài giữa võ sinh hay môn đệ, những thế côn bổng cũng rất nguy hiểm, mất mạng là thường. Đao thương không có mắt, thí chủ hãy suy nghĩ kỹ trước khi giao đấu và nên đọc những lời cảnh cáo trên đầu sổ.
Musashi lật trang đầu, quả nhiên thấy ghi rõ trong phần giới luật:
“Võ sinh phải nhận hết trách nhiệm nếu bị thương tích hay tử vong khi giao đấu”. Hắn mỉm cười:
- Điều này dĩ nhiên rồi. khi chấp nhận giao tranh, nếu có xảy ra chuyện gì, trách nhiệm còn quy về ai nữa ?
- Vậy tốt ! Thí chủ hãy theo ta đến nơi giảng võ.
Võ đường rộng mênh mông. Musashi chưa bao giờ thấy nơi luyện võ nào lớn như thế. Hai hàng cột chu vi có đến mấy sải tay chạy dài suốt dọc võ sảnh, đỡ những rầm nhà chạm trổ tinh vi, thếp vàng trên nền gỗ sơn then bóng lọng. Ven tường để nhiều giá binh khí cắm toàn trường mâu, mũi mâu đúc thành hình đầu rồng, đuôi rắn và đủ các loại thú cổ quái.
Musashi không phải là võ sinh độc nhất trong sảnh. Khi hắn đến, trên sàn đã có chừng chục người khác ngồi đợi sẵn. Nhiều võ sinh trang phục theo lối kiếm sĩ và tăng lữ đứng nghiêm chỉnh phía sau, chắc là làm nhiệm vụ giám sát. Tất cả đều chăm chú theo dõi cuộc đấu giữa hai người đeo mặt nạ và sử dụng trường côn nên chẳng ai lưu ý đến Musashi được nhà sư dẫn vào chỉ chỗ cho ngồi trong góc.
Yên vị rồi, Musashi nhìn lên tường. Tấm bảng cáo thị treo nêu rõ nếu ai muốn dùng binh khí thật cũng sẽ có người bồi tiếp, nhưng thông thường trong khi tỷ thí, chỉ mộc côn được sử dụng mà thôi. Tuy là mộc côn, nhưng loại này cứng và nguy hiểm không kém gì côn sắt, nếu trúng có thể làm gãy tay chân hay đưa hồn về chín suối như bỡn.
Hai đối thủ quần thảo một hồi, một người trúng thương, ôm đùi tập tễnh bước ra khỏi vòng chiến. Gã lê chân vào góc phòng, ngồi phịch xuống, mặt mày nhăn nhó.
Đấu thủ thắng trận bỏ mặt nạ ra. Tiếng gã vang lên sang sảng:
- Người kế tiếp !
Đây có lẽ là một trong những tăng sĩ cao thủ của đền Hozoin, giữ chức vụ trắc nghiệm và tuyển chọn võ sinh. Thân hình gã lực lưỡng trong bộ quần áo chẽn màu đen, hay tay giữ chặt một cây côn gỗ sồi dài chừng hai sải. Gã đưa mặt gườm gườm nhìn mặt từng người ngồi ở dưới sàn, không giấu vẻ kiêu ngạo tự đắc.
Một võ sĩ tuổi trung niên thấy hắn đưa mắt nhìn mình, vội vàng đứng dậy nhận thách đấu. Tráng sĩ xắn tay áo, dùng dây da buộc gọn cửa tay lại, điềm tĩnh đến bên giá binh khí chọn một cây trường mâu rồi thong thả bước vào đấu trường, trong khi tăng sĩ nọ vẫn lăm lăm cây côn gỗ đứng đợi.
Theo lệ, hai bên cúi đầu chào nhau trước khi giao chiến. Nhưng võ sĩ nọ vừa cúi đầu xong thì nhanh như chớp, cùng với tiếng thét làm rung động cả những giá binh khí đặt tại võ sảnh, tăng sĩ đã giơ côn bổ một nhát như trời giáng lên đầu đối thủ. Võ sĩ nọ ngã gục, tắt thở ngay đương trường, máu và óc phọt tung tóe.
Gia nhân chạy đến khiêng xác chết đi, lau rửa vội vã không nói một lời. Tăng sĩ đứng trong góc phòng lại tiếp tục cất giọng sang sảng:
- Người kế tiếp !
Gọi đến lần thứ hai, không ai động đậy. Cả võ sảnh im lặng như tờ. Musashi tưởng vị tăng sĩ đó là Inshun đại sư, thủ tòa đền Hozoin, nhưng sau hỏi ra thì không phải. Một võ sinh cho biết đó là Agon, một trong thất trụ của viện chấp pháp, vô địch thiết côn và rất tàn nhẫn. Inshun đại sư không bao giờ phải ra chiêu vì từ trước đến nay chưa có ai qua khỏi tay bảy vị đó.
Agon cầm ngang cây côn, đứng dõng dạc hỏi:
- Còn ai nữa ?
Tăng nhân chấp quản lấy danh sách võ sinh, nhìn mặt, gọi tên từng người.
- Xin lỗi, vãn sinh hôm nay không sung sức, để khi khác.
- Anh kia ?
- Vãn sinh xin miễn.
Danh sách đọc lên, ai cũng thoái thác. Cuối sổ, viên chấp quản đọc tên và chỉ tay vào Musashi.
- Còn thí chủ thế nào ?
- Xin tùy tiện.
- Tùy tiện là thế nào ? Muốn giao đấu hay không ?
- Tại hạ muốn giao đấu.
Mọi con mắt đổ dồn cả vào Musashi. Hắn khoan thai đứng dậy.
Agon không còn ở trên đấu trường này. Gã đã lui vào phía trong võ sảnh, sau cây cột lớn đứng chuyện trò với nhiều tăng sĩ khác. Nghe có người nhận thách đấu, gã hơi bực mình, khó chịu:
- Chán thật ! Hay vị nào thay tại hạ bồi tiếp hắn đi !
- Thôi quý hữu gắng giải quyết nốt. Chỉ còn một người nữa thôi mà !
Bất đắc dĩ, Agon uể oải bước ra, nhấc cây côn gỗ bóng loáng quen thuộc dựng ở góc phòng rồi đứng vào bộ vị.
Đột nhiên gã quay phắt người lại, rồi như để áp đảo đối phương, thét lên một tiếng ghê rợn, giơ cao cây côn đâm thẳng vào tường võ sảnh. Tường võ sảnh lát bằng gỗ dầy, tiếng gỗ vỡ nứt cùng với tiếng thét của Agon khiến ai nấy giật bắn người. Trông ra, sức mạnh cây côn đã chọc thủng tường một lỗ to bằng cái bát !
Mọi người đều kinh hãi, duy Musashi vẫn điềm nhiên như không, đứng bất động giữa sàn, hai tay cầm kiếm gỗ thủ thế. Agon rút côn, di chuyển chậm chạp quanh Musashi như mèo vờn chuột.
Có tiếng cười gằn phát ra gần cửa sổ, rồi một giọng nói vọng vào:
- Đồ ngu ! Nhìn cho kỹ ! Nó đâu phải là bức tường vô tri vô giác !
Agon mắt vẫn dán vào Musashi, quát:
- Ai đó ?
Nhưng tiếng cười lại nổi lên, thanh âm lần này trầm xuống vừa thương hại, vừa chế nhạo. Thấp thoáng ngoài song, làn tóc bạc phơ với đôi mày trắng như tuyết.
- Agon ! Không xong đâu ! Hãy đợi Inshun về xử trí.
Musashi liếc mắt nhìn ra. Trong một sát na, hắn trông thấy đầu ông già làm vườn hồi sáng, nhưng ngay sau đó đã biến mất. Cảnh lại trở về tịch mịch.
Agon phân tâm, hai tay nới lỏng cây côn, lòng hơi rung động. Thấy Musashi vẫn đứng nguyên chỗ cũ, gã thốt một lời rủa ngắn, vận sức hai cánh tay vào cây côn quyết tâm tấn kích. Gã đổi bộ vị.
Musashi xoay chuyển theo bước đi của Agon, hai tay vẫn lăm lăm thanh kiếm gỗ nhưng không đổi vị trí. Hắn trầm giọng:
- Sẵn sàng !
Sự bình tĩnh của Musashi làm Agon nổi xung. Mắt gã lồi ra. Gã múa cây mộc côn, đâm dứ một chiêu, hai chân nhảy lên khỏi mặt sàn rồi hạ xuống ở một bộ vị khác, nhẹ nhàng như ánh trăng đùa sóng nước. Phải công nhận công phu của gã tuyệt luân, những thế côn của gã nhanh nhẹn và uy mãnh, địch thủ chỉ mất bình tĩnh một chút là có thể mất mạng như chơi.
Nhưng Musashi không dại. Thế thủ kiếm của hắn không có gì khác thường, hay người ngoài trông vào tưởng thế. Hai tay giữ kiếm dọc trước mặt, thân hình hắn hơi lùn hơn đối phương một chút và không lực lưỡng bằng, nhưng điểm khác nhau chính là ở đôi mắt. Mắt Musashi không chớp, sắt như dao, tinh như mắt chim cắt. Hắn đứng im nhìn địch thủ múa côn, tìm một điểm sơ hở.
Agon không ngớt giương đông kích tây, phóng ra những hư chiêu làm phân tâm Musashi, người mà gã coi như một đối thủ đáng sợ. Gã lắc đầu mấy cái để mồ hôi khỏi chảy xuống mắt hay để xua đuổi những lời cảnh cáo của ông già tóc bạc, không ai biết, nhưng mọi người đều thấy tinh thần gã bắt đầu rối loạn. Gã thay đổi cách cầm côn nhiều lần. Nhìn Musashi vẫn đứng trơ trơ trong thế thủ kiếm, gã nghiêng mình đi rồi xuất kỳ bất ý, vung tay ngược lại dùng côn như một cây thương đâm thẳng vào ngực địch thủ trong một tiếng thét xung trận tựa trời long đất lở.
- Gi ...ết !
Không ai rõ chuyện gì xảy ra, chỉ thấy trong võ sảnh, tiếng vang chưa dứt, Agon đã nằm dài sóng sượt, mặt úp sấp xuống sàn, ở vết kiếm chém trên lưng máu bắt đầu loang ướt đẫm hai bên áo. Cây côn gỗ cắm sâu vào tường trước mặt còn rung rung theo tiếng chân mọi người rầm rập chạy đến.
- Sao vậy ? Sao vậy ?
- Agon nguy rồi ! Lấy thuốc, lấy thuốc rịt mau lên !
- Không kịp nữa rồi ! - Lão già ở ngoài hiên bước vào nói - Nếu ta biết là dùng thuốc mà chữa được, ta đã không khuyên hắn đợi Inshun trở về !
Mọi người vội vàng xé tấm tăng bào bịt vết thương, không ai để ý đến Musashi lầm lũi đi ra cửa.
Hắn sắp sửa xỏ chân vào dép thì ông già đầu bạc đã theo tới.
- Này thí chủ !
Musashi quay lại:
- Tiền bối gọi hậu bối ?
- Phải. Bần tăng có vài điều muốn hỏi thí chủ.
Musashi theo ông già đến một tăng phòng nhỏ sau đại sảnh, một phòng vuông vức, ngoài khung cửa vào độc nhất không còn lối nào khác. Sau khi đã phân ngôi chủ khách, ông lão cất tiếng:
- Đại sư thủ tòa đáng lẽ đích thân tiếp kiến thí chủ, nhưng rất tiếc hiện nay người đang vân du, có thể đến cuối tuần trăng mới trở về, nên bần tăng đại diện.
Musashi cúi đầu:
- Đa tạ lão tiền bối. Hậu bối rất cảm kích về bài học quí hội đã ban, nhưng cũng xin lão tiền bối lượng thứ cho kết quả cuộc giao đấu xảy ra như vừa rồi ...
- Cõi nhân sinh vô thường, thí chủ để ý làm gì ! Hãy coi như là quả nghiệp.
- Thương thế Agon ra sao, thưa lão tiền bối ?
- Hắn chết rồi.
Lời vị lão tăng không khác gì cơn gió lạnh tạt vào mặt Musashi. Hắn nhắc lại:
- Chết rồi ?
Và lẩm bẩm “mô Phật” rồi cúi đầu đọc một lời cầu nguyện ngắn cho người quá vãng. Hắn thấy lòng buồn khôn tả.
- Thí chủ !
- Thưa lão tiền bối ?
- Thí chủ tên là Miyamoto Musashi ?
- Dạ phải.
- Thí chủ học võ công môn phái nào ?
- Kẻ hậu bối không có sư phụ theo nghĩa thông thường như mọi người hiểu. Trước đây, lúc còn nhỏ, gia phụ chỉ cho một vài miếng côn quyền, sau đó nhờ có duyên may mắn, hậu bối có được đọc sách rồi cứ theo sách mà luyện kiếm giữa cảnh núi cao sông rộng. Vì vậy có thể nói võ công của hậu bối đã được đào luyện trong thiên nhiên.
Vị lão tăng trầm ngâm một lúc rồi gật gù:
- Có lẽ thí chủ đã đi đúng đường. Công lực dồi dào quá !
Cho đó là một lời khen, Musashi sượng sùng đỏ mặt:
- Lão tiền bối quá khen ! Kẻ hậu bối còn phải học nhiều !
- Không ! Không ! Ý bần tăng không phải vậy mà chỉ muốn nói công lực thí chủ quá mạnh, cần kiềm chế bớt. Cường bất khiển tất nhược.
Musashi ngạc nhiên, nhướng mắt nhìn lão tăng.
- Thí chủ còn nhớ lúc gặp bần tăng ở vườn rau sáng nay không ?
- Dạ nhớ.
- Trông thấy bần tăng, thí chủ nhảy vội sang bên để tránh ?
- Đúng vậy.
- Tại sao thí chủ làm thế ?
- Hậu bối cũng không rõ. Bấy giờ, cảm thấy có một sức mạnh vô hình đe dọa, hậu bối đã phản ứng tự nhiên. Có lẽ vì tự vệ, cũng như người tránh một thế kiếm ...
Lão tăng mỉm cười:
- Trái lại, khi thí chủ cách bần tăng chừng một trượng, chính bần tăng cảm thấy không khí ngột ngạt, sát khí bừng bừng phát ra từ ánh mắt cũng như dáng đi của thí chủ nên bần tăng đề phòng. Một nông dân chất phác nào đó đi qua chắc chỉ nhìn bần tăng như một kẻ làm vườn vô hại, nhưng thí chủ lại khác. Tham vọng cùng với nội lực hết sức sung mãn của thí chủ không kềm chế tuôn ào ào như thác lũ, gặp bần tăng bị dội lại nên thí chủ tưởng bần tăng sắp động thủ ...
Musashi nghe nói, không ngờ lão tăng này là một kỳ nhân về khí công.
Khả năng cảm nhận và phản xạ đã đạt tới mức tinh nhuệ lạ thường. Hắn thấy mình chỉ là tên học trò ngờ nghệch. Nhìn lão tăng, trên vẻ mặt quắc thước vẫn còn phảng phất nụ cười nửa bí mật, nửa từ bi, hắn không đoán được trong lòng vị này đang nghĩ gì.
- Đa tạ lão tiền bối đã chỉ điểm. Dám xin lão tiền bối cho biết quý tính cao danh và hiện giữ chức vụ gì trong đền Hozoin?
- Bần tăng không thuộc đền Hozoin. Bần tăng là Ozoin, trụ trì chùa Ozoin.
- À ra thế !
- Innei với bần tăng là chỗ cố cựu. Trong những thập niên trước, người và bần tăng có lưu tâm đến võ học và hợp sức nghiên cứu về thương pháp. Nhưng bây giờ bần tăng nguyện không động đến đao thương nữa.
- Vậy ra thủ tòa đền Hozoin, Inshun đại sư chính là đồ tử lão tiền bối ?
- Nói thế cũng được. Vì không muốn sử dụng võ khí vào bất cứ việc gì, nhưng lại tiếc không muốn để mai một nền võ học đã được Innei khổ công tìm tòi, bần tăng có luận với Inshun nhiều lần về những yếu quyết của thương pháp, vì xét ra hắn là người có căn bản nhất.
- Hậu bối thật vô lễ, nhưng muốn xin được tá túc tại quý tự ít lâu, chờ Inshun đại sư trở lại.
- Thí chủ định tranh phong với hắn ?
- Hậu bối từ xa tới đây vẫn có ý muốn được người chỉ giáo.
Ozoin hòa thượng lắc đầu:
- Vô ích ! Thí chủ không có gì phải học ở đền Hozoin cả.
- Thật ư ?
- Trong cuộc tỷ võ vừa rồi, thí chủ đã nhận thấy hết những yếu quyết về việc sử thương của Agon. Nếu còn muốn biết thêm gì nữa, thí chủ cứ nhìn vào mắt bần tăng đây.
Ozoin phóng mục quang thẳng vào Musashi, mắt mở lớn như lòi ra đằng trước. Musashi chăm chú nhìn hai đồng tử Ozoin lấp lánh như sao, ánh mắt đỏ tía tựa hai cục than hồng, dần dần đổi ra màu xanh biếc, sâu thăm thẳm.
Ánh bích quang tỏa ra một ma lực kỳ lạ thu hút hết ý chí của hắn làm hắn tê dại, không khác gì một con ếch nhỏ đứng trước miệng một con rắn sắp nuốt mình. Hắn buồn ngủ, mê đi, cố gắng lắc mạnh đầu để tránh đôi mục quang giết người ấy. Tiếng cười hắc hắc của vị lão tăng nghe mơ hồ thoảng như hơi gió.
Tiếng cười vẫn chưa dứt thì một chú tiểu từ cửa ngoài bước vào, ghé tai vị sư già nói nhỏ. Ozoin khẽ đáp:
- Được, con cứ mang vào đây.
Chú tiểu đi ra, bưng vào một liễn cơm, đũa bát và một đĩa dưa muối để trên cái khay đặt lên kỷ. Vị sư già xới cơm ra bát:
- Thí chủ dùng tạm. Cơm nhà chùa đạm bạc nhưng ai đến vãn cảnh cũng được tệ tự đãi một bữa cơm chay. Đó là thường tình chứ không phải biệt lệ gì, xin thí chủ đừng bận tâm.
Musashi sực tỉnh, đưa tay áo lau mồ hôi, nhìn vị sư già thấy trên nét mặt tuy thản nhiên nhưng thoáng điểm một chút gì giễu cợt.
- Đây là dưa leo và khổ qua muối chua. Ngon lắm. Món đặc biệt của tệ tự.
Vị sư già cười nhẹ, tiếp:
- Nổi tiếng vùng này đấy ! Thí chủ từ xa đến chắc không rõ chứ ở tệ tự nhiều người làm khéo lắm. Họ gọi là dưa muối Ozoin. Khác với những cách muối khác là có thêm chút húng quế và ớt đỏ, nhiều ớt đỏ ...
Musashi nói mấy tiếng cảm ơn và cầm đũa. Trong khi ăn, hắn vẫn cảm thấy mục quang sắc như dao và mạnh như kiếm thép của vị sư già phóng thẳng vào mình. Kinh mạch hắn nhộn nhạo khó chịu, chẳng biết đó là sức phản xạ mãnh liệt của chính ý chí hắn hay tạc lực ghê gớm của bậc kỳ nhân ngồi trước mặt. Musashi cắn một miếng vào quả dưa, tiếng cắn ròn tan khiến hắn có cảm tưởng như nghe mũi thương đâm qua lần giáp sắt hay như một thoi quyền đánh vào mặt, khiến những đốt xương trong đầu hắn nứt rạn.
Rời khỏi đền Hozoin, dư vị món dưa muối vẫn còn tê tê trên đầu lưỡi, Musashi không quên được sự thật phũ phàng. Vị cay đắng của ớt đỏ muối với khổ qua nhắc hắn biết hắn đã thua. Bước nhanh dưới những vòm lá rậm xanh đen của hàng bách cổ thụ che khuất cả ánh mặt trời chiều đang xuống, Musashi tự nhủ, chua chát:
“Ngoài khung trời này còn có những khung trời khác, cái ta hiểu thật là nông cạn. Ta đã thắng bên ngoài, nhưng bên trong, phần tâm ý ...” Một con nai nhỏ nghe tiếng chân người, sợ hãi vùng chạy, lẩn vào trong bóng tối của khu rừng sâu thẳm. Sực nghĩ đến Jotaro, Musashi quay gót theo đường cũ trở lại đền Hozoin. Trong đền đã lên đèn, tăng chúng đi lại vội vã, có vẻ chưa hết xúc động sau biến cố vừa qua. Musashi gọi cổng, đứng chờ một lúc lâu mới thấy một nhà sư bước ra. Nhà sư giật mình khi nhận ra hắn trong bóng tối chập choạng.
- Thí chủ ...thí chủ quên gì chăng ?
- Tại hạ quên một điều, xin quý tự vui lòng giúp. Ngày mai hoặc ngày kia, nếu có ai đến tìm, quý tự bảo giùm là tại hạ tới trọ Ở khu bờ hồ Sarusawa. Chỗ đó nhiều phạn điếm nhưng chắc tìm cũng không khó.
- Được !
Nghe lời đáp cụt lủn, Musashi không yên bụng. Hắn thêm:
- Người tìm tại hạ là một đứa trẻ mươi, mười hai tuổi. Nó tên Jotaro. Phiền quý tự chỉ dẫn tường tận cho.
Musashi trở lại khu rừng, theo đường mòn xuống núi. Hắn không thoải mái, bực dọc với chính mình. Tuy là chuyện vặt, nhưng rõ ràng việc này chứng tỏ tâm trạng bối rối của hắn sau khi bị thua vị sư già mày trắng. Hắn chưa đủ bình tĩnh, quên cả những chuyện cần phải làm, chưa đủ trưởng thành chấp nhận lẽ hơn thua, chưa phá được sai lầm của chấp ngã thì làm sao đạt tới chân như, mục đích tối hậu của kiếm học?
oo Trong hai thập niên vừa qua, vùng hạ lưu sông Sai và bờ hồ Sarusawa phát triển mạnh. Nhà cửa, hàng quán đủ loại mọc lên như nấm. Mới đây, quan đầu xứ đặt bản doanh tại thị trấn gần đó nên số công sai, nha lại lui tới rất đông làm vùng này trở thành một xóm sầm uất.
Cũng như ở các nơi khác, hễ chỗ nào đông người là có người Tàu đến buôn bán.
Một người Tàu mở cửa hàng ăn chuyên nghề làm bánh bao mới đến lập nghiệp chừng một năm bây giờ đã phát đạt. Nghe nói bác ta học được nghề làm bánh chân truyền của Hồ Vọng Xương, mà bánh bao Hồ Vọng Xương thì nổi tiếng là ngon không ai bì kịp.

Acmagiro
12-02-2008, 07:06 AM
Musashi đến xóm bờ hồ, trời đã gần khuya vậy mà hàng quán vẫn còn để đèn sáng trưng, khách ra vào tấp nập. Phạn điếm tuy nhiều, nhưng Musashi kén kỹ, không dám đến những nơi có vẻ sang trọng. Hắn chẳng có bao nhiêu tiền; số bạc Ikeda tặng đã vơi đi nhiều, tuy nhiên hắn lại muốn trọ Ở một nơi nào không đến nỗi xa mặt phố để đồ đệ dễ tìm. Musashi mới ăn cơm ở chùa mà bây giờ đã đói vì phải đi một quãng khá xa từ trên núi xuống. Mùi xào nấu và mùi bánh bao vừa chín tời từ một quán ăn đưa ra ngào ngạt làm con tì con vị hắn cồn cào. Hắn đứng tần ngần dưới hiên quán ăn một lúc rồi mạnh dạn bước vào. Quán đông người, tửu bảo bận tíu tít. Musashi gọi vài cái bánh bao, thấy cái nào trên mặt cũng có đóng dẫu chữ “Hồ ” đỏ chót. So với bữa cơm chay ăn hồi chiều, bánh tiệm này quả thật thơm ngon, chưa bao giờ hắn được thưởng thức bánh ngon như thế.
Thiếu nữ đứng rót trà, nhìn dáng điệu và y phục Musashi khác lạ bèn hỏi:
- Qúy khách từ phương xa đến ?
- Phải.
- Qúy khách đã định trọ đâu chưa ?
Musashi đương phân vân, nghe hỏi như người được gãi đúng chỗ ngứa, vội nắm ngay lấy cơ hội:
- Chưa, chị biết quán nào chỉ giùm. Ta ở xa đến, chẳng rõ đường lối.
- Vậy may quá. Tiểu nữ có người bà con, nhà còn dư căn phòng rộng vẫn thường để khách vãng lai đến tạm trú. Vừa dịp ông khách trước mới đi, phòng còn để trống, để tiểu nữ hỏi xem.
Rồi không đợi trả lời, nàng quay gót đi ngay, bước nhanh và gọn như bước chân chim. Lát sau, dẫn đến bàn một thiếu phụ, lông mày cạo nhẵn và vẽ cong như kiểu lông mày các phụ nữ đã xuất giá, có lẽ là vợ chủ quán. Thiếu phụ giới thiệu sơ sơ nhà trọ, tuy ở gần thị trấn nhưng yên tĩnh, thật hợp ý Musashi. Hắn gật đầu ưng thuận.
- Nhà đó của bà chị ta. Qúy khách yên tâm không phải lo tiền trà nước đâu !
Musashi đứng dậy, gọi tửu bảo trả tiền rồi theo thiếu phụ ra cửa.
oo Căn nhà có gác, ở lui vào phía trong một khu vườn nhỏ, trông ấm cúng và dễ thương lạ. Thiếu phụ gõ cửa, một tỳ nữ bước ra mở cổng. Hai người đàn bà nói nhỏ với nhau một hồi, thỉnh thoảng lại đưa mắt liếc về phía Musashi. Hắn đứng xa xa, đảo mắt nhìn quanh. Gốc tùng cổ thụ bên hòn đá rêu phong, vài khóm cúc đầu mùa điểm hoa vàng lấm tấm bên hàng giậu tre thưa, gây cho hắn một cảm tình quyến luyến đặc biệt.
Người tỳ nữ mời Musashi vào nhà và đưa lên phòng trên gác. Căn phòng đối với hắn thật quá sang trọng làm hắn hơi bối rối. Hắn thắc mắc không hiểu sao một gia đình vào loại khá giả như thế này lại cho khách ở trọ, bèn hỏi thì người nữ tỳ chỉ cười mà không nói.
Musashi đã ăn chiều, thay quần áo đi tắm rồi vào phòng nằm nghỉ. Tuy nhiên, ý nghĩ này vẫn lởn vởn trong trí cho đến khi giấc ngủ đến nhẹ nhàng, ru hắn vào một thế giới bình yên không mộng mị.
Sáng hôm sau, Musashi nói với nữ tỳ:
- Ta đang đợi một người nên muốn lưu lại đây một hai ngày, được không ?
- Xin quý khách tùy tiện. Chủ nhân đã đến kia !
Vừa hay một thiếu phụ trạc ba mươi tuổi bước vào, phong tư thanh nhã, nét mặt như hoa, dung nhan thật diễm lệ. Musashi cúi chào, nhân thể hỏi lý do vì sao bà nhận khách trọ. Nữ lang che miệng cười chúm chím:
- Chẳng giấu gì quý khách, tiện thiếp là góa phụ. Tiên phu trước đây diễn tuồng Nô, khi còn sinh thời cũng có đôi chút danh tiếng. Thiếp sống một mình, nhiều phen sợ hãi, nhất là vào lúc này ở Nara, quân cường khấu dòm dỏ khắp nơi nên e ngại lắm.
Ngừng một chút, nữ lang lại tiếp:
- Như quý khách thấy đấy, trong vùng thiếu gì hồng lâu và quán rượu, nhưng bọn chúng vẫn chưa vừa lòng, thường tụ tập đến quấy nhiễu những tư gia lương thiện, nhất là những nhà không có đàn ông. Chúng gọi như thế là “đi thăm quả phụ”.
Musashi mỉm cười:
- Thế ra phu nhân nhận khách trọ vì cần người bảo vệ đấy !
Nữ lang cười theo, cúi đầu e lệ:
- Quả vậy ! Trong nhà không có đàn ông, quý khách cứ tùy tiện ở bao lâu cũng được.
- Cảm ơn phu nhân. Xin cứ yên tâm, tại hạ còn ở đây ngày nào, sẽ cố gắng giữ an toàn cho phu nhân ngày ấy. Duy có điều, tại hạ đang đợi người thân, phiền phu nhân cho treo bảng ngoài cửa đề tên tại hạ để người quen dễ kiếm.
Nữ lang hớn hở sai nữ tỳ viết tên khách vào mảnh giấy dán ra cổng ngoài.
Thằng Jotaro cả ngày hôm đó không tới, nhưng trưa hôm sau có ba người ăn mặc theo kiểu kiếm sĩ giang hồ đến thăm. Nữ tỳ ra mở cổng. Bọn này chẳng hỏi han gì, gạt phắt sang bên xăm xăm bước thẳng lên lầu. Musashi trông bọn họ phảng phất quen mặt, mãi sau mới nhớ ra là những người hắn đã gặp tại võ sảnh đền Hozoin khi tỉ đấu với Agon.
Phân ngôi chủ khách xong, ba kiếm sĩ tranh nhau tâng bốc Musashi:
- Đại ca thật là vô địch ! Tiểu đệ chưa bao giờ thấy ai giỏi như thế ! Không phải nịnh đại ca, chứ chuyện vừa rồi lọt ra giang hồ thì Hozoin chỉ còn nước đeo mo vào mặt.
- Phải ! Phải ! Đại ca là khách phương xa mà chỉ một nhát kiếm đã hạ đệ nhất cao thủ của thất trụ đền Hozoin. Chà chà ...
Hắn vừa nói vừa múa tay diễn lại thế kiếm của Musashi.
- Đại ca biểu diễn chiêu đó vô song, không tiền khoáng hậu.
- Đúng là thánh kiếm !
- Lại còn trẻ nữa chứ ! Nhất ! Nhất !
- Phái lạc thảo võ lâm chúng đệ mới được biết đến phương danh lần này là lần đầu, rất lấy làm bội phục !
Musashi nghe mà đỏ mặt. Hắn ngượng nghịu không biết đáp ra sao và cũng không biết đáp vào lúc nào nữa vì cả ba người kia tranh nhau tán tụng không ngớt miệng. Kẻ nói, người ăn bánh uống trà xì xụp, vụn bánh vãi tung tóe quanh chỗ ngồi.
Chờ cho cả bọn nói đã chán, Musashi mới từ tốn hỏi danh tính. Một người xem chừng là đàn anh trong đám vội lên tiếng:
- Ấy quên ! Tiểu đệ tên là Yamazoe Dampachi, phục thị dưới trướng quan đầu xứ Gamo. Tên này là Otomo Banryu.
Rồi hất hàm về phía người thứ ba - Còn tên kia là Yasukawa Yasubei, ba đời lạc thảo, bây giờ vẫn đói rách. Anh em cả mà, đại ca !
Musashi tự hỏi không biết bọn này có mục đích gì, sao không nói ra mà cứ quanh co mãi. Hắn hỏi thẳng:
- Tại hạ đoán các vị đến đây chắc phải có chủ ý. Vậy xin cho biết cao kiến.
- Cao kiến mẹ gì ! Muốn mời đại ca nhập đảng mà.
Nhưng người có dáng đàn anh tên Yamazoe Dampachi trừng mắt nhìn, gạt đi và nói:
- Thật ra bọn tiểu đệ phải có mục đích chứ ! Chả là anh em tiểu đệ có dự tính tổ chức một màn thí võ dưới chân đồi Kasuga để mời bách tính đến coi, trước mua vui đánh cuộc, sau để tìm danh thủ võ lâm. Võ đài đã dựng xong rồi, nhưng bọn đệ tự thấy tài còn kém cỏi, nếu chẳng may bị thua thì bao nhiêu tiền bạc thành nước lã ra sông hết.
Thấy Musashi vẫn ngồi im, hắn tiếp tục:
- Bọn đệ muốn mời đại ca hợp tác. Nếu đại ca bằng lòng thì sẽ chia tiền lời đánh cá, ngoài ra bao nhiêu phí khoản ăn uống, cư trú, bọn đệ sẵn sàng bao biện hết. Đại ca thử nghĩ coi, với tài sức của đại ca thì có lợi cho cả đôi bên, bọn đệ có tiền uống rượu mà đại ca cũng không phải lo độ nhật.
Musashi cười khẩy:
- Nếu đó là những điều các vị tính toán thì chẳng nên bàn thêm nữa làm gì. Tại hạ không lưu tâm.
- Sao vậy ?
Yamazoe Dampachi ngạc nhiên hỏi:
Sự phẫn nộ của Musashi thình lình nổ tung ra như tiếng sét. Hào khí bừng bừng, hắn quát lớn:
- Tại sao hả ? Tại vì ta không phải là thảo khấu ! Ta ăn cơm bằng đũa chứ không phải bằng gươm !
Bọn kia ngạc nhiên há hốc mồm:
- Thế nghĩa là thế nào ?
- Chúng bay không hiểu ư, đồ ngu ! Ta là kiếm sĩ, suốt đời sẽ giữ danh dự kiếm sĩ, dù có phải chết đói cũng không theo chúng bay, hiểu chưa ? Bây giờ thì cút đi !
Một tên trong bọn nhép miệng định nói gì lại thôi. Yamazoe Dampachi mặt đỏ như gấc, lắp bắp:
- Được rồi ! Ngươi sẽ biết tay !
Chúng nhất tề đứng dậy nhưng biết dù cả ba hợp lực lại cũng khó mà địch nổi Musashi nên hỗn độn rút ra cửa. Rời khỏi phòng, rầm rập xuống lầu, chúng vẫn còn day tay mắm miệng làm ra vẻ đe dọa.
Tối hôm đó trời sáng trăng suông. Sương đêm mờ mờ, cả khu vườn như tắm trong một màn khói mơ hồ trắng đục. Chủ nhân mời Musashi xuống dùng cơm chiều, đãi hắn một vài món đặc biệt do chính tay bà nấu và rượu sa-kê hảo hạng. Men rượu thấm dần vào da thịt, hắn say phơi phới.
Trở lên phòng trọ, ngồi dựa lưng bên kỷ, Musashi nghĩ ngợi mông lung.
Hắn nhớ đến Ozoin, vị lão tăng kỳ dị, sự thua kém của mình rồi khẽ lắc đầu:
“Thật xấu hổ !”.
Những địch thủ trước đây hắn đã giết hoặc đánh bị thương trên bước đường giang hồ, chẳng bao giờ hắn nghĩ đến. Chúng như những bông tuyết tan đi khi ánh mặt trời chiếu tới, nhưng với Ozoin thì khác hẳn. Hình ảnh vị sự già với đôi mắt sáng quắc, sâu thăm thẳm và đầy ma lực cùng với những tràng cười hăng hắc theo đuổi hắn mãi không thôi. Một cảm giác thua kém khó chịu làm hắn bực bội.
Hay kiếm đạo tự nó không phải là cứu cánh. Hắn tự học kiếm, không đủ khách quan để lượng giá kỹ thuật của chính mình, nay gặp thất bại lại càng nghi ngờ. Ozoin nói công lực hắn quá mạnh, cần kềm chế, hắn thật không hiểu. Từ trước đến nay, hắn vẫn cho công lực là căn bản. Công lực mạnh đâu phải là khuyết điểm ! Ngày trước hắn không ưa suy nghĩ, chỉ hành động theo bản năng. Sau khi ở thạch thất ra, qua nhiều năm đọc sách và suy tư, hắn đã trở thành người khác:
việc gì làm cũng không khỏi qua nhận thức, phán đoán rồi mới chấp nhận hay gạt bỏ. Không những đối với những thế kiếm hắn sáng tạo ra mà còn trong mọi cách cư xử. Hay Ozoin muốn nói đến công lực tinh thần, sức mạnh nội tâm man rợ hắn chưa kềm chế được chứ không phải công lực thể chất. Có thể vậy lắm. Vị sư già không biết đã nhận thức được như thế hay chỉ đoán mò ...
Musashi nhức đầu không nghĩ nữa. Để tự trấn an, hắn cho rằng sự hiểu biết thuần túy sách vở chẳng ích lợi gì. Đối với một kiếm sĩ, chậm một nhịp có thể mất mạng. Nếu gặp đối thủ ngang tài thì liệu vị lão tăng kia còn sống nổi không, nếu chỉ trong một thoáng, không chớp mắt ?
Bước chân vội vã lên thang gác làm hắn tỉnh mộng. Nữ tỳ vào phòng, theo sau là Jotaro. Da Jotaro vốn đen, bấy giờ trông càng sậm lại vì nắng gió và bùn đất, tóc phủ đầy bụi như rắc một lượt phấn trắng. Musashi mừng rỡ đứng lên giơ hai tay đón tên học trò nhỏ. Jotaro ngồi bệt xuống sàn thở dốc:
- Mệt quá !
- Con tìm ta có dễ không ?
- Dễ gì ! Con muốn bỏ cuộc luôn, chỗ nào cũng xông vào mà không thấy. Sao thầy lại ở đây ?
- Vậy con không hỏi đền Hozoin à ?
- Có chứ, nhưng họ không biết thầy là ai.
- Vậy hả ?
Mắt Musashi khép nhỏ lại:
- Ta đã nói rõ nhờ họ chỉ con đến khu này mà ! Nhưng thôi, gặp được con là mừng rồi. Đói không ?
Jotaro không trả lời, tháo ống quyển trên cổ đưa Musashi:
- Đây là thư Yoshioka phúc đáp. Con không tìm được ông Matahachi nhưng đã nhờ người nhắn tin cho ông ấy biết.
- Vậy tốt. Bây giờ đi tắm rồi xuống nhà ăn cơm.
Musashi mở thư đọc. Seijuro nhận lời thách đấu, sẵn sàng gặp hắn vào mùa xuân năm sau, nếu không đến thì hắn bị coi như hèn nhát và phái Yoshioka sẽ yết cáo thị khắp nơi thông báo chuyện đó để giang hồ biết. Nét chữ xiêu vẹo, lời thư huênh hoang, tuồng như không phải do chính chưởng môn phái Yoshioka viết.
Đọc thư xong, Musashi châm lửa đốt. Tàn tro bay cao lập lờ trên không như những cánh bướm đen rồi chậm rãi rơi xuống sàn. Hắn lơ đãng nhìn tàn tro, lòng buồn vời vợi. Sang năm, cuộc gặp gỡ xảy ra hiển nhiên không phải là cuộc gặp gỡ tầm thường, nhưng là một cuộc tỷ đấu sinh tử giữa một môn phái đông người và hắn, một kiếm sĩ cô thế.
Musashi chấp nhận cuộc sống giang hồ không có ngày mai. Sống bữa nay chưa biết hoàng hôn hôm sau ra sao, mình hay Seijuro sẽ giống như cánh bướm đen kia, âm thầm rã mục cùng cây cỏ ? Ý nghĩ ấy làm hắn thở dài ảo não. Còn bao nhiêu việc phải làm, hắn muốn trở nên một kiếm sĩ trừ gian khử bạo, nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện được điều gì theo sở nguyện. Lòng Musashi lúc này còn vướng mắc nhiều ham muốn:
tiền bạc, ngựa xe, kẻ hầu người hạ, một căn nhà ấm cúng với vợ con quấn quít. Đôi khi hắn mơ một mối tình nồng nàn, nhưng suốt trong những năm theo đuổi kiếm học, chưa có lúc nào có hay không dám có một người tình. Musashi đã đi nhiều nơi, gặp nhiều phụ nữ khả ái, không phải chỉ khuôn mặt kiều diễm của họ làm hắn ưa thích mà đôi khi lòng khao khát xác thịt của tuổi dậy thì bừng bừng nổi dậy làm hắn khó chịu. Hắn phải dẹp đi không nghĩ đến nữa.
Những ý tưởng lan man đưa hắn nhớ đến Otsu. Con người hiền dịu ấy, hắn coi như cô em gái dễ thương, lần cuối cùng gặp mặt cách đây thế mà hơn một năm rồi, nhưng mỗi khi nghĩ đến, hắn không khỏi bâng khuâng xúc động.
Ngồi mơ mộng chẳng biết bao lâu, khi Jotaro ăn cơm xong lên phòng, hắn mới bừng tỉnh. Thằng bé tắm sạch sẽ, đã thay áo mới, đến ngồi nghiêm túc bên kỷ trà. Nó hãnh diện làm xong nhiệm vụ thầy giao phó, nhưng mỏi mệt không còn liến thoắng nữa, một lúc sau ngủ gục ngay trên chiếu. Musashi cúi xuống bế nó lên giường.
oo Mặt trời vừa mọc, Jotaro đã tỉnh dậy cùng với tiếng chim sẻ ríu rít. Musashi cũng dậy sớm vì hắn có ý định rời Nara ngay ngày hôm đó. Đương xếp hành trang thì bà chủ vào, hai tay ôm một hộp quần áo.
- Nghe nói quý khách ra đi, sao vội thế ?
- Phu nhân tha lỗi, tại hạ có chuyện cần.
- Qúy khách lưu lại nơi đây thời gian tuy ngắn ngủi, nhưng cũng làm cho cảnh nhà đỡ lạnh lẽo, nên có món quà mọn này tặng quý khách. Xin đừng từ chối.
Góa phụ mở hộp lấy ra một chiếc kimono lụa và một áo khoác ngoài bằng gấm, nét vẽ đơn sơ nhưng trang nhã. Musashi ngạc nhiên trố mắt nhìn không hiểu.
- Những món này là của tiên phu, trong nhà còn nhiều lắm. Thiếp đã sửa lại cho vừa, nếu quý khách không nhận, thiếp cũng chẳng biết làm gì. Để vô dụng uổng lắm.
Trước sự thành tâm của thiếu phụ, Musashi không tiện từ chối, đành cảm ơn và líu ríu vâng lời như đứa trẻ khi mẹ bảo thử áo. Nữ lang vòng ra phía sau, cầm áo cho hắn xỏ tay. Hắn bẽn lẽn, mặt đỏ rừ.
- Khéo như in, vừa lắm rồi !
Jotaro đứng bên, hai tay chắp sau lưng, ngắm nghía:
- Thế còn cháu, phu nhân cho cháu cái gì ?
Nữ lang cười vui vẻ:
- Cháu đi theo sư phụ tài ba này, đẹp trai này, còn đòi gì nữa ?
Nó dỗi:
- Áo cũ mèm, đẹp nỗi gì ?
- Thế cháu muốn thứ gì ?
Jotaro chạy ngay ra hành lang, gỡ chiếc mặt nạ tuồng Nô treo trên vách rồi nói:
- Cháu muốn cái này !
Jotaro đã để ý chiếc mặt nạ ngay từ sáng sớm, thích lắm. Nó cầm chiếc mặt nạ trong tay, áp vào má để thấy cảm giác mát rượi của thớ gỗ. Musashi ngạc nhiên vì trình độ thẩm mỹ của thằng bé. Hắn cũng đã để ý đến chiếc mặt nạ ngay từ khi mới đến trọ, khen công trình điêu khắc của người làm ra nó tinh vi và sống động. Mặt nạ không biết làm từ thời nào nhưng chắc là xưa và đã được dùng nhiều trong những màn vũ long trọng. Không giống như những chiếc khác sơn vẽ lòe loẹt, mặt nạ này để mộc, có những nét thanh nhã của gương mặt một thiếu nữ nhan sắc. Duy một điều mép bên trái nhếch cao lên phô hàm răng trông dễ sợ với những sợi tóc thưa rủ xuống dài và đỏ quạch. Không phải mặt một người thường mà là mặt của một thiếu nữ điên dại.
- Không được ! Cái đó không được đâu !
Nhưng Jotaro đã đeo mặt nạ lên đầu, tránh né bà chủ vừa cười vừa đuổi theo nó chạy quanh phòng.
- Phu nhân cho cháu ! Bây giờ phu nhân còn dùng cái này làm gì ?
Musashi bối rối vì cử chỉ của tên đồ đệ, quát:
- Jotaro !
Rồi giơ tay định túm lấy nó. Jotaro nhanh nhẹn luồn qua tay sư phụ, chạy xuống lầu. Nữ lang đuổi theo, tuy không tỏ vẻ gì phật ý, nhưng rõ ràng không muốn để mất chiếc mặt nạ.
Musashi thu dọn xong, ngồi trên bực gỗ định đợi tên tiểu đồ về sẽ trách mắng. Bỗng Jotaro ở đâu chạy ra “òa” một tiếng. Hắn giật bắn mình đứng phắt dậy.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng của căn phòng, thằng bé trông như con quỷ, mép nhếch lên, tóc buông dài xõa ra sau gáy. Thì ra nó đeo cái mặt nạ dữ tợn và sinh động đến nỗi Musashi không ngăn nổi hồi hộp.
- Jotaro ! Sao chưa trả lại cho bà chủ ?
- Bà chủ cho con rồi mà !
- Nói bậy ! Cho lúc nào ?
- Mới đây, ở ngoài vườn. Con đã trả cho bà, nhưng bà nghĩ lại, lại cho con. Bà bảo nếu con thích thì cứ giữ, nhưng phải giữ cẩn thận. Con đã hứa với bà rồi !
- Thật cái thằng này ! Ta chẳng biết phải xử trí ra sao nữa !
Musashi chưa giúp được nữ lang điều gì mà đã nhận áo, nay học trò lại lấy chiếc mặt nạ mà bà ưa thích. Hắn ngượng, muốn trả ơn nhưng thấy bà chẳng cần tiền, món tiền nhỏ của hắn chỉ tổ mua cười, mà trong hành trang hắn chẳng có vật gì đáng giá.
Hắn xuống lầu gặp bà chủ, ngượng ngùng xin lỗi về hành động vô lễ của học trò và cầm chiếc mặt nạ hoàn lại. Nhưng nữ lang cười, nói:
- Không ! Qúy khách chẳng nên quản ngại. Nghĩ cho cùng, thiếp chẳng dùng nó làm gì mà thằng bé có vẻ thích lắm. Cái đẹp nhất và đẹp mãi là cái đẹp mình dành cho người khác thưởng ngoạn, có phải không quý khách ?
Musashi cảm động cúi xuống buộc lại quai dép.
Từ giã căn nhà trọ, mới đi được vài bước, hai thầy trò thấy vợ người chủ quán bán bánh bao hớt hải chạy đến:
- Khách quan ! Khách quan ! Dừng lại đã ...
Bà ta thở hổn hển, giọng lạc đi:
- đền Hozoinbiết tin khách quan ra đi nên cho người phục kích ngoài cách đồng Hannya. Đông lắm ...
- ...
- Có cả vị thủ tòa nữa. Trượng phu ta biết chuyện, bảo đến báo khách quan hay.
- Thật ư ? Sao lại có chuyện đó ?
- Không biết, nhưng rất nguy hiểm. Khách quan nghĩ lại, tránh voi chẳng xấu mặt nào, hãy lưu lại đây vài ngày, chờ tối trời lẻn đi đừng để ai biết ...
Musashi bình tĩnh:
- Phải chăng đại nương nói họ đợi tại hạ Ở đồng Hannya ?
- Không rõ địa điểm có đúng không nhưng thấy đi về hướng ấy. Ngoài chư tăng ra còn nhiều tay kiếm giang hồ khác nữa. Khách quan có nói xấu gì đền Hozoinhay làm điều gì xúc phạm đến các vị ấy không ?
- Không.
- Hình như tăng chúng trong đền giận dữ về việc khách quan sai người yết bảng khắp nơi làm nhục họ, vẽ hình một vị tăng bị chém chết.
- Họ lầm. Tại hạ đâu có thuê ai yết bảng bao giờ.
- Vậy thì khách quan lại càng không nên chết vì việc người khác làm bậy.
Musashi ngước nhìn trời, tư lự. Hắn nghĩ tới ba tên du đãng tới thăm hắn bữa trước, có thể chính chúng đã đồn đại và phao vu cho hắn thuê chúng làm nhục Đền Hozoin. Chí đã quyết, Musashi nói:
- Tại hạ cám ơn, nhưng không thể lưu lại được.
Rồi xốc lại hành lý trên vai, hắn bảo Jotaro:
- Đi con !
Nữ lang chủ trọ thấy ồn ào ngoài cổng, chạy ra nghe chuyện, giữ hắn lại.
- Tại hạ phải đi. Còn lưu lại ngày nào chỉ gây thêm phiền phức cho phu nhân mà thôi !
Nước mắt chạy quanh, nữ lang khẩn khoản:
- Không sao, không phiền gì hết ! Qúy khách ở lại an toàn hơn.
- Không được ! Jotaro, con cám ơn phu nhân đi rồi lên đường.
Nghe lời sư phụ, Jotaro cúi chào cảm ơn hai người đàn bà. Nó cũng sụt sịt, không phải vì tiếc phải từ giã một nơi êm ấm nhưng vì lo lắng. Nó chưa rõ tài năng của người nó thờ làm sư phụ. Ở Kyoto, người ta vẫn cho thầy nó là tên khiếp nhược. Nghĩ đến bao nhiêu cao thủ Hozoin đang chờ thầy trò nó để ra tay, Jotaro sợ hãi quá chừng.
Trong trái tim bé bỏng của nó, một nỗi lo âu dâng lên tràn ngập.

Acmagiro
13-02-2008, 10:37 AM
QUYỂN 2 : Sui No Maki

CHƯƠNG 16
ĐỒNG CỎ HANNYA



Jotaro lầm lũi theo chân sư phụ, cúi đầu đi, buồn rầu không nói. Đối với nó, mỗi bước đi là một bước dẫn dần đến cái chết chắc chắn. Những giọt sương đêm còn đọng lại trên tàn cây rậm rạp và ẩm ướt ven đường thình thoảng lại rơi xuống gáy, chui vào cổ lạnh buốt. Nó rùng mình. Đàn quạ đen thấy động vỗ cánh bay, tiếng kêu khàn khàn ghê rợn. Quạ bay trên đầu là điềm gở, Jotaro nghĩ thầm trong bụng và càng thêm sợ hãi.
Hai thầy trò đi một lúc khá lâu, đã xa cổ thành đến vài dặm. Qua hàng tùng cổ thụ, đường đồi thoai thoải dốc xuống dần, bên kia là đồng cỏ hoang Hannya, màu xanh chỗ đậm chỗ nhạt từng mảng, di chuyển theo bóng mây. Trời nhẹ và trong, tươi mát, khác hẳn với lòng thầy trò Jotaro ngổn ngang trăm mối.
Jotaro thấy thầy mình cứ xăm xăm đi tới thì lấy làm lạ. Đồi bên kia chẳng có chỗ nào để ẩn nấp, trừ vài tảng đá lớn nhô cao trên nền cỏ dại. Đi như thế chẳng khác gì làm bia cho địch. Nếu tăng sĩ đền Hozoin trông thấy thì làm sao trốn kịp ? Giá như nó, nó sẽ trốn trong rừng hoặc vào tạm trú trong ngôi miếu hoang nào đó, chờ tối mới qua đồng cỏ. Như vậy an toàn hơn. Mặc dầu Musashi không nói, nhưng Jotaro nghĩ có lẽ thầy nó muốn gặp vị thủ tòa để xin lỗi. Nó không biết phải trái về ai và sư phụ mình đã làm gì để phật lòng các vị, nhưng nếu Musashi xin lỗi thì nó cũng sẽ rập đầu lạy theo để được tha mạng. Tránh voi chẳng xấu mặt, lúc này không phải lúc cạnh tranh ai hơn ai kém.
- Jotaro !
Jotaro giật mình nghe tiếng gọi. Mặt nó tái đi, tưởng chừng như thầy đã đọc được hết những ý nghĩ thầm kín trong đầu. Nó không dám nhìn sư phụ, chỉ khẽ “dạ” rồi đứng sững ngước mặt lên trời. Musashi đăm đăm nhìn, làm nó càng thêm bối rối. Một lúc sau, bằng một giọng nửa an ủi, nửa bông đùa, thầy nó nhẹ nhàng hỏi:
- Trời đẹp quá ! Tiếng họa mi hót đó, con nghe thấy không ?
- Tiếng họa mi ?
- Ừ, tiếng họa mi ! Con không nghe tiếng chim hót ư ?
Nhìn nét mặt xám ngắt của tên tiểu đồ, Musashi cảm thấy tội nghiệp. Hắn thương thằng bé ít tuổi đã phải xông pha. Đối với Jotaro bây giờ, cảnh có đẹp, chim hót có hay, nó cũng không màng. Sáng nay, qua chiếc mặt nạ, đôi mắt nó long lanh tinh nghịch, giờ đây nặng trĩu những ưu tư và lo lắng. Hắn nói:
- Ta chia tay ở đây thôi ! Con còn nhỏ, theo ta chỉ thêm bận. Nếu ta mệnh hệ nào, ai người bảo vệ cho con. Để con sa vào ổ mai phục này, lòng ta không nỡ !
Jotaro không đáp, nước mắt trào ra. Nó bậm môi, lấy tay áo quệt ngang, đôi vai non dại rung rung rồi bật lên tiếng nức nở. Jotaro khóc ngất, tưởng chừng lần chia tay này là vĩnh biệt, không bao giờ còn mong gặp lại thầy nữa. Jotaro níu áo sư phụ, giậm chân xuống đất bành bạch, những tiếng nấc nghẹn ngào không làm nó nói được lời nào.
Musashi nhẹ nhàng vỗ về:
- Không ! Ta không bỏ con đâu ! Trên bước đường hành hiệp, đây là bài học đầu tiên. Ra nấp sau tảng đá trên ngọn đồi kia nhìn cho kỹ. Nếu ta thoát về hướng nào, chạy theo hướng ấy ; nếu không, trở về Kyoto đến trú tạm ở quán rượu cũ.
Nhưng Jotaro vẫn không nín. Nó run run nắm áo sư phụ lôi vào ven đường, ngập ngừng:
- Hay thầy với con trốn đi ?
- Không được ! Kiếm sĩ gì mà hèn thế ? Con muốn thành kiếm sĩ không ?
- Nhưng con sợ. Chắc chết mất ! Thầy không đánh lại họ được đâu !
Và lôi Musashi vào sau lùm cây, Jotaro khẩn khoản:
- Nghe con đi thầy ! Con xin thầy ! Bây giờ ta trốn còn kịp.
Musashi giật mạnh tay áo, quắc mắt nhìn Jotaro:
- Không ! Ta là kiếm sĩ, con là giòng dõi kiếm sĩ, không trốn được !
Trước thái độ cương quyết của sư phụ, Jotaro không dám nói gì thêm. Nó ngồi phịch xuống đất, kéo vạt áo lau mặt. Bụi đất cùng nước mắt quyện vào nhau làm nhem nhếch thêm khuôn mặt vốn đã đen đủi của nó.
- Cứ yên tâm, ta sẽ thắng ! Không việc gì phải hoảng sợ !
Nhưng lời trấn an của Musashi không làm Jotaro yên bụng. Nó không tin thầy nó sẽ thắng. Ngay một chọi một cũng chưa chắc ăn chứ đừng nói gì thầy nó phải chống lại cả hàng chục người, mà toàn là những tay cao thủ. Huống chi trong thâm tâm nó, Musashi vẫn chỉ là một tay kiếm giang hồ không tên tuổi, lại mang tiếng hèn nhát.
Tiếng khóc thút thít của Jotaro làm Musashi khó chịu. Tuy yêu thương và tội nghiệp đồ đệ, nhưng trong hoàn cảnh này, hắn hối hận đã để nó theo bên mình. Hắn ỷ vào sức mạnh và lưỡi gươm bén đeo bên sườn, nhưng biết đâu ...Kẻ địch quá đông, ở đời nhiều sự bất ngờ không thể lường trước được. Dưới đồng cỏ kia, bao nhiêu người đang chờ giết hắn, cuộc chiến đấu sẽ là một trận sinh tử khốc liệt, không phải để đo lường hơn kém mà để giành lấy sự sống. Tiếng khóc cùng nét mặt sợ hãi đến ngơ ngác của thằng bé làm hắn bực mình. Musashi phát bẳn:
- Thôi câm đi ! Mày còn khóc, ta không nhận mày làm đồ đệ nữa. Hèn như thế thì ở xó nhà bưng rượu có hơn không ?
Và lấy tay đẩy nó ngã lăn ra vệ đường, Musashi bỏ đi như chạy.

Acmagiro
13-02-2008, 10:38 AM
Jotaro ngạc nhiên lồm cồm bò dậy, kéo vạt áo chùi mũi. Nó muốn gọi sư phụ, muốn chạy theo, nhưng nghĩ sao lại ngồi im, môi mím chặt. Rừng vắng. Gió thổi rì rào.
Đâu đây, một hai tiếng chim lảnh lót càng làm khu rừng thêm quạnh quẽ. Sự vắng lặng lùa vào tâm hồn non dại của nó một nỗi cô đơn không bút nào tả xiết.
Musashi bước nhanh, không nhìn lại. Tiếng khóc của tên học trò nhỏ như còn văng vẳng bên tai, tia mắt sợ hãi của nó vẫn như theo sau gáy, van lơn và cầu khẩn.
Cây rừng mỗi lúc một thưa. Cỏ dại mọc cao quá đầu gối bắt đầu che lấp cả lối đi, đứng xa chục bước không nhìn rõ đâu là đường nữa. Đột nhiên từ sau một tảng đá lớn, một bóng người nhảy vọt ra, giơ cao tay chào đón:
- Musashi đại huynh, đại huynh đi đâu vậy ?
Musashi đứng khựng lại, tay nắm đốc kiếm. Khi nhận ra đó là Yamazoe Dampachi, một trong ba tên du đãng đã đến thăm hắn bữa trước ở nhà trọ tại cổ thành, hắn yên tâm mỉm cười đáp lễ.
- Gặp lại đại huynh thật là vạn hạnh. Tiểu đệ xin đại huynh đại xá cho về tội đã xúc phạm đại huynh bữa trước.
Giọng gã ngọt như mía lùi. Vừa nói, Yamazoe Dampachi vừa đưa mắt liếc ngang Musashi để dò phản ứng.
- Hôm ấy tiểu đệ nói năng thật vô lễ, mong đại huynh thứ lỗi.
Yamazoe Dampachi đã chứng kiến tận mắt trận đấu giữa Musashi và Agon tại võ sảnh đền Hozoin, nghĩ đến hãy còn rùng mình. Nhưng gã vẫn nghi hoặc. Một người trẻ như vậy, lại vô danh trong giới giang hồ không thể có ngón đòn thuần thục và kinh nghiệm già dặn mức đó, nên gã không tin Musashi có thể thoát khỏi tay bọn gã phen này, nhất là bọn gã lại được sự trợ giúp của đền Hozoin. Nghĩ thế nhưng Yamazoe Dampachi vẫn dùng giọng ngọt sớt, hỏi lại:
- Đại huynh đi đâu ?
- Tại hạ theo sơn đạo này ra đại lộ Ise, bằng hữu nghĩ có tiện không ?
- Tiện chứ ! Tiện chứ ! Tiểu đệ cũng ra đó để đi Koizumi. Ta làm bạn đồng hành, thật không gì thú bằng !
- Koizumi chắc gần nhà Yagyu ?
- Gần. nhà Yagyu là nơi Yagyu Muneyoshi ở ẩn. Đại huynh nên đến đấy một lần xin yết kiến vị kiếm sĩ đại danh này. Tuổi lão đã cao, nghe nói bây giờ chỉ chuyên về trà đạo, nhưng kinh nghiệm kiếm học của lão không phải là không bổ ích.
- Bằng hữu nói phải lắm. Nhưng tại hạ chẳng có danh vọng gì, e người không cho gặp mặt.
Vừa đi vừa chuyện vãn, nhưng Musashi không bỏ sót một cử chỉ nào của kẻ đồng hành. Hắn đi sau Yamazoe Dampachi chừng hai bước, luôn luôn cảnh giác đề phòng. Đồng cỏ xanh mướt trải dài trước mặt, đây đó vài gốc cổ tùng mọc trơ trọi, tàng lá xanh đen in rõ như cắt trên nền trời trong sáng. Dưới một gốc cổ thụ, lẩn sau đám loạn thạch, có vệt khói bốc lên nhẹ như tơ. Musashi ngạc nhiên cất tiếng hỏi:
- Gì vậy ?
- Cái gì ? Đại huynh thấy gì ?
- Khói.
- Khói thì có gì là lạ ! Chắc tụi mục đồng tụ họp. Đâu ? Khói đâu ?
Musashi đưa tay chỉ về phía trước mặt:
- Đằng kia. Khả nghi quá !
Lời nói chưa dứt, một tiếng “soạt”. Cả thân hình Yamazoe Dampachi đâm chúi về phía trước. Gã không ngờ khi mãi nhìn theo ngón tay chỉ, Musashi đã rút kiếm ra từ bao giờ và đâm xéo vào hông gã suốt lên đến ngực. Musashi rút kiếm khỏi sườn tên du đãng, xác gã đổ xuống như cây mục, mặt úp sấp, tay chân quều quào. Một giòng máu từ vết thương rỉ ra, loang đỏ áo ngoài.
Đằng xa, hai bóng người chạy tới. Trông thấy Musashi đứng vững bàn như núi bên xác Yamazoe Dampachi, tay cầm thanh kiếm lấp loáng ánh dương quang, đầu mũi kiếm chúc xuống, máu tươi còn nhỏ giọt, chúng kêu lên một tiếng kinh hãi, quay đầu bỏ chạy.
Musashi leo lên mô đất dưới gốc cổ tùng. Da hắn nóng bỏng, bắp thịt căng ra như sắp nổ tung. Bản năng thú vật trong cơ thể hắn bùng dậy mãnh liệt. Cơn gió mát mùa xuân không làm dịu đi chút nào cảm giác hừng hực tựa lửa đốt trong người. Đứng trên mô đất, hắn phóng mục quang nhìn xuống sườn đồi cách chỗ hắn chừng vài trượng.
Nhóm người lố nhố chỉ trỏ. Musashi nhận dạng được hai tên trước đây cùng đi với Yamazoe Dampachi đến thăm hắn tại nhà trọ. Cùng với các tăng sĩ Hozoin, bọn người chờ giết hắn đông có đến ba chục chứ không ít.
- Nó đấy ! Nó đã đến đấy !
Toán mai phục phần lớn toàn là những tay giang hồ lạc thảo, chuyên sinh nhai bằng nghề cướp của giết người hay những hành động bất lương khác. Số còn lại gồm chừng một chục tăng nhân mang trường mâu hình thù cổ quái, đuôi rắn đầu rồng; có kẻ cầm binh khí giống như hai ngọn bút viết, đầu nhọn hoắt.
Nhìn Musashi đứng trên đỉnh đồi, nét mặt dữ tợn tựa hung thần, bọn thảo khấu ớn lạnh xương sống. Gió mát thổi hiu hiu mà ai nấy đều nổi gai ốc. Chúng không ngờ ổ mai phục của chúng bị phát giác sớm như vậy. Cuộc chiến đã bắt đầu. Thay vì lừa Musashi vào bẫy, chúng đã để cho Musashi chiếm thượng phong và giết mất của chúng một tay cao thủ.
Nhưng mũi tên bắn đi không giữ lại được nữa. Bọn mai phục chia làm hai toán tỏa ra hai bên sườn đồi, cốt ý không để Musashi trốn thoát. Một bên là những tay giang hồ thảo khấu khét tiếng vùng Nara, một bên là các tăng sĩ đền Hozoin, tay áo màu vỏ dà thẫm xắn cao, đầu cạo trọc, đằng đằng sát khí như quỷ A Tỳ , sẵn sàng trả thù cho đồng đạo.
Bị bao vây, Musashi vẫn không tỏ vẻ bối rối. Hắn chậm rãi di chuyển từng bước, thanh trường kiếm nắm chắc trong tay, mắt sắc như mắt vọ tìm chỗ sơ hở của cả hai toán để xuất thủ. Mặt hắn đanh lại, chỉ đôi mắt là linh động, mắt một dã thú chờ mồi !
Không khí nặng những đe dọa. Hai bên cùng gờm nhau, không thốt một tiếng.
Phái thảo khấu và Hozoin có vẻ lạc quan hơn vì cậy đông người, nhưng Musashi tập trung tinh thần vào nhát kiếm đầu tiên hơn cả. Chí hắn đã quyết. Những tên du đãng lạc thảo thường ô hợp và vô kỷ luật, hạ một tên dễ làm nhụt chí những tên khác.
Hắn sẽ áp dụng chiến thuật giương đông kích tây, vờ tấn công phái tăng lữ trước để rồi xuất kỳ bất ý quay ngược kiếm lại phá vòng vây phía sau thoát hiểm. Vừa khi đó, một tăng sĩ đứng đằng xa dõng dạc lên tiếng:
- Musashi ! Ta là Inshun, thủ tòa đền Hozoin đây ! Ngươi đã giết Agon lại còn cả gan cáo yết khắp nơi nhục mạ bản tòa. Có đúng vậy không ?
- Không đúng. Ta không có lý do gì làm vậy ! Đại sư giữ chức vị thủ tòa, phải biết suy xét. Cứ nghe lời đồn đại rồi tin là thật, sao hồ đồ quá thế !
Phái tăng sĩ ồ lên giận dữ. Họ cho lời nói của Musashi xấc láo. Bọn thảo khấu phía sau cũng phụ họa, mỗi người một câu đổ tội cho hắn. Musashi chỉ đợi có thế. Trong lúc cả bọn phân tâm, hắn thét lên một tiếng long trời lở đất rồi như cọp dữ vồ mồi, nhảy chéo về phía sau đến sát tên gần nhất. Một tiếng gió rít, một tiếng “phập” như người chặt chuối, tiếng thét ghê rợn bị cắt đứt nửa chừng, tiếng thân người đổ xuống, tất cả chỉ trong nháy mắt. Máu phun có vòi, đầu tên thảo khấu lăn lông lốc văng ra khỏi mình đến hơn một trượng.
Trong tiếng kêu thất thanh hỗn loạn, Musashi tựa cọp dữ giữa đàn dê, tung hoành vung kiếm né tả đâm hữu. Tiếng binh khí rít lên vù vù. Lưỡi gươm bén của hắn chém xương thịt người ngọt và gọn gàng như gọt khoai vậy ! Cánh tay, ngón tay, óc lẫn mảnh sọ còn dính tóc bay tung tóe. Áo ngoài hắn loang lổ những máu, tay cầm kiếm đã bắt đầu nhớp nháp. Mồ hôi trộn lẫn máu chảy xuống mắt làm hắn khó chịu. Chỉ trong khoảng chừng nửa khắc, số người chết nằm la liệt dưới cỏ và đám loạn thạch đã lên đến hàng chục. Số còn lại kinh hoảng cùng cực, vừa đánh dứ vừa lui ra xa dần, miệng la hét kêu tăng sĩ Hozoin đến trợ giúp.
Jotaro nấp sau tảng đá bên kia đồi, mắt mở to đến nứt kẽ, chăm chú nhìn sư phụ chiến đấu. Nó không ngờ Musashi dũng mãnh như thế. Một niềm hân hoan và hãnh diện dâng lên, Jotaro nín thở khi thấy thầy bị bao vây, rồi phá vòng vây giết bao nhiêu kẻ địch. Nó khấn thầm trong bụng:
“Lạy Trời, lạy Phật, lạy đức Bồ Tát từ bi, xin các ngài giúp thầy con thắng trận, con sẽ không quên ơn các ngài. Con sẽ đốt thật nhiều hương cúng các ngài. Thầy con là Miyamoto Musashi là người rất tốt, hôm nay vì bị đánh bất ngờ nên phải giết nhiều người. Mọi hôm, ông hiền lành, thỉnh thoảng có uống chút rượu nhưng không làm điều gì quấy. Xin trời Phật thương ông, giúp ông !” - Úi cha ! Thằng bên trái thầy ơi !
Đương khấn, Jotaro thấy có kẻ đánh lén, vội kêu to báo cho thầy biết. Nhưng ở xa, tiếng nó loãng đi trong khoảng không, làm sao nghe rõ. Tuy thế Musashi cũng né mình tránh kịp và thuận tay đưa ngược mũi kiếm về phía sau. Một tiếng thét, một thân người ngã gục. Jotaro chồm dậy vừa nhảy vừa la, vui mừng như chính nó mới đánh thắng kẻ địch !
Inshun xốc lại áo, nắm chặt trường côn, hét một tiếng lớn, ra lệnh công kích.
Tăng sĩ Hozoin không ai bảo ai, như đã có chủ đích sẵn, tản ra bốn phía bao vây cả Musashi lẫn bọn thảo khấu vào giữa.
Trên đồi, Jotaro sợ hãi há hốc mồm, đứng sững như trời trồng. Phen này chắc chết.
Nó lẩm bẩm:
- Hỏng rồi ! Trời không thương Phật không độ rồi !
Nó chạy ào xuống đồi, nón và chiếc mặt nạ đeo đằng sau đập vào lưng bình bịch.
Mặc kệ, Jotaro vừa chạy vừa la lớn:
- Đếch đốt hương nữa ! Thầy ta chết, ta đếch đốt hương nữa !
Chẳng ai biết nó muốn nói gì !
Nhìn thế trận, Musashi giật mình. Hắn bỏ tụi thảo khấu, lui dần về phía cây tùng già. Ít ra gốc tùng khá lớn và những hòn loạn thạch cũng giúp che cho hắn được ở phía sau, không bị bất ngờ tập hậu. Hắn đổi bộ vị luôn luôn, vừa lùi vừa di động không ngừng để tránh làm mục tiêu cho những ngọn lao của các tăng sĩ Hozoin có thể bất thần phóng tới. Đốc kiếm hắn dính nham nháp những máu, Musashi lấy tay chùi vào vạt áo. Mồ hôi đọng trên mí mắt làm hắn nhìn không rõ. Như con thú bị dồn vào bẫy, hắn tức giận cực điểm, nhất quyết phải thoát khỏi vòng vây bằng bất cứ giá nào. Nếu không thì bỏ xác trên cánh đồng hoang Hannya này, và trước khi chết, hắn sẽ đánh một trận quyết liệt rồi sẽ chết trong danh dự.
Nhưng Musashi ngạc nhiên hết sức. Những tăng sĩ phái Hozoin dường như không có ý gì muốn tấn công hắn. Ngược lại, họ quay giáo sang cả bọn du đãng không cho chạy trốn và nhất tề xông vào đâm không nới tay những kẻ mới đây là đồng minh của họ. Bọn kia ngạc nhiên chẳng kém gì Musashi, đứng sững không kịp phản ứng. Trong khoảnh khắc kinh hoàng ấy, phái tăng sĩ Hozoin mặc tình đâm chém, nhiều khi dùng đầu những ngọn giáo nhuộm đầy máu thọc hai ba lần vào những xác người đã ngã xuống hoặc còn ngắc ngoải. Tên nào thoát được, chạy trốn đều bị bọn tăng sĩ đuổi theo giết sạch.
Đứng dựa vào gốc cây, Musashi vừa ngạc nhiên vừa bất bình. Hắn không hiểu tại sao phái Hozoin lại ra tay tàn nhẫn đến thế đối với những người trước đây là bạn. Hắn, chính hắn cũng vừa mới giết người xong, không ghê tay, không hối hận, nhưng hành động của phái tăng lữ làm hắn công phẫn. Nhìn họ giết người man rợ tựa thú vật, hắn như người say tỉnh rượu. Trở lại bình tĩnh hơn, bản năng tàn bạo tự nhiên biến đâu mất, hắn chỉ còn thấy ngạc nhiên và một niềm bi phẫn vô hạn.
Đột nhiên Musashi nghe tiếng động nhỏ phía sau, trong bụi cỏ gần gốc tùng. Cúi gập người giữ thế thủ, hắn nhìn kỹ. Thì ra Jotaro, tên học trò nhỏ đã nằm bẹp ở đó từ bao giờ. Hắn thở dài nhẹ nhõm và cảm thấy thoải mái.
Trận đấu cũng vừa kết thúc. Tuy nhiên Musashi không dám khinh xuất.
Hắn vẫn đứng nguyên chỗ cũ, hai tay nắm chặt đốc kiếm, mắt trừng trừng nhìn Inshun đại sư bước tới. Dáng đi của Inshun ung dung, tự nhiên, nét mặt ông tươi cười không có vẻ gì thù nghịch. Đến gần Musashi, ông giơ tay vồn vã:
- Thí chủ là Miyamoto Musashi ở Miyamoto phải không ? Bần tăng hân hạnh được tiếp kiến thí chủ.
Inshun vóc cao lớn, phong thái đĩnh đạt, khoan thai nét mặt điềm tĩnh làm Musashi vì nể. Hắn lúng túng chưa biết đáp ra sao, lau lưỡi gươm vào áo, tra vào bao rồi mới cúi đầu thi lễ.
- Bần tăng là Inshun, thủ tòa Đền Hozoin.
- A ! Vậy đại sư đây vô địch về thương học. Tại hạ nghe đại danh đã lâu, bây giờ mới được tiếp kiến. Thật là vạn hạnh.
- Bần tăng rất tiếc hôm trước không có mặt ở nhà bồi tiếp thí chủ. Agon tài năng kém cỏi, thật không đáng để thí chủ quan tâm.
Musashi chột dạ. Vị thủ tòa đền Hozoinngầm có ý gì khi đề cao hắn quá đáng và không đả động gì đến việc rửa hận như thế, hắn không hiểu. Lại còn vụ tăng sĩ Hozoin quay giáo lại giết bọn kiếm khách lạc thảo như vừa rồi nữa ...
- Áo thí chủ dính đầy máu, ta lại đây nghỉ một lát, gột sạch đi chứ !
Inshun dẫn Musashi đến bên đống lửa. Jotaro lật đật theo sau. Một số tăng sĩ đã ngồi sẵn ở đó đang xé vải lau binh khí. Số khác lục tục kéo đến, vái chào Musashi tỏ vẻ cung kính.
Đàn quạ đen ngửi mùi tử khí rủ nhau đến đậu đầy trên những cành thông trụi lá, tranh nhau và mổ lẫn nhau, kêu “quạ quạ” vang đông cả khu đồi hoang dã.
- Sao chúng không đáp xuống rỉa thịt mấy cái xác kia nhỉ ?
- Chúng đợi ta đi hết đã. Giống quạ như vậy, ưa thịt thối và khôn lắm.
Họ chuyện vãn những chuyện không đâu, coi như biến cố vừa xảy ra không có gì đáng lưu ý.
Musashi vẫn không hiểu tại sao đền Hozoinlúc đầu đồng lõa với bọn thảo khấu, sau lại ra tay giết sạch chúng, bèn quay sang hỏi Inshun:
- Tại hạ có điều muốn xin chỉ giáo. Khi ở Nara, tại hạ được biết quý hội sẽ cho người mai phục giết tại hạ tại đây nên tại hạ đã quyết tâm chống cự. Không hiểu sao bây giờ lại đổi cách cư xử như vậy ?
Inshun mỉm cười:
- Có gì đâu ! Bữa nay bản hội muốn thanh lọc hàng ngũ, gạt bỏ những phần tử xấu xa làm ô uế võ lâm nên mượn tay thí chủ giúp đỡ. Quả nhiên thí chủ chẳng từ chối.
- Đại sư gọi như thế là thanh lọc hàng ngũ sao ?
- Chính vậy ! Ý kiến này do Ozoin đại sư đưa ra, bần tăng chỉ thừa hành.
Nhưng thôi, nếu thí chủ muốn biết thêm, cứ hỏi Ozoin. Người đã đến kia.
Nói rồi cầm gậy chỉ về phía chân đồi. Mọi người trông ra quả nhiên thấy một lão ông quắc thước, đầu quấn khăn bỏ múi, mày trắng như tuyết, vội vã đi đến. Theo sau là năm kỵ mã, y phục dáng dấp có vẻ như những công sai. Tuy họ cưỡi ngựa nhưng thần sắc mệt mỏi và dáng điệu chậm chạp hơn ông già nhiều.
Ozoin đi tới, mọi người dạt ra chào cung kính. Musashi cũng vòng tay thi lễ. Không để mất thì giờ vào những lời xưng tụng rườm rà, Ozoin hướng về phía Inshun hỏi ngay:
- Mọi việc kết thúc như đã định cả chứ ?
Thủ tòa đền Hozoin cúi đầu đáp:
- Bẩm sư phụ, hoàn hảo cả.
Năm công sai hối hả xuống ngựa. Người lớn tuổi nhất ra lệnh cho những người kia mang bút giấy ra ghi chép, kiểm điểm xác chết, coi mặt từng tử thi. Sau khi xong, hắn tiến đến trước mặt Inshun và Ozoin, nói:
- Xin đa tạ các vị đã giúp anh em chúng tôi. Từ giờ đến sáng mai, sẽ có người tới mang những xác này đi chôn cất. Xin các vị đừng bận tâm.
Nói xong, cả năm người cùng cáo biệt lên ngựa đi thẳng.
Inshun và các tăng sĩ phái Hozoin cũng đứng hàn huyên một lúc rồi mới chia tay về Nara.
Musashi quỳ xuống trước mặt Ozoin, kính cẩn:
- Tại hạ vừa được vị thủ tòa Hozoin cho biết lý do về những hàng động mới đây của quý hội. Dám xin đại sư chỉ dẫn thêm.
Ozoin đưa tay đỡ Musashi đứng dậy:
- Thí chủ bất tất phải đa lễ. Có gì bí mật đâu ! Sở dĩ bần tăng phải bày ra kế này vì viên quan chấp pháp mới đến nhậm chức, chưa rõ tình hình để bọn du đãng lộng hành quá đỗi. Gặp cơ duyên, được biết thí chủ là tay nghĩa hiệp nên bần tăng có bàn với Inshun, mạn phép thí chủ. Xin vì ích chung mà thứ lỗi cho.
- Đại sư dạy quá lời. Bài học vừa rồi làm tại hạ suýt mất mạng.
- Không đâu ! Bần tăng biết chứ ! Và đó cũng là lý do bần tăng đã kể Inshun giả hợp tác với chúng ban đầu cho chúng khỏi nghi kỵ và đỡ thí chủ một tay khi cần.
Nghe thủng câu chuyện, mọi người đều vui vẻ. Vui nhất có lẽ là Jotaro. Nó hớn hở thấy thầy nó còn sống, vui mừng và kiêu hãnh vì được chứng kiến tận mắt sư phụ chiến đấu dũng mãnh, một tay giết bao nhiêu là côn đồ, thảo khấu. Nó sung sướng nhảy cẫng, miệng hát líu lo.
Ozoin mỉm cười, gọi:
- Này cháu nhỏ, lại đây ta bảo !
Nhà sư chỉ những viên cuội tròn rải rác khắp đồi:
- Cháu nhặt cho ta chừng hai chục hòn đá như thế này !
- Dạ. Nhưng nhặt làm gì vậy ?
- Thì cứ nhặt mang lại đây rồi biết !
Khi đá được mang đến, Ozoin viết lên trên mỗi hòn đá câu chú “Nam mô Thích ca Mâu ni Phật”, sai Jotaro đem đến đặt bên mỗi tử thi một hòn. Ông đứng ra giữa đồng làm lễ cầu siêu cho linh hồn những người quá cố, niệm kinh vãng sinh giữa những tiếng quạ kêu và đồi chiều bắt đầu nổi gió.
Trong khung cảnh bao la của đồng hoang Hannya chiều hôm ấy, ba người tượng trưng cho ba thế hệ, cúi đầu cầu nguyện. Bóng họ đổ dài trên nền cỏ xanh còn loang vết máu.

Acmagiro
14-02-2008, 03:08 PM
QUYỂN 2 : Sui No Maki

CHƯƠNG 17
NHÁNH HOA MẪU ĐƠN




Nhà Yagyu chạy dài dưới chân núi Kasagi, về phía đông bắc Nara. Gọi là sơn cốc, nhưng thật ra là một thung lũng hẹp, bốn bề vách đá hiểm trở bao vây, ban ngày chỉ thấy mặt trời từ giờ tị đến cuối giờ mùi. Những lúc khác, cả thung lũng chìm trong bóng tối hoặc ẩn sau một màn sương mù dày đặc, nhất là vào những ngày u ám.
Vào đầu thế kỷ , một làng được lập ngay trong cốc. Dân làng khá đông, chuyên nghề tầm tang và dệt lụa. Vì ít tiếp xúc với những thị trấn bên ngoài, nhà Yagyu vẫn giữ nguyên được nền nếp thanh bình như khi mới lập. Giữa cốc là một tòa nhà lớn, dân làng thường gọi là Đại lâu, vừa dùng để hội họp, vừa để gìn giữ những di sản văn hóa trong cốc. Một tường đá kiên cố với lũy tre dầy bao bọc quanh làng, kín như rừng, nên cốc có tên là Trúc Lâm.
Cảnh trí Trúc Lâm đẹp như tranh vẽ. Vách đá sừng sững cao đâm thấu trời xanh, cổ thụ mọc trên vách đá không biết từ đời nào và chịu bao sương tuyết mà thân cành vặn vẹo, nhưng không vì thế kém tươi tốt. Những chùm lá xanh đen, cứ vào mỗi đầu xuân lại thi nhau đâm chồi nẩy lộc, tung ra sức sống mãnh liệt tiềm ẩn trong thớ gỗ. Vào những ngày đẹp trời, ánh dương mới mọc chênh chếch chiếu lên sườn núi làm ửng lên muôn ngàn sắc độ của thảm rêu trên những mỏm đá cheo leo trông rất ngoạn mục. Nước suối thì trong và mát, đem pha trà thật không gì sánh kịp. Vườn mai gần đó nở trắng hoa, mỗi khi xuân đến rộn tiếng họa mi véo von, trong như nước suối.
Yagyu Muneyoshi Sekishusai là một tay kiếm sĩ tuổi trung niên. Tổ tiên ông đến đây lập nghiệp đã lâu đời và đã góp phần rất lớn vào việc dựng nên cốc này. Ông theo truyền thống tiền nhân, đem hết tâm lực bảo vệ cho cốc không bị cường khấu quấy phá, lại giữ gìn hảo tục thuần phong, lo cho dân làng có đủ đất đai cày cấy, thành ra mọi người đều yên vui no đủ lắm. Trong cảnh hỗn loạn sứ quân của nước Nhật vào cuối thế kỷ mười sáu, nhà Yagyu thật là một nơi lý tưởng để sinh sống và di dưỡng tính tình.
“Địa linh sinh nhân kiệt”, người xưa nói quả không sai. Trúc Lâm là nơi sinh trưởng của một đại kiếm sĩ, bốn mươi năm trước đây danh tiếng lừng lẫy giang hồ tên Yagyu Muneyoshi. Kiếm thuật của nhà Yagyu không hoa mĩ nhưng nhanh và gọn vô cùng. Ông cho rằng kiếm không phải là một thứ đồ chơi, múa lấy đẹp mắt. Ông ít khi sử kiếm, vì cho rằng kiếm thuật không phải là cứu cánh của kiếm đạo, nên chỉ dùng kiếm khi vạn bất đắc dĩ và khi nội tâm thật bình tĩnh, không bị thất tình và ngoại cảnh chi phối. Ông thường nói với môn sinh:
“Mục đích tối hậu của kiếm đạo là không dùng kiếm”. Quan niệm này của Yagyu Muneyoshi đã được nhiều danh kiếm đương thời đem ra thảo luận và cũng chính là trọng tâm, nếu không nói là cốt tủy của trường phái Yagyu.
Muneyoshi giờ tuổi đã cao, lui về ở ẩn trong một ngôi nhà cỏ cách Đại lâu không xa. Ông không quan tâm gì đến thế sự nữa, mọi tiếng thị phi đều gác bỏ ngoài tai. Con cháu nhà Yagyu là những người có khả năng, ông thấy không có lý do gì mà không rửa tay treo kiếm.
oo Khi thầy trò Musashi đến Nhà Yagyu, chuyện xảy ra tại đồng cỏ Hannya đã qua được mười ngày. Trên đường đi, Musashi có dịp viếng thăm nhiều thắng tích, trong lòng rất lấy làm khoái hoạt. Hắn cùng tiểu đồ vào trọ trong quán Wataya ngay đầu làng, với dự định nghỉ ngơi ít bữa, đồng thời tìm cách liên lạc để được yết kiến Muneyoshi tiên sinh.
Nhân lúc nhàn rỗi lại gặp tiết trời ấm áp, Musashi mặc áo mỏng cùng tiểu đồ đi dạo. Thầy trò đi một lúc, Musashi quan sát cảnh vật xung quanh, miệng lẩm bẩm:
- Lạ ! Lạ quá !
Hắn nhắc đi nhắc lại nhiều lần chữ “lạ quá” làm Jotaro chú ý, ngẩng lên nhìn sư phụ:
- Thầy nói cái gì lạ ?
Đối với Jotaro, làng này chẳng có gì lạ. Nó cũng như trăm nghìn làng khác mà thôi. Có điều thấy thầy nó lẩm bẩm một mình, nó cho rằng thầy nó lại sắp giở chứng. Ấn tượng một người tâm trí không bình thường vẫn chưa thoát khỏi khối óc ngây thơ của nó.
- Hơn một năm nay ta đã đi nhiều nơi, Settsu, Kawachi, Izumi, Kyoto, Narạ..
nhưng chưa nơi nào ta thấy cảnh vật như ở đây.
- Cảnh vật ở đây thế nào, khác với nơi khác ra sao, thầy ?
- Ở đây nhiều cây hơn.
Jotaro cười như nắc nẻ:
- Nhiều cây hơn ? Cây thì chỗ nào gần rừng mà chả nhiều !
- Ờ, nhưng cây ở đây khác. Cây vùng này to, lại nhiều cổ thụ. Như vậy có nghĩa là từ lâu không ai đốt rừng, không có giặc giã, dân cũng không đến nỗi nghèo phải chặt cây mang về làm củi sưởi.
Jotaro gật đầu, cho là sư phụ nói đúng.
- Đồng lúa xanh tốt, ruộng dâu mơn mởn, vậy là có người chăm sóc. Này ! Con có nghe tiếng xa quay tơ kêu cút kít không ? Hình như nhà nào cũng có khung cửi thì phải !
Mọi người đều vui tươi, thấy khách lạ ăn mặc lành lặn đi qua không nhìn với đôi mắt ganh tị, vậy là tốt lắm !
- Dạ. Thầy còn thấy điều gì khác nữa không ?
- Có chứ ! Cứ thế mà suy ra thì dân vùng này phần nhiều đều no đủ. Ta chắc cốc chủ phải là người sáng suốt, khôn khéo; hẳn ông ta có sẵn dưới tay nhiều binh khí tốt, tráng đinh khỏe mạnh, giỏi chiến đấu ...
- Chắc thế. Nhưng chuyện đó can dự gì đến ta ?
- Hừ ! Thằng này chẳng biết gì !
- Sao thầy bảo đi học kiếm ? Thầy đến đây để ngắm cảnh đấy à ?
- Con còn bé, chưa hiểu, nhưng ta cũng nói để con rõ, sau này biết đâu con chẳng còn được gần ta nữa. Mang kiếm không phải để bon chen, tìm miếng đỉnh chung. Kẻ nào chỉ biết ban ngày ăn cho nó, tối ngủ cho yên, ỷ có võ khí hăm dọa người khác, kẻ đó chỉ là phường cường khấu. Muốn theo kiếm đạo, con phải quyết tâm giữ cho lòng trong sạch, nghiêm khắc với chính mình, quan sát và luôn học hỏi để thăng tiến, đồng thời nắm vững kỹ thuật khi giao đấu. Cho nên con cần đi nhiều hiểu rộng để biết suy xét mọi người mọi việc chung quanh, tìm hiểu các căn nguyên của sự việc trước khi dùng kiếm.
Lưỡi kiếm của con sẽ là lưỡi kiếm để bảo vệ lẽ phải ...
Nói đến đây Musashi khựng lại. Trong cơn cao hứng, hắn đã đi quá xa, nói những điều chắc thằng bé không thể hiểu được, nhưng hắn không hối hận. Trong lúc nói, hắn đã thật lòng giải tỏ cả tâm can, phơi bày những ước mong, chí hướng của mình.
Jotaro lắng nghe sư phụ, hỏi nhiều câu ngây ngô, Musashi vẫn nhẫn nại giải đáp bằng tất cả tấm lòng thành, chỗ nào không biết thì bảo là không biết, tuyệt nhiên chẳng hề giấu diếm.
Hết cả ngày hôm ấy, hai thầy trò thơ thẩn rong chơi, vừa đi vừa trò chuyện, đến khi mặt trời xế bóng mới trở lại quán.
Kocha, một nữ tỳ trạc mười ba, mười bốn tuổi, thấy khách về đon đả chạy ra đón:
- Khách quan vãn cảnh có được đẹp ý không ?
- Cảnh trí làng này thật đẹp, ta rất ưa.
- Em đã sắp sẵn nước nóng, để mời khách quan vào tắm.
Musashi theo Kocha qua hàng hiên đến trước phòng tắm công cộng. Trên ghế dài có vài bộ quần áo gấp sẵn, hắn độ chừng trong phòng có người, bèn cởi bỏ áo ngoài để lên ghế rồi mở cửa bước vào.
Hơi nước nóng cùng với tiếng cười nói theo cửa mở tỏa ra phà vào mặt. Thấy khách lạ, ba người đàn ông đang tắm chung trong bồn gỗ vội quay mặt nhìn ra, bỏ dở chuyện đang nói.
Musashi kín đáo đi đến góc phòng, bước vào bồn tắm. Vóc dáng to lớn của hắn làm trào cả nước ra sàn gỗ. Những người kia đưa mắt nhìn nhau, nhưng Musashi không để ý, dựa lưng vào thành bồn khoan khoái thở phào nhẹ nhõm và nhắm mắt lại, làm như chỉ chú tâm tận hưởng lạc thú của làn nước ấm ôm ấp quanh mình.
Sau một lúc yên lặng, tiếng nói chuyện lại rì rầm nổi lên, nhỏ hơn, nhưng cũng đủ để Musashi nghe rõ:
- Quản gia nhà Yagyu tên là gì nhỉ ?
- Hình như là Shoda.
- Muneyoshi lão gia phái hắn đến khước từ không tiếp chúng ta, chắc có điều gì e ngại.
- Biết đâu lão chỉ có hư danh, thực tài thì chưa chắc ...
- Có thể lắm. Nghe Shoda nói bây giờ lão quy ẩn, chẳng biết hư thực ra sao !
- Yoshioka cho người đến lãnh giáo kiếm thuật mà lão làm như thế thì mười phần chắc bảy là sợ.
- Nhưng phái người đến tặng quà và đưa thiếp thì cũng tế nhị đấy chứ !
Đang lim dim, nghe nói đến Yoshioka, Musashi lắng tai chú ý, mở hé mắt ra nhìn. Khi còn ở Kyoto, hắn được biết tay kiếm đệ nhất của Yoshioka phái là Yoshioka Denshichiro, tính ưa du ngoạn, không mấy khi ở nhà. Giờ đây, bốn tay này tự xưng là Yoshioka, chắc hẳn là Denshichiro và đàn em chứ không sai. Nhưng trong ba người, không biết ai là Denshichiro ? Musashi nghĩ thầm:
“Mình thật chẳng may mắn, mấy lần tắm đều gặp bất trắc. Lần trước bà già Honiden đã lừa mình vào tròng, suýt nữa thì khốn đốn với quan quân, bây giờ lại bọn này. Nếu Denshichiro biết mình là Miyamoto Musashi ở Miyamoto thì ngu gì mà chúng không ra lấy gươm vào tấn công mình trong nháy mắt !”.
Nhưng cả ba người kia hình như không có ý nghi ngờ gì cả. Họ vẫn tiếp tục chuyện vãn. Qua những mẩu đối thoại nghe lỏm được, Musashi đã hiểu trước kia khi Yoshioka Kempo còn sinh tiền, Yagyu Muneyoshi nhiều lần có giao thiệp với Yoshioka nên nay vì tình cố cựu, cho gia nhân mang quà và thư đến phúc đáp. Musashi tự nhủ:
“Bọn này như ếch ngồi đáy giếng, tầm mắt thiển cận, nhìn trời trên đầu không to hơn cái vung úp. Trong những năm gần đây, thực lực nhà Yagyu ra sao ai cũng biết.
Yagyu Muneyoshi tuy ở ẩn nhưng bao nhiêu tinh hoa của nền kiếm học và những kinh nghiệm ông thu thập được khi còn ngang dọc giang hồ đều đã truyền lại cho hai con trai lớn và người cháu. nhà Yagyu lại là nơi hiểm trở, lương thảo tích trữ đầy đủ. Thế mà bọn này chẳng biết gì, có mắt không biết nhìn, có tai không biết nghe, thật đáng thương hại”.
Musashi bước ra khỏi bồn tắm, vào phòng kế, tháo khăn quấn tóc, bốc một nắm đất sét để sẵn ở đó xoa lên đầu. Hắn kỳ cọ một lúc rồi gội sạch. Đã lâu lắm, Musashi mới gội đầu theo lối cổ truyền như thế và nghĩ đến những lúc đi tắm sông hồi còn nhỏ. Hắn nhớ đến làng cũ, khẽ thở dài.
Ba người kia cũng vừa tắm xong, trắng nhễ nhại từ bồn bước ra, cười nói oang oang không coi ai ra gì cả.
- Chà ! Khỏe quá.
- Dễ chịu hẳn ra. Nơi sơn cước mà có được quán như thế này, khá đấy chứ ! Ta gọi chủ quán bảo mang sa-kê và các em vào phòng hầu rượu, bằng hữu nghĩ thế nào ?
- Tuyệt ! Ý kiến hay tuyệt !
- Vậy còn chờ gì nữa ?
Cả ba khoác vội áo ngoài đi ra hiên. Tiếng họ cười ha hả còn vọng đến tai Musashi đang lau mình trong phòng kế.

Acmagiro
14-02-2008, 03:09 PM
oo Yagyu Muneyoshi ngồi trên chiếu, trước bộ kỷ trà thấp, tóc bạc phơ rủ xuống hai vai, phong thái siêu thoát như cánh hạc vẽ trên bức cổ họa trên vách. Ông trạc ngoài bát tuần, người mảnh khảnh, nước da hồng hào, đôi mắt sáng quắc chứng tỏ sức khỏe còn rất dồi dào. Yagyu Muneyoshi vẫn thường nói với gia nhân:
“Trong mình ta không có dấu hiệu gì suy yếu, chắc phải thọ đến trăm tuổi”. Lời tiên đoán chẳng làm ai ngạc nhiên, trông ông vẫn quắc thước và minh mẫn, vả lại chuyện thọ yểu một phần hình như cũng do gia truyền:
Tổ tiên nhà Yagyu, trừ những người tương đối chết trẻ vì xông pha chiến trận, hầu hết đều vượt mức bát tuần cả.
Riêng phần Yagyu Muneyoshi, ông sống rất tiết độ. Năm gần sáu mươi, vì lý do riêng, ông từ bỏ không tham dự vào những chuyện giang hồ thị phi, mặc dầu hai đại danh đương thời là Tokugawa và Toyotomi hết lòng chèo kéo. Ông đã có chủ ý:
Trong cảnh tương tàn phe phái thời bấy giờ, ông thấy cách khôn khéo nhất là đứng ngoài mọi sự tranh chấp.
Quyết định của Yagyu Muneyoshi quả sáng suốt, nhờ vậy Trúc Lâm cốc và nhà Yagyu không những đã tránh được nạn binh đao mà còn phát triển mạnh hơn nhiều địa phương khác. Ông có quyết định ấy, một phần vì đã thấu hiểu thời cuộc bấy giờ, nhưng một phần cũng nhờ ở sức mạnh tinh thần và căn bản đạo đức của mình. Ông không chạy theo vinh hoa phú quý như phần đông các kiếm sĩ khác, chỉ vì món lợi nhỏ nhiều khi quên cả liêm sỉ.
Sư phụ Yagyu Muneyoshi là Kamiizumi Hidetsuna, một lãnh chúa và cũng là một danh gia kiếm sĩ, trên dường bôn tẩu giang hồ, một hôm ghé ngang nhà Yagyu, khi Yagyu Muneyoshi còn là một thanh niên nhiều nhiệt huyết và tham vọng. Hidetsuna ba lần tỷ kiếm với Yagyu Muneyoshi, ba lần đều thắng, sau đó mến tài Yagyu, thu nhận làm đồ đệ.
Hidetsuna lưu lại nhà Yagyu một thời gian khá lâu, chỉ điểm cho Yagyu Muneyoshi về kiếm pháp. Trước khi lên đường, ông bảo đồ đệ:
“Đường ta còn dài, mà cõi nhân sinh thì hạn hẹp, không biết ta có đủ thì giờ theo đuổi đến cùng không ! Con còn trẻ, tư chất thông minh, hẳn có cơ duyên, mong con hiểu và nối chí ta”. Ông trao cho Yagyu Muneyoshi một pho sách, nhan đề Vô kiếm kiếm phổ và ra đi biệt tích. Từ đó không ai nghe nói đến Hidetsuna nữa.
Vô kiếm kiếm phổ gồm ba phần, một phần luận về đạo của người kiếm sĩ, một phần về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, phần còn lại mới luận về kiếm thuật chính thức. Yagyu Muneyoshi ngày đêm nghiền ngẫm pho sách, sau ba năm suy tư và khổ luyện vẫn không tìm ra chân lý. Về sau, nhân một buổi ngồi thiền, Yagyu Muneyoshi đột nhiên giác ngộ, thấu hiểu lẽ tương dung của trời đất, đem suy diễn ra thấy lẽ đó bàng bạc khắp trong sách. Bấy giờ đọc lại, không còn thấy chỗ nào tối nghĩa nữa, bèn đem áp dụng vào kiếm thuật thì thấy những thế kiếm tự nhiên hơn, nhẹ nhàng và linh động vô cùng, đem dùng làm căn bản cho thái độ của mình đối với thiên nhiên và vạn vật thì thấy dễ dàng hòa đồng với mọi người, tránh được bao nhiêu là hệ lụy.
Từ đó, ông quý trọng bộ kiếm phổ như một bảo vật không gì thay thế được, lúc nào cũng để gần chỗ ngồi. Những lời luận trong sách giúp ông khắc phục được bao nhiêu khó khăn về tinh thần, những khó khăn trước kia ông tưởng không bao giờ qua nổi.
Những đồ hình vẽ trong kiếm phổ lại đầy đủ và chính xác đến độ nhiều khi ông không tin công phu ấy đã được thực hiện bởi một cá nhân trong thời gian một kiếp. Ông nhớ ngày ra đi của sư phụ Hidetsuna, không năm nào không thành kính đốt hương tưởng niệm.
Vì bản tính ưa bình dị và khoáng đạt, Yagyu Muneyoshi không thích ở trong Đại lâu.
Ông chọn gian nhà cỏ xuềnh xoàng bên rừng trúc để cư ngụ, có suối nước trong thuận tiện cho ông pha trà hàng ngày và lấy biệt hiệu là Sekishusai. Mặc dầu ưa cuộc sống đạm bạc, nhưng từ khi có Otsu đến ở, gian nhà cỏ của ông cũng đỡ phần cô tịch. Trong tuần trà sớm, tiếng sáo của nàng thêm đầm ấm, và buổi chiều, dáng nàng đi yểu điệu trong bộ y phục màu nhạt tha thướt như điểm một nét tươi vui giữa màn sương mù xanh xám bắt đầu tỏa xuống bao phủ căn thảo thất.
Sau khi cắm xong nhành mẫu đơn độc nhất vào chiếc bình sứ men gạo nếp sản xuất tại Iga, Yagyu Muneyoshi quay sang hỏi Otsu:
- Sao ? Chị thấy được không ?
- Tiền bối quả thấu triệt nghệ thuật cắm hoa. Chắc tiền bối đã theo học kỹ thuật này từ khi còn trẻ ?
Yagyu Muneyoshi cười:
- Chị lầm rồi ! Lão phu không phải xuất thân từ một gia đình quý tộc, trong thời niên thiếu lại không có thì giờ học cách cắm hoa hay trà đạo.
- Thế mà trái lại, trông cách xếp đặt, ai bảo tiền bối không biết cắm hoa !
- Thế ư ! Lão phu đã cắm hoa như dùng kiếm vậy mà !
Otsu ngạc nhiên:
- Tiền bối nói thế là thế nào ?
- Lưỡi kiếm trong tay phải sinh động, nắm chặt quá tất không sử dụng uyển chuyển được theo ý muốn, lơi quá nó bay đi mất. Cành hoa cũng thế, khi ngắt khỏi thân, chớ làm cho hoa chết. Bất cứ ở vị thế nào, hoa cũng phải sống động, hòa hợp với ngoại cảnh, thể hiện cảm xúc của mình. Chị thấy bông mẫu đơn này có sống động không ?
Otsu khẽ gật đầu mỉm cười. Sau mấy tháng cư ngụ tại nhà Yagyu, nàng đã học được rất nhiều ở Yagyu Muneyoshi và nhận thấy vị đại kiếm sĩ này tuy sống khắc khổ nhưng có một nhân sinh quan rất phóng dật. Ông dạy nàng làm thơ Đường tuy ông thích thơ Haiku hơn vì loại thơ này nhẹ nhàng, không gò bó, gần với thiên nhiên. Ông dạy nàng những nghi lễ phiền toái của trà đạo nhưng trong những buổi hầu trà, nàng hiểu rõ hơn ai hết, ông không bao giờ câu nệ những nghi lễ ấy.
Cũng vì thế mà Otsu thoải mái ở cạnh Muneyoshi, tiếng sáo của nàng tự do hơn, khi tha thiết, khi vui tươi, khi thương nhớ, nàng mặc cho lòng mình phát hiện qua âm thanh, đôi lúc mê mãi quên cả ngoại cảnh làm Muneyoshi phải ngạc nhiên. Nàng đem tài khéo ra đan cho Muneyoshi một chiếc mũ lông cừu như mũ của những người ưa uống trà thường đội làm ông rất thích thú.
Một già một trẻ ý hợp tâm đầu, nhiều khi Otsu quên cả những việc xảy ra bên ngoài thung lũng. Ngoài những lúc để lòng quay về dĩ vãng hoặc bâng khuâng tưởng nhớ mối tình vô vọng, nàng thấy nơi đây quả là thiên đường, chỗ để nàng dung thân, yên tâm cả về tinh thần lẫn thể chất.
Có tiếng người gọi ở cổng ngoài. Otsu vội vàng chạy ra. Shoda Kizaemon đã đứng đó tươi cười thăm hỏi và nhờ nàng vào trình với Yagyu cư sĩ xin cho được tiếp kiến. Otsu vui vẻ:
- Đại huynh thật ngược đời ! Không thấy sao ?
- Chuyện gì mà ngược đời ?
- Trong nhà này, đại huynh là cánh tay phải của lão nhân gia, ra vào lúc nào mà chẳng được. Còn tiểu nữ chỉ là kẻ hầu thổi sáo, đại huynh nhờ vậy chẳng hóa ra ngược đời lắm ư ?
Shoda mỉm cười gật đầu:
- Cô nương nói phải, nhưng địa vị cô nương trong nhà này rất đặc biệt. Dù sao cũng cứ xin vào thưa trước với lão chủ cho, nói Shoda này muốn được đến trình về việc gặp gỡ với đại diện Yoshioka.
Otsu lui gót. Shoda một mình đứng chờ bên cổng trúc, rất mãn ý vì đã tiến dẫn Otsu. Con người mới xinh đẹp và khiêm cung làm sao ! Tài ấy, đức ấy, chắc Muneyoshi gia không thể không hài lòng được.
Otsu ra mời Shoda vào. Yagyu Muneyoshi lên tiếng hỏi ngay, giọng sang sảng:
- Shoda đấy ư, sao về sớm thế ?
- Thừa lệnh lão tiền bối, vãn bối đã tới gặp họ, đưa thiếp và quà tặng.
- Thế họ đi cả rồi à ?
- Thưa chưa ! Họ có thư trình lên muốn xin được tham quan võ đường của ta và mong được lão tiền bối chỉ giáo. Họ hiện ở nhà trọ đầu làng chờ ta phúc đáp.
Yagyu Muneyoshi cau mặt:
- Hừ ! Phường vô hạnh ! Ta không muốn tiếp. Thế ngươi có nói rõ cho chúng biết các con ta đều ở Edo, hiện nay trong cốc không còn ai không ?
- Dạ, vãn bối đã nói rõ.
- Thế mà chúng vẫn đòi đến ! Có phải chúng định ép ta chăng ?
Yên lặng một lúc, Yagyu Muneyoshi tiếp:
- Hậu duệ phái Yoshioka xem ra toàn đồ vô dụng !
- Quả vậy ! Khi tiếp xúc, vãn bối thấy không có gì xuất sắc.
- Hừ ! Ta có biết Yoshioka Kempo và trước đây đã uống rượu với ông một đôi lần.
Sinh thời, Kempo là tay kiếm sĩ khôn ngoan, tính tình hào sảng, sao từ khi ông ta chết đi, lũ con chẳng ra gì. Chúng tưởng cứ mang danh Yoshioka phái là qua được cửa nhà ta sao ?
- Qua nhận xét của con, Yoshioka Denshichiro có dáng cao ngạo, coi thường mọi người. Thiết tưởng hay cứ để hắn tới, con sẽ dạy cho hắn một bài học !
Yagyu Muneyoshi không nói gì, ông lặng lẽ nhấp trà, một lúc sau mới lên tiếng:
- Thôi, chẳng nên quan tâm. Lũ thanh niên ỷ vào tiền bạc và danh tiếng ông cha để lại thường không có tài lại hay kiêu. Ngươi đánh chúng thua, sẽ sinh ra thù oán, chúng lại tìm cách phao vu nói xấu, dây dưa tới giới quan lại tại kinh thành, phiền lắm !
- Vậy xin lão tiền bối chỉ bảo.
- Có cách này ta thấy tiện hơn cả. Chúng tự coi là con nhà đại gia thì ta cứ xử với chúng như con nhà đại gia. Ngươi không khéo mồm miệng, cử ngươi đi lần này sợ không được việc.
Quay nhìn Otsu, Muneyoshi tiếp:
- Ta nghĩ đàn bà chắc là khéo léo hơn. Otsu, chị giúp ta việc này được chăng ?
- Tiền bối đã dạy, tiểu nữ đâu dám từ chối. Đi ngay bây giờ sao ?
- Chẳng vội gì ! Cứ thong thả. Ngày mai ta muốn nhờ chị mang giùm cho một lá thư và một nhành mẫu đơn đến xem họ xử trí ra sao.
Sáng hôm sau, Otsu dậy sớm đến quán Wataya. Nàng trùm tấm khăn dài mỏng.
Mặc dầu bấy giờ ở Kyoto, trùm khăn không còn hợp thời trang nữa, nhưng những thiếu nữ trung lưu tại các thị trấn nhỏ vẫn còn giữ cách ăn mặc như vậy mỗi khi có việc phải ra ngoài. Nàng đến chuồng ngựa dắt một con. Người mã phu già đương bận chải lông ngựa, ngưng tay hỏi:
- Chị đi đâu đấy ?
- Lão nhân gia sai tiểu nữ ra đầu làng có chút việc.
- Lão bộc có cần phải đi theo không ?
- Thôi chả cần. Tiểu nữ đi một mình cũng được.
- Chị phải cẩn thận. Con ngựa này hay giở chứng lắm !
Otsu cười:
- Không sao ! Tiểu nữ cưỡi ngựa đã quen. Hồi nhỏ, cưỡi voi còn được mà !
Nàng nhờ người mã phu thắng yên rồi vỗ khẽ vào lưng con vật, nhảy thoắt lên, gọn gàng như một tay kỵ mã lành nghề. Buông cương để ngựa đi bước một, Otsu hít một hơi dài làn không khí trong lành và tươi mát buổi sáng, tấm khăn mỏng che mặt theo gió bay phơ phất. Những nông dân đi làm đồng sớm, thấy nàng, tránh sang một bên, vui vẻ chào hỏi. Lòng kính mến Muneyoshi như lan cả sang Otsu, người thiếu nữ xinh đẹp và nhu hòa họ biết đang được cốc chủ rất mực trọng đãi. Otsu cúi đầu đáp lễ từng người, miệng cười tươi như hoa nở.
Đến trước quán Wataya, Otsu buộc ngựa vào gốc hòe, khoan thai tiến qua cổng. Ả thị tỳ chạy ra đon đả:
- Kìa, chị ở nhà Yagyu! Mời chị quá bộ vào nhà trong, Chị đi đâu sớm thế ?
Rồi không đợi trả lời, ả liến thoắng:
- Em đi lấy điểm tâm. Chị có định ở lại dùng bữa trưa không ?
- Không, cám ơn em. Ta có chút việc cần gặp một khách quan trọng trong quán rồi phải về ngay. Em vào nói với chủ nhân cho ta hỏi câu chuyện.
- Vậy mời chị dùng trà, chờ em một lát.
Hai khách trọ, dáng cao lớn, mặc áo chàm vải thô, đang buộc quai dép và sửa soạn hành tranh ở hiên ngoài, thấy Otsu vội ngẩng lên nhìn. Họ ngạc nhiên không ngờ ở chốn sơn dã hẻo lánh lại có người thanh tú đến thế, đưa mắt nhìn nhau hỏi khẽ:
- Ai đấy nhỉ ?
- Chẳng biết tìm ai ? Hay là tìm chúng ta đấy ?
Người vừa nói câu ấy cho là có duyên lắm, phá lên cười ha hả.
Một lúc sau, chủ quán bước ra, lau tay ướt vào vạt áo. Otsu tỏ ý định muốn gặp Yoshioka Denshichiro đến trọ Ở quán từ mấy bữa trước.
- Các vị đó không biết đã dậy chưa, hôm qua thấy uống rượu khuya lắm. Để tôi vào báo.
Trong phòng, bọn Denshichiro cũng vừa dậy, nghe chủ quán trình tự sự, bèn cho mời khách vào. Cửa lùa vừa mở, bọn họ cùng ồ lên một lượt ngạc nhiên. Ai cũng tưởng khách là vị đại hán tên Shoda ở Yagyu thất trở lại, không ngờ lại là một nữ lang xinh đẹp, tay cầm một phong thư buộc lụa đỏ và một cành mẫu đơn trắng muốt. Vẻ bối rối hiện trên nét mặt, họ luống cuống xếp dọn lại chăn gối, sửa áo buộc tóc, miệng không ngớt xin lỗi:
- Tệ quá ! Tệ quá ! Chủ quán chẳng nói rõ khách là ai nên không kịp chuẩn bị nghênh tiếp, xin giai nhân tha lỗi !
Otsu cười thầm trong bụng. Nàng thấy những lời văn hoa ấy vừa sáo vừa rẻ tiền nhưng cũng áy náy đã làm cho ba ông khách phải bối rối:
- Tiểu nữ thành thật xin lỗi đã làm phiền các vị sớm như thế này, nhưng Muneyoshi nhân gia có sai tiểu nữ đến trình các vị phong thư này và một món quà nhỏ. Xin các vị vui lòng để mắt đến cho, tiểu nữ chờ phúc đáp.
Denshichiro liếc nhìn cuốn thư và bông mẫu đơn để trên kỷ, đưa tay cầm cởi giải lụa đỏ kéo ra đọc. Những hàng chữ nhỏ viết trên giấy hoa tiên màu nước trà nhạt mang một vẻ thanh thoát tựa như những cánh bướm trên thảm cỏ xanh non lúc xuân vừa chớm.
“Thâm tạ quý phái nghĩ tình cố cựu sai người thăm hỏi, nhưng rất tiếc hiện nay lão phu trong mình không được khỏe nên không thể đích thân thù tiếp được. Vả lại lão phu bây giờ không còn quan tâm đến thế sự, vậy có chút quà mọn, một bông hoa trong tệ viên, lão phu cậy tay một bông hoa mang tới, mong quý bằng hữu thu nhận. Dù sao cũng thích thú hơn là ngồi nói chuyện với một ông già bệnh hoạn. Qúy bằng hữu thể tình lượng thứ !”.
Denshichiro nhếch mép không dấu vẻ khinh mạn:
- Có thế thôi ư, cô nương ?
- Lão cốc chủ sai tiểu nữ trình với quý vị là người rất muốn dùng trà với quý vị, ngặt vì trong cốc toàn kẻ võ biền không ai thấu hiểu lề luật trà đạo nên e làm trò cười cho quý vị là những bậc danh gia ở kinh thành tới. Người nhờ tiểu nữ xin quý vị thứ lỗi và hẹn một dịp khác.
Một trong ba gã Yoshioka có vẻ hồ nghi, nói:
- Hừ ! Chúng ta đến đây đâu phải để bàn luận về trà đạo. Chúng ta là kiếm sĩ, có quan tâm gì đến chuyện đó, chỉ muốn đích thân vấn an cốc chủ và xin người chỉ giáo.
Cốc chủ chắc phải biết rõ ý ấy chứ ?
Otsu vẫn mỉm cười, nhỏ nhẹ:
- Lão nhân gia biết lắm, nhưng bây giờ vì người ở ẩn nên đã dùng ngôn ngữ của một kẻ uống trà mà diễn đạt, mong quý vị hiểu cho.
Denshichiro đưa mắt nhìn hai người kia, một lúc sau mới đáp:
- Vậy chẳng nên ép lão làm gì. Chị về nói với cốc chủ là lần sau chúng ta đến, xin đừng từ chối.
Rồi với tay cầm nhành mẫu đơn đưa trả lại Otsu.
- Các vị không ưa mẫu đơn ư ? Mẫu đơn là hoa vương, mà mẫu đơn trắng băng thanh ngọc khiết trên cả các hoa khác, tiểu nữ thật không hiểu ...
Yoshioka Denshichiro cảm thấy như bị xúc phạm. Hắn gằn giọng:
- Cốc chủ tặng hoa cho ta là nghĩa gì ?
Rồi quay sang Otsu:
- Ta thấy khôi hài. Cô nương về nói với cốc chủ, ở Kyoto, chúng ta cũng trồng mẫu đơn, loại này không thiếu

Acmagiro
14-02-2008, 03:10 PM
Otsu cúi đầu, kính cẩn cầm cành hoa lui ra, đáp khe khẽ:
- Các vị đã không vừa ý, tiểu nữ không dám tự tiện ...
Nàng cảm thấy những người ngồi trước mặt như đang bị một vết thương, không khéo buộc, vết thương to ra chẳng ích lợi gì mà chỉ di lụy.
Ra ngoài hành lang, Otsu nghĩ đến chuyện vừa rồi, cười thầm. Nhìn sàn gỗ trơn bóng vì chân người đi lại, nàng thoáng thấy ở phía cuối một căn phòng nhỏ cửa khép kín. Không biết đó là phòng Musashi đương trọ, Otsu đi ngược chiều ra cửa. Kocha từ trong phòng vừa ra, thấy Otsu, vội chạy theo gọi với:
- Chị xong rồi à ?
- Xong rồi ! Ta phải về đây !
- Nhanh nhỉ !
Nhìn bông hoa trên tay Otsu, Kocha khen:
- Ô, bông hoa đẹp quá ! Có phải mẫu đơn không chị ?
- Phải - Em chưa thấy mẫu đơn trắng bao giờ. Bông này kép, lại tươi làm sao !
- Mới hái ngoài vườn đấy, em thích không ?
- Thích !
Otsu đưa bông mẫu đơn cho Kocha:
- Vậy cho em đấy.
Kocha ra định cầm, nhưng lại vội rụt ngay lại:
- Thật không chị ? Cho em thật à ?
- Thật. Otsu cười. Trong vườn ta còn nhiều, em thích ta cho.
- Cảm ơn chị.
Kocha sung sướng ngắm bông hoa rồi đưa lên mũi ngửi:
- Ứ ừ ! Chẳng thơm gì cả !
Nhưng vẫn vui vẻ cầm cành hoa chạy vào bếp khoe với mọi người.
Trong bếp bận rộn, chẳng ai lưu ý đến hoa. Thất vọng, Kocha trở lại phòng ông khách trọ. Musashi ngồi một mình đăm chiêu suy nghĩ. Tên học trò nhỏ của hắn bỏ ra vườn chơi từ sớm. Hắn băn khoăn chưa tìm ra cách gì để vào được nhà Yagyu thất yết kiến Muneyoshi và sau đó thỉnh giáo vài thế kiếm. Kocha bước vào phòng, hắn cũng không để ý, mãi đến khi nghe hỏi mới ngẩng đầu lên nhìn.
- Khách quan có thích hoa không ?
- Hoa à ? Hoa gì thế ?
- Mẫu đơn, mẫu đơn trắng ! Đẹp mà tươi lắm !
Hắn nhìn bông hoa trên tay Kocha rồi hất hàm bảo:
- Ừ, đẹp đấy. Em cắm vào lọ đằng kia đi !
- Khách quan cắm lấy, tiện nữ không biết cắm hoa, sợ xấu !
- Vẽ ! Ta cũng có biết cắm đâu ! Cứ để tự nhiên vào lọ là được.
- Vậy để hoa đây, tiện nữ đi lấy nước.
Musashi lơ đãng nhìn bông mẫu đơn đặt trên kỷ. Đột nhiên, không biết có cái gì khích động sự chú ý của hắn, Musashi với tay cầm bông hoa đưa lên ngắm nghía.
Bông hoa đẹp thật, nõn nà như tuyết, cánh mỏng và trong tựa những cánh bướm rung rung trong ánh nắng ban mai. Không một tỳ vết. Nhụy hoa mới hé như còn e ấp sau những cánh nhỏ bên trong màu vàng nhạt. Hắn xoay đóa hoa trên tay, nghiêng đầu nhìn kỹ nhưng vẫn không hiểu tại sao bông hoa này lại gây cho hắn một cảm giác kỳ lạ như thế !
Kocha mang nước vào, đỡ nhành hoa trong tay Musashi cắm vào lọ. Kocha loay hoay mãi vẫn không sao giữ cho hoa được tự nhiên.
- Cuống dài quá, để ta cắt bớt.
Hoa vừa rút ra khỏi lọ, xoẹt một cái, cuống hoa đã bị cắt đứt một đoạn chừng nửa tấc. Musashi tra đoản kiếm vào vỏ. Rút kiếm, cắt hoa, tra kiếm vào bao, thời gian chỉ trong nháy mắt. Kocha đứng sững, há hốc mồm không kịp kêu thành tiếng. Khi mọi việc đã xong, Kocha mới thấy sợ:
- Khách quan làm gì thế ?
Musashi không đáp, cầm cành hoa trong tay Kocha, xem xét. Bây giờ hắn đã hiểu:
vết cắt của hắn trên cuống hoa và vết cắt trước trông khác nhau thấy rõ.
- Khách quan làm em hết hồn ! Sao không bảo em lấy dao ?
- Ta xin lỗi. Em hái bông mẫu đơn này ở đâu ?
- Người ta cho em.
- Ai cho ?
- Một người thuộc nhà Yagyu.
- Một kiếm sĩ phải không ?
- Không ! Một cô còn trẻ lắm, người hầu của Muneyoshi cốc chủ.
- Hừ ! Vậy người hái hoa này chắc ở trong Đại lâu.
- Em không biết.
- Thôi, hoa cắt vừa khéo rồi đó, em cắm vào lọ đi !
Kocha ra khỏi phòng, Musashi ngắm mãi bông hoa. Hắn rút hoa, so sánh hai vết cắt ở cuống, ngồi thừ người ra suy nghĩ. Hắn chắc đóa hoa này đã được ngắt không phải bằng dao mà bằng kiếm. Mẫu đơn thân thảo, cuống nó mềm và dai, phi một tay kiếm tuyệt luân dùng một lưỡi kiếm cực mỏng chém thì không thể nào có được vết cắt ngọt và gọn như thế ! Bất kỳ ai cắt bông hoa này cũng không phải là người tầm thường. Cầm nhánh hoa trên tay, hắn rút kiếm đánh soạt. Kiếm quang vừa tắt, một đoạn cuống hoa lại rơi xuống. So sánh vết cắt mới với vết cắt trước thấy vẫn còn thua xa, như những nét khắc trên pho tượng Phật của một nghệ sỹ tài ba và điêu luyện bên nét chạm thô lậu của một pho tượng bán ở chợ.
“Nếu một người giữ vườn nhà Yagyu mà còn làm được như thế này thì quả thật Yagyu kiếm danh bất hư truyền, ta không bì kịp”. Tự nhiên hắn không còn tự tin nữa.
“Vô ích ! Mình chưa sẵn sàng !”. Nhưng tuổi thanh niên và lòng quyết thắng của hắn lại như một làn gió mạnh đánh tan mọi ý tưởng chán nản. Musashi hy vọng và tự nhủ:
“Nếu không thắng được, ta có thể bỏ mạng ở đây, nhưng biết đâu ! Ừ biết đâu ta sẽ học hỏi được nhiều điều chưa ai dạy ta nổi !”.
Nhìn bông mẫu đơn trắng cắm đơn độc trên bàn, Musashi mường tượng đến bộ mặt một người. Vẻ thanh tao tươi mát của bông hoa gợi cho hắn một niềm thoải mái nhưng cũng mang theo nỗi bâng khuâng tiếc nhơ vu vơ.
oo Trên đường trở lại thảo thất, Otsu ngồi trên lưng ngựa, khe khẽ hát một khúc dân nhạc. Nàng còn trẻ, trong khung cảnh hiền hòa như cảnh nhà Yagyu ngày hôm ấy, bản tính hồn nhiên của Otsu dễ dàng bộc lộ. Nàng đong đưa theo bước chân ngựa trên đường đồi, vó ngựa đều đều đệm nhịp cho giọng hát. Gần tới nhà, đột nhiên tiếng động bên bờ suối làm Otsu giật mình. Một đứa trẻ từ bụi rậm sau ghềnh đá nhảy ra chạy theo ngựa. Nàng hơi ngạc nhiên vì trẻ con trong làng thường nhút nhát, ít có đứa dám đến gần phụ nữ. Nàng dừng ngựa quay lại nhìn.
Jotaro trần như nhộng, tóc ướt sũng nước, hai tay ôm bọc áo trước bụng, toét miệng cười. Nó thản nhiên như không để ý gì đến sự trần truồng của mình, kêu lớn:
- Đúng rồi ! Cô là chị thổi sáo ! Chị ở đây đấy hả ?
Otsu nhìn Jotaro, ngượng ngùng quay đi chỗ khác, nói:
- Phải. Em là cậu nhỏ ta gặp đứng khóc ở ven đường Yamoto chứ gì !
- Khóc đâu ? Em đâu có khóc !
- Ờ thôi, thì không khóc. Em đến đây từ bao giờ ?
- Từ hôm kia.
- Một mình hả ?
- Không, với sư phụ.
- A, ta nhớ ra rồi. Em nói đi học kiếm. Thế em làm gì ở đây mà quần áo không mặc vậy ?
- Chị muốn em mặc cả quần áo nhảy xuống suối sao ?
- Trời ơi, mùa này nước còn lạnh lắm, ai lại đi bơi bao giờ !
- Em không bơi, em tắm. Sư phụ bảo hôi quá nên em đi tắm đấy chứ !
Otsu bật cười. Thằng bé vẫn chất phác và lém lỉnh như độ nào.
- Thế em ở đâu ?
- Ở quán Wataya.
- Ô, ta cũng vừa ở đấy ra.
- Tiếc quá ! Thế mà chị chẳng đến thăm sư phụ em. Hay bây giờ chị trở lại đấy đi !
- Không được, ta phải về có việc.
- Vậy thôi, em cũng đi đây.
- Này em, khi nào rảnh vào cốc chơi nhé !
Nhưng nói xong Otsu lại hối. Nàng chưa biết rõ gốc gác Jotaro ra sao và sư phụ nó là ai ...
- Nhưng nhớ phải mặc quần áo tề chỉnh đấy !
- Vậy em không đến đâu ! Em ghét tới những nơi kiểu cách lắm.
Jotaro bỏ đi rồi, Otsu cho ngựa thong dong bước một về thảo thất. Qua cổng chính, nàng dẫn ngựa vào chuồng trao cho mã phu rồi đến ngay Yagyu thất trình bày tự sự.
Muneyoshi cười đáp:
- Ta biết chuyện đó tất phải xảy ra. Tính họ như vậy, chẳng phải lỗi ở họ. Còn bông mẫu đơn, chị vất đi rồi chăng ?
- Tiểu nữ thấy có người trong quán thích nên đã cho họ.
- Cũng được, chẳng sao. Yoshioka Denshichiro có xem kỹ bông mẫu đơn không ?
- Dạ có. Khi Denshichiro đọc thư, cầm bông mẫu đơn ngắm rồi trả lại, ông ta có vẻ giận, không hiểu vì sao tiền bối lại tặng hoa và nói tại Kyoto nhà ông có trồng rất nhiều loại hoa ấy.
- Hắn không xem vết cắt ở cuống hoa sao ?
- Dạ, không thấy xem, mà cũng không đả động gì đến chuyện ấy.
Muneyoshi nghiêm mặt:
- Ta không cho bọn hắn gặp là phải. Chúng không đáng để ta tiếp. nhà Yagyu từ nay không muốn liên quan gì với nhà Yoshioka nữa.
oo Võ đường Yagyu nằm ở phía tả Đại lâu, cách đại sảnh một cái sân rộng. Võ đường thật đồ sộ, do chính tay Yagyu Muneyoshi vẽ kiểu và đôn đốc xây cất khi ông còn trẻ, lúc khoảng tứ tuần. Bây giờ, sàn gỗ đã lên nước bóng lộn và những cây cột lớn gỗ sồi đã đổi thành nâu sẫm, vân đen nổi lên như gụ. Sau võ đường là hai dãy phòng lớn nhỏ nối với nhau ở hai mặt đông và tây. Khi hữu sự, những phòng này và cả võ đường có thể dùng làm nơi tạm trú cho tráng đinh họp lại bảo vệ cốc.
Shoda Kizaemon ngồi ở một phòng lớn sau võ đường, chú ý giám sát hai võ sinh đang tập luyện. Võ khí họ dùng không phải là thứ côn gỗ như thường thấy, nhưng là một loại kiếm đặc biệt dài chừng sải tay, làm bằng nhiều thanh tre ghép lại và quấn da xung quanh. Kiếm không có lá chắn cũng không có chuôi, trông tựa như cây gậy lúc thường thì cứng nhưng đụng vào vật gì lại mềm. Tuy không nguy hiểm bằng kiếm gỗ, nhưng chém trúng có thể gây thương tích trầm trọng.
Shoda chăm chú lược trận, thỉnh thoảng ghi điểm vào một cuốn sổ nhỏ đặt trên đùi hay nói vài câu khuyến khích hoặc chỉ dẫn.
- Nhẹ thôi ! Đừng chú mục vào mũi kiếm, giữ tâm cho ngay, tấn công bằng lòng mình chứ không phải chỉ bằng kiếm !
Hai võ sinh hăng say quần thảo, mồ hôi ướt đầm cả lưng áo. Bên trong mặt nạ, bốn mắt quắc lên như đổ lửa. Tiếng hét xung trận, tiếng kiếm tre đập vào nhau chan chát cả võ sảnh.
Bỗng Shoda giơ tay làm hiệu:
- Ngưng !
Rồi nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy người lính tuần dẫn một đứa nhỏ vào, hắn cất cao giọng:
- Tuần vệ ! Đi đâu thế ?
Trông đứa nhỏ hơi quen, mới ngờ ngợ thằng bé đã nhanh nhảu:
- Kính chào đại hiệp, cháu là Jotaro.
Shoda sực nhớ ra, gật gù thấy thằng bé đã học được bài học trên đường Yamoto tháng trước. Hắn hỏi:
- Ngươi vào đây làm gì ?
- Cháu đã xin phép ông này.
Jotaro vừa nói vừa chỉ người lính.
Shoda quay sang tên túc vệ:
- Ngươi dẫn thằng bé này vào đây làm gì ?
- Thưa quản gia, nó muốn xin gặp đại nhân.
- Xin gặp ta ? Ai muốn gặp ta, ngươi cũng dẫn vào hay sao ? Này bé con !
- Dạ.
- Đây không phải là chỗ chơi, đi nơi khác.
- Cháu có đến chơi đâu, cháu mang thư của sư phụ mà.
- Sư phụ ngươi là giang hồ lạc thảo đang tìm thầy học đạo như ngươi nói trước đây phải không ?
Nghe lời khinh miệt, Jotaro có ý giận. Nó đáp:
- Thì đại hiệp cứ đọc thư khắc biết.
- Ta không đọc.
- Sao vậy ? Đại hiệp không biết chữ à ? Chỉ có không biết chữ mới không đọc được thư.
- Thằng bé này lắm miệng quá ! Ta không đọc không phải vì không biết chữ mà vì thấy vô ích.
- Đại hiệp cho là vô ích thì đừng trả lời. Nhưng ít nhất người có lễ độ cũng phải đọc thư người khác gửi cho mình chứ.
- Thời nay bọn lạc thảo nhiều như ruồi, nếu ta phải giữ lễ với tất cả bọn đó thì thời giờ đâu ta làm việc khác ! Ta không cần đọc thư cũng thừa biết trong đó nói cái gì, đại khái thầy ngươi ca tụng nhà Yagyu là kiếm sĩ siêu phàm, muốn tiếp kiến để mở rộng tầm mắt hoặc xin tá túc ít lâu chứ gì ! Có đúng thế không ?
Jotaro đỏ mặt:
- Cháu không biết.
- Theo tục lệ Ở đây, ai đến nhà Yagyu xin việc gì cũng đều được đãi ngộ tử tế.
Ngươi đi theo người lính này xuống nhà ngang, đưa thư cho ông đội trưởng. Ông sẽ tìm một chỗ cho thầy trò ngươi ở tạm và khi nào đi sẽ giúp thầy ngươi một số tiền nhỏ làm lộ phí.
Jotaro lắc đầu. Mặt nó trở nên nghiêm nghị:
- Đại hiệp đừng trông bề ngoài mà xét người. Cháu không phải ăn mày mà sư phụ cháu chắc cũng không xin xỏ gì đại hiệp.
Shoda hơi bẽ, hắn nhìn Jotaro, tuy tức nhưng thấy thằng bé có hào khí cũng nể.
- Vậy sao ? Ngươi muốn gì ?
- Cháu chỉ xin đại hiệp đọc thư. Sư phụ cháu không như những người khác. Mà đại hiệp đọc thư thì có ai cắt cổ đại hiệp đâu !
Shoda bật cười. Ừ, thằng bé nói có lý. Qua hàm râu quai nón rậm, tiếng cười của hắn vang vang làm mọi người trong phòng cũng cười theo. Hắn giơ tay:
- Đưa đây. Ngươi thật là đứa bất trị.
Jotaro cầm cuốn thư đưa cho Shoda. Hắn cởi dây, bật niêm, yên lặng ngồi đọc.
Mặt hắn dần trở nên nghiêm trang. Khi đọc xong, Shoda ngẩng lên hỏi Jotaro:
- Ngươi có mang theo cái gì cùng với thư này không ?
- Ấy quên, có. Còn cái này nữa.
Và Jotaro lật đật lấy trong tay áo kimono ra một đoạn cuống hoa đưa cho Shoda.
Shoda ngồi đăm chiêu nhìn lá thư rồi lại nhìn đoạn cuống hoa. Hắn gãi râu không hiểu ý của người viết:
“Tại hạ không biết ai đã cắt nhành mẫu đơn này. Có một cái gì kỳ lạ làm tại hạ vô cùng ngưỡng phục toát ra từ vết cắt, thúc đẩy tại hạ tìm hiểu bậc cao nhân nào đã ra tay tinh mật đến thế. Chuyện không có gì, nhưng nếu các hạ không cho đó là phiền, xin cho biết danh tính của bậc cao nhân ấy, tại hạ hết lòng đa tạ”.
Thư không đả động gì đến chuyện xin tá túc hoặc muốn vào nhập môn nhà Yagyu hay đòi tỷ kiếm với bất cứ ai trong cốc.
- Hừ, lạ thật !
Shoda lại cầm đoạn cuống hoa lên ngắm nghía thật kỹ, vẫn không phân biệt được sự khác nha giữa hai vết cắt.
- Murata ! Hắn gọi. Vào đây xem cái này. Lạ lắm !
Murata Yozo vào. Shoda đưa cho xem lá thư và cuống hoa, nhưng Murata cũng không phân biệt được.
- Theo trong thư thì vết cắt hai đầu có khác. Tiểu đệ không nhận ra. Thử hỏi Kimura xem !
Hai người bèn mang thư và cuống hoa lên văn phòng Kimura. Kimura Sukekuro cũng là tay kiếm sĩ tinh thục, nhiều kinh nghiệm bôn tẩu giang hồ, hiện giúp việc quản trị sổ sách và chi thu trong nhà Yagyu. Shoda và Murata đem thư đến thì Kimura cũng vừa định xuống võ sảnh.
Nghe chuyện, xem thư và cuống hoa, Kimura tỏ ra băn khoăn chẳng kém gì hai bạn đồng bối. Nhưng hắn nói:
- Hôm qua, đệ có thấy lão nhân gia cắm bông mẫu đơn trắng trong phòng rồi sai Otsu mang một bông hoa y như thế ra quán Wataya. Chắc chỉ có lão nhân gia cắt hoa chứ không ai ! Bấy giờ hình như có Shoda huynh ở đó mà !
- Có, đệ có thấy nhưng không rõ có phải lão nhân gia cắt không !
Đột nhiên Shoda giật mình, lấy tay đập vào bức thư:
- Á ! Chúng ta có mắt mà như không ! Thật vô ý quá ! Tên người viết rành rành ra đây. Shinmen Miyamoto Musashi. Có phải Musashi, người đã giúp đền Hozoin trừ sạch bọn gian ác ở đồng cỏ Hannya không ?
Ba người truyền tay nhau lá thư đọc lại.
- Ừ, có thể lắm !
- Có thể lắm !
- Xem thư biết khẩu khí. Nếu quả vậy thì hắn có con mắt tinh đời hơn chúng ta, trông vết cắt trên cuống hoa biết công phu nhà Yagyu. Đồng thanh tương ứng, tay này đáo để lắm, không coi thường được.
Kimura bàn:
- Nếu đúng là Miyamoto Musashi thì ta nên gặp. Để xem tài hắn đến đâu và hỏi cho ra cái lẽ ở đồng cỏ Hannya.
Shoda vội nói:
- Nhưng lão nhân gia đã có lệnh không tiếp ai. Ta không thể để hắn vào võ đường mà không trình lão nhân gia biết được.
- Hay là thế này. Bây giờ là mùa hoa tử thảo mà đỗ quyên cũng sắp đâm bông. Ta tổ chức một bữa tiệc nhỏ, uống rượu ngắm hoa để lấy cớ mời hắn đến. Hắn thì chắc không từ chối rồi, mà lão nhân gia có biết chắc cũng chẳng quở, vì là chuyện riêng mà !
- Hay lắm ! Ý kiến ấy hay lắm ! Nhân thể có thằng nhỏ đợi, ta thảo thư phúc đáp ngay đi.
oo Jotaro chờ trong phòng, không biết nói chuyện với ai, buồn quá bỏ ra hiên đứng nghênh trời nghênh đất. Vườn sau rộng thênh thang, cây rậm rạp rất hợp với ý nó. Jotaro len lén ra vườn, đi quanh quẩn. Một con chó đen lớn trông thấy Jotaro, ve vẩy đuôi. Nó dừng lại, để hai tay ra sau gáy, gọi. Chó và người nhìn nhau một lúc rồi con vật đến gần ngửi áo và tay chân Jotaro. Jotaro vuốt đầu con chó. Cả hai làm quen với nhau được một lúc thì thân mật rõ ràng. Thằng bé ôm cổ con chó và con chó thè lưỡi liếm mặt thằng bé.
Trong khi chơi đùa, Jotaro bỗng nảy ý nghĩ muốn giữ mõm con chó lại xem nó có cắn được không, bèn đưa hai tay ghì chặt lấy mõm chó, miệng nói:
- Nào, xem mày làm sao nào !
Con vật kêu ư ử, vẫy đầu lia lịa cố gỡ ra. Jotaro càng giữ chặt. Nó lấy chân quào Jotaro làm rách một miếng áo. Jotaro vội bỏ tay, chó thoát được sủa ầm ĩ. Sợ mọi người nghe tiếng, Jotaro lấy thanh kiếm gỗ gõ mạnh lên đầu chó khiến con vật nổi hung nhảy vào cắn tới tấp. Jotaro kinh hãi, hai tay che mặt, người và chó lăn lộn dưới đất. Tiếng Jotaro kêu cứu lẫn tiếng chó sủa và tiếng chân người chạy rầm rập vang động cả khu vườn yên tĩnh.

Acmagiro
15-02-2008, 08:36 PM
QUYỂN 2 : Sui No Maki


CHƯƠNG 18
TIẾNG SÁO




Về phòng trọ, Jotaro đến trình diện sư phụ. Những vết xây xát ngang dọc trên mặt làm nó đau lắm, nhưng Jotaro gan không than thở, chỉ móc trong bọc lá thư đưa cho Musashi:
- Thưa thầy, có thư phúc đáp.
Jotaro kể lại vắn tắt chuyện gặp Shoda, nhưng không đả động gì đến vụ vật nhau với con chó. Trong khi nói, những vết thương trên mặt nó căng ra, rướm máu. Musashi nhìn Jotaro trừng trừng nhưng thấy nó không kêu ca hay giải thích nên cũng không hỏi. Hắn bảo học trò xuống nhà dưới rửa mặt rồi vội vàng mở thư ra đọc.
Đến cửa bếp, Jotaro gặp Kocha. Nhìn mặt Jotaro, Kocha ngạc nhiên:
- Ủa, sao vậy ? Lại nhảy vào bụi gai bắt chim phải không ?
- Không. Chó cào !
- Chó cào ? Chó nào vậy ? Trêu nó hả ?
- Chó trong vườn sau Đại lâu.
- A ...con chó đen phải không ? Dữ lắm, sức anh sao địch được nó. Trước đây có tên trộm vào rình rập trong vườn bị nó cắn suýt chết đấy.
Kocha dẫn Jotaro ra suối, ân cần vã nước lạnh lên mặt rửa các vết thương cho nó rồi đưa vào phòng kho bảo ngồi ở chân đống rơm đợi ả đi lấy thuốc. Thuốc bôi xong, mặt Jotaro trông nhem nhuốc như con gà bôi phẩm. Không nín được cười, Kocha quay đi lấy tay che miệng, sau nghĩ sao lại ngồi bên cạnh Jotaro, dịu dàng cầm tay nó đặt vào tay mình.
Một cảm giác ấm áp truyền từ cô bé sang làm Jotaro thấy dễ chịu. Nó đỏ bừng mặt nhìn người bạn gái mới. Ngoài kia, ánh nắng ửng lên, chan hòa trên những cánh hoa đào bắt đầu nở rộ.
Tối hôm ấy, Musashi đóng cửa ngồi một mình trong phòng không nói với ai lời nào. Đến đêm, hắn cũng không ngủ, nằm yên mắt dán lên trần nhà, suy nghĩ lung lắm. Jotaro co ro trên chiếc chiếu ở góc phòng, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn trộm sư phụ, tự hỏi không biết ông có rõ chuyện mình bị chó cào không ! Nó cũng nghĩ lan man, vừa tức giận và có ý trả thù con vật, vừa vui thích khi tưởng đến chuyện ngồi bên Kocha trong gian nhà kho, rồi cơn buồn ngủ kéo đến làm nó thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau, vừa tỉnh dậy, Jotaro đã thấy sư phụ ngồi một mình uống trà bên cửa sổ, mặt lầm lì, dáng tư lự. Nó len lén đi ra ngoài hiên thì Musashi gọi giật lại.
Ruột thót lên cổ, Jotaro chắc phen này bị mắng hoặc phải đòn, nhưng không, thầy nó chỉ sai đi gọi chủ quán để tính tiền và bảo sửa soạn để buổi chiều lên đường. Jotaro thở phào, vui vẻ chạy ra cửa.
Trời vừa ngả bóng, thầy trò Musashi đã sẵn sàng. Chủ quán đứng đợi tiễn khách trước cổng. Ông cảm thấy quyến luyến và có cảm tình đặc biệt với người khách trọ trẻ tuổi trang nghiêm và hào sảng tuy khách mới ở được non một tuần.
Đi một lúc, Musashi linh cảm có điều gì khang khác, quay lại quả nhiên không thấy Jotaro đâu. Hắn lên tiếng gọi, không ai trả lời, bèn trở lại quán thấy tên tiểu đồ đang bịn rịn từ biệt cô hầu nhỏ. Musashi quắc mắt, sẵng giọng:
- Jotaro !
Jotaro líu ríu theo thầy, trong khi cô bé quay đi kéo vạt áo chùi mắt.
Khỏi làng được một quãng, Musashi hỏi đồ đệ:
- Còn xa không ?
- Thầy đi đâu ?
- Đến Đại lâu.
- Ta ngủ đêm ở đó hả thầy ?
- Không chắc. Ta được mời đến đó bữa nay. Ngủ đêm ở đó hay đi đâu còn tùy, sẽ liệu sau.
- Vậy gần tới rồi. Cái cổng lớn đằng kia là cổng Đại lâu đấy.
Musashi đến trước cổng. Những tảng đá lớn dưới chân cổng loang lổ rêu xanh, rặng tre già mọc sát bờ lũy rì rào, kẽo kẹt, vài vạt nắng chiều còn thoi thóp đọng trên những ngọn cây cao. Chiều rồi. Buổi chiều êm đềm trong một thung lũng cô tịch. Có ai mới lên đèn trong căn nhà gỗ nhỏ phía bên kia cổng dùng làm điếm canh. Musashi lên tiếng gọi. Khi người lính tuần cầm giáo ra mở cổng, Musashi trao thư cho hắn và xưng danh:
- Tại hạ là Musashi, được mời đến gặp vị chấp quản. Xin báo cho biết tại hạ có mặt ở ngoài này.
- Dạ. Tiểu tốt đã được lệnh đón đại hiệp ở đây. Xin mời đại hiệp vào.
Thầy trò Musashi theo chân người lính tuần qua nhiều dãy hành lang đến một căn phòng rộng. Trong ánh chiều chập choạng, hắn để ý các phòng dọc theo hành lang, phòng nào cũng kê đầy những kệ sách. Chắc không phải chỉ là binh thư, kiếm phổ vì làm gì mà nhiều đến thế, mà còn đủ loại sách khác. Nhìn cách trần thiết trang nhã, cổ kính; những lối đi, vườn tược gọn gàng cùng phong cách khiêm cung của lính tuần, hắn thấy chủ nhân là người ưa nếp sống thanh đạm, những người chung quanh ông hẳn không đến nỗi thô lỗ. Mặc dầu nhà Yagyu nổi tiếng về kiếm thuật nhưng bản chất dân Trúc Lâm, nhất là ở Đại lâu này, hẳn là bản chất hiếu hòa, ưa đọc sách hơn dùng kiếm.
Musashi cởi dép bước vào phòng ngồi đợi trong khi người lính dẫn Jotaro đến một phòng khác ở vườn sau và đi thông báo cho Shoda biết.
Căn phòng rộng trần thiết đơn giản, ngọn đèn ***g không đủ soi sáng hết mọi phía. Trên tường đối diện cửa sổ treo một bức cổ họa vẽ một người ra vẻ đạo sĩ đang múa kiếm dưới trăng, bên dưới đặt một bình hoa nhỏ, men xanh da rạn cắm độc nhất bông hồng trà mới nở. Trong cái khung cảnh khắc khổ của gian phòng, có lẽ bông hoa này là vật duy nhất mang lại đôi chút vui tươi cho tân khách. Ngoài hiên, dưới ánh đèn đá thấp, rặng tử thảo đã nở hoa, màu xanh tía thẫm nhạt chen nhau, hương tỏa nhẹ nhàng ngây ngất. Musashi giật mình nghe tiếng ếch kêu, tiếng ếch đầu mùa báo hiệu mùa mưa sắp tới. Hắn lắng tai chờ nó kêu nữa, nhưng không nghe động tĩnh gì, chỉ thoảng như có nước chảy ở quanh nhà. Tiếng róc rách nhẹ lắm, nghe rất xa mà đôi lúc lại thật gần như ngay bên vách tường hay dưới chân. Một cảm giác mát rượi, thoải mái bao quanh lấy hắn, nhưng trong thâm tâm hắn bồn chồn lo ngại. Không biết đấy có phải là phản ứng mãnh liệt do bản chất hiếu chiến của hắn phát ra cả trong những lúc yên ổn như thế này không. Hắn nhớ đến nhà sư già mày trắng, cố giữ cho lòng bình thản nhưng vẫn không dằn được, đảo mắt nhìn quanh. “Yagyu là kiếm sĩ, ta cũng là kiếm sĩ. Yagyu giàu kinh nghiệm nhưng già rồi, chưa chắc ăn đứt được ta. Hãy thử. Kiếm học nhà Yagyu chỉ có ta mới lượng định được !”.
- Tráng sĩ tha lỗi, để người phải chờ, thật đắc tội !
Shoda Kizaemon vừa bước qua cửa đã cúi đầu thi lễ và xin lỗi ngay, theo sau là Murata và Kimura. Giới thiệu xong, vừa an tọa thì kẻ hầu đã bưng rượu ra. Rượu sa-kê cất ngay tại trong cốc, không được trong lắm nhưng vị đậm mà êm, lại được rót vào bát sành theo kiểu xưa, mới hâm nóng nên hương tỏa ngào ngạt. Shoda vui vẻ:
- Ở chốn thôn dã hủ lậu, chẳng có gì đặc biệt khoản đãi, xin tráng sĩ vui lòng dùng tạm.
Musashi tươi cười đáp lễ. Hắn cảm ơn, nâng bát uống cạn. Tuy thích sa-kê nhưng không phải là tay sành rượu, hắn không thưởng thức được hết hương vị đậm đà của thứ danh tửu này cất ngay tại cốc bằng chính gạo nếp và nước suối địa phương.
Mỗi người rót mừng một bát, Musashi trong người nóng ran, sự dè dặt ban đầu bớt đi nhiều. Kimura gật gù:
- Các hạ tửu lượng thật hào ! Hôm nay gặp nhau hãn hữu lắm đấy, xin uống say, đừng vì sơ kiến mà e ngại.
Rồi nghiêng đầu lại gần Musashi:
- Các hạ có biết ai cắt nhành mẫu đơn ấy không ? Chính Muneyoshi lão nhân gia đó!
Musashi đập tay lên đùi cười lớn:
- Biết ngay mà ! Tại hạ đoán không lầm. Thật là tuyệt diệu !
Murata chen vào:
- Có điều bọn tại hạ không hiểu tại sao các hạ phân biệt được nhát kiếm đó với nhát kiếm của những người khác. Xin nói rõ được chăng ?
Musashi đáp cầm chừng, vì thật ra hắn cũng không hiểu tại sao hắn nhận ra điều ấy nữa:
- Vậy hả ? Các vị không rõ thật ư ?
- Dĩ nhiên. - Shoda tiếp theo - Tại hạ không thấy gì đặc biệt trong vết cắt, nhưng các hạ đã phân biệt được hẳn phải có con mắt chẳng tầm thường. Dám xin chỉ cho biết rõ.
Musashi nâng bát rượu lên uống một hớp, mắt đăm đăm nhìn về phía trước, lúc sau mới đáp:
- Cũng chẳng có gì lạ, chỉ nhờ may mắn ...
- Xin đừng quá khiêm ! Bọn tại hạ ngưỡng mộ tài năng các hạ, mời đến đây, chớ nên giấu diếm.
- Tại hạ quả không dám giấu, có lẽ nhờ trực giác nên trong một phút xuất thần, cảm quan ...
Ba người kia lắc đầu tỏ vẻ không tin. Là những tay giang hồ nhiều kinh nghiệm và có nhiệm vụ bảo vệ cốc khi hữu sự, làm sao họ có thể tin dễ dàng như vậy được. Huống chi cả ba đã ngầm ý quan sát và phân tích con người cùng sở học của Musashi.
Họ để ý đến dáng điệu quê kệch khi hắn cầm bát, lối giơ tay chùi mép sau mỗi lần uống, những cử chỉ tuy nhỏ nhặt nhưng tố giác gốc nông dân của hắn. Điều làm họ ngạc nhiên là không hiểu võ công Musashi ra sao mà hắn có một trực giác bén nhậy và những nhận xét tinh tế đến thế ! Murata đã ngà ngà say, không còn giữ gìn nữa:
- Cảm quan gì ? Tại hạ biết được không ?
- Đã gọi là trực giác thì cảm hoặc không cảm, thế thôi ! Làm sao giải thích ? Điều này bất khả ngôn truyền, chỉ so kiếm mới rõ, không có cách gì khác !
Shoda nhìn hai bạn đồng bối. Tuy không nói toạc ra nhưng lời vừa rồi của Musashi rõ ràng ngụ ý thách thức.
Cả bốn người ngồi im như tượng. Ngọn đèn dầu thông tỏa khói đen đặc quánh bốc thẳng lên cao trong bầu không khí ngột ngạt. Một tiếng ếch kêu từ ngoài vườn vọng vào, cô độc và tắc nghẹn.
Shoda là người đầu tiên cười lớn, phá tan bầu không khí yên lặng căng thẳng đó:
- Hà hà ...phải lắm ! Các hạ nói rất phải ! Làm sao truyền thụ được !
Rồi lái sang chuyện khác. Họ đàm luận về võ công, thiền học, kể lại những trận chiến danh tiếng họ đã tham dự như trận Sekigahara trước đây. Musashi ngồi nghe chỉ ừ hữ cho qua. Chưa say lắm, hắn vẫn còn đủ khôn ngoan không để lộ những thành tích của mình:
trong trận ấy, hắn chỉ là tên lính quèn trong hàng ngũ đối địch với nhà cầm quyền và thua trận. Vả lại mục đích của Musashi không phải đến đây đàm luận những việc đã qua. Hắn cần gặp Yagyu Muneyoshi. Thời gian đi mau, hắn biết nếu không gặp lão đêm nay thì không bao giờ còn hy vọng nữa.
Shoda gọi gia nhân mang cơm và thức ăn ra. Bữa rượu gần tàn, đêm đã khuya mà hắn vẫn chưa tìm được cách gì làm cớ ra mắt Yagyu Muneyoshi. Thất vọng, Musashi mượn chén nói nhiều câu khích bác với ý định chọc giận Shoda, Murata và Kimura nhằm gây náo loạn, nhưng ba người chỉ cười không để ý. Vô kế khả thi, hắn đứng dậy đến gần cửa sổ. Gió mát bên ngoài thổi lên da mặt nóng và ẩm mồ hôi của hắn, Musashi thấy dễ chịu tỉnh táo hơn.

Acmagiro
15-02-2008, 08:36 PM
Đột nhiên có tiếng chó sủa về phía vườn sau, trước còn rời rạc sau mau dần làm mọi người chú ý. Kimura đưa mắt nhìn Shoda:
- Shoda huynh có nghe thấy gì không ?
- Có. Tiếng con Ta-rô. Không hiểu chuyện gì mà nó sủa dữ thế !
Ta-rô là tên con chó mực mới hôm qua đè Jotaro xuống, cào nó sướt cả mặt, nếu không có gia nhân trong cốc chạy đến cứu kịp thì nó đã bị thương nặng rồi.
Tiếng chó sủa mỗi lúc một dữ dội, tru lên từng hồi dài, báo hiệu có người rình rập.
Dạo này trong cốc không được yên, tuy đa số những phần tử phản loạn đã bị dẹp gần hết, nhưng thỉnh thoảng một vài tên thảo khấu vẫn đi lại dòm ngó, nhất là nhà Yagyu vốn có tiếng là một địa phương trù mật.
Shoda, Murata, Kimura nhìn nhau, vẻ bồn chồn lộ ra mặt. Kimura đề nghị:
- Để tiểu đệ chạy ra xem ...
Hai người kia gật đầu, nhưng ngay sau khi Kimura vừa bước ra khỏi cửa, tiếng kêu của con chó vang lên ghê rợn, tiếp theo là một tràng hú dài, vài tiếng ằng ặc rồi im hẳn.
Shoda nhìn Musashi:
- Nó chết rồi !
Không giữ được kiên nhẫn, Shoda phất tay áo đứng dậy:
- Ta phải ra xem sao. Mutara huynh ở lại tiếp khách.
Musashi vội ngăn lại:
- Khoan ! Tên tiểu đồ của tại hạ còn ở phòng sau không ?
Không ai biết. Murata chạy vội ra ngoài và trở lại ngay nói thằng bé không còn ở đó nữa. Musashi quay sang Shoda:
- Tại hạ đã hiểu đôi phần. Xin cùng đi được không ?
Shoda không đáp, chỉ gật đầu bước vội ra cửa, theo sau là Murata. Gần đến khu vườn cạnh võ sảnh, một đám đông tụ họp lố nhố, người gậy kẻ đuốc, chỉ trỏ hò hét inh ỏi. Vài kẻ ở trần, chưa kịp cả mặc áo.
Đứng ngoài, Musashi nghểnh cổ nhìn vào, ruột thót lại. Đúng như hắn dự đoán, thằng Jotaro học trò hắn, mặt mũi bê bết máu, đương ngồi thở hổn hển trong vòng, tay lăm lăm thanh gươm gỗ. Ta-rô, con chó đen, nằm chết bên cạnh, mắt mở trừng trừng, một dòng máu lẫn rớt rãi rỉ ra từ mõm. Dưới ánh đuốc bập bùng, khói nhựa thông đen cuồn cuộn, trông Jotaro thật ghê sợ. Chó và người, máu với đất quện đầy mình không khác gì hai con quỷ mới ở âm ty chui lên.
Có giọng nói lớn át cả mọi tiếng ồn ào:
- Súc sinh ! Ngươi giết chó của lão nhân gia, ngươi phải đền mạng !
Ai nấy la hét:
- Đúng ! Đúng ! Bắt nó ! Đừng để nó chạy thoát !
Như được kích thích, kẻ vừa nói lập tức nhảy vào giơ tay chộp thằng bé. Nhanh như cắt, Jotaro lăn một vòng, người kia vồ hụt ngã sóng soài. Mọi người cười ồ. Không khí nửa bi nửa hài, cảnh đốt đuốc làm tội phạm nhân ở ngục A Tì chắc cũng chỉ đến thế!
Jotaro chạy đến dựa lưng vào gốc cây, một tay giữ ngực, tay kia cầm kiếm giơ lên chùi máu trên mặt, giọng đứt quãng:
- Phải ...Ta giết ...ta giết đấy !
- Sao ngươi giết nó ?
- Trả thù !
Mọi người ồ lên một tiếng ngạc nhiên. Không ai trả thù chó bao giờ, huống chi con Ta-rô này là chó quý, loại rặt giống chó săn do chính tay Yagyu cốc chủ giao cho hai tên túc vệ săn sóc. Bây giờ chuyện xảy ra như thế này, hai tên kia thoát sao khỏi bị trừng phạt.
Người lính ngã lúc nãy đã đứng dậy. Cơn giận nổi lên, mắt đổ hào quang, hắn vung nắm đấm thoi vào mặt Jotaro. Jotaro né, nhưng lần này tránh không kịp, quả đấm trúng vào vai. Nó ngã ngồi, bậm chặt môi giữ cho khỏi khóc.
Jotaro ngạc nhiên hết sức. Trong thâm tâm nó, hành động trả thù con chó rất là tự nhiên và chính đáng:
con vật đã cào rách mặt nó. Đối với một kiếm sĩ, đấy là một việc làm tổn thương đến danh dự, phải có phản ứng. Mà phản ứng thích đáng nhất, theo nó, là giết con vật. Không biết sao người lớn không hiểu chuyện ấy, đã không giúp nó thì thôi, lại còn tìm cách hành tội nó. Jotaro là một đứa trẻ liều lĩnh và bướng bỉnh, điều gì nó cho là phải, nó giữ vững, nhất định không chịu nhượng bộ.
- Ta không làm gì quấy, nó cắn ta, ta phải trả hận.
Người lính hét:
- Súc sinh ! Câm mồm ! Ngươi là con nít mặc kệ ngươi ! Ngươi giết chó của lão nhân gia, ta phải bắt ngươi trị tội !
Hắn đảo mắt nhìn quanh. Có kẻ gật đầu, có kẻ bàn bạc, tiếng ồn ào càng lớn. Xuất kỳ bất ý, hắn giơ tay chộp lấy vai thằng bé xách lên. Jotaro vùng vẫy, tay chém chân đạp lia lịa. Bọn Shoda cảm thấy bất nhẫn, nhưng vẫn đứng yên không can thiệp. Người lính xách Jotaro quay mòng mòng một vòng rồi vứt nó đánh bịch xuống đất. Jotaro ngã lăn ra. Nó lồm cồm bò dậy. Vừa nhục vừa tức, mặt nó xám lại. Người lớn, khi tức giận, còn có thể suy nghĩ hơn thiệt, dằn cơn tức để tìm cách đối phó sau; nhưng trẻ con lúc giận lên thì ngay đến mẹ nó cũng không sao bảo được. Dáng điệu Jotaro lật đật trẻ con, nhưng mắt nó bây giờ không còn là mắt trẻ con nữa. Lòng căm thù hừng hực, nó gầm lên man rợ tựa con thú bị thương dồn vào đường cụt, cong mình nắm chặt đốc kiếm gỗ, quyết chống cự đến cùng:
- Này bắt ! Vào đây bắt đi !
- Á à ! Thằng này giỏi. Ta giết ngươi như giết chó !
Dứt lời, gã đưa gây đập xuống. Miếng đòn ấy nếu trúng Jotaro thì đã rồi đời thằng bé, nhưng theo phản ứng tự nhiên, nó giơ kiếm lên đỡ. Rắc ! Thanh kiếm gãy làm hai, tung lên trời. Jotaro thấy người lính nhào về phía trước, bèn thuận đà nhảy phắt lên lưng gã, chân quặp vào hai bên sườn, răng cắn vào cổ áo, còn hai tay thọc mạnh vào nách người lính. Thế đánh bất ngờ này khiến người lính lúng túng, đánh rớt cây gậy, còn Jotaro như con rắn lục bám vào cành cây, giữ chắc, những ngón tay móng sắc nhọn cào như điên vào nách kẻ địch. Musashi ở vòng ngoài, cho đến bây giờ vẫn khoanh tay bất động. Một kẻ khác trong đám đông nhảy vào, giơ gậy định phang sau lưng thằng bé. Musashi liếc mắt trông thấy, quát lớn:
- Hèn !
Lập tức tung mình nhảy qua đầu những người đứng xem vào giữa vòng chiến.
Ngọn cước đặt đúng chỗ của hắn làm tên đánh lén bắn ra ngoài. Musashi nắm lấy áo Jotaro kéo ra, tiện chân đạp người lính ngã sấp. Jotaro mừng rỡ kêu lên:
- Thầy !
Hai tay Musashi đỡ đồ đệ lên cao khỏi đầu. Dưới ánh đuốc đã lụi, giọng hắn sang sảng hướng về phía tên lính:
- Ta đứng ngoài kia quan sát chuyện này từ đầu. Thằng bé là đồ đệ ta, nếu ngươi muốn gì phải hỏi ta trước !
Người lính đứng dậy, giọng vẫn còn hách dịch:
- Vậy tốt ! Ta bắt cả hai thầy trò ngươi.
- Được ! Bắt thằng bé này trước !
Musashi rỉ tai Jotaro:
“Giơ chân phóng vào ngực nó” đồng thời tung Jotaro đến trước mặt tên lính. Mọi người kêu lên kinh hãi. Họ chưa từng bao giờ thấy ai liều lĩnh đến thế:
dùng người làm võ khí, nhất là người đó lại là một đứa trẻ. Nhưng chưa kịp hoàn hồn, họ đã nghe đánh “hự”, người lính ngã ngửa về đằng sau. Jotaro dội ngược lại, lộn hai vòng rồi như quả bóng, lăn vào các lùm cây rậm rạp.
Diễn biến đột ngột làm mọi người sửng sốt. Không ai chú ý đến Jotaro nữa và đều quay lại nhìn Musashi:
- Thằng này là ai ?
- Đứa nào vậy ? Nó đến đây làm gì ?
- Thằng điên hay quân cường đạo ?
Không ai biết gốc tích Musashi và tại sao hắn có mặt trong cốc trừ Shoda, Murata và Kimura. Bọn gia nhân vây xung quanh hò hét, tay hờm sẵn đốc kiếm.
Nhưng Musashi vẫn điềm tĩnh như không. Giữa những tiếng chân huỳnh huỵch của bọn người mang thêm đuốc chạy tới, hắn giơ tay, mặt đanh lại, nghiêm trọng:
- Đồ đệ ta có lỗi, ta chịu trách nhiệm. Thầy trò ta sẵn sàng chịu lỗi, nhưng ta cảnh cáo các ngươi biết chúng ta không để các người giết như giết một con vật ! Nào, ai muốn bắt ta, vào đây !
Mọi người cùng ồ lên một lượt. Họ không ngờ tên này khùng đến thế. Thay vì nhận lỗi, hắn lại lên tiếng thách thức. Giá hắn chịu nhún một chút có lẽ cũng xong vì dù sao hẵn cũng là khách, Shoda sẽ bỏ qua và chuyện sẽ không đến tai cốc chủ. Nhưng không hiểu vì lý do gì hắn lại nhất định khiêu khích và có thái độ đổ dầu vào lửa như thế ?
Murata cau mặt quay sang nói với Kimura:
- Thằng này điên thực rồi. Để nó đấy cho bọn túc vệ xử trí, ta nên tránh thì hơn.
Nhưng Shoda lắc đầu. Hắn bước ra dưới ánh đuốc, giọng oang oang ra lệnh:
- Tên này dường như chủ mưu đến đây gây loạn. Nếu ta mắc mưu nó để có người mất mạng hay thương tật, tất sẽ bị quở trách. Con Ta-rô tuy quý nhưng không quan trọng bằng một mạng người. Bây giờ khuya rồi, tất cả hãy về nghỉ, chuyện gì cũng để ba chúng ta đối phó !
Nhiều người gật đầu, có người phản đối nhưng Shoda quả thật có uy quyền trong cốc. Hắn trừng mắt. Đám đông lục tục ra về. Vài kẻ còn ngập ngừng chưa chịu đi, Kimura phải đích thân giải tán.
Một lúc sau, trong vườn chỉ còn lại Musashi, Shoda, Murata và Kimura, nhưng đây không phải là khách với chủ mà là tội nhân trước mặt các phán quan.
Đuốc đã mang đi hết. Dưới ánh sao lờ mờ nhìn không rõ mặt người, giọng Shoda nghiêm khắc khác thường:
- Shinmen Miyamoto Musashi ! Ta rất tiếc âm mưu của ngươi đã bại lộ. Ta không rõ ai sai ngươi đến đây, nhưng việc làm ấy thật vô ích ...
Một bóng đen bé nhỏ len lén đến gần Musashi. Không nhìn xuống hắn cũng đoán biết là đồ đệ. Hắn để tay lên vai Jotaro, xoa nhè nhẹ trấn an. Vai áo nó cứng những máu đọng.
- Musashi ! Ngươi thất bại rồi, chỉ còn cách tự xử. Mặc dầu là đứa bất lương, nhưng ngươi đã tỏ ra khá can đảm, dám một mình cùng với thằng nhỏ này đến do thám. Hãy tỏ ra xứng đáng là người cầm kiếm, đừng để chúng ta phải ra tay vô ích !
Đối với Shoda, đó là cách giải quyết êm đẹp nhất. Hắn không được phép của Yagyu cốc chủ mời Musashi đến cốc nên nếu Musashi chết thì câu chuyện coi như xong, không gây hậu quả gì phiền phức.
Musashi cười nhạt:
- Ta chưa muốn chết.
- Hay lắm ! Kimura nói gằn giọng. Chúng ta đã hết lời tử tế với ngươi, nhưng ngươi cố tình lạm dụng lòng tốt ...
Murata nóng nảy:
- Thôi, không nói nhiều. Đi !
- Đi đâu ?
- Vào ngục.
Musashi cười ha hả. Hắn cầm tay Jotaro gật đầu:
- Ừ thì đi !
Nhưng lại xăm xăm bước về phía Đại lâu. Murata nhảy ra ngăn lại:
- Ngươi đi đâu vậy ? Ngục thất ở đằng này !
Musashi khẽ đẩy đồ đệ ra, bảo nhỏ:
- Lại ngồi đằng kia, con.
Jotaro hiểu ngay. Cảnh chiến đấu trên đồng cỏ Hannya buổi chiều hôm nào hiện rõ mồn một trong trí nhớ. Nó vụt đi nhanh như tên bắn.
- Ta không muốn vào ngục.
- Không vào ngục ? Vậy ngươi muốn gì ?
- Gặp Yagyu Muneyoshi !
Câu trả lời của Musashi khiến cả ba đứng sững. Không ai ngờ Musashi liều lĩnh tới mức đó. Shoda là người cao niên nhất cũng phải cau mặt:
- Ngươi gặp cốc chủ làm gì ?
- Ta muốn thỉnh giáo vài thế kiếm.
- Á à ! Sao không nói trước ?
- Muneyoshi không cho ai gặp, lại không bao giờ tiếp khách giang hồ đến xin yết kiến, phải vậy không ?
- Đúng vậy.
- Vậy ta thách các ngươi ! Ta tuyên chiến với cả cốc !
Đối với ba người, Shoda, Murata và Kimura, tiếng tuyên chiến nghe quá lớn và có vẻ kiểu cách, nhưng đối với Musashi, tiếng đó mới chỉ đúng ý muốn của hắn. Vì đây là một trận đấu không phải hơn thua nhau về kỹ thuật của từng thế kiếm mà là một cuộc chiến toàn diện, đem cả sinh mạng mình ra đánh cuộc. Chiến tranh giữa hai quốc gia hay thị tộc có thể khác nhau về hình thức, nhưng trên căn bản cũng không khác.
Trong đêm tối bôn người nhìn nhau không nói, sự cảm thông gần như trọn vẹn.
Một con cú lớn bay ngang qua, tiếng đập cánh nhẹ tựa gió thoảng. Dưới ánh sao thưa, bóng nó thoáng hiện ra rồi lẩn ngay trong những tàn lá rậm.
Murata xắn tay áo:
- Được lắm ! Ngươi muốn chiến tranh sẽ có chiến tranh. Không có tù và, trống trận nhưng ta vui lòng tiếp ngươi. Shoda huynh, Kimura huynh, xin lược trận cho.
Hắn rút kiếm đánh soạt. Kiếm quang vừa lóe, hắn đã nhảy ngay về phía trước, lưỡi kiếm bổ xuống đầu Musashi mạnh như vũ bão. Musashi không né tránh, chỉ trầm mình xuống rút kiếm đỡ ngọn đòn của Murata. Một tiếng choang, ánh lửa thép nhoáng lên như than nổ trong lò, Musashi xoay kiếm quét một đường vòng cung dưới chân Murata nhưng hắn khôn ngoan nhảy lui ra xa một trượng thủ thế.
Hai người đứng cách nhau chừng năm bước, im lặng và quyết liệt. Shoda nói nhỏ với Kimura:
- Có chuyện đấy, không khinh thường được đâu !
Tuy hai người không trực tiếp giao đấu nhưng Shoda và Kimura luôn trong tư thế sẵn sàng. Sau đường kiếm vừa rồi, họ thấy Musashi không phải tay tầm thường, đáng là đối thủ của Murata.
Murata cầm kiếm hai tay ngang tầm ngực, lưỡi kiếm thẳng đứng, toàn thân im như tượng. Musashi đứng nghiêng, im không kém, tay phải giữ kiếm gần lá chắn, cườm tay cao, vai hơi đưa ra đằng trước. Trong đêm tối, mắt hắn đen hơn cả bóng đêm, nhìn địch thủ không chớp.
Chiến tranh cân não giữa hai người kéo dài như vô tận, nhưng bóng tối quanh mình Murata hình như hơi rung. Người tinh ý thấy hắn thở nhanh hơn, nội tâm hắn dường giao động.
Kimura hừ một tiếng khẽ. Câu chuyện ban đầu không đáng gì, bây giờ thành quan trọng. Mũi tên đã bắn đi không lấy lại được nữa. Hắn cũng nghĩ như Shoda, việc này cần giải quyết sớm chừng nào hay chừng nấy, mà cách giải quyết tốt nhất là phát lạc nhanh chóng cho Musashi. Không ai bảo ai, cả hai cùng rút kiếm khỏi vỏ, di chuyển sang tả hữu, vây Musashi vào một gọng kìm.
Ngay lúc đó, một tiếng thét rùng rợn rung động cả đêm sâu, một đường kiếm xẹt nhanh như sao lạc, Musashi đã đổi bộ vị, đứng dựa lưng vào gốc cây lớn với ba đối thủ trước mặt. Thế gọng kìm bị phá vỡ.
Dưới bóng cây tối đen như mực, ánh sao thưa lờ mờ yếu ớt, nhưng từ đó Musashi nhìn ra ngoài, trông rõ mọi cử động của cả ba địch thủ. Bóng Musashi nhập với bóng đêm làm một. Trong cái lúc mà biên giới sống chết chỉ cách nhau một sợi tơ, đầu hắn lạnh như băng nhưng da hắn nóng hừng hực. Sinh lực tràn trề trong cơ thể, từ những thớ thịt đường gân muốn bứt tung qua khắp các lỗ chân lông, trên những ngọn tóc, những đầu móng tay. Không biết đấy có phải là chân như của nhà Phật, lẽ huyền đồng của Đạo gia hay chỉ là sự tương dung của hai thái cực trong quá trình sinh tồn của vật chất ?
Không khí nặng như chì. Không một cơn gió, không cả tiếng côn trùng. Giờ phút ấy, người ta thường nghĩ đến cái chết. Musashi thì không, mặc dầu hắn không nắm chắc phần thắng.
Có tiếng động nhẹ về bên trái. Musashi biết Shoda vừa thay đổi bộ vị. Lập tức hắn cũng di chuyển theo. Thế trận này không có lợi cho hắn nếu không có một biến chuyển gì làm thay đổi cục diện. Mồ hôi lấm tấm trên mặt, hắn liếc mắt nhìn bên phải, chỗ Kimura đứng. Hắn muốn tốc chiến tốc thắng, một đường gươm chớp nhoáng và chính xác có thể phá vòng vây, đồng thời giải quyết cuộc chiến chóng vánh.
Quang cảnh thật kỳ lạ. Dưới ánh sao thưa, bóng ba người lờ mơ đứng đóng đinh xuống đất, quây xung quanh một gốc cây tối đen như mực. Trong cái yên tĩnh ngột ngạt, đột nhiên từ xa vọng lại một âm thanh không ai ngờ tới, âm thanh của cây sáo trúc.
Tiếng sáo nhẹ nhàng thanh thoát rót vào tai mọi người, theo gió đưa đến trong vắt.
Musashi giật mình. Hắn không lầm được, đó là tiếng sáo của Otsu với những âm hưởng mê hồn đã lôi hắn vào tay Takuan. Trong nháy mắt, lòng hắn dịu lại, hắn quên kẻ địch trước mặt, quên cả sống chết, trí lâng lâng như tan loãng vào không gian. Một nháy mắt phân tâm nhưng đủ để định thành bại cả cuộc chiến.
Trong tiếng thét mạnh như sấm động xé tan màn đêm tịch mịch, Murata phóng tới, lưỡi kiếm hắn như dài thêm mấy tấc. Kiếm quang lóe cạnh thái dương, Musashi cảm thấy lạnh ở bả vai, tay áo hắn bị cắt đứt một đường dài đến khuỷu. Bắp thịt toàn thân Musashi co lại, hắn chắc bị thương. Chỗ áo rách phơi thịt trần đã thấy rát. Lòng tự tin không còn nữa, Musashi hét lên một tiếng bi ai, lấy hết sức bình sinh đạp vào gốc cây nhảy qua đầu Murata lên một cành thấp gần đó. Hắn chuyền cành nọ sang cành kia, nhảy mãi nhảy mãi cho đến tận bờ hào Đại lâu mới buông mình rơi xuống, lẩn vào các bụi lau sậy mất dạng.
Xa xa, tiếng sáo vẫn văng vẳng đưa tới càng lúc càng thêm tha thiết ...

Acmagiro
16-02-2008, 04:33 PM
QUYỂN 2 : Sui No Maki


CHƯƠNG 19
CÁNH CHIM HỒNG




Hào sâu hay nông, khô hay cạn, Musashi không biết. Trời tối quá, hắn nhìn xuống dưới chỉ thấy hun hút. Musashi chuyền cành, tay bám vào cây, tay cầm đá ném. Không nghe tiếng đa chạm mặt nước, bèn yên chí tụt dần xuống đến khi chân chạm đất mới nằm phục vào bụi cỏ. Một lúc sau đỡ mệt và thấy kinh mạch vẫn điều hòa, Musashi biết là vết thương không nguy hiểm. Sờ vào cánh tay, máu đã se nhưng hắn cũng cứ xé vạt áo ra buộc lại.
Tiếng sáo đã im hẳn. Đâu đây có tiếng cú rúc làm đêm khuya càng thêm tĩnh mịch. Musashi tự nhủ:
“Rõ ràng tiếng sáo của Otsu. Không biết sao nàng lưu lạc tới đây ! Ở đời thật lắm chuyện ngẫu nhiên khó mà lường được !”. Một phút phân tâm đủ thay đổi cả những dự định của hắn, làm hắn lỡ cơ hội gặp Yagyu Muneyoshi nhưng cũng dạy hắn bài học quý báu.
Nhìn ánh sao lờ mờ ẩn hiện trên trời cao, Musashi không thể nào không nghĩ tới Otsu. Lòng mềm hẳn lại, bao nhiêu kỷ niệm cũ ào đến:
cũng dưới bầu trời sao thưa và lộng gió như đêm nay, hắn đã chia tay cùng Otsu trên đỉnh đồi Nakayama.
Nàng hứa đợi, trăm ngày, ngàn ngày cũng đợi. Rồi lúc ở trên cầu Hanada, hắn cũng đã bỏ đi sau khi khắc trên thành cầu bốn chữ:
“Tha lỗi cho ta”. Bây giờ Otsu ở đâu ? Nàng làm gì, có nghĩ đến hắn không ? Thương cảm tràn ngập, hắn lẩm bẩm một mình trong đêm tối, nước mắt lưng tròng:
“Tha lỗi cho ta ! Tha lỗi cho ta !”.
Gió thổi rì rào qua hàng lau sậy. Trong gió dường như có tiếng than vãn lẫn với những tiếng rì rầm to nhỏ. Musashi định thần, lắng tai. Tiếng rì rầm càng lúc càng lớn, ánh đuốc lập lòe ẩn hiện qua những bụi cây rậm rạp trên bờ rào. Gia nhân trong cốc đổ đi tìm hắn, lấy gậy và giáo dài xỉa vào các bụi cây, phạt ngang đầu những ngọn cỏ cao, la gọi nhau ơi ới. Musashi nằm yên không động đậy, kiếm tuốt trần nắm sẵn trong tay, sẵn sàng vùng dậy nếu bị phát giác. Nhưng hình như bọn kia không biết có hắn trốn ở đó. Sau một lúc tìm kiếm vô hiệu, họ bỏ đi; tiếng ồn ào và ánh đuốc xa dần sau những bụi tre cao và rậm.
Musashi đưa tay áo quệt nước mắt. Hắn giận mình đã yếu lòng và đã khóc.
Hắn tự nhủ:
“Chắc chúng cho mình hèn. Nhưng chưa đâu, phần thắng bại chưa rõ rệt.
Để rồi xem ! Yagyu Muneyoshi mới chính là đối thủ của ta !”.
Musashi men theo bờ hào, lầm lũi đi trong bóng tối. Một lúc lâu lắm hắn đến một nơi có tường đá chắn ngang, hắn dừng lại nhìn lên, không thấy trời đâu, chỉ thấy tàng cây xòe ra đen nghịt. Đằng trước là bức tường sừng sững, sờ vào ẩm ướt và trơn trợt, không sao leo lên được. Thất vọng, hắn định quay trở lại, bỗng nghĩ ra một kế. Hắn bẻ cành cây cắm luồn vào khe đá làm bậc, tay nắm chân đạp, hì hục trèo lên khỏi hào.
Trời đã khuya lắm hay sắp sáng, hắn cũng không rõ. Trong một thoáng, Musashi nghe như có tiếng Jotaro gọi, nhưng lắng tai chú ý, chỉ thấy gió rì rào. Hắn nghĩ đến đồ đệ, không biết thằng bé ra sao, nhưng tin là nó tháo vát có thể trốn được. Không còn thấy ánh đuốc, Musashi chắc bọn gia nhân trong cốc đã đi xa hoặc bỏ cuộc rồi. Sự tháo chạy vừa qua làm Musashi càng nghĩ càng tự giận mình. Mặc cảm thất bại ám ảnh, hắn nhất định phải tìm cho được chỗ ở của Yagyu Muneyoshi để thách đấu. Chủ quán Wataya đã cho hắn biết Muneyoshi ở ẩn trong một thảo am ven suối cạnh rừng trúc, nhưng không rõ về hướng nào. Vả lại trời tối quá không sao định hướng được nên hắn cứ đi bừa, lợi dụng bóng đêm tránh bọn gia nhân trong cốc.
Đi mãi, đi mãi ... Lũy đất dài như vô tận báo cho hắn biết hắn vẫn còn quanh quẩn trong vòng rào đại lâu. Trời bắt đầu hửng sáng, bóng núi xa đã hiện lên mờ mờ trên nền trời hồng nhạt. Musashi nghe tiếng nước chảy đâu đây, bấy giờ mới nhận ra mình khát. Lần theo tiếng nước chảy, hắn vạch cỏ tìm đường, đến một nơi hình như là đầu ngọn suối. Chỗ này khoáng đãng, cỏ gai và bụi rậm bớt đi nhiều, chỉ còn những gốc tùng, bách cổ thụ già đến hàng mấy trăm năm sừng sững bên đám loạn thạch ngổn ngang. Một dòng nước nhỏ từ hốc đá trên cao chảy ra trong suốt, đổ xuống phía dưới tung bọt trắng phau. Musashi đứng sững, ngây người nhìn cảnh thiên nhiên ấy.
Dòng suối tươi mát chảy ào ạt bên những gốc thông già trầm lặng kia gợi hắn liên tưở ng đến dòng đời, tuổi trẻ, thế yếu mạnh của mọi vật. Ánh dương quang chênh chếch chiếu trên những phiến đá lớn vững vàng như những nét điêu khắc mạnh mẽ của một nghệ sĩ đại gia. Lòng yêu mến cảnh đẹp làm hắn quên cả khát và nhọc mệt.
Musashi ngồi xuống phiến đá, bụm tay vốc nước uống. Nước suối trong, ngọt và mát làm sao ! Sau mỗi ngụm, hắn cảm thấy dễ chịu. Những giọt nước theo huyết quản hắn luân lưu trong cơ thể, lòng hắt dạt dào sung sướng như cùng với thiên nhiên hòa đồng một nhịp. Gió trên cành thông là hơi thở của hắn, nước suối kia là máu và những tiếng róc rách là tiếng đập của chính con tim hắn. Không cầm được khích động, hắn để nguyên cả quần áo nhảy xuống nước, ngụp lặn vùng vẫy say sưa ...
Ở suối lên, Musashi như trở thành một người khác hẳn. Tâm hồn cũng như thể xác hắn lâng lâng bay bổng. Hắn cởi bộ quần áo sũng nước hong lên phiến đá rồi chọn một chỗ khuất ngồi nghỉ.
Mặt trời lên khỏi ngọn cây, chắc vào khoảng cuối giờ mão. Sương lam trên sườn núi bắt đầu tan dần. Musashi nhìn xa xa thấy một rừng trúc xanh biếc. Dòng suối dưới chân hắn quanh co lượn khúc, đến khu rừng thì bị lớp sương chưa tan hết che khuất. Ẩn hiện trong rừng hình như có nhiều gian nhà cỏ. Musashi mừng hết sức.
Ngẫu nhiên hắn đã tìm ra chỗ ở của Yagyu Muneyoshi.
Hắn hối hả lấy quần áo mặc vào và đi vội xuống núi. Quần áo chưa kịp khô, gió sớm thổi qua lành lạnh, nhưng mặc, hắn cứ đi tới. Bao nhiêu lâu chờ đợi, bây giờ thấy đây, hắn quyết không bỏ lỡ dịp. Musashi đã có định kiến, quyết tâm gặp Yagyu Muneyoshi và thách đấu. Sự thành bại ngày hôm nay rất quan trọng:
cởi bỏ cho hắn cái mặc cảm thua kém hay là chết; hắn không có lý do gì để lui bước.
Vườn nhà Yagyu rộng vô cùng. Từ cổng nhìn vào, ngõ lát đá quanh co, hai bên giồng toàn trúc, thân cao mà thẳng, xanh biếc, cây nào cây nấy to bằng bắp chân, gốc tỉa cắt gọn gàng trên nền rêu xanh tươi mát. Ngõ sâu hun hút, bóng trúc che khuất không thấy nhà bên trong, có một vẻ gì huyền ảo và trang nghiêm phảng phất trong cảnh trí.
Musashi đã có ý định cứ đẩy cổng bước bừa vào, nhưng khung cảnh thanh khiết của khu vườn làm hắn e ngại. Hắn bước tới ngồi trên tảng đá cạnh chân cột dưới mái tranh, vuốt lại tóc và sửa lại nếp áo xô lệch. Dù sao, hắn cũng chỉ là một kiếm khách vô danh, trước khi tiếp xúc với Yagyu Muneyoshi, người hắn kính phục cả về tài năng cũng như nhân cách, hắn không muốn bị coi thường và bị cho là vô lễ. Hắn chờ.
Gió mát thổi hây hây mơn man trên da thịt, Musashi ngủ quên lúc nào không biết.
Tiếng chim oanh ríu rít làm Musashi giật mình thức giấc. Mặt trời lên đã cao, ánh nắng chan hòa đổ trên cây cỏ. Musashi đứng dậy vươn vai, trong mình khoan khoái. Bao nhiêu nỗi mệt nhọc dường như tiêu tan đi cả. Hắn trông trước trông sau, định tâm tìm một vật gì làm dùi gõ cổng thì bỗng nhiên chú ý đến một tấm bảng gỗ dựng bên trong. Tấm bảng hơi nhỏ, có mái che mưa nắng, trên khắc nhiều hàng chữ.
Musashi tò mò bước lại xem, té ra là hai bài thơ, nét chữ xương kính và vết khắc thật sắc sảo. Người viết đã dùng một thứ mực màu chàm trộn kim nhũ bôi lên nên những chữ khắc vàng rực dưới ánh nắng ban mai trông rất ngoạn mục. Bài thơ thứ nhất là một bài ngũ ngôn tứ tuyệt:
Đầu non mây trắng bay
Nhẹ tênh lòng thế sự
Nghìn năm không trú xứ
Chân như, cánh hạc gầy.
Bài thứ hai là thất ngôn tứ tuyệt:
Cành thưa nắng rọi, rộn tiếng oanh
Liễu hoa theo gió rụng bên mành
Tâm hư, dõi bước người viên giác
Ngõ trúc, ta về gối cỏ xanh.
Hai bài thơ đều do Sekishusai sáng tác, có ghi chú ngày tháng và đóng triện son nhà Yagyu. Musashi đọc xong hai bài thơ, đứng lặng cúi đầu, tay khoanh trước ngực. Hiển nhiên đây không phải là hai bài thơ Muneyoshi đã làm chơi nhân khi ngẫu hứng mà chính là để bày tỏ chí hướng của mình. Ông không tiếp khách giang hồ đến cầu học không phải vì có ý khinh miệt gì họ, ông từ khước tiếp xúc với mọi người vì không muốn bị ràng buộc với những hệ lụy nhân thế. Lợi danh ông không màng, thì thành bại đối với ông có nghĩa lý gì nữa ?
Musashi khẽ lắc đầu. Hắn không còn muốn gõ cổng nhà Yagyu. Ý định khiêu khích và thách đấu Muneyoshi đối với hắn bây giờ là một sự xúc phạm, hành động của kẻ thất phu, man rợ. Hắn tự lấy làm hổ thẹn. “Ta còn trẻ quá ! Đây là một bậc cao nhân thoát tục rồi, ta chẳng nên và cũng không có quyền làm rộn. May mà ta đọc hai bài thơ này, chứ không đã làm trò cười cho dân trong cốc !”.
Musashi bỏ ra cổng. Đột nhiên nghe có tiếng chim xào xạc và tiếng chân người bước trên nền đá. Hắn nấp sau bụi cây nhìn vào, thấy một nữ lang áo trắng, thấp thoáng giữa những thân tre xanh biếc. Bóng nàng đổ dài trên cỏ. Nhìn nữ lang, hắn sững sờ, tim như muốn ngừng đập. Vì người bước tới chính là Otsu, xinh đẹp vô cùng, rạng rỡ dưới ánh nắng. Otsu thật rồi, không còn ngờ gì nữa, chính nàng đã thổi điệu sáo ấy !
Musashi định chạy ra gọi Otsu nhưng không biết có sức mạnh gì ghìm chân hắn lại. Con người hắn quả mâu thuẫn:
vừa nhạy cảm đam mê, vừa thực tế lạnh lùng. Nấp trong bụi rậm, hắn phân vân bất định.
Otsu đến gần cổng bỗng quay lại khẽ kêu một tiếng ngạc nhiên:
- Ủa, mình vẫn tưởng nó đi theo sau ...
Nàng trở lại đường cũ:
- Jotaro ! Jotaro ! Chạy đâu rồi ?
Nghe giọng nói quen thuộc, Musashi như sực tỉnh. Hắn lui vào bụi cây sâu hơn.
- Jotaro ! Jotaro !
- Đây ! Em đến ngay bây giờ đây ! Chị ở đâu thế ?
- Ngoài này, gần cổng. Ta đã bảo em không được đi xa, sao em không nghe ?
- Tại thấy con trĩ, em đuổi theo bắt ...
- Đuổi bắt con trĩ ? Em thật không biết gì hết ! Em quên đã nói với ta là sáng nay chúng ta phải làm một việc rất quan trọng hay sao ?
- Không, em không quên đi tìm sư phụ đâu, nhưng em biết ông không hề gì, ông gặp nhiều may mắn lắm. Thế nào cũng thấy mà !
- Ờ ! Tối hôm qua sao không thấy em nói thế ? Lúc mếu máo đến tìm ta, em đâu có như bây giờ ?
- Tại lúc ấy em vừa lo vừa sợ.
Otsu cười:
- Ta cũng thế ! Khi em kể chuyện và nói tên sư phụ em, ta hết hồn.
- Chị với sư phụ em là thế nào ?
- Ông ta là người làng.
- Người làng thôi à ?
- Chứ còn gì nữa ?
- Lạ quá nhỉ ! Người làng với nhau mà mới nghe tên đã khóc hết nước mắt !
Otsu bẽn lẽn:
- Ta khóc nhiều lắm sao ?
- Khóc nhiều lắm ! Sư phụ em đánh nhau với ba người, bị chém rách tay áo, em đã kể rồi chị không nhớ ư ? Nghe tiếng sáo, em nghĩ đến chị nên tìm đến cầu cứu ...
Otsu rùng mình. Hình ảnh Jotaro áo quần bê bết máu, chạy vào phòng nàng lúc nửa đêm như hiện ra trước mắt. Nàng săn sóc, nấu cháo cho nó ? Nàng quay nhìn Jotaro, mặt nó đã bớt sưng, nàng cũng vui bụng đôi chút.
- Thôi, chuyện đó khoan nói ... Việc phải làm ngay bây giờ là đi tìm sư phụ em.
Otsu dắt tay Jotaro ra cổng. Trong dáng đi vội vã của Otsu có một vẻ gì hớn hở như trẻ con đi đón mẹ về chợ. Má nàng ửng hồng, đôi mắt long lanh. Lo âu hay vui thích? Jotaro nhìn Otsu chằm chằm, ngạc nhiên không hiểu.
Musashi nấp trong bụi, nhìn rõ hết. Otsu đẹp hơn trước nhiều, khác hẳn với cô bé âu sầu và lạnh nhạt khi còn ở chùa Shippoji. Bấy giờ Otsu chưa yêu, bản tính kín đáo, không thích giao du của nàng có lẽ bắt nguồn từ tâm sự hổ thẹn mình là đứa trẻ bị bỏ rơi từ tấm bé. Nàng như con ốc cuộn tròn trong vỏ, dễ mếch lòng và hay hờn giận.
Khi Matahachi viết thư từ hôn, tâm trạng bị ruồng rẫy ấy càng thêm nặng khiến nàng suýt liều thân. Musashi đến. Lòng thương người cô thế dần đổi sang tình yêu và kính trọng. Bây giờ, sau nhiều năm xuôi ngược, nàng đã trưởng thành cả về tinh thần lẫn thể chất, sẵn sàng phấn đấu cho mối tình gần như vô vọng của mình.
Musashi muốn nhảy ra ôm Otsu, thổ lộ nỗi lòng với nàng rồi dẫn nàng đi thật xa, sống một cuộc đời hạnh phúc, bỏ hết mọi tham vọng khác. Những lời Otsu nói với hắn trên đỉnh đồi Nakayama bữa nào còn như vang vọng bên tai. Hắn muốn xin lỗi Otsu về sự phản bội của mình. Nhưng sao trí óc hắn không cho như thế là phải. Con người thực tế trong hắn bảo hắn dại dột, từ bỏ mục đích cả đời người vì một người đàn bà là điều ngu xuẩn. Đâu là lẽ phải ? Musashi như đứng trước hai con đường.
Bao nhiêu kiến thức thu thập được qua sách vở hắn đọc được khi còn ở thạch thất cũng không giúp hắn quyết định dứt khoát. Nỗi đau khổ dày vò hiện cả lên nét mặt.
Cách chỗ hắn đứng không bao xa, Otsu vẫn vui vẻ cùng Jotaro đi tới. Thằng bé cúi xuống nhặt vật gì gần cổng làm nàng dừng chân khẽ trách:
- Jotaro, nhanh lên chứ ! Lại nghịch gì thế ?
- Chị, lại đây xem cái này !
Jotaro đưa miếng vải vừa nhặt được cho Otsu:
- Miếng vải này ở áo sư phụ em.
Otsu mở to mắt nhìn Jotaro rồi giật lấy miếng vải. Miếng vải, thực ra là miếng lụa, dài chừng hai gang tay, loang vết máu đã khô, có dệt chìm hình lá phong với một hàng chữ nhỏ. Jotaro kiễng chân, lấy tay chỉ hàng chữ:
- Đây này, chị xem. Hôm qua đến đây, sư phụ em mặc chiếc áo này do bà chủ trọ Ở bờ hồ Sarusawa tặng. Hàng chữ này là Hồ Vọng ... chắc là Hồ Vọng Xương.
Đúng là áo sư phụ em rồi ...
- Trời ơi, Jotaro ! Em nói thật hay bỡn ? Musashi đến cổng này đấy ư ?
Otsu chạy vội ra ngoài, mắt nhớn nhác tìm quanh. Jotaro cũng theo bén gót. Nó gọi lớn:
- Sư phụ !
Trong lùm cây có tiếng lá rung động, rồi tiếng chân người chạy. Otsu quay phắt lại đuổi theo.
- Chị ! Chị đi đâu đấy ?
- Musashi ! Musashi vừa chạy ... ngả này ...
Jotaro đến gần. Otsu thở hổn hển nói không ra hơi:
- Ta vừa thấy ... vừa thấy ... sư phụ em ... chạy ngả này ...
- Sao em không thấy ?
- Rõ ràng mà. Musashi ở bụi cây này chạy ra ...
Otsu vừa nói vừa đuổi theo.
- Chị ! Khoan đã ! Chắc chị lầm rồi ! Nếu là sư phụ em thì việc gì ông lại chạy ?
Ừ, việc gì phải chạy ? Jotaro không hiểu nhưng Otsu hiểu. Nàng dừng lại, hít một hơi thật mạnh, gào lên:
- Musashi ! Musashi ... Mu ... s..ashi ...
Tiếng gào của nàng to quá, những âm sau lạc hẳn đi lẫn với tiếng gió. Otsu không ngăn nổi xúc động, ngã ngồi xuống cỏ, hai tay ôm mặt. Nàng khóc nức nở.
Jotaro chạy đến bên.
- Jotaro ! Gọi sư phụ đi Jotaro ! Gọi đi !
Nhưng Jotaro không gọi. Nó kinh hãi nhìn Otsu. Nét mặt này nó đã nhìn thấy ở đâu ... Đôi mắt lạc thần, da trắng bệch như sáp ... Đúng rồi ! Nét mặt của chiếc mặt nạ tuồng Nô, nét mặt của người thiếu nữ điên dại. Chỉ thiếu có đôi mép nhếch cao, còn các điểm khác giống như tạc. Jotaro sợ quá, giật lùi, miệng há hốc.
Otsu nói với nó qua nước mắt:
- Gọi đi Jotaro ! Không gọi, sư phụ em không về nữa, em sẽ ở với ai ?
Bấy giờ Jotaro mới hoàn hồn. Nó bắc loa tay, lấy hết sức gọi lớn:
- Sư phụ ! Sư phụ Miyamoto Mu ... sa..shi ... !
Sau mỗi lần gọi, tiếng vọng từ núi xa vang lại như nhại và chế giễu nó cùng Otsu.
Trời xanh thăm thẳm trên cao, vài cụm mây trôi hờ hững.
Jotaro đứng trên đồi nhìn xuống con đường đất đỏ vắng hoe ẩn hiện dưới những gốc tre già, lòng buồn vời vợi. Nó vẫn không hiểu tại sao thầy nó lại bỏ đi không nói gì với nó.
Otsu dựa đầu vào một thân cây phong, mặc cho nước mắt trào ra đầy má. Hai tấm lòng cô đơn dưới bầu trời yên lặng, những con người lạc lõng bị ruồng rẫy, bỏ rơi như những đứa trẻ mồ côi không ai đón nhận. Jotaro thấy cay cay ở mắt. Nó đến bên Otsu, nắm áo nàng, an ủi:
- Thôi, chị chẳng nên buồn phiền. Chị và em đi tìm, thế nào cũng gặp.
Otsu mỉm cười héo hắt:
- Cảm ơn em.
Rồi nước mắt lại tuôn ra như suối. Nàng không thể tưởng tượng được mối tình của nàng đối với Musashi đằm thắm là thế mà chàng chẳng hề để cho nàng gặp mặt được một chút sau bao nhiêu năm mong nhớ; kể từ cái ngày chàng bỏ đi trên cầu Hanada. Nàng đã thề không làm phiền Musashi, không can thiệp gì vào sự nghiệp của chàng, sao chàng vẫn tìm cách lẩn tránh ? Chỉ có một lý do:
Musashi không yêu nàng say đắm như nàng tưởng. Otsu phải hỏi cho ra:
trong trái tim rướm máu của người thiếu nữ đương thì ấy, thần tượng nàng chọn không dễ gì bị gạt bỏ.
Một cơn gió thoảng qua. Lá phong rung động dường cảm thông với nỗi lòng người thiếu nữ.
Bỗng Jotaro reo to:
- Chị ! Có người lên kìa !
Otsu chùi nước mắt, sửa lại mái tóc và nếp áo rồi ngồi xuống gốc cây giả như ngồi nghỉ. Người đi lên dốc là một nhà sư. Trong khung cảnh tĩnh mịch của khu rừng vắng, nhà sư mặc áo dà đột nhiên xuất hiện sau ngọn đồi tựa như Phật giáng thế, Otsu vừa ngạc nhiên vừa vui mừng vì nhà sư đó không ai khác hơn là Takuan.
- Nam mô a di đà Phật ! Ta không ngờ gặp ngươi ở đây !
- Con cũng thế. Thầy đi đâu vậy ?
- Ta với con trai Sekishusai vốn là chỗ thân tình, lại nhận được thư của cốc chủ mời, tiện đường qua đây đến thăm cốc chủ.
Trông mặt Otsu, Takuan đã đoán ra phần nào. Đôi mắt đỏ mọng và làn da trắng bệch của nàng chứng tỏ nàng vừa trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Ông ôn tồn hỏi:
- Dạo này hình như ngươi không được khỏe ?
Không dằn được cảm xúc, nước mắt Otsu lại trào ra. Nàng không giấu diếm nữa, kể cho Takuan nghe hết nỗi niềm u uẩn.
- Ta hiểu lòng con. Con muốn ta khuyên điều gì không ?
- Không cần thầy ạ ! Chí con đã quyết.
- ...
Otsu nhìn chằm chằm xuống đất. Nàng như đắm chìm trong nỗi thất vọng cùng cực.
- Nếu còn điều gì nghi ngờ, con đã không bỏ chùa Shippoji. Con biết lòng con lắm và nhất định phải gặp Musashi. Con sẽ hỏi nếu sự có mặt của con trên dương thế này làm chàng vướng bận thì con đã có cách.
Takuan nghiêm khắc:
- Ngươi nói thế là nghĩa gì ?
- Xin thầy đừng hỏi thêm nữa.
- Otsu ! Hãy cẩn thận. Đó không phải là cách giải quyết vẹn toàn. Trong trường hợp con, chết không giải quyết được gì hết. - Ông cười, tiếp:
Nhất là lại chết vì một mối tình không được đáp ứng.
Otsu không đồng ý, nhưng nàng cắn môi không nói thêm gì nữa.
- Ngươi sinh lầm kiếp, đáng lẽ làm đàn ông mới phải. Ý chí sắt đá như ngươi, xã hội hẳn được nhờ lắm !
- Như vậy, những phụ nữ như con không đáng sống hay sao ? Con cản bước tiến thủ của Musashi chăng ?
- A di đà Phật ! Đừng xuyên tạc lời nói của ta. Trong cõi sinh diệt vô thường, không gì ngăn nổi sự biến chuyển. Bước tiến thủ của Musashi chỉ có hắn mới định được.
- Con yêu Musashi. Chàng là lẽ sống của con. Dù phải chịu muôn ngàn gian truân, đau đớn, con cũng không để hạnh phúc đó mất !
- Điều con gọi là hạnh phúc đó không phải là chân hạnh phúc.
- Từ bé, con chưa biết thế nào là chân hạnh phúc.
Giọng Takuan trở nên nghiêm nghị:
- Thế mà vẫn có ! Otsu, ngươi được nuôi dưỡng trong chùa từ nhỏ, há không biết dục vọng chỉ đưa đến khổ đau. Cởi bỏ dục vọng, gieo mầm từ bi để tự giải thoát khỏi cảnh giới vô minh và sinh diệt là chân hạnh phúc ! Con đường ngươi định đi là con đường tối tăm của ngã chấp và ngã ái. Theo đường ấy là tự mang dây oan nghiệt buộc vào mình.
Otsu im lặng cúi đầu. Nhà sư cầm tay, giục:
- Otsu, theo ta về cốc ! Cả cháu này nữa !
Nhưng Jotaro cắt ngang, dứt khoát:
- Không ! Cháu phải đi tìm thầy cháu ! Cháu không biết đường nào tối tăm, sáng sủa, ngã chấp ngã ái là gì, nhưng cháu thấy có bổn phận phải theo sư phụ ...
Lời nói của Jotaro làm Otsu bừng tỉnh. Nàng ngẩng nhìn Takuan:
- Con cảm ơn thầy đã cố sức giúp con nhưng ít con không thể nghe lời thầy được !
- A di đà Phật ! Tùy ngươi, nhưng ít nhất cũng nên trở về từ biệt cố chủ chứ !
- Nhờ thầy từ biệt và tạ lỗi hộ con. Cố chủ khoáng đạt, chắc chẳng lưu tâm đến những tiểu tiết.
Quay sang Jotaro, nàng nói:
- Jotaro, em chạy về lấy hành trang hộ chị.
Trở ra, Jotaro đeo chiếc mặt nạ làm Takuan giật mình đứng lặng. Vì mặt nạ ấy chính là nét mặt Otsu sau khi trôi nổi trong biển trầm luân, quả nghiệp chập chồng không dứt. Ông cúi đầu niệm Phật:
- Otsu ! Trên bước đường con đi, nếu khi nào gặp tột cùng đau khổ, hãy gọi tên ta, hãy gọi tên ta !

Acmagiro
17-02-2008, 04:56 PM
QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 20
SASAKI KOJIRO




Về phía nam thành Kyoto có một ngọn đồi nhỏ tên gọi Mokoyama có sông khá lớn lượn khúc bao quanh xuyên qua một vùng đồng bằng phì nhiêu đến tận chân thành Osaka mới đổ ra biển. Nhờ có thủy đạo thuận tiện ấy, sự thông thương giữa hai thị trấn Kyoto và Osaka thật dễ dàng. Chuyện nào xảy ra ở trấn này ngày hôm trước, hôm sau trấn kia đã biết, nên các nhà cầm quyền nhất cử nhất động đều rất kín đáo và thận trọng.


Trên đồi Mokoyama, một công trường xây cất mới được mở ra theo lệnh đại danh để chỉnh trang lại tòa lâu đài ngài hiện đang cư ngụ. Tokugawa Ieyasu có ý muốn thay đổi nếp sống dân chúng trong vùng, công trình này chỉ là một phần của toàn bộ chương trình xây cất rộng lớn do ngài chủ trương nhằm cải tổ kinh tế và dùng kinh tế làm sức mạnh để cai trị. Song song với sự chỉnh trang các lâu đài tại Kyoto, nhiều công tác kiến thiết khác cũng được thực hiện tại Edo, Nogoya và hàng chục thị trấn khác trong nước. Bởi kiến thiết tạo ra công ăn việc làm, dân không bất mãn, các đầu lãnh địa phương bận rộn công tác không có dư thì giờ nghĩ đến việc chống đối. Riêng tại đồi Mokoyama, số phu phen lên đến hàng ngàn. Hàng ngày thuyền bè đi lại tấp nập chở đá to nhỏ đủ cỡ đổ lên bến chất đống cao như núi, phiến to bằng cái bàn, phiến nhỏ cũng bằng mặt ghế, cát bay mù mịt, mái nhà và rặng liễu ven sông phủ bụi trắng xóa. Cùng với thợ thuyền phu phen là đám người đánh hơi thấy lợi bu đến, thôi thì đủ mặt con buôn cùng gái giang hồ già trẻ.


Bấy giờ trời đã sang thu, nhưng nắng quý hạ vẫn còn gay gắt. Mặt sông loang loáng, lấp lánh tựa sao sa trông lóa mắt. Buổi trưa, tiếng ve kêu ra rả.

Matahachi ngồi nghỉ trong bóng râm của hai phiến đá lớn, khuất sau một lùm cây gai xơ xác. Suốt buổi sáng làm việc cực nhọc, bây giờ hắn đã thấm mệt. Hắn lấy tay xua đàn ruồi bay quanh và kéo vạt áo lau mặt. Da Matahachi xạm đen, tròng mắt hõm sâu xuống, trên gương mặt gầy guộc ấy chỉ còn phảng phất một vài nét của anh chàng Matahachi béo tốt khi xưa, nếu không tinh mắt đố nhìn ra được.

- Dưa không ? Ai ăn dưa không ?

Một cô bé nhà quê đầu đội thúng dưa hấu vừa đi vừa rao lảnh lót từ tốp thợ này đến tốp thợ khác, đon đả chào mời với hy vọng bán được mối hàng trong giờ nghỉ.

- Dưa, lại đây ! Ta muốn ăn dưa nhưng không có tiền, được không ?

Cô bé nguýt dài, không đáp. Cả bọn cười hô hố. Cô bé đến bên Matahachi:

- Bác mua dưa không ? Trời nắng thế này, ăn dưa đỡ khát lắm !

Matahachi lờ đờ nhìn người bán hàng, một lúc sau mới nghiêng mình móc trong bọc ra vài đồng tiền để trong lòng bàn tay, khều khều mấy cái đếm rồi đưa cả cho cô bé.

Cầm quả dưa để lên lòng, hắn ngồi yên lặng, mắt nhìn ra xa như không còn sinh lực gì nữa.


Matahachi buồn và chán nản vô cùng. Hắn lẩm bẩm rủa thầm “Khốn nạn !”, chẳng biết rủa ai, những người đã gây ra cho hắn cảnh cơ cực này hay chính cuộc sống cơ cực của hắn. Có điều Matahachi rất hận Oko và Takezo, thằng bạn đã kéo hắn vào cuộc chiến Sekigahara và con đàn bà dâm đãng mặt lúc nào cũng trát phấn trắng như vôi. Nếu không vì chúng thì bây giờ hắn đâu có thân tàn ma dại như thế này.
Matahachi nghĩ đến ngôi làng nhỏ bé Miyamoto êm đềm và thân thiết, mẹ hắn và Otsu, người vị hôn thê đôn hậu, xinh đẹp hắn đã dứt tình bỏ đi. Hắn đập tay xuống đùi, muốn gào lên uất hận, nhưng tiếng kêu không ra khỏi cổ, cả tâm thân gầy guộc vẫn ngồi ì ra đấy. Ruồi nhặng vo ve trên đầu, hắn chẳng thèm đuổi, thấm thía nỗi bất lực cùng cực của mình. Sự trụy lạc tinh thần hơn cả sự trụy lạc thể chất làm hắn sống mà không khác gì một xác chết !


Năm năm rồi ! Hắn đã bỏ phí năm năm kể từ ngày bị con đàn bà ấy mê hoặc !

Chẳng biết bây giờ Otsu ra sao ! Hắn trở về xin lỗi liệu nàng có tha thứ cho hắn không?

Và còn thằng Takezo nữa, nghe nói nó đã đổi tên và nổi danh Samurai ... Nỗi ghen tức ngấm ngầm trào lên làm hắn tắc nghẹn ở cổ họng.


Một người phu đẽo đá cùng công trường lại gần:

- Matahachi ! Mày sao thế ? Sao mặt mày xanh vậy ?

Matahachi mỉm cười héo hắt. Nước bọt trào đầy miệng, hắn buồn nôn, quay sang bên cạnh nhổ, rồi chậm rãi:

- Không sao ! Có lẽ trúng gió ! Để tao nghỉ lát nữa chắc đỡ.

Người phu nhìn Matahachi ái ngại, thấy nó yếu quá, muốn giúp nhưng chẳng biết làm thế nào. Gã hỏi bâng quơ:

- Mày không ăn được dưa thì mua làm gì ?

Bấy giờ Matahachi mới sực nhớ đến quả dưa để trên đùi:

- Ừ, mày mang ra đem chia cho chúng nó, tao thết. Nói giùm với ông cai tao mệt, xin nghỉ buổi nay.

- Ê ! Tụi bây lại ăn dưa ! Thằng Matahachi thết đây này !

Matahachi nhếch mép cười thiểu não, chẳng biết là cười hay mếu. Năm sáu người phu chạy đến đập dưa vào thành đá, tranh nhau ăn nhồm nhoàm, không ai để ý đến kẻ thết dưa ngồi ủ rũ ở một góc.
Qúa ngọ, một người bước ra, tay cầm roi gọi thợ vào làm. Chẳng bao lâu, phu phen lại chia thành từng tốp bốn người một, quàng thừng vào vai kéo những phiến đá lớn.


Tiếng hò nổi lên, không khí oi nồng buổi trưa trở lại nhộn nhịp.
Những bài hò kéo đá bấy giờ không biết ai đặt ra, rất được phổ biến trong dân gian, đến nỗi quan đầu xứ có thế lực lúc ấy là Hachisuka cũng phải chép vào sớ tâu lên hoàng thượng. Trong các điệu hò, có điệu sau đây được khuyến khích hơn cả và được coi như điệu chính thức của phu kéo đá tại những công trường như Kyoto và Edo:


Đá kia trong núi ... dô ta là hò dô ta, Ta đục mang về ... dô ta !
Mang về ta xẻ ... dô ta là hò dô ta, Ta xẻ ta cưa ... dô ta !
Xây nhà cho chúa ... dô ta là hò dô ta, Chúa bảo ta nghe ... dô ta !
Hết lòng đến chết !



Trẻ hò, già hò, riết rồi quen tai, ai cũng thuộc lòng, thành ra những bài hò này đi vào đời sống dân dã. Dưới thời Shougun Ashikaga, các điệu hò phần nhiều đồi trụy, dâm dật, thường chỉ thấy xuất hiện trong các thanh lâu tửu quán. Đến thời Hideyori, vào những năm sung túc, có nhiều điệu hò tươi vui, rồi khi Tokugawa lên nắm quyền chính, các điệu hò dần dần đổi khác. Nghe kỹ thì những tiết điệu và lời ca có phần gò bó. Khi uy quyền Tokugawa đã vững, những điệu hò dân gian càng ngày càng kém đi, không còn được tự do cởi mở như trước. Tình cảm không còn bộc lộ tự nhiên, lời ca thì nhạt nhẽo đầy xu nịnh phần nhiều do bọn nhạc nô đặt ra để ca tụng giới cầm quyền.


Matahachi ngồi ngả người, dựa lưng vào thành đá, một tay co lại gối đầu. Da hắn nóng hầm hập, lỗ tai lùng bùng. Tiếng hò của thợ thuyền vang đến, hắn chẳng nghe rõ, chỉ văng vẳng như có người đánh trống. Trên cao, mặt trời vẫn hắt xuống những tia lửa gay gắt, tàn nhẫn. “Cứ đà này chắc không kham nổi. Năm năm mười năm cũng đến thế thôi, làm ngày nào chỉ đủ ăn ngày đó, nghỉ làm thì nghỉ ăn ...”. Trong cơn thất vọng cùng cực, ý tưởng tự sát lởn vởn trong óc, Matahachi lắc đầu như để xua đuổi ý tưởng hắc ám ấy.


Bỗng nhiên, hắn có cảm tưởng có người đến gần bên. Hắn ngẩng nhìn, quả nhiên thấy một thanh niên đứng đó từ bao giờ. Gã đội chiếc nón nan chụp xuống tận mắt, quần áo phu trắng bụi đường, bên hông đeo trường kiếm và một túi vải thô giống như túi của khách giang hồ vẫn thường dùng, trên nón gắn một phù hiệu hình quạt, cứng, có lẽ tết bằng sợi kim khí mưa nắng đã làm đen xỉn. Thanh niên đứng nhìn Matahachi một lúc rồi lên tiếng hỏi:


- Bác này không làm hay sao mà ngồi đây ?

- Tôi mệt.

- Chắc cảm nắng rồi !

Nói xong, hắn bỏ đến đứng trong bóng rợp một tảng đá lớn quan sát công trường.

Gã rút trong bọc ra quyển sổ, tìm phiến đá bằng phẳng đặt lên rồi ngồi bên cạnh hí hoáy biên chép. Nắng như đổ lửa trên đầu gã, nhưng hình như gã không để ý, chẳng coi vào đâu. Nhìn Matahachi, thanh niên đột nhiên nhớ ra điều gì, mở bọc lấy một cái lọ sơn then dẹp, dốc vào lòng bàn tay hai viên thuốc đỏ như chu sa và nhỏ bằng mắt tôm, đem đến cho hắn:

- Bác kia, uống thuốc này đi, công hiệu lắm !

- Cám ơn bác.

Matahachi bỏ thuốc vào miệng, nhấm nhấm trên đầu lưỡi. Mùi thuốc thơm sực nức, trong giây lát hắn thấy dễ chịu hẳn.

- Bác còn ngồi nghỉ đây lâu không ?

- Dạ, cũng định ngồi cho khỏe hẳn đã.

- Vậy ta nhờ chút việc này. Bác trông chừng có ai đến thì báo cho biết. Ném hòn sỏi chẳng hạn.

- Dạ được.

Thanh niên trở về chỗ cũ, lại giở sổ ra ghi chép và hình như vẽ cả họa đồ. Dưới vành nón nan, đôi mắt gã đưa đi đưa lại, thỉnh thoảng lại ngẩng nhìn về phía lâu đài có vẻ tư lự. Trước khi xảy ra chiến dịch Sekigahara, đạo quân tây biên của lãnh chúa họ Toyotomi đã tiến đến chân thành này và đã tấn công làm sát mất một góc thành. Công tác trùng tu được dự định từ lâu, bây giờ mới thực hiện. Matahachi nghĩ thầm có lẽ đây là người thuộc phe Hideyori đến dò xét tình hình, nhưng hắn không nói gì. Trước kia, hắn cũng đầu quân dưới trướng họ Toyotomi, hơn nữa lại có cảm tình với gã thanh niên đã cho hắn hai viên thuốc.


Có tiếng chân người bước lại gần. Matahachi thoáng thấy bóng viên đốc công, định nhặt hòn sỏi ném nhưng quá trễ, bèn huýt gió làm hiệu. Viên đốc công đã đến sau lưng, gã thanh niên mải biên chép không biết, đến khi giơ tay đập con ruồi trên gáy mới chú ý. Gã ngẩng nhìn, một thoáng lo sợ lộ ra trong ánh mắt.

- Ngươi làm gì vậy ?

Vừa nói, viên đốc công vừa đưa tay định cầm quyển sổ đặt trên phiến đá, nhưng gã thanh niên đã nắm vội lấy cổ tay:

- Ngươi không có quyền !

Bốn mắt nhìn nhau, thách đố.

- Sao không có quyền ? Ta làm nhiệm vụ !

- Ngươi là ai ?

- Đốc công công trường này ! Ta muốn xem ngươi vẽ gì.

Rồi giằng tay ra đoạt quyển sổ. Gã thanh niên giật lại. Đôi bên giằng co, quyển sổ đứt làm hai mảnh.

- A tên này gớm thật ! Ngươi định phi tang phải không ? Ngươi đến đây do thám chứ gì ?

- Ta học kiến trúc, không do thám gì hết !

Viên đốc công giật tay ra:


- Nói láo ! Nếu không đưa sổ, ta bắt !
- Ta không làm gì trái, ngươi lấy quyền gì bắt ta ?
- Ta có bổn phận ngăn gian tế. Theo ta về đồn, chuyện gì nói sau !
- Không.
Viên đốc công rút roi ra.
- A tên này bướng ! Có đi không ?
Nhưng gã thanh niên chẳng phải tay vừa, nhanh như chớp nhảy xổ lại, một tay nắm cổ áo, tay kia bẻ quặt tay viên đốc công ra sau lưng rồi cứ thế đẩy về phía trước. Gã dùng thủ pháp gì không biết, viên đốc công đau đớn há mồm, mặt đỏ gay, những tiếng ú ớ như tắc nghẹn trong cổ họng. Thanh niên đẩy viên đốc công đến một tảng đá lớn, chẳng nói chẳng rằng, đập mạnh đầu ông ta vào một tảng đá.
- Đồ chó đ ...
Tiếng rú thê thảm của viên đốc công khỏa lấp lời chửi bới tục tằn. Matahachi kinh hãi tột độ, giơ tay bưng đầu nhưng mắt vẫn nhìn rõ máu và óc nạn nhân phọt ra tung tóe. Một cơn lốc nổi lên cuốn bụi cát bay mù mịt, thổi chiếc nón nan của gã thanh niên rớt xuống đất. Dưới ánh nắng chói chang, nét mặt gã hiện rõ, da mặt xạm đen, rỗ chằng chịt và cằm hơi lẹm. Mồ hôi Matahachi đổ ra như tắm. Hắn không ngờ con người đối với con người lại có thể tàn nhẫn đến thế, dù trong cơn tức giận. Hắn thấy thanh niên kia tàn bạo quá, tự nhiên bao nhiêu thiện cảm dành cho gã mất hết.
Gã lẹm cằm không chạy ngay, cúi xuống nhặt những mảnh quyển sổ bị gió thổi bay tan tác. Cầm chiếc nón nan đội lên đầu, buộc quai cẩn thận xong, gã mới bỏ đi, trước còn thong thả sau rảo bước nhanh như chạy. Matahachi vừa sợ vừa e liên lụy, lẩn vào trong một bụi cây rậm.
Diễn biến xảy ra rất nhanh, thợ thuyền phu phen chẳng ai biết. Họ vẫn tiếp tục gò lưng kéo những phiến đã lớn đặt trên những khúc gỗ tròn cho dễ di chuyển dưới trời nắng gắt. Nhưng trên chòi cao giữa công trường, có người nhìn rõ hết. Phu canh trên chòi báo tổng giám thị, lập tức tiếng tù và báo động nổi liên hồi, phu phen chạy tán loạn.
- Gì vậy ? Chuyện gì vây ?
- Đánh nhau hả ?
- Chắc cháy chỗ nào rồi ! Nắng khô thế này ...
Tuyệt nhiên không ai ngờ viên đốc công vừa bị hạ sát. Có người nói:
“Gian tế đến do thám”, thế là một đồn mười, mười đồn trăm, họ bỏ việc ào ào đi bắt kẻ gian, làm như kẻ gian có thù riêng với họ !
- Đâu ? Kẻ gian đâu ? Nó chạy lối nào ?
- Cổng đằng tay !
Trên chòi nói vọng xuống.
Mọi người ùa ra cổng tây. Đúng lúc ấy có chiếc xe bò chở cỏ vừa tới, gã lẹm cằm chạy ra bám vào thành xe định leo lên trốn bị ngay tên lính canh dùng cây gậy móc xuống. Gã ngã sóng soài. Mọi người xông vào định bắt sống nhưng gã như cọp dữ vùng lên giật cây gậy trong tay người lính, đập anh ta chết tốt. Tiếng viên tổng giám thị Oang oang ra lệnh:
- Bắt lấy nó ! Bắt lấy nó ! Đừng để nó thoát !
Hàng trăm người la hét phụ họa:
- Bắt ! Bắt !
Nhưng người la hét thì nhiều nhưng không ai chịu vào bắt. Những kẻ hăng hái nhảy vào đầu tiên đều bị gã lẹm cằm dùng gậy đánh dạt ra cả. Vòng vây càng lúc càng dày. Gã vất gậy, rút trường kiếm đánh soạt, đứng thủ thế. Chiếc nón nan che kín mắt, không biết gã nhìn ai nên ai cũng sợ. Tiếng reo hò inh ỏi, bụi cát mù mịt, quanh cảnh không khác gì một bãi chiến trường nhỏ. Đột nhiên có hòn đá không rõ ai ném, trúng vào lưng gã thanh niên. Gã quay lại vung kiếm, vòng vây rộng ra được khoảng chừng vài thước. Lại hòn đã nữa ném tới, rồi không ai bảo ai, đá lớn nhỏ quăng vào như mưa, tiếng hò reo chửi rủa vang trời dậy đất. Gã thanh niên tối tăm mặt mũi, giơ kiếm đỡ, chẳng may một hòn đá khá to trúng ngay đầu, gã ngã lăn ra. Ai cũng tưởng rồi gã sẽ vùng dậy, không ngờ gã cứ nằm ì ra đấy, tay chân giật không ngớt, thanh trường kiếm văng sang bên cạnh. Ba bốn người phu lực lưỡng nhảy vào đè chặt lấy gã nằm yên dưới đất, rồi mạnh ai nấy tới, đánh, đạp không còn sợ hãi gì nữa.
Viên tổng giám thị chạy đến gần thì gã đã mềm như bún, mắt trợn ngược, máu ở miệng và mũi chảy ra lẫn với đất cát bê bế trên mặt. Người ta hè nhau trói gã lại buộc vào phiến đá gần đó. Ồn ào một lúc rồi dịu dần, công trường trở lại như cũ, trừ vài người được cắt cử lo việc quàn xác hai nạn nhân bị gã thanh niên đánh chết.
Matahachi ở bụi cây chui ra, tò mò đến gần gã thanh niên lẹm cằm bị trói còng queo dưới nắng, cạnh người lính cầm gậy đứng canh chừng.
- Này gã kia ! Không đi làm hả ? Đứng đấy làm gì ?
Người lính gọi.
- Ơ ... Ơ ... tôi ốm, nghỉ bữa nay.
- Vậy hả ? Vậy ngươi trông chừng tên này giùm, ta ra nhà sau chút. Nó chết rồi, không sợ !
Matahachi không đáp, nhìn gã thanh niên, mắt lạc thần. Hắn thở dài:
“Kiếp người sao mà mong manh quá ! Mới đây còn là thanh niên trai tráng, ngồi đó chăm chú ghi chép bây giờ đã ra người thiên cổ ! Có phải gian tế không hay thực chỉ là một thanh niên hiếu học, quá nhiều máu nóng, dễ bị công phẫn, khích động ?” Nhìn xác gã lẹm cằm, hắn động lòng trắc ẩn. Mặt gã loang lổ những vết máu với đất cát, hàm răng vẫn còn nghiến chặt như căm giận chưa nguôi, quần áo rách tơi tả, một ống chân thò ra để lộ vết thương máu đã đen lại dưới nắng. Khúc xương - xương hay gân ? - trắng hếu. Đàn kiến đen bắt đầu bu lại gần, bò quanh quẩn. Bất giác hai hàng nước mắt ứa ra, Matahachi thương cho số phận người thanh niên không quen biết.
“Gã này còn trẻ, chắc nhiều tham vọng lắm. Như ta. Không biết cha mẹ là ai, còn sống không ? Quê quán ở đâu ? Mong ước những gì mà vì một chút vụng tính, bỏ xác nơi đây ? Nếu gã thông minh một chút, chắc đã xử sự khôn khéo hơn, biết đâu sau này chẳng thành công trong xã hội ...”. Hắn giật mình, hồi tưởng lại những hành động dại dột của mình trong năm năm qua. Sự ao ước nổi danh như Musashi vẫn không giảm, nhưng theo kiếm đạo mà kết cục ra thế này thì hắn không màng. Con đường ấy quá cam go và nguy hiểm.
Đột nhiên, Matahachi thấy tay xác chết dường như động đậy. Ngạc nhiên và sợ hãi cắt đứt dòng tư tưởng của hắn. Hắn chú ý nhìn kỹ hơn, quả nhiên thấy ngón tay giữa của gã thanh niên co vào duỗi ra từ từ có vẻ như khó khăn lắm. Mắt gã vẫn trợn ngược nhưng bây giờ thấy có sinh khí hơn, hình như gã muốn nhắm mắt lại, nhưng máu đọng khô cứng trên mi, không cho gã làm theo ý muốn.
Ngón tay bây giờ cử động mạnh hơn, rồi cả bàn tay quều quào co vào duỗi ra một cách khó nhọc dường như vẫy gọi. Matahachi mở banh mắt nhìn, ngạc nhiên tột độ.
Xác gã thanh niên lẹm cằm từ từ lật sấp, hai bàn tay đầy máu đen cứng cào vào đất nhích từng chút từng chút, không khác gì con rùa bò ra bể sau khi vừa đẻ trứng xong ở trên bờ. Tảng đá to như thế, nặng có đến hàng trăm cân mà gã kéo đi được, thật đáng sợ cho sức vóc gã và sức mạnh của con người khi phải tranh đấu với cái chết. Từ cổ họng gã thanh niên phát ra những tiếng khò khè. Gã muốn nói gì chăng ? Đôi mắt van lơn cầu khẩn. Matahachi quỳ xuống ghé tai sát miệng kẻ sắp chết cố nghe xem gã nói gì.
- X ... xi ... xin ...
Nhưng chỉ có thế. Những tiếng khò khè lục ục trong cổ họng gã thanh niên làm Matahachi không thể nào nghe rõ những lời trối trăn của gã. Mắt gã thanh niên lạc thần hẳn đi, miệng méo lại trông thật ghê sợ, một dòng máu lẫn nước rãi trào ra bên khóe mép. Gã rướn mình lên một cái, đầu ngoẹo sang bên, thế là hết !
Matahachi trừng trừng nhìn xác chết:
những vết sẹo rỗ lõm hẳn xuống dưới ánh nắng, cái cằm lẹm thêm, chân râu trước đây trông không rõ bây giờ đâm ra tua tủa. Hắn giơ tay vuốt mắt người chết, miệng lẩm bẩm một câu kinh ngắn.
Trong trận Sekigahara, Matahachi đã thấy nhiều xác người, nhưng chưa bao giờ chứng kiến một cái chết đau thương và tức tưởi như của gã thanh niên này. Hắn uể oải đứng dậy định bỏ đi, nhưng nghĩ sao lại ngồi xuống. “Không biết gã này định nói gì ?”.
Matahachi thấy mình có phần nào trách nhiệm trong cái chết của gã thanh niên. Nếu hắn trông thấy viên đốc công sớm một chút, báo cho gã biết, có lẽ ... có lẽ ... Hắn đoán gã thanh niên lúc lâm chung, chắc muốn nhờ hắn giúp chuyện gì đó, bèn bò đến gần nắn áo và thắt lưng. Bốn bề vắng lặng như tờ. Dưới ánh nắng chang chang, chỉ có đàn ruồi vo ve trên những chỗ vết thương máu đọng.
“Chắc gã muốn nhờ mình mang những vật tùy thân và kỷ niệm về cho người ở nhà. Âu cũng được. Ta có một mình, dò hỏi thân nhân và quê quán gã chắc không khó”.
Bèn thò tay vào trong bọc xác chết lấy ra được một cái túi buộc ngay vào bọc mình. Hắn còn định cắt mớ tóc của gã thanh niên để làm tin, nhưng nhìn nét mặt người chết, hắn rùng mình, vả nghe tiếng chân người đi tới, nên thôi.
Matahachi lẩn vội vào sau một tảng đá nhìn ra. Hai người lính với người cai mang một chiếc cáng làm sơ sài bằng tre đến khiêng xác đi. May quá ! Trễ chút nữa, chắc hắn bị xét hỏi và làm rầy rà rồi !
Chờ cho cả ba người đi khỏi, Matahachi mới men theo đường mương cạn, lợi dụng bóng những phiến đá lớn che khuất mắt lính canh, bò ra ngoài. Đến xế chiều, hắn về tới nhà trọ sau một tiệm bánh. Bước qua sân, nhìn bà chủ đang gội đầu, cánh tay trần trắng nhễ nhại, hắn lẻn ra phía sau không muốn cho ai biết, nhưng bà ta trông thấy, gọi:
- Bác Matahachi hả ?
Hắn ậm ừ, bước nhanh vào phòng, quơ vội cái áo nhét vào tay nải, tháo thanh kiếm treo trên tường, buộc cái khăn lên đầu rồi hối hả ra ngoài.
- Bác không ở nhà ăn cơm ư ?
- Không. Tôi bận ra phố ngay bây giờ có chút việc.
- Về sớm không ?
- Chắc khuya. Khi về tôi gọi cửa. Cám ơn bà nhé !
Rồi hắn tất tả đeo tay nải ra cổng, theo đường mòn đến giữa cánh đồng, ngoái cổ lại nhìn đã thấy lính tuần đứng lố nhố trước cửa tiệm bánh. Hú vía ! Matahachi mừng thầm trong bụng. Suýt nữa thì bị tóm ! Tuy không làm điều gì trái, vì hắn tự cho có bổn phận phải theo ý người chết, nhưng lúc nào hắn cũng nơm nớp lo sợ. Tình ngay, lý gian!
Có điều chắc chắn hắn không dám trở lại công trường nữa rồi. Thế là mất toi một ngày công, rồi mai làm sao đây ? Hắn phân vân chẳng biết tính thế nào nữa.
Trời mỗi lúc một tối dần. Những bụi đài bi mọc đầy bãi hoang đổi sang màu đen sẫm, và trên ngọn đã lãng đãng vài vệt sương mờ mờ như khói. Trong xóm nhìn ra, khó mà phân biệt được người với vật. Giờ này trốn đi thật dễ, nhưng trốn đi đâu ? Osaka ?
Nagoya ? Edo ? Chẳng đâu hắn có bạn hay người quen thuộc, thôi thì cầm bằng như gió đưa, muốn đến đâu thì đến ... Matahachi tặc lưỡi, cứ xông bừa tới trước. Càng đi càng sâu vào vùng hoang dã. Bên cạnh những bụi đài bi, bây giờ lại có cả lau sậy cao quá đầu người, lá sắc và ráp cắt vào mặt hắn xon xót. Gió đầu thu thổi hơi lạnh, Matahachi hoang mang chẳng biết nên lùi hay nên tiến. Cơn sốt buổi trưa đã hết, bây giờ hắn khát và đói dữ dội, chỉ mong được một chỗ có nước uống và bát cơm với chút dưa muối thì tốt quá !
Đi một lúc nữa, Matahachi trông thấy hình như có ngôi nhà lẩn trong đám lau sậy. Hắn rảo bước, mừng thầm được chỗ trú chân nhưng đến gần mới biết ngôi nhà bị bỏ hoang. Hàng rào đổ nghiêng, mái thủng nhiều chỗ để lộ cả rui mè loang lổ rêu xanh.
Nhà trước kia lợp ngói, bây giờ lợp cỏ, chắc của gia đình nào vào hạng khá giả, tuy đổ nát nhưng cách kiến trúc vẫn còn mang một vẻ thanh lịch tàn tạ. Vài con chim nhỏ thấy động bay ra, chao đi chao lại trên mái.
Cảnh vật đìu hiu khiến Matahachi liên tưởng đến bốn câu thơ thường được nghe khi còn ở quán Yomogi, do các nàng chiêu đãi ngâm lúc kể chuyện cho khách:
i[]Hà xứ thu phong chí
Tiêu tiêu tống nhạn quần ?
Triều lai nhập đình thủ
Cô khách tối tiên văn.
Dịch:
Gió thu phương nào tới.
Hiu hiu đuổi nhạn về ?
Sớm qua cây trước ngõ.
Khách lạ trước tiên nghe.

Acmagiro
17-02-2008, 04:57 PM
Matahachi ôn lại những câu thơ. Cả một trời kỷ niệm xốn xang trong ký ức. Hắn chính là kẻ cô khách, đến đây mong tìm chút lửa ấm.
Căn nhà tối đen, vắng lặng. Đúng lúc hắn bước lên hiên định vào trong nhà thì có ánh đèn ai mới thắp leo lét qua tấm phên tre. Matahachi nhảy vội sang bên, nín thở, ghé mắt nhìn vào. Trên chiếc bồ đoàn rách nát, một người đàn ông gầy khoác tấm vải gai, ngồi trầm mặc. Ngọn đèn dầu độc nhất chỉ đủ chiếu ánh sáng vàng vọt lên khuôn mặt khắc khổ, không rõ tuổi của người ấy. Người đàn ông lấy sáo ra thổi, điệu nhạc thê lương, nghẹn ngào có lẽ chỉ để riêng ông ta nghe khiến Matahachi rùng mình. Không biết người đàn ông ấy thuộc hạng người nào, nhưng trông cách ăn mặc thì có vẻ nửa đạo sĩ, nửa khất cái. Thổi xong một điệu, ông ta lại ngồi một mình lẩm bẩm. Matahachi lắng tai:
- Cứ bảo tứ thập nhi bất hoặc, sao ta vẫn còn mê muội ? Tình ái, danh vọng, tiền tài, vì những thứ đó mà nghiệp báo không dứt ! Jotaro ! Jotaro ! Bây giờ con ở đâu ? Ta nhẫn tâm bỏ con, thật đáng trách !
Người đàn ông cúi thấp đầu dường như xin lỗi ai hay tự trách phạt, rồi lại ngẩng lên nhắc lại những câu vừa nói. Matahachi chẳng hiểu gì, đồ chừng gã này điên. Hắn tránh không muốn vào, định tìm chỗ khuất trong bếp hay nhà sau nghỉ tạm thì vừa lúc ấy người đàn ông đứng lên, cầm sáo, gậy và nhặt luôn cả chiếc bồ đoàn rách mang theo, khập khiễng bước ra cửa lầm lũi đi như một bóng ma trong màn đêm bắt đầu buông dày đặc.
Matahachi bước vào, đến bên ngọn đèn lẻ loi. “Lão già thật cẩu thả ! Để lửa thế này rồi bỏ đi, chẳng may nó bén vào cái gì thì cháy hết !”. Hắn nghĩ đến những ngôi cổ tự hoang phế tự nhiên bị thiêu rụi, một phần chắc cũng vì những tên thiếu trách nhiệm, điên khùng như lão này cả.
Thấy lành lạnh, Matahachi chạy ra ngoài nhặt cành khô đem vào nhóm lửa rồi bó gối nhìn. Ánh sáng bập bùng làm căn phòng ấm và sáng thêm chút đỉnh. Hắn ngước nhìn trần, cột kèo tuy cũ nhưng đẽo gọt tinh vi, có vẻ trước đây là một ngôi đền chứ không phải tư thất. Ở góc phòng, đột nhiên hắn trông thấy một vật làm hắn reo lên mừng rỡ. Chẳng phải đồ cổ ngoạn hay vật gì quý giá nhưng là một cái nồi đất đen xì, trên đậy tàu lá, bên cạnh là một hũ sành con mẻ miệng. Matahachi đến mở nồi thấy có cơm, bèn bưng cả ra bên đống lửa. Trong hũ sành còn một chút sa-kê, hắn bưng hũ tu rồi thò tay vào nồi bóc cơm ăn. Bữa ăn chưa bao giờ ngon đến thế !
Ăn hết chỗ cơm, bụng mới hơi lưng lửng, Matahachi nằm dài, giơ tay vươn vai khoan khoái. Sực nhớ đến điều gì, hắn vội nhỏm dậy, móc trong bọc ra cái túi của gã thanh niên lẹm cằm chết hồi chiều. Hắn mở túi dốc cả ra sàn:
một cái lọ đen nhỏ xíu đựng thuốc, ít bạc vụn, một cái túi nhỏ nữa bằng da thuộc màu đỏ tía và một vật mềm gói giấy dầu. Hắn cởi túi da ra xem. Trong túi toàn tiền vàng, hắn không biết giá là bao nhiêu nhưng quả chưa bao giờ được cầm nhiều vàng như thế. Vừa mừng vừa sợ, tay run run, hắn buộc ngay lại, nhét vội vào trong bọc mình, ngồi thừ người ra một lúc:
“Ơ ...
tiền này ... tiền này ... để rồi trả lại cho thân nhân gã !”.
Hắn lại nắn cái gói giấy dầu. “Không biết trong này đựng gì ? Chắc là vật gì bí mật và quý giá lắm gã muốn mình mang về quê quán cho gã. Hay thôi, chuyện bí mật của người ta, mình chẳng nên biết !”. Matahachi ngần ngại, cất đi rồi lại lôi ra mấy lượt.
Sau không dằn được tò mò, hắn run run mở gói giấy. Một tờ hoa tiên đã vàng rơi ra, hắn trải tờ hoa tiên trước đống lửa, lẩm nhẩm đọc:
“Chứng thư, Võ đường Toda Seigen chứng nhận Sasaki Kojiro đã thụ huấn xong toàn bộ giáo lý và kỹ thuật thuộc bảy môn học gia truyền của kiếm pháp Chujo, gồm:
- Phần bí truyền:
Hoa vũ kiếm, xa luân kiếm, trảm nhạn kiếm.
- Phần công truyền:
Phiên phiên lưu thủy kiếm, khinh chủy vô hình kiếm, bằng dực song kiếm, truy hồn đoạt mệnh kiếm.
Vậy cấp cho Sasaki Kojiro chứng thư này để làm bằng.
Toda Seigen, mùa đông năm quý ngọ, Chưởng môn:
Kanemaki Jisai”.
Cầm tờ chứng thư, Matahachi biết được tên gã thanh niên lẹm cằm là Sasaki Kojiro. Như vậy cũng đỡ cho hắn phải dò hỏi lôi thôi. Nhưng tên Sasaki Kojiro và cả tên Kanemaki Jisai, người chưởng môn kiếm phái Chujo cũng không gợi cho hắn thêm được điều gì. Hắn chỉ biết Ito Yagoro, thường được gọi là Ittosai, người cũng theo kiếm phái Chujo và nổi danh lắm, nhưng đâu có rõ Ito còn là học trò Kanemaki Jisai.
“Thật đáng tiếc ! Một thanh niên nhiều triển vọng như vậy mà phải chết uổng !”.
Matahachi gấp tờ chứng thư lại, gói cẩn thận vào giấy dầu rồi cất vào trong bọc cùng với túi tiền của Sasaki Kojiro. Hắn đọc một bài kinh ngắn cầu cho linh hồn người chết được siêu sinh tịnh độ, tự hứa sẽ đem tiền và chứng thư trao trả đầy đủ cho thân nhân gã rồi cởi áo nằm ngủ. Trong lúc chập chờn, Matahachi tưởng như nghe tiếng sáo nghẹn ngào của lão khất cái điên dại văng vẳng trên đầu những ngọn lau lách xa xa.

Acmagiro
19-02-2008, 07:03 AM
QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 21
ĐƯỜNG CÔNG DANH



Trời hửng sáng, căn nhà hoang giữa rừng lau càng thêm tiêu điều, hiu quạnh.
Sương mù đọng trên mái chưa tan, gió sớm qua kẽ ván lùa hơi lạnh bên ngoài vào gian phòng trống trải. Mây xám giăng ngang bầu trời nặng trĩu và ảm đạm.
Thu đến rồi, đến thực rồi ! Nỗi u buồn bao trùm cả cảnh vật và len lỏi vào lòng người cô khách.
Đạo sĩ khất cái, lưng đeo sáo, tay xách bồ đoàn, chống gậy khập khiễng trở về, tấm vải gai khoác trên lưng ướt đẫm sương đêm. Đến cửa, lão dường như quá mệt, đặt bồ đoàn bên vách dựa lưng ngồi nghỉ, dáng thiểu não chẳng khác gì một linh hồn phiền muộn. Cơn gió lạnh thổi qua, đạo sĩ hắt hơi luôn mấy cái, mũi rãi ròng ròng chảy xuống bộ râu lốm đốm bạc lão cũng chẳng thèm lau, cứ ngồi thở dốc. Một lúc sau mới chống tay đứng dậy mở cửa bước vào nhà.
Việc đầu tiên lão nghĩ đến là hũ rượu, nhưng bước vào phòng, lão ngạc nhiên không thấy đâu. Trong cảnh tranh tối tranh sáng của gian phòng đổ nát chỉ có đống củi đã tàn, và bên cạnh, một người co quắp nằm ngủ. Đạo sĩ giật mình, định thần nhìn. Hũ rượu mẻ miệng và nồi cơm vất lăn lóc gần đó. Cúi xuống nhặt, lão ghé hũ sát vào tai lắc mấy cái:
không nghe tiếng gì, bình rỗng tuếch ! Chắc tên lang bạt này đã uống rượu của lão. Hừ ! Đáng giận thật ! Cơm có thể bỏ qua, nhưng có chút rượu để uống cho ấm bụng cũng tu hết thì thật tàn nhẫn. Không dằn được cơn tức, lão co cẳng đá anh chàng nằm ngủ một phát như trời giáng.
Matahachi choàng dậy, nhìn lão đạo sĩ.
- Ngươi là ai, sao vào đây uống rượu của ta ?
Matahachi tỉnh hẳn ngủ, hắn nhăn mặt:
- Thế ra rượu của lão đấy hử ?
- Không của ta thì còn của ai ? Ai cho phép ngươi uống rượu ấy ?
- Trót mất rồi, đạo sĩ tha lỗi.
- Này trót !
Và bồi thêm một cước nữa.
- Cha ! Lão này dữ quá ! Ta xin lỗi rồi mà !
- Xin lỗi không, không đủ !
- Vậy lão muốn gì ?
- Trả lại rượu cho ta !
Matahachi cười hềnh hệch. Hắn vỗ vào bụng:
- Rất tiếc, ta không mổ bụng ra lấy rượu trả lại được.
Nhưng lão đạo sĩ không nghe, vươn cổ sát tận mặt hắn:
- Đồ ăn cướp ! Ngươi không biết ta phải vất vả đi từng nhà mới xin được một chút cơm và một chút rượu ! Ta già nhưng cũng phải sống chứ ! Ngươi đói, ta cho cơm, nhưng rượu, phải trả lại cho ta !
Trong cơn tức giận, giọng lão lạc đi, môi run run, nước bọt bắn cả vào mặt Matahachi. Hắn phải quay đi, lê mình sang bên vách tránh.
- Này lão già, đừng có làm quá ! Đáng gì vài giọt rượu chua với chút cơm nguội, ta trót ăn rồi, đã xin lỗi ! Làm gì mà nhặng lên thế ?
- A, ngươi bảo ai nhặng ?
Đạo sĩ nắm tay áo Matahachi. Hắn giật ra định đạp ông già xuống sàn thì lão đã nhanh nhẹn né tránh và thuận tay dùng một thế nhu đạo tung hắn qua cửa sổ. Matahachi chưa kịp kinh ngạc về ngón đòn sử dụng một cách tinh thục này thì đã rơi ra ngoài hiên. Sàn hiên mục đổ đánh rầm, bụi bay mù mịt, kéo theo hàng lan can gỗ và tấm liếp phủ lên đầu Matahachi. Hắn lúng túng như ếch nằm trong rọ, tay chân vướng vít không sao thoát ra được.
Đạo sĩ chạy lại nắm áo hắn lên giật liên hồi, sẵn gậy để bên, cầm bổ xuống đầu hắn như mưa bấc. Áo Matahachi bị giật, tiền vàng trong bọc đổ ra rổn rảng. Lão già trố mắt:
- Chà chả ! Tiền đâu lắm thế này ?
Vớ được cơ hội tốt, Matahachi vùng dậy. Hắn bị đánh đau, thở hổn hển, hằn học nhìn lão đạo sĩ:
- Lão khùng kia ! Thấy chưa ? Ta thừa tiền trả cho lão, nhưng lão đánh ta thì phải để ta đánh lại. Đánh bao nhiêu cái, ta phải đánh lại bằng ấy cho đủ số.
Đạo sĩ không đáp, mắt đăm đăm nhìn những đồng tiền vàng không chớp. Cơn giận dường đã nguội, lão đứng thừ người, tiền không nhặt mà cũng chẳng để ý gì đến gã thanh niên lão vừa đánh. Một lúc sau mới lẩm bẩm:
- Mê muội ! Ngần này tuổi đầu vẫn còn mê muội ! Hỉ nộ ái dục theo năm lỗ sáo bay đi, ta vẫn không nhớ ! Thật đáng xấu hổ ! Rượu ta không uống, người khác uống, hà cớ gì phải phân biệt của người, của ta ? Này anh kia, vào trong này sưởi ấm, ta không trách anh nữa !
Matahachi ngạc nhiên vô hạn. Lão này tính nết thay đổi khó lường, cơn giận thoắt đến thoắt đi, chắc đã trải qua nhiều chuyện đau khổ. Hắn bất giác động lòng thương xót, nhặt mấy đồng tiền đặt vào tay lão. Đạo sĩ giật mình tỉnh mộng, rụt tay lại:
- Không, ta không lấy. Ta không cần tiền làm gì.
- Tiền bối dường như trong mình không được khỏe. Cần vãn bối giúp điều gì chăng?
- Không !
- Nghe giọng nói, hình như tiền bối quê quán ở miền tây ...
- Ờ, ngươi nhắc ta mới nhớ. Ta sinh quán ở Himeji.
- Vãn bối ở Mimasaka.
- Mimasaka hả, làng nào vậy ?
- Miyamoto.
Đạo sĩ yên lặng, nét mặt thoáng buồn. Lát sau chậm rãi như nói với chính mình:
- Miyamoto ! Nơi đó có nhiều kỷ niệm. Đồn Hinagura, ta đã đóng quân ... Chùa Shippoji ...
Matahachi ngạc nhiên:
- Xin lỗi, thế ra tiền bối trước đây là một Samurai ?
- Phải, ta là Aoki Tanza ...
Nhưng vội xua tay:
- Không, không phải ! Ta lẫn rồi, ngươi đừng để ý !
Rồi cúi xuống nhặt ống sáo và bồ đoàn:
- Ta đi đây, có lẽ mai mới về. Củi dưới bếp, nếu trời lạnh, lấy mà sưởi.
Nói xong, lom khom bước ra cổng, dáng đi phiền muộn khuất dần sau những rặng lau thưa.
oo Matahachi ngồi một mình trong gian nhà trống trải. Gió lạnh đầu thu khiến hắn co ro, hai tay thủ bọc vẫn không đủ ấm. Hắn thèm chén trà nóng và một chút đường để lấy sức, nhưng trong cảnh này kiếm đâu ra. Nghĩ lan man, Matahachi không biết vừa rồi hắn định lấy tiền của ngươi thanh niên tặng cho lão đạo sĩ có phải là một việc làm chính đáng không, nhưng hắn tặc lưỡi tự nhủ:
“Thì dù sao muốn trao tiền tận tay cho thân nhân gã cũng phải chi phí chút đỉnh chứ ! Mình không có tiền, hiển nhiên phải mượn của gã đó. Hắn tự cho là phải và bằng lòng với lập luận ấy, tin rằng vong hồn người chết chắc không phản đối gì, miễn đừng tiêu nhiều quá. Có điều Matahachi băn khoăn chẳng hiểu thân nhân Kojiro là những ai và phải đi tìm bao lâu mới thấy !
Trong thời gian tìm kiếm, lỡ tiêu hết số tiền thì tính sao ? Matahachi định dò hỏi Ito, người môn đệ kiếm phái Chujo hắn nghe danh và cũng là nguồn hy vọng độc nhất giúp hắn phanh ra manh mối.
Matahachi đứng dậy thu dọn quần áo, kiểm lại số vàng và bọc giấy dầu rồi vòng quanh căn nhà xem xét một lượt. Dưới trời thu ảm đạm, cảnh điêu tàn càng thêm rõ rệt.
Vết chân chồn cáo ngang dọc khắp nơi, cỏ dại cành gai mượn đường giậu đổ, leo lên tận mái. Nhìn cảnh hoang phế của căn nhà, Matahachi liên tưởng đến sự trụy lạc của lòng người và cái chết của Kojiro. Hắn thở dài ngao ngán. Đường đao kiếm chắc không phải là con đường dành cho hắn.
Matahachi theo đường bộ đi từ Fushimi đến Osaka, không lữ quán nào là không tạt qua dò hỏi tin tức về Ito, nhưng không nơi nào biết.
Bữa kia, gặp kẻ đồng hành, hắn lân la làm quen, hỏi thăm kiếm phái Chujo và Kanemaki Jisai.
- Ờ ờ ... tại hạ cũng có nghe. Nhưng nếu Kanemaki Jisai còn sống thì bây giờ đã già lắm. Nghe đâu ông ta quy ẩn trong một làng nhỏ vùng sơn cước. Nếu các hạ muốn rõ thêm, cứ đến Osaka hỏi một người tên Tomita làm quản giáo cho vệ binh trong phủ Toyotomi thì biết.
Lời chỉ dẫn mơ hồ quá nhưng Matahachi phải theo vì không có cách nào khác.
Đến Osaka, hắn thuê một phòng nhỏ trong một lữ quán gần nơi thị tứ rồi hỏi thăm Tomita. Chủ quán gật gù:
- Có nghe. Ở đây ai không biết Tomita, cháu Kanemaki Jisai.
Ngài dạy kiếm cho vệ binh trong phủ, nhưng đã bỏ đi từ đầu năm ngoái, hình như lui về quê, đâu như Echizen. Ờ phải, Echizen ! Khách quan cứ đến Echizen hỏi, nhưng bản quán không bảo đảm ngài còn ở đó đâu nhé !
Matahachi lại hỏi thăm về Ito.
- Ito hả ? Cũng cùng môn phái với Tomita đấy. Nghe danh thôi, không rõ ông ta ở đâu.
Lại đi hỏi thăm nhiều nơi khác. Có người nhớ mang máng đã gặp Ito ở một căn nhà nhỏ ngoại ô thành Kyoto, lâu lắm rồi, không biết bây giờ ra sao !
Matahachi thất vọng quá, muốn tung hê tất cả. Giữa đô thị rộng lớn, náo nhiệt như Osaka này, ai dại gì phí thời giờ điều tra gốc gác một thanh niên đã chết. Cuộc sống rộn rịp ngoài kia như liều thuốc kích thích tinh thần hắn. Ở khắp nẻo đường, ca lâu tửu quán, bảng cáo yết dán chi chít những lời kêu gọi, tuyển mộ vệ binh cho phủ họ Toyotomi.
Bất cứ tay giang hồ kiếm khách nào đầu quân cũng được trọng đãi. Người ta tung ra nhiều tin tức lạ lùng, như tin những lãnh chúa thất trận trước đây đều quy tụ cả dưới cờ Hideyori, rồi tay anh chị khét tiếng, đầu sỏ hàng mấy trăm du đãng vùng bến tàu bây giờ đã cạo trọc đầu, cải danh hiệu là Damon, chỉ chờ dịp nổi dậy cùng đàn em phò giúp Hideyori dành quyền chính. Họ nói tụi này sống đế vương lắm, nhờ vào tiền trong phủ chu cấp.
Hai tháng trời ròng rã, Matahachi rong chơi ở Osaka, ăn ngon mặc đẹp, thân thể đã béo tốt hồng hào, không còn như khi mới đến. Hắn phấn khởi tinh thần, chẳng quan tâm gì đến số tiền của người chết bị thâm lạm. Thấy trọ Ở lữ quán không tiện và đắt, hắn thuê một căn phòng nhỏ vùng ngoại ô, ban ngày ăn tiệm và rong chơi, rình rập cơ hội gặp người thần thế tiến dẫn vào trong phủ giữ một chức vụ gì kha khá.
Matahachi nghe nhiều chuyện khiến hắn nuôi hy vọng lớn:
nào tên giang hồ lạo thảo này trước đây phải làm phu đổ rác trong tiệm ăn, được người đề bạt, nay võng lọng nghênh ngang, đi cáng bốn người khiêng, kẻ kia chỉ biết sơ sài vài thế kiếm nay cũng trở thành quản giáo lương bổng hàng năm trên ngàn gia. lúa. Chờ cơ hội mãi không gặp, đôi khi Matahachi cũng thất vọng. Bây giờ người khôn của khó, cảnh phong lưu ở bên kia bức tường cao, đá ghép khin khít khó có kẽ nào mà chui lọt. Nhưng hy vọng vốn là lẽ sống của cuộc đời, ngày nọ qua tháng kia, chưa gặp dịp đấy thôi, hắn còn trẻ và khỏe mạnh, đâu đến nỗi. Huống chi số vàng tính ra mới vơi non nửa, nếu khéo tiêu cũng cầm cự được hàng năm nữa.
Trời mùa đông thế mà rét ngọt. Viễn ảnh mùa tuyết sắp đến làm cho mọi sinh hoạt vội vàng hẳn lên. Trên những bãi hoang ven đô, buổi sáng cỏ đã bắt đầu đóng giá. Đến trưa, những cửa hàng và những lều diễn tuồng rong cùng những quán lá tạm thời dựng lên để gá bạc đã phải trải chiếu trước cửa cho đỡ lầy lội. Càng về chiều, tiếng thanh la, tiếng trống, tiếng hò hét, chào mời càng hăng. Chỗ này chiếu bán thuốc, chỗ kia quán ăn. Mùi thịt nướng, mùi xì dầu xông lên ngào ngạt. Khi hoàng hôn chập choạng, hàng đoàn gái giang hồ phất trát như bôi vôi, tay áo kimono rộng thùng thình như những con bướm đêm, tản ra tứ phía.
Tại một quán rượu đầu phố có kê ghế đẩu ra tận hiên ngoài, hai kẻ trông ra vẻ thợ thuyền đang đấu khẩu, trước còn cãi vã, sau dùng tay chân đấm đá. Lúc Matahachi đến, bọn người hiếu kỳ vây quanh đã có hàng chục. Hắn cũng tò mò đứng ngoài khoanh tay nhìn. Nhưng hoặc vì nhờ bộ quần áo sang trọng hắn mặc, hoặc nhờ thanh kiếm hắn đeo bên sườn mà hai kẻ kia e ngại, bỏ đi không đánh nhau nữa. Đám đông tản mát. Chủ quán chạy ra niềm nở:
- Đa tạ đại hiệp. Không có đại hiệp chắc chúng còn làm dữ, gãy cả đồ, vỡ cả chén. Xin mời đại hiệp quá bộ vào trong để thiểm quán kính cẩn tạ vài chung rượu.
Chủ quán cúi đầu mấy lượt, ân cần vồn vã lắm. Matahachi thấy vui vui, tự cho mình quan trọng. Hắn hắng giọng:
- Thế nào ? Đông khách chứ ông quán ?
- Dạ, cũng khá. Gần cuối năm, ai cũng vội thành ra không mấy người ngồi lâu.
Chủ quán sai người hâm rượu ngon mang ra. Matahachi tay bưng bát rượu, tự hỏi không biết mình lại bắt đầu uống rượu từ bao giờ. Hắn đã thề không đụng vào rượu khi rời quán Yomogi vào làm phu vác đá tại công trường Mokoyama, nay số mệnh run rủi làm sao vẫn còn rượu ngon uống, áo đẹp mặc. Không hẳn hoàn toàn phì mã với khinh cừu, nhưng cũng không đến nỗi quá tệ. Hắn sung sướng dùng đũa gõ nhịp, nghêu ngao hát. Bát nọ theo bát kia, mặt Matahachi đỏ gay. Hắn lè nhè:
- Thì đôi lúc cũng phải có chén giải sầu chứ ! Nếu không, đời người còn gì là sinh thú ...
- Hà hà, phải lắm ! Ở đời cứ đắc ý vui chơi, chớ để chén vàng trơ với nguyệt ...
Người vừa nói là một thanh niên cao nhỏng, phục sức ra dáng giang hồ hiệp khách, lưng đeo trường kiếm nhưng quần áo bẩn thỉu gớm ghiếc. Y đẩy ghế đến bên bàn Matahachi, nhìn hắn từ đầu tới chân, rồi buông sõng:
- Chào huynh đài !
Tiếp theo, tay ngoắc tửu bảo:
- Cho ta một bình, thứ tốt ! Đừng hâm nóng quá !
Matahachi nhìn gã thanh niên, thấy y có vẻ như khách quen trong quán, bèn nói:
- Bằng hữu hãy dùng tạm rượu của tại hạ. Chờ hâm nóng xong cũng lâu đấy !
Thanh niên không khách sáo, tự rót rượu ra bát, uống một hơi cạn:
- Hà ! Rượu uống được lắm !
Rồi giơ tay cầm bình rót nữa, liên tiếp năm lần, không đổi sắc diện:
- Tửu lượng bằng hữu khá lắm nhỉ. Mỗi lần uống mấy bát ?
- Không biết nữa. Đệ không tính bát, nhưng chừng mười, mười hai bình gì đó.
- Chà, dữ vậy ? Tại hạ chỉ một bình là đủ.
- Đời bây giờ không say thì tỉnh làm gì ? Mấy anh cầm quyền đó tài ba gì đâu, chẳng qua chỉ nhờ vài thủ đoạn chính trị vặt mà lên, chẳng đáng cho ta phục.
Y lấy tay che miệng, ra vẻ như lỡ lời, nhưng lại ghé sát tai Matahachi:
- Nếu Osaka lại chiến tranh với Edo lần nữa thì huynh đứng về phe nào ?
Matahachi cũng say. Hắn nhớ trước đây đã chiến đấu dưới cờ Osaka nên đáp ngay không do dự:
- Osaka !
- Hoan hô ! Vậy mừng ông bạn mới !
Thanh niên vừa nói vừa lấy tay vỗ vào lưng Matahachi, tay kia cầm bình rượu rót nữa:
- Đệ xin tự giới thiệu:
Akakabe Yasoma, quận Isai. Chắc huynh đài từng nghe danh Ban Danemon, chưởng ấn quân nhu trong phủ ? Bạn đệ đấy ! Tướng quân Susukida Hayato Kanesuke cũng là chỗ thân hữu, biết nhau từ thuở hàn vi. Mấy tay kia, Ono Shurinosuke, đoàn trưởng vệ binh trong phủ, biết cả, nhưng đệ ít giao du.
Tính họ không dễ dãi thoải mãi như anh em mình, giao du không sướng !
Uống xong bát rượu, anh chàng cao nhỏng tự xưng là Akakabe Yasoma kia làm như hối hận đã tiết lộ nhiều điều không nên nói, lấy tay chùi mép:
- Nhưng huynh là ai ? Đệ chưa rõ quý danh tính ...
Matahachi tuy không tin, nhưng nghe những điều y vừa nói, cũng mừng gặp được tay quyền thế, bèn khoa trương:
- Bằng hữu có nghe danh kiếm phái Chujo bao giờ chưa ?
Akakabe Yasoma gật gù:
- Có nghe qua !
- Sư phụ tại hạ là Kanemaki Jisai, ba mươi năm trước danh trấn giang hồ. Bây giờ tiên sinh ở ẩn nhưng những đường kiếm bí truyền người tạo ra để truyền lại cho tại hạ hết ...
- Quả không ngoa ! Đệ thoạt trông đã biết ngay huynh phải là tay kiếm sỹ có hạng! Cử chỉ khoan hòa nhưng ẩn tàng một phong cách hiên ngang. Dám hỏi tôn tính đại danh là gì ?
- Tại hạ là Kojiro, đồng môn với Ito Yagoro.
- Chà, đây là Kojiro đấy ư ?
Matahachi thót ruột, định rút lại lời nói, thì gã thanh niên kia đã quỳ mọp xuống chân bàn, khấu đầu làm lễ:
- Dám xin các hạ tha lỗi cho kẻ ngông cuồng này đứng trước Thái Sơn mà không biết ! Qúy tính cao danh vang dội võ lâm, ai nghe cũng phải kính nể. Nhưng đây là lần đầu tiên tại hạ được bái yết tôn nhan, làm sao biết được ! Thật là đắc tội, đắc tội !
Matahachi ngạc nhiên khoan khoái. Hắn không ngờ cái tên Kojiro nổi danh đến thế ! Nếu anh chàng Akakabe Yasoma này là bạn bè hay thân thích gì với Kojiro thì thật khó xử, đến phải so kiếm, nhưng sự thể đã ra thế này, âu là trời định, bèn lên giọng kẻ cả:
- Bất tất phải đa lễ. Nếu bằng hữu khách sáo như thế thì làm bạn sao được.
- Xin đa tạ ! Mong rằng những lời nói ngông cuồng của tại hạ không làm rác tai các hạ.
- Thôi mà ! Bằng hữu cứ coi ta như bạn thiết, chuyện đó chẳng hề gì.
- Càng để ý càng thấy đại huynh đúng là tay cao thủ. Nhưng vẫn không hiểu sao đại huynh chưa có chức vụ gì quan trọng ?
- Ta dành thì giờ chú tâm vào việc luyện kiếm. Vả lại cũng ít giao du ...
- Như vậy, đại huynh không muốn ai biết hoặc không thích giữ địa vị gì chăng ?
- Không hẳn thế ... Ta cũng muốn mang tài ba ra giúp đời, nhưng chưa gặp cơ hội.
- Nếu chỉ có thế thì có gì khó ! Chujo kiếm vang chấn thiên hạ, tiểu đệ lại quen biết nhiều, chỉ sợ đại huynh không ưng, chứ nếu muốn, tiểu đệ xin hết lòng giúp.
Matahachi không nói gì. Chờ lúc sau, Akakabe Yasoma lại tiếp:
- Chiều mai đệ có hẹn với tướng quân Susukida Hayato Kanesuke. Đệ xin tiến cử đại huynh lên tướng quân Kanesuke xem sao. Kanesuke tướng quân là bạn cũ, chắc thế nào cũng thuận.
Matahachi mừng thầm trong bụng nhưng bên ngoài ra vẻ lãnh đạm. Hắn gọi tửu bảo trả tiền. Akakabe Yasoma lo lắng:
- Thế nào, đại huynh tính sao ?
- Chỗ này trống trải chả nên nói những chuyện ấy. Ta đi tìm nơi khác kín đáo hơn.
Akakabe Yasoma thở phào nhẹ nhõm:
- Vậy xin đưa đại huynh đi.
Hai người tới một khu ăn chơi, đủ loại ca lâu tửu quán. Matahachi muốn dẫn Akakabe Yasoma vào một quán rượu sang trọng nhưng y gạt đi, nói những nơi đó đắt tiền mà không thoải mái. Y đề nghị đến cuối xóm, vào một khu thanh lâu mà thương vụ phát đạt, theo y, chỉ riêng đèn mỗi đêm tiêu thụ cũng đến hàng trăm thùng dầu thắp.
- Rồi đại huynh xem, chỗ này nhiều thứ lạ, đáng tiền lắm. Khách làng chơi vẫn gọi là Lạc Hoa Mộng.
Matahachi vẫn ngại phải chi nhiều, nhưng thấy không khí phóng túng quyến rũ, nên tặc lưỡi theo luôn.
Họ vào một căn nhà làm trên bờ hào sát chân thành có rạch ăn thông ra biển. Mỗi khi thủy triều lên, nước tràn tới, đập vào những cột gỗ cắm làm kè phía sau nhà kêu phì phọp. Ở trên lầu nhìn xuống, nếu chú ý, người ta thấy cả những con cáy con còng, gọng đổ như son, chạy ngang dọc trên bùn tìm mồi. Matahachi rùng mình ghê sợ, có cảm tưởng như đấy là những con nhện độc. Khu Lạc Hoa Mộng này đông dân thật ! Trời mới xế chiều mà đã thấy vô số các nàng nhộn nhịp trong ngõ. Đôi khi cũng bắt gặp một khuôn mặt trẻ trung, nhưng phần lớn đều xấp xỉ tứ tuần, phấn son không che dấu được nỗi buồn trong khóe mắt hay vẻ tiều tụy của thân hình.
Akakabe Yasoma giải thích:
- Nhiều người đến đây chỉ cốt tìm hoa. Dĩ nhiên là thú vui xác thịt đầy dẫy ra đấy, nhưng nếu đại huynh muốn hưởng những thú vui tao nhã cũng không phải là không có.
Vào một đêm đông tuyết rơi đầy đất, ngồi với các nàng nghe thủ thỉ tâm tình thì cuộc đời các nàng cũng đáng thương lắm ! Đa số do hoàn cảnh đưa đẩy buộc phải làm nghề này, có người trước là phi tần trong cung lãnh chúa hoặc con em những kiếm khách danh tiếng một thời, vì cha anh thất sủng hoặc chết trận mà thành bơ vơ. Nhiều nàng tài hoa rất mực nhưng số kiếp long đong, thật đáng thương ! Nghĩ cho cùng, như đại huynh thấy đấy, ở đời này chố ô uế, rác rưởi thiếu gì những cánh hoa rụng !
Matahachi mặc cho Akakabe Yasoma gọi rượu và chọn những nàng chiêu đãi. Y xem ra nhiều kinh nghiệm và từng trải nên Matahachi tin tưởng lắm.

Acmagiro
19-02-2008, 07:04 AM
Qua một đêm hoan lạc, sáng hôm sau cả hai dậy trễ. Matahachi nghe mệt mỏi trong mình, có ý muốn về nhà trọ, nhưng Akakabe Yasoma giữ lại:
- Đại huynh ở lại đến chiều đã.
- Để làm gì ?
- Đệ đã nói chiều nay có hẹn với Kanesuke tướng quân, nhân thể tiến cử đại huynh.
Quên rồi sao ? Bây giờ đến thì sớm quá, vả đại huynh chưa cho biết điều kiện.
- Ta chẳng muốn đòi hỏi nhiều.
- Không nên ! Tay Samurai danh tiếng như đại huynh không nên nhún nhường quá.
Đòi ít, người ta coi thường đi. Đệ đòi ba ngàn gia. lúa một năm, đại huynh nghĩ sao ?
- Cũng được, tùy bằng hữu.
Buổi chiều trời mùa đông chóng tối. Xóm Lạc Hoa này ở ngay dưới chân thành, bị bóng thành che khuất nên người ta có cảm tưởng đêm đến mau hơn.
Matahachi và Akakabe Yasoma dẫn nhau ra khỏi xóm thì lác đác đã có nhà lên đèn. Qua cầu treo vào thành, đi một thôi đến khu gia cư thanh lịch, Akakabe Yasoma chỉ một ngôi biệt thự lớn, tường cao vây kín, vườn cây rậm rạp bao quanh, bảo đó là tư thất của Kanesuke tướng quân. Gió chiều trở lạnh, hơi men tan dần, cả hai rét run như cầy sấy.
- Kanesuke trước cũng chẳng có gì, như đệ thôi, nhưng nhờ được người tiến dẫn, bây giờ thành công như thế ! Nào, bây giờ đệ xin vào yết kiến Kanesuke tướng quân để tiến cử đại huynh. Nhưng ... - Akakabe Yasoma ngập ngừng - nhưng ... phải có cái gì ra mắt chứ ?
Matahachi biết rõ, cầu cạnh chuyện gì cũng cần chút lễ, nên không ngần ngại:
- Tất nhiên ! Tất nhiên !
Bèn rút túi tiền vàng trong bọc ra, đếm một số đưa cho Akakabe Yasoma.
- Kanesuke tướng quân địa vị cao trọng, đại huynh cũng nên liệu cái lễ thế nào coi cho được ...
Matahachi ngần ngừ. Akakabe Yasoma vội trấn an:
- Xin cứ yên tâm. Nếu Kanesuke không nhận, đệ sẽ mang lại trả đại huynh, lo gì. Vả lại đệ quen biết rất lớn, không người này thì người khác, ở đây thiếu gì kẻ giúp đỡ chạy việc, chỉ cần tiền trà nước phải chăng.
Matahachi dốc số vàng ra tay, giữ lại một đồng, còn trao cả cho Akakabe Yasoma:
- Đây, ta chỉ mang theo có thế. Bằng hữu gắng làm cho được !
- Đại huynh cứ yên tâm.
- Thế ta đứng đây đợi hay sao ?
- Đợi cũng được, nhưng không biết bao giờ mới xong. Đêm lạnh, hay đại huynh cứ về nghỉ, mai sẽ gặp.
- Ở đâu ?
Akakabe Yasoma do dự một lúc.
- Bãi đất trống vẫn dùng diễn trò và hát rong gần chợ cửa Nam, đại huynh biết chứ?
- Biết !
- Hay cứ chờ tiểu đệ trong quán rượu, chỗ gặp nhau hôm qua ấy.
- Cũng được.
Akakabe Yasoma bỏ tiền vào bọc, giơ tay từ biệt. Y thong thả bước qua cổng ngôi biệt thự, dáng điệu đầy tự tin. Matahachi gật gù, trong lòng không nghi ngờ gì nữa:
“Anh chàng này quả có quen Kanesuke thật !”.
Và đêm hôm ấy, trong phòng trọ, hắn mơ thấy cảnh xe ngựa dập dìu.
oo Hôm sau Matahachi lò dò đến bãi đất hoang vùng ngoại ô sớm lắm. Cỏ còn ướt sương. Gió sáng gây gây lạnh. Các chủ sạp trong chợ đã bắt đầu chuyển hàng từ những gian lều xiêu vẹo ra ngoài, xếp la liệt trên chiếu.
Matahachi la cà quanh bãi đất trống, đảo mắt nhìn quanh, chú ý tìm anh chàng họ Điểu. Quán rượu mở cửa, hắn vào chọn một chỗ khuất trong góc ngồi nhìn ra ngoài, quan sát khách qua lại. Ngồi lâu không ăn uống gì bất tiện, hắn gọi một bình rượu nhỏ nhâm nhi, đợi mãi đến chiều vẫn không thấy Akakabe Yasoma đến. Matahachi hơi thất vọng, tự an ủi:
“Chắc bận chuyện gì, có lẽ mai hắn mới đến”. Hôm sau, Matahachi lại tới quán, lòng thấp thỏm. Chờ đến khi mặt trời ngả bóng, uống hết hai bình rượu cũng không thấy Akakabe Yasoma đâu, hắn chột dạ. Sự nghi ngờ bắt đầu nhen nhúm. Lúc phố chợ lên đèn và các quán trong bãi rục rịch che liếp, Matahachi rầu rầu bước ra thất thểu về phòng trọ. Ngồi một mình trong phòng vắng đâm lo nghĩ vẩn vơ, đôi lúc hắn tự bắt mình lầm bầm nguyền rủa thằng lừa gạt và bực bội vì đã quá tin người, nhưng vẫn cố bám lấy tia hy vọng vẫn còn le lói:
“Hay nó ốm ? Chắc thế ! Thằng ấy xem ra cũng không đến nỗi nào !”.
Ngày thứ ba, Matahachi lại mò đến quán rượu, loanh quanh bên ngoài một lúc rồi mới bước vào. Thấy chủ quán, hắn làm bộ vui tươi che nỗi ngượng nghịu:
- Rượu quán này ngon lắm ! Ta mê rồi đó !
- Khách quan đợi người quen ?
- Phải, một người tên Akakabe Yasoma, mới quen ở quán này đấy.
- Có phải anh chàng cao và gầy như cây tre miễu không ?
- Chính thị.
Chủ quán hỏi thêm chi tiết, Matahachi không giấu diếm.
- Thế hắn nói đi chạy việc cho khách quan rồi ăn cắp hết tiền ?
- Không, hắn không ăn cắp. Ta đưa cho hắn nhờ vận động giúp với tướng quân Kanesuke, tìm một chân kha khá trong phủ đấy chứ ! Hắn bảo ta đợi ở đây chờ kế t quả.
Chủ quán nhìn Matahachi, thương hại:
- Khách quan đợi hắn đến trăm năm cũng chẳng gặp !
Matahachi nhướng lông mày:
- Sao lão biết ?
- Thì ở đây ai còn lạ gì ! Hắn lừa không biết bao nhiêu người rồi. Khu chợ này thiếu gì những kẻ như Akakabe Yasoma. Trông dáng điệu và cách ăn nói của nó, tưởng quan khách cũng biết mà đề phòng rồi chứ ! Thật rủi, bây giờ biết đâu mà tìm ?
Matahachi vừa buồn vừa thẹn. Chủ quán ái ngại:
- Thôi, khách quan cũng chẳng nên buồn. Của đi thay người, ai mà luôn luôn giữ miếng được ! Bạn bè còn không tin thì biết tin ai ?
Nhưng Matahachi không phải chỉ buồn mà thôi. Hắn lo ngại thực sự. Cả số tiền coi như mất hết, kéo theo bao nhiêu hy vọng đặt vào đấy:
nào phi mã với khinh cừu, kẻ hầu người hạ, nghênh ngang trở về làng cũ. Bây giờ biết nói làm sao với mẹ, với Otsu ?
Nhìn những người qua lại chẳng khác gì những con rối trước mặt, hắn ngẩn ngơ như mất hồn.
- Còn cách này - Tiếng chủ quán kéo hắn về thực tại - nhưng không chắc gì kết quả. Khách quan thử tìm ở chỗ hay làm trò rong xem. Gần đấy có một sòng bài, tụi nó hay tụ họp, tên lưu manh ấy có tiền, thế nào cũng la cà vào đó sát phạt.
Matahachi mừng rỡ đứng bật dậy:
- Phải lắm ! Cảm ơn lão quán. Khu trò rong ở về phía nào nhỉ ?
oo Matahachi đi vòng ra phía sau chợ, đến một chỗ có hàng rào nứa vây quanh; Trên các cột trồng rải rác từng quãng, cờ đuôi nheo màu sặc sỡ treo tứ tung bay lật phật trước gió. Một cái cổng dựng sơ sài cạnh cây phướn cao, buộc tấm vải đỏ dài chừng ba sải tay viết la liệt những hàng chữ đen khoe sự lành nghề của nhà ảo thuật trứ danh nhất Osaka, những cọp những gấu mới bẫy được và bao nhiêu trò lạ khác. Bên cổng đặt cái trống lớn, một người cởi trần trùng trục chít khăn đầu rìu, đóng khố, tay cầm dùi đánh liên hồi lên mặt trống. Tùng ... tùng ... tùng ... Đứng cạnh là một gã trạc tam tuần, da mặt sần sùi như vỏ cam sành, miệng lưỡi dẻo quẹo luôn mồm mời chào, níu người này kéo người nọ, thỉnh thoảng lại đưa tay thu tiền những kẻ hiếu kỳ vào xem và đẩy họ qua cổng.
Matahachi đi qua đám làm trò rong, bọc về phía sau, thấy một khoảng đất vuông bằng cái sân nhỏ, quây chiếu tứ bề. Nhìn qua khe chiếu, vô số người ngồi đứng, chỉ trỏ cãi cọ Ồn ào. Tiếng chửi thề tục tĩu vang ra tận bên ngoài.
Đang phân vân, bỗng có kẻ đến đằng sau vỗ vai:
- Muốn chơi hả ?
Matahachi giật mình quay lại. Tên kia cười hì hì, cầu tài:
- Đánh bạc không ?
Matahachi gật đầu. Hắn trỏ một cái cửa hẹp, cũng có chiếu che, nếu không để ý thì không biết.
- Vào đi !
Bên tường, xung quanh tấm vải bố lớn, con bạc ngồi xổm thành vòng tròn lố nhố.
Thấy khách lạ, nhà cái ngừng tay quay ra. Mọi người ngoái cổ lại nhìn. Một người yên lặng đứng lên nhường chỗ. Matahachi do dự rồi đánh bạo hỏi:
- Akakabe Yasoma có đấy không ?
- Akakabe Yasoma ? Cữ này không thấy hắn lại. Chuyện gì đấy ?
- Liệu hắn có đến không ?
- Mẹ ! Thằng này hỏi lẩn thẩn, bố ai mà biết được. Có chơi thì ngồi xuống.
Nghe giọng nói xách mé, Matahachi ngại, ấp úng:
- Xin lỗi, xin lỗi ... Ta ... ta muốn tìm Akakabe Yasoma ... Xin lỗi !
- Không chơi hả ? Mẹ ! Mất thì giờ. Đi chỗ khác mà tìm !
Matahachi giật lùi về phía cửa. Nhưng một tay anh chị đã chống tay đứng dậy tiến đến trước mặt:
- Ê, không được ! Đâu có dễ dàng thế ! Không chơi cũng phải trả tiền chỗ.
- Ta không có tiền.
- Không có tiền ? Vậy mày đến đây làm gì ? Định ăn cắp hả ? Không trả chúng ông đánh bỏ mẹ !
Matahachi nóng mặt:
- Tụi này láo ! Ai ăn cắp ?
Và làm bộ để tay vào đốc kiếm. Tên anh chị cười hô hố:
- Thôi đi ! Nếu chúng ông sợ thì đâu còn sống đến ngày nay ở cái đất Osaka này !
- Này, ta không giỡn. Các chú có biết ta là ai không ?
Tiếng cười càng to, đầy chế giễu:
- Ai biết mày là thằng chó đẻ nào ! Là ai thì cũng phải trả tiền chỗ.
- Ta là Kojiro, đệ tử chân truyền của đại Samurai Jisai, chưởng môn kiếm phái Chujo ...
Matahachi nói một hơi, tưởng xưng danh Kojiro thì bọn kia phải ngạc nhiên bỏ ngay thái độ hỗn láo. Ngờ đâu, tên anh chị chẳng nói chẳng rằng, nhổ bãi nước bọt đánh bẹt một cái xuống đất, quay gọi đám đông:
- Ê, tụi bay coi thằng khùng này nó lắp bắp gì đây này ! Để xem ...
Matahachi rút kiếm đánh soạt, dùng đầu mũi kiếm chích vào mông tên anh chị, khiến hắn nhảy lên la hoảng:
- Á à ... thằng này ...
Mọi người nhốn nháo. Có kẻ vơ tiền trên chiếu bạc. Tiếng kêu la, tiếng chửi tục ồn ào như chợ vỡ. Thừa lúc lộn xộn, Matahachi lẻn qua khe chiếu che, chuồn ra ngoài nấp sau một cái thùng rỗng. Bọn du côn chia nhau đổ đi tìm, may sao không để ý đến chỗ hắn nấp. Hắn nín thở ngồi thu lu ở đó, một lúc yên tĩnh trở lại mới hoàn hồn. Hắn để ý nghe ngóng, đưa mắt nhìn quanh, bỗng thấy một khe hở gần hàng rào nứa, cỡ con chó to chui lọt, đồ chừng mình cũng có thể chui được, bèn len lén bò vào. Bên trong tối thui. Thì ra đó là cái gầm sàn gỗ của bọn làm trò dạo. Hắn nép mình sát đất, cứ thế bò, một lát sau mới ra khỏi sàn gỗ.
Nơi này gần đống rác, vắng vẻ không có ai. Matahachi đứng dậy phủi sạch quần áo, sửa lại đầu tóc rồi giả bộ như khách nhàn du, ung dung vừa đi vừa nhìn ngắm. Có điều hắn trông người đàn ông nào có dáng cao gầy gầy cũng từa tựa Akakabe Yasoma cả !
Đứng trước một cái dàn tre căng tấm da hổ lớn Matahachi dừng lại sau một đám đông.
Tấm da hổ dường đã cũ, nhiều chỗ trụi cả lông nhưng vẫn còn nguyên cả đầu và chân, nhe nanh giơ vuốt. Trong lều tranh tối tranh sáng, hình chúa sơn lâm tuy chỉ là tấm da nhưng cũng cho hắn một cảm giác ghê ghê rờn rợn. Bỗng có tiếng nói rất quen của hai ông bà già cách chỗ hắn đứng vài người làm hắn chú ý dỏng tai nghe.
- Con cọp này chết rồi phải không cậu ?
Tiếng ông già trả lời, ra vẻ hiểu biết:
- Dĩ nhiên chết rồi ! Đây chỉ là da nói. Mắt nó sáng thế kia nhưng là mắt thủy tinh, không phải thật !
- Thế sao ở bên ngoài hộ quảng cáo là cọp mới bẫy được ? Làm cứ như là còn sống!
- Ối dào ! Quảng cáo ấy mà ! Họ cũng thêm thắt đôi chút chứ !
- Đâu được ! - Bà già nói có vẻ tức giận - Thế là nó lừa mình. Ra đòi lại tiền.
- Thôi, bà đừng vẽ chuyện, người ta cười cho.
- Ai cười ? Mình làm gì mà họ cười ? Mình có phải là trẻ nít đâu mà để chúng lừa như vậy ! Cậu không đòi, ta đòi.
Bà già vùng vằng đi ra. Ông lão cũng quay lại. Vừa lúc tấm vải dùng làm cửa lều mở cho khách mới vào, ánh sáng bên ngoài chiếu rõ mặt hai ông bà lão. Matahachi nhận ngay ra mẹ mình và cậu Gon, vội quay đi để tránh nhưng không kịp nữa, cậu Gon đã trông thấy hắn.
- Ai như thằng Matahachi ! Phải Matahachi đấy không ?
Cụ Osugi ngạc nhiên tột độ, quay nhìn em:
- Cái gì ? Cậu nói cái gì thế ?
- Thằng Matahachi, chị không thấy ư ?
- Đâu ? Đâu ? Cậu chỉ trông gà hóa cuốc !
Matahachi nghe cậu và mẹ nói về mình, không biết nghĩ sao, cúi đầu thật thấp, lủi vào đám đông trốn mất.
- Tôi thấy nó rõ ràng mà ! Nó vừa đứng đây, nhưng sao bây giờ không thấy nữa !
Kìa, nó chạy kia kìa !
- Thật không ? Thật nó không ? Bớ Matahachi !
Cậu Gon vừa lôi chị vừa chạy ra cửa. Mấy năm sau này, cụ Osugi lang thang đây đó tìm con, ăn ngủ thất thường lại gặp sương gió nên yếu đi, không còn được như trước.
- Khoan, khoan ! Cậu làm ta ngã chết bây giờ !
Mọi người nhìn hai ông bà già ngạc nhiên. Họ không biết ất giáp gì nhưng cũng chạy đến giúp, đỡ bà già ra cửa.
Matahachi vừa chạy vừa quay lại nhìn, thấy mẹ và cậu đuổi theo, miệng gọi tay vẫy rối rít:
- Matahachi ! Matahachi ! Ta đây mà, sao lại chạy ?
Matahachi phân vân. Hắn dừng lại một lát rồi nghĩ thế nào lại cắm cổ nhảy ra khỏi hàng rào nứa. Cậu Gon nhất định đuổi theo, miệng không ngớt gọi tên hắn. cụ Osugi run rẩy chạy theo sau. Bỗng bà lấy hết sức, gân cổ gào lớn:
- Bớ làng nước ! Thằng ăn cắp ! Nó ăn cắp của tôi ! Bắt lấy nó !
Thế là người ta rầm rầm đuổi theo. Vài thanh niên khỏe mạnh rút bậy cây sào hoặc quơ vội cái cán chổi, chạy theo đám đông, ồn ào như bắt giặc. Matahachi bị bao vây tứ phía. Họ nắm cổ hắn, dìm đầu xuống, tống cho vài quả thụi.
- Bắt được nó rồi ! Nó ăn cắp của bà lão cái gì ?
- Nó giật túi tiền. Bà già mất hết cả tiền.
Mỗi người nói một câu chờ bà lão đang lệt bệt chạy tới. Sẵn gậy, họ phang ngay cho tên ăn cắp một trận. Matahachi kêu la, trần tình. Mặc ! Không ai nghe, không ai tin hắn !
Khi cụ Osugi đến nơi, bà mệt nhoài thở không ra hơi, hổn hển ôm lấy Matahachi:
- Con ! Con ! Mẹ đây mà ! Sao con lại chạy thế con ?
Ai nấy trố mắt kinh ngạc:
- Thằng này là con bà đấy à ?
Cụ Osugi quay lại đám đông, dang hai tay ra như để che cho Matahachi đứng sau lưng, trả lời đứt quãng:
- Dĩ nhiên ... dĩ nhiên là con lão. Không con lão thì ai vào đấy !
- Thế sao bà lại hô hoán là thằng ăn cắp ?
- Lão không kêu thế thì sao bắt được nó ! Lão kêu bắt nó chứ có kêu đánh nó đâu ?
Các người thật vô duyên, vô tích sự !
Mọi người cười ồ. Cậu Gon phải đứng ra cảm ơn, giải thích, đám đông mới giải tán, nhưng ai cũng cho bà lão nhiều mưu trí. Hú vía, chậm chút nữa thì Matahachi không gãy tay cũng thành tật rồi !
Cụ Osugi nắm cổ áo con trai, kéo vào ngôi đền gần đó. Hắn líu ríu đi theo, quần áo xốc xếch. Cậu Gon thương hại bảo:
- Bà đừng làm thế ! Nó lớn rồi, đâu còn là con nít nữa.
Cụ Osugi trừng mắt:
- Cậu biết gì ! Con ta ta phải dạy. Cậu lo việc của cậu ấy. Matahachi, mày vào đây !
Cả ba vào sân đền. Đền vắng, ít người lễ bái, bỏ hoang lâu ngày, khe đá lót sân đã có rêu xanh và cỏ mọc. Bà ấn đầu Matahachi bắt nằm dài ra sân rồi bẻ một cành cây mềm làm roi.
- Matahachi ! Mày có còn là con ta nữa không ? Sao gặp mẹ và cậu lại chạy ?
Mày đâu phải ở lỗ nẻ chui ra ?
Nói xong bà quất roi vào lưng hắn. Matahachi không thấy đau. Bà già yếu rồi, đánh như phủi bụi, nhưng nước mắt hắn tuôn ràn rụa. Hắn đã làm cho mẹ đau lòng nên không cầm được hối hận.
- Ta tưởng mày chết mất xác ở đâu rồi, không ngờ còn gặp tại Osaka này. Thật xấu hổ ! Đồ vô tích sự ! Mấy năm nay sao không về cúng giỗ ông bà, mà cũng không thư từ thăm hỏi gì người đã sinh ra mày ? Mày có biết cả nhà ai cũng lo lắng vì mày không ?
Sau mỗi câu, bà lại quất cho Matahachi một roi. Hắn khóc như đứa trẻ:
- Xin mẹ tha tội. Con biết lỗi và hối hận lắm. Thật con không có ý muốn trốn mẹ và cậu nhưng bất ngờ quá, con sợ và xấu hổ không dám gặp mặt.
Cụ Osugi mủi lòng, quay đi chùi dấu nước mắt. Tuy già nhưng lòng cương nghị vẫn không giảm, bà không muốn đứa nghịch tử biết sự mềm yếu của lòng mình.
- Hừ ! Mày nói có lỗi và xấu hổ không dám về nhà. Vậy chắc trong những năm qua, mày làm nhiều điều xằng bậy lắm ?
Cậu Gon không nhịn được, xen vào:
- Thôi bà ! Bắt nó khai thì lại đau lòng thêm, ích gì cơ chứ ?
- Cái cậu này ! Đã bảo mặc xác ta, việc gì đến cậu ? Đàn ông mà nhu nhược thế thì dạy ai được ? Thân phụ nó qua đời, ta là mẹ phải biết giáo dục nó chứ ! Matahachi, cho ngồi dậy, nhìn vào mặt ta đây !
- Dạ.
Matahachi quần áo xốc xếch, mặt nhem nhếch những bụi đất và nước mắt, lồm cồm bò dậy nhưng hắn vẫn không dám nhìn thẳng mặt mẹ. Lòng sợ mẹ từ tấm bé khiến hắn coi bà là một thần linh, ra oai tác phúc thế nào cũng được. Sự thiếu sót bổn phận làm con trong gia đình và dòng họ khiến hắn cảm thấy tội nặng thêm và mặc cảm ấy làm hắn sợ hãi.
- Matahachi ! Hãy kể ta nghe trong những năm xa nhà, mày ở đâu ? Làm những gì điếm nhục đến cha ông ? Nói cho thật, ta cấm mày không được bỏ sót.
- Dạ dạ ...
Matahachi kéo vạt áo lau nước mắt, sụt sịt kể chuyện đã qua, từ khi thua trận Sekigahara vào nương náu nhà Oko, rồi vì giết tên Tsujikaze, phải bỏ đi lưu lạc ở Ibuki, ăn nhờ ở đậu trong quán rượu của Oko, sau bị bạc đãi, uất hận ra đi như thế nào, nhất nhất kể lại hết. Tuy nhiên vẫn giấu không cho mẹ biết thời kỳ hắn làm phu vác đá cực khổ ở công trường, may vớ được món tiền rồi bị lừa ra sao. Kể xong hắn khóc sướt mướt, cảm thấy nhẹ nhõm sau khi thú tội.
Cậu Gon nghe chuyện, thỉnh thoảng lắc đầu:
- Hừ ... hừ ... thật không ngờ ...
Cụ Osugi thương con tuy không lộ ra nét mặt:
- Mày làm những điều thật xấu xa, nhưng đã biết hối, thôi cũng được ! Thế bây giờ làm ăn gì ? Trông quần áo cũng không đến nỗi ... Chắc có việc làm rồi chứ ?
- Dạ có.
Hắn đáp ngay không suy nghĩ, nhưng lại vô chữa:
- Ấy không ! Con muốn nói là không có việc đều đặn.
- Vậy lấy gì sống ?
- Con dạy võ, đánh kiếm.
Bà khách tỏ vẻ mừng rỡ, mặt tươi hẳn lên. Quay sang cậu Gon, bà nói:
- Này cậu, cháu cậu có phải con giòng không ? Nó dạy đánh kiếm đấy !
Cậu Gon vui vẻ gật đầu:
- Phải chứ ! Con nhà tông mà ! Dòng họ Honiden nhà ta, đời nào cũng có người khí phách. Lầm lỡ chút đỉnh, bỏ qua được.
Cả hai ông bà cười vui vẻ làm Matahachi cảm thấy kiêu hãnh.
- Này con !
Giọng bà dịu hẳn lại.
- Dạ.
- Con học kiếm của ai ?
- Của Kanemaki Jisai.
- Chà ! Người dó là đại Samurai, sao nhập môn đó được ?
Nét mặt cụ Osugi càng thêm rạng rỡ. Matahachi muốn làm vui lòng mẹ, rút trong bọc ra tờ chứng thư, lấy ngón tay cái bịt tên Kojiro đi rồi khoe:
- Mẹ coi đây này !
Cụ Osugi chăm chú đọc hàng chữ, giơ tay định cầm lấy để xem cho rõ thì Matahachi đã vội giấu ra sau lưng:
- Đấy, mẹ coi, mẹ cần gì phải lo lắng cho con.
Bà cười vui vẻ:
- Ừ, ta biết. Cậu Gon xem, ta nói có đúng không ? Ngay từ khi còn nhỏ, ta đã bảo nó khôn lắm, có phần hơn cả thằng Takezo và những đứa khác. Bây giờ Samurai rồi đó, có bằng cấp chứng minh hẳn hoi chứ đâu phải dở.
Bà sung sướng quá, nói văng cả nước bọt. Matahachi cũng vui lây cái sung sướng của mẹ, quên dùng ngón tay để che tên, giơ tờ chứng thư đến trước mặt cậu. Cậu Gon đọc giấy chứng nhận tên Kojiro, lấy làm lạ, hỏi:
- Mà sao không đề tên mày lại đề Kojiro. Kojiro là ai ?
- À ... à ... đấy là biệt danh cháu !
Hắn ấp úng đáp.
Cụ Osugi nhìn con:
- Cái tên Honiden Matahachi không đủ danh giá sao mà phải lấy tên khác ?
- Dạ ... dạ ... Danh giá lắm chứ, nhưng ... nhưng ... - hắn nghĩ nhanh tìm cớ - nhưng vì con đã phạm nhiều tội quá, nêu danh ấy ra sợ mang tiếng.
- Ừ ừ ... thôi được, thế cũng được ! Chúng ta tin mày. Từ khi mày đi đến giờ, mày biết chuyện gì xảy ra ở làng không ?
Hắn lắc đầu. Bà đem chuyện gia tộc nhà Honiden bị sỉ nhục ra sao, Otsu không về làm dâu bà, bỏ đi theo Takezo làm bà và cậu Gon suốt mấy năm nay phải đi tìm chúng rửa hận. Bà kể lại hết, lúc đầu còn ôn tồn sau không giữ được xúc động, giọng bà the thé, mắt đẫm ướt.
Ngồi nghe mẹ nói, đầu hơi cúi, Matahachi thấy lòng xốn xang vô hạn. Điều hắn quan tâm nhất không phải là danh dự gia tộc hay kiếm phái tông môn mà chính là mối tình của Otsu đối với hắn. Như mẹ nói thì Otsu đối với hắn thật không còn tình nghĩa gì nữa, và Takezo chỉ là thằng phản bạn. Sự ghen tị đã có từ lâu trong lòng hắn bây giờ lại được dịp bùng lên. Hắn nghiến răng nhìn mẹ:
- Có thể thế được sao ?
Cụ Osugi cho rằng con mình vì thấy danh dự tông môn bị xúc phạm nên tức giận, lấy làm bằng lòng lắm. Bài học đã có kết quả, bà đăm đăm nhìn Matahachi:
- Bây giờ mày đã rõ hết chuyện, và cũng hiểu tại sao chúng ta ở tuổi này đáng lẽ được quyền nghỉ dưỡng già lại phải bôn ba như thế này. Làm con phải hết sức rửa mối nhục của gia đình, tổ tiên. Chừng nào chúng ta không giết được hai đứa đó, chúng ta không trở về làng vì không còn mặt mũi nào đứng trước bàn thờ của dòng họ Honiden.
Matahachi cúi đầu, thấm thía những lời nói đầy phẫn khích ấy.
- Còn con nữa. Không trả xong mối thù này con cũng không nên về Miyamoto làm gì.
- Con không về ! Con không muốn về làng nữa !
- Không phải chuyện ấy. Ý ta muốn nói con phải giết cho được hai đứa đó trước khi về cáo gia tiên. Nghe rõ chưa ?
Matahachi lí nhí:
- Dạ dạ con xin làm.
- Xem chừng mày không lấy gì làm hăng hái lắm ! Sao ? Mày sợ không đủ sức hay sao ?
Cậu Gon tiếp lời:
- Cháu đừng lo, cậu sẽ giúp một tay.
- Cả mẹ mày nữa. Ta già rồi nhưng còn đủ sức. Ta nguyền sẽ lấy đầu chúng nó mang về làng để mọi người cùng biết họ Honiden không dễ gì chịu nhục. Mày có thề rửa mối nhục ấy không, Matahachi ?
- Dạ có.
- Vậy tốt ! Cậu Gon, đứng ì ra đấy à ? Lại đây khen cháu cậu đi ! Nó thề sẽ giết chết thằng Takezo và con Otsu để rửa hận đấy !
Cậu Gon không biết nói gì, cứ nhắc đi nhắc lại như cái máy:
- Tốt ! Tốt ! Vậy tốt ...
Xem chừng đã thỏa mãn, cụ Osugi chống tay đứng dậy, nhưng bà nhăn mặt đau đớn:
- Ối, ối, đau quá !
- Gì vậy chị ?
- Ngồi lâu, đất lạnh và ẩm, phong thấp nó lại hành tôi đây !
Matahachi nhìn mẹ. Trong một lúc, tình thương và lòng hiếu thảo dào dạt, hắn đến bên mẹ:
- Mẹ để con cõng.
- Con cõng ta ư ? Con tôi ngoan quá !
Hai tay bà ôm cổ con trai, nước mắt sung sướng tràn ra trên đôi má nhăn nheo, chảy xuống gáy Matahachi:
- Đã lâu lắm, mấy năm rồi cậu Gon nhỉ ! Cậu Gon, con tôi nó cõng tôi đây này !
Matahachi cũng sung sướng. Một cảm giác lạ lùng hắn chưa từng có bao giờ chạy khắp cơ thể. Hắn nhún nhảy bà lão trên lưng, nói:
- Mẹ nhẹ quá nhỉ ! Nhẹ quá ! Không như tảng đá ở công trường.

Acmagiro
19-02-2008, 07:05 AM
CHƯƠNG 22
TRẢM NHẠN KIẾM (Tsubame Gaeshi)



Con thuyền rẽ sóng lướt phăng phăng, những đợt sóng bạc đầu tung bọt trắng xóa. Xa xa, đảo Awaiji mờ dần trong màn sương trắng đục. Gió thổi mạnh, cánh buồm lớn kêu phần phật át cả tiếng sóng vỗ.
Vào một ngày trọng đông, vùng trung nam nước Nhật, chiếc thuyền đò chở đầy giấy bổi và chàm từ đảo Shikoku thẳng đường về bến Osaka. Trên thuyền, ngoài số hàng đăng ký, chắc còn hàng lậu, vì mùi thuốc lá tươi hăng ngai ngái phảng phất khắp chỗ.
Thuốc lá bấy giờ là món quốc cấm, nhưng được nhiều người chuộng và bán lời lắm.
Một số khách thương đi theo hàng, nhân dịp cuối năm trở về tỉnh cười nói râm ran:
- Đại huynh khá không ? Dạo này làm ăn ra sao ?
- Cũng không tệ. Nghe nói ở vùng Sakai hốt bạc. Muốn thử thời vận, nhưng để còn nghe ngóng ...
- Chỗ đó cần nhiều tay thợ, đâu phải cánh mình. Nếu huynh biết nghề rèn binh khí hay làm áo giáp thì phất đấy !
Một người khác góp chuyện:
- Phải rồi ! Đệ có người bà con chuyên nghề rèn giáo và làm mộc, trước làm ăn khá lắm ...
- Thế hả ?
- Nhưng bây giờ cũng trung bình thôi. Tụi nó học đếm rồi !
- Thế là thế nào ?
- Mình chỉ bán hàng cho tụi Samurai, nhưng tụi nó càng ngày càng khó tính và chi li. Trước kia, sau mỗi trận đánh, cứ đi mua lại những đồ sứt càng gẫy gọng của bọn lượm xác lột đồ về sửa chữa sơ sài, thế là đem bán có tiền. Xong một chuyến, đợi đến trận sau, những món ấy lại quay về mình. Bây giờ tụi nó đòi thế này thế nọ, còn đếm đủ số mới mua và trả giá cẩn thận lắm.
- Ấy cứ như mấy tay liều mạng lại hay ! Phải đi xa kiếm những món hàng lạ. Mạo hiểm một tí, nhưng có ăn.
- Tụi Samurai thế mà đáng thương ! Nhiều gã chẳng biết bữa cơm ngon là gì !
Nói xong hắn nhổ bãi nước bọt, lấy tay quệt ngang.
- Bọn quyền quý sống phè phỡn thật đấy, nhưng chóng chầy gì rồi cũng phải đánh nhau, tranh đất, tranh ruộng, chết để quạ rỉa thây, sướng gì phải không quý huynh ?
- Ừ, suy cho cùng, thời nay chỉ như chúng ta là phải. Phi thương bất phú. Có tiền, ta làm gì cũng được !
Có tiếng cười hề hề.
- Vậy mà cũng có lúc phải cúi đầu lạy chúng nó.
- Có sao ? Lạy đôi ba cái ăn nhằm gì ! Cứ ních vàng đầy túi là an ủi rồi ! Vả lại chúng dễ mua, phóng tiền ra việc gì chả xong.
Vài người mỉm cười gật gù. Bọn thương nhân này xem chừng buôn bán phát đạt, quần áo mặc toàn hàng lụa đắt tiền, tấm thảm họ ngồi cũng làm bằng lông cừu ngoại hóa.
Sau khi họ Toyotomi thua trận, tài sản của một số Daimyo bị thất tán, phần lớn chuyển qua tay giới doanh thương hơn là vào tay phe Samurai thắng trận. Lợi dụng nước đục thả câu, giới này phất dần. Bấy giờ, đến ngay những kẻ buôn bán cò con nhưng khéo léo, cũng giàu có chẳng kém gì, có khi còn hơn cả những tay Samurai bổng lộc hàng năm vài ngàn gia. lúa. Mà bấy giờ, vài ngàn gia. lúa mỗi năm đã là phong lưu lắm !
Chuyện gẫu mãi đã chán, rảnh rỗi chẳng biết làm gì, một người đề nghị:
- Buồn quá ! Hay đánh bài chăng ?
- Ừ, đánh thì đánh !
Thế là màn che được trương lên, rượu sa-kê mang đến, cỗ bàn bày ra. Họ ngồi quây quần trên thảm, chơi bài Umsummo, một kiểu chơi bài của Bồ Đào Nha mới du nhập. Từng cọc tiền vàng xếp đầy chiếc bàn thấp, giá gom lại cũng đủ cứu cho dân năm sáu làng khỏi chết đói, nhưng họ coi như rác.
Trong đám hành khách trên thuyền có một số thuộc thành phần mà bọn khách thương liệt vào hạng không biết thưởng thức khoái lạc ở đời:
một nhà sư, vài tay kiếm khách giang hồ quần áo tả tơi, một nho sĩ mắt lúc nào cũng dán vào quyển sách nát cầm trên tay cùng dăm tráng sĩ nhìn cách ăn mặc biết ngay là những Samurai chuyên nghiệp.
Họ ngồi rải rác trên thuyền, cạnh những cuộn thừng lớn hoặc dựa lưng vào các bồ giấy có phủ vải sơn, dáng trầm mặc.
Gần chiếu bạc, một thanh niên còn rất trẻ, lơ đãng bắt rận cho một chú khỉ nhỏ bế trên tay. Chú khỉ thật đẹp, lông vàng óng, luôn luôn cựa quậy kêu chíu chít. Thanh niên thỉnh thoảng vỗ nhẹ lên đầu cho nó ngồi yên hoặc mắng khẽ:
- Yên nào ! Để ta bắt rận cho !
Con khỉ dường như chưa thuần, không nghe lời chủ, nhảy tới nhảy lui, thoắt trên vai thoắt trên đầu, lăng quăng múa may, nhe răng ra như trêu chọc.
- Tráng sĩ mua chú khỉ này ở đâu thế ?
- Tại hạ không mua, tại hạ bắt nó trong rừng Awa lúc nó còn nhỏ.
- Thế ư ? Trông ngộ quá nhỉ !
- Tại hạ suýt mất mạng vì nó đấy ! Khi bắt nó, cả đàn xúm vào tấn công, nếu không nhanh tay nhanh mắt trốn vào hốc đá thì ngã xuống vực chết rồi còn gì !
Mọi người chú ý đến chàng thanh niên không phải chỉ vì con khỉ mà còn vì dáng dấp và cách phục sức của chàng ta khác thường lắm. Thanh niên mặc kimono màu xanh tươi, thêu chỉ kim tuyến vàng lóng lánh, bên ngoài khác một chiếc áo choàng đỏ như hoa lựu. Mặc dầu bấy giờ có phong trào ăn mặc sặc sỡ, nhưng cách phục sức như thế thật lòe loẹt quá đáng. Hơn nữa, đầu chàng cũng không cạo phía trước như phần đông các thanh niên đã trưởng thành mà buộc tóc thành cái chỏm tựa đuôi gà bằng một dải lụa cũng màu đỏ. Cách ăn mặc không khác gì trẻ thơ, tuy thế nhìn nét mặt thì trang nghiêm, cương nghị rõ ràng là của một thanh niên . Làn da tươi sáng, mắt đen mà sắc, môi đỏ tựa thoa son, thân thể vạm vỡ tràn đầy sinh lực có một cái gì toát ra làm mọi người kiêng nể nhưng vẫn không giấu được vẻ ngây thơ của một thiếu niên mới bước vào đời.
Cũng không ai đoán được chàng ta thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Quần áo tuy sặc sỡ nhưng không phải là hàng đắt tiền, gã cũng mang dép cỏ như mọi người. Phong thái có uy nghi đĩnh đạt nhưng đối với hành khách trên thuyền, kể cả với những chân sào rách rưới, gã tỏ ra khiêm cung không có gì hách dịch. Người ta chỉ có thể tạm liệt gã thanh niên vào loại Samurai giang hồ nhưng thuộc hạng cao, có tư cách nhờ thanh kiếm dài quá khổ gã đeo sau lưng. Thanh kiếm đã cũ, đốc và chuôi lên nước bóng loáng như đồng đen. Kiếm tuy dài nhưng phần chuôi và phần lưỡi cân đối, trông không kỳ dị. Bao kiếm chạm trổ tinh vi. Người sành kiếm thoạt trông phải nhận ngay là một báu vật.
Gion Toji đứng gần chàng thanh niên không khỏi tấm tắc khen thầm. Thanh kiếm đẹp dường ấy dễ gì mua được ở Osaka này; ngay cả ở Kyoto, nơi sản xuất kiếm nổi danh cũng khó ! Hắn tò mò muốn biết chủ nhân nó là ai, thuộc hạng người nào.
Sau nhiều ngày du thuyết khắp vùng Osaka và Kyoto, Toji thấy mệt mỏi. Tình hình tài chánh võ đường Yoshioka mỗi ngày một sa sút mà Yoshioka Seijuro chẳng lưu tâm gì đến. Trình sổ sách lên, Seijuro chỉ nói cho có lệ:
“Thế à ? Ta không ngờ tồi tệ quá !”. Vậy thôi, rồi bỏ đi chơi. Phòng trà tiệm rượu, không nơi nào là không có mặt. Số môn sinh đóng niên liễm không tăng mà nợ cứ chồng chất, viên chấp quản đề nghị cắt mười mẫu đất bán để trả nợ. Cứ như thế này, nếu không có biện pháp gì sửa đổi, tất phá sản mất.
Sau nhiều lần thảo luận, hàng huynh trưởng đồng lòng áp dụng một kế hoạch vừa kiếm được thêm tiền vừa mở rộng môn phái. Họ dự định phát quang khu vườn rộng lớn phía sau trại, xây thêm một võ sảnh nữa và cổ động rầm rộ để tuyển võ sinh mới. Nhưng muốn thi hành kế hoạch, phải có tiền. Toji được cử mang thư của chưởng môn Seijuro đến các môn đệ cũ đã thành danh yêu cầu giúp đỡ.
Không biết số trời bắt Yoshioka chịu cảnh mạt kiếp hay sao mà kết quả không ra gì!
Đi đến đâu cũng vậy, Toji toàn gặp những phản ứng tiêu cực. Mặc dầu đã trổ hết tài hùng biện, hắn chỉ nhận được những lời hứa suông:
“Để đệ xét xem” hoặc “tại hạ sẽ phúc đáp sau”, v.v ... làm hắn chán nản. Thành ra số tiền quyên được không đáng là bao, chỉ đủ chi phí cho cuộc hành trình mà thôi.
Toji là kẻ có lòng, nhưng trong cái không khí ăn chơi phóng đãng của phái Yoshioka thời bấy giờ, kể từ chưởng môn Seijuro trở xuống, một mình hắn không thể làm gì được. Hắn nghĩ đến Oko, tự hỏi không biết bức thư hắn nhờ chuyển cho nàng tuần trước đây đã đến tay nàng chưa. Nếu đến rồi tất Oko phải ra bến chờ hắn. Khuôn mặt Oko hiện ra trong trí. Nàng đã đứng tuổi nhưng trang điểm vào vẫn còn xinh đẹp lắm. Nhất là những kinh nghiệm chốn phòng the của nàng, hắn nghĩ mà xốn xang trong bụng.
Toji đến gần gã thanh niên, cười cầu thân:
- Chào thiếu hiệp ! Thiếu hiệp đi Osaka ?
- Dạ phải. Kính chào đại hiệp.
- Chắc thiếu hiệp về thăm nhà ?
- Không. Gia đình tại hạ không ở đó.
- Vậy chắc ở Awa ?
- Không.
Lời đáp chắc nịch, xem chừng thanh niên không muốn bắt chuyện. Toji quay đi nhìn trời. Vài con hải âu bay xa xa:
những chấm trắng trên nền mây xám vần vũ. Hắn thử gợi chuyện lần nữa:
- Thiếu hiệp có thanh kiếm đẹp quá ! Hẳn là báu vật ?
Thấy có người khen kiếm, thanh niên mau miệng hẳn lên:
- Cảm ơn đại hiệp. Kiếm này là vật gia bảo, tiên tổ phụ tại hạ vẫn dùng xung kích khi ra trận. Phải cái nó hơi dài nên tại hạ đến Osaka định tìm thợ khéo nhờ sửa lại đeo bên sườn cho tiện.
- Quả có hơi dài thật.
- Hơn ba thước cơ đấy. Nhưng tại hạ thiển nghĩ, đã gọi là Samurai thì không thể không biết dùng kiếm này !
- Dĩ nhiên rồi, kiếm dài hơn cũng dùng được. Tuy nhiên muốn sử dụng cho xảo diệu tất phải là tay tinh thục. Ngày nay có những kẻ đeo kiếm dài nghênh ngang, khinh thế ngạo vật, tài chẳng bằng ai, gặp chuyện gì nguy hiểm thường co cẳng chạy trước. Hà hà ... Thế thiếu hiệp thuộc môn phái nào ?
Nói đến kiếm thuật, Toji không giấu vẻ tự mãn. Hắn nhìn thanh niên ra dáng miệt thị, tuy không nói ra nhưng ý khinh rẻ lộ rõ trên khóe mắt.
- Tại hạ theo Vạn Mai kiếm.
- Vạn Mai kiếm dùng kiếm ngắn, đâu có dài như thế này !
Toji hách dịch làm ra vẻ hiểu biết.
- Đúng ! Tại hạ theo kiếm chiêu Vạn Mai nhưng không dùng kiếm ngắn như đệ tử phái ấy. Thấy kiếm dài lợi thế hơn, tại hạ tập luyện bằng kiếm dài, bị sư phụ bắt được và trục xuất.
- Chà, thanh niên ưa phản kháng lắm nhỉ ! Rồi sao nữa ?
- Nghe nói vùng Echizen có Kanemaki Jisai là bậc dị nhân phát huy nhiều đường kiếm tinh diệu, bèn đến xin nhập môn. Sau bốn năm khổ luyện, tại hạ được sư phụ cho nhập võ lâm, vừa hành hiệp vừa thu thập kinh nghiệm.
- Hừ ! Kanemaki Jisai ? Ông ta là người có chút danh vọng, sao cấp chứng chỉ bừa bãi thế ?
Nghe giọng khinh mạn của Toji, thanh niên tức lộn ruột nhưng vẫn giữ bình tĩnh:
- Bình sinh, sư phụ tại hạ chỉ mới cấp chứng chỉ cho đệ nhất môn sinh là Ito Yagoro mà thôi. Tại hạ là người thứ hai được chấp nhận, thực ra chưa có chứng thư vì khi mới được phép thì có tin mẹ lâm bệnh phải về săn sóc.
- Ở đâu vậy ?
- Ở Iwakumi, tỉnh Suo.
Nói đến đó, thanh niên ngừng lại, mắt lơ đãng nhìn ra xa, tay vuốt nhè nhẹ trên lưng con khỉ. Toji đợi một lát, không thấy kể tiếp, bèn khẽ nhắc:
- Thiếu hiệp đang kể đến lúc về phụng dưỡng từ mẫu ...
Thanh niên như chợt tỉnh:
- Ờ ... Ờ ... phải. Lưu lại quê nhà ít lâu, tại hạ thường giải khuây bằng cách ra bờ sông múa kiếm chơi và chém én bay thấp khi trời sắp dông bão hay tập chẻ đôi những nhành liễu nhỏ rũ ven bờ. Dần dần luyện thêm được nhiều chiêu kiếm đặc biệt riêng của tại hạ, rất tinh xác. Trước khi quy tiên, gia mẫu có lấy ra thanh kiếm này trao cho, dặn phải giữ gìn cẩn thận, vì nó do chính tay nhà luyện kiếm danh tiếng Nagamitsu đặc chế.
Thanh niên tháo kiếm, đưa cho Toji xem. Hắn cầm ngắm nghía, quan sát rất kỹ những nét chạm trổ trên bao rồi rút ra khỏi vỏ. Kiếm quang sáng lòa, ánh thép xanh biếc làm hắn tấm tắc:
- Tốt thật ! Tốt thật ! Nhưng sao không thấy khắc tên kẻ luyện kiếm ?
- Không khắc tên nhưng đích thực là kiếm Nagamitsu đấy ! Ở vùng tại hạ, không ai còn hồ nghi gì. Nó còn có hỗn danh là “cây sào phơi”.
Chàng thanh niên lúc trước ít lời, bây giờ thao thao bất tuyệt, lan man kể cả những chuyện đáng lẽ không nên nói với người lạ buổi sơ kiến.
- Khi ở quê nhà, được tin sư phụ đau nặng rồi mất, tại hạ buồn rầu khôn tả. Cháu của người, tên Kusanagi Tenki, được giao phó trách nhiệm chuyển chứng thư và một số tiền cùng kiếm phổ đến tay tại hạ nhưng cho đến nay vẫn không thấy tin tức gì. Anh ta, ngoài kiếm thuật ra, còn nghiên cứu về kiến trúc. Không biết bây giờ lang bạt đâu, tại hạ đang để tâm tìm kiếm.
- Vậy ư ? Sao khi được tin lệnh sư mất, thiếu hiệp không tới chịu tang ?
- Sư phụ tại hạ ẩn cư tại một vùng hẻo lánh và xa xôi lắm. Vả bấy giờ cũng trùng vào dịp gia mẫu quy tiên nên không bỏ đi được. Thật ân hận. Thế còn đại hiệp, chắc ở Osaka ?
- Không, ta ở Kyoto.
Hai người đứng lặng hồi lâu, nhìn sóng biển rập rình đánh vào mạn thuyền, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Toji là người đầu tiên phá tan sự yên lặng đó:
- Vậy ra thiếu hiệp có ý góp mặt với võ lâm, dùng kiếm đạo lập công danh đấy ?
Câu hỏi nghe như vô hại, nhưng trong giọng nói hàm ý khinh bỉ chế giễu. Mặc cảm gì đã làm Toji có thái độ ấy, không ai biết. Phải chăng vì đã hai mươi năm phục vụ Yoshioka phái, hắn vẫn chưa lập được thành tích gì đáng chú ý ? Hay vì thấy thanh niên kia còn trẻ mà đã huênh hoang, nào kiếm chiêu nào kiếm phổ, hắn bực mình mỉa vài câu cho bỏ ghét ?
Thanh niên không đáp, chỉ đăm đăm nhìn màu nước biển xanh đen. Đột nhiên ngẩng lên nhìn Toji:
- Đại hiệp ở Kyoto, vậy có biết Yoshioka kiếm phái không ? Nghe nói Seijuro, con trưởng Yoshioka Kempo làm chưởng môn. Phái ấy còn hoạt động gì không ?
Toji nhếch mép cười. Hắn muốn đùa thanh niên này chơi.
- Biết chứ ! Yoshioka kiếm phái đang thời hồi thịnh. Thiếu hiệp đã đến thăm bao giờ chưa ?
- Chưa, nhưng tại hạ mong có dịp tới Kyoto gặp Seijuro lãnh hội mấy chiêu kiếm xem sao !
Toji giả vờ ho, đưa tay lên che miệng giấu nụ cười. Hắn thương hại gã thanh niên chẳng có kinh nghiệm giang hồ gì. Nếu biết hắn là ai và địa vị của hắn tại võ đường Yoshioka, chắc gã thanh niên sẽ hối hận vì nói câu ấy. Toji vẫn nửa nạc nửa mỡ:
- Thiếu hiệp có chắc sau khi gặp Seijuro không bị sứt mẻ gì không ?
- Sao không chắc ?
Lần này Toji không nhịn được nữa. Hắn phá lên cười ha hả.
Thanh niên không để ý, tiếp:
- Yoshioka là môn phái lớn và hình như Yoshioka Kempo đã một thời danh chấn giang hồ. Nhưng hai người con ngày nay không ra gì cả. Phải thế không ?
- Chưa gặp thì làm sao biết được ?
- Ấy, tại hạ thấy Samurai khắp nơi đồn đại như vậy. Cũng không tin lắm, nhưng đa số cứ bảo là Yoshioka hết thời rồi.
Toji muốn nói toạc ra cho thanh niên kia biết mình là ai nhưng nghĩ lại thôi.
Nói ra mất mặt. Hắn cố dằn cơn giận:
- Bây giờ chỗ nào cũng thấy những kẻ ra vẻ ta đây thạo tin nên không thể trách thiên hạ đã đánh giá quá thấp phái Yoshioka. Phái này đâu đến nỗi thế ! Nhưng thôi, ta nói chuyện khác thì hơn. Lúc nãy thiếu hiệp bảo vẫn dùng kiếm chém én đang bay để giải khuây, phải thế không ?
- Tại hạ quả có nói vì sự thật như thế.
- Bằng thanh kiếm dài này ư ?
- Đúng vậy !
- Nếu thế chắc thiếu hiệp cũng có thể dùng kiếm này hạ vài con hải âu đang bay để anh em coi chơi chứ ?
Thanh niên không đáp. Chàng vừa nhận ra ý mỉa mai của kẻ cùng thuyền nên đăm đăm nhìn thẳng không chớp vào mắt Toji:
- Được, nhưng chém làm gì, vô ích !
Toji phưỡn ngực, dằn giọng:
- Thiếu hiệp chưa biết phái Yoshioka mà đã giở giọng chê bai ...
- Ồ, thì ra tại hạ đã làm đại hiệp giận.
- Ta đâu có giận gì. Nhưng là dân Kyoto, không ai muốn nghe những lời nói xấu Yoshioka phái.
- Tại hạ chỉ nhắc lại lời thiên hạ đồn đại đấy thôi. Tại hạ không có, hoặc chưa có ý kiến gì về phái này.
Toji lên giọng kẻ cả:
- Này thiếu hiệp !
- ...
- Ngươi hiểu câu “bất tri tự lượng” là thế nào không ? Tuổi trẻ hay khoe khoang, ta thông cảm mà tha thứ, nhưng cái gì cũng phải có giới hạn. Vì lợi ích cho ngươi, ta khuyên hậu sinh các ngươi đừng khoác lác thái quá. Ngươi tưởng ai cũng thộn cả hay sao? Cái gì mà chẻ liễu với chém nhạn, làm như không ai biết sử kiếm, chỉ một mình ngươi biết !
- Kìa, sao đại hiệp vội nóng quá thế ? Đại hiệp cho những lời tại hạ là khoác lác cả chăng ?
- Hẳn đi rồi chứ còn gì nữa ! Nghe chuyện ngươi, ta đã nhịn không muốn xưng danh. Bất quá ngươi chỉ là một thiếu niên miệng còn hôi sữa, chẳng chấp làm gì, nhưng thấy ngươi huênh hoang quá sức, mạt sát cả phái Yoshioka chúng ta nên phải cảnh cáo.
Ngươi biết ta là ai không ? - Hắn vừa nói vừa chỉ tay vào mũi - Toji, đệ nhất cao thủ kiếm phái Yoshioka Kyoto đây ! Còn nói bậy, ta mổ ruột !
Cơn giận dồn ép từ nãy, bây giờ bùng ra ! Toji mặt đỏ như gấc, nói một hơi không nghỉ, sùi cả bọt mép. Khách trên thuyền nghe to tiếng, dừng tay chơi bài, quay đầu nghểnh cổ về phía hai người chỉ trỏ.
Toji bỏ đi, bước những bước dài ra đằng cuối thuyền, khoanh tay ngẩng mặt giương giương tự đắc. Thanh niên nín lặng một lúc rồi nghĩ sao, thong thả bước theo.
- Đại hiệp ?
- Gì ?
- Vừa rồi, trước mặt bá chúng, đại hiệp bảo tại hạ là khoác lác. Vì danh dự, buộc lòng tại hạ phải chấp nhận điều đại hiệp thách làm, mặc dầu thấy vô ích. Tại hạ muốn đại hiệp chứng kiến.
- Ta thách điều gì ?
- Đại hiệp quên rồi ư ? Nghe tại hạ nói vẫn dùng kiếm này chém nhạn chơi, đại hiệp có ý chế giễu và thách tại hạ chém một con hải âu đang bay.
- Ờ phải, vậy ngươi làm được không ?
- Nếu làm được, đại hiệp chịu thua chứ ?
- Ờ ... Ờ ... đương nhiên !
- Vậy tại hạ sẽ làm.
- Tốt lắm ! Toji cười gằn ác độc. Nhưng nếu thất bại, ta mổ ruột ngươi !
Thanh niên không đáp, gật đầu. Rồi vụt một cái, gã nhảy phắt lên mặt chiếc thùng gỗ gần chỗ Toji đứng, tay để vào đốc kiếm, hét lớn:
- Gọi hải âu xuống, ta hạ cho xem !
Toji thấy mình như bị lừa, đưa cổ vào tròng làm trò cười cho thiên hạ. Hắn nhớ đến mẩu chuyện xưa của Vô Ngại thiền sư nội dung cũng tương tự, nên ấp úng:
- Vô lý ! Ngươi chém hải âu được thì cũng gọi hải âu được chứ ?
- Biển mênh mông hàng ngàn dặm, mà kiếm ta chỉ dài hơn ba thước, nếu hải âu không có, làm sao ta giết ?
Toji bước tới một bước:
- Này cậu nhỏ kia, ta bảo thật:
Đừng hòng giở thói láu cá để tìm cớ thoát thân.
Nếu không giết được thì nói thẳng đi, quỳ xuống xin lỗi, ta tha cho không chấp.
Thanh niên cười ha hả:
- Sao không giết được ? Không có hải âu ta dùng vật khác. Trông đây !
Một tiếng soạt. Ánh kiếm lóe lên. Toji cảm thấy lạnh ở đỉnh đầu vội trầm mình xuống. Lưỡi kiếm như một lằn chớp hình vòng cung phóng ra rồi lẫn ngay vào màu áo đỏ. Trong nháy mắt, thanh niên đã tra kiếm vào vỏ, chiếc áo bào tía chưa hết rung động. Kiếm dài ba thước mà thanh niên sử dụng nhanh không khác gì một lưỡi trủy thủ.
Toji kinh hãi tột đỉnh. Hắn đưa tay lên sờ đầu, không thấy đau đớn. Nhưng quái lạ, một cảm giác kỳ dị khiến hắn đoán có sự khác thường xảy ra.
Đột nhiên Toji để ý đến một vật nhỏ màu đen to bằng ngón tay cái nằm run rẩy bên đống dây chão, gió thổi như sắp hất xuống biển. Một đầu vật đó buộc sợi dây lụa đỏ. Hắn sờ tay lên đầu lần nữa, tóc bung ra:
chỏm tóc hắn đã bị lưỡi kiếm của gã thanh niên kia chém đứt ! Trời ơi ! Chỏm tóc yêu quý của hắn ! Chỏm tóc mà không một Samurai nào biết tự trọng không gìn giữ cẩn thận như gìn giữ chính sinh mạng mình. Toji thét lên một tiếng đau đớn, tay để vào đốc kiếm.
Thình lình một cơn gió thổi mạnh làm rung chuyển cả thuyền. Tiếng chân người rầm rập, những tiếng kêu “Bắt nó ! Bắt nó !” cùng tiếng sóng vỗ rào rào, tiếng gió hú qua cách bành giấy bổi xếp hàng trên sàn, tiếng kẽo kẹt của dây chão căng như sắp đứt tung dưới sức mạnh của gió biển làm không khí trong thuyền sôi động hẳn lên.
Toji tay để vào đốc kiếm, sắp rút gươm thì một ý tưởng vụt hiện. Sau cuộc hành trình vừa qua, hắn đã thấm mệt, nội lực hẳn nhiên sút kém. Lại gã thanh niên kia, tuy thân thế và tài năng chưa lộ hẳn nhưng đường kiếm trảm nhạn gã vừa thi triển đã chứng tỏ gã quả là tay địch thủ đáng ngại. Bậy hơn nữa, Toji đã dại dột tiết lộ danh tính, cả thuyền đều nghe, chẳng may trong lúc giao tranh, nếu thất thế thì còn gì là thể diện phái Yoshioka nữa !
Toji rất thực tế và biết tự lượng. Hắn ý thức rõ so kiếm với gã kia trong lúc này, bất cứ vì lý do gì, cũng là vọng động. Nắm ngay lấy cơ hội cả thuyền nhốn nháo, hắn to miệng mắng gã thanh niên hòng giữ thể diện:
- Giỏi lắm ! Lên bờ ta sẽ cho ngươi một bài học. Bây giờ xem chuyện gì đã !
Nói xong quay vội đi, nhưng không ra mũi thuyền mà bước xuống khoang dưới, kéo vạt áo lên đầu che chỏm tóc mới bị hớt.
Ngoài mũi thuyền, tiếng la hét, tiếng chân người chạy rầm rập vẫn không giảm.
Con thuyền chòng chành vì sóng lớn, bây giờ theo dòng người hỗn độn chạy dọc ngang càng chòng chành hơn. Có tiếng gọi chủ thuyền. Một người béo lùn chạy ra, thấy bọn khách thương đang la hét đuổi theo một con khỉ. Hỏi duyên cớ mới biết con khỉ đã nhân lúc mọi người vô ý, nhảy vào chiếu bạc ôm trọn cỗ bài chạy. Bây giờ nó đang ngồi trên cuộn dây chão kêu khẹc khẹc nhe răng ra hăm dọa bọn người đuổi bắt. Nó chuyền cỗ bài trên tay, bắt chước cử chỉ của những con bạc. Dáng điệu nó vụng về thật tức cười càng chọc giận thêm những người đuổi.
Đột nhiên con vật bỏ cuộn dây, tót lại phía cột buồm, thoăt thoắt trèo lên rồi ngất ngưởng đánh đu trên đó. Cột buồm cao có đến bốn năm trượng, gió thổi ***g lộng. Con khỉ con như không, lại còn ra vẻ thích thú, nhảy qua nhảy lại nhạo báng những kẻ đứng dưới.
- Á à ! Kìa, nó xé bài rồi ! Nó xé bài rồi !
- Chủ nó đâu ? Gọi nó xuống đi chứ !
Mọi người nhìn gã thanh niên, chờ đợi. Nhưng gã lờ đi như không nghe thấy. Chủ thuyền xem chừng cũng biết chủ nhân con khỉ là ai, nhưng không rõ vì ngại dáng dấp cao lớn của gã hay vì thanh trường kiếm gã đeo trên vai mà không nói gì, chỉ hỏi bâng quơ:
- Ai là chủ con khỉ đó ?
Không có tiếng trả lời. Thanh niên vẫn điềm nhiên đứng dựa bục gỗ, lơ đãng nhìn bọt nước.
- Vùng rừng núi Awaji nhiều loại khỉ lông vàng như con này lắm. Nếu không ai nhận là chủ, tất nó là dã hầu lạc đàn, ta sẽ có cách đối phó.
Bèn chạy vào khoang, một lát mang ra cây hỏa mai đã nạp đạn sẵn. Hắn vừa liếc nhìn thanh niên vừa khum tay mồi lửa, miệng phân bua:
- Đã nói rồi đấy nhé ! Các vị Ở đây làm chứng cho, thú vô chủ là dã thú, bắn chết đừng có trách !
Mọi người bớt ồn ào. Có người tỏ thái độ bất bình. Một số hồi hộp như sắp được xem màn kịch đến hồi gay cấn.
Chủ thuyền nâng súng đặt lên vai. Một tiếng “bùm !”, mùi thuốc súng bay tỏa khét lẹt. Nhưng viên đạn không trúng con vật. Gã thanh niên bào tía đã nhảy đến bên chủ thuyền từ lúc nào, đưa tay gạt chếch mũi súng:
- Thuyền chủ làm gì vậy ? Ngươi định bắn con khỉ bằng thứ đồ chơi này đấy hả ?
- Sao không ?
- Con khỉ có tội gì ?
- Nó lẫy cỗ bài của người ta.
- Lấy cỗ bài mà đáng tội chết ư ? Ngươi tàn nhẫn quá !
- Tàn nhẫn hay không, không cần biết. Ta đã cảnh cáo rồi. Tráng sĩ có phải là chủ con vật đó không ?
- Chính thị.
- Vậy phải đền cỗ bài.
Thanh niên cười ha hả:
- Này thuyền chủ ơi, đừng có hàm hồ ! Ta không xúi con khỉ lấy cắp cỗ bài. Nó là con vật, không biết phân biệt phải trái, nhìn người chơi thì cũng bắt chước, sự thiệt hại đáng là bao mà định giết nó ? Huống chi ngươi không phải là chủ cỗ bài, bắt ta đền sao được ? Mấy người kia chơi bài hay con khỉ chơi bài thì cũng thế ! Nào, ai là chủ cỗ bài, muốn ta bồi thường, nói lên !
Không nghe tiếng đáp. Toán khách thương trước đây miệt thị phái Samurai, bây giờ đứng im thin thít giữa tiếng cười gằn của gã thanh niên ngạo ngược. Chỉ duy viên nho sĩ khẽ nhếch mép mỉm cười rồi lại tiếp tục cúi đầu xuống trang sách bỏ dở, trong khi các chân sào rộn rịp sửa soạn để thuyền cập bến.

Acmagiro
20-02-2008, 08:09 AM
CHƯƠNG 23
VỎ ỐC LÚ



Khi thuyền bỏ neo, trời đã chạng vạng tối. Mùi cá khô phơi chưa được nắng, tanh tanh mằn mặn phảng phất trong không khí. Dãy phố nhỏ trước bến đã lên đèn, ánh sáng vàng úa chiếu qua những khung cửa sổ vuông dán giấy như trong những bức tranh cổ.
Thuyền buôn đã về. Khu bến chợ rộn rịp hẳn lên. Đèn ***g không biết ở đâu túa ra vô số kể, trẻ con cầm lố nhố đứng trên bến. Trên mỗi ***g đèn đều có viết tên một quán trọ, một món ăn đặc biệt của nhà hàng hoặc có khi chỉ để quảng cáo một sản phẩm địa phương nào đó.
Tiếng chân sào la ơi ới, tiếng mời chào, cười nói, gọi nhau, trẻ con chí chóe tranh nhau từng bước trên tấm ván bắc lên thuyền. Vài người ra đón thân nhân đứng đằng xa giơ dù vẫy; những bóng đen khi ẩn khi hiện trong vùng ánh sáng mờ tỏ của ***g đèn ngang dọc.
- Công tử lệnh lang của ngài tổng trấn có trên đó không ?
- Công tử nào ?
- Trịnh Đức Nhị Lang.
- Không. Đi thuyền sau.
- Mời khách quan đến trọ Ở quán cháu. Có cửa sổ trông ra biển, đẹp lắm !
- Xin ngài đến quán Kashiwaya. Phòng rộng rãi, quý khách mang theo con khỉ không tính tiền.
- Không, ông khách này của tao. Mời khách quan theo cháu.
Nghe lời mời chào của hai đứa trẻ, thanh niên mặc bào tía chỉ mỉm cười. Gã nhẹ nhàng gạt tay chúng nắm áo, xốc lại hành trang, bế con khỉ lên vai rồi bước theo tấm ván xuống bến. Không ai đợi gã cả. Nhưng hình như đã có chủ định, gã xăm xăm đi tới, rẽ vào một ngõ tối khuất dạng.
Trên thuyền, đám khách thương vẫn còn hậm hực, vừa coi phu rỡ hàng vừa bực tức:
- Tên đó ngông nghênh quá đỗi ! Chỉ nhờ vài đường kiếm mà coi người chẳng ra gì... Đáng tiếc là cánh mình chẳng ai biết võ, chứ nếu không ...
- Thôi, để tâm làm gì ! Kệ cho nó làm cha thiên hạ. Cao nhân tắc hữu cao nhân trị. Danh chẳng qua như cái hoa, nhường cho nó hưởng, mình ăn quả có hơn không ?
Chuyện hôm nay bỏ đi. Kìa, các em đã đến đón kìa !
Bọn kỹ nữ trèo lên thuyền, bước những bước nhanh và ngắn, vịn vào nhau cười khúc khích. Quanh ánh đèn ***g, trông các nàng không khác gì những con bướm đêm bu xung quanh ngọn nến.
Một trong những người rời thuyền sau chót phải kể Toji. Chưa bao giờ hắn gặp một hoàn cảnh đáng buồn và đáng giận như thế ! Thật mất hết cả thể diện. Mặt mày bí xị, hắn lấy tâm khăn vuông choàng lên đầu che chỗ tóc bị cắt đứt, nhưng không sao giấu được vẻ ảo não và cau có trên mặt.
- Toji ! Em ở đây mà !
Thấy Toji ở trên thuyền bước xuống, Oko vẫy gọi rối rít. Đứng ngoài trời khá lâu, và có lẽ cũng vì gió đầu đông thổi mạnh, Oko run rẩy như chiếc lá. Những vết nhăn trên mặt nàng hiện ra mờ mờ dưới ánh đèn và dưới lớp phấn trắng. Toji nở nụ cười gượng gạo:
- Oko đấy à ? Tưởng nàng không đến chứ !
- Ô hay ! Sao nỡ nói vậy ? Chàng viết thư bảo em ra đón mà !
- Ờ ờ ... nhưng tưởng thư chưa đến kịp.
- Kỳ không ! Lang quân có vẻ không muốn gặp em. Có chuyện gì không vui mà trông mặt chàng như mặt thằng đánh dậm bị cua cắp vậy ?
Toji đang buồn cũng phải phì cười:
- Thế nào là mặt thằng đánh dậm bị cua cắp ?
Oko che miệng rúc rích.
- Không, chẳng có chuyện gì đâu. Chắc tại ta say sóng nên hơi mệt. Ta lên xóm trên, đến quán Torin nghỉ một lát, nếu còn phòng thì trọ luôn. Quán ấy ở cũng được !
- Không, em đã thuê cáng đến đón chàng. Phu cáng đợi ngoài kia.
- Ồ, chu đáo quá ! Thế đã giữ phòng chưa ?
- Rồi. Mọi người đang đợi chàng đấy.
Toji ngạc nhiên:
- Mọi người ? Mọi người là những ai ?
- Thì anh em trong phái Yoshioka của chàng chứ ai ?
- Trời ! Nàng mời họ đến làm gì thế ? Ta tưởng chỉ có mình nàng với ta sống vài ngày với nhau ở một nơi vắng vẻ. Bây giờ hỏng hết chuyện rồi, làm thế nào đây ?
Hắn giơ tay bứt đầu bứt tai, luôn mồm kêu hỏng chuyện.
- Thôi, ta không tới đâu !
Oko rối rít xin lỗi:
- Em đâu có biết, mà chàng cũng không nói rõ. Họ là bạn cả mà ...
Oko đến sát bên Toji. Hắn giận dữ đẩy nàng ra. Bao nhiêu bực dọc và bất lực cảm thấy trên thuyền bây giờ nổ bùng ra, hắn dồn cả lên đầu Oko như nước lũ:
- Ngu quá ! Trời ơi, nàng ngu quá ! Nàng về đi, bảo phu cáng về đi. Nàng chẳng hiểu gì cả, chẳng hiểu ta một tí gì cả !
Oko phục xuống, nắm vạt áo Toji. Hắn giật mạnh ra, rảo bước bỏ đi. Oko chạy theo, bước chân xiêu vẹo suýt ngã. Cả hai đến phía sau chợ cá. Trời tối, chợ đã vãn, các quán đều đóng cửa. Trăng non mới mọc, vẩy cá rải rác đầy dẫy, lóng lánh dưới ánh sáng trăng như những mảnh ngọc trai nhỏ xíu. Khu chợ vắng teo, Oko ôm chặt lấy Toji tỏ tình và lơi lả.
- Bỏ ra !
- Nếu chàng đi trọ chỗ khác thì họ sẽ nghĩ chàng với em có chuyện gì ...
- Mặc kệ ! Họ muốn nghĩ sao kệ họ !
- Toji ! Sao chàng đối xử với em như thế ?
Oko áp má mình vào má Toji. Mùi thơm ngòn ngọt trên mái tóc Oko quyện với mùi phấn sáp trên môi, trên má nàng làm Toji ngất ngây. Nỗi bực dọc cũng bớt đi được đôi phần. Oko nũng nịu:
- Thôi cho em xin ...
- Nàng không biết ta thất vọng chừng nào !
- Biết chứ ! Em biết chứ !
- Thế sao nàng lại để cho nhiều người đến như vậy ? Nàng không muốn ở một mình với ta phải không ? Nàng không yêu ta như ta yêu nàng rồi !
Oko nhìn Toji ra vẻ trách móc, mắt rơm rớm ướt:
- Đó ! Đó ! Lại nói vậy rồi !
- Thế tại sao ?
- Tại em không từ chối được. Khi nhận được thư, em đã quyết một mình đi Osaka để đón chàng, nhưng không may ngay tối hôm ấy Seijuro lại đến chơi cả đêm.
Akemi lỡ miệng nói em sẽ đi Osaka, thành thử Seijuro và các bạn chàng cũng đòi đi theo. Em không từ chối được. Họ cùng đến đây cả thảy tời mười người.
Toji nghe trần tình, biết Oko chẳng làm gì được, nên cũng nguôi ngoai đôi chút nhưng vẫn không vui. Hắn lo ngại phải tường trình những thất bại trong cuộc du thuyết, rồi còn mái tóc của hắn. Mái tóc ! Trời ơi, biết nói làm sao đây ! Toji bối rối quá !
- Thôi được ! Ta bằng lòng đi với nàng. Gọi phu cáng lại đây !
Oko mừng quá, ôm cổ Toji, áp má vào ngực hắn rồi chạy trở lại về phía bến.
Yoshioka Seijuro vừa tắm xong, choàng kimono ấm nằm dài trên nệm bông trong một phòng sang nhất quán trọ. Họ đợi Toji và Oko. Chuyện vãn đã chán, một người đề nghị:
- Ta làm chút gì chăng ? Tiểu chủ nghĩ thế nào ? Ngồi không mãi thế này buồn chết !
- Ừ thì bảo mang rượu đến.
Chén thù chén tạc, câu chuyện lan man đi đến mục nhảm nhí. Chẳng ai còn nhớ mình đang đợi Toji nữa.
- Quán này không có kỹ nữ hay sao ?
Một người hỏi.
- Ừ nhỉ ! Sao không gọi chủ quán bảo cho mấy em đến ? Ông chủ đâu ?
Thế là chẳng bao lâu sau, ba bốn kỹ nữ mang đàn tới. Bữa rượu nhộn nhịp hơn trong tiếng cười đùa lơi lả, không còn phân biệt ai chưởng môn ai đồ đệ nữa.
Cũng như mọi lần, Seijuro uống rượu được một lúc thì say, ngồi thừ người trên chiếu nhìn đàn em vui chơi không mấy thích thú. Là người đứng đầu môn phái, tác phong hắn có phần đĩnh đạc hơn. Hắn không chịu được sự đùa cợt thô lỗ của đàn em.
Ueda ngồi bên ghé tai Seijuro nói thầm. Hắn gật gù ra vẻ ưng chịu. Dù sao, vào phòng riêng, bên lò than ấm, một mình với Akemi cũng sướng hơn ngồi nghe tụi này pha trò thô tục.
Seijuro chống tay đứng dậy. Cả phòng chẳng ai để ý. Cuộc vui cứ tiếp diễn, bình rượu xếp đầy góc nhà, các ca kỹ thay phiên nhau hát nhưng bản huê tình đệm đàn samishen nhiều cái phím đã long, tàn tạ chẳng khác gì chủ nó.
Rượu đương nồng, một nữ tỳ bước vào thông báo có khách. Tiếng lè nhè vọng ra:
- Khách nào thế ? Khuya rồi, bảo mai đến !
- Vị khách này tên Toji.
- Toji ... Toji ...
Á à, bấy giờ cả bọn mới nhớ ra là đang đợi Toji. Vài người ngồi dậy khi Toji và Oko bước vào, giơ tay vẫy, chào hỏi qua loa. Cả bọn không một ai còn tỉnh táo.
Rượu đã vẽ lên mặt họ những nét ngờ nghệch, biến họ thành những hình nhân ngu độn vây quanh mấy ả ca kỹ múa may như những con rối.
Toji chán nản hết sức. Nghe lời Oko, hắn tưởng mình sẽ được đón tiếp long trọng, ngờ đâu ... Hắn lắc đầu, gọi nữ tỳ dẫn sang phòng Seijuro. Nhưng hành động này không cần thiết, vì chưởng môn Yoshioka, nghe tin cánh tay phải của mình về, đã chạy vội ra đón. Seijuro say mèm, chân nam đá chân chiêu, mồm lắp bắp:
- Toji đấy ư ? Ta đợi ... đợi ngươi mãi. Lại đi vui thú với con mẹ này bây giờ mới tới chứ gì ? Không sao ... không sao ...
Hắn đến ôm vai Toji nhưng tuột tay ngã xô về phía trước. Toji giơ tay đỡ.
Seijuro níu vội lấy đầu Toji. Không kịp nữa rồi ! Vuông khăn trên đầu hắn tuột ra.
- Ồ, cái gì thế này ? Sao tóc ngươi mất một mảng thế này ?
Toji luống cuống, giật vuông khăn trên tay Seijuro quấn vội lên đầu:
- Không có gì ! Không có gì ! Tiểu đệ bị cái nhọt trên đầu phải cắt tóc đi cho dễ tri.....
Mọi người quay lại nhìn, đa số chẳng để ý. Có tiếng hỏi:
- Huynh trưởng đi quyên góp thế nào ? Có thu được khá không ?
- Cũng chẳng được bao nhiêu. Chuyện này sẽ giải thích sau.
- Ha ha ... chắc lại chỉ có cái nhọt mang về làm kỷ niệm ...
Cả bọn phá lên cười. Câu nói đầy châm chọc làm Toji xám mặt. Hắn chẳng biết nói sao và xem chừng tuy say nhưng bọn này chẳng một ai tin lời hắn.
Sáng hôm sau, một số môn đệ phái Yoshioka tụ họp tại bãi cạnh quán. Họ đã tỉnh hẳn rượu. Mặt ai nấy đều tỏ vẻ nghiêm trọng. Ueda lên tiếng trước:
- Thật nhục nhã. Ta không ngờ xảy ra chuyện ấy !
- Đầu đuôi thế nào, xin huynh trưởng thuật lại cho anh em biết.
- Ta không được nhìn tận mắt, nhưng Hoàng Diệp nghe rõ. Hoàng Diệp ! Ngươi nghe thấy những gì, nói lại để anh em cùng biết.
- Dạ dạ ! Sáng nay tiểu sinh dậy sớm, cảm thấy mệt mỏi vì hôm qua thức khuya, uống rượu nhiều ...
- Thôi nhanh nhanh lên, bỏ qua những đoạn không cần thiết ...
- Dạ. Tiểu sinh đi tắm. Đang tắm thì có hai người ăn mặc ra dáng thương gia bước vào. Họ kể cho nhau nghe những chuyện xảy ra hôm qua trên thuyền giấy. Hình như có một Samurai thuộc phái Yoshioka ta bị một thanh niên lạ mặt mặc áo đỏ dùng kiếm hớt đứt mất chỏm tóc trên đầu, vậy mà Samurai đó không dám làm gì. Tiêu sinh nghĩ có lẽ đó là đại huynh Toji.
- Bậy nào ! Ngươi lấy gì làm chắc ?
- Có thể lắm ! Này Hoàng Diệp, ngươi không nói láo đấy chứ ?
- Tiểu sinh đâu dám. Sở dĩ tiểu sinh ngờ như vậy vì một trong hai người còn nói:
“Tay Samurai kia tự xưng là cao nhân phái Yoshioka ở Kyoto. Nếu danh tính hắn đúng thì chẳng hóa ra Yoshioka dạo này bạc nhược lắm sao ! Không ngờ phái đó thế mà hữu danh vô thực !”.
Nghe đến đây, bọn đồ đệ phái Yoshioka không kềm được tức giận:
- Láo ! Láo ! Phải trị cho thằng đó một trận.
- Cắt tóc nó đi !
- Không ! Cắt tóc không đủ ! Cắt cổ nó !
Nhưng Ueda đã đứng dậy khoát tay:
- Khoan ! Khoan ! Anh em đừng nóng. Chuyện xảy ra như thế nhưng chúng ta chưa biết có phải Samurai ấy đích thực là huynh trưởng Toji không ? Để ta vào hỏi cho ra nhẽ.
Cả bọn theo Ueda vào quán. Nhưng đến nơi mới biết Toji đã cùng với Oko đi Kyoto từ sớm rồi. Tin này làm cả bọn không còn hoài nghi gì nữa. Seijuro còn ngủ, họ không đánh thức. Ueda được coi như người thay mặt Seijuro, cắt đặt mọi việc, chia anh em đổ đi khắp ngả tìm gã thanh niên áo đỏ.
Akemi, áo vén cao, đứng trên bãi cát gần bờ biển chăm chú nhặt vỏ ốc. Mỗi khi tìm được một vỏ ốc lạ, nàng lại tò mò ngắm nghía hoặc để lên tai nghe. Từ sáng, cứ như vậy, nàng đã nhặt và vất đi hàng trăm con ốc.
Trời mới sang đông, khí hậu ven biển chưa lấy gì làm lạnh lắm. Mặt trời đã lên cao, nước biển xanh biếc, sóng nhè nhẹ vỗ vào ghềnh đá tung bọt trắng như những cánh hoa mai trước gió. Trên bãi vắng, một mình Akemi trong bộ áo trắng, nhỏ bé trước cảnh bao la của trời nước, chẳng khác gì một con hạc khờ dại lạc bầy từ cảnh tiên nào đậu xuống.
Một môn sinh Yoshioka đi qua, thấy Akemi, vội dừng lại:
- Akemi ! Làm gì ngoài bãi sớm thế ?
- Tiểu nữ ... tiểu nữ tìm vỏ ốc.
- Tìm vỏ ốc ? Đằng kia thiếu gì mà phải tìm ở đây ?
- Không. Vỏ ốc đặc biệt chỉ vùng Sumiyoshi này mới có.
- Gì mà quý thế ?
- Vỏ ốc lú.
Gã kia ngạc nhiên mở to mắt:
- Vỏ ốc lú ? Vỏ ốc lú là cái gì ?
- Là một thứ vỏ ốc khi người ta để vào tai nghe hay giữ trong mình thì quên được hết mọi sự.
Gã cười ha hả:
- Cô này điên rồi ! Vô tâm như cô chưa đủ hay sao mà còn đi tìm vỏ ốc lú ?
Akemi lắc đầu cười gượng gạo:
- Tiểu nữ không điên, nhưng có những lúc muốn quên. Thế còn khách quan, khách quan đi đâu vội thế ?
- À, ta đi tìm một người.
- Tìm làm gì ?
- Tìm để trả hận.
Akemi quay đi. Nàng không quan tâm đến sự tranh chấp của đàn ông mà nàng cho là tàn bạo, ích kỷ, ngoại trừ một người. Khi nghĩ đến người ấy, lòng nàng không khỏi rung động. Hình bóng người ấy luôn lởn vởn trong trí và trong những giấc mơ làm nàng bồi hồi không muốn tỉnh. Đôi lúc, bên những cuộc truy hoan của khách lạ tại quán Yomogi, nàng cũng muốn quên hết đi để nghĩ đến tương lai. Nàng tin rằng người nàng yêu mến không biết, hay chẳng quan tâm gì đến mối tình của nàng cả. Mối tình vô vọng ấy nàng thật tình muốn quên nhưng không sao quên được. Nếu quả có vỏ ốc lú, nàng sẽ sung sướng bao nhiêu khi tìm được nó.
Gã môn sinh Yoshioka nhìn nét mặt âu sầu của Akemi không khỏi ái ngại. Thấy nàng không nói gì thêm, gã lặng lẽ bỏ đi.
Akemi lơ đãng nhìn ra xa, khe khẽ ngâm bài thơ quen thuộc:
Nữ la, chàng là cỏ Thổ ti, em làm hoa
Cành mềm không đi nổi
Nghiêng theo gió xuân qua
Nương mình thông trăm trượng
Quấn quít nên một nhà
Ai rằng dễ gặp mặt
Núi biếc cách chia xa
Nhìn nước biển trong xanh và sâu thẳm
Akemi tưởng như đó là nguồn an ủi, sự giải thoát. Nàng trừng trừng nhìn những đợt sóng hiền hòa vỗ nhè nhẹ như ru vào ghềnh đá. Đứng trên ghềnh này, chỉ một cử động thôi, một cử động nhỏ, dễ dàng quá, nàng sẽ nằm trong lòng biển xanh, sóng yêu đương ru nàng vào một giấc mộng êm đềm không bao giờ dứt.
Tiếng chân người và tiếng gọi đột nhiên lôi Akemi trở về thực tại.
- Akemi ! Akemi ! Tiểu chủ đang chờ nàng đấy. Ra đây làm gì vậy ?
Akemi giật mình, theo chân ả nữ tỳ trở về phòng trọ.
Bốn bề yên lặng. Gió sớm xào xạc trên cành thông. Đôi chim sâu lích chính trong bụi rậm trước cửa sổ. Seijuro ngồi một mình trong phòng, bên chiếc lò sưởi vừa nhóm.
Sau giấc ngủ vừa qua, hắn thấy trong người khỏe khoắn lạ thường, nhìn Akemi bước vào, âu yếm hỏi:
- Buổi sáng lạnh, nàng ra ngoài làm gì thế ?
- Tiểu nữ không thấy lạnh. Ngoài bãi, nắng đẹp và ấm lắm.
- Nàng ra bãi làm gì ?
- Tiểu nữ tìm vỏ ốc.
Seijuro mắng yêu:
- Nàng làm như còn trẻ con lắm !
- Thì tiểu nữ vẫn là trẻ con.
- Đến tháng chạp này, nàng bao nhiêu tuổi biết không ?
- Tiểu nữ không để ý. Tiểu nữ vẫn tự thấy là còn trẻ con, có hại gì đâu ?
- Hại lắm chứ ! Nàng đã lớn rồi, phải nghĩ đến tương lai, như mẹ nàng muốn.
- Mẫu thân tiểu nữ ? Bà có nghĩ gì đến tiểu nữ đâu, bà vẫn tưởng bà còn trẻ.
- Nàng ngồi xuống đây.
- Xin khách quan tha lỗi. Trong phòng nóng quá, cho phép tiểu nữ ra sân.
- Akemi !
Seijuro sẵng giọng, nắm cổ tay Akemi kéo xuống.
- Hôm nay chỉ có mình ta với nàng. Mẹ nàng đi Kyoto rồi.
Akemi nhìn đôi mắt đỏ ngầu của Seijuro. Nàng cong người vùng vẫy cố kéo ra, nhưng bàn tay Seijuro cứng như sắt chỉ làm cổ tay nàng đau thêm.
- Sao nàng tìm cách trốn ta ?
- Tiểu nữ không trốn.
- Sáng nay không có ai ở quán. Cơ hội tốt như thế này ...
- Cơ hội gì ?
- Nàng đừng có giả vờ. Có đến hơn năm nay rồi, ta với mẹ con nàng quen nhau.
Nàng thừa biết lòng ta đối với nàng ra sao rồi, mà mẹ nàng cũng đồng ý. Mẹ nàng thường bảo tại ta vụng. Hôm nay xem ta có vụng không !
- Bỏ ra !
- Nàng thật không ưng ta phải không ?
- Bỏ ra, không ta kêu lên bây giờ !
Seijuro cười gằn, chua chát:
- Kêu đi ! Kêu đi ! Không có ai ở quán cả ! Ta đã ra lệnh không ai được làm rộn.
Akemi vùng vẫy, tay đấm chân đạp.
- Bỏ ra, bỏ ta ra ! Ta không bằng lòng, để ta đi ...
- Không được.
- Thân ta không thuộc về khách quan.
- Á à ... Nàng lầm ! Hỏi mẹ nàng xem. Ta đã trả tiền ...
- Mẹ ta bán ta, nhưng ta không chịu bán thân ta. Nhất là cho một tên hèn hạ đáng khinh như ngươi !
- Hỗn ! Nàng hỗn !
Seijuro giật sấp Akemi xuống sàn, lấy chăn trùm kín. Akemi kêu như điên dại, nhưng những tiếng kêu chỉ còn là những tiếng ú ớ tắc nghẹn.
- Kêu đi ! Kêu to nữa đi ! Không ai đến cứu nàng đâu !
Seijuro đè lên mình Akemi.
Bên ngoài, cảnh vật vẫn điềm nhiên. Nắng sớm vô tình chiếu bóng cành thông lay động bên song cửa sổ. Xa xa, tiếng sóng biển rì rào đưa lại cùng với tiếng chim gáy hót sau nhà.
Seijuro bước vào phòng tắm, mặt tái xanh, tay trái giơ cao, những vết móng tay cào trên da còn rướm máu. Bỗng cửa phòng mở toang rồi đóng đánh rầm, bóng Akemi chạy vụt ra ngoài. Seijuro kêu một tiếng khẽ, nhảy tới cản nhưng không kịp nữa. Hắn đưa mắt nhìn theo, trên môi nở nụ cười đắc thắng, nụ cười bằng lòng của một con thú vừa được thỏa mãn.

Acmagiro
21-02-2008, 06:59 PM
QUYỂN 3 : Hi no Maki


CHƯƠNG 24
VỊ NGHĨ VONG THÂN



- Cậu Gon !
- Gì thế chị ?
- Cậu mệt rồi hả ?
- Vâng, cũng không được khỏe.
- Thảo nào trông thờ thẫn. Hai chân ta cũng mỏi nhừ, nhưng còn quãng nữa thì đến chùa Sơn Nhai. Gắng lên, chẳng lẽ tới đây không vào chùa lễ Phật, phải tội chết !
- A di đà Phật !
- Chùa này có xá lợi do vị cao tăng Tây vực mang đến cúng đã mấy trăm năm, lại trồng được cây bồ đề chiết từ gốc nguyên thủy lấy ở nơi đức Phật ngồi đắc đạo ...
- Sao chị biết ?
- Thì người ta nói thế, sao ta lại không biết !
Cụ Osugi và cậu Gon đến gần tam quan. Cảnh chùa u nhã, tiếng chim rừng văng vẳng gõ thân cây, mùi hương trầm phảng phất giục lòng người trút bỏ hết niềm tục lụy. Cạnh tam quan thấy cắm vô số bảng lớn nhỏ, chữ viết chi chít.
- Họ viết gì trên bảng này thế chị ?
- À, họ bảo lấy lá bồ đề trong chùa nấu nước uống thì khỏi bệnh nghiến răng.
Cậu Gon cười chế giễu:
- Nhảm nhí !
- Này đừng báng bổ, đức Phật ngài linh thiêng lắm !
Bỗng bà quay lại, nhớn nhác như tìm ai:
- Thằng Matahachi đâu ?
- Chắc nó đi sau.
- Hay lại lạc rồi cũng nên !
Bà quay trở lại, thấy Matahachi ngồi trên phiến đá thừ người chán nản. Đã mười ngày nay theo mẹ và cậu lang thang chùa này đền khác trong vùng Sumiyoshi, hắn mệt mỏi không hứng thú. Bản tính ham chơi, ưa chỗ đông người, bây giờ thiếu cái không khí ồn ào của trà đình tửu quán, hắn bực dọc. Đã nhiều lần Matahachi nói với mẹ xin tách ra đi riêng tìm Musashi thì mới hy vọng gặp nhưng cụ Osugi không chịu. Bà nói:
“Tết sắp đến nơi rồi. Sáu bảy năm nay, mày đã không ở nhà lễ gia tiên, năm nay mẹ con sum họp, biết đâu chẳng là lần chót. Nhờ Trời Phật, nếu còn được lâu dài nữa thì hay, bằng không thì cũng không ân hận ...”. Matahachi biết không thể làm xiêu lòng mẹ được, đành thôi, nhưng nỗi buồn bực lộ hẳn ra nét mặt. Hắn nhất định sau Tết nguyên đán sẽ bỏ đi ngay, mặc bà muốn nói gì thì nói.
- Matahachi ! Có đi nhanh lên không ? Con trai gì mà yếu như sên ấy !
Nghe mẹ quở, Matahachi càng bực thêm. Hắn đứng lên, lầu bầu:
- Đi nhanh ! Đi nhanh ! Lúc nào cũng đi nhanh ! Nhanh để làm gì ? Chỉ la cà ở các chùa chiền, phí thì giờ !
- Mày nói gì ? Vào chốn tôn nghiêm, không biết kính Phật trọng tăng thì sa địa ngục đời đời không ngóc đầu lên được con ạ ! Ta không thấy mày lễ Phật bao giờ, rồi hối không kịp đấy !
- Thật là cái nợ !
- Matahachi, mày nói ai là cái nợ ?
Giọng bà tức giận, the thé.
Mấy ngày đầu khi mẹ con gặp nhau, còn có đôi chút hòa khí, nhưng dần dần mối bất đồng ngày càng tăng. cụ Osugi lại khắc nghiệt, không tối nào không bắt con quỳ nghe bà thuyết giáo làm Matahachi bực dọc không để đâu cho hết. Nể mẹ, hắn không cãi nhưng sự bực bội dồn ép mãi đến lúc nào đó phải xì ra. May mà hắn còn biết trong uy quyền của bà, chỉ đáp lại bằng những lời chế nhạo hoặc những tiếng lầu bầu bất mãn.
Cậu Gon đứng bên, biết không tránh khỏi sự va chạm đưa đến cãi vã, nghĩ thầm:
“Thật mẹ nào con nấy !”. Để xoa dịu sự bực bội của hai người, cậu cố gắng lái câu chuyện sang hướng khác:
- Hình như chỗ ghềnh đá đằng kia có cái quán, ta ra đấy xem có gì uống cho ấm bụng chứ !
Nói xong, không đợi trả lời, cầm tay chị và cháu lôi đi. Không ai tỏ vẻ hoan nghênh nhưng cậu cũng kéo bằng được cả hai đến gần quán.
Quán nhỏ. Hàng rào sậy thưa ngăn quán với khu vườn hoang gió đánh tơi tả. Cả ba tìm một bàn bên ngoài ngồi nhìn ra bãi. Mẹ con cụ Osugi buồn thiu, chẳng ai nói với ai lời nào. Cậu Gon chạy vào trong đem bình rượu sa-kê mới hâm nóng ra rót vào chén mời bà lão:
- Chị uống một tí. Nó còn trẻ người non dạ, để rồi dạy dần dần mới được.
Cụ Osugi hừ một tiếng, quay phắt đi, buông sõng:
- Không uống.
Bị tẽn, cậu Gon đưa rượu cho Matahachi. Đương cơn bực bội, hắn cầm chén rượu uống liền, nốc một hơi cạn sạch, rồi lại tự tay rót thêm, vừa uống vừa mời cậu, Matahachi có ý trêu tức bà lão. Khi hắn cầm bình định rót lần nữa, cụ Osugi quay mặt lại giận dữ quát lớn:
- Thôi ! Không phải lúc say sưa ! Chỗ này đâu phải chỗ vui chơi ! Còn cậu nữa, liệu hồn cậu ! Già đầu rồi thì phải biết điều hơn nó chứ !
Như đứa trẻ bị mắng, cậu Gon khẽ dạ, bẽn lẽn đứng bên hàng rào nhìn ra biển.
Thấy sắc mặt đỏ gay và dáng điệu bất cần của con trai, cụ Osugi giận uất, dùng ngón tay chỉ mặt Matahachi, mắng như tát nước. Bà không còn e dè gì nữa, bao nhiêu tiếng xấu xa đem ra đổ hết lên đầu hắn, không lưu ý gì đến chủ quán và số thực khách ngồi ở bàn trong, nhìn ra khó chịu.
Matahachi chỉ lặng thinh, lầm lì nhìn khay rượu. Chờ mẹ nói xong, hắn mới ngửng lên nhìn bà lão:
- Vậy con là đồ bất hiếu, bạc bẽo, không có liêm sỉ gì phải không ?
- Chứ còn gì nữa ! Cho đến bây giờ mày đã làm gì để rạng rỡ tổ tông, hoặc ít ra cũng tỏ ra là đứa con hiếu thảo ? Mày chỉ là đồ vô tích sự !
- Mẹ không hiểu ...
- Sao ta lại không hiểu ! Biết con không ai bằng cha mẹ ! Ta xấu hổ đã sinh ra mày, làm nhục cả họ Honiden. - Bà thở dài ảo não - Càng nghĩ càng thêm xấu hổ ...
- Nếu tôi vô dụng thì tôi theo bà làm gì nữa ! Tôi đi đây !
Matahachi tức giận, dằn mạnh chén rượu xuống bàn, đứng lên đi thẳng.
Bà lão giật mình nhìn theo, trong cơn thảng thốt, miệng lắp bắp nói không nên lời.
Bà run run quơ chiếc gậy tre, nhưng rồi lại vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, quay đầu về phía em:
- Cậu Gon ! Cậu Gon !
Cậu Gon như không nghe gọi, vẫn chăm chú nhìn ra bãi.
- Kệ nó ! Muốn đi đâu thì đi, không ai giữ !
Chẳng biết bà nói với ai, với cậu em hay với chính mình. Lát sau cậu Gon mới lên tiếng, nhưng không phải để đáp lời chị:
- Kỳ thật ! Người con gái đằng kia định làm gì mà kỳ quá !
Rồi không đợi trả lời, cậu hối hả nhảy qua hàng rào thấp, chạy vội ra bãi.
- Cậu Gon ! Cậu Gon ! Đi đâu thế ? Thằng Matahachi ...
Chưa nói hết câu, bà đã lật đật đứng lên đuổi theo, chẳng may vấp phải đám rong ngã sấp mặt xuống đất. Chủ quán và một số thực khách chạy ra đỡ bà dậy, quần áo mặt mũi lem luốc những cát ướt. Bà gạt tay mọi người, phủi vội quần áo, mắt vẫn không rời bóng cậu Gon trên bãi:
- Điên à ! Chạy đi đâu thế ? Nó đi về phía này mà !
Mọi người nhìn theo đều lấy làm lạ. Cậu Gon chạy thẳng ra biển. Ghềnh đá ngược ánh mặt trời đen sẫm che khuất bóng cậu, một lúc sau mới thấy cậu hiện ra thì nước đã lên đến đầu gối. Trước cậu chừng vài trượng, một thiếu nữ đương vùng vẫy, áo, tóc xõa trên mặt biển loang loáng dưới ánh nắng.
Cụ Osugi đến bờ nước, chạy tới chạy lui gọi em, giọng lạc đi trong gió lộng:
- Cậu Gon ! Cậu Gon !
Người trong quán ùa ra theo cũng phụ họa, nhưng không ai dám bước xuống nước.
Họ chỉ đứng bàn tán:
- Chỗ này sát ghềnh đá, ở đây thì thế nhưng qua chút nữa là hố sâu, vô ý hụt chân nguy hiểm lắm !
Bỗng có tiếng kêu. Nhìn ra không thấy bóng ông già và thiếu nữ đâu nữa.
- Chìm rồi ! Chết rồi, chìm rồi !
Cụ Osugi lo sợ cuống cuồng. Không biết làm sao, bà giơ gậy đập mọi người làm họ chạy tán loạn.
- Nhảy xuống cứu đi ! Chết rồi ! Ông ấy chết đuối rồi !
Bà mếu máo:
- Các người bất nhân quá ! Thấy ông già sắp chết không cứu. Cậu Gon ơi ! Cậu Gon ơi ! Ai cứu em tôi !
Người ta vội vã đi gọi thuyền chài. Lặn ngụp hồi lâu mới vớt được cả hai lên. Thiếu nữ còn nắm chặt vạt áo cậu Gon, nhưng cả hai mắt nhắm nghiền không thở nữa. Mọi người phụ vào gỡ ra và đặt nằm trên bãi cát.
- Anh em mỗi người một tay. Phụ nữ giúp cô bé còn chúng tôi lo cứu ông già. Ngồi lên bụng nhấn mạnh cho nước ộc ra mới được !
Thiếu nữ mặc kimono trắng, mặt còn nguyên son phấn nên trông còn có chút sinh khí, nhưng cậu Gon thì trái lại, mặt xám ngoẹt, những sợt tóc thưa thớt, bạc và ướt nhẹp dán lên trán và hai bên thái dương. Bình nhật cậu không đến nỗi gầy, sao bây giờ trông hom hem quá ! cụ Osugi không cầm được xúc động, khóc òa lên.
- Yên nào bà già ! Làm người ta rối trí !
Những kẻ hiếu kỳ bu quanh thì thầm:
- Tự tử hả ? Tự tử vì tình hả ?
- Bậy nào ! - Có người cười đáp - Ông già cứu cô bé đấy chứ !
- Thiếu nữ này trông quen quen. Có phải cô bé nhặt vỏ ốc không ?
- Hình như thế ! Cô ta trọ Ở trong xóm !
Từ đằng xa, bốn năm người chạy lại. Yoshioka Seijuro gạt đám đông len lỏi đến gần nạn nhân. Nhìn cô bé nằm thiêm em trên cát, mặt hắn tái đi. Hắn kêu khẽ:
- Akemi !
Một người hỏi:
- Đại hiệp quen cô này hả ?
Seijuro không đáp chỉ đứng trừng trừng nhìn thiếu nữ. Người ta đập lưng móc miệng cô, nước và rãi rớt ộc ra ướt cả một khoảng cát. Akemi thở mạnh rồi cựa quậy chân tay. Mọi người reo lên vui mừng:
- Sống rồi ! Cô bé sống rồi !
Họ tiếp tục hà hơi, vỗ lưng, lau mặt cho Akemi. Seijuro lùi ra ngoài, ghé tai môn hạ nói nhỏ. Một lúc sau, cáng được mang đến, người ta vực cô bé lên đưa vào trong xóm.
Cậu Gon vẫn nằm bằn bặt trên cát. Mọi người xúm vào làm đủ cách, cậu vẫn không tỉnh. Mắt nhắm nghiền, chân tay lạnh ngắt, da mặt mỗi lúc càng trắng bệch. Vài người lắc đầu:
- Ông già khéo hỏng mất !
Quả thật, thần chết đang rình rập đâu đây và có lẽ đã điểm cậu Gon rồi ! Xấp xỉ lục tuần, cậu đã già, trước khi nhảy xuống nước cứu cô bé, cậu lại còn uống vài chén rượu thì làm sao mà đủ sức chống lại cái lạnh của nước biển về mùa đông ?
Cụ Osugi ngồi bên em, miệng rên khe khẽ. Thấy không kết quả, số người cứu chữa lần lượt đứng lên dần:
- Hỏng rồi ! Trễ quá, không sao cứu được nữa !
Cụ Osugi khóc rống lên, gọi tên em rồi quay ra hằn học với mọi người xung quanh:
- Hỏng là thế nào ? Hai người cùng mang lên một lúc, một người sống một người chết là sao ? Tại ... tại các ngươi không hết sức !
Bà vừa gạt nước mắt vừa ôm lấy cậu Gon, kéo tay bóp chân, giật tóc mai, không còn cách gì bà biết mà không làm. Lại lật đật mở bọc ra lấy lọ thuốc nhỏ, đổ vài viên vào mồm em. Nhưng cậu Gon vẫn nằm trơ ra đó. Cậu đã ra người thiên cổ.
Ai ai trông thấy cũng ngậm ngùi. Có kẻ quay đi chùi vội nước mắt.
Trời đã về chiều. Ngoài biển xa, phía chân trời, chỉ còn vài vệt sáng hồng báo hiệu một ngày sắp tắt. Những kẻ hiếu kỳ bỏ đi gần hết. Vài người ở lại nhặt cành khô nhóm đống lửa nhỏ bên cạnh bà lão.
Trong cái yên lặng của buổi chiều quý đông nơi đất khách, cụ Osugi ngồi ôm xác em, tiếng bà nức nở hòa với tiếng sóng rì rào thành một điệu nhạc bi ai tiễn đưa người anh hùng bất hạnh.
Akemi nằm trong phòng thiêm em, thỉnh thoảng lại giật tay chân, miệng kêu ú ớ. Seijuro ngồi bên trầm ngâm yên lặng. Nhìn cổ tay yếu ớt của cô bé có những đường gân xanh nổi rõ dưới làn da trắng bệch, hắn cảm thương vô hạn. Cầm tay nghe mạch, mạch nhẹ như tơ, Seijuro khẽ lắc đầu:
“Mạch yếu quá !”.
Trong thâm tâm, hắn tự trách mình đã tàn bạo và ngu xuẩn.
- Akemi ! Tha thứ cho ta ... Tình ta mãnh liệt làm nàng sợ hãi. Nhưng đàn ông nào cũng như thế ...
Hắn lẩm bẩm nói một mình, không biết để tự bào chữa hay để cho Akemi nghe, song lúc bấy giờ hắn thật là thành thực. Mới hay lòng người phức tạp; sáng còn như dã thú, chiều nặng những tình trắc ẩn.
Trời tối đã lâu. Ngọn đèn nhỏ tỏa ánh lờ mờ qua chiếc chụp giấy, vân giấy màu ngà nổi lăn tăn như mây vần trên nền trời sáng. Trong phòng yên lặng, cửa sổ khép kín không để lọt tiếng động bên ngoài. Akemi khẽ cựa mình kêu lên thảng thốt:
- Bỏ ra, bỏ tôi ra !
Seijuro lay vai cô bé:
- Akemi ! Đừng sợ ! Đừng sợ ! Hãy tỉnh dậy !
Có tiếng thở dài. Akemi mở mắt lờ đờ nhìn lên trần, không ý thức chuyện gì xảy ra chung quanh, thều thào hỏi:
- Hôm nay là mấy rồi !
- Cái gì ? Nàng nói gì ?
- Hôm nay ngày mấy ? Còn bao lâu nữa thì hết năm ?
- Mười ngày nữa. Cứ yên tâm tĩnh dưỡng, khỏe rồi ta sẽ đưa nàng về Kyoto ...
Akemi mệt nhọc quay đầu lại nhìn. Dưới ánh đèn mờ, hình như vừa nhận diện được kẻ vừa nói, nàng kêu lên một tiếng kinh hoàng, ngất đi bất tỉnh.
Seijuro loay hoay đắp khăn ướt lên vầng trán nóng bỏng của cô bé. Hắn tránh không gọi tên, sợ làm nàng kinh hãi, chỉ cặm cụi làm. Thay khăn mấy lượt, mới thấy Akemi hơi tỉnh. Trong cơn mê, cô bé gọi tên Miyamoto Musashi và lẩm bẩm những tiếng gì hình như là “dưới chân cầu Gojo ...”. Seijuro nghe không rõ nhưng cái tên Miyamoto Musashi làm hắn chú ý. Musashi ... Musashi ... Không biết có phải là tên lãng tử trẻ tuổi đã từng đến làm náo loạn võ đường Yoshioka của hắn dạo nào ?
Seijuro nhìn môi cô bé, chờ đợi. Nhưng Akemi không nói thêm lời nào nữa.
Nàng đã em đi rồi !
Ngoài song, bóng cây lay động. Tiếng ngựa hí từ xa vẳng đến. Seijuro lắng tai nghe:
tiếng chân người bước vội và tiếng con hầu vọng vào:
- Đây ! Đại hiệp ở trong này !
Seijuro vội bỏ sang phòng bên, quàng tay ra sau khép cửa. Một môn đệ Yoshioka, trang phục theo lối lữ hành, nón nan, vai áo trắng bụi đường hối hả tiến vào. Thấy Seijuro, hắn vội vàng thi lễ.
- Chuyện gì thế ?
- Mời tiểu chủ về ngay cho.
- Nhưng chuyện gì mời được chứ ?
Ở phòng bên, thình lình tiếng thét của Akemi vọng sang, rõ mồn một:
- Bỏ ta ra ! Ta không ưng ! Đừng ...
Tiếng thét pha lẫn sợ hãi làm gã đồ đệ Yoshioka đang mãi tìm thư trong bọc phải khựng lại, ngẩng đầu nhìn Seijuro.
- Không can gì ! Kẻ đó sốt, thỉnh thoảng nói sảng ... Đâu ? Thư của ai ? Đưa ta coi !
- Dạ, của Miyamoto Musashi.
Seijuro sửng sốt. Hắn vừa nghe tên đó từ miệng Akemi thốt ra, bây giờ lại nhận được thư, chẳng biết là điều gì, lành hay dữ. Một cảm giác lo sợ bâng quơ làm hắn ớn lạnh.
Seijuro cầm thư, lật đật đến bên chiếc bàn thấp, cạy niêm và ghé sát vào ánh sáng ngọn bạch lạp. Lời thư rõ ràng, không uẩn khúc:
“Trong thư trước, tại hạ đã hứa ngày trọng xuân sắp tới sẽ có mặt ở kinh thành.
Xin quý phái cho biết nơi và giờ hội ngộ. Tại hạ không sở trường đặc biệt về loại vũ khí nào nên để tùy quý phái ấn định.
Xin quý phái cho yết ngày giờ và địa điểm lên bảng cáo thị Ở dưới chân chân cầu Gojo trước tiết nguyên tiêu, tại hạ rất hân hạnh.
Hy vọng trong thời gian qua, quý kiếm pháp đã đạt mức trác tuyệt. Về phần tại hạ cũng có tiến bộ đôi chút, không dám để phụ lòng quý phái.
Thư bất tận ngôn, Miyamoto Musashi kính bái “
Vẫn cái giọng tuy lễ độ nhưng rất cao ngạo trong thư trước. Seijuro xem xong, tái mặt. Hắn thừ người suy nghĩ. Trác tuyệt cái gì ? Cả năm nay có luyện tập gì đâu mà trác với tuyệt ? Không những chỉ riêng hắn mà thôi, các môn đệ khác, những tay được coi như trụ cột của môn phái, Toji, Ueda ... cũng thế. Bây giờ không phải là lúc đắm mình trong hoan lạc. Phải hành động và cấp kỳ đặt ngay kế hoạch. Càng nghĩ Seijuro càng thấy nguy cấp. Từ nay đến tiết nguyên tiêu chẳng còn bao lâu nữa, nếu hắn không trở về Kyoto ngay để thảo luận cùng anh em trong phái thì không kịp.
Thấy tên đồ đệ vẫn còn đứng xớ rớ ở góc phòng chờ lệnh, Seijuro giận dữ:
- Ra ngoài chờ ta. Gọi chủ quán đến đây. Lập tức !
Đồ đệ ra khỏi. Seijuro giở cuốn thư đọc lại. Những lời ngạo mạn ngụ ý châm chọc của Miyamoto Musashi khiến hắn giận run. Ngày hôm nay đối với hắn quả là một ngày buồn tủi, đáng giận. Chuyện Akemi xúc phạm lòng tự ái của hắn chưa nguôi, nay lại Musashi thách thức. Không do dự, Seijuro quyết ý trở về Kyoto, quay lưng lại nơi sầu thảm này, nơi không để lại một kỷ niệm gì vui tươi trong lòng hắn.
Chủ quán bước vào, Seijuro căn dặn săn sóc Akemi chu đáo. Hắn mở tủ lấy một số tiền trao cho chủ quán và gọi đồ đệ:
- Thu xếp hành trang và để ngựa ta cưỡi, ngươi về sau.
Cả đêm hôm ấy Seijuro không chợp mắt. Vừa tinh sương, hắn đã lên ngựa bỏ đi như chạy trốn, mặc cho tên đồ đệ theo sau, đến đâu hay đó.

Acmagiro
23-02-2008, 09:36 AM
QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 25
CÁI SÀO PHƠI ÁO (Mono Hoshizao)




- Thanh niên bế con khỉ lông vàng ? Dạ có, có thấy đi ngang qua đây hồi trưa.
- Đi về phía nào ?
- Phía cầu gỗ, nhưng không qua cầu. Hình như rẽ vào hàng bán đồ sắt.
Bọn đồ đệ Yoshioka hấp tấp bỏ đi, quên cả cám ơn bác nông phu làm bác ngạc nhiên nhìn theo, không hiểu chuyện gì.
Trời đã về chiều. Đường chân núi vắng vẻ ít người qua lại, hàng quán ven đường lục tục đóng cửa nhưng may làm sao gian hàng bán đồ sắt và lò rèn vẫn thấy còn người kéo bễ. Cả bọn ùa vào. Nhìn đoàn khách lạ Ồn ào, có dáng giận dữ, binh khí đeo bên sườn kêu rổn rảng, gã kéo bễ chột dạ, ngưng tay chạy vội ra.
- Hồi trưa có ai đến đây không ?
- Dạ có.
- Người thế nào ?
- Một thanh niên cao lớn mang bào tía, đeo trường kiếm, nhưng đầu không cạo như các Samurai khác thường thấy.
- Hắn ẵm một con khỉ nhỏ phải không ?
- Dạ phải.
- Đúng rồi ! Hắn có hỏi gì không ?
- Có. Thanh niên đòi xem võ khí chế tạo tại bổn tiệm, nhưng hình như không được vừa ý, vì thấy ý chỉ lắc đầu ...
- Hừ ...
- Lại tháo cả trường kiếm đeo trên vai xuống và hỏi ý kiến tiểu nhân nhưng tiểu nhân không dám đáp, vì thật ra tiểu nhân chỉ là thợ phụ không chuyên nghề rèn kiếm ...
- Vậy bây giờ tên đó đâu ?
- Dạ, bỏ đi ngay sau khi biết chủ nhân bổn tiệm đi vắng.
- Đi về phía nào ?
- Về phía bến đò Temma.
Cả bọn lại ùa ra cửa, theo đường bờ sông trực chỉ bến đò Temma. Họ rảo bước, chẳng ai nói với ai lời nào, lầm lũi đi không nghỉ vì trời đã chạng vạng tối. Trăng hạ tuần chưa mọc, sương chiều bắt đầu bao phủ mặt nước làm mờ những ngọn cỏ lác ven sông và run rẩy các đốm lửa chài lúc ẩn lúc hiện tít tận đằng xa, phía bên kia bờ.
Gần đến bến, một người trong bọn kêu lên:
- Thôi rồi ! Nó trốn rồi !
- Sao ngươi biết ?
- Thì quán vắng ngắt, người ta đang xếp dọn bàn ghế. Vậy là thuyền mới nhổ sào, ta lỡ chuyến đò này rồi !
Thất vọng, cả bọn tản ra quanh bến, hỏi thăm người xung quanh thì được biết hồi chiều quả có một thanh niên với con khỉ lên thuyền đi đã hơn một khắc rồi. Tuy nhiên, theo họ, cũng chưa phải là trễ.
- Mùa này nước chảy xiết. Thuyền đi ngược dòng chậm lắm. Chư vị vào quán nghỉ chân một lúc đã, rồi cứ theo đường ven sông này đuổi theo đến bến Kurushi ắt là gặp vì thế nào thuyền cũng cập bến này đón khách.
Đồ đệ Yoshioka cho là phải, vào quán gọi bánh trà ăn uống, một lúc sau mới lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình.
Sông Temma là một phụ lưu của đại hà Yodo, về mùa nước lớn, ngã ba sông rộng mênh mông như biển. Bọn đồ đệ Yoshioka cứ cắm cúi theo đường mòn mà đi, răng nghiến chặt chống lại cái rét căm căm của gió bấc cuối năm. Trăng mọc đã lâu, trắng như sữa trên nền trời trong xanh không một vẩn mây và lạnh buốt. Bên đường, lá sậy khô đóng giá ánh lên dưới ánh trăng chẳng khác gì những lưỡi kiếm thép tí hon sáng lóng lánh.
Giữa sông, lẩn trong màn sương trắng đục, một khối xám lừ lừ tiến ngược dòng nước, ánh đèn chai thấp thoáng ẩn hiện.
- Thuyền kia rồi ! Đấy ! Thuyền ấy đấy !
Cả bảy người không ai bảo ai cùng rảo bước mau thêm. Sự khích động khiến họ quên cả lạnh. Chẳng bao lâu con thuyền hiện ra rõ hơn trước, tiếng mái chèo khua nước rào rào. Một người trong bọn nóng nảy bắc loa tay gọi lớn:
- Bớ thuyền ngoài kia ! Dừng lại !
Trên thuyền có tiếng đáp:
- Ai đó ?
- Dừng lại !
- Nhưng các vị là ai ? Muốn gì ?
- Ta muốn nói chuyện với một người khách mặc áo đỏ !
Lời nói vừa thốt ra, bọn Yoshioka thấy thật là dại dột. Đằng nào thuyền cũng ghé bến sắp tới. Thà cứ để yên như thế, bọn hắn chia nhau ra phục kích, chờ cho thuyền đậu, rồi bất ngờ nhảy lên tấn công, nếu không bắt sống thì cũng giết được tên trẻ tuổi xấc láo đó. Bây giờ làm náo động lên, nó nhảy xuống sông trốn mất hay ít ra cũng đã đề phòng. Sự tấn công thành ra mất một yếu tố quan trọng, khó khăn thêm ! Người đứng tuổi nhất trong bọn xem ra giận dữ lắm, bứt tóc giậm chân, tự trách mình ngu xuẩn.
Nhưng đã trót rồi, chỉ còn cách dọa và làm chủ đò sợ hãi.
- Chủ đò đâu ? Ghé thuyền vào bờ !
Không nghe tiếng đáp, chỉ thấy mái chèo vẫn đều đặn khua nước. Hiển nhiên trên thuyền, chủ và khách cho bọn này là thảo khấu bày chuyện để ăn cướp. Muốn an toàn, cách tốt nhất là cứ giữ cho thuyền đi giữa sông, gươm giáo nào đến gần được !
- Nếu không ghé vào bờ, đến bến ta lấy đầu chủ đò. Báo cho mà biết trước !
Trên đường mòn, cả bọn theo nhau đuổi con thuyền sát nút, thỉnh thoảng dừng lại nghe động tĩnh. Họ mang giầy cỏ, bước chân tuy êm nhưng vẫn làm đứt quãng những tiếng côn trùng kêu ri rỉ đều đều trong đám lau sậy.
Trời đã khuya lắm. Trăng sáng vằng vặc mà sương cũng bớt dần. Đò đến gần bến Kurushi, bọn Yoshioka chạy trước ra cầu tàu đón. Nhưng kìa lạ quá, sao thuyền không vào mà dừng lại ở giữa sông, quay hai ba vòng như do dự. Có lẽ trên thuyền đang có sự bất đồng ý kiến giữa hai phe hành khách, một phe muốn cập bến và một phe muốn thuyền đậu giữa sông chờ sáng hoặc đợi lính tuần đến bảo vệ.
- Gã tiểu tử hỗn láo mặc áo đỏ có đó không ?
Một người trong bọn Yoshioka hỏi lớn.
Tức thì thanh niên ôm con khỉ bước ra mũi thuyền:
- Bọn ngươi là ai ? Nếu không là giặc cướp thì cũng là đồ vô lại tùng tam tụ ngũ để làm bậy bắt nạt kẻ qua sông. Trong thuyền không có ai mặc áo đỏ , chỉ có ta. Vậy chắc bọn ngươi muốn gặp ta. Muốn cái gì ?
Tiếng xì xào nổi lên. Trẻ em và phụ nữ ngồi thu vào góc khoang niệm Phật. Trên bờ, một hai quán vội thổi tắt đèn, đóng cửa. Thời buổi nhiễu nhương, người dân thấp cổ bé miệng chỉ mong yên thân; đao thương không có mắt, kinh nghiệm đã dạy cho họ biết chẳng dại gì mà dính vào những chuyện tranh chấp không đâu.
- Tiểu tặc ! Hãy giữ mồm miệng. Chúng ta là người của Yoshioka đến hỏi tội ngươi đây !
- Muốn sống thì ghé thuyền vào bến, đừng để cho chúng ta phải trèo lên !
Thanh niên cười gằn:
- Đồ ngu ! Không biết tự lượng !
Chưa dứt lời, gã giật ngay cây sào trong tay người lái đò và chỉ đẩy vài cái, thuyền đã phăng phăng rẽ nước vào bờ. Con thuyền lướt tới càng lúc càng nhanh tưởng như sắp đâm sầm vào chân cầu gỗ. Mạn thuyền cọ vào chân cầu kêu rắc rắc, tiếng người la hét cùng với tiếng quang quác của những giống thủy cầm thấy động bay lên làm huyên náo cả khúc sông vắng.
Thình lình, một vật tròn đen xẹt qua ngọn lau, bắn thẳng vào vai tên đồ đệ Yoshioka đứng trước. Tên này luống cuống giật lùi vung gươm chém loạn. Cả bọn la hoảng.
Cầu tàu thì hẹp, bọn chúng lại đông, sự tháo lui vô trật tự khiến một tên trượt chân ngã lăn tòm xuống nước. Khi định thần nhìn kỹ lại thì mới biết đó là con khỉ. Chúng tức giận chửi bới om sòm.
Thanh niên áo đỏ đứng trên mui thuyền cười ha hả:
- Đây là chư vị kiếm sĩ nhà Yoshioka đấy ư ? Giỏi quá ! Giỏi quá ! Ta chưa ra tay mà đã có kẻ uống nước rồi.
Nói vừa dứt câu, nhanh như cắt, thanh niên đã nhảy xuống cầu tàu, áo bào xòe rộng và lưỡi kiếm rút đánh soạt, lóe sáng dưới ánh trăng. Tên đệ tử Yoshioka đứng gần nhất chưa kịp trở tay đã bị lưỡi kiếm đâm suốt ngực. Rút kiếm ra, thân người chưa kịp đổ, thanh niên đã nghiêng mình né nhát gươm bổ xuống mạnh như vũ bão của tên Yoshioka thứ hai, đồng thời lia trường kiếm chênh chếch theo đường vòng cung từ trên xuống.
Một tiếng thét hãi hùng nhưng đứt quãng, đầu tên môn đệ Yoshioka thứ hai đã rơi tõm xuống nước. Mình gã còn quỳ trên cầu, hai tay nắm chặt chuôi kiếm và lưỡi kiếm chém vào thành gỗ vẫn bị giữ chặt ở đó. Máu từ cổ gã phun ra có vòi. Trước hai chiêu kiếm nhanh như chớp xẹt và chính xác cực độ của thanh niên áo đỏ, năm tên còn lại biết gặp phải tay ghê gớm, tản ra chung quanh như năm cánh hoa vây thanh niên vào giữa.
Chúng định lấy số đông áp đảo.
- Gi ... ết !
Tiếng hét xung trận vừa được tung ra như sấm động, một tên đã nhắm hướng thanh niên đứng, chĩa kiếm đâm thẳng vào tựa tên bắn. Chỉ tiếc kỹ thuật còn kém lại không lường kịp phản ứng thần tốc của đối phương nên đường kiếm không trúng đích. Hắn quá đà chúi về đằng trước, chưa kịp gượng dậy đã bị thanh niên nhảy lên lưng đạp cho ngã sấp và dùng chiêu trảm nhạn hớt đầu tên đứng bên hữu khi tên này chưa kịp xuất thủ.
May sao, gã nhanh mắt, trầm mình xuống tránh khỏi, nhưng cũng bị thanh kiếm dài quá khổ chém xả vai. Tiếng rú thê thảm của hai đệ tử Yoshioka bất hạnh làm sởn gai ốc ba tên còn lại. Chúng hoảng hốt múa bậy vài chiêu rồi hè nhau bỏ chạy.
Thanh niên áo đỏ nhìn theo lắc đầu:
- Không biết Yoshioka còn cao nhân nào nữa không chứ nếu ai cũng thế này cả thì bất xứng quá ! Chả trách làm trò cười cho thiên hạ !
Vừa lúc đó, tiếng vó ngựa từ xa vẳng đến rồi thấy xuất hiện trên đê một kỵ mã, theo sau là một tên hầu chạy bộ. Ánh trăng khuya vằng vặc chiếu rõ trang phục của người cưỡi ngựa:
chiến bào màu vỏ dà viền kim tuyến, nón nan trên đầu, trường kiếm bên hông. Con ngựa ô khỏe mạnh đi nước kiệu, hơi thở phì ra đằng mũi như hai luồng khói trắng.
Ba đệ tử Yoshioka tháo thân chạy lên đê suýt đâm phải Samurai. Chúng khựng lại kịp, rồi đột nhiên cùng reo lên vui mừng:
- Tiểu chủ !
Vì Samurai cưỡi ngựa đó chẳng ai khác hơn là Yoshioka Seijuro.
- Đi đâu thế này ? Sao lại ở đây ? Ta tưởng các ngươi phải còn ở nhà trọ chứ ?
- Dạ, xin tiểu chủ xá lỗi. Bọn tiểu đệ ra đi từ sáng.
- Hừ ! Lại rượu chè ở đâu rồi ! Thật đáng phạt.
- Trình tiểu chủ không phải thế. Vì bọn tiểu đệ được tin có một tên trẻ tuổi xấc láo phạm đến uy danh của bản phái, nên họp nhau truy nã.
- Đúng vậy không ?
- Bọn tiểu đệ đâu dám nói láo. Tiểu tặc đó ở gần đây. Nó tuy còn nhỏ tuổi nhưng dũng mãnh lắm. Đường kiếm của nó thần sầu quỷ khốc ...
- Nói bậy ! - Tên tiểu đồ chạy theo ngựa của Seijuro vội cướp lời - Để mất lòng tự tin thì lâm trận thắng sao được ! Không đường kiếm nào thần sầu quỷ khốc bằng đường kiếm của tiểu chủ !
Ba tên kia định kể thêm thì Seijuro ngăn lại:
- Thôi ! Ta biết rồi. Bây giờ tên đó đâu ?
- Dạ, ở đằng kia !
Và chúng chỉ tay về phía bến đò.
Vừa hay thanh niên áo đỏ đi tới. Dáng hắn lênh khênh, tay còn lăm lăm thanh trường kiếm mà hắn mệnh danh là “cây sào phơi”. Ánh trăng chiếu bóng và kiếm hắn đổ dài trên cỏ.
Ba tiểu đồ Yoshioka đưa mắt nhìn nhau, tên hầu ngựa Seijuro chạy vội tới trước, rút gươm quát lớn:
- Tiểu tặc này phải không ?
Và phóng chiêu ra liền. Thanh niên áo đỏ chỉ khẽ quay mình né tránh rồi thuận tay bổ xuống một nhát, tên hầu ngựa chúi về phía trước tưởng chết đến nơi, may sao chỗ đó gần bờ sông, đất lở khiến hắn rơi tòm xuống nước thoát được thế kiếm cực kỳ nguy hiểm. Lóp ngóp dưới sông, bùn và nước lạnh tràn cả vào mũi và miệng, hắn vừa sợ vừa tức. Nhìn lên thấy ba bạn đồng môn đang bị gã áo đỏ đánh tơi bời, hắn nằm im thin thít không dám chửi to, chỉ rủa thầm trong bụng. Kiếm hắn rơi đâu mất mà lòng tự tin của hắn cũng bỏ hắn rồi !
Trên bờ, bọn đệ tử Yoshioka chạy tán loạn không rõ về hướng nào. Thanh niên áo đỏ mắt sáng quắc lừ lừ tiến lại phía Seijuro. Tình thế khẩn cấp quá, Seijuro không ngờ cục diện thay đổi nhanh như thế. Lúc đầu hắn không sợ, vì dù sao phía Yoshioka cũng có tới bốn người không kể hắn. Bây giờ chỉ còn một mình hắn phải đơn độc chống với gã thanh niên dũng mãnh kia mà kiếm thuật của gã, hắn vừa được dịp quan sát, không phải là hạng tầm thường. Nhìn thanh trường kiếm dài quá khổ gã thanh niên áo đỏ sử dụng, đột nhiên Seijuro như sực nhớ ra điều gì. Một ý nghĩ vụt hiện, hắn gọi lớn:
- Sasaki !
Rồi rút một chân khỏi bàn đạp để lên yên, tay hắn vỗ nhẹ vào đầu ngựa. Con ô câu hí một tiếng dài, co cẳng trước phóng qua đầu thanh niên trong khi Seijuro uốn mình như con tôm, lộn ngược lại phía sau đồng thời rút kiếm ra khỏi vỏ, đứng vững vàng cách thanh niên áo đỏ chừng non một trượng.
- Tuyệt hảo !
Lời khen nhiệt thành phát xuất từ một tấm lòng tri đắc, ngưỡng mộ làm Seijuro hả dạ. Là chưởng môn nhân một môn phái lớn, hắn quen được xưng tụng nhiều rồi, nhưng những lời xưng tụng ấy đều do thuộc cấp của hắn nói ra nên hắn coi thường. Giờ đây đứng trước một đối phương mà thành tích vừa qua làm hắn phải kiêng nể, đối phương ấy lại tỏ ra tâm phục hắn vì một xảo kỹ hắn vẫn thường tự hào thì bảo sao hắn không vui lòng cho được ! Và dĩ nhiên, Seijuro nắm ngay lấy lợi thế ấy. Bằng một giọng vui mừng, hắn gọi:
- Sasaki Kojiro Ganryu !
Thanh niên áo đỏ ngạc nhiên:
- Đại hiệp là ai, sao biết đến ngoại hiệu của tại hạ ?
Tiếng cười ha hả vang dội trong đêm vắng, tiếng cười vui vẻ, đắc thắng và pha chút hợm hĩnh. Seijuro vỗ đùi:
- Đại danh thiếu hiệp ai mà không rõ. Tại hạ được nhiều người cho biết uy danh đã lâu, bây giờ mới may mắn được gặp. Thật là đại hạnh !
- Nhưng đại hiệp là ai ?
- Tại hạ là Seijuro, chưởng môn phái Yoshioka, tri hữu của Ito khi ngài còn ngụ tại một căn nhà nhỏ ở ngoại thành Kyoto.
- Ồ thế ư ? Vậy đại hiệp là bạn của sư huynh tại hạ đấy !
- Đúng vậy !
- Nếu thế chúng ta là đồng đạo rồi, còn chống nhau làm gì nữa !
Và không chờ Seijuro phản ứng, thanh niên tra kiếm ngay vào vỏ.
Seijuro chỉ đợi có thế. Hắn cũng đút gươm vào bao, mở rộng tay nói:
- Hôm nay tại hạ hết sức vui mừng được gặp thiếu hiệp lại là huynh đệ của một bạn cố tri. Phải mời thiếu hiệp đến thăm tệ xá ở Kyoto mới được !
- Sẵn lòng lắm. Tiểu đệ hiện nay chưa có chủ đích gì, hơn nữa cũng muốn viếng Kyoto để cho sửa lại thanh kiếm. Vậy xin theo đại huynh.
- Thế thì còn gì bằng.
- À, có điều muốn hỏi sao đại huynh đoán được tiện danh, lại còn biết cả ngoại hiệu nữa ?
- Có gì đâu. Trong những lúc mạn đàm với Ito, ngài thường nhắc đến tên thiếu hiệp. Lại thường nói ngoại hiệu “liễu ven sông” do Jisai lệnh sư đặt cho thật đã lột tả được hết cái phong thái và kiếm thuật của thiếu hiệp nên tại hạ mới trông nhận ra ngay ...
Sasaki Kojiro vui vẻ cười thích thú. Lòng tự ái tuổi thanh niên được những lời ca tụng văn hoa của Seijuro thổi phồng lên bay bổng tựa diều gặp gió.
Hắn vỗ vai Seijuro cười ha hả:
- Hảo tri kỷ ! Hảo tri kỷ !
Thế là cả hai sánh vai nhau trở lại bến sông. Bọn đồ đệ bị đánh tan tác thấy tình thế đã yên, chưởng môn chúng cùng với thanh niên áo đỏ đi bên nhau ý hợp tâm đầu như đôi bạn lâu ngày thì lấy làm lạ nhưng yên bụng lắm. Kojiro quay qua hỏi Seijuro:
- Tiểu đệ vẫn không hiểu chuyện gì làm quý phái sai người đuổi theo và tấn công tiểu đệ. Trộm nghĩ chắc chỉ do việc xích mích nhỏ trên thuyền buôn mà ra. Có phải thế không.
Seijuro vội gạt ngang để trấn an Kojiro:
- Phải đấy. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Tại hạ thật rất ân hận về thái độ của Toji. Để về Kyoto, tại hạ sẽ quở hắn.
- Không sao. Tiểu đệ nghĩ họ có một điểm hay là biết bảo vệ danh dự cho môn phái. Cái đó mới là chính. Kỹ thuật chưa cao thì trau dồi thêm, có gì đáng trách ? Thôi ta quên chuyện đó đi là hơn.
- Phải rồi, chẳng nên nói đến nữa.
Bèn hô bộ hạ tìm ngựa dẫn lại. Kojiro cũng huýt sáo gọi. Con khỉ không biết từ đâu nhẩy đến ngồi trên vai. Cả bọn đến bến đò.
Nhìn thấy bọn đàn em, đứa nằm vắt trên cầu gỗ, đứa mắc vào đám sậy ven bờ, thân thể đã cứng đơ, lòng Seijuro thắt lại. Dẹp nỗi đau, hắn bảo bọn bộ hạ sống sót ở lại chữa thương và chôn cất những người xấu số, rồi cố lấy vẻ tươi cười mời Kojiro lên ngựa. Nhưng Kojiro từ chối:
- Đa tạ đại huynh, tiểu đệ đâu dám. Đại huynh chức vụ cao trọng xin cứ ngồi. Tiểu đệ niên kỷ cũng như danh phận đều kém đại huynh một bực, được đi cạnh cầm cương cũng đã hân hạnh lắm rồi !
Thấy không nài được Kojiro, vả lại nghe hắn nói cũng phải, Seijuro trè o lên lưng ngựa nói:
- Vậy ta ngồi một lúc. Khi nào thiếu hiệp mỏi thì ta thay thế.
Trong thâm tâm, hắn mừng như mở cờ. Từ nay đến tiết nguyên tiêu không còn bao lâu nữa. Được tay kiếm tuyệt luân này giúp sức, Musashi đâu còn là một đối thủ đáng sợ.

Acmagiro
23-02-2008, 09:36 AM
CHƯƠNG 26
NÚI ĐẠI BÀNG




Vào nửa sau thế kỷ thứ mười lăm, những kiếm phái danh tiếng như Toda Seigen ở miền bắc, Ogasawara Genshinsai ở đông nam rất được võ lâm sùng mộ. Vùng Kyoto có Yoshioka Kempo. Vùng Yamato có Yagyu Muneyoshi. Ở bang Kuwana, tướng quân Kitabatake Tomonori nổi danh hào kiệt, vì không những ông là một danh gia Samurai mà còn là một nhà cai trị quyền uy và khôn khéo. Khi ông mất, dân chúng nhớ ơn người đã đem lại ấm no cho bang, lập đền thờ truyền tụng công đức ông mấy đời sau chưa dứt.
Kitabatake Tomonori lúc còn trẻ là môn đệ phái Ogasawara Genshinsai. Nhờ có kiến thức và đức hạnh, Kitabatake Tomonori được sư phụ đặc biệt yêu mến, truyền hết các bí quyết cho mà chính con ruột tiên sinh cũng không biết. Theo truyền thuyết thì sau khi sư phụ qua đời, Kitabatake Tomonori đến lập nghiệp tại bang Kuwana, mở trường dạy võ. Sư huynh ông tới thăm, dùng mẹo hỏi về những chiêu kiếm kỳ bí ấy, Kitabatake Tomonori chỉ điểm cho hết, song vì tư chất kém cỏi, vị sư huynh này không lý hội được, chỉ học có cái kỹ thuật bên ngoài còn cái tâm vốn là tinh hoa của Kiếm thuật Ogasawara Genshinsai thì lại sao lãng, nên Kiếm thuật Ogasawara Genshinsai miền đông nam không sao bằng được kiếm thuật của Kitabatake Tomonori. Vì thế khi nói đến Kiếm thuật Ogasawara Genshinsai là phải đến bang Kuwana. Tiếc rằng từ sau khi Kitabatake Tomonori chết đi, môn học ấy cũng thất truyền và bây giờ thì không còn mấy ai nhớ rõ những yếu quyết ấy nữa.
Trên đây là một trong những truyền thuyết cư dân vùng Kawana ưa kể lại cho khách vãng lai nghe khi học đặt chân đến vùng sơn cước này. So với các chuyện truyền ký khác nhuộm đầy vẻ thần bí phát sinh từ óc tưởng tượng của những người dân rất nặng lòng với mảnh đất quê hương trên đó họ đã cư ngụ hàng mấy mươi đời thì truyền thuyết này cũng không có gì xa sự thật mấy. Đền thời Kitabatake Tomonori còn kia và danh ông vẫn còn lưu lại hậu thế như một nhà cai trị sáng suốt và một Samurai lỗi lạc.
Miyamoto Musashi nghe chuyện trên đây qua miệng người mã phu kể lại sau khi rời thị trấn Kuwana. Hắn chỉ gật đầu và thỉnh thoảng đáp vài tiếng nhát gừng lấy lệ.
Trời gần cuối năm, đang tiết đại hàn, gió tây bắc thổi lạnh buốt như cắt da thịt.
Musashi mặc phong phanh có cái kimono mỏng, ngoài choàng một tấm áo khoác đã cũ nhàu nát và cáu bẩn, nhiều chỗ bụi đường bám loang lổ. Mặt hắn đen sạm, chiếc nón nan đội trên đầu tơi tả, giá có đánh rơi cũng không ai thèm nhặt. Tóc hắn buộc túm về phía sau, trông rõ ra cung cách kẻ giang hồ khất cái. Tuy nhiên đôi mắt sáng như sao, hàm răng trắng bóng, mỗi khi hắn ngước lên nhìn hay cười nghe chuyện người mã phu kể, khóe miệng cũng như tia mắt ấy có một cái gì ngây thơ tương phản hẳn với khuôn mặt khắc khổ sạm đen vì phong sương của hắn. Một cái gì rất hấp dẫn mà cũng rất quyền uy làm người đối thoại phải kính nể.
Người mã phu, khi nghe hắn gọi dẫn ngựa đến, đã có vẻ e ngại nhưng không cưỡng được. Bây giờ hắn đã ngồi trên lưng ngựa rồi, đi đã quá nửa đường, gã mã phu càng thấy khó có hy vọng đòi được tiền thuê của ông khách lại này ! Gã rụt rè nhắc:
- Thưa khách quan ...
- Gì thế ?
- Chiều nay thì tới Kameyama, nhưng đến đêm chưa chắc đã tới làng Ujii được !
- Hừ ...
Musashi tuy nghe nhưng không để ý. Dường như hắn mãi ngắm cảnh vật xung quanh. Thực ra về mùa đông, rừng núi tiêu điều chẳng có gì đáng ngắm. Vài gốc cổ thụ trơ trọi đưa những cành đen khẳng khiu lên trời tựa những cánh tay gầy guộc, lá úa rụng đầy lối đi, những mảng rêu trên các tảng đá nứt nẻ đã đổi màu, chỗ vàng chỗ nâu sẫm. Duy chỉ có hàng tùng bách là vẫn xanh tốt, tàn lá sum sê không coi gió lạnh ra gì cả. Hàng tùng bách này hợp với tâm trạng hắn chăng mà sao hắn cứ quay đầu nhìn mãi?
- Ujii là một xóm nhỏ ở lưng chừng núi, vắng teo vắng ngắt, khách quan đến đấy làm gì ?
- Ta đến thăm một người.
- Chỉ có hai ba nông dân nghèo khổ ở đó làm rẫy cùng với mấy lão tiều phu già, chặt củi đốt than chứ có ai đâu ...
- Tại Kuwana, ta nghe nói ở đó có tay giỏi nghề sử loại võ khí đặc biệt lắm.
- Chắc khách quan muốn nói Tsujikaze ...
- Phải rồi, Tsujikaze. Nhưng đấy là họ, tên hắn là gì ?
- Kohei.
- Ờ ! Tsujikaze Kohei ! Phải rồi !
- Y làm nghề thợ rèn liềm và lưỡi hái. Y có chế ra một thứ võ khí giống như cái hái, lợi hại vô cùng, làm nhiều kẻ mất mạng. Thế ra khách quan cũng là Samurai đấy !
- Hừ ... hừm ...
- Khách quan là Samurai, hay để tiểu nhân dẫn đi Matsuzaka. Nơi đó có nhiều tay giang hồ hảo hán kiếm thuật nổi tiếng lắm.
- Những ai, kể ta nghe thử ?
- Trúc Tử Hãn, Dương Nguyên Sinh chẳng hạn
- Ta cũng có nghe tên những người ấy.
Hắn không nói gì thêm nữa khiến người mã phu tưởng ông khách lạ biết rõ, nhưng không lưu tâm. Cả hai, kẻ dẫn ngựa và người cưỡi ngựa theo đường núi gập ghềnh lầm lũi tiến về phía trước.
Đến Kameyama, Musashi xuống ngựa, vào một quán ven đường ăn lót dạ.
Hắn bước khập khiểng vì vết thương ở gan bàn chân do cái đinh hắn dẫm phải khi còn ở trấn Kuwana bây giờ nung mủ làm hắn nhức nhối khó chịu. Hắn phải thuê ngựa cưỡi chứ không dám đi bộ. Musashi xin chủ quán chậu nước, tháo dép ra coi, thấy chỗ vết thương đỏ ửng như quả hồng sắp chín, sờ vào nóng và đau lắm. Hắn rửa sạch, dùng vải buộc lại và tự trách đã vô ý để xảy ra chuyện đáng tiếc ấy.
Theo tiêu chuẩn của hắn thì như vậy là hắn thua cái đinh. Là Samurai, hắn đã không cảnh giác đến nỗi cái đinh nằm nhô đầu lên rõ ràng như vậy mà không tránh nổi:
giác quan của hắn chưa đủ linh mẫn. Tệ hơn nữa, sự phản ứng lại chậm chạp để đầu đinh xuyên qua dép và sâu trong gan bàn chân. Đáng lý ra hắn phải nhảy tránh ngay khi cảm thấy mũi đinh chạm vào da mới phải.
Musashi bực bội về sự non kém ấy. Óc và toàn thân hắn chưa đồng nhất thì nội lực hắn dù có dồi dào đến đâu chăng nữa, những cảm nhận vẫn còn chậm chạp, xuất thủ không đủ thần tốc, chiêu kiếm sẽ vì thế mà kém phần uy mãnh.
Trên đường theo đuổi kiếm đạo, Musashi luôn luôn bị ám ảnh bởi sự tận thiện tận mỹ, và những ám ảnh ấy đã làm hại đến lòng tự tin của hắn. Không lúc nào hắn không lo tự tu tự kiểm. Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua, nếu không được như thế, hắn cho là mình đang xuống dốc. Mặc dầu trong những năm gần đây, từ khi rời khỏi căn thạch thất, hắn đã giao đấu với nhiều người, một số là cao thủ võ lâm, nhưng vẫn chưa tìm được ai đáng gọi là người có khí phách, một người đủ nhân, trí, dũng xứng đáng là đối thủ của hắn.
Võ lâm tuy đông đảo, nhưng sự thiếu vắng mẫu người lý tưởng làm Musashi thất vọng. Đôi khi hắn chỉ còn biết tự an ủi cho là vì mình chưa đủ từng trải nên chưa gặp. Những lúc ấy, hắn lại liên tưởng đến Takuan, nhà sư lạ lùng đã hé mở cánh cửa thiền, chỉ cho hắn thế nào là cái tâm của người cầm kiếm. “Đời người có số mệnh. Nếu số mệnh đã run rủi ta gặp Takuan thì ta phải cố gắng đừng để những lời ông chỉ bảo ta không mang lại kết quả”.
Musashi tự nhủ. Takuan là một người khác thường. Không thể bảo ông là người bất trí. Quan niệm về nhân và dũng của ông cũng khác lạ. Nghĩ đến đây, hắn cảm thấy đau nhói ở cổ tay và cảm giác ấy lan dần ra khắp thân thể như cơn đau hắn cảm thấy khi bị treo lủng lẳng trên cành đại bách sau chùa Shippoji dạo nào. Cảm giác ấy phát sinh hoàn toàn trong cõi vô thức, hắn dùng ý chí dẹp đi và tự nhủ sau này sẽ tìm cách lừa và bắt Takuan trói vào cây đại bách như ông đã trói mình khi trước. Nghĩ như vậy, tuyệt nhiên hắn không có ý gì muốn trả thù, có lẽ chỉ muốn giải tỏa những ẩn ức. Nhưng ý nghĩ ấy khiến Musashi mỉm cười. Takuan chắc không tức giận đâu, có lẽ ông chỉ mỉm cười mà nói:
“Đồ ngu. Cũng tiến bộ đôi chút đấy, nhưng làm thế để làm gì hở thằng ngốc ?.
Musashi lạc trong những ý nghĩ mung lung ấy. Trong những lúc suy tư khắc khoải hoặc nghi ngờ khả năng của chính mình, hắn thường lên núi cao sống cảnh cô đơn tịch mịch giữa thiên nhiên. Hắn sống ra sao, chỉ có cây rừng, đá núi và hắn biết.
Lúc trở về, má hắn hõm, mặt hắn sạm đen, tóc cứng như rễ tre, quần áo lôi thôi lem luốc, nhưng mắt hắn sáng hơn, tựa như những hòn than hồng trong lò sẵn sàng tung ánh lửa ra xung quanh, thiêu đốt. Bấy giờ hắn không khác gì một con thú với sức mạnh vô biên, hung hãn, chỉ có hắn mới chế ngự được. Hắn ra đi, đông tây nam bắc, bất kỳ chỗ nào nghe nói có những quái nhân hay kiếm khách hơn người là hắn cũng tìm đến cho bằng được. Để tự chứng minh tài năng. Để củng cố lòng tự tin gần như ngạo mạn. Và cũng vì thế mà hắn có mặt tại sơn đạo ngày hôm nay.
Còn nửa tháng nữa mới đến tiết thượng nguyên, Musashi không dằn lòng được khi nghe người ta nói đến Tsujikaze Kohei nên nhất quyết đến vùng núi này tìm con chim lạ ấy:
Kohei, một con người khí phách hay chỉ là giá áo túi cơm như muôn ngàn giá áo túi cơm khác hắn đã gặp trên bước đường hành hiệp ?
Musashi và gã mã phu đến xóm Ujii thì trời đã khuya. Hắn cảm ơn, trả công xong, định vào trong xóm thì người mã phu giữ lại, rụt rè hỏi:
- Khách quan đến nhà ai ?
- Tsujikaze.
- Bây giờ khuya rồi, từ đây về đến trấn cũng hết đêm. Khách quan cho tiểu nhân theo được không ? Tiểu nhân ngủ ngoài hiên, tìm cái gì cho ngựa ăn, rồi sáng mai kiếm mối trở lại trấn, cũng được thêm chút tiền.
Nhìn gã mã phu, Musashi thương hại. Thân thể gã gầy yếu, chiếc áo chẽn với sợi giây thừng thắt ngang lưng đã sờn rách, đôi dép cỏ mòn vẹt gót. Đêm nay lạnh, có thể có tuyết rơi, đi tắt đường nào thì cũng không về đến Kuwana trước khi trời sáng.
Hắn gật đầu:
- Vậy theo ta. Nếu không tìm được nhà Tsujikaze thì mình tìm chỗ khác !
Tsujikaze mở một lò rèn. Giá trời chưa tối, hỏi thăm quanh đấy chắc họ chỉ đường cho ngay, nhưng khuya khoắt thế này bất tiện quá. Trong thôn yên lặng, ngoài tiếng chày gỗ đập thình thịch đều đều, không còn nghe tiếng gì khác.
Musashi đồ chừng có người còn giã gạo hay đậu gì đó, bèn cùng với người mã phu theo hướng tiếng chày mà đi tới. Một lúc sau thấy lập lòe ánh sáng qua lùm cây, rồi cả hai đến trước một căn nhà ngoài hiên than củi xếp ngổn ngang và lù lù một đống sắt vụn. Cánh cửa hé mở, ánh sáng vàng vọt của bếp lửa đặt giữa nhà bập bùng vẽ lên vách lem nhem mồ hóng những hình thù cổ quái đang nhảy múa. Trước bếp lửa, một người đàn bà ngồi xoay lưng ra ngoài, tay áo xắn cao, đang dùng một cái chày gỗ ra sức đập vào mớ quần áo để trên phiến đá.
Thì ra họ đã đến đúng cửa hàng lò rèn của Tsujikaze. Gã mã phu đẩy cửa bước vào. Người đàn bà giật mình kêu lên một tiếng ngắn.
- Chào bác. Trong này ấm quá nhỉ, bác cho sưởi nhờ chút.
- Ngươi là ai ? Hỏi gì ?
Gã mã phu đến ngồi xổm bên bếp, xòe hai tay ra đưa đi đưa lại trên ngọn lửa:
- Tôi là mã phu ở trấn dưới. Có khách quan đây muốn gặp bác Kohei.
Người đàn bà quay ra, vừa lúc Musashi bước vào. Nhìn y phục và dáng khập khiễng của hắn, thiếu phụ hơi cau mặt, giọng hách dịch:
- Đóng cửa lại ! Gió lùa làm thằng bé cảm bây giờ !
Musashi lùi lại khép cửa rồi ra ngồi trên khúc gỗ cạnh vách. Phòng trong có tiếng động, thiếu phụ bỏ đống quần áo đang giặt, chạy vội vào. Musashi nhìn theo thấy bà ta lật chăn, bế một đứa trẻ nhỏ lên cho bú.
Hắn đảo mắt nhìn quanh. Căn phòng hắn ngồi có lẽ là cửa hàng vì ở góc thấy có một cái bễ bỏ không, trên vách treo la liệt những lưỡi liềm, cuốc, dao phát và một vài nông cụ lặt vặt khác. Trần nhà mồ hóng bám đen, rủ xuống lòng thòng như thạch nhũ.
Gần cửa vào phòng trong, có treo một nông cụ hình thù quái dị hắn đoán chừng là món võ khí người mã phu nói đến hồi nãy. Mắt Musashi sáng lên. Hắn để ý quan sát, quả là một thứ võ khí kỳ lạ, giống như cái gậy ngắn, rất tiện giắt thắt lưng, đầu có khoen, móc sợi dây xích sắt. Cuối sợi xích là một quả đầu tròn không biết làm bằng gì nhưng trông có vẻ nặng. Tiếng người đàn bà trong phòng vọng ra.
- Chắc khách quan cũng là một trong những lãng nhân giang hồ đi khất cái để tìm thầy học võ chứ gì ! May mà trượng phu ta đi vắng chứ nếu không thì hẳn không toàn thây ra khỏi chỗ này đâu !
Người mã phu tỏ vẻ bất bình. Gã nhìn vào phòng trong rồi liếc xéo Musashi thấy hắn vẫn giữ vẻ điềm tĩnh. Thiếu phụ cười hích hích ra vẻ tự mãn và bằng lòng với câu nói này lắm. Không muốn để mất lòng người đàn bà, Musashi hỏi:
- Thế ra ngài Tsujikaze đi vắng hả ? Đi đâu vậy ?
- Đền Arakida.
- Đền Arakida ở đâu ?
- Đến Ise mà không biết đền Arakida thì lạ thật !
Tiếng thằng bé cựa quậy và khóc. Người đàn bà ru khe khẽ:
À ơi cái ngủ mày ngủ cho say
Đừng theo những trẻ quấy ngày khóc đêm
Cái ngủ mày ngủ cho bền
Quấy nhiều khóc lắm chỉ phiền mẹ cha ...
Tiếng ru nghe không rõ nhưng điệu ru thật quen thuộc. Nó gợi cho Musashi nhớ lại những ngày tháng xa xôi thuở nào, khi hắn còn bé, bé lắm. Hắn ngồi im nhìn ngọn lửa bập bùng, lòng mềm hẳn lại, thèm khát một mái nhà êm ấm, một mối tình dịu dàng chưa bao giờ được hưởng.
Người đàn bà đặt đứa bé nằm yên, bước tới bên bếp lửa từ bao giờ và móc lên cái móc trên bếp một ấm nước rồi hỏi hai người:
- Uống trà nhá !
Musashi không đáp, chỉ hất hàm về phía món võ khí treo bên cửa, hỏi thiếu phụ:
- Cái này của lệnh phu vẫn dùng đấy ư ?
- Phải ! Người đàn bà đáp với giọng hãnh diện. Trượng phu ta tự chế ra đấy.
- Ta coi một chút được không ?
- Được !
Thiếu phụ với tay tháo món võ khí trao cho Musashi. Hắn nhấc thử quả cầu đúc bằng sắt to bằng quả cam thấy nặng chừng hai cân. Trong lúc giao đấu, vung cầu này lên trúng đầu địch thủ có thể làm vỡ sọ, trúng tay chân thì gãy tay gãy chân như chơi. Dọc cán cầm, có một cái rãnh và một nút bấm. Musashi bấm nút, một cái lưỡi như lưỡi hái bật ra, cong cong tựa càng bọ ngựa, móc cũng được mà chém cũng được, thật là lợi hại.
- Loại võ khí này ghê gớm quá, nhưng không biết sử dụng ra sao !
Hắn cầm võ khí tay trái, tay phải giữ quả cầu sắt.
Tiếng người đàn bà cười hinh hích:
- Không phải thế ! Đưa ta chỉ cho.
Thiếu phụ nắm cán võ khí, thu sợi dây xích và quả cầu vào một tay, quay mình rồi xuất kỳ bất ý tung giây xích ra đánh rẹt. Sợi dây xích móc vào cây dao phát treo trên giá, cuốn luôn cây dao giật trở lại. Trong nháy mắt, cây dao đã nằm gọn trong tay trái thiếu phụ.
Musashi và gã mã phu trố mắt nhìn. Gã mã phu xuýt xoa:
- Ghê thật !
Vợ Kohei treo võ khí lên vách, nói:
- Công dụng của sợi dây xích là thế. Nó dùng để đoạt kiếm địch thủ. Nếu cần, bật lưỡi hái ra cắt tay địch thủ nếu hắn không chịu buông kiếm.
Musashi trân trân nhìn người đàn bà. Đối với hắn, giờ đây thiếu phụ này là một người khác. Sau thủ pháp vừa rồi, bà ta không còn là một người tầm thường, đần độn nữa.
Vợ Kohei ở lứa tuổi trung niên, da ngăm ngăm đen lại lùn, bình thường kể như vào hạng xấu. Nhưng sự khéo léo và nhanh nhẹn vừa qua, cách tung quả cầu ra và thu lưỡi dao về có một cái gì linh động, uyển chuyển khác thường làm hắn ngạc nhiên như vừa được xem một điệu vũ đặc biệt. Hắn hùa theo người mã phu:
- Ghê thật !
Và trong lòng hắn nghĩ không biết Kohei ra sao, kỹ thuật sử dụng võ khí của y cao đến mức nào mà vợ y lành nghề như thế ! Ý tưởng này làm hắn càng háo hức muốn gặp Kohei. Lợi dụng lúc thiếu phụ vào nhà trong lấy trà, hắn hỏi nhỏ người mã phu:
- Đền Arikida là đền gì, ở đâu ?
- Đó là đền xử nữ, thờ Thái Dương thần nữ, ở cách đây mấy dãy núi. Dòng họ Arikida trông nom đền, trồng trọt lấy thóc lúa và hoa quả dùng vào việc cúng lễ.
- Vậy ta tìm Kohei chắc cũng không khó.
Họ uống trà đến khuya. Khi vợ Kohei vào nhà trong rồi, cả hai chia phiên nhau canh bếp lửa tới sáng.
Hôm sau, Musashi trở dậy sớm. Vết thương ở chân hắn sưng to. Hắn lên cơn sốt không đi bộ được nữa nên lại phải thuê ngựa cưỡi đến trấn Yamada nghỉ tạm. Ở đó có chỗ trọ tử tế và may ra có lương y chữa trị. Musashi ngỏ lời với người mã phu, được gã bằng lòng ngay vì thấy ông khách lạ này cũng sòng phẳng tử tế, và nhất là ở Yamada dễ tìm được khách thuê ngựa đi ngược trở lại trấn Kuwana hơn.
Qúa trưa, Musashi đến Yamada, tìm chỗ trọ, trả tiền mã phu, rồi mượn người đến đền xử nữ hỏi thăm tin tức Kohei.
Yamada là một thị trấn nhỏ hẻo lánh, về mùa đông lại càng vắng vẻ. Vài chục ngôi nhà gỗ nghèo nàn bên một sơn đạo, tuyết rơi đêm trước còn phủ trắng mái nhà và lấp kín những gốc cây đổ sau trận bão vừa rồi. Quán Musashi ở trọ là một trà thất đơn sơ, hắn cũng lại là người khách duy nhất trong quán. Rủi cho Musashi, trấn này trước đây vẫn có tiệm thuốc, nhưng nay vì vắng khách, không còn ai ở lại hành nghề nữa. Người hắn mướn đi hỏi tin tức cũng đã về, nói không có ai tên Kohei ở đền Arikida cả, Musashi thất vọng, đành ngồi trong phòng chuyên tâm vào việc trị thương. Nghe nói dùng quả muồng muồng giã nhỏ đắp vào chỗ đau có thể khỏi, hắn cũng làm theo. Mùi muồng muồng xông lên hắc và ngái khiến hắn buồn nôn và hối hận đã rẽ vào vùng này mà chẳng được việc gì. Chỉ còn vài ngày nữa hết năm, Musashi đã viết thư gửi đi, hẹn tiết Nguyên tiêu trở lại Kyoto gặp Yoshioka phái, không lẽ bây giờ hủy bỏ cuộc gặp gỡ ấy chỉ vì cái chân đau. Lại còn việc hội ngộ với Matahachi ở dưới chân cầu Gojo nữa. Suy đi tính lại, việc quan trọng nhất bây giờ là phải làm sao cho vết thương ở chân được lành đã rồi rời nơi này ngay để đi Kyoto thì mới kịp.
Đêm ấy Musashi sốt nặng. Chủ quán đến săn sóc cho hắn, lột bỏ lớp đậu muồng muồng đi và rửa sạch chỗ chân đau, buộc lại cẩn thận. Sáng hôm sau cơn sốt lui nhưng vẫn còn sưng và đau lắm. Hắn có cảm tưởng như đeo một cục chì. Trong đời, Musashi chưa bao giờ bị bệnh nặng đến phải nằm liệt giường ba ngày liền, ngoại trừ một lần, lúc còn nhỏ bị cái nhọt trên đỉnh đầu.
“Bệnh hoạn thật là một kẻ thù đáng sợ mà ta không làm gì được ! Kẻ thù bên ngoài còn dễ đối phó, chứ kẻ thù từ trong ra, nó ăn ruỗng cơ thể và tâm hồn mình lúc nào không hay, khó mà lường nổi”. Nhưng nghĩ như thế, hắn lại thấy tâm thần khích động cho đó là một thách đố. Hắn tung chăn ngồi dậy, lẩm bẩm:
“Một vết thương nhỏ như thế này mà mình không quyết tâm khắc phục thì làm sao đương đầu với cả Yoshioka phái ?”.
Hắn nghiến răng chịu đau, thu chân lại ngồi theo thế kiết già, nước mắt chảy ràn rụa, tưởng ngất đi ngay trong lúc ấy. Nhưng sau một khắc tự chủ, hô hấp trở lại điều hòa, hắn thấy mắt bớt hoa, mạch máu hai bên thái dương dường như bớt đập mạnh và trong người thư thái hơn trước. Trước ý chí mãnh liệt của hắn, con quỷ đau đớn đã nhường bước, hắn nghĩ vậy. Musashi nhắm mắt, hai tay để lên đùi, tập trung hết ý chí vào việc điều hòa kinh mạch, đẩy máu độc ra ngoài. Mồ hôi vã ra như tắm, hắn cảm thấy vết thương dưới chân đang nứt ra, lần vải buộc ướt nhớp nháp.
Một lúc sau dừng lại, hắn duỗi chân. Lại lần nữa sự đau đớn làm mặt hắn co rúm.
Musashi thong thả cởi lần vải ngoài, quả nhiên máu mủ đã loang đầy mấy lần vải trong, ướt đẫm. Máu đen và mủ đặc vẫn tiếp tục ri rỉ chảy từ miệng vết thương ra, nhưng máu mủ chảy đến đâu, hắn thấy nhẹ người đi đến đấy. Hắn gọi người hầu lấy chậu nước, rửa sạch chỗ đau, buộc lại bằng vải mới, rồi ngồi xếp bằng nhìn ra ngoài.
Trước cửa sổ, rừng bách trải dài trên tuyết, gần đấy là đồi Mi Sơn, xế về phía đông, đồi Thạch Ấn nhô đầu khỏi hàng bách tuyết phủ trắng xóa. Giữa hai quả đồi là một ngọn núi cao, sườn dốc và trên đỉnh một tảng đá lớn nhô ra trông tựa mỏ chim. Trái núi giống con đại bàng nghiêng đầu nhìn cánh rừng trước mặt. Musashi càng nhìn càng thấy giống, không ngờ chính ngọn núi ấy mang tên Đại Bàng sơn, một tên do dân địa phương đặt cho không biết tự bao giờ.
Trông ngọn núi ngạo nghễ, hắn nghĩ đến tiên sinh Yagyu, từ trên mây nhìn xuống, chế giễu sự yếu đuối, vô dụng của hắn. Musashi nóng nảy muốn đi ngay, làm một cái gì, không phải vì hiếu thắng mà vì muốn chứng tỏ với chính mình sự quyết tâm và ý chí khắc phục trở ngại. Nhu cầu ấy cấp thiết, từ trong cõi sâu kín nhất của tâm thức thôi thúc, không cho hắn trì hoãn, mặc dầu cơ thể hắn đang trải qua cơn đau đớn ê chề. Hắn gọi chủ quán đến tính tiền, gói cho một ít lương khô để ngày hôm sau đi sớm.
Hôm sau, mới đầu giờ mão, Musashi đã trên đường dẫn đến đền Arikida.
Mỗi bước chân đi là một khó nhọc vô cùng, cơn đau dày vò làm hắn có cảm tưởng như chân sắp rời ra từng mảnh. Musashi biết rõ chuyện đó từ khi rời khỏi quán, nhưng hắn nghiến răng mà đi vì đây là một thử thách. Lội qua nước suối lạnh buốt, sang đến bờ bên kia thuộc địa phận đền Arikida, hắn gục xuống bên gốc cổ tùng rễ nổi cao trên mặt đất. Không khí trong lành, phong cảnh tịch mịch quanh ngôi đền và từ xa, xa lắm mơ hồ vẳng lại tiếng sáo theo một điệu nhạc cổ làm hắn em đi. Trong giấc mơ, dướng như hắn nghe tiếng chim hót và cả tiếng nghẹn ngào đứt quãng của những thiếu nữ hát đệm trong những buổi tế lễ xưa.
Musashi tỉnh dậy, nắng đã chan hòa đổ trên các mảng tuyết chưa tan. Hắn chỏi mắt, lấy tay sửa lại chiếc nón rồi men theo bờ suối đi ngược lên, khó nhọc trèo qua những tảng đá rêu phủ trơn trượt. Được một quãng thấy bức tường đất chắn ngang, chỉ còn để lại một lối đi nhỏ, và gần đấy có cửa khép kín, Musashi tháo kiếm và hành trang dựa cửa ngồi nghỉ. Hắn lấy lương khô ra ăn, múc nước suối uống rồi ngồi trên bờ suối cởi vết thương ra xem. Vết thương tuy còn đau nhưng đã đỡ nhiều, không sưng tấy lên như trước. Thò chân xuống nước lạnh, hắn lại thấy dễ chịu, nên nghĩ sao, cởi luôn quần áo nhảy xuống tắm. Hắn vùng vẫy, ngụp lặn dưới nước, tưởng như muốn để cho dòng nước trong sạch này rửa hết mọi nhơ bẩn của tâm hồn và thân thể cho hắn được thanh khiết hơn.
Nghe tiếng chim véo von, hắn cũng hòa theo mà ca hát. Giá có ai đi qua nhìn Musashi tắm vào lúc này tất cho hắn là một thằng điên, vì hỗn hào bị thần linh quở phạt như trước đây đã phạt hóa điên một tên thợ săn vào bắn trộm chim trong đền.
Đối với Musashi, sự tắm nước lạnh và dự định trèo lên đỉnh Đại Bàng sơn ngày hôm nay có một ý nghĩa đặc biệt. Cuộc giao đấu với Yoshioka phái là cuộc giao đấu sinh tử. Hắn không sợ chết, cũng không muốn chết anh hùng. Hắn muốn thắng một cách anh hùng nên hắn phải chuẩn bị. Để có một ý chí vững chắc như sắt đá. Để có một lòng tự tin không gì lay chuyển.
So sánh với Yagyu tiên sinh, Ozoin lão tăng và Takuan thiền sư, rõ ràng hắn còn yếu đuối, chưa đủ trưởng thành để biết phải làm gì và làm vào lúc nào. Cho nên hắn phải học cái dũng của họ, cái dũng của kẻ chiến thắng bản thân trước khi chiến thắng ngoại vật.
Musashi bơi sang bên kia suối, chui qua ngọn thác nhỏ, nước đổ xuống như trăm ngàn lưỡi dao bén chém vào da thịt. Da hắn đỏ au. Dưới chân hắn là vực sâu, bên kia, ngọn Đại Bàng sơn lừng lững đè lên hắn. Musashi đã quyết tâm chưa, đủ nghị lực chưa ? Bây giờ là lúc quyết định. Hắn hét to, vang động cả sơn cốc:
- Ta sẽ thắng !
Tiếng vọng từ khắp các vách đá dội lại, thôi thúc, cổ võ:
- Ta sẽ thắng ! Ta sẽ th ... ắng ! Ta sẽ th ... ắng ...
Nắm một dây leo dài, Musashi đánh đu xuống vực rồi chuyền cành nọ sang cành kia, chẳng mấy chốc đã đứng dưới chân núi. Nhìn hắn trần truồng leo qua những cành cây, bám vào ghềnh đá mới thấy sự táo bạo vô biên của hắn. Chỉ một cái xẩy tay hay trượt chân là tan xác. Không khác một người tiền sử ra sức chế ngự thiên nhiên để tìm sự sống. Gió núi thổi ào ào, tai hắn ù đi. Mỗi lần bám vào vách đá cao để leo lên, hắn lại gọi tên người hắn muốn tranh thắng. Này Takuan này ! Này Ozoin này ! Này Yagyu này ! Hắn trèo. Hắn đạp. Hắn bấu. Chỉ còn vài trượng nữa là tới đỉnh. Da hắn gai cào sứt đến rướm máu. Một chút cố gắng nữa ! Một chút nữa thôi !
Nói thì dễ nhưng làm thật khó. Chút cố gắng ấy chính là để phân định sự khác biệt giữa lưỡi gươm chiến thắng và lưỡi gươm chiến bại.
Musashi và trái núi bây giờ là một, nhưng trái núi ngạc nhiên và không muốn người ta làm rộn nên thỉnh thoảng lại đổi xuống rào rào sỏi với đá, không kiên trì bám vào những bụi cây mọc chồi ra, có lẽ đã bị kéo văng xuống vực rồi !
Đột nhiên, trong một cố gắng phi thường, Musashi rướn mình đi lên bám vào một phiến đá. Hắn nằm sấp trên phiến đá ấy, trông ra bốn bề không có gì ngăn cản, chỉ thấy trời xanh biếc. Bên dưới, mây nhẹ như khói bao phủ cả một vùng.
- Thắng rồi ! Ta thắng rồi !
Hắn đã lên tới đỉnh, bao nhiêu sức lực như sợi dây cung căng quá độ đứt phựt, bỏ hắn. Musashi thở hắt ra, nhắm mắt, bất tỉnh.
Khi tỉnh dậy, hắn nhìn xuống chân. Máu mủ ở vết thương tuôn ra, Musashi tưởng như đang kéo trôi tất cả những nhu nhược và mặc cảm của hắn. Trong cái thanh khiết chốn cao sơn dường như có mùi tinh lực con người, mùi dịu ngọt của phiền não đang tiêu tán.

Acmagiro
25-02-2008, 08:49 PM
CHƯƠNG 27
PHÙ DU TRƯỚC GIÓ




Buổi kinh sớm vừa xong, toán lễ sinh ôm sách theo nhau đến học quán. Họ toàn là xử nữ được tuyển dụng vào đền Arikida phụ giúp việc tế lễ và ca múa nên ngoài phần vụ hàng ngày, còn phải học thêm cổ thi và nhạc lý. Trong những buổi lễ chính thức, toán thiếu nữ lễ sinh vận đồng phục áo trắng, quần lụa ống rộng màu huyết dụ gọi là hakama, nhưng ngày thường, đồng phục của họ là kimono ngắn tay và hakama bằng vải trắng.
Đền Arikida ở biệt lập một khu trên ngọn đồi cao, kiến trúc đơn sơ nhưng cổ kính, trong một khung cảnh u tịch. Đền ở xa các sơn đạo nên ít khách vãng lai. Nếu có ai muốn đến chiêm bái thì phải gọi cổng, thủ đền đích thân ra hướng dẫn vào đại sảnh.
Quanh đền lũy đất đắp cao quá đầu người, chỉ để một cửa nhỏ thông ra suối.
Hôm ấy, phụ trách việc quẩy nước vào đền là hai thiếu nữ lễ sinh tuổi chừng đôi tám. Cả hai mang gàu tre từ nhà bếp đi ra chuyện trò ríu rít, bước chân ngắn và mau vẽ thành những vệt dài trên cỏ ướt.
Đến cổng sau, vừa mở cửa, nàng nhỏ tuổi nhất giật mình lùi lại đưa tay lên miệng giữ tiếng kêu khẽ. Vì cái túi vải không biết của ai để đó từ bao giờ, theo đà cửa mở, lăn vào trong thềm đá.
- Mô Phật !
Cả hai nhìn chiếc túi vải chằm chằm. Túi bằng vải khô màu chàm đã bạc vì mưa nắng, miệng sờn rách, đổ nghiêng đè lên một thanh kiếm gỗ, vỏ đen bóng như mun.
- Túi này của ai ?
Hai thiếu nữ phân vân nhìn nhau. Cô lớn lẩm bẩm:
- Đồ ăn trộm. Chắc đồ ăn trộm rồi ! Kẻ nào đem vào đây giấu ...
Không ai bảo ai, họ thò đầu ra ngoài cổng nháo nhác nhìn quanh rồi bỗng nhiên ù té chạy về hướng bếp. Đến dãy nhà gỗ dùng làm phòng vãng lai cho khách, họ tranh nhau gọi:
- Chị ! Chị ! Ngoài cổng sau có vật gì lạ lắm !
Otsu bỏ dở quyển kinh đang chép, đặt vội xuống bàn chạy ra.
- Có cái túi vải của ai để ngoài cổng. Bọn tiểu nữ chắc là đồ ăn trộm.
- Sao không đem vào đưa cho lão quản ?
- Không biết bên trong đựng gì. Bọn tiểu nữ sợ lắm !
Otsu tò mò, định cùng ra cổng sau với hai thiếu nữ, nhưng thấy họ lộ vẻ hoảng hốt quá nên thôi. Nàng ân cần bảo:
- Vậy để ta coi. Các em vào làm việc khác đi vậy !
Nhìn chiếc túi vải nằm chơ vơ bên cánh cổng khép hờ, Otsu có cảm giác kỳ lạ.
Chiếc túi cũng cô đơn như nàng, cũng phiêu bạc như nàng. Chủ nó là ai, ở đâu, nàng không biết, nhưng trông cái màu chàm đã bạc, cái miệng túi đã sờn, nàng đoán chắc người mang nó cũng phong sương lắm. Otsu cúi xuống lấy tay nhấc thử thấy nặng quá, bèn dùng cây gươm móc vào miệng túi mà kéo lê trên cỏ.
“Nặng thế này mà cũng đeo được !”. Thế rồi động lòng trắc ẩn, nàng lại thương kẻ vô danh.
Đã hơn hai tháng nay, Otsu và Jotaro đến tá túc ở ngôi đền này sau khi lang bạt trên khắp các ngả đường đi tìm Musashi. Bấy giờ là mùa đông, nhiều sơn đạo tuyết phủ kín, sức nàng yếu đuối chắc không thể nào tiếp tục được. Nhân một buổi trọ tại lữ quán kia, nàng đem sáo ra thổi cho vơi niềm u uẩn thì được một khách quan chú ý.
Không ngờ khách lại là một người có chức vị trong đền Arikida, mời nàng về dạy nhạc cho các xử nữ. Ở hoàn cảnh tứ cố vô thân như nàng bấy giờ, thôi thì đâu cũng là nhà, khác gì cánh phù du mùa đông mặc cho gió đưa đẩy. Nàng gật đầu ưng thuận.
Thế là Otsu và Jotaro được vị khách quan kia dẫn về đền. Chỉ phiền một nỗi Jotaro lại là con trai, mặc dầu còn nhỏ tuổi, nhưng theo luật lệ không được phép ở cùng một khuôn viên với các xử nữ. Vì thế người tá điền giao cho nó việc phụ giúp lão làm vườn và buổi tối cùng ngủ chung trong vựa củi với lão.
Thời gian trôi qua, Otsu càng ngày càng yêu cảnh u tịch của ngôi đền. Thông reo gió sớm, giọng chim lảnh lót lúc ban mai, và những buổi chiều tà, tiếng vạc kêu sương gợi cho nàng biết bao hoài cảm. Có những lúc ngồi lặng trước cảnh yên tĩnh của thiên nhiên, Otsu ngơ ngẩn xuất thần mặc cho hồn phiêu diêu ngược dòng thời gian trở về những năm tháng cũ. Nàng tưởng như đương ngồi trên bực đá ở thềm chùa Shippoji, lòng lâng lâng không vương vấn. Những lúc ấy, Otsu lại đem sáo ra thổi:
thanh ba tinh khiết của tiếng trúc dâng cao, lòng nàng quyện vào những âm thanh đó mỗi lúc một say sưa làm nàng ngây ngất.
Đằng xa, một vệt khói xanh bốc lên trong khu vườn hoang. Otsu nhớ đến Jotaro, tội nghiệp thằng bé đã phải lao động cực nhọc ở cái tuổi mà trẻ con chỉ biết chơi đùa.
Chắc bây giờ nó đang nhặt cành khô và đốt lá. Nàng bắc loa tay gọi lớn:
- Jotaro !
Có tiếng đáp và lúc sau, Jotaro chạy tới. Bộ mặt đen đủi lém lỉnh của nó loang loáng dưới ánh nắng qua khe những cành cây trong vườn. Jotaro lấy tay quệt mồ hôi trán, toét miệng cười:
- Ngỡ là ai. Chị gọi em làm gì vậy ?
Đột nhiên, Jotaro nhìn thấy cái túi vải Otsu để bên cạnh:
- Cái này của ai thế ?
Vừa hỏi, Jotaro vừa giơ tay định kéo cái túi, nhưng Otsu ngăn lại:
- Không được ! Không biết của ai. Để ta gọi người mang lên giao cho lão quán.
Không được đụng đến đấy !
Bỗng từ xa, một lễ sinh chạy tới trước mặt Otsu:
- Xin mời chị về ngay. Viện chủ muốn gặp.
- Thế à. Ta về ngay đây. Nhân thể nhờ em mang cái túi này trao cho lão quản, để hễ có ai đến hỏi thì hoàn lại cho họ.
Jotaro nhìn cái túi vải và thanh gươm người thiếu nữ lôi đi, mắt nó buồn và môi bậm chặt. Nắng sáng rọi qua cành thưa, vài chiếc lá khô còn sót lại rủ bóng loang lổ lên mặt Jotaro khiến miệng nó trông như mếu. Otsu nhìn Jotaro lo lắng hỏi:
- Chuyện gì thế em ? Em nhìn gì vậy ?
Jotaro lắc đầu buồn bã:
- Không ! Em trông cái túi và thanh gươm, lại nhớ đến thầy em !
Nghe Jotaro nói, Otsu không nén được xúc động, mắt đỏ hoe. Nghe lời Takuan, nàng đã cố quên con người ấy, nhưng hình ảnh Musashi vẫn luôn luôn ám ảnh. Lời nói của thằng bé khơi dậy sự nhớ thương mãnh liệt làm Otsu đau khổ vô cùng.
Nàng có cảm tưởng nó như cơn đau răng, lúc bận quên đi thì thôi, nhưng hễ ai động đến thì nhức nhối. Nỗi đau nhọn sắc tựa gai đâm sâu vào vết thương chảy máu. Takuan chưa yêu, hay không biết yêu là gì, hiểu thế nào được tâm trạng của nàng lúc ấy. Nàng đưa tay áo lên chùi nước mắt, lầm lũi bước đi. Có lẽ nàng phải bỏ nơi này, dù gian nan đến mấy cũng chịu, chỉ cốt nhìn mặt người yêu, ghé đầu vào ngực người nàng thương nhớ. Vui buồn lẫn lộn, nước mắt lại trào ra, hình ảnh Musashi nhòe nhoẹt. Như trong giấc mơ, ảo tưởng làm Otsu quên cả thực tại khiến hai lần Jotaro phải chạy đến lo ngại hỏi:
- Chị ! Chị làm sao thế ?
Mãi khi thằng bé kéo áo, ngập ngừng:
“Chị giận em đấy à ?”. Otsu mới sực tỉnh. Nàng gượng cười với thằng bé:
- Không. Ta có tâm sự buồn. Thôi em đi làm đi, ta lên xem viện chủ bảo gì, đến bữa chiều sẽ lại gặp em.
Viện chủ Arikida gọi văn phòng của ông là Văn Mặc Viện, nơi ông vừa tiếp khách, vừa hội họp và nghiên cứu cổ thư để soạn thảo văn liệu cho đền. Sát với viện là một ngôi nhà gỗ dùng làm trường học cho các lễ sinh, đồng thời cũng là nơi dạy dỗ một số các trẻ nhỏ trong mấy quận lân cận. Ông có ý dạy cho phái thiếu niên biết về cổ sử Nhật, một điều mà các nhà giáo dục thời bấy giờ cho là vô ích. Nhưng ông, ông nghĩ khác. Đa số dân chúng thường có khuynh hướng liên kết quốc gia với lịch sử các triều đại, nên chỉ giữ lòng trung với một triều đại nào đó thôi mà quên mất lòng trung với quốc gia. Hưng vong của giai cấp, họ cho là hưng vong của cả dân tộc, họ chỉ biết xả thân cho giai cấp, vì vậy cảnh tương tàn phe phái làm quốc gia suy yếu. Cho nên ông đi tìm cái gốc, dạy cho trẻ hiểu đâu là nguồn, hy vọng sau này sự tha thiết với nguồn gốc sẽ đơm hoa kết trái để dân tộc còn mãi với thời gian.
Với lòng thành khẩn, kiên trì, ông san định lại cổ thư, phả vào đó luồng sinh khí mới để phái thiếu niên dễ cảm thông với cổ nhân hơn. Ông làm việc ấy cả mười năm rồi, tuy chưa đáng gọi là có kết quả gì đặc biệt nhưng dân trong vùng đã giác ngộ:
triều đại này suy vi, triều đại kia hưng thịnh thì đó cũng chỉ là những chuyển biến của quốc gia, tỷ như những ngôi sao lúc mọc, lúc lặn, ánh sáng mờ nhạt không thể bì với ánh thái dương, tiêu biểu cho dân tộc được.
Viện chủ Arikida vừa ra khỏi phòng học thì một lễ sinh đã đến trình với ông là Otsu đang chờ ở viện. Ông sực nhớ ra, có vẻ bối rối:
- Ờ, ta quên khuấy đi mất đấy.
Bèn vội vã vào văn phòng. Gặp Otsu, ông nhã nhặn xin lỗi:
- Để chị phải chờ, lão phu thật đắc tội. Chị tới đã lâu chưa ?
- Dạ, tiện nữ cũng vừa đến. Viện chủ cho gọi có việc gì ?
- Không quan trọng lắm, nhưng có đôi chút liên quan đến chị. Chị dùng trà đã.
Vừa hay, lão quản bước vào, nói nhỏ với viện chủ điều gì. Ông nghiêm sắc mặt, khẽ gật. Quay sang Otsu, ông hỏi:
- Chị có nghe lão quản vừa nói gì với ta không ?
- Dạ, tiện nữ đâu dám vô lễ.
- Một cái túi vải và thanh kiếm vừa được tìm thấy trong khuôn viên đền. Chắc không phải do khách thập phương đến chiêm bái để lại.
- Tiện nữ đã biết.
- Chị biết rồi ?
- Dạ ! Chính tay tiện nữ kéo vật đó từ cổng sau vào và đã nhờ một em lễ sinh mang giao cho lão quản.
Viện trưởng lặng thinh, nhìn Otsu, lúc sau mới nói:
- Chắc lại của một Samurai nào đó muốn chọc ghẹo người trong đền thôi.
- Viện chủ nghi có kẻ đột nhập đền xử nữ này chăng ?
- Có thể lắm. Nhân chuyện này, ta cũng muốn nói đến việc của chị.
- ...
- Thật là bất đắc dĩ. Chị hẳn hiểu ta không có ý gì ...
- Xin viện chủ giải thích thêm, tiện nữ quả không biết rõ.
Viện chủ Arikida thở dài, vẻ bối rối ra mặt:
- Chuyện không quan hệ, nhưng không nói thẳng để chị biết thì không được.
Nhiều người xầm xì về việc ta để chị ở trong đền cùng với các xử nữ. Chị biết đấy, vì tiếng tăm của viện ...
- Thưa viện chủ, tiện nữ đã làm gì ...
- Không ! Không ! Chị đừng giận. Ta không trách, trái lại còn rất cảm ơn. Chị đã giúp rất nhiều cho viện. Nhưng ... nhưng ... Ông bối rối gãi râu ... Chị đã từng trải, trên bước đường lịch lãm, hẳn không tránh được việc gặp gỡ phái nam. Chị tha thứ cho, hoàn cảnh chị không hợp với tiêu chuẩn của bản viện, nên có điều ...
Mặc dầu viện chủ đã rào trước đón sau, dùng những mỹ từ để che giấu điều khó nói, Otsu nghe vẫn khó chịu. Nàng bực bội. Quả thật, Otsu đã đi nhiều nơi, làm nhiều nghề độ nhật, lại luôn luôn mang hình bóng một người đàn ông trong tim, nhưng thật nàng vẫn còn là xử nữ. Bông hoa trên suối, theo dòng nước cuốn đi, ai biết đâu vẫn còn phong nhụy !
Hai hàng nước mắt trào ra, vừa thương phận mình, vừa giận người, Otsu cảm thấy tắc nghẽn ở cổ họng.
Viện chủ Arikida còn nói nhiều, nhưng nàng có nghe gì đâu. Nàng cũng chẳng muốn trần tình, chỉ ghê cho miệng lưỡi thiên hạ. Thôi thế cũng xong, lòng nàng tuy lưu luyến nơi này nhưng sự ra đi chẳng phải do nàng đề nghị. Phù du đâu quản gió đông, một lần nữa lưu lạc, biết đâu may mắn chẳng gặp người nàng mong ước ?
- Tiện nữ xin đa tạ viện chủ đã cho tá túc và không dám ở lại làm phiền quý viện thêm nữa. Vậy ngay từ bây giờ, xin bái biệt, viện chủ cho tiện nữ tạ lỗi để về thu xếp hành trang ....
- Ồ. Gì mà vội thế, chị !
Tuy nói vậy, nhưng ông vẫn đứng dậy mở tủ, lấy một ít vàng gói vào một phong bao nhỏ. Nhìn ra cửa, thấy Jotaro đứng lấp ló, ông vẫy tay gọi vào. Jotaro khép nép đến bên Otsu.
Viện chủ cầm phong bao đưa cho nàng:
- Có chút quà mọn, lão phu trả ơn chị ...
Nhưng Otsu từ chối. Nàng nói:
- Tiện nữ không dám. Đáng lẽ tiện nữ phải trả tiền ăn ở mới phải chứ đâu dám lấy công vài điệu sáo tầm thường ấy.
Khẩn khoản thế nào cũng không nhận. Sau viện chủ Arikida phải cười bảo:
- Chị bướng bỉnh quá. Thế lão phu muốn nhờ một việc, chị có chịu làm cho chăng ?
- Viện chủ cứ dậy, tiện nữ đâu dám từ chối.
- Làm việc này hộ lão phu cũng tốn công sức. Hay là để lão phu đưa tiền cho cháu Jotaro đây làm lộ phí, rồi cháu giúp lão phu. Chị chỉ giám sát thôi cũng đủ.
Nói xong, ông đưa phong bao cho Jotaro. Thằng bé giơ tay ra nhận liền, nhưng nghĩ sao, lại để xuống bàn quay lại hỏi Otsu:
- Em lấy nhé ?
Dáng điệu của nó khiến mọi người mỉm cười. Trước sự đã rồi, Otsu đành gật đầu và cảm ơn lão viện chủ.
- Điều lão phu muốn nhờ là xin chị cho phép cháu bé mang vật này đến biếu ngài Karasumaru Mitsuhiro ở Kyoto.
Ông với tay lên kệ lấy cái ống tre, rút ra một cuốn giấy trải trên bàn. Thì ra là một bức thủy thái họa khá lớn:
- Hai năm trước, ngài Karasumaru có cậy lão phu vẽ cho một bức tranh, ngài sẽ đề thơ bình chú để dâng lên hoàng thượng. Vì vậy lão phu không muốn giao cho bất cứ ai sợ tranh bị hư rách. Cậy đến chị xin hết lòng cẩn trọng cho.
Viện chủ giở dần bức tranh. Tranh họa một cảnh triều đình cổ. Vì lời bình chú chưa đề, nên Otsu không rõ đời nào, nhưng nhìn những nét thanh nhã và các chi tiết được ghi lại rất trung thực và chính xác, nàng thấy tác giả có óc nhận xét thật tinh tế.
Nó có vẻ đẹp riêng, tuy nhiên so với lối họa của Yagyu tiên sinh, nàng cho nét bút của viện chủ kém phần phóng khoáng.
- Chị ! Chị ! Lửa này vẽ đẹp quá, trông bập bùng như thật !
Jotaro vừa khen vừa toan giơ tay sờ vào chỗ vẽ.
- Jotaro ! Không được mó vào ! Xem thôi, sờ vào hư mất !
Trong khi mọi người mãi mê xem tranh, một gia nhân đến gần viện chủ ghé tai nói thầm. Viện chủ gật đầu, đáp lại:
- Thôi thế cũng được. Nếu người ta đã xác nhận được túi và gươm là của người ta thì trao cho họ cũng không hề gì. Nhưng giá bảo họ biên nhận thì hơn.
oo Nghe tin Otsu ra đi, toán lễ sinh trong viện xôn xao hẳn lên. Mấy tháng nay Otsu dạy sáo và nhạc cho họ, họ rất thích thú và quý trọng. Nàng luôn luôn như người chị cả tài hoa, không những từng trải việc đời mà còn khéo léo tế nhị, hướng dẫn họ trong mọi việc và cách cư xử hàng ngày. Đôi khi có sự bất hòa, nàng đứng ra dàn xếp, mọi người đều vừa lòng và hoan hỉ.
Tan giờ học, bọn lễ sinh kéo nhau đến phòng Otsu, ríu rít hỏi thăm:
- Chị đi thật đấy à ?
- Chị có trở lại không ?
- Sao chị lại bỏ đi. Chúng em nhớ lắm. Biết bao giờ mới lại có thầy dạy nhạc được như chị.
Nhiều thiếu nữ lộ vẻ rầu rĩ vì phải xa Otsu. Họ đến ôm nàng, cầm tay bịn rịn. Vài người giúp Otsu thu xếp hành trang. Hành trang nào có gì đâu, mấy bộ quần áo, gương lược linh tinh thu gọn vào vừa một gói Otsu đeo trên lưng. Cuộc đời lưu lạc sông hồ, mang nhiều theo càng thêm bận. Đối với Otsu, buổi ra đi hôm nay sao lạ kỳ, nàng phân vân vui buồn lẫn lộn. Một cảm giác vừa như lưu luyến vừa như được giải thoát đến xâm chiếm tâm hồn, Otsu thở dài nghĩ thầm:
“Sự thay đổi nào mà không nhiều sầu muộn ?”.
Cả đoàn lễ sinh theo Otsu ra khỏi phòng. Mắt mọi người đỏ hoe, vài thiếu nữ không cầm được xúc động, sụt sịt khóc.
Otsu cố lấy giọng bình tĩnh, khuyên giải:
- Thôi thì chẳng nên buồn phiền. Ở đời, ly biệt là sự thường. Có hợp thì có tan. Rồi một ngày ta sẽ gặp lại các em. Hãy bảo trọng lấy thân và trau dồi tài đức ...
Nàng nói mà trong lòng áy náy vì dư biết lần này ra đi là vĩnh biệt. Làm gì còn có cơ hội nào trở lại đây nữa.
Một lễ sinh đề nghị tất cả cùng đi tiễn Otsu ra tận chân cầu Isuzu. Gió đông thổi se sắt luồn vào tay áo ngắn, các nàng cảm thấy lạnh, nép vào nhau run rẩy.
Bước xuống thềm, Otsu đưa mắt nhìn Jotaro, đã thấy thằng bé ngồi chờ ở đó từ lúc nào. Nó trả lại đền bộ đồng phục trắng, mặc chiếc kimono ngắn cũ trước kia, vai đeo thanh kiếm gỗ dài cùng chiếc ống tre viện chủ giao cho nó mang đi. Trong túi vải nhỏ bên sườn còn chiếc mặt nạ và bộ áo để thay đổi.
Thấy Otsu, Jotaro phụng phịu:
- Sao chị lâu thế ?
Otsu cười, hỏi lại:
- Thế em làm gì trong lúc chờ ta ?
- Chả làm gì cả. Em ngắm cảnh đồi. À, em thấy một người trông giống thầy em lắm, đi về phía chân núi.
- Trời ! Em thấy Musashi sao ?
- Giống thôi, nhưng nhìn kỹ có lẽ không phải vì ông này đi khập khiễng.
Otsu thở dài, im lặng. Trong cuộc hành trình cùng với Jotaro, sự nhầm lẫn như vậy xảy ra rất thường:
khi thì người mang gươm cưỡi ngựa trên quan lộ, lãng nhân đội nón nan bên cửa lữ điếm, khi thì Samurai vừa bước xuống đò ... hai chị em trông ai cũng thấy Musashi, đến gần mới biết là không phải. Hy vọng lóe lên rồi vụt tắt, chuyện xảy ra có lẽ đến hàng chục lần, bây giờ Otsu không còn hồi hộp cuống quýt nữa. Nàng chỉ yên lặng an phận. Và thở dài.
Jotaro lon ton đi trước. Một thiếu nữ hỏi nhỏ Otsu:
- Em bé là con chị đấy à ?
Otsu ngạc nhiên nhìn thiếu nữ. Đột nhiên nàng hiểu, hơi đỏ mặt:
- Sang năm ta mới hăm mốt, làm sao có con lớn như vậy được !
- Thế mà người ta cứ đồn ...
Otsu nhớ lại những lời viện chủ nói, nhưng nàng tự trấn an ngay, nghĩ rằng Musashi chắc chẳng tin những lời dèm pha đồn đại ấy.
Đến cuối vườn, Otsu rẽ vào phía miếu thờ Đức Thái Dương thần nữ.
- Chị lầm đường rồi. Ra cổng phía này kia mà !
- Không, ta muốn vào lễ Đức Bà.
Đến trước cửa miếu, nàng chắp tay kính cẩn đọc một bài kinh ngắn và cúi đầu lâm râm cầu nguyện.
Đi một quãng, không thấy Otsu, Jotaro quay trở lại. Thấy nàng ở trước cửa miếu, nó đứng sững nhìn. Một lễ sinh bảo nó:
- Sao em không vào lễ với chị ?
- Em không lễ. Việc gì em phải lễ ?
- Đây là Đức Bà thần nữ, thủy tổ và cai quản muôn loài, không phải như những thần linh khác. Vào lễ đi, Đức Bà phù hộ cho.
- Không. Em không lễ. Ngốc thế !
Cả bọn sững sờ vì thái độ cục cằn khiếm nhã của thằng bé. Otsu lễ xong quay ra, thấy vẻ bất bình trên mặt họ, bèn hỏi nguyên do. Nàng cau mặt mắng Jotaro:
- Jotaro hỗn lắm nhé. Nếu em không tin thì cũng phải trọng tín ngưỡng của kẻ khác chứ. Nhưng em nên lễ là phải.
- Tại sao ?
- Vì Đức Bà là thủy tổ giống nòi ta, ta phải biết ơn và tôn kính. Vả lại có phải chính em đã nói với ta lúc ở cánh đồng hoang Hannya, em cũng cầu Trời lạy Phật cho thầy em thoát nạn mà. Em lạy Đức Bà đi, Ngài sẽ phù hộ cho chóng gặp thầy.
Jotaro cúi đầu, một lúc sau mới nói:
- Nhưng các cô này cứ nhìn em ...
- Ừ thì chúng ta sẽ quay mặt đi. Vào lễ đi.
Jotaro đến vội cửa miếu, chắp tay lại mấy cái thật nhanh rồi ù té bỏ chạy, chiếc ống quyển và thanh gươm đập vào lưng nó lịch bịch.

Acmagiro
25-02-2008, 08:50 PM
CHƯƠNG 28
CÁI CHONG CHÓNG





Musashi ngồi yên lặng đợi đò ngang dưới mái hiên hẹp của một quán bán hải vị trông ra biển.
Ăn xong đĩa nghêu luộc mà người hắn nhờ đi mua dép cỏ vẫn chưa về, sốt ruột, hắn cởi miếng vải buộc vết thương ở chân ra. Chỗ đau đã xẹp nhiều, da xung quanh bàn chân bây giờ màu tím hồng và hơi nhăn. Không bị vướng víu khó chịu như trước, Musashi đứng dậy đi ra phía ghềnh đá vốc nước rửa. Buộc lại vết thương xong, trở về quán, hắn đã thấy dép và xà-cạp mới mua để ở đó từ bao giờ, bên túi hành trang chỗ hắn ngồi cũ.
Chủ quán nướng nghêu trong bếp, trông ra nhắc:
- Bác chân sào tìm khách quan đấy. Thuyền sắp rời bến rồi.
- Ồ vậy ư ? Để ta trả tiền và ra ngay bây giờ. Hôm nay ngày mấy rồi quán chủ ?
Chủ quán cười:
- Khách quan thật là hạnh phúc. Nghe hỏi, biết ngay chẳng nợ nần ai. Hôm nay hăm bốn, sắp hết năm rồi còn gì.
- Chà ! Thế mà ta cứ tưởng muộn, hăm bảy hăm tám gì đó !
Chủ quán lắc đầu:
- Thanh niên có khác, vô tư quá !
Musashi trả tiền xong, xỏ chân vào đôi dép mới, buộc vội dây xà-cạp rồi hối hả chạy ra bến. Hắn thấy dễ chịu quá, có thể đi bộ thêm được đến vài chục dặm. Từ tình trạng tàn tật bỗng nhiên trở thành khỏe mạnh, hắn yêu đời hẳn lên. Nhất là sự thành công của hắn trên đỉnh Đại Bàng sơn ngày hôm qua khiến hắn vô cùng tin tưởng vào ý chí mãnh liệt hắn có. Musashi hít mạnh một hơi dài:
không khí dường như nhẹ và thơm hơn, những bước chân trên cát của hắn vững vàng như những bước chân con tuấn mã.
Đò đã đầy người nhưng bác chân sào vẫn cố xếp cho hắn một chỗ ngồi gần mũi.
Biển lặng. Mặt nước trong xanh phẳng lỳ tựa tấm gương soi phản chiếu vài cụm mây lờ lững. Musashi nhìn về phía bến:
dẫy quán ven bờ, ngôi chợ cũ khuất dần trong tàn trắc xanh đen và xa xa là sơn đạo đi Matsuzaka, ngoằn ngoèo giữa những đám tuyết trắng chưa tan. Giá có thì giờ, có lẽ hắn cũng đi gặp Trúc Tử Hãn ở Matsuzaka, nhưng bây giờ thì muộn mất rồi. Hắn cần phải về Kyoto trước tết nguyên tiêu, nên tự hẹn sẽ tìm gặp vị kiếm sỹ này vào một dịp khác.
Vừa từ trên thuyền bước xuống, Musashi chú ý tới ngay một gã đàn ông trung niên đi trước, lưng giắt đoản côn, ngang hông đeo kiếm bao bằng da trâu. Gã trạc độ bốn mươi bốn hai, mày rậm, mắt lồi, mặt lại rỗ chằng chịt. Mớ tóc đỏ quạch buộc ngược về phía sau thành một túm, dáng điệu dữ dằn. Nếu không có thằng bé trạc độ trên mười tuổi vác túi đồ nghề thợ rèn theo sau thì ai cũng ngỡ là kẻ cướp.
Thằng bé má còn dính vệt than và mồ hóng, chắc là thợ phụ. Chân nó ngắn, đuổi không kịp bước của thầy nên thỉnh thoảng phải chạy. Chiếc túi vải gai đeo trên lưng to gần bằng mình nó kêu lịch kịch theo bước đi. Mỗi khi chạy, nó phải lấy tay đỡ túi cho khỏi va vào lưng. Đột nhiên thằng bé khựng lại la hoảng:
- Ý ! Thầy đợi con với. Con quên cái búa rồi !
Musashi phì cười. Nhưng gã đàn ông quay lại trừng mắt:
- Thật hay bỡn ?
- Dạ thật ! Con để quên trên thuyền.
- Hà ! Bây giờ mày lại quên cả đồ nghề độ nhật nữa. Muốn sống đi lấy ngay ! Bận sau mà quên nữa thì chết với ông !
Đứa bé líu ríu vâng lời, cắm cổ chạy.
Con đường từ bến tàu đến chợ chẳng thiếu gì quán bán các vật dụng linh tinh, nhất là đồ kỷ niệm. Thằng bé đi tìm búa quay trở lại không thấy thầy đâu, lo lắng nhìn quanh. Khi thấy gã đàn ông trong tiệm bán đồ chơi bước ra, tay cầm cái chong chóng bằng giấy sặc sỡ, mắt nó sáng lên vui sướng.
- Iwa !
Nghe gọi, thằng bé chạy vội lại.
- Mang cái này cho ta ! Có tìm thấy búa không.
- Dạ có. Con để trong túi rồi !
- Thầy mua cho bé Hồ nhi đấy à ?
- Ừ.
Hai thầy trò gã thợ rèn đi trước Musashi tuồng như dẫn đường cho hắn, vì hắn thấy hắn định rẽ phía nào thì họ cũng đã rẽ trước về phía ấy. Trông dáng điệu, y phục và những đồ nghề thằng bé mang theo, Musashi đoán mười phần chắc chín gã đàn ông là Tsujikaze Kohei, người thợ rèn xóm Ujii, nổi tiếng về ngón đòn với thứ võ khí cổ quái như cái hái do gã chế ra.
Muốn kiểm chứng và nhân thể tìm cơ hội làm quen, hắn rảo bước đến gần, niềm nở hỏi:
- Chào đại hiệp. Đại hiệp cũng đi Ujii đấy à ?
- Phải. Ngươi hỏi gì ?
- Phải chăng đại hiệp là Kohei ?
- Chính thị. Thế ngươi là ai ?
- Tại hạ tên Miyamoto Musashi, đi tìm thầy học võ. Mới đây qua quý xá, có được gặp lệnh khổn ...
- Á à ! Vậy ngươi đã gặp chuyết kinh đấy. Thế ngươi có phải là khách trọ Ở Yamada không ?
- Phải
Kohei mỉm cười ngạo mạn:
- Có người cho biết ngươi muốn tìm ta để học vài ngón sở trường. Vô ích ! Vô ích !
Thủ pháp của ta ngươi chẳng dùng được vào việc gì đâu.
- Sao vậy ?
- Vì vừa nhìn ra thì ngươi đã thành người thiên cổ rồi ! Ta phát lạc nhanh lắm !
Gã nói xong cười ha hả. Tiếng cười vang động cả khu rừng vắng. Musashi đã từng nghe vợ Tsujikaze thốt ra những lời như vậy, tuy lời không hẳn là thế, nhưng ý khinh miệt tương tự. Mụ vợ có vẻ hống hách, song chồng mụ xem ra còn kiêu căng hơn nhiều.
Hắn muốn dạy gã thợ rèn này một bài học ngay tại đây, nhưng nghĩ lại chẳng việc gì mà vội. Takuan đã cho hắn kinh nghiệm đầu tiên về cuộc đời:
đừng tưởng mình là nhất, gầm trời này thiếu gì kẻ hơn ta. Tự cao tự đại chỉ chuốc lấy những thất bại đau đớn. Trước khi thử sức với ai, hãy tìm hiểu và đánh giá kỹ địch thủ.
Nghe tiếng cười ngạo mạn của Tsujikaze vang động bên tai, Musashi chỉ lặng thinh. Lát sau hắn mới khiêm tốn:
- Tại hạ đã hiểu. Nhưng may mắn được gặp đại hiệp ở đây, tại hạ không muốn để lỡ dịp hạnh ngộ. Chỉ xin chỉ bảo cho vài điều về thứ binh khí kỳ dị.
- Ha ha ! Vậy ra ngươi cũng đã biết đến thứ võ khí ấy của ta sao ? Ai dạy ngươi biết ?
- Lệnh khổn đã chỉ cho một chiêu ...
- Được lắm ! Ta cũng thương ngươi thật lòng cầu học. Nếu chỉ muốn nghe ta nói thôi thì về nhà, ta nói rõ cho nghe.
- Đa tạ đại hiệp. Và cũng xin cho tá túc qua đêm.
- Được ! Nhưng ngươi phải ngủ trong bếp với thằng Iwa. Nhà ta không có chỗ dư.
Trời chiều đỏ rực, cả ba đến chân núi Suzuka. Xóm Ujii hiền lành nằm ở cuối con đường nhỏ, ráng hoàng hôn nhuốm hồng các mái tranh như trong một bức cổ họa.
Iwa chạy vội về nhà báo tin trước nên khi Tsujikaze đến ngõ đã thấy vợ bế con nhỏ ra cửa đứng đón, tay cầm chiếc chong chóng gió thổi quay tít.
Vợ Kohei vừa nựng con vừa chỉ vào chồng:
- Hồ nhi ! Bố kìa ! Bố đã về kìa !
Tsujikaze nhìn đứa bé, nét mặt tươi hẳn lên, vẻ thô lỗ kiêu căng biến mất. Gã bế đứa nhỏ trong tay, đong đưa rồi rúc đầu vào nách nó. Nó cười khanh khách. Tsujikaze cầm cái chong chóng dứ dứ trước mặt con. Nó nhoài người ra, tay quơ chân vẫy, và người mẹ cũng cười như nắc nẻ. Gã bế đứa nhỏ đi vào nha trong, vợ theo sau, để mặc cho Musashi đứng một mình ở ven cổng.
Cảnh gia đình êm ấm, tiếng cười rộn rã hồn nhiên của vợ con người thợ rèn làm hắn vui lây, nhưng sao hắn cảm thấy lẫn lộn một chút gì chua xót. Hình như trong tiềm thức, hắn đã được hưởng cảnh này. Kiếp này hay tiền kiếp, hẵn cũng không biết nữa.
Thấy trong nhà gần bếp lò có lửa, Musashi bỏ nón, tháo túi đeo lưng tiến đền gần ngồi sưởi. Cửa hàng vẫn thế, vẫn những nông cụ lặt vặt để trên kệ, vẫn những dây mồ hóng đen rủ lòng thòng từ trên trần xuống như thạch nhũ. Bên ngoài bóng tối phủ đầy. Ánh lửa bật bùng của khúc củi gần tàn chiếu bóng Musashi rung rinh trên vách.
Tsujikaze tắm gội xong sắp ăn cơm mới sực nhớ đến người khách trẻ. Gã gọi vợ:
- Dọn thêm phần nữa cho khách. Ở nhà ngoài ấy, ta ra bây giờ !
Vợ Kohei bưng khay rượu ra. Mụ đặt bình sa-kê lên hâm trên bếp than, liếc nhìn Musashi rồi đi vào trong nhà, lầu bầu khó chịu:
- Lần trước đã tới rồi, giờ lại tới nữa.
Tsujikaze đến ngồi bên bếp. Bộ mặt rỗ của gã trông hiền hậu hơn, không biết vì mới tắm xong hay vì ánh lửa không soi rõ hết những vết lồi lõm. Gã hất hàm hỏi Musashi:
- Uống chút rượu nhá ?
- Vâng, đại hiệp đã cho thì xin nhận.
Tsujikaze cầm bình rượu rót ra đĩa đưa Musashi. Hắn uống một hơi cạn, mím môi lại chép chép miệng. Rượu hơi chua nhưng hắn cũng cảm thấy dễ chịu.
Máu nóng chạy râm ran trong người. Hắn vui vẻ:
- Để tại hạ rót mừng đại hiệp một lần.
- Không sao. Ta có đĩa riêng đây rồi !
Cả hai im lặng ngồi nhìn lửa và những cục than hồng trong lò. Lúc sau, Tsujikaze mới hỏi:
- Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi ?
- Hăm hai.
- Quê quán ở đâu ?
- Mimasaka.
Mắt Tsujikaze đột nhiên lộ vẻ chú ý. Gã quan sát Musashi từ đầu đến chân rồi nói:
- Lúc nãy ngươi bảo tên ngươi là gì nhỉ ?
- Tại hạ là Miyamoto Musashi.
- Hừ. Musashi. Viết như Takezo chứ gì ?
Vừa lúc ấy vợ Kohei mang thức ăn ra, một bát canh, một đĩa cá muối, một liễn cơm, mụ đặt cả vào cái khay lớn trên chiếu. Mụ nói với Musashi, không khách sáo:
- Ăn đi.
Musashi cúi đầu cảm ơn. Tsujikaze vẫn thắc mắc, nhưng gã làm bộ tự nhiên rót thêm sa-kê vào đĩa:
- Uống chút rượu nữa đã. Thế khi còn nhỏ người ta gọi tên ngươi là gì. Phải Takezo không ?
- Dạ phải.
- Tên đó ngươi giữ cho đến khi mười bảy mười tám chứ gì ?
- Đúng vậy.
- Năm mười bảy, ngươi có dự trận Sekigahara cùng với một thanh niên nữa cùng trạc tuổi ngươi phải không ?
Đến đây thì Musashi ngạc nhiên thật sự. Hắn chậm rãi đáp:
- Phải. Sao đại hiệp biết ?
Tsujikaze cười xòa:
- Ta biết nhiều chuyện vì ngày đó ta cũng dự trận Sekigahara. Thảo nào trông ngươi quen quen, có lẽ chúng ta đã gặp nhau ở trận tiền.
Bản tính trung trực, Musashi tin ngay và trong lòng chớm nở một mối hảo cảm với gã thợ rèn.
- Chắc đại hiệp thuộc cánh quân của Ukita ?
- Phải rồi. Ta ở gần đó nên đầu quân với các Samurai địa phương. Không may mà phe mình thua trận.
Hai người nhìn nhau, mỗi người một ý nghĩ.
- Thế người bạn đồng ngũ với ngươi bây giờ đâu ?
- Cũng không rõ vì đã lâu không gặp lại.
- Ngay từ sau trận chiến ấy sao.
- Không hẳn thế. Tại hạ với nó phải lẩn trốn một thời gian tại vùng chân núi Ibuki chờ vết thương lành thì chia tay. Về sau nó đi đâu, tại hạ không biết.
Tsujikaze gọi vợ lấy thêm rượu nhưng người đàn bà đã vào nằm với con ở trong phòng. Mụ nói vọng ra:
- Hết rượu rồi !
- Hết thì đi mua, ta muốn uống nữa.
- Sao bữa nay uống nhiều thế ?
- Có chuyện vui muốn uống, được không ?
- Bây giờ khuya rồi, tiệm đầu xóm đã đóng cửa, mua khó lắm.
Tsujikaze lộ vẻ tức giận, cao giọng gọi:
- Iwa !
Không nghe tiếng đáp. Gã gọi lần nữa, to hơn. Một lát mới thấy cửa sau mở, Iwa thò đầu ra hỏi, giọng ngái ngủ:
- Thầy gọi con ?
- Ờ, chạy đến nhà Onosaku vay bình rượu mang về đây ! Bảo nhà có khách.
Musashi đã say. Hắn không uống được nhiều nên gạt đi:
- Thôi thôi, nếu vì tại hạ mà đi vay rượu thì chẳng nên.
- Không được. Phải uống với ta thêm vài bình nữa. Vả lại ta chưa cho ngươi chút biết những điều ngươi hỏi ta mà.
Iwa mang rượu về. Tsujikaze đặt lên bếp. Trong khi đợi rượu nóng, gã thao thao kể lại những võ công đã trải ở chốn giang hồ, không quên thêm thắt cho câu chuyện được hứng thú. Rồi rượu rót ra, gã vừa uống vừa ép Musashi, thành ra tuy đã cẩn thận, đề phòng, hắn cũng không thể từ chối được.
Khi luận đến thứ võ khí cổ quái gã chế ra, Tsujikaze say, nói không còn gãy gọn. Tuy vậy Musashi chú ý theo dõi cũng hiểu được đôi phần:
nào cách dùng quả cầu sắt ném vào mặt địch thủ, dùng dây xích đoạt võ khí, dùng lưỡi hái móc tay chân ...Lại thuật phối hợp dây xích với quả cầu làm địch hoa mắt để dễ bề giương đông kích tây cùng các yếu quyết và phương vị của chân đứng, tay ném ...
Nghe những lời Tsujikaze dẫn giải, Musashi nghĩ thầm gã thợ rèn này cũng khá, đã cố công nghiên cứu và chắc khai triển được nhiều chiêu thức lợi hại. Người ta có hai tay, nếu lúc chiến đấu chỉ sử dụng một tay cầm kiếm thì uổng phí. Để rồ i có dịp hắn sẽ lưu tâm học thêm song kiếm.
Bình rượu mới mang về chẳng mấy chốc đã cạn. Cả hai cùng say mèm. Trong đời Musashi chưa bao giờ say đến thế. Tsujikaze lè nhè gọi vợ:
- Này mẹ nó ! Bế con vào ngủ ở phòng trong đi. Để giường cho khách.
Vợ Kohei không trả lời. Mụ nghe rõ lời chồng, song không muốn rời chỗ ấm.
Tiếng lè nhè của Tsujikaze lớn hơn:
- Nghe ta nói không ? Khách mệt rồi, phải để cho người ta nghỉ. Bế con vào phòng trong !
- Sau không để chú ấy ngủ ngoài đó ?
- Đừng nhiều chuyện. Ta bảo phải nghe.
Nói xong, gã chống tay đứng lên, đi vào phòng lôi vợ dậy. Tiếng gã thở khò khè.
Mụ Kohei cau có buộc lại tóc trong khi gã thợ rèn bế đứa nhỏ nói vọng ra:
- Ngươi nghỉ tạm đây nghe ! Nếu khát, có sẵn ấm nước trên bếp và trà ở đầu giường ấy.
Musashi ngồi bên bếp lửa, trí óc tan loãng không còn suy nghĩ gì được nữa.
Hắn với tay cầm ấm nước, rót một chén uống. Nước trà nguội ngắt, chan chát đắng làm hắn tỉnh đôi chút. Hắn nghe tiếng đàn bà văng vẳng:
- Vào trong phòng ngủ đi. Ta mang gối mới ...Trượng phu ta say chắc. Mai dậy trễ...làm bữa sáng nóng cho ăn.
Musashi lẩm bẩm “cảm ơn, cảm ơn” rồi đi vào trong phòng. Hắn quên cả cởi dép. Ngồi trên chiếu, hắn mới sực nhớ ra, đưa tay tháo dép, ngả mình lên giường và kéo chăn trùm kín mặt. Hơi chăn ấm lẫn với mùi sữa thơm thoang thoảng khiến đầu óc hắn lâng lâng. Trước khi nhắm mắt, hình như Musashi thoáng thấy mụ Kohei thổi tắt đèn và lẩn vào trong bóng tối sập xuống dầy đặc.
Musashi có cảm giác như ai đã dùng vòng sắt đánh đai vào đầu mình và siết chặt. Đầu hắn nhức vô cùng, mạch máu hai bên thái dương đập thình thịch. Muốn ngồi nhưng chân tay rời rã, hắn không còn làm chủ được những cử động của chính mình nữa. Ánh sáng từng vòng, vàng, đỏ, xanh lẫn lộn thi nhau nhảy múa trước mặt.
Giữa lằn biên giới của tỉnh thức và hôn mê ấy, Musashi bỗng thấy hiện ra một thiếu phụ, hắn không nhìn rõ dung nhan, nhưng dáng đi nhẹ nhàng như những vệt sương trên sóng nước.
“À ơi ...Cái ngủ mày ngủ cho say ...”. Điệu ru quen thuộc văng vẳng bên tai đưa hắn trở về dĩ vãng:
một căn nhà gỗ nhỏ, bức tường đá rêu phong với những dây leo, rễ bám chằng chịt mang nhiều chùm hoa tím nhỏ li ti. Cạnh hàng rào, rặng cây rậm rạp cành rủ la đà, mỗi khi đêm xuống, ôm ấp bao nhiêu bí mật. Mẹ hắn bế hắn trên tay, hát ru khe khẽ. Ngọn đèn trên vách, ánh sáng không đủ chiếu khắp gian phòng, nhưng cũng cho thấy những giọt nước mắt long lanh trên gò má mẹ hắn. Mặt bà hiện ra lờ mờ trong ký ức, trắng lắm mà lại phơn phớt xanh, như màu hoa lê mới nở.
Từ phòng trong, giọng ông Munisai, cha hắn, vọng ra giận dữ:
“Cút đi ! Cút về nhà mày đi !”. Mẹ hắn nấc lên, áp má hắn vào mặt. Những giọt nước mắt nóng hổi chả y vào miệng hắn, mằn mặn. Hắn cũng khóc theo. Khối óc thơ ngây ấy không đoán được chuyện gì đã xảy ra trong gia đình và ngay đến bây giờ hắn vẫn không hiểu tại sao cha hắn lại đuổi mẹ hắn đi. Hắn thấy mẹ Ôm chặt mình vào lòng, chạy ra ngoài. Gió thổi ào ào bên tai làm hắn khóc to hơn. Mẹ hắn càng ôm chặt. Đến một nơi hình như là bờ sông, hắn nghe tiếng mẹ hỏi trong nức nở:
“Takezo ! Con là con mẹ hay con cha?”. Mẹ hắn đặt hắn xuống ven sông, bên những hòn đá cuội. Bà lội ra giữa dòng, mặc hắn gào thét giữa bụi cỏ hoang, cạnh những đám bồ công anh hoa vàng lấm tấm. Cơn gió lạnh thổi, hắn rùng mình, mở mắt.
Musashi ú ớ trong miệng, khẽ cựa mình. Thiếu phụ ấy là ai, có phải mẹ hắn không ? Hắn cố vận dụng ký ức để nhớ lại nhưng vẫn không sao mường tượng được nét mặt của bà. Qúa mệt mỏi, Musashi lại em đi trong bóng tối.
Bóng người thiếu phụ hiện ra lúc xa lúc gần, lãng đãng. Bà giơ tay vẫy. Ô hay ! Sao đêm nay, hắn mộng thấy mẹ hắn luôn vậy ! Hắn gọi, nhưng tiếng gọi tắc nghẹn trong cổ họng. Hắn vùng vẫy, và đột nhiên mở mắt.
Cơn say đã tan. Miệng khô đắng, Musashi nằm yên nhìn lên trần. Lửa phòng ngoài tắt từ lâu, ánh than hồng hắt lên các vì kèo loang lổ mồ hóng mang một vẻ mơ hồ quái dị.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng ấy, đột nhiên Musashi chú ý đến cái chong chóng giấy cắm trên trần. Mùi da thịt, mùi sữa thơm ngòn ngọt của đứa trẻ và mẹ nó còn như quyện vào chăn gối. Chiếc chong chóng quay nhè nhẹ. Chong chóng quay thì có gì lạ vì người ta làm chong chóng để cho ...nó quay. Nhưng muốn quay phải có gió. Musashi nằm yên, đoán chắc có người vừa mở cửa.
Quả nhiên, hắn nghe tiếng cửa khép nhẹ, rất nhẹ rồi những bước chân rón rén mỗi lúc một xa. Cái chong chóng thôi quay.
Trong một thoáng, Musashi ý thức ngay được nguy cơ sắp xảy ra. Hắn đã hiểu tại sao vợ chồng người thợ rèn lúc đầu tỏ vẻ lãnh đạm thờ ơ, sau lại vồn vã với hắn, để hắn ngủ trong căn phòng êm ấm kín đáo như thế này. Hắn đã hiểu tại sao người chồng nhất quyết đòi mua thêm rượu và phục cho hắn uống say. Hắn tự giận mình không cảnh giác sớm để suýt nữa thì mất mạng.
Musashi tỉnh rượu hẳn. Bản năng tự vệ thức dậy, hắn lắng nghe động tĩnh như một con sâu nằm dưới lá nghe thời tiết xung quanh. Hệ thần kinh bén nhạy của hắn căng thẳng cực độ. Musashi tự hỏi:
Đây là đâu, ổ đạo tặc hay hắc điếm ? Gã thợ rèn này có thù gì với mình ? Soát lại ký ức, hắn chắc chắn chưa bao giờ gặp gã này. Vậy lý do gì ... Nhưng bây giờ không phải lúc tìm hiểu, suy luận. Phải phản ứng ngay, khẩn cấp lắm rồi.
Musashi trườn mình xuống cuối giường, khều đôi dép xỏ vào chân, buộc quai, sửa lại chăn đắp cho ra vẻ vấn còn người nằm ngủ rồi len lén cầm thanh kiếm lẩn vào trong bóng tối dày đặc sau đống củi, than xếp hỗn độn.
Tàn nén hương, đã nghe tiếng chân người bước ngoài hiên và tiếng xì xào khe khẽ.
Cánh cửa lùa hé mở. Dưới ánh sáng lờ mờ của bếp than gần lụi, cái chong chóng quay tít.
Bên tấm màn cửa mỏng, đôi mắt trắng dã của một kẻ mặc y phục lối dạ hành ló ra, tay lăm lăm lưỡi kiếm tuốt trần. Theo sau là một người cao lênh khênh, cầm giáo. Cả hai men theo vách, đến trấn hai đầu giường. Gã thợ rèn vào sau chót, một tay cầm lưỡi hái, một tay giữ quả cầu.
Chúng đưa mắt nhìn nhau, rồi như cùng theo một mật hiệu, quát lớn:
- Takezo !
Đồng thời phóng chiêu ra như chớp xẹt. Giá Musashi còn nằm đó chắc trở tay không kịp mà có chết cũng chẳng toàn thây. Nhưng không một ai trông thấy phản ứng gì hết. Ba loại võ khí đã đánh vào quãng không, hay đúng ra, đã đánh vào một đống chăn gối bỏ không. Tiếng thét làm rung chuyển căn nhà gỗ chỉ đánh thức đứa nhỏ dậy làm nó khóc ré lên ở trong phòng.
Gã thợ rèn phóng cước đá tung chiếc chăn đắp. Không thấy Musashi, gã chửi thề một câu tục tĩu, chạy vội ra ngoài:
- Bọn ngươi đứng đây có thấy nó trốn không ?
- Không ! Sao ! Nó trốn rồi à ?
- Còn hỏi gì nữa ? Toàn đồ ăn hại, không được việc gì hết.
- Nhưng nó trốn đi đâu ? Bọn tiểu đệ canh ở đây ngay từ khi đại ca bảo, có thấy gì đâu !
- Kia kìa, cái cửa mở hé kia kìa. Đồ ngu, ở đó chứ đâu nữa !
Tsujikaze giận sùi bọt mép, đi đi lại lại bên bếp lửa như con thú dữ trong cũi.
Gã cao giọng:
- Anh em lại đây ! Tất cả ! Ta nói chuyện !
Mọi người tề tựu xung quanh gã, lố nhố có đến chục tên chứ không ít. Gã thợ rèn tiếp tục:
- Thằng này nguy hiểm lắm, tên Takezo. Nó khỏe vô địch. Trước đây năm năm, chém bào huynh ta là Tenma một kiếm vỡ sọ trên đồi Ibuki. Mà bào huynh ta thì các ngươi đã biết, đâu phải kém cỏi gì ! Bây giờ nó trốn rồi. Chỉ có hai đường về trấn, ta phải chia ra thành hai toán, đuổi bắt bằng được. Tên này có súng - gã chỉ một người vác cây hỏa mai - dẫn đầu toàn năm người đi về hướng nam, còn lại bao nhiêu theo ta qua cầu, hướng đền Arakida. Gặp nó, bắn phát súng làm hiệu, chúng ta sẽ đến giúp sức.
Mọi người y kế thi hành, rầm rộ ra đi, đuốc thông đốt khét lẹt. Tụi này chính là tay chân của Tsujikaze Kohei, em Tsujikaze Tenma, tên tướng cướp bị Musashi giết khi hắn còn ẩn náu tại nhà Oko trên đồi Ibuki năm nào. Kohei giờ tuy bên ngoài làm ra vẻ làm ăn lương thiện, nhưng vẫn cùng lâu la tụ tập giết người cướp của. Khách vãng lai vô ý sa vào ổ chúng thường bị thủ tiêu, xác vất cho quạ rỉa trong rừng sâu hoặc bên khe suối.
Đêm mỗi lúc một khuya. Căn nhà gỗ tối đen, vắng lặng, đìu hiu như cảnh vật xung quanh. Gà đã hai lần gáy, vẫn chưa thấy toán nào trở lại.
Mãi sau, lâu lắm, khi sương đã xuống mờ mờ bao phủ cả vùng rừng núi, khí hậu bắt đầu lạnh buốt và các vì sao cũng run rẩy ở trên cao, mới thấy chúng lục tục kéo nhau về. Đầu tiên là toán của tên mang súng hỏa mai, sau đến Kohei và đồng bọn. Chúng lẳng lặng mở cửa vào nhà, ngồi la liệt trên sàn, gây lửa cháy to thêm. Mệt nhọc và chán nản lộ trên nét mặt, Kohei là người đầu tiên lên tiếng:
- Thằng nào đi lấy rượu uống chứ !
Một kẻ chạy đi. Cả bọn lại đăm đăm ngồi nhìn ngọn lửa.
- Thằng đó thật hên. Nếu ta tóm được ...
- Đại ca chắc nó là Takezo không ?
- Sao lại không ? Ta đã hỏi kỹ lai lịch. Vả trông vóc dáng cao lớn và trạc tuổi thì đúng nó. Có lẽ hương hồn bào huynh ta đã run rủi cho nó tới ...
- Bây giờ đại ca tính sao ?
- Còn tính sao nữa ? Ta chỉ tiếc đã không ra tay ngay. Vì muốn ăn chắc nên gọi anh em đến giúp sức.
Tsujikaze rót hết chén này đến chén khác. Bình rượu lớn cạn dần. Mặt xám lại, đôi mắt lạc thần nhìn ngọn lửa như bị thôi miên, gã có vẻ muốn gục xuống chiếu.
Bọn đàn em xúm đến đơ, gã gạt tay ra, lè nhè:
- Thôi bọn ngươi về cả đi. Để mặc ta. Chưa say ...chưa say mà ...
Trời sắp sáng. Tiếng gà văng vẳng trong khe núi. Nhiều bóng người từ căn nhà lò rèn bước ra, lầm lũi tản mát trên các đường mòn trong xóm. Tsujikaze ngủ em trên chiếu rượu, tiếng ngáy vang làm rung động cả những dây mồ hóng rủ trên trần.
Ngoài hiên, lẩn sau bóng tối của đống than, gỗ chất cao lên đến tận nóc, một cái áo vải sơn đen bỗng nhiên chuyển động. Cái áo vươn cao từng chút, từng chút, rồi khuôn mặt đen nhẻm của Musashi lộ ra, đôi mắt long lanh như mắt vọ.
Thì ra Musashi vẫn còn đây, chưa lúc nào rời căn nhà gỗ. Sau khi bước khỏi giường, hắn đã cẩn thận mở hé cánh cửa hông, núp ngay sau đống than ngoài hiên, dùng chiếc áo vải sơn treo ở đó ngụy trang và lắng nghe hết mọi động tĩnh trong nhà.
Êm như ru, hắn rón rén đến gần bếp. Tsujikaze vẫn ngáy như sấm.
Musashi đứng lặng nhìn gã thợ rèn, mỉm cười thương hại. Trong cuộc gặp gỡ này, rõ ràng hắn thắng. Tuy nhiên, gã thợ rèn có một điểm đáng khen, đã vì mối thù giết anh mà ra tay. Vậy có nên giết gã không ? - Musashi tự hỏi - Nếu không, có thể còn nhiều hậu hoạn. Khôn ra thì phải giết. Nhưng một câu hỏi khác lại được đặt ra:
Gã có đáng giết không ? Musashi cứ phân vân mãi. Lúc sau, hắn nghĩ được một cách cho là hay nhất. Với tay lấy món võ khí quái dị treo gần đó, hắn bật nút bấm cho lưỡi bung ra, dùng giẻ bọc lại rồi đặt nó gần cổ gã thợ rèn, quả cầu một bên và lưỡi hái một bên.
Hắn giật lùi lại ngắm công trình của mình. Khi thức giấc, gã thợ rèn chắc phải ngạc nhiên lắm, nhưng lưỡi hái đã được bao lại rồi cũng như cái chong chóng đã bọc lại thì còn quay sao được ! Năm năm về trước, khi giết Tsujikaze Tenma, Musashi đang trong cơn say máu. Hắn như con thú hoang, giết là một bản năng tranh sống, nhưng nay, đứng trước gã thợ rèn nằm im vô hại dưới chân, hắn thấy thật vô ích. Và biết đâu, nếu giết gã, tiểu chủ nhân của chiếc chong chóng kia sẽ lại để cả đời mình đi tìm hắn trả thù cho bố. Oan nghiệt sẽ chập chồng, bao giờ mới dứt ?
Đứng trước căn phòng ấm cúng, mùi sữa mẹ còn như thoang thoảng từ trong chăn gối bay ra, Musashi cảm thấy ghen tức và hơi tiếc vì phải từ giã nơi này.
Hắn nói thầm trong bụng:
“Ta xin lỗi đã làm rộn. Xin cứ ngủ bình yên”.
Rồi nhẹ nhàng mở cửa bước ra.

Acmagiro
26-02-2008, 09:43 PM
CHƯƠNG 29
CON NGỰA BAY




Đến đồn kiểm tra gần biên giới quận thì trời đã tối, Jotaro và Otsu vào nghỉ chân qua đêm tại một quán trọ. Hôm sau, mới hửng sáng, sương mù chưa tan, nàng đã đánh thức Jotaro dậy để lên đường sớm, tránh cái nắng gay gắt buổi trưa.
Đường đèo khấp khểnh, nhưng không khí tươi mát lúc ban mai làm hai người dễ chịu. Trên bầu trời trong phớt xanh, các vì sao thưa dần rồi những dải mây hồng ở đỉnh núi đằng xa bắt đầu vàng ánh lên như mới được rắc một lượt kim nhũ. Mặt trời hiện ra đỏ rực làm bừng sáng cả một khu sơn lĩnh.
Otsu đứng sững trước cảnh thiên nhiên mới tỉnh giấc, lòng nôn nao, rộn rã. Nàng cho rằng đây là một trong những lúc kỳ diệu nhất tạo hóa đã ban cho chúng sinh, kể cả những sinh vật nàng vẫn thường gọi là vô tri vô giác như cây cỏ. Tự nhiên nàng thấy sung sướng và hãnh diện được sống trên thế gian này.
Nhìn mặt trời to và đỏ như cái đèn ***g lớn do một bàn tay vô hình nào đó thắp lên, lừ lừ hiện ra khỏi rặng núi xanh lam, Jotaro vui mừng nhảy cẫng, vỗ tay reo:
- Đẹp quá ! Chị trông kìa, đẹp quá !
Otsu khẽ suỵt, bảo Jotaro đừng kêu lớn, dường như sợ sự vui vẻ thái quá của thằng bé làm mất vẻ trang trọng của cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Hai chị em đứng lặng ngắm cảnh mặt trời mọc, một lúc lâu Jotaro mới lên tiếng:
- Chị em mình là người đầu tiên đi trên đường ngày hôm nay đấy !
- Sao em biết ?
- Chị xem có ai đi trước mình đâu !
- Ừ nhỉ. Nhưng đi đầu thì ích gì ? Đường ngắn hơn chăng ?
- Không phải. Nhưng khỏi đi sau ngựa với cáng, đỡ hít bụi !
Otsu liếc nhìn Jotaro thấy thằng bé quả nhiên láu thật.
- Hơn nữa, đi đầu thích thú hơn chứ. Vì chẳng có ai trên đường, em có cảm tưởng như cả con đường thuộc về em, muốn làm gì thì làm, sướng lắm !
Otsu mỉm cười. Để chọc thằng bé, nàng nói đùa:
- Vậy sao em không tự coi như một tướng quân quyền uy, được mọi người trọng vọng đương cưỡi ngựa đi thị sát lãnh thổ của mình ? Ta đóng vai người hầu dắt ngựa.
Jotaro cười phụ họa:
- Ờ phải đấy ! Phải đấy ! Em làm tướng công, chị dắt ngựa. Chị đi trước đi !
Otsu ngó quanh không thấy ai, bèn bẻ cành tre làm roi chỉ sang hai bên đường, vừa đi vừa nhại giọng lính tuần vệ:
- Qùy xuống ! Tất cả quỳ xuống ! Jotaro tướng công đi tuần sát !
Jotaro tháo ống quyển trên vai, cười lên giả làm ngựa và cười như nắc nẻ. Nó nhảy chân sáo, dường như cái trò chơi giản dị này đã cho hai chị em những phút vui hồn nhiên và sung sướng thật sự.
Nghe tiếng léo nhéo bên ngoài, một ông già mở hé cửa ra nhìn. Otsu hơi thẹn, vất roi xuống đất, lầm lũi đi. Jotaro ngạc nhiên:
- Ô hay, sao chị làm thế ? Chị không sợ tướng công giận có thể phạt chém đầu à ?
- Thôi, không chơi nữa.
- Sao vậy ? Mình đang chơi vui mà !
- Thôi ! Kỳ quá ! Có người ở quán nhìn kia kìa. Chắc họ cho mình là hai đứa khùng!
Jotaro quay lại thấy một quán ăn nhỏ, vách ván đã cũ, bên một đống rơm lớn, người dân vùng sơn cước thường đắp lên dành cho gia súc ăn về mùa đông. Cạnh đó buộc một con ngựa.
Nhìn quán ăn, Jotaro bống thấy đói bụng.
- Chị, hay ta vào quán nghỉ đi.
- Vào làm gì ?
- Em đói ! Ta vào uống trà rồi lấy cơm nắm ra ăn.
- Khoan đã. Mới đi được vài dặm mà đã đói. Cứ thế này thì phải ăn năm bữa một ngày chắc.
Jotaro giận dỗi:
- Nhưng em chạy bộ chứ đâu được cưỡi ngựa như chị !
- Thì hôm qua ta mới thuê ngựa đi một lần, chỉ vì trời tối mà mình lại vội. Nếu em không bằng lòng thì hôm nay ta đi bộ với em cả ngày.
- Không ! Hôm nay đến phiên em cưỡi ngựa.
- Trẻ con không cưỡi ngựa được !
Jotaro phụng phịu:
- Nhưng em muốn tập !
- Để lúc khác. Hay chốc nữa, khi nào mệt hãy hay. Bây giờ còn đi được, thuê ngựa cưỡi phí tiền.
Jotaro không đáp mà cũng chẳng nói gì thêm. Nó cung cúc đi trước, bỏ mặc Otsu lẽo đẽo theo sau.
- Jotaro ! Em giận ta đấy à ?
Jotaro đứng lại đợi. Một lúc au, khi Otsu đến gần, nó mới nói:
- Chị thừa biết em đi bộ cả ngày cũng chẳng mệt. Đợi mệt thì bao giờ mới có ngựa cưỡi !
Otsu cười làm lành:
- Ừ thì cưỡi, nhưng một lần này thôi nhé !
Jotaro chỉ đợi có thế. Nó mừng rỡ chạy ngược lại, đập cửa quán rầm rầm. Chủ quán mở cửa thò đầu ra, thấy Jotaro, gắt:
- Cái gì mà ầm lên thế ? Hỏi gì ?
- Chị ta cần một con ngựa đi Minakuchi, bao nhiêu tiền ? Nếu giá phải chăng, ta mướn đến tận Kusatsu.
- Mày con cái nhà ai ?
- Con bố mẹ ta !
Jotaro vênh mặt đáp.
- Ta tưởng mày con bà La Sát !
- Chắc vợ lão là bà La Sát còn lão là ông Thiên Lôi. Sao lão dữ quá thế ?
- Dữ hay không dữ ta không cần biết. Ngựa ta không cho thuê.
Muốn thuê ngựa, Jotaro đành phải làm lành:
- Thôi, lão trượng cho cháu thuê đi. Cháu trả tiền đàng hoàng mà !
- Không được !
- Sao không được ?
- Không có mã phu đi kèm dắt về.
Vừa lúc ấy, Otsu tới. Nàng hỏi rõ sự tình, đề nghị xin trả tiền trước rồi khi đến Kinakuchi sẽ nhờ người dắt ngựa hoàn lại tử tế. Thấy Otsu có dáng nhu mì thực thà, chủ quán phân vân một lúc rồi nói:
- Thôi cũng được. Nể chị lắm đấy, xong việc nhớ trả lại ngựa cho lão.
Nàng hỏi giá, trả tiền rồi cầm cương dắt ngựa đi. Ra đến đường, Jotaro vẫn chưa nguôi cơn tức:
- Lão già dịch !
- Ô hay Jotaro ! Sao hỗn thế ? Lão ta có làm gì em đâu ?
- Chị không biết, lão coi em như rác, nhất định không cho thuê ngựa. Thế mà thấy chị đến lại bằng lòng ngay. Thấy con gái đẹp thì híp mắt lại ...
Otsu cười thầm trong bụng. Nàng cảnh cáo thằng bé:
- Này, nói nho nhỏ chứ. Con ngựa này nó nghe hết đấy. Nó dám hất ngã em để trả thù cho chủ nó lắm !
- Thật hả chị ? Để em thử ...
Dứt lời, Jotaro trèo lên ngựa.
- Em không biết cưỡi ngựa phải không ?
- Biết chứ ! Em thấy người ta cưỡi nhiều lần rồi !
- Thế sao em lại trèo đằng sau ?
Jotaro thẹn nói chữa:
- Tại cái bàn đạp này cao quá. Chị đỡ em chút !
Otsu xốc nách bế Jotaro ngồi lên yên. Con ngựa đi bước một, Jotaro hơi nghiêng ngả theo nhịp bước chân ngựa, nhưng nó hài lòng lắm. Mặt tươi rói, nó lấy vẻ nghiêm trang, một tay giữ bờm ngựa, một tay chống nạnh, nhìn Otsu mỉm cười.
- Chị đi trước đi.
- Nhưng em ngồi chưa vững, ta phải đi bên cạnh ...
- Không sao, em để chân được vào hai bàn đạp mà. Cái yên vải bố này tuy hơi ráp nhưng buộc chắc lắm !
Otsu đi trước, tay cầm cương. Tiếng lộp cộp của chân ngựa đạp trên đá lẫn với tiếng nhạc ngựa long coong bấy giờ đối với Jotaro thật là một tiết điệu vui tai lần đầu tiên nó được hưởng.
Mặt trời đã lên cao nhưng trên con đường đèo, nhiều chỗ sương còn đọng từng mảng mờ mờ xám nhạt. Đi được chừng một quãng khá xa, bỗng nghe phía sau có tiếng chân người vội vã và tiếng gọi lớn. Hai chị em nép vào vệ đường. Jotaro lo lắng hỏi:
- Hình như họ gọi chúng ta !
- Không biết có phải không. Chờ xem.
Lúc sau, thấy hiện ra mờ mờ trong màn sương một bóng người. Bóng đó rõ dần và khi còn cách Otsu một trượng thì cả hai nhận ra đấy là một người đàn ông trung niên, mặt rỗ và dữ dằn, chân quấn xà cạp, đi hài xảo bằng cỏ bện. Xung quanh gã còn như bọc một lớp sương gã kéo theo từ đêm, chiếc áo dày gã mặc bên ngoài ướt nhẹp.
Gã đàn ông đến gần Otsu, giật mạnh dây cương từ tay nàng làm Otsu chúi xuống suýt ngã rồi quát như sấm động:
- Tiểu tử này ! Xuống !
Con ngựa nghe tiếng quát giật mình lùi lại giơ hai cẳng trước hí một tiếng dài.
Jotaro sợ quá, suýt bị hất xuống đất, vội nắm chặt lấy bờm ngựa. Hoàn hồn, nó tức giận đáp:
- Bác này ! Làm gì kỳ vậy ? Ngựa của ta thuê mà !
- Mặc kệ, có xuống không ?
- Không ! Tráng sĩ là ai ?
- Ta là Tsujikaze Kohei ở xóm Ujii, bên kia ranh quận. Ta cần ngựa để đuổi theo một người tên Musashi. Hắn đi về phía này từ sớm. Đưa ngựa đây.
Gã nói nhanh như bắp rang, vừa nói vừa thở hổn hển. Trong sương sớm lạnh, những giọt nước nhỏ li ti đọng trên râu và chân tóc gã bắn ra cùng một lúc với hơi thở mờ mờ như khói. Trên cành khô, sương còn đọng giá, vậy mà cổ hắn bóng nhẫy mồ hôi, mạch máu ở hai bên cổ nổi cao lên như hai chiếc đũa.
Otsu đứng lặng tựa trời trồng, mặt tái mét, dường như bao nhiêu máu đã bị đất dưới chân nàng hút đi mất cả. Môi nàng run run, nàng muốn hỏi lại cho rõ những điều vừa nghe được, nhưng chẳng thốt ra lời nào.
- Tráng sĩ nói đi tìm Musashi à ?
Jotaro hỏi mà tay run lập cập, chân để vào bàn đạp không còn vững nữa.
Tsujikaze hình như không để ý đến dáng điệu kỳ lạ của cả hai người, chỉ gắt:
- Có xuống ngay không ? Nếu không ta nắm cổ lôi xuống.
- Không ! Ngựa này chị ta thuê.
- Mặc kệ chị mày. Ta nói tử tế vì thấy chúng mày chỉ là đàn bà con nít. Ta vội nên mượn tạm ...
- Chị ! Em nói có phải không ? Ngựa này mình thuê, sao cho ông ấy mượn được ...
Otsu muốn ôm lấy Jotaro. Điều nàng quan tâm nhất không phải là chuyện thuê con ngựa mà chính là không muốn cho gã này có phương tiện đi nhanh hơn, đuổi kịp được Musashi, gây khó cho chàng. Otsu bèn đáp ngay:
- Đúng vậy ! Ngựa bọn ta thuê. Tráng sĩ vội thì chúng ta cũng vội, không nhường cho tráng sĩ được !
- Em nhất định không xuống ! Chết cũng không xuống !
- À, tiểu tặc chó đẻ này ! Mày nhất định không xuống phải không ?
Vừa nói, Tsujikaze vừa nắm chân Jotaro định lôi nó xuống ngựa. Đây là cơ hội hãn hữu để Jotaro dùng đến thanh kiếm gỗ đeo trên lưng, nhưng trong lúc bối rối, nó quên mất. Vả cả hai tay nói còn bận ôm chặt cổ ngựa nên dù có nhớ cũng không làm gì được. Chỉ còn cách đánh miếng võ nó vẫn thường sử dụng là nhổ nước bọt vào mặt địch thủ. Nghĩ đến, làm liền. Jotaro bụm một bãi nước bọt lớn, ra sức bình sinh nhổ đánh bẹt một cái vào mắt Tsujikaze, đồng thời thuận chân đạp mạnh vào ngực gã. Tsujikaze bị tấn công bất ngờ, giơ tay ôm mặt. Mất thăng bằng, gã ngã ngồi xuống đất.
Gã chửi thề một tiếng tục. Vừa lúc ấy, Otsu rút thanh gươm ngắn nàng vẫn mang theo để tự vệ ra khỏi vỏ, xông tới đâm Tsujikaze. Gã lăn một vòng tránh. Otsu mất đà chúi về đằng trước, nhưng vẫn cảm thấy hình như múi gươm chạm phải vật gì. Otsu ngã sóng soài bên vệ đường, một tia máu phun vào mặt rồi tiếng con ngựa hí vang. Thì ra lưỡi gươm Otsu đâm trượt Tsujikaze nhưng lại chạm vào mông ngựa. Con vật giơ cao hai chân trước hí một tiếng dài nữa, lao đi như tên bắn. Trên lưng nó, Jotaro hết cả hồn vía, hai tay giữ chặt cổ ngựa, chân quặp vào bất cứ sợi dây gì nó khều được ở dưới yên, miệng la như mất cướp:
- Chị cứu em ! Chị ...cứu ...u ...u ...
Tsujikaze đuổi theo, định ghìm con ngựa lại nhưng không kịp. Ngựa bị đau, phóng ào ào xuống núi, bất kể cây cối, trở ngại ; trên lưng nó Jotaro đeo cứng, tựa như cái hình nộm mới bị đứt giây, vật vờ theo gió.
Tsujikaze lảo đảo trở lại chỗ Otsu ngã, thì không thấy nàng đó nữa. Nháo nhác nhìn quanh, chỉ thấy thanh gươm ngắn nàng dùng định đâm gã lúc nãy lăn lóc bên bụi gai, gã nhặt lên, ngắm kỹ, chùi vết máu rồi giắt vào thắt lưng. Một ý tưởng thoáng hiện ra trong trí. Gã đoán nàng này hẳn có liên hệ gì với Musashi, nếu tìm bắt được, dùng nàng làm cái mồi dụ hắn sa bẫy thì tốt lắm. Hay ít ra cũng biết hắn đi đường nào hoặc trốn ở đâu.
Bèn sục sạo khắp nơi. Đến một trang trại nghèo, không có ai, ngoài một bà lão còng đang quay tơ, gã chạy vào hỏi, kéo cả màn cửa, lật cả đống củi ra tìm, làm bà lão sợ chết khiếp. Không thấy Otsu, gã thất vọng giận dữ bước ra. Vừa đi khỏi ngõ, chợt thấy bóng một thiếu nữ thoáng lẩn vào rặng bách xanh um, Tsujikaze kêu một tiếng mừng rỡ, đuổi như bay, chẳng mấy chốc đã gần bắt kịp. Quả nhiên là Otsu.
Otsu sợ cuống cuồng, chân ríu lại, ngã lăn ra. Đám cỏ lún xuống như một cái hố.
Kinh hãi, nàng kêu thất thanh, may có cái rễ lớn đâm ngang, vội bám chặt lấy. Dưới kia là vực thẳm tối đen, sâu bao nhiêu nàng cũng chẳng biết. Otsu nhờ bám vào rễ cây lơ lửng trên vực. Sỏi, đá, đất đổ rào rào trên đầu. Ngẩng lên, thấy Tsujikaze đã tới, đôi mắt hung dữ chăm chú nhìn nàng. Gã cười gằn độc ác:
- Hà ! Thử xem cô em có thoát khỏi tay ta không nào !
Nhìn xuống, Otsu chỉ thấy tối đen. Nếu muốn khỏi bị bắt, nàng buông tay ra là xong, nhưng buông tay ra là chết. Tâm thần bất định, Otsu mê đi. Nàng nhìn thấy Musashi. Hình ảnh Musashi rõ ràng lắm, sáng như vầng trăng trong một đêm giông bão.
Tsujikaze không đợi phản ứng, quỳ xuống bờ vực kéo tay Otsu lôi lên. Otsu vùng vẫy kêu cứu, nhưng những tiếng kêu thất thanh của nàng chỉ làm gã thợ rèn giữ nàng thêm chặt. Gã lôi Otsu khỏi vực, vứt xuống cỏ như vứt một mớ giẻ. Giận dữ và tuyệt vọng ứ nghẹn cổ, Otsu ngất đi, trên gò má trắng bệch, xanh xao, vết gai cào còn rướm máu.
Tiếng gọi Tsujikaze và tiếng chân người rầm rập chạy trên triền núi. Gã thợ rèn bắc loa tay hét lớn:
- Hồ, Tích ! Xuống cả đây ! Ta ở dưới này !
Bọn lâu la ào ào đổ dốc như đàn lợn rừng đuổi mồi, thở hồng hộc, đao kiếm đeo bên sườn chạm nhau loảng xoảng. Đến gần chủ soái, chúng khựng lại, ngạc nhiên nhìn Otsu nằm thiêm em trên cỏ. Tsujikaze kể qua tự sự rồi ra lệnh:
- Trói nó lại. Còn chúng bay, có được tin tức gì của thằng đó không ?
- Có. Lão chủ điếm trà bảo sáng nay có một kiếm khách đến mua cơm sớm lắm rồi đi ngay. Chắc là hắn. Hắn đi về phía quận Tsuchi. Nhưng không hề gì, đi đường nào cũng thế, vì hai đường Fusuka và Tsichi sẽ gặp nhau ở ngã tư Ishibe. Nếu ta nhanh chân đến trước mai phục ở Ishibe thì thế nào cũng gặp.
- Được rồi. Ta đi tắt đến đấy ngay bây giờ. Bọn ngươi canh chừng con bé đừng để nó chạy thoát.
Nghĩ một lúc, gã nói tiếp:
- Sẽ gặp nhau ở Yasugawa. Bọn ngươi cứ đường thẳng mà đi, nhớ để ý đến những thằng cao lớn có dáng dấp lãng tử.
Dứt lời, Tsujikaze xốc lại áo, chạy như bay lên núi. Một loáng đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Trên đường đồi khấp khểnh, con ngựa phi nước đại vùn vụt, vó nện lộp cộp, bụi cát bay mù. Vết thương ở mông nó cùng những tiếng kêu thét của Jotaro hình như kích thích nó chạy nhanh hơn. Gió thổi ù ù, mấy lần Jotaro tưởng bị hất ngã vì những cành cây thấp chắn ngang, nhưng nhờ nhanh trí, nó cúi xuống tránh được.
Jotaro càng kêu, ngựa càng chạy khỏe. Khản cổ, lạc giọng, tiếng kêu của nó sau chỉ còn là những tiếng rên đứt quãng. Nó ôm chặt cổ ngựa, áp má vào bờm, nhắm chặt mắt mặc cho số phận. Dần dần Jotaro nhận ra rằng nếu mình cứ nằm bò trên lưng ngựa rồi nhấp nhỏm theo đà ngựa chạy thì đỡ ê đít, nhưng chẳng thú vị gì. Nhớ lúc trước khi đòi cưỡi ngựa, nó mong làm sao được ngồi trên lưng một con tuấn mã, giật cương cho phóng như bay, băng rừng băng suối mới thật sướng ! Bây giờ có sướng gì đâu, chỉ thấy sợ.
Loáng một cái, đã đến làng Mikumo. Thấy có người đi ngược chiều, Jotaro tiếp tục kêu cứu. Nhưng ngựa chạy nhanh, người bộ hành tưởng là khoái mã của quan quân, nép vào vệ đường tránh vạ. Qua làng, gà kêu quang quác, chó sủa râm ran, vài người hé cửa nhìn nhưng chẳng ai giúp được gì. Tâm lý chung, chẳng ai muốn dính vào những chuyện không đâu, nhất là lại nguy hiểm như chuyện ghìm một con ngựa bất kham, không chết người cũng bị thương tật.
Đường đèo vắng vẻ. Nắng đã lên cao, người ngựa mồ hôi nhễ nhại. Xa xa một cây sồi cổ thụ vươn cành thấp xòe ra che cả lối đi. Jotaro nhìn thấy. Sống chết ở lúc này. Nó chuẩn bị. Khi lá sồi vừa chạm mặt, Jotaro lập tức níu ngay lấy, đánh đu lên như con nhái bén bám cành tre, cả người lủng lẳng đong đưa cách mặt đất chừng ba thước. Ngựa tiếp tục phóng đi, dường như không chú ý gì đến kỵ mã tí hon bất đắc dĩ vừa rời khỏi lưng nó.
Jotaro nhìn xuống đất. Sâu thăm thẳm, nó không dám bỏ tay ra, chỉ vùng vẫy co chân cố quắp lấy cành đu lên, định bụng sẽ chuyền vào thân cây. Không ngờ cành nhỏ gãy cái “rắc”, kéo theo nó ngã lăn ra đất.
Jotaro ngạc nhiên thấy không đau đớn gì, chỉ hơi ê ẩm. Đứng dậy phủi quần áo, sực nhớ đến Otsu, nó vội chồm lên, chạy ngược lại con đường đã qua, mắt tìm nháo nhác. Cứ chạy một quãng nó lại dừng lại gọi:
- Chị ! Chị ! Chị ở đâ ...âu ...
Sự bấn loạn lộ trên nét mặt ngơ ngác của nó.
- Không biết cô ấy có thoát được không ? Nếu bị thằng giặc đó bắt thì khổ quá !
Jotaro lo lắng, tự trách đã không bảo vệ được người thiếu nữ yếu đuối. Mồm nó méo xệch, vừa đi vừa lấy tay áo chùi nước mắt. Bỗng có người từ ven rừng bên trái đi đến. Tới gần thì ra là một thanh niên, tuổi chừng hăm bảy hăm tám, da ngăm ngăm đen, vận y phục lữ hành, chân đi giầy cỏ, lưng đeo kiếm. Thanh niên nhìn Jotaro hỏi:
- Bé này con cái nhà ai, phải ở làng Mikumo không ? Sao lại vừa đi vừa khóc ?
- Cháu lạc mất chị em !
- Cô ngươi là ai ?
- Otsu ! Đại hiệp ở phía rừng lại có thấy chị em không ? Chị em trạc hai mươi tuổi, nhỏ nhắn, vận áo chẽn ...
- À ...à ...có ! Nhưng tay bị trói, có hai nông dân lực lưỡng dẫn đi.
- Đi với hai nông dân ? Không ! Chúng cháu bị một tên mặt rỗ cướp ngựa. Chị em mặc áo chẽn trắng chấm đen ...
- Vậy đúng rồi. Ta chắc đây là bọn Tsujikaze. Hắn làm thợ rèn ở quận gần đây, nhưng nghe nói thỉnh thoảng có tụ tập lâu la đi ăn cướp.
- Thế thì cháu phải đi ngay cứu chị em mới được !
- Khoan ! Cả hai chị em người đi chung với nhau hay sao ? Câu chuyện thế nào kể ta nghe.
Jotaro bèn thuật lại. Thanh niên gật đầu:
- Vậy chúng làm loạn quá rồi, chẳng coi quan quân ra gì nữa. Nhưng bọn chúng dữ lắm, chớ nên khinh xuất. Ngươi còn bé, không làm gì được đâu, để ta giúp ...Otsu...phải tên chị ngươi là Otsu không ?
Tự nhiên Jotaro thấy tin người thanh niên lạ mặt. Nó gật đầu, ngây thơ hỏi:
- Đại hiệp bắt chúng giao chị Otsu lại cho cháu hay sao ?
Thanh niên mỉm cười:
- Ừ, để ta xem. Cứ đợi ở đây, nấp vào bụi đằng kia, đừng làm ồn lên, thế nào chúng cũng đi qua. Ta sẽ liệu.
Jotaro nghe lời, chạy vào ẩn trong bụi nhìn ra thấy chàng thanh niên theo đường dốc đi xuống núi.
Đợi mãi mà không thấy gì, hơi sốt ruột, nó thầm nghĩ tráng sĩ kia muốn đánh lừa nó, chỉ nói vậy cho qua rồi chuồn êm chứ chắc gì cứu được Otsu. Jotaro định bụng nhảy ra, tự mình đi tìm lấy. Đột nhiên nghe tiếng chân lạo xạo trên lá khô, nó dừng lại.
Bóng ba người hiện ra:
hai nông dân dáng lực lưỡng, râu ria xồm xoàm kèm một thiếu nữ mặc áo trắng bị trói tay đi ở giữa.
Đúng là Otsu rồi không còn hồ nghi gì nữa. Jotaro định cất tiếng gọi, bỗng sực nhớ đến lời khuyên của chàng thanh niên, khựng lại kịp. Nó còn nhỏ quá, không những không giúp ích được gì cho cô nó mà còn nguy hiểm nữa.
Đợi cả ba đi khuất, Jotaro mới len lén bò ra theo hút, vừa đi vừa lẩn vào các thân cây mọc rải rác trong rừng thưa.
Thình lình, chàng thanh niên ban nãy, lần này đội nón nan che kín mặt, tay cầm gậy ra vẻ một khách bộ hành đi đường xa, ở chân núi hiện ra. Thanh niên vừa đi vừa nói khá lớn, dường như cốt để cho Otsu và hai kẻ kia nghe rõ:
- Ghê quá ! Thật đáng sợ !
- Chuyện gì mà đáng sợ ?
- Dưới chân núi có một tên kiếm khách giang hồ tự xưng Musashi đứng chắn lối, gặp ai cũng nhìn, kiếm tuốt trần, mắt dữ tợn trông phát khiếp.
- Thật hả. Thế sao ngươi đi thoát ?
- Hắn gọi ta lại, hỏi tên tuổi. Khi biết ta là Tsuge Sannojo thì cho đi. Hắn nói hắn chỉ cần tìm giết Tsujikaze Kohei và lâu la của gã thôi. Không biết thù hằn gì mà ghê thế !
- Hai nông dân lực lưỡng đưa mắt nhìn nhau. Otsu mặt trắng bệch, run rẩy muốn ngất tại chỗ.
- Nhà ngươi có chắc như vậy không ?
- Thì chính mắt ta nhìn thấy, chính tai ta nghe, sao lầm được. Các bác phải cẩn thận, nên đi đường khác !
Nói xong gã chống gậy lầm lũi đi, miêng còn lẩm bẩm:
- Không biết thù hằn gì mà ghê thế !
Hai tên lâu la của Tsujikaze kéo Otsu vào ngồi bên đường bàn nhau khe khẽ.
Lúc sau, một đứa trở lại canh chừng Otsu, đứa kia chạy theo gọi Tsuge Sannojo.
Chúng ta muốn nhờ ngươi giúp một tay.
- Sao phải nhờ ta giúp ? Tsuge Sannojo đáp. Các bác là đàn em Tsujikaze hả ?
- Không. Chúng ta muốn bắt tên cướp hỗn láo đó !
- Chịu thôi. Ta không giúp được. Trông dáng dấp nó khỏe lắm, bốn người chưa chắc địch nổi chứ đừng nói ba. Nhất là lại còn cô này vướng chân vướng cẳng, làm gì được ?
- Thế ngươi bảo bây giờ phải làm sao ?
- Theo ta nghĩ thì chỉ có cách này là thượng sách. Trói cô bé vào gốc cây đằng kia rồi hai bác với ta xuống núi tìm mẹo mà bắt nó. Xong việc trở lại dẫn cô bé này đi.
Hai tên gật gù cho là phải. Bèn sẵn dây, trói Otsu vào gốc cây. Một tên còn cẩn thận xé vạt áo bịt miệng để nàng khỏi kêu cứu.
- Thôi được rồi. Đi mau mới kịp.
Dứt lời, cả ba theo nhau xuống núi.
Jotaro chờ cho cả bọn đi khuất mới chạy ra. Nó ôm lấy Otsu, nước mắt tràn đầy má:
- Chị ! Chị !
Đôi mắt Otsu cũng sáng lên vui mừng nhưng nàng chỉ ú ớ. Bấy giờ Jotaro mới sực nhớ, vội cởi miếng giẻ bịt miệng và dây trói Otsu ra. Hai chị em ôm nhau. Jotaro khóc tấm tức, Otsu vỗ lưng nó nhè nhẹ. Trong đời Jotaro, chưa lúc nào nó thấy sung sướng bằng lúc ấy. Nó lẩm bẩm một câu cảm ơn đức Phật linh thiêng học mót được khi còn ở đền Arakida. Otsu nghe, thấy sai, cười thầm trong bụng, định sửa lại cho nó, nhưng lại thôi. “Ồ, hà tất ! Miễn lòng thành thực thì đức Phật ngài cũng chứng giám”.

Acmagiro
26-02-2008, 09:44 PM
CHƯƠNG 30
BƯỚM ĐÔNG



Akemi tung chăn ngồi dậy. Phòng trọ vắng vẻ, ánh chiều nhạt dần. Bóng một cành thông thấp thoáng lay động in lên khugn giấy vàng úa trên song cửa, và con chim gáy sau nhà cũng thôi không còn buông những tiếng kêu cúc cu đều đều buồn bã.
Một mình trong phòng, Akemi cảm thấy cô đơn tràn ngập. Vết thương Seijuro để lại trong lòng nàng thật sâu đậm, Akemi càng nghĩ càng tủi thân, khóc rấm rứt.
Thôi thế là hết. Tấm thân giữ gìn bấy lâu nay, giờ đây hoen ố, nàng biết làm sao giải thích cho người yêu trong mộng.
Vừa thoát chết, Akemi mất hết can đảm, không dám nghĩ đến chuyện ra bãi biển lần nữa. Với tay lấy cái lược chải sơ mái tóc, thắt lại chiếc “obi” rồi bò ra khỏi chiếu nằm, nàng kéo cửa lùa rón rén bước khỏi phòng trọ.
Gió lạnh bên ngoài làm Akemi dễ chịu. Cơn nóng trong người đột nhiên giảm bớt, nàng có cảm tưởng như vừa được uống một chén nước lạnh.
Như con chim mới sổ ***g còn e sợ không dám vỗ cánh bay cao, Akemi dựa lưng vào hàng hiên, ngồi suy nghĩ. Đi đâu ? Về đâu ? Mẹ nàng đã bỏ đi theo Toji, nàng chẳng tìm làm gì, mà ví dù có tìm được, nàng cũng quyết không để cho mẹ bán mình lần nữa. Tứ cố vô thân, cánh bướm mong manh lạc giữa mùa đông, biết nơi nào an toàn mà nương tựa. Akemi kéo vạt áo lau nước mắt, đứng dậy:
Thôi thì cũng liều ! Và men theo hàng giậu thấp, lẻn ra cửa sau trốn.
Ở bến đò, người đi lại tấp nập, gồng gánh chen đẩy. Akemi nhìn đám đông, trông ai cũng thẹn, tưởng như họ đều đã biết rõ cảnh ngộ mình. Giống như chim bị tên sợ cây cong, nàng né tránh hết mọi người và ngồi ẩn trong một bụi rậm chờ trời tối.
Những ngày cuối năm, tại bến đò chỗ nào cũng đông nghẹt khách vãng lai thuộc đủ mọi giai tầng xã hội:
tăng lữ, Samurai, thương nhân, kẻ chợ người quê, chen nhau mua sắm hoặc đáp thuyền về quê quán.
Akemi chẳng biết đi đâu. Bầu trời xám nặng như chì, nước sông cuồn cuộn chảy.
Lòng nàng còn nặng gấp mấy bầu trời, mà khối nước của dòng sông kia giá đem rửa những vết nhơ trên thân thể nàng thì cũng khó mà sạch. Mối tình u uẩn của nàng, tuy Musashi không hay biết, nhưng đã ăn sâu vào tâm khảm người thiếu nữ. Nó là bông hoa dại, khi ở đồi Ibuki mới còn là nụ, theo năm tháng nay đã đến độ mãn khai, được chăm bón bằng thương yêu, mong nhớ và cảm phục. Thân nàng dù bị dày xéo, bông hoa yêu đương vẫn nguyên vẹn. Nàng chỉ tiếc nó chẳng được hoàn toàn như lòng mong ước.
Nghĩ đến Musashi, Akemi sực nhớ đến lời chàng nhắn Matahachi qua miệng tên tiểu đồ:
chân dưới chân cầu Gojo, ngày nguyên đán. Một tia hy vọng lóe lên, Akemi lau vội nước mắt. Tay run run, nàng lấy trong bọc ra cái túi đựng số bạc vụn dành dụm bấy lâu nay, lẩm nhẩm tính, rồi cả quyết theo chân bọn khách thương bước xuống thuyền đi Kyoto.
Đối với Akemi, Kyoto chẳng xa lạ gì. Ở bến tàu bước lên, trời đã chạng vạng tối.
Nàng không muốn về xóm cũ, nơi có quán Yomogi của mẹ nàng khi trước, sợ gặp người quen, nên theo đường nhỏ vòng ra phía cổ thành đến khu Teramachi. Ở đó nhiều đền miếu, Akemi hy vọng tìm được ngôi chùa nào có vị trụ trì nhân từ cho nàng tá túc qua đêm, rồi sáng hôm sau hãy tính.
Giữa hàng liễu úa, cành rủ lưa thưa, Akemi lủi thủi đi. Gió sông thổi lạnh căm, nàng xuýt xoa run rẩy kéo vạt áo giữ hơi ấm.
- Cô em ! Này cô em, đi đâu vội thế ?
Akemi giật mình quay lại. Một người vừa gầy vừa cao, không đoán được tuổi, quần áo rách rưới bẩn thỉu, theo chân nàng từ bao giờ. Râu tóc gã lởm chởm gớm ghiếc, bên hông đeo song kiếm, dáng điệu nửa hành khất, nửa giang hồ lãng tử. Akemi hơi sợ, cắm cúi đi, chân bước nhanh hơn.
- Cô em ! Giải “obi” của cô tuột rồi đó, có muốn thắt lại, ta giúp !
Nàng không nói gì, chỉ rảo bước. Qua mấy năm sống ở Cổ thành, nàng nghe đồn có nhiều tên du đãng nghèo đói thường hay la cà ở các quán rượu, hoặc núp tại các khu đường vắng chờ khách cô thế đi qua xông ra ăn cướp. Akemi đoán tên này chắc cũng thuộc vào loại ấy.
- Xinh đẹp như vậy sao không bới tóc cho cao, đến những nơi thanh lịch chứ ở chỗ hoang vắng này làm gì ? Hay chán cảnh gia đình rồi bỏ nhà đi hoang đấy ? Để ta đưa về...
- ...
- Em nên cẩn thận, đêm khuya thân gái, thiếu gì đứa vô lại rình mò, nó bắt đem bán cho lái buôn, gái Kyoto có giá lắm ! Ở Edo bây giờ nhiều thanh lâu, hay em về ở với ta, mình tính kế làm ăn ...
Gã cười hô hố, lúc đe dọa lúc dụ dỗ. Akemi bực mình vì những lời lải nhải, gắt:
- Ngươi là ai ? Đi đi, ta không dễ gì dụ dỗ.
- Á à ! Nói thật đó. Ta thương cô em, thật tình muốn giúp ...
- Cút đi !
Bị mắng, gã chỉ cười, hàm răng khấp khểnh cáu bẩn trông gớm chết.
- Cút đi ! Không ta ném hòn đá này thì bỏ mạng.
Tuy bên ngoài nói cứng nhưng trong lòng Akemi sợ lắm. Ven đường cây cỏ um tùm. Thấy lẩn trong những bụi cây cỏ ấy, vài gốc tùng trắc mọc hoang, lùn tè, trong bóng tối, mới dâng, có thể tạm làm chỗ ẩn thân được, Akemi cúi xuống vờ nhặt hòn đá, vung tay ném, gã kia né tránh. Thừa dịp tốt, Akemi lẩn ngay vào bụi rậm. Trên cao, nền trời sẫm xuống dần. Vài ngôi sao mới mọc lấp lánh. Tiếng ễnh ương lẻ loi kêu trong đám cỏ. Con đường mòn ven sông vắng vẻ mờ mờ sau màn sương mỏng xanh lam, nhẹ như khói.
Akemi cúi rạp người, như một con chồn, lủi giữa các bụi cây thấp. Chỗ này chắc xưa kia cũng là vườn tược của đền chùa chi đây, bây giờ hoang phế, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn di tích những lối đi lát gạch. Nàng thở thật khẽ, cố di chuyển nhẹ nhàng như bơi giữa biển lau sậy.
Đột nhiên, một bóng người từ trong bụi cây vụt nhảy ra đẩy nàng ngã sấp. Akemi chỉ kịp kêu một tiếng ngắn, bóng đen đã đè lên người nàng, ôm chặt, một tay bịt miệng, một tay giật dải thắt lưng. Akemi vùng vẫy, chân đạp tay tát.
Thì ra gã du đãng lúc nãy. Nó thông thuộc đường lối khu này nên nấp sắn một chỗ đón đầu, chờ đợi.
Gã thở hổn hển. Mùi rượu và mùi hôi thối từ miệng gã xông ra nồng nặc làm Akemi muốn ngất xỉu. Những sợi râu ngắn cứng đâm vào má, vào cổ nàng như những cái gai nhọn sắc. Akemi đau muốn kêu cứu nhưng những tiếng kêu chỉ là những tiếng ú ớ trong cổ họng.
Tên này gầy mà sao khỏe quá, nàng dùng tay cố đẩy mặt gã ra khỏi mặt mình nhưng không nổi. Trong lúc bối rối, bất ngờ một ngón tay nàng thò vào lỗ mũi nó. Nàng chọc mạnh một cái.
- Á !
Tiếng kêu ngạc nhiên đau đớn của tên du đãng làm Akemi giật mình. Gã lăn người sang bên, hai tay ôm mặt.
- Đồ chó đẻ ! Ông giết mày !
Akemi ngồi dậy, chống hai tay giật lùi về phía sau. Thấy chỗ rắn, nàng đoán chừng là một hòn đá, dựa lưng vào đó thở hổn hển. Akemi kinh hãi tột độ. Vạt áo nàng rách toạc một miếng, để lộ lần áo lót bên trong và phần ngực trần, trắng nõn dưới ánh sao đêm. Akemi chỉ kịp làm một phản ứng tự nhiên:
kéo vạt áo kia che lại rồi hai tay giữ chặt lấy ngực, tự vệ. Nàng lắp bắp:
- Ngươi ...ngươi muốn gì ?
Gã kia đã đứng lên, cười gằn độc ác. Nhìn người thiếu nữ yếu đuối trước mặt, không cách gì thoát khỏi nanh vuốt của gã, gã khoái trá, đi đi lại lại, tựa như con mèo vờn con chuột trước khi ăn thịt.
- Muốn gì ? Hề hề ...Muốn gì thì nàng biết đấy !
Và chồm tới định đè sấn nàng xuống.
Akemi nhanh mắt, lăn một vòng tránh được. Gã vồ hụt, ngã sóng soài. Cái ngã này làm gã đau điếng, vì sau tiếng “hự” va vào đá, không thấy gã trở dậy nữa.
Akemi lóp ngóp đứng lên, hai tay giữ áo, chạy thục mạng. Trong đêm tối, như một bóng ma, tà áo trắng bay phần phật giữa những bụi đỗ quyên và tử dương hoa đã tàn và lá xơ xác.
Akemi vừa chạy vừa kêu:
- Trời ơi ! Cứu tôi ! Cứu tôi với !
Tiếng kêu đứt quãng của nàng lạc trong hơi gió. Trong cái hoang tịch của cánh đồng Teramachi đêm đó, mảnh trăng hạ tuần cũng chưa mọc. Một tiếng cú rúc xa xa nhại lời kêu cứu của nàng và càng làm tăng thêm vẻ hoang vu, vắng lặng.
Tên côn đồ tỉnh dậy, giận uất người. Nghe tiếng kêu của Akemi, gã loạng choạng đuổi theo, miệng lầm bầm chửi rủa. Gã đuổi theo mỗi lúc một nhanh, những tiếng chửi tục tằn càng ngày càng gần lại và tiếng chân chạy nặng nề của gã làm Akemi rối ruột. Bước chân Akemi không còn vững, nàng thở hồng hộc, đến bên một vũng lầy thì kiệt sức quỵ xuống. Lá lau khô cứa vào mặt vào môi, nàng thấy xót và ở miệng có vị mằn mặn.
Akemi thở dốc tuyệt vọng. Lạnh, lạnh quá. Máu trong người nàng dường như chảy đi đâu hết. Akemi nhìn những ngôi sao lấp lánh đằng xa như trong giấc mơ, nhỏ dần, nhỏ dần rồi bóng tối chụp xuống toàn thân nàng, đen và sâu thăm thẳm. Nàng không còn biết gì nữa.
oo Tiếng gọi văng vẳng bên tai làm Akemi sực tỉnh. Chân tay nàng lạnh giá và trên mặt hình như có ai lấy nước lã vã vào. Akemi mở mắt lờ đờ nhìn xung quanh. Một bóng đen đang cúi xuống, giật tóc mai nàng và gọi khe khẽ:
- Này cô ! Cô ! Tỉnh dậy !
Akemi cựa mình, thở dài. Tiếng người kia vui mừng:
- Mô Phật !
Và tiếp theo, giọng ái ngại:
- Cô khát không ?
- Đây là đâu ? Phải bãi biển Symiyoshi không ?
Bóng đen lắc đầu:
- Hãy còn mê sảng. Giá có lửa sưởi thì tốt.
Đoạn cởi áo ngoài đắp lên mình Akemi. Nhưng nàng vùng dậy, hốt hoảng:
- Không ! Không !
Ngươi đừng sợ ! Tên đó chết rồi !
Và lấy tay chỉ người nằm cách đấy chừng một thước.
Akemi nhìn xác chết, giật lùi lại rồi nhìn người ngồi bên cạnh không hiểu. Giữa bóng đen âm u của những lùm cây rậm rạp, nàng không phân biệt được người đó thuộc thành phần nào trong xã hội, nhưng theo giọng nói, đoán chừng thuộc loại trung niên trở lên, và nghèo khổ. Tấm áo người ấy vừa đắp lên mình nàng làm bằng vải gai, chỉ những người bần cùng hoặc giai cấp đạo sĩ mới mặc.
- Lão ...lão là ai ?
- Ta là Tanzaemon đi khất thực qua đây, nghe tiếng chị kêu cứu, chạy lại thì đúng lúc tên côn đồ này định làm hỗn. Ta đập gậy lên đầu nó, tưởng đâu dọa cho nó bỏ, nào ngờ trúng chỗ phạm làm nó chết tốt.
- Mô Phật. Đa tạ lão trượng đã cứu tiểu nữ.
- Thế còn chị ? Nhà ở đâu ? Đêm hôm khuya khoắt đến chỗ này làm gì ?
- Thưa lão trượng ...
- Gọi ta là đạo sĩ. Ta là kẻ tu hành.
- Thưa lão đạo sĩ, tiểu nữ không có nhà và cũng không thân thích. Tiểu nữ ở xa đến, trời tối, không tìm được nơi quán xá nào hợp với túi tiền nên định vào khu Teramachi, xem cảnh chùa nào rộng cho tiện nữ ở qua đêm thì tá túc. Không ngờ ...
- Chị thật bất cẩn. Vùng Kyoto bây giờ nhiễu nhương lắm, bọn đãng tử hoành hành khắp nơi, đàn bà con gái ban ngày còn không dám ra chỗ vắng, huống chi ban đêm.
Nghe giọng nói và xem cách xử sự của đạo sĩ, Akemi yên tâm phần nào. Tuy nhiên nàng vẫn dè dặt:
- Gần đây có ngôi chùa nào không, lão đạo sĩ ?
- Không ! Ngôi chùa gần nhất cũng cách đây chừng một dặm. Chị sức còn yếu, không đi nổi đâu. Hay chị đến ngụ tạm chỗ ta ở ?
Akemi không nói gì, lòng lo lắng. Biết rõ ý nghĩ của nàng, đạo sĩ trấn an:
- Ấy là ta khuyên như thế, còn tùy chị quyết định.
- Thưa, thế nhà lão đạo sĩ ở đâu ?
Lão già mỉm cười:
- Ta cũng như chị, không có nhà. Ta ở nhờ một ngôi đền gần đây, cùng với một lão khất cái nữa. Nếu chị chẳng chê là hủ lậu thì cứ tự tiện.
- Đa tạ lão đạo sĩ.
- Vậy chị ngồi nghỉ, chờ ta một lát. Ta đọc bài kệ vãng sinh và lấy đá lấp cái xác kia lại, kẻo để quạ rỉa tội nghiệp.
Khi đạo sĩ làm xong việc thì trời đã khuya. Mảnh trăng lưỡi liềm vàng úa nhô lên khỏi đám tùng bách đen sẫm. Một con chim đêm bay ngang, cánh vỗ phành phạch, tiếng “quác” buông khô khan trong đêm tối vắng lặng.
Lão đạo sĩ đưa cho Akemi mượn cây thiền trượng chống tạm, rồi cả hai, kẻ trước người sau, theo con đường hẹp đi sâu mãi vào cảnh hoang dã.
Đến một nơi lau sậy rậm rạp cao quá đầu người, đạo sĩ dừng lại nói:
- Sắp đến rồi !
Nhưng Akemi nhìn trước nhìn sau chẳng thấy nhà cửa gì cả, chỉ thấy bốn bề lau lách mọc đầy, tiếng côn trùng ri rỉ trong đám cỏ. Nàng ngạc nhiên hỏi:
- Lão đạo sĩ ở đây sao ?
- Sau rừng kia là ngôi đền ta ở. Đối với chị chắc chẳng đủ tiện nghi, nhưng đối với ta thế cũng đủ.
Đi hết rừng lau, quả nhiên thấy một căn nhà. Một căn nhà gỗ hoang tàn, đổ nát hơn là một cảnh đền miếu. Lão đạo sĩ trèo lên thềm. Hàng lan can gỗ nghiêng ngả từ khi Matahachi bị lão dùng thế nhu đạo hất ra ngoài, vẫn còn nguyên đó, không sửa chữa.
Lão già kéo tấm liếp sang bên, đàn dơi thấy động bay tới tấp. Akemi giật mình, do dự không dám bước vào.
- Không sao đâu, bên trong ấm hơn nên dơi làm tổ. Chúng sinh cả, mình trọng nó, nó chẳng hại mình. Ta với nó sống hòa hợp chẳng bên nào cảm thấy phiền lụy. Để ta mồi chút lửa cho ấm.
Đạo sĩ nói đoạn đánh đá vào bùi nhùi, bẻ cành khô gây lửa. Chẳng bao lâu, gian phòng sáng hẳn lên, ngọn lửa vàng tươi bập bùng, nổ lách tách, tàn bắn ra xung quanh như những chiếc pháo bông nhỏ xíu.
- Chị có sợ ta giống như tên côn đồ lúc nãy không ?
Akemi lắc đầu. Đạo sĩ Tanzaemon này hình dung kỳ dị, nhưng phong cách nhân hậu, vả dưới ánh lửa trông lão già lắm, có lẽ đến ngoài sáu mươi. Râu tóc bạc nhiều, da mặt nhăn nheo, dáng dấp mang một vẻ gì phiền muộn, chắc ở tuổi thanh niên lão gặp nhiều đau khổ.
Nàng đưa mắt nhìn quanh phòng. Cảnh bần hàn không còn có thể nào hơn được, nhưng những đồ dùng cần thiết hàng ngày lão thu góp để hỗn độn làm nàng ngạc nhiên:
hai cái nồi đất, một cái đã mẻ miệng, cái hỏa lò, vài chiếc bát đĩa, mấy đôi đũa cắm trong cái ống tre treo trên vách. Gần đấy là một manh chiếu cũ, một cái gối cáu bẩn.
- Để ta đi nấu cháo. Chắc chị cũng đói rồi.
- Cảm ơn đạo sĩ, tiểu nữ không đói. Chỉ thấy sốt và mệt.
- Cảm hàn rồi đấy. Chị ra chỗ kia nằm nghỉ đi. Nghỉ là cách tốt nhất giữ sức khỏe chống bệnh. Đợi ta nấu cháo xong, ăn bát cháo nóng là khỏi.
Akemi cảm động. Nàng thấy lão đạo sĩ này dễ thương quá và đột nhiên nhìn căn phòng dơ bẩn của lão không còn ghê tởm nữa.
Lão đạo sĩ đổ gạo, nước vào nồi, bắc lên bếp rồi lấy ở góc nhà ra một mảnh gỗ. Lão tìm được ở đâu mấy cọng hành lá, rút dao găm ra, dùng mảnh gỗ làm thớt thái hành trên đó. Thái xong, lão trút vào bát, lau thớt đặt sang bên, lẩm bẩm:
- Để làm cái khay cũng tiện.
Akemi xin phép đi nằm nghỉ. Đạo sĩ mỉm cười:
- Vẽ. Mệt thì đi ngủ. Có cái màn rách đắp tạm, khi nào cháo được ta gọi dậy ăn.
Akemi không nề hà, nàng ngả mình xuống chiếu, định quơ tấm màn đắp thì một con vật gì nhảy vụt ra. Akemi giật mình ôm mặt kêu lớn. Lão đạo sĩ chồm dậy:
- Gì thế ? Cái gì thế ?
- Không biết vật gì trong đống chăn nhẩy ra.
- Chắc là chuột.
- Không phải. Nó to như con mèo, màu vàng ...
- Vậy chắc là con sóc. Khu này nhiều sóc và cầy cáo ...Thảo nào ta thấy gạo vương vãi.
Akemi vẫn còn lo sợ, đảo mắt nhìn quanh:
- Kia kìa ! Nó kia kìa ! ...
Lão đạo nhìn theo tay chỉ, trông lên cái kệ xiêu vẹo gần nóc nhà, thấy có đôi mắt tròn xoe, long lanh nhìn xuống không chớp. Đôi mắt nấp sau pho tượng Phật cụt đầu, loang lổ và ám khói mang một vẻ gì vừa tinh nghịch vừa chế nhạo làm pho tượng trở nên sinh động một cách kỳ dị. Lão vỗ tay, dậm chân, đôi mắt bỏ bức tượng chạy sang bên.
Thì ra đó là một con khỉ nhỏ. Nó đánh đu vào xà nhà, đuôi quắp lên xà gỗ, bỏ thõng mình đu đưa, nhe răng kêu khèn khẹc, da mặt nhăn nheo như quả táo phơi nắng.
- Cái con quỷ này không biết ở đâu đến. Từ trước ta có thấy nó bao giờ đâu ?
- Trong rừng không có khỉ à ?
- Đây là rừng lau, làm gì có. Chắc của ai nuôi đi lạc. Không sao đâu, ngươi cứ nằm nghỉ. Để cho nó vài cái hạt dẻ. Chúng sinh cả, chẳng nên đuổi nó làm gì !
- Nó phá lắm đấy !
- Trông thì cũng có vẻ thuần rồi, không ngại.
Lão đạo sĩ đem mấy quả thông và hạt dẻ ra để lên kệ rồi ngồi xuống mở nồi cháo ra khuấy nhè nhẹ. Mùi cháo nóng bốc lên thơm nức, tỏa khắp gian phòng. Lão hít hà, nuốt nước bọt ừng ực. Trông lão bấy giờ sung sướng, bồn chồn, tưởng như nồi cháo hoa kia chứa đựng tất cả cái tuyệt đích của khoái lạc trong cõi nhân sinh mà lão sắp được hưởng.
Chuông chùa Kiyomi từ xa vọng đến. Năm cũ sắp qua, năm mới gần kề, trong tháng này, chùa nào cũng thỉnh chuông lúc sang canh như để cảnh tỉnh chúng sinh ôn việc đã qua, tránh cảnh trầm luân trong biển u mê, hư vọng. Tiếng ngân nga theo gió thoảng đưa, êm êm như những tiếng vỗ về từ cõi cao cả xa xôi nào vọng tới, thay lời đức Phật từ bi xoa dịu nỗi đau khổ trong lòng người thiếu nữ. Akemi lắng nghe tiếng chuông, thiêm em dần rồi đắm mình vào giấc mộng.
- Đồ súc vật ! Bỏ ta ra !
Tiếng kêu thất thanh của Akemi trong giấc chiêm bao khiến đạo sĩ giật mình bỏ dở bài kinh. Lão đến bên chiếu, lay thiếu nữ. Nàng ngồi dậy ngơ ngác. Nỗi sợ hãi còn như ngưng lại trên đôi mắt lạc thần và trên đôi môi run rẩy trắng bệch của Akemi.
- Sao vậy ? Chuyện gì kinh động ngươi quá vậy ? Nói ta biết, họa chăng ta giúp ngươi được gì chăng ?
Akemi khóc òa. Đạo sĩ khẽ vỗ lưng nàng:
- Chuyện gì rồi cũng qua. Cứ nói đi. Nói đi thì vơi được sầu khổ. Ngẫu nhiên ta gặp ngươi, âu cũng là tiền định. Biết đâu những kinh nghiệm của ta chẳng giúp ngươi được phần nào.
Akemi lắc đầu thổn thức.
- A di đà Phật ! Xin đấng Vô Lượng cứu vớt chúng sinh.
- Đạo sĩ có thương con không ? Đạo sĩ khuyên con phải làm gì bây giờ ?
Thì ngươi phải nói cho ta biết chuyện gì chứ ?
Akemi cắn môi. Nàng đã tự nhủ không hở chuyện này cho ai biết nhưng sao đêm nay, cái đêm gần hết năm, chấm dứt một chặng đường trong cõi vô thủy vô chung, nàng không còn can đảm một mình mang gánh nặng tội lỗi và khổ đau ấy trên vai nữa.
Nàng muốn làm lại tất cả. Cũng như cây cỏ sang xuân đâm chồi nảy lộc, nàng thấy cần phải trút bỏ hết mọi ưu phiền cũ để cho dòng nhựa mới luân lưu trong cơ thể.
Nghĩ thế, Akemi lau nước mắt. Và nàng kể hết cho Tanzaemon nghe cuộc đời của mình, những chuyện xảy ra từ khi còn thơ ấu trên đồi Ibuki, phải vâng lời mẹ lột xác chết trên bãi hoang bán lấy tiền cung phụng mẹ, rồi gặp Takezo, theo mẹ mở trà thất, sông những năm sa đọa ở Kyoto, bị Yoshioka Seijuro cưỡng hiếp, nàng tự tử và được cứu sống ra sao, nhất nhất thuật lại. Nhiều đoạn không dằn được xúc động, Akemi nức nở.
Lão đạo sĩ ngồi nghe, không nói gì chỉ thỉnh thoảng lắc đầu. Nước mắt Akemi thấm ướt vạt áo gai trên đùi lão. Thương cho Akemi bao nhiêu, lão không khỏi không ghen tức với Seijuro. Ôi chao ! Lòng trần còn nặng, dứt đi thật khó. Nhìn đầu Akemi gục trên gối mình, phô làn da gáy trắng ngần, mịn màng. Tanzaemon giơ tay vuốt nhè nhẹ. Lão tự nhủ lòng:
“À thì ra da thịt này hắn đã làm chủ !”.
Mùi thơm da thịt quyện mùi phấn sáp thoang thoảng đưa lên ngây ngất. Hơi thở Tanzaemon nặng nề hơn. Đã lâu lắm lão không ngửi mùi này, bây giờ gần Akemi, lòng ham muốn của lão trỗi dậy. Tấm thân suy nhược tưởng khô cằn, giờ đây sống lại.
Một ý tưởng tội lỗi vụt hiện. Nhưng lão vẫn ngồi yên, vẻ trầm mặc, mục quang dán vào làn gáy đầy, trắng có những sợi tóc đen mướt chải thẳng hàng của Akemi. Trong phút hôn mê của lý trí ấy, màu trắng dường như mở rộng mãi ra, bao bọc lấy lão làm lão ngộp thở.
Một tiếng “kịch” ở đằng sau. Lão đạo sĩ quay lại. Con khỉ đã ngồi đấy từ bao giờ, loay hoay đang tìm cách mở nồi cháo. Đạo sĩ như tỉnh giấc, đẩy đầu Akemi ra, đến bên bếp lửa. Tưởng có người đến đuổi, con khỉ chạy vội ra hiên. Lão quỳ xuống, đầu cúi rạp, miệng lẩm bẩm chẳng hiểu là một đoạn kinh, một bài sám hối hay một lời cảm tạ.
Lúc sau, lão quay vào, Akemi vẫn còn phủ phục trên chiếu. Lão ôn tồn nói:
- Con ạ, đời người là bể khổ. Nhưng cái khổ của con so với cái khổ của bao nhiêu người khác vẫn chưa phải là to lớn. Đức Phật từ bi thương xót tất cả, cứu vớt tất cả. Con chỉ là nạn nhân của dục vọng. Quan trọng là tấm lòng. Tấm lòng con trong trắng thì con vẫn trong trắng. Múc cháo ăn đi con, cháo có lẽ khê rồi đó.
Nói xong, lão đạo sĩ nhặt bồ đoàn, cầm gậy lặng lẽ bước ra cửa. Đêm tàn, trăng lụn. Một tiếng vạc trên từng không vọng xuống, báo hiệu bình minh sắp rạng.
oo Cuối đông, vùng hoang địa quanh khu Teramachi lạnh buốt. Sương mù chỗ xanh lam, chỗ trắng đục, trên những ngọn lau khô còn vương vất chưa tan mặc dầu bấy giờ là cuối giờ thìn sang giờ tỵ.
Một tiếng “choét” sắc, gọn, vài cái lông rơi lả tả, tiếng vỗ cánh bay đi của con chim cắt. Thế là hết. Cuộc đời một sinh vật vừa được cáo chúng. Cắt tha mồi bay đến đậu trên cườm tay của Kojiro. Hắn giơ con mồi lên, quay gọi Seijuro:
- Đại huynh ! Bữa nay mình đi săn thế là hên đấy chứ ! Mới sáng mà đã được chú chim gáy này rồi. Cắt này khá lắm !
Con chó săn theo sau, cất tiếng sủa vang, đuôi ve vẩy.
Kojiro bỏ mồi vào bị đeo bên hông, lấy tay đập nhẹ nhẹ lên đầu chim cắt, đậy chiếc mũ da nhỏ xíu che mắt nó lại rồi tiếp tục len lỏi giữa hàng lau.
Hôm qua cũng gần chỗ này đây, con chó cắn đuôi con khỉ khiến nó bỏ chạy.
Không biết bây giờ đâu, đệ đoán nó trốn ở trong tàn cây đằng kia thôi ...
Không nghe trả lời. Ngạc nhiên, Kojiro ngoái cổ nhìn, không thấy Seijuro đâu, bèn quay trở lại.
Nửa tháng nay, ngụ tại võ đường Yoshioka, Kojiro chẳng có việc gì làm, bày trò tiêu khiển, thường cùng với chưởng môn nhân Yoshioka mang cắt đi săn bắn. Bữa trước qua đây, chẳng may con khỉ của hắn sợ hãi bỏ đi, bữa nay hắn muốn trở lại tìm.
Seijuro chẳng có lòng dạ nào đi săn, chỉ vì cần đến võ tài Kojiro mà hắn phải chiều. Hai tuần chung sống với gã thiếu niên, nhiều khi hắn bực mình thấy rõ sự trưởng thành không đi đôi với tuổi trẻ. Kojiro ưa rong chơi, tính nết phóng đãng gần như buông thả, y phục sặc sỡ không ra thế nào. Seijuro đôi khi dùng lời bóng gió nhắc nhở, Kojiro chỉ cười, không để ý.
- Tiểu đệ còn trẻ, để khi nào lập gia đình, sống vào khuôn phép cũng còn kịp chán.
Nhìn Seijuro cau có, buồn rầu ngồi trên tảng đá, Kojiro đến bên vồn vã:
- Đại huynh trong người không được khỏe chăng ?
- Không, tại hạ vẫn bình thường.
Một lát lại nói:
- Dạo này ta với thiếu hạ làm điều đó thật lầm.
- Điều gì ?
- Đi săn. Cứ rong chơi mãi chẳng luyện tập, ngày nguyên tiêu gần đến rồi, sao đủ sức địch với hắn !
Kojiro cười để lộ hàm răng trắng bóng:
- Không sao. Theo ý đệ, ta chẳng nên lo lắng vô ích.
- Nhưng thiếu hạ phải biết hắn là tay ghê gớm, chẳng nên khinh thường. Binh pháp có nói không bao giờ được khinh địch. Trước khi tranh đua, phải chuẩn bị và tập luyện kỹ càng.
- Đệ biết chứ. Nhưng bây giờ trễ rồi. Cách tốt nhất là giữ cho lòng bình thản thoải mái. Thắng địch tùy thuộc nhiều yếu tố ...
Tuy nói thế, nhưng trong thâm tâm Kojiro coi thường Seijuro lắm. Hắn cho Seijuro hẹp hòi, không biết nhìn xa trông rộng và thiếu những dự phóng tương lai.
Tài năng lại kém cỏi, mấy lần thử so gươm với Seijuro, hắn lấy làm lạ một người như vậy mà giữ chức chưởng môn một môn phái danh tiếng. Chả trách gì Yoshioka càng ngày càng lụn bại.
Theo ý riêng hắn, có lẽ em Seijuro là Denshichiro nhiều khả năng hơn, nhưng nghe nói Denshichiro rượu chè be bét, lại vô trách nhiệm, việc gì cũng phó mặc ông anh nên chưa chắc Denshichiro bảo vệ được gia phong. Vả có muốn tìm cũng khó. Hạc nội mây ngàn, biết tung tích hắn đâu mà tìm về cho kịp.
Kojiro lắc đầu, thương hại Seijuro và cả phái Yoshioka. Nếu chưởng môn nhân Yoshioka đọc được những điều Kojiro đang nghĩ, chắc hắn mất tinh thần lắm.
Có tiếng chó sủa dữ dội đằng xa. Kojiro nói:
- Chó thấy mồi rồi. Để đệ ra xem sao.
- Thiếu hiệp cứ đi săn, nếu muốn. Ta về đây !
Kojiro sửng sốt định nói gì, nhưng nghĩ lại thôi. Hắn mặc kệ Seijuro, theo hướng chó sủa, vạch lau xăm xăm đi tới.
Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần. Đến nơi, thấy con chó săn đứng trước thềm một căn nhà đổ nát, vươn mình sủa dữ dội. Hắn đá con chó một cái, ghé mắt nhìn vào trong nhà tối như hũ nút. Hắn giơ tay kéo liếp. Con chó nhảy xổ vào nhanh như tên bắn. Tiếng kêu thét hãi hùng, tiếng chó sủa ủng oẳng, đồ đạc đổ vỡ rầm rầm lẫn với tiếng la hét thất thanh của một thiếu nữ làm căn vách ván rung rinh như sắp sập.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng, Kojiro nhìn con chó đè lên hình thù một người nằm trên chiếu. Mõm nó ngoạm vào cánh tay người ấy, lắc đi lắc lại định rứt đứt tay áo. Con khỉ lông vàng của hắn nhảy choi choi trên cái kệ gỗ, nhe răng kêu khẹc khẹc.
Không suy nghĩ, Kojiro nhẩy xổ đến, hai tay nắm hai hàm răng con chó bửa mạnh. Một tiếng rắc, tiếp theo là những tiếng ằng ặc, máu tuôn xối xả, bắn cả vào mặt mũi hắn. Con chó dẫy đành đạch, máu lẫn với rãi rớt phun ra ướt đầm mảng lông cổ trước ngực. Một lát sau thì tắt thở hẳn.
Kojiro quỳ bên Akemi nằm thiêm em. Hắn vạch tay áo nàng lên, vết răng chó cắn sâu vào tận trong thịt, máu loang ướt cánh tay trần. Áng sáng bên ngoài hắt qua khe liếp hé, trông nàng như một đóa phù dung bị xéo nát.
Kojiro ghé miệng hút máu từ vết thương ra, nhổ đi mấy lần, rồi xé vạt áo buộc lại. Hắn lượm xác con chó vất ra sân, đoạn xốc Akemi lên vai.
Gió lạnh bên ngoài làm hắn rùng mình. Hắn kéo vạt áo che cho người thiếu nữ.
oo Đến khuya, lão đạo sĩ trở về. Cảnh hoang vắng của căn nhà thê lương hơn và tự nhiên lão linh cảm có một chuyện gì ghê rợn vừa xẩy ra. Lão hốt hoảng gọi:
- Chị ! Chị còn đấy không ?
Không có tiếng trả lời. Chỉ thấy lão hành khất già ở phía sau lê bước tới.
- Nàng bị bắt đi rồi.
- Ai bắt ?
- Một tráng sĩ cao lớn còn trẻ lắm, mặc áo đỏ viền xanh, đeo trường kiếm.
- ...
- Chà ! Con người mới khỏe và đẹp làm sao ! Đẹp trai hơn ta và lão nhiều ! Sức lão chẳng giữ được nàng đâu !
Nói xong như rất vừa ý về câu pha trò đó, lão hành khất cười hềnh hệch.

Acmagiro
27-02-2008, 05:34 PM
CHƯƠNG 31
TÌNH HUYẾT NHỤC





Seijuro về đến võ đường, mặt cau có. Hắn ném con cắt cho một đệ tử bảo nhốt vào ***g rồi ngồi phịch xuống ghế.
- Kojiro tráng sĩ không về cùng với tiểu chủ ư ?
- Không. Nhưng chắc hắn cũng sắp lại.
Seijuro vào nhà tắm thay áo rồi ra ngồi ở đại sảnh.
Võ đường đóng cửa từ ngày hăm lăm, phần lớn võ sinh đã tản mát về quê ăn Tết cả. Những tiếng đao kiếm không còn rộn rã như mọi ngày và lò sưởi cũng không nhóm vì tiết kiệm than củi. Không khí lạnh lẽo càng thêm giá buốt và làm tăng vẻ rộng lớn của gian đại sảnh. Sàn gỗ đen im lìm. Đây đó vài giá binh khí đứng trơ trọi. Seijuro bước vào, nhận ngay thấy cái cảnh hoang vắng ghê người ấy. Ngồi bên chiếc bàn thấp, hắn bất giác thấm thía nỗi cô đơn của chính lòng mình và sự bất lực của cả môn phái. Hắn rùng mình, mất hết ý chí chiến đấu. Sự trụy lạc trong tâm hồn của Seijuro còn đáng sợ gấp mươi lần sự trụy lạc của võ phái hắn đang đảm trách.
Seijuro rung chuông gọi đệ tử hầu cận. Chẳng thấy ai tới, hắn uể oải đứng dậy vén màn cửa nhìn ra ngoài.
Bên kia vườn, trước gian nhà gỗ dùng làm văn phòng của viên tổng quản, vô số người ngồi đứng lố nhố. Đủ các hạng. Thợ mộc, thợ nề, lái buôn, chủ tiệm rượu, thấp thoáng có cả bóng phụ nữ. Họ là những khách thương và phu phen bấy lâu nay vẫn thường cung cấp nhu yếu phẩm hoặc sửa chữa võ đường đến đòi nợ cuối năm. Ai nấy nếu không bồn chồn thì cũng lo lắng, vẻ giận dữ hiện ra nét mặt.
- Không biết bao giờ ông quản mới đến ? Nợ bác nhiều không ?
- Cũng đến vài ngàn.
- Của tôi thì số nợ năm trước coi như xong, nhưng năm nay chưa được đồng nào cả.
- Lúc sinh tiền Kempo lão gia, đâu có bao giờ phải chầu chực thế này. Chẳng biết các ngài trong ấy ăn tiêu ra sao mà ông quản này chậm chạp đến thế ?
Họ hỏi han nhau, trao đổi những lời than phiền. Tuy thế một phần lớn vẫn còn giữ lễ độ. Danh vọng các bậc tiền bối Yoshioka còn để lại trong lòng họ một sự tôn kính mà hậu duệ của phái, dù hèn kém, chưa làm mai một.
Mãi đến trưa, khi mặt trời đứng bong, một toán chừng sáu bảy người, dẫn đầu là Ueda, mới khệnh khạng đến. Ueda nhìn đám chủ nợ, thấy toàn là thứ dân, bèn lên tiếng hách dịch:
- Tổng quản đi vắng, chưa về.
Quả thật, tổng quản Toji đã trốn rồi, ẵm luôn cả số tiền hắn quyên được của những đồ đệ và thân hữu, cùng với Oko đi biệt tích. Một chủ nợ đứng lên trần tình:
- Anh em tiểu nhân bất đắc dĩ phải đến đây. Năm cùng tháng tận rồi, xin các ngài trong quý phái trả nợ cho. Nếu không được hết thì cũng chi cho mỗi người một ít để bọn tiểu nhân lo trang trải nợ nần.
- Đúng rồi ! Bọn tiểu nhân không đợi lâu hơn được nữa.
Người khác nói.
- Nếu ngài không trả được thì cho bọn tiểu nhân gặp chưởng môn.
Ueda ghé tai đồ đệ nói nhỏ. Hắn chạy đi, lát sau trở lại thì thầm:
- Tiểu chủ bảo nói tiểu chủ không có nhà.
Ueda cau mặt. Tiến thoái lưỡng nan, hắn phân vân không biết xử trí ra sao, nhưng vì thân danh là một trong mười cột trụ của phái, hắn cao giọng:
- Bản chưởng môn không có nhà. Để thư thả, ta sẽ hoàn trả chu tất.
- Thư thả là đến bao giờ ? Hôm nay cuối năm rồi, không trả ngay không được !
Nghe giọng nói có vẻ hỗn xược, Ueda nóng mặt:
- Đứa nào nói không được ?
Mọi người im thin thít.
- Ta đã nói trả là trả. Bây giờ các ngươi về đi, ta còn nhiều việc khác.
Nhưng chẳng ai nhúc nhích. Một chủ nợ than phiền:
- Vay thì năn nỉ, trả thì khó khăn, còn lên mặt mục hạ vô nhân, không biết nhục !
- Đứa nào nói đấy.
- Ta nói !
Ueda đứng dậy, xăm xăm đến bên người vừa cất tiếng, xuất kỳ bất ý, thoi cho một quả. Mọi người ồ lên một tiếng kinh ngạc và bất nhẫn. Ueda nắm cổ áo người đó nhấc bổng lên ném ra cửa.
- Trông đấy ! Đứa nào còn nói hỗn sẽ biết tay ta !
Rồi đưa mắt cho đàn em:
- Dồn chúng nó ra cổng trước, đóng cửa lại !
Đồ đệ Yoshioka nhất tề xắn tay áo, mặt hầm hầm. Mọi người nhìn nhau cung cúc bước ra. Khỏi bờ mới quay lại chửi mắng thậm tệ Ueda và đồng bọn.
Seijuro ngồi trong sảnh, nghe tiếng ồn ào đã biết chuyện gì rồi nhưng vẫn cúi mặt làm ngơ. Vấn đề chi tiêu trong nhà, hắn chẳng bao giờ lý tới, mặc quản gia lo liệu.
Từ khi Toji bỏ đi, tất cả mọi việc đều do Ueda quán xuyến, cho nên thấy đàn em làm bậy, hắn cũng chẳng nói năng gì. Bản tính rụt rè, ưa hưởng thụ, hắn sợ, không muốn làm mất lòng kẻ tay chân.
Ueda bước vào thấy Seijuro vẫn còn ngồi thờ thẫn bên chiếc bàn thấp.
- Tiểu chủ, có chuyện gì không vui thế ?
Nhìn bọn thuộc hạ, Seijuro vững dạ. Hắn đáp:
- Không. Chẳng có chuyện gì. Sắp đến ngày rồi phải không Ueda ?
- Sắp rồi ! Bọn tiểu đệ đến đây cũng vì việc ấy. Tiểu chủ phải tính chỗ và giờ hẹn đi chứ, để còn thông báo cho nó biết, không chần chờ được nữa đâu.
- Ờ ...ờ ... chỗ nào tiện nhỉ. Ngươi nghĩ cánh đồng Rendaiji phía bắc Cổ Thành có được không ?
- Chỗ đó được. Đệ nghĩ chẳng còn chỗ nào hơn. Thế còn ngày giờ, tiểu chủ định ra sao ?
- Ngươi tính nên hẹn trước hay sau ngày hạ nêu ?
- Đệ cho là càng sớm càng tốt. Đừng để nó kiếm cớ trốn mất.
- Mùng tám được không ?
- Mùng tám là kỵ nhật lão tiền bối tổ khảo, tiểu chủ quên rồi sao ?
- Ừ nhỉ, vậy vào ngày mùng chín đi. Đầu giờ thìn, bấy giờ sương chưa tan, mình dễ xoay sở.
- Dạ. Bọn tiểu đệ sẽ cho yết bảng ngay tối nay dưới chân cầu.
- Vậy tốt !
- Tiểu chủ sẵn sàng cả rồi chứ ?
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên !
Nói thế nhưng Seijuro không an tâm. Tuy Musashi chỉ là một tên kiếm khách, nhưng gần đây có tin đồn đại gã đã giao đấu với nhiều cao thủ võ lâm và đều thắng cả. Seijuro hơi sợ. Hắn không muốn tự nhận mình tư chất kém cỏi, không đủ khả năng bảo vệ danh dự một môn phái lớn, mà chỉ cho là hiện giờ tâm không tĩnh, một phần vì tình hình tài chính của Yoshioka kiệt quệ quá, một phần cũng vì Akemi. Trong vụ Sumiyoshi, Akemi cự tuyệt hắn làm lòng tự ái của hắn thương tổn, hắn càng nghĩ càng giận. Lại Toji bỏ đi. Tất cả những biến cố ấy khác nào những mũi thương ác độc đâm thủng lòng tự tin của hắn, giảm nhuệ khí của hắn không ít.
Seijuro gọi người hầu, hỏi tin Kojiro. Thấy trình Kojiro chưa về, hắn ngạc nhiên. Nắng xiên khoai đã đổ dài bóng những gốc tùng, bách cao lớn sau nhà mà người hắn mong đợi tiếp tay vẫn còn mãi mê săn bắn làm hắn khó chịu, cảm thấy như bị phản bội.
Ueda trở lại, theo sau là một đệ tử mang tấm bảng gỗ mới cắt, chữ viết còn đen nhánh nét mực chưa khô. Seijuro nhìn tấm bảng, lẩm nhẩm đọc:
“Cáo yết Musashi lãng nhân kiếm khách, Phúc đáp yêu cầu của ngươi, bản phái quyết định ngày giờ gặp gỡ như sau:
Địa điểm:
Đồng Rendaiji, phía bắc Cổ Thành Ngày giờ:
đầu giờ thìn, ngày mùng chín tháng một xuân năm mùi.
Bản chưởng môn sẽ hiện diện. Nếu vì lý do gì ngươi không đến, bản phái giành toàn quyền điếu mạ ngươi trước công chúng. Phần bản phái, nếu không giữ lời hứa, xin quỷ thần tru diệt.
Làm tại sảnh đường Yoshioka ngày quý đông năm Ngọ
Chưởng môn:Yoshioka Seijuro”.
Seijuro đọc xong, gật gù:
- Được đấy !
Lời văn rõ ràng trong cáo thị làm hắn hết do dự. Ít nhất, tình thế đã ngã ngũ rồi, hay có lẽ bây giờ hắn mới ý thức được như vậy.
Ueda ra lệnh cho đồ đệ mang bảng ra cắm ngay dưới chân dưới chân cầu Gojo và trở vào ngồi cùng Seijuro bàn các việc sắp tới.
oo Dưới chân đồi Yoshida, Musashi len lỏi giữa những ngôi nhà nghèo nàn của các Samurai vọng tộc nhưng ít tiền. Những Samurai này phần lớn mang tư tưởng bảo thủ, cầu an, không ưa hay không thể làm được những việc xuất chúng, đành cam phận sống tầm thường như mọi người.
Musashi vừa đi vừa đảo mắt đọc những tấm bảng gỗ nhỏ đề tên gia chủ treo trước cửa mỗi nhà. Hắn tìm gia đình người dì, vì hắn chỉ còn có bà dì này với Ogin, chị hắn, là hai người thân duy nhất. Dì hắn lấy chồng Samurai, phục thị dưới trướng Tôn Điền. Có điều hắn không ngờ chú dượng hắn cũng chẳng giàu có gì, tư thất ở hỗn độn trong khu gia cư thanh bạch này, tìm được thật khó. Nhà nào cũng nhỏ chỉ hai gian, chen chúc nhau, co ro như sợ cái lạnh mùa đông, nấp sau mấy thửa vườn hẹp xơ xác, cây cối khẳng khiu, tuyết trong trận bão vừa qua vẫn còn đọng trên cành cây gầy guộc.
Cửa đóng kín mít. Ngày ba mươi Tết, tuy có đôi nhà trang trí trúc và cành thông theo tục lệ cổ truyền ở trước hàng hiên, nhưng thiếu hẳn cái không khí rộn rịp ngoài đại lộ.
Đi mãi không tìm được nhà, mà tứ bề vắng vẻ không biết ai hỏi thăm, Musashi tự nhủ:
“Chắc di mẫu ta dọn đi nơi khác rồi”. Bèn đi ngược trở lại. Đến gần chợ, sương chiều phủ kín khắp nơi nhưng phố xá ngày Tết vẫn còn tấp nập. Đèn đường nhòe nhoẹt rung rinh giữa những vòng ánh sáng vàng úa. Khách bộ hành mang xách đi lại vội vàng, lúc ẩn lúc hiện.
Một phụ nữ đứng tuổi bước ngang trước mặt Musashi. Đột nhiên hắn có cảm giác kỳ lạ, hình như đã thấy người này ở đâu rồi. Những nét quen thuộc lắm. Người đàn bà đi đã xa mà hắn vẫn còn ngẩn ngơ nhìn theo. Đứng một lúc, hắn sực nhớ :
nét mặt này là nét mặt của mẹ hắn, hắn vẫn mường tượng trong giấc mơ. Đúng rồi, chắc bà đó là di mẫu hắn. Tuy không gặp dì mười năm nay, nhưng cái vẻ mặt và cái dáng đi ấy, hắn không sao quên được.
Musashi chạy theo gọi. Bà kia dừng lại, nhìn hắn ngạc nhiên tột độ, nhưng trong khóe mắt nhăn nheo và trong tròng mắt bắt đầu mờ đục vì cuộc sống khó khăn, thoáng một niềm nghi kỵ:
- Ngươi là Musashi, con ông Munisai phải không ?
Đến lượt Musashi ngạc nhiên. Hắn tự hỏi không hiểu sao dì hắn lại gọi hắn là Musashi mà không là Takezo. Trực giác bén nhậy của hắn cho biết rõ ràng hắn không được tiếp đón nồng nhiệt. Nhưng vẫn thành thật đáp:
- Vâng, con là Takezo, dòng họ Shinmen.
Bà dì nhìn Musashi từ đầu đến chân, không một lời mừng rỡ:
“Ồ ! Con đã lớn thế này rồi cơ à !” hoặc “con đấy ư, lâu lắm dì chẳng gặp con” ... Bà chỉ lạnh nhạt nói:
- Mày đến đây làm gì ?
- Thưa di mẫu, cũng không có lý do gì đặc biệt. Nhân đi qua Kyoto, con tạt vào thăm di mẫu và chúc di mẫu cùng di trượng sang năm mới an khang.
Hắn nhìn nét mặt, chân tóc bà dì. Nhiều nếp nhăn ở đuôi mắt, vành môi, chân tóc cũng đã bắt đầu nhuốm bạc. Nếu mẹ hắn còn sống, bà cũng tuổi này và chắc còn nhiều vết nhăn hơn. Giọng nói hẳn cũng thế.
Bà dì tỏ vẻ không tin:
- Mày đến thăm ta ư ?
- Dạ, con cáo lỗi đã không báo trước.
Bà giơ tay đuổi Musashi:
- Vậy bây giờ đã gặp ta rồi thì thôi, đi đi !
Kinh ngạc về lời nói quá vô tình ấy, Musashi giận dữ:
- Tại sao di mẫu lại đối với con như thế ? Nếu di mẫu đuổi con, con xin đi ngay chẳng dám làm phiền, nhưng con muốn biết tại sao. Hay con đã làm điều gì để di mẫu phật ý. Ít nhất di mẫu cũng cho con biết chứ !
Dường như hối hận vì thái độ lạnh nhạt của mình, bà đi quay đi, không trả lời vào câu hỏi. Bả nói lảng:
- Ừ, thôi đã đến đây thì về nhà, chào dượng mày một câu. Ta là dì mày, cũng không muốn mày đi khỏi nơi này rồi đem lòng oán giận ta.
Musashi theo bà về nhà. Hắn đợi ở phòng ngoài chờ bà vào báo cho dượng hắn biết. Tiếng ho khan và thở khò khè của một người bị bệnh suyễn ở phòng trong vọng ra cùng với lời nói bực tức:
- Sao ? Con ông Munisai à ? Nó đến đây làm gì thế ? Sao bà để nó vào nhà mà không báo cho tôi biết trước ?
Tiếng dì hắn nói thầm những gì không rõ, rồi tiếng lục đục của người ở trên giường bước xuống tìm dép. Sau cùng, cánh cửa lùa mở và ông Kaname bước ra, mắt hấp háy.
Kaname là dượng hắn, dáng thấp lại hơi gù, hai vai so lại vì bệnh hoạn. Nhìn Musashi, ông tỏ vẻ khinh rẻ ra mặt, một sự khinh rẻ thường thấy ở những người tình thành nhìn bà con thô lỗ của họ Ở quê ra thăm:
- Thằng Takezo đấy à ? Mày đến làm gì thế ?
- Con nhân có việc đi qua Kyoto, đến thăm di trượng.
- Láo !
- ...
- Mày trí trá lắm, ta lạ gì. Đừng tìm cách dối gạt. Ở Mimasaka người ta đuổi mày nên mày trốn lên đây chứ gì ?
Musashi đứng sững. Hắn không ngờ dượng hắn lại có thái độ như vậy.
Dưới ánh đèn lờ mờ, dì hắn ngồi lặng thinh trong góc phòng, đầu hơi cúi.
- Mày giết người, dụ dỗ con dâu người ta, làm bại hoại gia phong, thật đáng xấu hổ, bây giờ còn đến đây định bêu xấu chúng ta nữa ư ?
Nói xong dượng hắn thở hổn hển. Dường như câu nói dài và sự tức giận làm ông mệt nhọc, ông giơ tay đỡ ngực. Musashi buồn rầu, tuy biết bị hàm oan nhưng trước cảnh ấy không giữ được lòng thương xót.
- Thưa di nương di trượng, con biết đã làm nhiều điều không phải, nhưng bấy giờ con còn dại. Bây giờ xin sửa đổi.
Ông lão hình như không để ý đến lời hắn nói. Ông ngồi xuống chiếu tiếp tục mắng nhiếc:
- Dân làng ruồng bỏ mày, chắc mày phải bỏ đi cũng vì thế. Gieo gió gặt bão, ông Munisai dưới mồ hẳn không được nằm yên.
Musashi thấy di trượng, di mẫu tỏ ra phiền lòng và giận dữ quá, bèn cáo thoái:
- Thôi, con chỉ đến để chào di trượng và di mẫu. Bây giờ xin cho con được kiếu ...
- A ! Không được ! - Ông Kaname giận dữ cắt ngang - Mày không đi bây giờ được. Mày biết ai đợi mày ngoài ấy không ? Mụ Honiden. Mày mà gặp mặt mụ thì phiền lắm.
- Ô ! cụ Osugi đến đây ư ?
- Chứ gì nữa. Tháng trước mụ tới đây, kể cho chúng ta nghe hết về mày. Nếu không phải vì tình huyết nhục thì ta đã trói mày giao cho mụ ấy rồi. Nhưng mày là cháu, chúng ta nghĩ tình đối với ông Munisai và mẹ mày nên giữ mày lại. Mày nên đợi đến khuya hãy trốn đi.
Musashi buồn phiền khôn tả, biết có trần tình cũng vô ích nên chỉ ngồi cắm mặt xuống đất. Những lầm lỗi của hắn trong tuổi thiếu thời không ngờ đã bị cụ Osugi thổi phồng lên và đã gieo vào lòng di mẫu và di trượng hắn một ấn tượng xấu xa đến thế.
Dì hắn nhìn hắn thương hại, bảo hắn ra nhà sau nằm nghỉ. Một mình trong bóng tối, dựa lưng vào đống củi, một lần nữa, Musashi lại thấm thía nỗi đơn độc của mình. Hắn cởi cây gươm đeo bên sườn, vuốt nhẹ lên bao gỗ nhẵn bóng. Cảm giác mát rượi của vỏ gươm làm hắn thoải mái như những lời an ủi của người bạn cố tri.
Musashi ngồi đã lâu, không một ai hỏi han gì. Không khí trong vựa củi ẩm ướt lạnh tanh. Đói, mệt và buồn ngủ, hắn em đi lúc nào không biết.
Tiếng chuông giao thừa đổ hổi làm Musashi bừng thức giấc. Năm mới rồi, năm mới rồi đấy ! Giấc ngủ vừa qua đã đem lại cho hắn sự sảng khoái. Tâm trí lâng lâng thư thái, những bắp thịt sau một thời gian nghỉ ngơi như được dãn nở thêm ra và một luồng sinh lực mới chu lưu khắp thân thể.
Musashi đứng dậy vươn vai. Chuông chùa vẫn thong thả buông những tiếng ngân nga, uy nghi đĩnh đạt, đủ một trăm lẻ tám tiếng cho một trăm lẻ tám mê vọng của người đời, mỗi tiếng là một lời nhắc nhở họ về tính chất phù ảo của kiếp nhân sinh.
Musashi tự hỏi có bao nhiêu người trong đêm nay, cái đêm trừ tịch này, đã nói được:
“Ta đã làm xong điều ta phải làm, ta chẳng có điều gì hối tiếc”. Riêng đối với hắn, mỗi tiếng chuông lại làm hắn rùng mình nghĩ đến những tư tưởng, những hành động xấu xa hắn đã phạm phải trong năm qua, năm trước và những năm trước nữa.
Không năm nào không có những điều hắn không hối tiếc. Người đời thay vợ đổi chồng, đối đãi với tổ tiên, cha mẹ, anh em, con cái, ai dám tự hào đã không có điều gì xúc phạm ?
“Ta vẫn tự nhủ:
nhất định không mong nhờ ai điều gì mà sao vẫn còn hy vọng ở họ lòng thương yêu ? Thật là ngu xuẩn và dại dột. Ta phải quyết tâm và ghi điều này lên giấy mới được !”. Musashi mở hành trang, lấy ra một mẩu nến, đánh lửa thắp lên rồi rút ra quyển sổ giấy đã vàng trong đó hắn ghi những điều nhận xét về võ công, về địa lý cũng như những ý tưởng hỗn độn của hắn trên bước đường giang hồ, kèm theo với cây bút nhỏ. Hắn nhổ nước bọt vào cái nghiên con, mài mực, viết câu khai bút:
“Ta muốn không có điều gì phải hối tiếc”. Nhưng viết thôi, không đủ, hắn cần tìm một câu ngắn, gọn, ý nghĩa súc tích như một thành ngữ để có thể nhắc đi nhắc lại hàng ngày. Có thế hắn mới không quên. Bèn sửa:
“Ta sẽ không hối tiếc những điều ta làm”. Nhưng vẫn chưa vừa ý, hắn lại sửa lần nữa:
“Không làm những gì phải hối tiếc”. Musashi lẩm nhẩm nhắc đi nhắc lại câu này giữa những tiếng chuông lớn ngân nga và những tiếng chuông nhỏ đổ hồi báo hiệu một năm mới vừa điểm.
Cửa lùa xịch mở. Dì hắn thò đầu vào và nói, giọng run run thì thầm:
- Takezo ! Mày ở đây không được nữa rồi. Mụ Honiden đến ngoài kia và đòi chúng ta phải điệu mày ra. Chúng ta đã nói mày không có đây nhưng mụ không nghe. Đầu năm, đừng để xảy ra chuyện không hay.
Giọng bà dì hạ thấp hơn:
- Takezo, trốn đi mau. Dượng mày đang giữ mụ ngoài nhà khách.
Bà lẻn vào, cầm nón đội lên đầu Musashi và đẩy hắn ra phía cửa bếp.
Hắn vừa đi vừa khoác vội túi hành trang lên vai:
- Con ân hận và xin lỗi đã làm phiền di mẫu.
Bà tạt vào bếp lấy năm cái bánh dầy nhỏ, gói vào vuông vải trắng dúi vào tay hắn.
Musashi cung kính giơ bánh lên ngang trán tỏ dấu cảm ơn và đi vội ra cửa:
- Con xin vĩnh biệt di mẫu.

Acmagiro
28-02-2008, 08:49 AM
CHƯƠNG 32
DƯỚI CHÂU CẦU GOJO






Như cánh chim bạt gió, Musashi lầm lũi đi trong đêm tối, dưới trời giá buốt. Chiếc nón nan mong manh không đủ che đầu, gió lạnh lùa qua lần khăn mỏng quấn quanh trán, hắn phải cắn chặt hai hàm răng cho khỏi và vào nhau kêu lập cập. Hơi hắn thở ra trắng tựa khói, vướng vào hàng lông tơ trên mép chẳng mấy chốc đã đọng thành những giọt sương nhỏ li ti.
“Chà, lạnh dữ !”. Trước nay, lạnh như thế này đối với hắn có nghĩa gì đâu, sao đêm nay hắn run rẩy như chiếc lá ? Chắc chẳng phải vì cái lạnh bên ngoài mà vì lòng hắn nhu nhược. Như đứa trẻ nhỏ thích được mẹ ôm ấp nâng niu, hắn vẫn còn trông cậy vào tình thương của người khác. Trong thâm tâm, hắn chưa gạt bỏ được sự mong ước nắm một bàn tay trắc ẩn, nghe một lời âu yếm, hay nhận một cử chỉ vuốt ve, hắn vẫn còn bị tình cảm ràng buộc. Sự thất vọng vừa qua tại nhà người dì đã như một gáo nước dội vào dập tắt tất cả những mong ước ấy làm hắn lạnh tê, nhưng đồng thời cũng khích động lòng tự ái của hắn không ít. Hắn chẳng trách người dì và ông chú dượng, chỉ giận mình chưa đủ trưởng thành để sống một đời tự lập. Tự lập ! Trong cơn phẫn nộ với chính mình, Musashi nói to như hét:
- Tự lập ! Ta phải sống cuộc đời tự lập ngay tự trong lòng ta !
Tiếng kêu giận dữ phát xuất từ tâm khảm hắn vang lên tựa sấm động bên tai.
Trong giờ khắc trang nghiêm của buổi nguyên đán, giữa những tiếng chuông chùa dõng dạc uy nghi, tiếng kêu bi thiết ấy là lời hứa long trọng với chính mình, Musashi sung sướng như người vừa được giải thoát. Hắn bước nhanh hơn, hơi thở dồn dập, một thay đổi sâu xa đương làm đảo lộn cả tâm hồn và thể chất hắn.
“Kiếm đạo không phải là con đường dành cho những kẻ yếu hèn, không lý tưởng.
Người mang kiếm không lý tưởng chỉ là kẻ ăn mày lang bạt. Sự khác biệt giữa một kẻ ăn mày lang bạt và một hiệp sĩ giang hồ nằm trong đáy lòng mình chứ không ở nơi nào khác”. Musashi vừa lòng với những suy tư ấy. Hắn bước những bước dài, mạnh trên đường cỏ ướt sương và không còn thấy tê cóng trên đầu ngón chân như trước nữa.
Hồi lâu, cảnh trí xem chừng đổi khác. Rặng liễu ven đường nhiều thêm ra và nhà cửa cũng thưa dần. Dưới chân Musashi đã có những vũng nước đóng váng. Đôi lúc, hắn phải tránh đường mòn, đi lên bờ cỏ cho khỏi ướt chân.
Ngoài xa, một dải sương trắng đục mờ mờ, có lẽ là sông Kamo. Không ngờ hắn đến bờ sông Kamo chóng đến thế ! Trời còn tối lắm. Lau sậy và cỏ lác mọc rậm rạp ven sông càng làm cho bờ sông tối thêm, hắn không phân biệt được đâu là bờ, đâu là nước nữa.
Musashi men theo rặng liễu đến chỗ lũng cao. Trời chưa sáng, vả hẵn cũng không gấp nên quyết định ngồi nghỉ chân trên lũng. Nhìn quanh, vô số cành lá gãy, lá khô, hắn nhặt gom lại thành đống, mồi lửa đốt. Gió sông thổi ào ào, mấy lần lửa đã bắt lại tắt ngấm. Kiên nhẫn, hắn lấy nón che, thả từng chiếc lá làm mồi, đến khi lửa bốc cao, hắn xoa hai tay vào nhau khoan khoái và cởi hài xảo hong bên đống lửa. Ngọn lửa theo gió thổi tạt vào mặt nóng rát. Musashi lùi lại, bỗng tay chạm vào một túi nặng đeo bên mình. Sực nhớ đến mấy chiếc bánh dì hắn cho lúc sang canh, cơn đói ở đâu kéo đến khiến hắn ứa nước rãi. Hắn tháo túi, lấy bánh ra bày trước mặt, dùng cành khô xiên từng chiếc hơ lên lửa.
Bánh dầy gặp lửa phồng to tựa quả cam, vàng ngộm, nhắc hắn nhớ đến những ngày Tết nguyên đán xưa, khi còn nhỏ, hắn cũng nướng bánh ăn như thế này. Bánh dầy nhạt, không tẩm đường và cũng không có muối, nhưng dẻo và thơm, càng nhai càng có vị. Bất giác, hắn so sánh những chiếc bánh thuần hậu với cuộc đời hành hiệp hắn đang theo đuổi, đạm bạc mà cao khiết.
Musashi vui vẻ, vừa ăn bánh vừa ngó ngọn lửa bập bùng. Cơn gió thổi, ngọn lửa rạp sang bên rồi lại tỏa ra cháy xuê xoang hơn trước. Những tiếng nổ lách tách reo vui, một chút vui nhỏ trong niềm vui lớn sáng tạo của vũ trụ.
“Năm nay ta ăn một cái Tết nguyên đán của riêng ta ...giang hồ lãng tử như ta mà cũng có bánh ăn đầu năm thì chắc Trời Phật chẳng để ai đói lòng. Này sông Kamo là bạn, băm sáu ngọn Hải Nhai Sơn làm bối cảnh trang trí cho cây tùng xanh tốt ngoài kia !
Thật là hùng vĩ ! Ta phải làm cái gì mới được ! Ờ ờ ...ăn xong, ta sẽ xuống sông tắm gội cho thân thể thanh khiết đợi ánh sáng đầu tiên của năm mới.” Musashi lần ra bờ sông, cởi bỏ quần áo, xếp cùng với hành trang bên gốc liễu rồi nhảy xuống tắm. Nước lạnh quất vào da thịt làm cho bắp thịt hắn săn lại nhưng Musashi thấy sảng khoái vô cùng. Hắn vùng vẫy bơi lội, bọt nước bắn tứ tung chẳng khác gì một loài thủy cầm đang đùa nghịch.
Musashi vừa tắm xong, chân trời phía đông cũng vừa hửng sáng. Hắn bước lên bờ, linh cảm làn dương quang mới hé chiếu trên lưng, quay lại thì đúng lúc mặt trời vừa ló.
Xúc động trước vẻ đẹp bao la của cảnh vật, bóng tối lui dần dưới bầu trời rạng rỡ, sông dài, trời rộng trải thênh thang, Musashi cứ để nguyên thân thể trần truồng như kẻ cổ sơ, dạng chân giơ tay hít một hơi dài bầu không khí trong lành buổi ban mai vào ngực.
Giây phút huyền diệu ! Đột nhiên, hắn cảm thấy tâm hồn lâng lâng bay bổng, bừng lên một sự cảm thông với vô cùng và hòa đồng cùng vạn vật. Hắn không còn là hắn nữa, hắn là cái cây, là đám mây, là ngọn núi. Hơi thở của hăn, những tế bào trong cơ thể hắn chỉ là những mắt xích của vô cùng, ảo giác mà thôi, hiện ra rồi lại tan loãng vào thiên nhiên để mà luân lưu mãi. Không ngờ trong giây phút linh thiêng này, hắn vừa lý hội được cái nghĩa sắc, không của nhà Phật.
Musashi lau khô mình, sắp sửa mặc quần áo thì vừa hay nhìn lên lũng cao, thấy bóng một bà già bên đống lửa. Bà đó không ai khác hơn là cụ Osugi.
Cụ Honiden Osugi trông thấy hắn cũng không khỏi kinh ngạc:
- Đúng rồi ! Đúng hắn rồi !
Mới kêu được có thế, bà đã hụt hơi vì xúc động, hai tay giữ ngực rồi sụp xuống.
Chân tay run rẩy, bà thều thào:
- Lạy Trời lạy Phật, vong hồn cậu sống khôn thác thiêng run rủi cho ta gặp thằng ác tặc đây rồi !
Từ khi cậu Gon gặp nạn chết đi, bà luôn luôn đem theo trong mình một cái túi nhỏ đựng vài sợi tóc và lóng xương của người em bạc mệnh như một giải bùa để những khi trái gió trở trời, hoặc gặp chuyện gì phiền não, bà mang ra cầu nguyện. Tuy cậu mới chết chẳng bao lâu, nhưng không ngày nào bà không khấn vái vong linh cậu. Bà nguyền sẽ trả mối thù cho dòng họ đến hơi thở cuối cùng, giết cho bằng được tên đại gian đại ác, cho dù có phải tan xương nát thịt cũng cam lòng.
Nghe đồn có bảng cáo thị dưới chân đường Gojo của Yoshioka phái hẹn Musashi tỉ võ ngày nguyên tiêu, cụ Osugi không ngần ngại, vội vàng đến Kyoto xem hư thực. Bà chỉ sợ trễ, Musashi mà chết dưới tay Yoshioka rồi thì còn đâu để bả trả hận. May sao Trời Phật và đức Quan Âm bồ tát đã chứng giám lời cầu xin thành khẩn của bà, lại nhờ vong hồn cậu Gon linh thiêng, bà bắt gặp nó ở đây.
Thấy ánh lửa ven sông, bà đinh ninh cho là lửa của kẻ ăn xin nào đó đốt lên sưởi ấm, không ngờ lại chính là Musashi. Khi nhìn dáng dấp cao lớn của người dưới nước bước lên, dám khinh thường cái lạnh, tắm sông về mùa này, bà không còn hồ nghi gì nữa.
Musashi trần truồng là một dịp rất tốt cho bà tấn công, chờ lúc hắn đang mãi bận quần áo, xuất kỳ bất ý xông ra đâm cho một nhát, tất hắn tránh không kịp.
Nhưng bộ Óc già nua của bà không cho thế là phải. Bà nhắm mắt chắp tay cảm ơn Thần Phật, tin rằng Thần Phật sẽ phù hộ bà cho đến lúc chết. Mà có Thần Phật phù hộ thì lo gì bà không giết được nó ?
Khi cụ Osugi mở mắt ra, Musashi đã mặc xong quần áo. Túi hành trang trên vai, song kiếm giắt lưng, thoắt cái hắn đã nhảy qua vũng nước lớn, rảo bướ c đi về phía dưới chân cầu Gojo.
Cụ Osugi há hốc miệng, không ngờ hắn nhanh quá đến thế. Rút kiếm ra rồi, bà lại tra kiếm vào vỏ, chạy theo. Bà cũng khôn ngoan không lên tiếng thách thức, chỉ men theo hàng liễu và lẩn sau những bụi lau sậy, dõi bước chân hắn.
Bóng chiếc cầu gỗ đã bắt đầu hiện ra lờ mờ trong sương sớm cùng với những mái nhà rêu màu xám nhạt. Còn một thôi nữa thì đến chân cầu, Musashi bước nhanh. Hắn dư biết cụ Osugi đang đuổi theo nhưng hắn không quay lại. Vì quay lại, tất nhiên phải đối đầu với bà. Hắn phải tự vệ nhưng lại không muốn làm bà lão bị thương. “Thật là khó xử !”. Hắn tự nhủ thầm, và mỉm cười:
“Thật là một đối thủ lợi hại!”.
Nếu như hắn vẫn là thằng Takezo xưa kia, khi còn ở Miyamoto thì dễ quá:
hắn chỉ đấm cho một quả, bà sẽ nằm liệt giường hàng tháng. Nhưng nay hắn là người khác rồi.
Thực ra Musashi chẳng ưa gì cụ Osugi, nhưng hắn không căm thù bà như bà căm thù hắn. Hắn cho rằng lòng căm thù của bà sinh ra từ một điều ngộ nhận.
Hắn muốn trần tình, nhưng cái thế không cho phép. Chắc chắn hắn nói thế nào bà cũng chẳng nghe, bà vẫn nổi tiếng là người bướng nhất làng. Chỉ Matahachi nói, may ra bà mới để vào tai, vì thực ra ngoài Matahachi, còn ai có thể chứng minh chính con bà đã viết thư từ hôn với Otsu ?
Đến đầu cầu đường Gojo, Musashi chậm bước. Dịp may để cụ Osugi đuổi mau hơn. Trăm thước. Năm chục thước. Ba chục thước. Trông dáng đi của Musashi, sao bà ghét lạ ! Đến những vết chân hắn in trên đất, bà cũng ghét cay ghét đắng. Bà ngoảnh mặt đi, nhổ bọt, rồi không giữ nổi kiên nhẫn, hét lớn:
- Takezo !
Nhưng Musashi không chú ý, làm như không nghe tiếng.
- Takezo ! Mày điếc à ? Sao không nghe ta gọi ?
Musashi vẫn điềm tĩnh tiến bước.
Cụ Osugi tức uất, hai tay nắm chặt, cổ bạnh ra, chạy lên chặn đường hắn.
- Đứng lại !
Musashi giả vờ ngạc nhiên:
- Chà ! Ai như cụ Osugi ? Sao bà lại ở đây ?
- Tiểu tặc gian ác, đừng vờ vịt ! Sao ta lại ở đây ! Đáng lẽ ta phải hỏi mày câu ấy.
Ta đã để mày chạy khỏi tay ta trên sơn đạo chùa Phổ Quang, bây giờ không thể cho mày trốn thoát được. Ta phải lấy đầu mày !
Mặt cụ Osugi đỏ gay, gân cổ nổi lên như chiếc đũa. Giọng bà the thé phun ra từ cái miệng nhăn nheo có hàm răng vổ, thưa làm Musashi thấy sợ hãi hơn là tiếng thét xung trận của một đối thủ lợi hại.
Sự sợ hãi của hắn bắt nguồn từ hồi nhỏ, khi hắn và Matahachi đang mãi hái trộm dâu trong vườn thì bị bà bắt được. Bấy giờ hắn tám chín tuổi gì đó. Tiếng hét của bà làm hắn sợ hãi quá chừng, bỏ chạy mà trống ngực đập thình thịch. Thời gian trôi qua, cường độ của sự sợ hãi giảm bớt nhưng âm hưởng tiếng hét vẫn còn vang dội bên tai làm hắn giật mình khó chịu.
Phần cụ Osugi, tuy bây giờ Musashi đã thành niên, nhưng ấn tượng một đứa bé hỗn láo và man dại vẫn còn ghi trong ký ức. Khi Matahachi đăng lính, rồi Otsu, con dâu tương lại của bà bỏ đi, bà đều quy tội cho Musashi dụ dỗ. Vì những lời đàm tiếu trong làng, sự tức giận của bà mỗi ngày một tăng và nay trở thành thù hận.
Bây giờ, tất cả kỳ vọng của bà trước khi nằm xuống là được cắt đầu Takezo cáo gia tiên để trả mối hận đó.
Cụ Osugi giơ tay quệt mép, nhổ bọt vào gan bàn tay rồi rút kiếm đánh soạt:
- Takezo ! Thằng vô lại du đãng kia ! Rút kiếm ra nếu không đừng trách ta không báo trước.
Tích xưa, chuyện con bọ ngựa đá xe không biết có từ đời nào nhưng so vớ i cảnh này thì thật hợp. cụ Osugi chân tay khô đét chẳng khác gì càng bọ ngựa, mắt lồi, da mặt nhăn nhúm, chiếc áo chẽn bà mặc ngắn đến lưng, gió thổi phồng lên như hai cái cánh. Còn Musashi chẳng nói chẳng rằng, lừng lững như cỗ xe vững chãi, đưa mắt nhìn lão bà bọ ngựa múa kiếm chạy quanh. Cảnh tượng thật nực cười, nhưng Musashi không cười được. Hắn chỉ thấy thương.
Khi cụ Osugi đến gần, giơ kiếm định đâm, hắn không tránh, giơ tay nắm chặt lấy khuỷu tay bà.
- Thôi mà, bà bớt giận để con nói.
Giọng hắn cầu khẩn. Đang đà, cụ Osugi ngã xô vào người hắn. Hắn nhẹ nhàng đẩy ra.
- Bà hiểu lầm con rồi !
- Mày đừng tìm cách lừa gạt. Ta từng này tuổi đầu, ăn hơn mày bốn mươi cái Tết, mày chỉ đáng con cháu ta, chuyện gì ta phải nghe mày nói ?
Mặt bà đỏ gay, bọt sùi ra bên mép qua hai hàm răng vổ và thưa. Musashi lắc đầu:
- Bướng quá sức ! Thật chẳng hổ danh dòng Honiden.
- Tiểu tặc đừng hỗn. Ta không nghe những lời tán tụng của mày đâu. Bỏ tay ta ra !
- Bà hãy nghe con giải thích ...
- Không ! Không giải thích gì cả. Đọc kinh sám hối đi là vừa, trước khi ta chặt cổ mày !
Cụ Osugi vùng vẫy giằng tay ra, dáng điệu hung hăng như con gà chọi.
- Bà không nghe con nói thì con phải đoạt thanh kiếm này.
- Hứ ! Đoạt đi ! Nó là đồ gia bảo nhà ta. Mày giết ta mới lấy được. Đừng hòng !
- Xin bà bớt giận. Tuổi bà đã cao, giận dữ không tốt. Hãy để Matahachi nói bà rõ.
- Á ! Mày nói gì thằng Matahachi ?
- Con có hẹn hôm nay gặp Matahachi ở chân cầu. Nó biết rõ chuyện, bà đợi nó nói hết cho bà nghe.
- Xì ! Chỉ láo ! Thật xấu hổ, mày có phải con ông Munisai dòng họ Shinmen không ? Ông ấy có dạy mày khì phải chết thì chết cho đĩnh đạt không ? Đừng tìm cách gạt ta để rồi trốn như lần trước !
Mắt bà long sòng sọc ngước nhìn Musashi. Thấy hắn lặng thinh, bèn giật mạnh tay, nhưng vì dùng quá sức, bà bắn ra xa, ngã ngồi xuống. Musashi định đến nâng dậy song bà đã đứng lên kịp, cầm gươm xông tới:
- Nam mô quan thế âm bồ tát !
Cụ Osugi vừa niệm kinh vừa phóng ra một chiêu. Kiếm chiêu vừa run lại vừa chậm. Musashi khẽ nghiêng mình né tránh. Bỗng thấy nhói bên mí mắt, hắn đưa tay lên sờ. Không có máu, chỉ thấy cay và hơi ngứa.
Cụ Osugi quay lại tấn công lần nữa. Hắn nheo mắt nhìn. Mắt bên trái hắn cay như xát ớt, nước mắt chảy ra ràn rụa, hắn không hiểu tại sao.
- Nam mô a di đà Phật !
- Nam mô quan thế âm bồ tát !
Mỗi câu niệm Phật lại kèm theo một chiêu kiếm. Cụ Osugi điên cuồng chạy xung quanh Musashi, phóng kiếm đâm chém liên tiếp. Đôi dép da trâu dưới chân bà kêu lép nhép, mà hắn chỉ nghiêng mình tránh né.
Musashi phiền lòng quá. Nếu muốn, hắn chỉ giơ tay bà sẽ ngã ngay nhưng thấy bà yếu, hắn không nỡ. Mắt hắn bị thương, bây giờ cộm và ngứa. Hắn muốn giải quyết vụ này cho chóng xong mà chưa biết phải làm thế nào.
Đột nhiên, cụ Osugi giả chạy quá đà, quay ngược lại dùng thế hồi mã chém một nhát vào đầu Musashi. Musashi giơ tay đỡ. Soạt ! Lưỡi kiếm cắt đứt miếng áo ngoài và chạm vào cườm tay hắn. Cụ Osugi thấy đã chém trúng địch thủ, mừng rỡ nhảy lên:
- Mô Phật ! Phen này mày chết với ta !
Musashi cau mặt. Từ trước hắn vẫn coi thường bà lão, không quan tâm điều thắng bại, nhưng bây giờ biết là lầm. Binh thư cũng như kinh nghiệm đều dậy không bao giờ được khinh địch. Theo luật giang hồ, như vậy là hắn bại rồi. Vết thương ở cườm tay tuy nhẹ, nhưng chứng tỏ hắn đã bất cẩn, một điều hết sức tránh trong khi giao đấu.
Musashi hét một tiếng, chờ cho Cụ Osugi đến gần, vòng tay ra sau lưng bà điểm mạnh một cái. Bà lão ngã sấp, kiếm văng sang bên. Bà không đứng dậy được nữa, mặt nhăn nhó. Musashi dùng cầm nã thủ pháp khóa tay bà lại, đồng thời móc vào nẹp áo xách bà lên như xách con mèo. Tay kia hắn nhặt thanh gươm, cầm lăm lăm.
Cụ Osugi rên rỉ:
- Thằng này hỗn, thằng này hỗn ! Mày làm gì ta vậy ? Ối chao, đau ! Bỏ ta ra !
Không còn Thần Phật gì nữa hay sao ? Takezo. Thằng súc sinh này, mày hỗn quá!
Cụ Osugi giẫy đạp như điên, mồm la bai bải. Mặc ! Musashi làm như không nghe gì hết. Hắn giơ bà ra xa để bà khỏi đạp vào chân hắn rồi lầm lũi đi về phía cầu.
Đang phân vân không biết xử trí ra sao, bỗng xa xa gần bờ sông có chiếc thuyền nhỏ neo bên gốc liễu. Thuyền dường như bỏ trống. Một ý nghĩa thoáng hiện. Hắn xăm xăm xách cụ Osugi đến bên thuyền, tìm dây trói chặt chân tay bà lại.
- Trời ời ! Takezo, mày làm gì ta thế này ? Mày định trôi sông ta hay sao ?
Ừ giết ta đi, mày làm nhục ta quá rồi !
Musashi không đáp. Nét mặt hắn đăm chiêu, vẻ buồn và hối hận thoáng lộ trên khóe mắt.
- Qúa lắm rồi ! Thật không còn Thần Phật trời đất gì nữa ! Takezo ! Sẵn gươm kia sao mày không cho ta một nhát ?
Musashi nhẹ nhàng đặt bà lão lên thuyền.
- Bà nằm tạm đây, con đi tìm Matahachi.
Rồi hắn bỏ đi.
Nhưng cụ Osugi không chịu. Bà la hét, gọi tên Musashi chửi rủa, dùng hai chân bị trói đạp lung tung khiến chiếc thuyền nhỏ chòng chành tưởng sắp lật.
Đi một quãng, nghĩ thế nào, Musashi quay trở lại. Hắn tìm giây chão buộc chặt hai đầu thuyền vào gốc liễu. Lại nhặt thanh kiếm gia bảo nhà Honiden tra vào bao rồi cẩn thận đặt lên thuyền bên bà lão.
Lần này hắn bỏ đi hẳn, giữa những tiếng mắng nhiếc và câu nói sau cùng nghe được của cụ Osugi:
- Takezo ! Mày nói theo kiếm đạo mà ngu quá, có biết gì về kiếm đạo. Lại đây ta dạy cho, thằng tiểu tặc ...
Musashi mỉm cười, lẩm bẩm:
- Để rồi sẽ học sau.
oo Mặt trời đã lên cao, đỏ chói trên bầu trời xanh nhạt không vẩn mây. Musashi tưởng như những tia nắng mới của vầng thái dương xuyên thấu tâm can.
Hắn nghĩ đến điều dân gian thường tin tưởng:
mỗi năm vào ngày mồng một, đúng lúc bình mình, tia sáng đầu tiên của mặt trời sẽ làm tiêu tán con sâu tư kỷ nó đục khoét tâm ta và ràng buộc ta vào những ham muốn ti tiện. Ai bắt gặp tia sáng đó, suốt năm sẽ hưởng hạnh phúc, an vui.
Musashi phanh ngực áo, hít một hơi dài. Hắn hy vọng.

Acmagiro
28-02-2008, 08:50 AM
HỒI 33
CỐ NHÂN





"Rendaiji, bắc Cổ Thành, đầu giờ thìn tháng mạnh xuân, ngày mồng chín ...”.
Musashi vẻ tư lự, lẩm nhẩm đọc ngày giờ và điểm hẹn cáo yết trên bảng gỗ dựng dưới chân cầu rồi thong thả lui vào một chỗ khuất đứng ngó mông lung.
Thấy mắt còn cộm, hắn đưa tay dụi, không ngờ chạm phải một vật cứng dính gần cổ áo. Rút ra xem, ra là một cây châm nhỏ bằng sắt giống như cái kim khâu nhưng không có lỗ chỉ, một đầu nhọn, đầu kia hơi loe buộc vài sợi tơ ngắn.
- À ra cái này đây !
Musashi không ngờ bà già ghê gớm thế ! Trên bước đường giang hồ, hắn đã từng nghe nói nhiều đến thuật phóng châm của một số phụ nữ. Hắn không tin mấy, mặc dầu cho rằng thuật đó không hẳn là vô căn cứ. Nhưng dù có thật đi chăng nữa, chắc cũng chỉ là một tiểu kỹ của những kẻ yếu thế, gặp lúc cùng thì dùng để tự vệ, hắn chẳng quan tâm. Song qua kinh nghiệm vừa rồi, Musashi thấy thuật phóng châm quả là một đòn nguy hiểm không thể coi thường. Cây châm nếu được phóng trúng vào con ngươi và chiêu kiếm của bà già nhanh hơn chút nữa thì trong lúc lúng túng dụi mắt, hắn đã bị khốn rồi. Hơn nữa, nếu cây châm lại được tẩm thuốc độc, kết quả còn đáng sợ gấp mấy ! Nghe nói người sử dụng tuyệt kỹ này có thể giấu rất nhiều châm trong tay áo hoặc trong miệng rồi xuất kỳ bất ý phóng ra có khi hai ba cái một lúc. Châm phóng bằng miệng phải luyện tập công phu và nếu không phải tay lão luyện, không dám dùng châm độc.
Chẳng biết cụ Osugi đã sử dụng tuyệt kỹ nào, nhưng may cho hắn, châm của bà không tẩm độc chất, hắn chỉ thấy mí mắt ngứa xoàng và hơi cộm. Hắn vận khí thấy kinh mạch vẫn điều hòa không có triệu chứng gì tỏ ra bị ngộ độc thì yên dạ. Musashi mở bọc định lấy lọ thuốc bột rắc vào chỗ ngứa, thình lình nghe sột soạt phía sau lưng.
Một thiếu nữ đã đứng đó tự bao giò, tay cầm giải lụa trắng đưa cho hắn, nói:
- Chớ dụi. Càng dụi mắt càng ngứa thêm. Takezo, chàng hãy lấy giải lụa này mà buộc !
Musashi ngạc nhiên:
- Cô là ai ? Sao biết tại hạ ?
Thiếu nữ không đáp, chỉ đăm đắm nhìn. Lát sau thấy hắn vẫn đứng im như phỗng thì ra vẻ bối rối. Không giấu được vẻ buồn đượm chút tủi thân, nàng cúi đầu nói khẽ:
- Takezo ...à ...à ...Musashi ! Chàng thật không nhận ra em sao ?
Musashi nhìn kỹ. Thiếu nữ này chắc thuộc hạng quyền quí trong xã hội.
Lối trang phục xa xỉ, áo bằng hàng lụa đắt tiền thêu hoa chim, nhưng nếp áo xô lệch.
Cửa tay và thân áo nhiều chỗ đã rách, vạt áo loang lổ những vết bùn dường như chưa được gột rửa kỹ. Da mặt nàng hơi xanh dưới lớp phấn thoa vội. Đôi môi nàng mọng, tô son đỏ thắm run run như sắp khóc hay định nói điều gì song cố giữ.
Trông nàng như con chim non bị bão, vậy mà trong cái tơi tả ấy, diện mạo thiếu nữ vẫn còn giữ được một vẻ đẹp lạ kỳ. Những đường cong của môi, của má, của cằm nàng mang một sức quyến rũ đặc biệt, đầy nữ tính. Musashi so sánh thiếu nữ đứng trước mặt với Otsu. Hai người xấp xỉ cùng trạc tuổi như nhau, nhưng Otsu đẹp thanh cao, trang nhã và quý phái còn nàng này cũng đẹp nhưng đẹp cách khác. Ở khóe mắt bờ môi có một vẻ gì nồng nàn nó lôi kéo, thu hút người khác phái như một thứ nam châm hút sắt. Thiếu nữ trông quen lắm, hình như hắn đã gặp ở đâu rồi mà không tài nào nhớ ra được.
Sự im lặng của Musashi làm thiếu nữ càng bối rối thêm. Sau cùng không nhịn được nữa, nàng òa lên khóc, giang tay ra ôm chặt lấy hắn:
- Takezo.
Cử chỉ tự nhiên và tiếng kêu xuất phát tự đáy lòng có một cái gì khích động làm bừng dậy trong tiềm thức Musashi những kỷ niệm cũ tưởng đã quên lãng từ lâu.
Văng vẳng, hắn nghe đâu đây tiếng nhạc khánh leng keng như khi ở trên đồi Ibuki, hắn còn là tên lính bại trận phải trốn tránh trong vựa củi của một căn trại đổ nát.
Và hắn sửng sốt kêu lớn:
- Akemi ! Ồ Akemi ! Nàng đã lớn từng này rồi đấy !
Nụ cười sung sướng nở trên môi, Akemi gật đầu, trong khi mắt vẫn còn long lanh hai hàng lệ:
- Phải rồi ! Chàng đã nhớ ra người cũ ! Hơn năm năm rồi còn gì ...
Nàng ôm chặt lấy Musashi hơn và nói như trong giấc mộng:
- Em đợi mãi mới có ngày nay. Takezo, chàng có nhớ em không ?
Musashi chẳng biết trả lời sao. Đối với hắn, những ngày ẩn nấp trên đồi Ibuki là một giai đoạn kỳ thú trong cuộc đời trôi nổi của hắn. Mang ơn Oko, thanh mộc kiếm đen bóng như mun vẫn còn đeo bên sườn đây là kỷ niệm Oko tặng, nhưng hắn cũng không quên vì người phụ nữ đa tình ấy mà Matahachi đã bỏ đi, gây cho hắn không biết bao nhiêu phiền lụy với gia đình nhà Honiden. Còn Akemi, nàng chỉ là một cô bé ngây thơ ngẫu nhiên gặp trong những ngày đầu của cuộc đời phiêu bạc, rồi tan biến với thời gian, chẳng để lại một cảm tình gì sâu đậm trong lòng hắn. Đột nhiên bây giờ nàng lại hiện ra, đôi vai thổn thức, ánh mắt dậy thì đam mê trông hắn như van lơn, như cầu khẩn. Hắn biết trả lời sao đây ?
Musashi không muốn làm phật lòng người thiếu nữ đáng thương kia, nhưng cũng không muốn nói dối. Bèn đánh trống lảng:
- Sao nàng biết ta ở đây mà tìm ? Nàng còn ở Ibuki không ? Mẹ nàng đâu rồi ?
Nghe hỏi đến mẹ, Akemi như bị tổn thương, chỉ thổn thức mà không đáp.
- Còn Matahachi nữa ? Ngày đó Matahachi cũng bỏ đi với mẹ con nàng mà.
Bây giờ còn ở chung với mẹ nàng không ? Ta có hẹn gặp Matahachi ở đây hôm nay, nàng biết chứ ?
Mỗi câu hỏi lại nhưng một mũi dao đâm sâu vào vết thương phiền muộn của Akemi. Áp mặt vào ngực Musashi, nàng chỉ biết nức nở lắc đầu.
- Matahachi đâu, Akemi ? Chuyện gì vậy ? Nàng không trả lời ta thì ta biết làm sao mà giúp nàng được ?
Akemi nói qua nước mắt:
- Matahachi không đến đâu. Em đâu có nhắn cho ông ấy biết.
Musashi gỡ tay Akemi ra, nhìn thẳng vào mặt nàng. Nước mắt chan hòa nhòe nhoẹt cả son phấn. Hắn lấy tay áo lau mặt cho nàng. Akemi giữ chặt tay hắn, muốn kể rõ mọi chuyện từ khi bỏ Ibuki đi ra sao và thổ lộ hết tâm sự với Musashi nhưng có một cái gì làm nghẹn cổ họng. Nàng chỉ đứng lặng nhìn hắn, nước mắt chứa chan.
oo Trời đã sáng rõ. Tiết trời đầu năm bỗng ấm hẳn. Nắng xuân chan hòa loang loáng trên những cành tùng xanh biếc, vẽ loang lổ từng miếng ánh sáng màu nâu tươi trên nền đất ẩm. Gần bờ sông, ở một vài chỗ cỏ còn ướt, tia nắng rọi qua những giọt sương đọng trên lá chiếu thành những vòng hào quang ngũ sắc óng ánh như những chiếc cầu vồng nhỏ.
Người đi trên cầu mỗi lúc một đông:
phụ nữ mặc áo mới hoa sặc sỡ, thoa cài đầu lóng lánh dưới ánh nắng mai; đàn ông đứng tuổi trang nghiêm trong những bộ y phục sẫm hồ bột cứng nhắc. Họ đến chùa hoặc đi thăm bạn hữu ngày nguyên đán. Lẩn trong đám đông ấy, Jotaro cũng lên cầu, mắt nhớn nhác nhìn ngược nhìn xuôi tìm sư phụ.
Bỗng Jotaro reo lên một tiếng vui mừng. Nó vừa trông thấy Musashi.
Nhưng này, ồ, lạ quá ! Sao thầy nó lại ôm trong lòng một thiếu nữ ? Mà thiếu nữ này không phải Otsu. Ai thế nhỉ ? Jotaro nhăn mặt khó chịu. Nó nheo mắt, lấy tay che nắng nhìn cho rõ. Đúng rồi ! Người đứng dưới chân cầu là Musashi, sư phụ nó.
Cái dáng dấp cao lớn, ngang tàng, đôi song kiếm giắt bên hông, túi hành trang màu chàm đã bạc vì sương nắng, Jotaro không thể lẫn. Nhưng Otsu đâu ? Mà thiếu nữ kia là ai, sao thầy nó lại ôm nàng vào lòng giữa chỗ đông người qua lại như thế này mà không biết ngượng ?
Nó thường được dạy dỗ người tự trọng phải biết kềm chế dục tính, không bày tỏ tình cảm một cách thái quá trước công chúng, sao vị tôn sư khả kính của nó lại có thái độ tồi bại như vậy ? Jotaro mím môi, vừa mừng vừa giận, lại ghen hộ cho cô Otsu. Nó muốn chạy đến níu áo thầy. Đã lâu không gặp, thầy nó thấy nó chắc vui lòng, nhưng còn thiếu nữ kia, nó e dè không dám. Jotaro tuy nhỏ, nhưng cũng đã biết thế nào là tế nhị, không muốn làm người khác phải lúng túng.
Ít lâu nay, Jotaro và Otsu tạm nương náu trong khuôn viên lâu đài của Karasumaru Mitsuhiro. Khi hai chị em mang tranh của viện chủ viện Arakida đến làm quà, Karasumaru thấy Otsu đang trong cảnh lưu lạc, người thân không có mà năm cũ sắp hết, bèn ngỏ ý lưu lại. Jotaro và Otsu bằng lòng ngay vì nghĩ không còn nơi nào an toàn hơn nữa.
Mới tối hôm trước, tin rằng thế nào Musashi cũng có mặt tại dưới chân cầu Gojo ngày nguyên đán, Otsu đã sắp sẵn bộ y phục nàng ưng ý nhất và tính những chuyện gì cần phải nói với chàng. Mới canh ba, Otsu đã dậy gội đầu chải tóc thật kỹ, lòng rộn ràng vui sướng như đứa trẻ sắp sửa được đi trẩy hội. Jotaro cũng đòi đi cùng, song Otsu không muốn. “Lần này ta để em cùng đi, nhưng lần này ta muốn gặp thầy em nói câu chuyện riêng. Thế nào em cũng gặp thầy mà, nhưng đến sau đi, ta và thầy em hứa sẽ đợi”.
Jotaro phụng phịu. Nó lơ mơ hiểu cảm tình của Otsu đối với thầy nó, có điều nó không biết tại sao một thiếu nữ đẹp, tài hoa và khôn khéo như Otsu lại cứ khóc mỗi khi nhắc đến Musashi. Chắc có điều gì làm nàng phiền muộn lắm nên nó thương và bằng lòng để nàng có cơ hội giải bày tâm sự với thầy nó.
Jotaro ngó nháo nhác tìm quanh. “Kỳ thật ! Không lẽ cô Otsu không biết đường ?
Đáng lý ra phải đến đây lâu rồi chứ ! Hay lại tạt vào đền chùa nào cầu khấn gì chăng ?”.
Nó đi ngược đám đông quay trở lại, lòng bồi hồi lo lắng.
Trên cầu, khách vãng lai càng lúc càng tấp nập. Musashi kéo Akemi đến một chỗ khuất nẻo hơn.
Dưới gốc liễu ngay bờ sông, chỗ mọi ngày đàn sếu trắng vẫn thường đến đậu chờ mồi, hôm nay chẳng thấy có con nào. Một thanh niên còn trẻ lắm, y phục sặc sỡ, đứng ngay ở đó, lưng dựa vào cành liễu cỗi có đầu cành vặn vẹo sà trên mặt nước giống con rắn lớn. Gã thanh niên khoanh tay trước ngực, mắt chăm chú hướng về phía Musashi và Akemi.
Bên Musashi, thiếu nữ vẫn sụt sùi, giọng thành khẩn kể lể nỗi niềm. Nàng đã quyết rũ bỏ hết lòng tự ái, không giấu Musashi điều gì, chỉ mong mối tình vô vọng nàng ấp ủ bấy lâu nay được đáp ứng.
Tội nghiệp cho nàng ! Những lời kể lể ấy chẳng biết có lọt tai chàng thanh niên lãng tử kia không mà chỉ thấy hắn ừ hử hoặc gật đầu cho qua hay trả lời gióng một.
Mối tình thơ dại đẹp bao nhiêu cũng chỉ như đám bọt nước kia tung lên trắng xóa dưới chân cầu. Mà chân cầu thì hờ hững. Mà bọt nước thì tan đi, còn gì đâu dấu vết ?
Như linh cảm thấy mình đang bị dò xét, Musashi chú ý nhìn quanh. Mục quang hắn quét từ gần ra xa, soi mói những bụi sậy xơ xác ven bờ, kín đáo dừng ở từng tảng đá. Sau cùng, nó ngưng lại, chăm chú vào gã thanh niên trang phục sặc sỡ đứng bên gốc liễu.
Musashi mắt nâu. Lúc sinh tiền, ông Munisai vẫn bảo hắn:
“Thằng Takezo này mắt nâu, không như mắt ta, đen. Chắc nó giống cụ tổ cữu cũng có đôi mắt sắc như thế, tàn nhẫn lắm !”. Bây giờ, dưới ánh nắng chênh chếch, mắt Musashi hồng lên rồi đỏ rực như hổ phách.
Hắn nhìn gã thanh niên. Gã thanh niên cũng nhìn lại hắn. Hai làn mục quang chạm nhau tưởng chừng tóe lửa.
Binh pháp có dạy trước khi lâm trận, hãy xét khả năng địch thủ trên đầu kiếm.
Đúng vậy, hai gã này đang thủ thế với nhau, không phải bằng kiếm mà bằng mắt. Như hai con dã thú gờm gờm nhìn nhau trước khi xông vào nhau cắn xé.
“Hừ !”. Gã thanh niên bên gốc liễu nghĩ thầm. “Chắc thằng này là Musashi đây. Một địch thủ ta phải cẩn thận !”.
Musashi càng lúc càng chú mục. Mắt hắn lộ hung quang xoáy về phía thanh niên thách đố. Và gã thanh niên không vừa, dường như gật đầu chấp nhận.
Bây giờ cường độ mục quang của cả hai không phải do mắt phóng ra nữa mà tự tâm khảm phát xuất. Nó là cường độ của ý chí, của quyết tâm không cần lời nói và cũng không gì lay chuyển.
Cả hai tuổi tác tương đương, Musashi chỉ hơn gã kia chừng hai tuổi, cùng ở vào cái tuổi ngang tàng, không biết e sợ là gì, đầy tự tin và ngạo mạn đến liều lĩnh. Hai cá tính đó đối nhau, tất không khỏi va chạm. Và như hai con thú dữ, bản năng của chúng đều ngầm bảo chúng:
đối phương trước mắt là một kẻ thù nguy hiểm và đáng sợ !
Một lúc, thanh niên y phục sặc sỡ quay mặt đi, tránh tia mắt của Musashi, khẽ nhếch mép. Musashi thấy rõ nụ cười ngạo mạn ấy, nhưng hắn tin chắc trong trận vừa rồi, hắn đã thắng.
Cúi nhìn thiếu nữ đứng trước mặt, Musashi để tay lên vai nàng:
- Akemi !
Thiếu nữ ngước trông lên, lệ còn hoen má.
- Người đó là ai ?
Akemi ngạc nhiên, nhìn về phía Musashi hất hàm chỉ. Bỗng giật mình.
- Người đó có vẻ biết nàng. Hắn đã theo nàng đến đây để dò xét ta phải không, Akemi ?
Akemi lau nước mắt:
- Em không rõ, nhưng người đó em chỉ mới biết đây. Y là ân nhân của em.
- ...
- Hai hôm trước em bị chó cắn, nhờ y cứu và gọi thầy thuốc đến chữa cho mới được thế này.
- Thế bây giờ nàng ở với hắn phải không ?
Akemi cúi mặt.
- Tên hắn là gì ?
- Sasaki Kojiro. Người ta còn gọi là Ganryu.
- Ganryu ?
- Phải. Ganryu là ngoại hiệu của y. Sao ?
- Ta nghe cái tên quen lắm, hình như trong giang hồ đã có nhiều người nhắc đến tên hắn.
Musashi lại đưa mắt nhìn về hướng Kojiro đứng và hỏi:
- Có phải hắn sử dụng một cây trường kiếm hỗn danh là cây sào phơi không ?
- Em không biết, nhưng thanh kiếm của y quả có dài hơn kiếm thường.
Thấy Musashi nhìn mình, Kojiro mỉm cười, đôi má lúm đồng tiền.
Một điều lạ, Musashi cũng mỉm cười đáp lại, nhưng nụ cười của cả hai chẳng giống nụ cười của đức Phật khi thấy đệ tử mình là A Nan bóp cánh hoa trong tay. Nụ cười Sasaki ngạo mạn và mỉa mai; nụ cười của Musashi ẩn một ý chí tranh đấu mãnh liệt, đầy thách thức.
Akemi đưa mắt nhìn hết người này đến người kia, không hiểu. Musashi khẽ vỗ vào vai nàng:
- Akemi, thôi bây giờ hãy về phòng trọ đi. Ta sẽ lại thăm nàng sau.
Akemi khóc nấc. Hắn phải cầm tay an ủi:
- Đừng ngại. Ta sẽ lại thăm nàng mà !
- Takezo ! Thật nhé, em đợi.
Musashi gật.
- Em trọ Ở thương điếm Hải Âu, trước thiền viện đường Quan Ngoại.
Musashi lại gật.
Dường như không được hài lòng về thái độ của hắn, Akemi nắm tay Musashi bóp chặt, giọng run run qua hai hàng lệ:
- Nhé ! Takezo ! Chàng nhớ đến nhé ! Nhớ đấy !
Kojiro cất tiếng cười vang, trở gót. Akemi vừa bước đi vừa ngoái lại.
Musashi tần ngần đứng một mình dưới chân cầu, nhìn theo hai người, lòng buồn vô hạn.
oo Len lỏi giữa dòng người đi lễ tết đầu năm, Jotaro tìm mãi không thấy Otsu. Trên cầu hẳn là không có rồi. Nó chắc như thế vì đã đi lên đi xuống mấy lượt. Chỉ còn góc phố đằng kia, chỗ ngã ba cầu tiếp giáp với đường lên đền thờ đức Quan Âm là chưa tới.
Nó đến nơi, đang đứng ngơ ngác nhìn lên đền thì nghe tiếng gọi khẽ:
- Jotaro !
Quay lại, thấy Otsu ngồi nấp sau chiếc xe bò chở cỏ. Jotaro vui mừng quá sức, chạy ngay lại ôm chầm lấy nàng, vội vàng thế nào suýt đâm phải chiếc càng xe.
Hôm nay Otsu bới tóc cao, có thoa phân và bôi sáp môi đỏ. Nàng trang điểm trau chuốt, nhưng không được tinh luyện lắm. Nàng lại mặc bộ kimono mới có thêu những bông mẫu đơn trắng trên nền lụa nõn màu hoa đào cho hợp với cảnh tươi đẹp mùa xuân và lòng nàng bấy giờ.
Otsu giơ tay đón Jotaro vào lòng. Nhưng nó kéo nàng đứng dậy, liến thoắng:
- Sao chị lại nấp ở đây. Chị theo em, sư phụ đằng kia kìa. Không ra ngay, sư phụ bỏ đi mất.
- Không ! Em vào đây với ta, ta không ra đâu !
Jotaro ngạc nhiên, mở to mắt nhìn Otsu:
- Sao vậy ?
- Đừng hỏi tại sao. Em ngồi đây với ta.
- Chà ! Sao chị kỳ quá vậy ? Chị nói bao nhiêu lần là muốn gặp sư phụ, bây giờ thầy em ngoài kia, chị lại trốn nấp ở đây. Chị mặc đẹp thế này để ngồi dưới gầm xe bò hả ?
Lời nói ngây thơ của thằng bé như roi quất những vết hằn đau đớn trong lòng Otsu. Nàng lắc đầu, mắt rưng rưng lệ:
- Jotaro ! Em đừng nói thế, đau lòng ta. Em mà cũng tàn ác với ta đến thế ư ?
Jotaro ôm lấy vai Otsu. Nó không dám để đầu gần tóc nàng sợ hư mái tóc chải công phu. Thấy vạt áo Otsu ướt, nó biết nàng đã khóc nhiều:
- Em xin lỗi, em không có ý ấy. Nhưng em không biết tại sao ...
Otsu lau nước mắt:
- Tìm hiểu làm gì, em !
- Thế chị có trông thấy sư phụ Ở dưới chân cầu không ?
Otsu gật đầu.
- Vậy em biết rồi nhé ! Chị ghen phải không ? Chị trông thấy thầy em ôm người con gái ấy chứ gì ?
Otsu thấm nước mắt, lắc đầu.
- Chị không biết gì hết, chỉ biết khóc thôi. Mình nghi ngờ thì phải đến hỏi cho ra lẽ chứ ! Đi ! Đi với em mau lên, không sư phụ em không còn ở đó nữa.
Jotaro cầm tay Otsu kéo ra khỏi chỗ nấp. Nàng giằng lại. Thằng bé phân vân một lúc rồi rảo bước lên cầu đứng trông xuống, không thấy thiếu nữ kia đâu. Bỗng nó reo lên như chợt nhớ ra điều gì, chạy ngược lại chỗ Otsu:
- Akemi ! Phải rồi ! Đi mau chị, Akemi không còn ở đấy nữa !
- Akemi là ai ?
- Là cô gái đứng nói chuyện với sư phụ đó. Em nhớ ra rồi. Một lần em gặp cô ấy giặt áo ở ven sông, có nhờ cô ấy chuyển lời nhắn ông Matahachi mà. Đúng rồi ! Đúng rồi !
Otsu lính quýnh theo Jotaro. Khi nhìn rõ không còn Akemi ở đó nữa, nàng mới yên dạ. Nhưng nàng cũng trở lại chỗ cũ sửa lại mái tóc và nếp áo xô lệch, thoa thêm chút phấn lên mặt.
- Trời ơi ! Chị ! Giờ này mà chị còn làm dáng thì trễ mất !
Jotaro vừa kêu vừa dậm chân xuống đất bành bạch.
Quả nhiên, Musashi đã không còn ở dưới chân cầu. Biết chắc Matahachi không tới, hắn vội vàng men theo bờ sông, đến chỗ buộc thuyền giữ cụ Osugi.
Bà già thấy hắn đến, đưa mắt nhìn lo sợ. Musashi rút đoản kiếm, nhưng hắn chỉ nói:
- Matahachi không đến.
- Bây giờ mày giết ta phải không ?
- Không. Con cởi trói cho bà để bà đi tìm Matahachi hỏi cho ra lẽ, dẫn hắn về nhà. Con nghĩ như thế hơn là bà tìm cách cắt cổ con.
Musashi vừa nói vừa cười. Hắn đưa mũi kiếm cắt dây trói. cụ Osugi lúng túng ngồi dậy:
- Ta biết phải làm gì. Ta không cần mày khuyên !
Thời gian bà cởi được hết dây trói thì Musashi đã đến chỗ khúc sông hẹp, nhảy qua các ghềnh đá sang bờ bên kia, lẩn vào những bụi lau sậy mất dạng.
Trên lũng cao, Jotaro thoáng thấy bóng thầy. Nó kêu lớn:
- Chị ! Chị ! Ở dưới lũng, sư phụ Ở dưới lũng gần bờ sông !
Jotaro ba chân bốn cẳng đổ dốc. Nó còn nhỏ, nhanh như con sóc. Nhưng Otsu vướng áo, chỉ bước được những bước ngắn. Đến gần bờ sông nàng ngừng lại, lên tiếng gọi.
Trên mặt sông rộng, tiếng nàng bay bổng vang xa. Cơn gió thoảng đưa đôi lúc dội lại nghẹn ngào tha thiết như tiếng hò trong đêm vắng.
- Otsu !
Âm thanh nhọn hoắt, the thé bỗng làm nàng giật mình. Ngoảnh lại, cụ Osugi đã đứng chỉ cách chỗ nàng chừng vài chục bước. Otsu kinh hãi vô cùng. Trong lúc thảng thốt, toàn thân như bị tê liệt, nàng đứng sững. Khi hoàn hồn, cụ Osugi đã tiến tới gần ? Bấy giờ Otsu mới kịp phản ứng. Tim nàng đập mạnh, máu dồn lên mặt, Otsu quay phắt đầu, cắm cổ bỏ chạy.
Cụ Osugi nhìn theo, gọi:
- Otsu ! Đứng lại ! Ta muốn nói câu chuyện !
Trong bộ Óc đa nghi của bà, dần dần hiện ra một ý nghĩ. Bà đã hiểu tại sao Musashi lại trói bà bỏ lên thuyền. À thì ra hai đứa nó có hẹn với nhau, nó trói mình lại để tự do gặp nhau. Chắc con này đã làm gì phật lòng thằng kia nên nó bỏ đi. Ta biết mà, chúng nó lừa ta thế nào được. Con Otsu này thật bất trị !
Trong thâm tâm, cụ Osugi còn ghét Otsu hơn Musashi. Nó đáng lẽ là con dâu bà mà thành ra vì nó mà gia đình bà mất cả thanh danh. Bà cất giọng giận dữ:
- Otsu !
Tiếng kêu chưa dứt, bà đã bị một cái đạp vào bắp chân suýt ngã. Jotaro đứng đằng sau, hai tay chống nạnh:
- Bà là ai, làm gì mà lại đuổi cô Otsu ?
- A ! Thằng ranh con, mày ở đâu tới ?
Otsu chạy được một quãng, không thấy chân người đuổi theo, bèn dừng lại thở.
Nhìn về phía sau, xa xa, thấy Jotaro và cụ Osugi đứng đối diện nhau tự a hai con gà chọi, nàng hơi lo. Otsu chẳng lạ gì tính bà lão, già nhưng còn hung hăng lắm mà Jotaro thì nàng thừa biết, nó loắt choắt nhưng nhanh nhẹn vô cùng. Nếu cả hai cùng xông vào quần thảo nhau, tất Jotaro rút cây kiếm gỗ ra. cụ Osugi cũng đến phải dùng thanh gươm gia bảo. Dám một hay có khi cả hai bị thương hoặc vong mạng cũng chưa biết chừng.
- Ranh con, mày đi cùng với con Otsu phải không ?
- Phải ! Bà là ai ?
- Ta là mẹ nó !
Jotaro giật mình. Bà già này là mẹ Otsu à ? Sao không bao giờ thấy Otsu nói đến. Nhưng nghe xưng danh, Jotaro cũng khựng lại, không dám hỗn.
- Thế sao bà lại đuổi cô Otsu cháu ?
Thấy thái độ thằng bé đổi khác, bản tính quỷ quyệt của cụ Osugi nổi dậy. “Phải dùng mưu mới được”, bà tự nhủ. “Đối với thằng Takezo có lẽ nó chẳng tin ta đâu, nhưng con Otsu và thằng nhỏ này, chắc lừa không khó. Mình cứ vui vẻ tử tế dụ chúng vào tròng, sau làm thịt mấy chốc !”. Nghĩ đoạn, bà làm bộ tươi cười:
- Ờ ! Tại ta bảo nó không nghe. Nhưng mẹ nào chả thương con, ta muốn gọi nó về, để nó lang bạt tội nghiệp.
- ...
- Thế còn cháu ! Sao cháu biết Otsu ? Cháu con cái nhà ai ?
Jotaro thấy bà lão vui vẻ, lại ngồi xuống bên gốc cây nói năng hòa nhã, cũng nhẹ nhàng đáp lại:
- Tên cháu là Jotaro. Cháu không có nhà, gặp cô Otsu cùng đi tìm sư phụ.
- Ồ ! Vậy ư ? Cháu ngoan quá. Cháu lên mấy rồi ?
- Thưa mười hai.
- Ta muốn nhờ cháu một việc, cháu làm giúp ta được không ?
Jotaro phân vân. cụ Osugi kéo tay áo chấm nước mắt rồi nói giọng buồn bã:
- Otsu là con dâu ta đấy. Từ ngày nó bỏ đi, ta thương nhớ lắm, mấy lần bảo nó về mà nó chẳng nghe.
Cụ Osugi sụt sịt:
- Ta nhờ cháu đến bảo Otsu lại đây ta nói chuyện !
Jotaro mủi lòng. Bà này chắc nói thật. Nếu cô Otsu không muốn về thì trở lại nói chuyện với bà lão một lúc cũng chẳng hề gì. Bèn nói:
- Thật hả bà. Thế để cháu đi gọi !
Cụ Osugi vui vẻ gật đầu, nhìn Jotaro chạy đi, cười thầm trong bụng.
Lát sau, Jotaro dắt Otsu trở lại. Tuy còn nghi hoặc, nhưng nghe lời Jotaro, Otsu thấy đây cũng là dịp tốt để nói cho cụ Osugi biết hết mọi sự, hầu đánh tan những hiểu lầm từ trước.
Bà già cười hí hí:
- Otsu đấy à ? Sao gặp ta con lại chạy ?
Otsu phủ phục xuống đất:
- Bà tha lỗi cho con.
Cụ Osugi đưa tay đỡ Otsu dậy, bảo nàng ngồi cạnh:
- Con dâu ta có lỗi gì đâu ! Lỗi ở thằng Matahachi cả. Trước ta giận con lắm, nhưng nay ta biết, ta thương con. Dễ đã đến năm năm rồi đấy nhỉ, từ bấy đến nay, bao nhiêu nước chảy qua cầu ...
- Nếu bà biết như thế thì may cho con lắm.
Cụ Osugi giơ tay lên má, đập mạnh:
- Chà ! Cái con muỗi quỷ này. Mới nắng lên đã thấy muỗi ! Ở, nhưng mà này Otsu ạ ! Ta là mẹ thằng Matahachi, có tha lỗi cho con thì cũng phải dàn xếp để đẹp lòng nó chứ. Mặc dầu nó bỏ con đi với người khác nhưng nay đã biết hối trở vể. Ta muốn con về nhà, rồi cả hai vợ chồng con ngồi trước mặt ta để ta khuyên bảo. Như thế ta mới yên lòng làm mẹ.
Otsu muốn nói một lời phản đối, nhưng nghĩ có lẽ chưa phải lúc. Nàng chỉ ấp úng:
- Dạ, con hiểu.
Cụ Osugi cũng đoán biết ý nghĩ thầm kín của Otsu. Đã khôn lại ngoan, bà chặn ngay:
- Nếu con không muốn chung sống với nó nữa thì ta tưởng đây cũng là dịp tốt, trước mặt ta, nói thẳng cho nó biết. Như thế thì dứt khoát và ta nghĩ, vậy có lẽ lợi cho tương lai của con hơn.
Otsu thấy bà lão nói phải. Nhưng chưa vững tin, nàng hỏi vặn:
- Thưa bà, nếu con bằng lòng thì biết tìm Matahachi ở đâu ?
Cụ Osugi cười:
- Dễ quá mà. Ta lạ gì chỗ nó ở. Nếu con bằng lòng, ta chỉ cho người đến gọi vài ngay là nó trở về ngay. Nó là con ta, ta bắt nó làm gì nó chả phải làm ?
Một con cáy càng đỏ tía từ trong cái hốc nhỏ ở bờ sông bò ra. Jotaro rình chộp ngay được. Nó cầm con cáy rón rén bước đến đằng sau cụ Osugi bỏ nhẹ lên khăn đội đầu.
Otsu muốn chắc có kết quả, đề nghị:
- Con xin tiếp tay bà, đi tìm Matahachi.
Cụ Osugi nắm ngay lấy cơ hội:
- Vậy còn gì bằng. Thế con đến trọ cùng với ta. Năm nào đến Kyoto ta cũng ở trọ tại một quán nhỏ trên đồi Sĩ Miên. Ở đó tĩnh, lễ Phật không ai làm rộn mà lại rẻ tiền, con ạ !
Cụ Osugi thấy nhột sau lưng giữa hai lần áo. Ngoái tay ra sau, bà vớ được con cáy giơ lên.
- Con quỷ này, sao lại bò vào áo ta được kìa !
Jotaro đứng sau gốc liễu, bưng miệng cố nín cười. Otsu cúi mặt vờ như không thấy nhưng cũng mỉm cười. Thằng bé tinh nghịch quá !
Cả ba người, Jotaro, Otsu và cụ Osugi, rời bờ sông theo đường mòn ra đại lộ.
Otsu bảo cụ Osugi đi trước. Nàng muốn lui lại phía sau nói với Jotaro vài lời để nó biết chuyện và trấn an nó:
- Em cứ trở về chờ ta ở khuôn viên lâu đài tướng công Mitsuhiro. Nếu ngài có hỏi thì bảo một hai hôm ta sẽ trở lại. Ta phải đi dàn xếp việc riêng nhé !
- Dạ ! Chị đừng ngại. Em sẽ chờ cho đến khi nào chị về.
- Nếu em rỗi, thử dò xet tin tức Musashi hộ cho ta.
- Thế lúc sáng sao thấy sư phụ, chị lại trốn.
Otsu thở dài:
- Ta dại quá !
Đến đầu cầu trời đã gần trưa. Người đi lại trên cầu vẫn tấp nập. Một đám đông lố nhố đứng vây quanh tấm bảng gỗ dựng ở dưới chân cầu, bàn tán:
- Miyamoto Musashi, tôn huynh có biết là ai không ?
- Có, tại hạ có nghe nói. Chắc tay này cũng phải là một tay cao thủ mới dám đơn thương độc mã chống với phái Yoshioka chứ.
Jotaro cũng chen vào đọc bảng cáo yết. Tin Miyamoto Musashi - một Ronin - đương đầu với phái Yoshioka được truyền đi nhanh như mồi thuốc súng !

Acmagiro
29-02-2008, 05:09 PM
CHƯƠNG 34
ĐỒNG CỎ ÚA






Rendaiji là một đồng cỏ, trước kia dành cho hoàng cung dùng làm mục trường nuôi gia súc. Đồng rộng bao la nhưng không bằng phẳng, đồi nọ tiếp đồi kia trải dài đến tận chân núi. Đây đó vài khu rừng phong thưa, lẫn với nhiều gốc tùng cổ thụ điểm những nét xanh đen trên nền cỏ úa. Đường mòn ngang dọc khắp nơi, ngoằn ngoèo ẩn hiện giữa những hàng lau già xơ xác mà hoa lau muộn từ cuối thu năm ngoái vẫn còn bạc phau, nghiêng ngả.
Vào thế kỷ trước, đồng này có một cái giếng lớn lộ thiên, nước luôn luôn trong và ngọt nên mới có tên là đồng Rendaiji (guếng lớn). Giếng sau bị cạn không hiểu vì lẽ gì, cỏ cũng kém xanh dần, thành ra đồng bị bỏ phế. Hoàng cung sai người mang gia súc đi chăn nơi khác, từ đấy đồng Rendaiji trở thành hoang địa.
Đồ đệ Yoshioka khoảng chừng hai chục người tụ tập dưới chân đồi từ sáng sớm, gần sơn đạo đi Nara. Sau vài ngày nắng dịu đầu năm, tiết trời bỗng trở lại lạnh. Gió đông bắc thổi nhiều, chúng ngồi sát vào nhau quây quần bên đống lửa, mặt ai nấy đăm chiêu tư lự. Về phía nam cổ thành, đỉnh núi Vân Sơn, tuyết phủ trắng phau, lấp lánh giữa những cành phong trơ trụi. Thỉnh thoảng một tiếng chim sớm lảnh lót vang lên nhưng rồi tắt phụt, thê lương như cánh đồng hoang phế.
Chúng ngồi như vậy dường đã lâu lắm, chẳng ai nói với ai câu gì. Bỗng Ueda lên tiếng phá tan bầu không khí yên lặng:
- Mấy giờ rồi ?
Bọn đàn em cùng ngửng lên nhìn trời, đồng thanh đáp:
- Dễ đến cuối giờ thìn.
- Sương tan gần hết rồi. Sao không thấy tiểu chủ đâu nhỉ ?
- Tiểu chủ bảo cứ ngồi đây chờ. Chắc cũng sắp tới !
Một người nóng ruột, chạy ra phía sơn đạo, nhìn xuống dưới dốc. Đường đất đỏ vắng tanh, gió thổi rạp đầu những ngọn bông lau hiu quạnh. Bóng một con sóc đen vụt qua, lẩn vào bụi cây, êm và nhẹ như chiếc lá rụng. Ueda bồn chồn. Hắn sửa lại y phục, xắn cao tay áo, buộc cổ tay bằng hai sợi dây da cho gọn rồi nói:
- Ta nóng ruột quá ! Giờ hẹn qua đã lâu ...
- Huynh trưởng có nghĩ là tiểu chủ ở phía gần giếng không ? Mình hẹn gặp nhau ở khu Rendaiji mà !
- Có thể lắm. Đứa nào chạy ra đó coi xem sao !
Nhưng chẳng ai động tĩnh, vì chẳng ai muốn một mình làm chuyện nguy hiểm ấy mà Ueda xem ra cũng không có chủ ý gì nhất định. Cả bọn vẫn ngồi lẳng lặng nhìn ngọn lửa lụi dần, khói đen cuồn cuộn bốc cao rồi tản theo chiều gió. Một đứa nói bâng quơ:
- Không biết tiểu chủ bảo đợi ở đây hay bên ấy ?
- Ở đây ! Chắc chắn ở đây !
Xác nhận xong, Ueda đưa mắt nhìn thuộc hạ:
- Thằng Musashi đó bây giờ ở chỗ nào thì mình không biết, nhưng tiểu chủ bảo mình đợi ở đây thì cứ đợi ở đây. Chúng ta không thể phân tán ra nhiều nơi được, nguy hiểm lắm. Vả cũng không nên đi tìm, giang hồ sẽ bảo mình ỷ chúng hiếp cô, còn gì là danh dự của bản phái ?
Ngồi yên một lúc, hắn lại tiếp:
- Mà thằng đó là cái gì mà mình phải quan tâm ? Chẳng qua chỉ là một tên nhà quê có chút sức mạnh. Dù nó có học mót được vài đường kiếm thì cũng khó mà địch được tiểu chủ ...
Tuy một số trong bụng không đồng ý vì đã chứng kiến trận đấu kiếm năm trước giữa Miyamoto Musashi và môn đệ bản phái tại võ trường Yoshioka, nhưng lời nói của Ueda tựa như liều thuốc an thần, nếu không làm phấn khởi bọn đàn em thì nhất thời cũng giữ vững được tinh thần của chúng.
Vẻ mặt đa số bây giờ trông tươi hơn. Chúng bàn tán xôn xao:
- Ueda lão huynh nói phải lắm ...
- Phải rồi ! Chúng ta nên nhớ trong cuộc tỷ võ này, tiểu chủ sẽ cho thằng ấy một bài học để nó câm cái mõm chó má của nó lại, đừng huênh hoang khoác lác nữa.
- Lần này võ lâm thế nào cũng có người theo dõi. Ta phải cẩn thận lắm mới được.
Nếu không trực tiếp trợ giúp tiểu chủ ta cũng nên đi theo để cổ võ ...
- Tiểu chủ đã căn dặn đợi ở đây. Dù sao cũng cứ chờ lệnh đã.
Mặt trời lên cao. Giờ thìn qua từ lâu, sang đến giờ tỵ, rồi cuối tỵ mà Seijuro vẫn chưa đến. Miyamoto Musashi cũng chẳng thấy tăm hơi đâu. Vẻ lo lắng hiện trên nét mặt của cả bọn.
Dọc theo sơn đạo đi Nara, ở ven suối cũng như trong các lùm cây rải rác đã thấy lỗ nhố bóng người. Đấy là những kẻ hiếu kỳ nghe nói có cuộc tỷ võ thì đến coi cho biết.
Tiếng bàn tán theo gió thoảng đưa đến tai bọn đồ chúng Yoshioka:
- Miyamoto Musashi đâu ?
- Không biết ! Cả Seijuro hình như cũng không có mặt.
- Lạ nhỉ ! Thế đám ngồi kia là những ai ?
- Nếu không phải là phe bên này thì cánh bên kia. Đến để ủng hộ chứ gì ?
- Lạ ! Tỷ kiếm gì mà đối thủ chả thấy đâu, chỉ thấy có người cổ võ.
Ueda và thuộc hạ nghe những lời bàn tán tiếng còn tiếng mất không rõ ràng nhưng cũng đoán được ý chính. Hắn bực lắm, định bảo một tên đàn em ra đuổi bọn đó đi nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Dù sao, những điều họ nói ra đều là sự thật. Vả chăng, họ cũng khôn ngoan đứng ở phía xa, nấp sau bụi cây nói lén, mình đến dọa nạt chỉ tổ mua cười cho thiên hạ. Đám người hiếu kỳ mỗi lúc một đông thêm, thấp thoáng có cả bóng phụ nữ.
Jotaro cũng là một trong số những kẻ hiếu kỳ đó. Nó đội nón nan rộng vành, chữ “giường cho thuê” viết trên đó nay đã nhạt màu, trông lờ mờ không rõ nét. Chân nó đi đôi hài xảo cũ, lưng đeo kiếm gỗ, dài như cái đòn gánh, bên hông lủng lẳng túi hành trang vải thô lớn trông thật tức cười, nhưng ra phết giang hồ lãng sĩ lắm. Jotaro len lỏi đi từ toán người này đến toán người khác, chú ý nhìn khắp mặt phụ nữ.
“Quái nhỉ, chị Otsu đâu sao không thấy ? Cô cũng đã đọc bảng cáo yết rồi mà !
Hay là bà cụ già lại không cho đi !”.
Hôm nay Jotaro ra đây, hy vọng thế nào cũng tìm được sư phụ. Nó không sợ sư phụ nó gặp nguy hiểm vì nó đã mấy lần chứng kiến tài năng của ông, khi ở cánh đồng Hannya cũng như khi giao đấu với ba cao thủ nhà Yagyu. Nó tin tưởng vào sức mạnh cũng như những chiêu kiếm thần tốc của thầy nó, những chiêu kiếm mà Jotaro ước mong một ngày nào rảnh rỗi, thầy nó sẽ truyền thụ lại cho nó. Điều làm Jotaro lo lắng nhất là sự không có mặt của Otsu. Nó không biết nàng đang gặp những trở ngại gì.
Trong trí tưởng tượng ngây thơ và phong phú của nó, Jotaro hình dung ra Otsu bị yếu đau không ai săn sóc. Bà già kia tuy nói là mẹ nhưng không làm nó yên tâm. Không hiểu sao Jotaro linh cảm bà tìm cách lừa dối và ly gián cô cháu nó. Thâm tâm, Jotaro coi bà già kia nhưng một con mẹ phù thủy nham hiểm hiện ra để bắt cô Otsu đi, như trong các chuyện thần tiên nó đã thường được nghe kể, những bà lão mũi khoằm răng vổ bắt các thiếu nữ xinh đẹp đem đi giết chết. Nghĩ đến Otsu bị giết chết, Jotaro sợ hãi quá chừng. Nó kêu lên một tiếng nhỏ rồi tự trấn an:
“Chắc không có chuyện ấy đâu !”.
Nhưng rồi nó vẫn lầm bầm nguyền rủa bà già độc ác.
Mãi suy nghĩ không để ý, Jotaro đâm sầm vào một thanh niên cao lớn. Nó giật mình, lí nhí một lời xin lỗi. Thanh niên kia nhìn nó từ đầu đến chân, nói:
- Hà ! Bé con ! Mấy hôm nay sao ta không thấy mày ở đầu cầu đường Gojo ?
Jotaro ngạc nhiên, trố mắt:
- Tráng sĩ là ai, sao gặp cháu ở đó ?
Nhưng nói xong, nó đã sực nhớ ra ngay người vừa gọi nó:
- À, phải rồi. Tại hôm nay tráng sĩ không mặc áo đỏ nên cháu không nhận ra !
Thanh niên mỉm cười:
- Ờ ! Hôm đó ta gặp mày đi với một thiếu nữ kia mà. Thiếu nữ đâu rồi ?
- Đấy là cô Otsu.
- Thiếu nữ đó tên Otsu à ?
- Dạ phải.
- Có bà con gì với Miyamoto Musashi không ?
Nghe hỏi, Jotaro bực mình, đáp lơ lửng:
- Dạ, dạ ...
- Dạ dạ cái gì ? Nàng là em họ Miyamoto Musashi phải không ?
- Dạ không.
- Em gái ?
- Cũng không phải.
- Vậy bà con ra sao ?
- Cô Otsu yêu Miyamoto Musashi.
- Vậy là ý trung nhân hả ?
- Cháu không biết. Musashi tiên sinh là sư phụ cháu.
Lần đầu tiên Jotaro gọi Miyamoto Musashi bằng tiên sinh vì cô Otsu đã dạy nó phải trọng thầy. Nó vênh mặt nhìn gã thanh niên. Gã nhìn lại nó, quắc mắt:
- Thảo nào mày ra đây. Sư phụ mày đâu, sao không thấy. Mọi người đang chờ.
Jotaro tức giận thật sự:
- Sao tráng sĩ hỏi vậy ? Cháu không biết, cháu không cùng đi với sư phụ.
Chợt một bọn ba người chạy đến, dẫn đầu là Ueda. Nhìn gã thanh niên, hắn reo lên:
- Kojiro ! Chà ! Bữa nay mới thấy đại hiệp đấy !
- Ueda huynh ! Tại hạ cũng vừa tới.
Ueda mừng rỡ dắt tay thanh niên đến bên đống lửa. Đồ đệ Yoshioka đứng cả dậy thi lễ.
Thấy mọi người vây chung quanh một trang thanh niên dáng cao lớn, đeo trường kiếm, khách bàng quan truyền miệng nhau ra vẻ hiểu biết:
- Chắc là Miyamoto Musashi. Trông người khí phách đấy chứ !
- Chắc không ?
- Thì còn ai vào đấy nữa ?
- Ờ, dáng dấp hiên ngang thế kia. Phải cái y phục hơi diêm dúa !
- Không ! Không phải Miyamoto Musashi đâu. Jotaro vội cải chính. Miyamoto Musashi gì mà ăn mặc như kép tuồng vậy.
Mọi người cười ồ, chưa rõ thằng bé này là con cái nhà ai thì Jotaro đã phưỡn ngực đáp:
- Ta là học trò của Musashi tiên sinh !
Đám đông xúm lại hỏi han, Jotaro hãnh diện tả hình dáng sư phụ, nhưng đến khi bị hỏi sư phụ đâu, sao không đến, nó lúng túng chẳng biết trả lời làm sao. Mọi người bán tín bán nghi, nghểnh cổ nhìn. Có kẻ kiên nhẫn chờ, có kẻ chán nản bỏ về không quan tâm đến vụ tỷ thí nữa.
Kojiro đến ngồi bên Ueda. Từ sau ngày nguyên đán, hắn không còn lui tới võ đường Yoshioka, mà Seijuro thì buồn bực có ý giận ông khách kém nhã nhặn và vô tâm nên cũng chẳng sai người đi tìm. Phần Kojiro, hắn chẳng chú ý đến cuộc tranh chấp nữa, vì kể từ khi gặp Miyamoto Musashi dưới chân cầu đường Gojo, đối phó với tia mắt đầy hung quang và quyết liệt của gã, Kojiro đã biết kết quả ra sao rồi. Nhìn bọn đồ đệ Yoshioka, kể cả những tay trụ cột trong phái như Ueda chẳng hạn, ngồi ỳ ra bên đống lửa chờ lệnh, Kojiro đem lòng thương hại. Hắn đã định chẳng nói ra nhưng không dằn được bất nhẫn:
- Miyamoto Musashi không đến, thật là phúc cho Yoshioka lắm. Các vị còn ngồi đây làm gì. Sao chẳng chia nhau ra đi đón tiểu chủ các vị dẫn về võ đường thôi, kẻo mà mất mạng sớm !
Mọi người ồ lên một tiếng. Có người giận quá định cất tiếng thóa mạ thì Kojiro đã chặn ngang:
- Tại hạ nói như vậy cũng chỉ có ý mưu cầu an lạc cho chưởng môn quý phái chứ chẳng có hậu ý gì khác. Trong cuộc giao đấu này, Seijuro không thủ thắng được. Nếu y không bị Miyamoto Musashi giết thì cũng mang thương tật suốt đời.
Ueda đứng phắt dậy, tay để vào đốc kiếm, trừng mắt hét lớn:
- Thằng con nít này, sao dám buông những lời ngông cuồng quá sức, không coi ai ra gì cả ?
Kojiro cười khẩy:
- Tại hạ biết những lời nói thẳng của tại hạ sẽ làm quý vị mếch lòng. Trung ngôn nghịch nhĩ. Nếu quả thật các vị không ưa, tại hạ xin rút lại lời nói ấy vậy ! Có điều, tại hạ cũng xin kiếu, không thể tiếp tay các vị được !
- Ai nhờ ngươi tiếp tay ?
- Thì Yoshioka Seijuro và cả các vị nữa. Các vị đã mặc nhiên có thái độ ấy !
- Láo !
- Vậy nếu không thì tại sao các vị lại đãi ngộ tại hạ như đã làm trong mấy tuần nay?
- Đó chỉ là vì lòng hiếu khách. Chúng ta muốn xử tốt với ngươi. Thế thôi !
- Ha ha ! Nếu chỉ có thế thì tại hạ cám ơn ! Nhưng này, tại hạ cảnh cáo:
nếu các vị bỏ ngoài tai lời tiên đoán của tại hạ, các vị sẽ hối không kịp. Miyamoto Musashi không phải con người tầm thường. Y rất nguy hiểm. Nguy hiểm không những cho chưởng môn các vị mà còn cho cả phái Yoshioka nữa. Tại hạ đã có dịp nhìn đôi mắt y, quyết liệt vô cùng mà cũng tàn nhẫn vô cùng ...
- Thôi ! Đủ rồi ! Giờ này không phải lúc để ngươi nói những lời làm nhụt nhuệ khí bọn ta !
Nhưng Kojiro làm như không nghe tiếng. Hay hắn chẳng coi những lời ấy vào đâu. Hắn tiếp, còn cay độc hơn nữa:
- Những kẻ trong cảnh suy tàn thường không chịu nhận lời nói thẳng.
Và chế giễu:
- Tấm cáo thị các vị cho cắm dưới chân cầu là bảng cáo phó của phái Yoshioka !
Thật đáng buồn tại hạ phải chứng kiến cảnh trụy lạc của một môn phái vẫn được coi là có nhiều hảo thủ.
Ueda nhổ bọt vào Kojiro và soạt một tiếng, đã rút kiếm ra khỏi vỏ.
Đồ chúng Yoshioka cũng nhất tề đứng dậy, đao kiếm cầm tay, mặt đằng đằng sát khí.
Nhưng như cắt, Kojiro phóng cước đá đống lửa bắn tung, xoay mình một vòng. Người ta chỉ thấy tấm thanh bào của hắn rung động, lưỡi kiếm dài như cây sào phơi đã lăm lăm trong tay, sáng lấp lánh và lưng hắn đã dựa vào gốc cổ thụ gần đó.
Kojiro cười gằn. Hiển nhiên nếu bọn Yoshioka cùng xông lại công kích thì hắn đã sẵn sàng.
Nhìn cục diện đột nhiên biến chuyển, người tinh ý biết ngay gã thanh niên tuy trẻ người mà mánh lới thâm độc. Hắn đã dùng những lời khiêu khích để, trước mặt bọn đồ đệ Yoshioka và bao nhiêu khách bàng quan gần đó, có cơ hội chứng tỏ tài năng. Nếu cần, hắn sẽ ra tay tàn sát hầu làm lu mờ và áp đảo cả phái Yoshioka lẫn Miyamoto Musashi.
Thật là một hành động cao ngạo và liều lĩnh, nhưng là một sự liều lĩnh có tính toán.
Kojiro chậm rãi đưa tay kiếm lên ngang mặt, mũi kiếm trỏ thẳng về đằng trước.
Giữa lúc ấy, tiếng một thiếu nữ vang lên lanh lảnh từ phía sơn đạo:
- Kojiro !
Mặt gã thanh niên vẫn lạnh như tiền. Gã chăm chú nhìn bọn Yoshioka, không bỏ sót một cử chỉ. Ueda đứng trước mặt hắn, hai tay nắm chuôi kiếm, lưỡi kiếm chênh chếch chúc xuống, mũi kiếm chĩa vào hông địch thủ. Thế kiếm thật vững vàng, thủ không sơ hở mà lúc công chỉ cần xoay nhẹ cườm tay, mũi kiếm đã sát bên sườn, làm địch thủ lúng túng.
Tiếc thay, thế kiếm không thi triển được, vì đột nhiên hàng ngũ Yoshioka rối loạn.
Một môn sinh vừa chạy tới vừa kêu thảng thốt:
- Các vị hãy dừng tay ! Ueda lão huynh ! Mau đi cứu tiểu chủ. Nguy lắm.
Mọi người quay cả lại. Môn sinh này tên Miike Jurozaemon, là võ sinh mới nhập môn được Seijuro cho theo hầu để sai vặt. Miike Jurozaemon vừa chạy đến trước mặt Ueda đã phục xuống. Gã thở hổn hển:
- Ueda lão huynh ! Tiểu chủ nguy rồi !
- Làm sao ? Chuyện gì ? Tiểu chủ bây giờ ở đâu ?
Đứng trước cảnh bối rối của nội bộ Yoshioka, Kojiro không nói và cũng không có hành động gì. Hắn thong thả tra kiếm vào vỏ rồi lui ra xa chừng và i trượng đến gặp thiếu nữ vừa gọi tên hắn:
- Akemi ! Nàng đến đây làm gì ?
Thiếu nữ chẳng những không đáp còn hỏi ngược lại:
- Miyamoto Musashi đâu ?
Kojiro trừng mắt:
- Akemi, ta đã bảo nàng không được đến đây, sao còn đến ?
- Ngươi là gì của ta mà có quyền cấm ?
- Câm mồm ! Về ngay nhà trọ đường Quan Ngoại chờ ta ở đấy !
- Không về ! Ta muốn gặp Miyamoto Musashi, ngươi đừng tìm cách ngăn cản, vô ích!
Kojiro khó chịu. Càng bảo, Akemi càng bướng mà người hiếu kỳ, thấy to tiếng xúm lại mỗi lúc một đông. Hắn đấu dịu:
- Thôi được. Tùy nàng muốn làm gì thì làm. Để ta đến nghe tin tức Seijuro xem sao.
Đồ chúng Yoshioka với Ueda quây xung quanh Miike Jurozaemon mới nghe được vài câu đã mặt cắt không còn hột máu, rầm rập kéo nhau chạy về hướng bắc như đàn mãnh thú trốn lửa cháy rừng. Kojiro cũng đi theo. Hắn đoán sơ sơ chắc Seijuro trúng thương nặng, nhưng không hiểu Miyamoto Musashi thế nào. Dù sao, Seijuro cũng là chưởng môn nhân một phái, tất phải thi triển một vài chiêu kiếm. Hai cọp đánh nhau, cọp này thương tích nặng thì cọp kia cũng chẳng vẹn toàn. Cứ đến xem sao, tùy cơ ứng biến, nếu diệt được cả hai thì càng tốt. Nghĩ đến đây, Kojiro khoan khoái, cười thầm trong bụng.
Ueda và bọn thuộc hạ chạy chừng một quãng khá xa đến ven bờ giếng cạn.
Cỏ cháy vàng loang lổ bao quanh, loạn thạch đủ cỡ đủ màu, ngổn ngang xếp thành vô số hình cổ quái. Tới chân một đồng đất nổi lên như cái gò, cỏ gianh cao tới vai, Miike Jurozaemon vạch cỏ cúi xuống gọi:
- Tiểu chủ !
Đồ đệ Yoshioka kẻ trước người sau cũng vừa tới. Nhìn Seijuro nằm dài thiêm thiếp, mặt gục trên đám cỏ khô, chúng vừa kinh ngạc vừa đau lòng. Seijuro mặc kimono hoa xanh, tay áo xắn cao buộc bằng hai sợi dây da màu nâu thẫm, đầu quấn giải lụa trắng viết hai chữ “Yoshioka”. Hắn như bất tỉnh, không còn cử động gì, hơi thở thoi thóp. Trên đầu cũng như ngực áo không có vết máu, nhưng sắc mặt Seijuro trắng bệch, môi tái nhợt mang vẻ đau đớn vô hạn.
- Còn thở mà !
Một người để tay lên mũi Seijuro, hơi thở nhẹ như tơ, không đủ làm rung động sợi chỉ mảnh.
- Còn, nhưng yếu lắm.
- Đỡ tiểu chủ ngồi dậy !
Miike Jurozaemon quỳ xuống cùng với một tên đồ đệ nhấc tay Seijuro lên định quàng vào vai mình thì Seijuro choàng mở mắt. Mắt hắn lạc thần, da mặt co rúm lại, mồ hôi ra lấm tấm trên trán.
- Ôi chao, đau !
Hắn chừng muốn kêu to, nhưng người ngoài nghe tiếng hắn như tiếng dế. Đôi con ngươi lờ đờ nhìn phía trước. Hai giọt nước mắt hiện ra lăn dài trên má. Seijuro rướn người lên, đầu ngoẹo sang bên rồi im lặng, bất động. Hắn đã hôn mê mất rồi !
- Phải kiếm cái gì làm cáng khiêng tiểu chủ về. Ngươi chạy đi mời y sư ngay, nói tiểu chủ bị nội thương nguy kịch lắm.
Ueda vừa ra lệnh vừa cởi áo đắp lên mình người chưởng môn thất thế. Đồ chúng hối hả chạy đi chặt cành cây, Ueda cạy miệng Seijuro bỏ vào mấy viên chỉ thống đơn rồi quỳ bên cạnh nghe động tĩnh.
Một lúc sau, sắc mặt Seijuro đã bớt nhợt nhạt, bắp thịt bên mép giật liên hồi.
Ueda thở dài như vừa trút được gánh lặng:
- Tiểu chủ ! Tiểu chủ có nhận ra đệ không ?
Seijuro từ từ mở mắt. Hắn khẽ chớp hai hàng mi như nhận biết người vừa gọi rồi nhắm mắt lại.
Cáng được mang đến, làm bằng hai cành phong xỏ vào tay chiếc kimono bằng vải dày của một tên đệ tử. Mọi người xúm lại nhấc Seijuro để lên cáng, cánh tay phải hắn lủng lẳng tựa một vật thừa sắp rời khỏi thân thể. Seijuro cau mặt nghiến răng không kêu la nhưng ai cũng thấy rõ hắn đang cố vật lộn với sự đau đớn. Mồ hôi ở chân tóc và trên mép chảy rỏ giọt, Ueda phải dùng khăn thấm bớt. Nhiều người quay mặt đi không dám nhìn cảnh ấy, vì nó thương tâm quá và sợ xúc phạm đến vị tiểu chủ họ hằng kính trọng.
Bốn người khiêng chiếc cáng bước đi, theo sau là đồ chúng Yoshioka lặng lẽ và buồn thảm như một đám tang.
Nhờ mấy viên thuốc, Seijuro đã tỉnh đôi chút. Hắn rên khe khẽ:
- Đau quá ! Trời ơi đau quá ! Đứa nào chặt tay này đi cho ta ! Đau quá.
Phu cáng đi nhanh hơn. Đường đất đỏ gập ghềnh. Seijuro càng nhăn mặt:
- Chặt tay này đi ! Trời ơi ! Ta bảo đứa nào chặt tay này đi hộ ta nếu không ta chết mất !
Một đệ tử chạy trở lại nói với Ueda:
- Ueda lão huynh ! Tiểu chủ đau quá không chịu nổi, bảo phải chặt tay đi. Bây giờ làm thế nào ?
- Đồ ngu. Tiểu chủ đau nhưng không chết. Nếu chặt tay mà không có thuốc rịt thì máu chảy ra hết, tiểu chủ sẽ chết ngay. Thôi đi đi, đừng có nhiễu sự. Tốt hơn là ngươi ba chân bốn cẳng chạy về võ đường bảo y sinh đem thuốc cầm máu đến đây lập tức để rồi ta liệu !
Thấy có người lố nhố trong những bụi cây đằng xa, Ueda bực tức bảo:
- Gọi anh em đuổi những tên kia đi. Đừng để tiểu chủ làm trò cười cho chúng !
Bọn đồ đệ chạy đi rồi, Ueda vẫy Miike Jurozaemon lại. Jurozaemon tưởng huynh trưởng mình quở phạt, len lén đến bên dập đầu xin lỗi.
- Ngươi đi với tiểu chủ từ sáng sớm phải không ?
- Dạ.
- Tiểu chủ gặp Miyamoto Musashi ở đâu ?
- Dạ, vừa tới chân gò thì Miyamoto Musashi xuất hiện.
- Miyamoto Musashi đi một mình hay với nhiều người khác ?
- Dạ, hắn đi một mình.
- Chuyện xảy ra thế nào, kể lại ta nghe ! Tiểu chủ biết chúng ta chờ ở gần sơn đạo mà !
Thấy Ueda ôn tồn, Miike Jurozaemon bớt lo.
- Trước khi đến đồng Rendaiji, tiểu chủ có nói nếu vạn nhất tiểu chủ bị bại về tay Musashi thì phải đem xác tiểu chủ đến chỗ các huynh trưởng chờ ở đồng bên cạnh. Tiểu chủ không muốn đệ cho ai biết trước khi cục diện ngã ngũ. Tiểu chủ nói có những lúc người lãnh tụ phải biết nhận trách nhiệm và không muốn cho võ lâm chê cười mình đã dùng những hành động nhơ nhuốc và hèn hạ để thủ thắng. Tiểu chủ có vẻ buồn nhưng rất dũng cảm và tự tin.
- Rồi sao nữa ?
- Lúc Miyamoto Musashi đột xuất, hắn hơi mỉm cười. Đệ tử trông rõ lắm tuy lúc bấy giờ sương chưa tan hẳn. Hai bên cúi chào nhau, không ai nói một lời. Bỗng có tiếng thét, thanh kiếm của tiểu chủ bắn tung lên, tiểu chủ ngã chúi xuống cỏ, còn Miyamoto Musashi nhảy lùi lại, đứng trên một phiến đá trong đám loạn thạch, tóc dựng đứng.
- Sao lúc bấy giờ ngươi không nhảy vào đỡ tiểu chủ ?
- Dạ, vì nhanh quá. Vụt một cái, không đầy nháy mắt. Sau đó, tên kia nhìn đệ tử, mắt hắn đỏ như rực lửa, đệ tử sợ quá. Quay lại, không thấy hắn đâu nữa !
Miike Jurozaemon kể xong như trút được gánh nặng. Ueda mắt đăm đăm nhìn về phía xa, vẻ tư lự. Chòm râu lão lốm đốm bạc, gió thổi dạt quấn cả vào mang tai.
Kojiro đứng bên Akemi dưới gốc thông già, nhìn bọn đệ tử Yoshioka khiêng chủ soái đi qua. Một niềm trắc ẩn hiển lên thay cho nụ cười khinh mạn trên môi hắn, nhưng nghe tiếng rên rỉ của Seijuro, hắn cau mặt.
Hắn bước đến bên cáng. Đồ đệ Yoshioka khựng lại thủ thế. Kojiro tới gần khẽ gọi:
- Yoshioka đại huynh !
Seijuro nhọc mệt hé mắt. Nhìn thấy Kojiro, hắn nở nụ cười héo hắt:
- Trễ mất rồi !
Kojiro trông bàn tay phải xám ngoẹt của chưởng môn nhân phái Yoshioka, lắc đầu:
- Gẫy xương bả vai. Thế là cánh tay này bị phế bỏ ...Đại huynh chẳng nên nằm, máu dồn lên óc không tốt.
- Ối chao ! Đau ! Giá ai cắt cánh tay này hộ ta ...
- Trước sau gì thì cánh tay này cũng phải bỏ. Nếu tâm phế không bị chấn động tất còn cứu vãn được. Đại huynh còn cánh tay trái, thiết nghĩ nên bảo tồn lấy tính mệnh và giữ vững hào khí. Khi bình phục sẽ tìm cách rửa hận.
Seijuro chớp chớp mắt, ra vẻ đồng ý.
- Bây giờ đừng để tâm đến nỗi đau vật chất nữa ...
Seijuro cau mặt:
- Túc hạ ...túc hạ ...không ở địa vị ta ...
- Tại hạ biết lắm chứ. Nhưng phải khắc phục. Quan trọng là nỗi đau tinh thần.
Đại huynh phải nghĩ đến danh dự và lòng kỳ vọng của môn phái, của cha ông. Có thể nào đại huynh cứ nằm thế này cho môn đệ khiêng về Kyoto, dưới mắt khinh rẻ và chế giễu của mọi người được à ?
Seijuro quay hẳn đầu sang nhìn Kojiro. Ánh kiêu ngạo lóe lên trong khóe mắt nhưng tắt ngay. Hắn rên rỉ.
- Nếu cần, tại hạ xin giúp ...
Tiếng Seijuro thều thào:
- Phải rồi ! Các người để ta xuống. Túc hạ đỡ ta ...
Kojiro giơ tay dìu Seijuro. Hắn rú lên:
- Trời ơi ! Đau ! Chết mất. Cho ta mượn lưỡi kiếm. Ueda đâu, chặt cái tay vô dụng này đi !
Nhưng Kojiro đã rút cây chủy thủ trong áo:
- Nếu đại huynh không ngại ...
- Ờ ! Túc hạ giúp ta ...
Xoẹt ! Cánh tay Seijuro đứt lìa đến tận bả vai. Máu tuôn xối xả. Hắn gục xuống ngất đi.
Vừa hay hai khoái mã mang thuốc phong tới như bay. Đồ chúng xúm quanh rịt thuốc rồi lấy vải buộc chặt vết thương. Seijuro tỉnh lại, muốn một mình trở về võ sảnh đường Shijo, nhưng mới đi được vài bước đã quỵ xuống. Đồ đệ vực hắn lên ngựa, cắt y sinh ngồi giữ. Hắn cũng chẳng con hơi sức đâu mà phản kháng nữa.
Kojiro trở lại bên gốc thông, đến bên Akemi:
- Nàng nhìn rõ không ? Chắc nàng vui lòng lắm !
Akemi mặt tái xanh, nghẹn họng không nói nên lời. Nàng thấy hắn tàn ác và bất nhân. Chưa kịp phản ứng, Kojiro đã tiếp:
- Nàng vẫn nói nếu trả thù được y, sẽ sung sướng lắm. Bây giờ y như thế, nàng đã toại nguyện chưa ?
Akemi nhướng mắt nhìn Kojiro. Không hiểu sao, lúc này nàng thấy ghê tởm hắn. Xem ra, tâm địa hắn còn đáng khinh và đáng sợ hơn Seijuro nữa. Seijuro đã làm hại đời nàng, nhưng không đến nỗi là một con người độc ác. Tên Kojiro này, dưới cái lớp vỏ trẻ trung dễ thương, thật là giống ngạ quỷ nham hiểm. Hắn không phạm những điều lầm lỗi mà thế nhân thường phạm, không gian dối, không ăn cắp, không tà dâm, nhưng là một con quỷ gian ác có những ý nghĩ lệch lạc, thấy người khác đau khổ thì thích thú, khoái chí. Hắn còn nguy hiểm hơn những kẻ tội lỗi thường tình nhiều. Akemi muốn chạy trốn, thoát khỏi sự kềm tỏa của giống ác quỷ này nhưng không đủ can đảm.
Kojiro kéo tay nàng, nàng líu ríu theo sau. Con hoàng hầu trên vai Kojiro quay lại nhe răng kêu khèng khẹc chế giễu. Nàng muốn mắng nó nhưng không thể. Akemi có cảm tưởng nàng và con khỉ kia cùng chung số phận. Nàng ghét Seijuro và Kojiro nhưng hai người đó sao cứ thu hút nàng như ngọn lửa thu hút những con thiêu thân đến gần để đốt chết.

Acmagiro
29-02-2008, 05:11 PM
CHƯƠNG 35
HƯƠNG TRÀ







Miyamoto Musashi men theo bờ suối tìm đường ra khỏi đồng Rendaiji. Lau sậy cao quá đầu người, dầy chi chít, hắn phải vạch lối mà đi, chân đạp lên những lớp lá khô nghe rào rạo.
Một con chim nhỏ trong bụi bay vụt lên, bụng trắng phau như bụng cá thoáng quẫy trong đám rong trước khi lẩn đi biệt tích.
Musashi không ngờ cuộc tỷ đấu dễ dàng và kết thúc nhanh như vậy. Quay nhìn gò đất cao gần đám loạn thạch, hắn lẩm bẩm:
“Mình mới phóng một chiêu, sao y không đỡ. Lẽ nào chưởng môn một danh phái mà tồi tàn đến thế !”. Nhưng nghĩ cho cùng, hắn chẳng lấy làm lạ. Ở đời kẻ bất tài thường hay huênh hoang. Khi may mắn được thừa hưởng cái hào quang của đảng tộc để lại, họ được đàn em đua nhau xu nịnh, lâu ngày lộng giả thành chân, họ tưởng mình có tài cán thật. Sống trong ảo tưởng như thế, đến khi hữu sự, họ không ngờ mình quá kém và đã phải trả giá đắt sự ngu dại của mình. Trường hợp Yoshioka Seijuro này là một. Y không huênh hoang nhưng nhu nhược. Vì không có một khả năng gì đáng kể, y đã làm cho chính bản thân và cả môn phái y thân bại danh liệt.
Rút mộc kiếm ra xem kỹ, Miyamoto Musashi không thấy một vết máu, một chỗ trầy nào. Lưỡi kiếm đạo đen như mun vẫn bóng mịn, chuôi kiếm nằm trong tay hắn chắc, gọn. Hắn có cảm tưởng lưỡi kiếm với thân thể hắn là một, sinh động, vững vàng, sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách.
Nhớ lại lúc mới gặp nhau, Seijuro hơi giật mình. Phản ứng đó tuy rất nhẹ nhưng không qua được tia mắt sắc bén của Miyamoto Musashi. Hai bên cúi chào. Dáng điệu Seijuro rụt rè, có đôi chút hoa mỹ, rõ ràng là phong thái của người chỉ tập luyện trong võ sảnh, ít bôn tẩu giang hồ. Dưới mắt Miyamoto Musashi, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã tố giác võ công và ý chí của Seijuro.
Sau đường kiếm độc nhất làm Seijuro quỵ ngay tại chỗ, Miyamoto Musashi thất vọng vô cùng. Hắn mong đợi một đối thủ khá hơn, ít nhất cũng thi triển được vài cao chiêu để hắn mở rộng kiến thức và không uổng công chuẩn bị. Nhưng đối thủ ấy đã không nhiệt thành, mà ngay đến lòng tự tin cũng không có. Nếu biết trước, có lẽ hắn đã tìm cách hủy bỏ cuộc gặp gỡ. Hắn chỉ muốn có cơ hội thử nghiệm tài năng chứ đâu phải muốn tìm hư danh trong cuộc tranh chấp.
Miyamoto Musashi bất giác sinh lòng lân mẫn:
“Thật đáng tiếc !”. Nhưng đã muộn.
Mũi tên bắn đi không thu về được nữa. Hắn thở dài, ngồi xuống tảng đá bên bờ suối, cúi đầu thành tâm cầu cho Seijuro không đến nỗi tử thương. Và rút quyển sổ nhỏ, lẳng lặng ghi niềm hối tiếc đầu tiên trong năm về một hành động hắn cho là vô ích.
Trời gần trưa, Miyamoto Musashi lầm lũi đi. Con suối cạn về mùa đông, giờ đây tuyết tan, đã có nước chảy róc rách. Gặp phiến đá chắn ngang, nước phân ra hai dòng, đổ bọt trắng phau, kéo theo cành gãy lá khô bít cả một quãng lòng suối.
Tần ngần nhìn nước chảy miên miên, Miyamoto Musashi liên tưởng đến cuộc đời hắn, những trở ngại hắn đã vượt qua như phiến đá kia ngăn chặn dòng nước và rồi còn bao nhiêu trở ngại trong tương lai nữa.
Dòng nước chảy đi đâu ? Có lợi ích gì cho ai không ? Nhìn dòng nước, hắn nhớ đến lời Lão Tử trong Đạo Đức Kinh đọc được khi còn ở thạch thất:
“Bậc thượng thiện giống như nước, làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Bản thể của Đạo cũng như nước, không làm gì cả mà kỳ thực không có gì là không do cái làm của nó mà ra”. Trước đây, hắn không hiểu ý ấy, bây giờ có lẽ đã lý hội được phần nào.
Bước chân Miyamoto Musashi rào rạo trên đường sỏi làm một bà lão đang lúi húi hái rau giật mình ngửng đầu lên. Bà lão người bé nhỏ, tay xách giỏ tre đan, mặc một bộ kimono đơn giản, bên ngoài khoác chiếc áo ngắn màu nâu sẫm. Y phục bà là y phục của người thế tục, nhưng bà lại trùm trên đầu một vuông khăn xám như các ni sư. Bà già có dáng thanh tú của những người sống ở thị thành, quen nhàn nhã từ tấm bé.
Miyamoto Musashi xuất hiện thình lình khiến bà mở to mắt kinh hãi. Một tay để lên ngực, những ngón tay nhỏ, trắng xanh run run, mặt bà tái đi. Chuỗi tràng hạt đeo bên mình theo nếp áo rung động.
Miyamoto Musashi cũng không ngờ chỗ này có người, nhưng trấn tĩnh được ngay.
Hắn tươi cười hỏi:
- Lão bá làm gì thế ?
Bà già không trả lời, ngó trước ngó sau, quay đầu chạy, chiếc giỏ tre rớt xuống cỏ bà cũng không biết. Bà vừa chạy vừa kêu:
- Koetsu ! Koetsu !
Miyamoto Musashi chẳng hiểu sao bà lão lại sợ mình đến thế, đứng ngẩn ngơ nhìn theo. Rồi cúi xuống nhặt chiếc giỏ tre lên. Trong giỏ toàn một thứ rau khúc, chắc do bà già hái được từ sớm. Sợ bỏ đi thì uổng, hắn xách lẵng rau rảo bước theo sau.
Đến một khu rừng thưa trên sười đồi thoai thoải, chợt thấy bóng hai người đàn ông, một người ngồi trên tấm vải thay chiếu trải lên cỏ và một hình như đang lúi húi nhóm lửa. Vài sợi khói lam tỏa nhẹ lên cao trong bầu thinh không trong vắt. Khung cảnh thật yên tĩnh và êm đềm một cách lạ !
Miyamoto Musashi đến gần. Bên tấm vải, bày la liệt những đồ dùng để uống trà, nào khay, nào chén, nào ấm sành. Trên bếp lửa lại treo sẵn một cái ấm sắt đun nước. Rõ ràng đây là cuộc du ngoạn của một nhóm người thấy trời đẹp, cảnh trí vui tươi thì dừng lại pha trà thưởng thức.
Người đàn ông ngồi trên tấm vải dường như đang vẽ tranh. Ông trạc ngũ tuần, nước da mịn và trắng hồng nhưng tóc đã lốm đốm bạc. Nhìn Miyamoto Musashi, ông không tỏ vẻ gì ngạc nhiên. Dáng điệu vẫn bình tĩnh và ung dung, ông lên tiếng:
- Có chuyện gì thế, tráng sĩ ?
- Vãn bối mang hoàn lại giỏ rau.
Ông vội bỏ bút, cúi đầu thi lễ:
- Giỏ rau này của gia mẫu. Người đã có tuổi, chắc bỏ quên. Xin đa tạ tráng sĩ.
Miyamoto Musashi vội quỳ xuống:
- Vậy té ra là lệnh đường. Vãn bối thật đắc tội, đã làm lão bá sợ hãi. Vãn bối đột nhiên đi tới, lão bá kinh hãi đánh rơi giỏ rau nên vãn bối mang lại trả chứ không có chuyện gì.
Vừa hay người lão bộc dẫn bà cụ đến. Trông thấy giỏ rau, mặt bà tươi hẳn lên.
- Mẫu thân ! Tráng sĩ đem trả giỏ rau đây này !
Bà cụ cúi đầu cảm tạ:
- Già thật hồ đồ quá. Xin cảm ơn tráng sĩ.
Người đàn ông trung niên tự giới thiệu:
- Tiện danh là Koetsu, nhà ở ngõ Honami.
Nghe tên Koetsu, Miyamoto Musashi ngạc nhiên. Trên giang hồ, hắn đã nghe nhiều người nhắc đến tên này. Ông không phải là kiếm sĩ, nhưng nổi danh suốt một dải trung nam nước Nhật là một nhà luyện kiếm vô song. Học lực về kiếm phổ của ông uyên bác, đức hoàng đế có khi còn phải triệu ông vào cung để hỏi xuất xứ và tiểu sử của những thanh kiếm lạ. Riêng về tài năng này, giới học giả và kiếm sĩ cầm quyền rất khâm phục. Nghe nói trước đây, đại danh Toyotomi Hideyoshi, thân phụ Hideyori, đã viết di chúc dặn người thừa kế phải trích ra hàng năm ba ngàn gia. lúa để tặng gia đình ông chi dụng.
Với số lợi tức ấy, ông thừa sức sống phong lưu. Căn nhà ông ở tại ngõ Honami của tổ phụ để lại, rộng như một trang trại, thiết bị đủ thứ dụng cụ để đúc và mài dũa gươm quý.
Nhưng quan trọng và đầy đủ nhất, phải kể cái thư khố đựng toàn sách chuyên môn về kỹ thuật luyện kiếm và kiếm phổ do tổ phụ Ông sưu tập và truyền lại. Không những thế, Koetsu còn là một nghệ sĩ tài hoa về nhiều phương diện. Ông làm đồ gốm và đồ sơn mài, vẽ tranh thủy mặc, viết bút thiếp và hiểu biết rất sâu rộng về cổ họa Nhật.
Honami Koetsu vang danh khắp nơi đến nỗi nhiều kẻ hậu sinh quá ngưỡng mộ Ông, khi đi qua ngõ Honami, tự động xuống ngựa để tỏ lòng cung kính.
Tuy vậy mà nếp sống của ông rất giản dị. Ông không ưa lụa là, cái ăn cái mặc chỉ vừa đủ cần thiết. Cùng với bà mẹ già xấp xỉ bảy mươi, ông thích du ngoạn đó đây, hòa mình với thiên nhiên và như hôm nay, dùng nơi hoang vu này làm bối cảnh cho một buổi uống trà và vẽ tranh để di dưỡng tính tình.
Lần đầu diện kiến, nếu ông không xưng danh, có lẽ Miyamoto Musashi không ngờ con người trung niên có cái dáng quan chức ngồi kia lại là Koetsu, nhà kiếm học và nghệ sĩ tài danh lừng lẫy.
Miyamoto Musashi hỏi lại:
- Phải chăng tiên sinh chính là nhà luyện kiếm nổi tiếng tại ngõ Honami ở cố đô.
Koetsu mỉm cười:
- Đa tạ tráng sĩ quá khen. Lão phu chẳng qua nhờ phúc trạch mà nên, có tài cán gì. Tiện danh bất quá chỉ được một số ít bằng hữu biết đến.
Đoạn tươi cười nói với bà mẹ:
- Lúc nãy, mẫu thân có vẻ kinh hãi. Con thấy tráng sĩ đây rất thuần nhã, có gì đáng e ngại đâu !
Bà lão vui vẻ, lấy tay che miệng:
- Nói ra thì xấu hổ. Lúc bấy giờ nhìn tráng sĩ đột nhiên xuất hiện, ta thấy sát khí bừng bừng, nên sợ quá. Già này hồ đồ, tráng sĩ thứ lỗi.
Trực giác hết sức linh mẫn của bà lão khiến Miyamoto Musashi kinh ngạc. Bà đã nhìn rõ hơn, hay đúng hơn, cảm thấy nội lực phi thường toát ra từ thân thể hắn, y như là trước kia, Ozoin lão tăng ở vườn rau chùa Quanh Minh đã cảm thấy. Gần một năm rồi, công lực sung mãn ấy vẫn chưa kiềm chế được, trách gì chẳng làm cho bà sợ hãi.
Koetsu có lẽ cũng có được sự cảm nhận mẫn nhuệ như thế, nhưng ông điềm tĩnh hơn và có lẽ ông đã chỉ chú ý đến khía cạnh tốt, cái phần thiện trong con người Miyamoto Musashi mà thôi. Ông giơ tay mời:
- Tráng sĩ vừa chiến đấu xong, hãy lưu lại nghỉ một chút cho thoải mái. Trời trong và đẹp như thế này, cảnh trí lại tịch mịch, vội gì ?
Miyamoto Musashi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thế ra ông cũng đã rõ mình vừa tỷ kiếm với Seijuro. Sao ông không có phản ứng gì. Có lẽ ông cho đó là những sinh hoạt của một giới khác với giới của ông chăng. Hắn nghĩ thế, nhưng không để lộ ra, chỉ vắn tắt cảm ơn rồi tháo dép ngồi xuống:
- Vãn bối tên Miyamoto Musashi ở Mimasaka..
- Lão phu cũng đã đoán biết vậy.
Bà cụ thân mẫu cũng ngồi xuống hỏi han gia cảnh và sở học của hắn. Bây giờ bà vui vẻ tươi cười, coi Miyamoto Musashi như một đứa cháu nên hắn thích thú vô cùng. Hắn đem tâm sự ra kể, những thất vọng và kinh nghiệm đã trải qua cùng những ước mơ hắn thường ấp ủ.
Không biết cơ duyên nào đưa đẩy cho hắn gặp hai mẹ con nhà kiếm học Koetsu ngày hôm nay, nhưng hắn có cảm tưởng hai người này cảm thông với hắn từ bao giờ và tự nhiên hắn tin cậy họ. Không phải vì Koetsu danh vọng lẫy lừng mà hắn có cảm tưởng ấy. Giá ông đừng xưng danh, có lẽ hắn còn thấy thoải mái hơn.
Bà cụ hỏi con trai:
- Con thử đoán xem Musashi bao nhiêu tuổi ?
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi, mỉm cười đáp:
- Khoảng hăm lăm hăm sáu.
Miyamoto Musashi vội chữa:
- Vãn bối năm nay mới hăm ba.
- Chà ! Thế ra lão phu trông tráng sĩ già hơn tuổi ! Chắc phong sương nhiều cho nên thế ! Nhưng không sao, những vết phong sương ấy là chứng tích của sự từng trải đấy!
Mọi người cười ồ, vui vẻ.
Chuyện vãn hồi lâu, Koetsu ngỏ ý muốn ra bờ suối vẽ tranh còn bà cụ giúp người lão bộc làm bánh lá khúc.
Một mình Miyamoto Musashi ngồi ngó mông lung ra phía xa. Trời đã quá trưa.
Nắng không còn thịnh nhưng khí hậu ấm áp. Tuy nhiên mới là đầu xuân, cây cỏ chưa xanh tốt, du ngoạn lúc này quả hơi sớm. Hắn nghĩ hai mẹ con Koetsu phải là người yêu thích thiên nhiên lắm, bị bó cẳng suốt mùa đông không ra ngoài được nên mới vội vàng thế. Riêng đối với thanh niên hiếu động như hắn, ngồi mãi cũng chán. Hắn bèn đứng dậy đi quanh.
Một gốc mai già khẳng khiu mọc nghiêng bên bờ suối. Đầu cành, có bông mai độc nhất nở, trắng muốt, rung rinh theo gió. Hắn nhìn cành mai, thấy đẹp vô cùng, đứng sững ngắm không biết chán. Không biết cái cảnh “trúc phong, mai vũ” như thế nào, nhưng bông mai độc nhất trong cái khung cảnh hoang vu ngày đầu xuân này khích động hắn lạ thường.
Men theo bờ suối, đến gần chỗ Koetsu ngồi, Miyamoto Musashi lẳng lặng nhìn nhà nghệ sĩ dùng ngọn bút lông ghi lại những nét động của dòng nước đương chảy.
Ông vẽ nhiều lần, nhưng có lẽ không lần nào vừa ý nên tranh để la liệt bên cạnh.
Vẽ xong một bức, cho là chưa được, ông lại vẽ lại, không nản chí.
Hừ, Miyamoto Musashi nghĩ thầm. Vẽ cũng không phải là dễ. Ngọn bút trong tay nghệ sĩ chỉ là dụng cụ, cũng như thanh gươm trong tay kiếm sĩ. Quan trọng là cái tâm, phải để tâm mình hòa hợp với thiên nhiên thì mới diễn tả được thiên nhiên. Phải cảm thông trước đã. Cũng như hắn, khi chiến đấu, kiếm và tâm hợp nhất thì mới đạt tới mức siêu hóa. Ông vẽ nước chảy mà vẫn coi nước là đối nghịch thì không thể nào thành công được.
Miyamoto Musashi lững thững trở về chỗ cũ. Sợ nhàn rỗi quá thành ra u trệ, hắn ngỏ ý cáo từ hai vị chủ nhân. Koetsu giữ lại:
- Tráng sĩ lưu lại chút nữa, chờ uống trà với lão phu. Trà là thứ di dưỡng tình tình tốt nhất.
Nghỉ một lúc ông lại nói:
- Vả lại theo thiển ý, động là cao điểm của tĩnh. Tráng sĩ muốn giữ cao điểm mãi cũng không thể được. Có động thì có tĩnh. Tĩnh bây giờ để chuẩn bị cho cái động về sau.
Chắc tráng sĩ hiểu ý lão.
- Đa tạ tôn ý. Nếu quả vãn bối không làm phiền gì thì xin ở lại.
Koetsu thu xếp giấy bút và đậy nắp bình mực. Vàng, bạc ánh lên cùng với xà cừ cẩn trên nắp bình lóng lánh làm Miyamoto Musashi chú ý. Hắn xin phép cầm xem.
Nắp bình mực sơn then bóng lộn, vẽ hai bông Sumigiku bên một hàng giậu nhỏ. Nét vẽ xương kính, cánh bố cục chặt chẽ. Tuy là tranh tĩnh vật nhưng hai bông hoa sinh động lạ thường, nhờ cách rắc bột vàng và bạc, điểm những miếng xà cừ và cách mài sơn tuyệt khéo.
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi. Hắn không giấu lòng thán phục, hai tay bưng bình mực trả chủ nhân và nói:
- Đẹp quá ! Tác giả tạo nên bảo vật này là ai, tiền bối có biết không ?
- Bảo một mình lão phu làm thì không đúng hẳn, vì cũng còn một người nữa là Vương Tích đề thơ và tự tay viết thủ bút, cho nên phải nó Vương tiên sinh và lão phu cùng làm mới phải.
- Vương Tích có liên hệ gì với Vương Trung, quan nhiếp chính đại thần tiền triều không ?
- Vương tiên sinh chính là trưởng tử quan đại thần Vương Trung.
- Chả trách được ! Vãn bối có được nghe đại danh ngài là người viết bút thiếp nổi tiếng nhất kinh thành.
Thân mẫu Koetsu đặt bộ đồ trà lên chiếu vải, nói:
- Già chẳng có gì đãi tráng sĩ, chỉ lưu tráng sĩ lại dùng trà.
Đoạn, mở nắp hộp, lấy trà cho vào bát, dùng gáo tre đong nước sôi, đánh trà nổi bọt. Cử chỉ của bà gọn gàng và chính xác, chứng tỏ bà rất thành thạo. Những ngón tay nhỏ nhắn thoăn thoắt lướt trên các đồ dùng, nhẹ nhàng linh hoạt mà vẫn thanh lịch tự nhiên một cách lạ. Tuổi đã thất tuần, dáng điệu bà không có vẻ già, vẫn nhanh nhẹn, trang nhã và kín đáo, thật đáng tiêu biểu cho vẻ đẹp phụ nữ cùng lứa tuổi.
Càng nhìn hắn càng thấy cảm mến. Nói theo ngôn ngữ kiếm đạo thì những thủ pháp của bà hoàn toàn, không chỗ nào sơ hở. Khi bà giơ cao chiếc gáo nhỏ đong nước vào bát, hắn có cảm tưởng nhìn một tay kiếm tuyệt luân vừa xuất thủ. Hắn nghĩ thầm:
“Đó mới chính là đạo, đó mới là tinh hoa của nghệ thuật, luôn luôn tìm sự tận thiện, tận mỹ !”.
Miyamoto Musashi ngồi yên quỳ gối, hai tay để lên đùi, trịnh trọng ngắm bà lão bưng trà và xếp bánh ra đãi khách. Ở giữa chốn hoang vu, những chiếc bánh mướt xanh như ngọc thạch trên tấm lá màu nõn chuối đã được cắt vuông vắn để trong cái khay sơn then, trông sao mà ngon mắt thế ! Hắn tưởng mình đang ngồi trong trà thất của một đại gia mà chủ nhân, tuy ưa thích cảnh thiên nhiên nhưng vẫn còn lưu luyến với những nghi lễ của trà đạo. Hắn đâm ngại.
Nhìn Koetsu và bà thân mẫu uống trà, đĩnh đạt, thư thả, hắn lúng túng:
- Vãn bối sinh trưởng nơi cô lâu, không rõ lề lối uống trà ở kinh đô, chẳng biết phải làm thế nào ?
Bà cụ cười mà nói:
- Già này thật mến cái tính ngay thẳng của tráng sĩ ! Thì có gì quan trọng đâu !
Nghệ thuật uống trà chẳng bí mật hay phiền toái gì. Tráng sĩ sinh trưởng ở nhà quê thì cứ uống như người nhà quê ...
- Lão bá nói như vậy, ra uống trà dễ lắm sao ?
- Dĩ nhiên ! Chân lịch sự phát xuất tự trong lòng. Nếu ta quá chú trọng đến cái vỏ bề ngoài thì mất thú đi. Muốn tận hưởng hương vị của trà, cứ để cho lòng ta thoải mái tự nhiên. Cũng như khi sử kiếm, tráng sĩ đâu có giữ cho thân mình quá gò bó. Làm thế, sự hòa hợp giữa kiếm và người không còn nữa, phải vậy không tráng sĩ ?
- Dạ thưa phải.
Bà già lại cười, tiếng trong như thủy tinh:
- Ấy đấy ! Già này lại lộng ngôn rồi. Tráng sĩ tha lỗi, đáng lẽ ta chẳng nên bàn về cách sử kiếm là một môn ta chẳng biết gì cả ...
- Nhưng Miyamoto Musashi đã cúi đầu, hai tay nâng bát trà lên:
- Vãn bối xin thất lễ.
Vị trà đắng ngắt. Dù có lịch sự đến đâu, hắn cũng không thể cho là ngon được.
Không hiểu tại sao bao nhiêu người đua nhau ca tụng cái hương vị mà họ gọi là thanh lương ấy. Chắc trong cách pha trà, uống trà phải có những điều gì khác cao quý, hắn còn ít tuổi chưa tìm ra hoặc chưa biết thưởng thức, chứ nếu không, sao nó lại được coi như một triết lý sống và được nâng lên hàng trà đạo ? Hắn nghĩ đến Yagyu và Takuan, hai người trọng cách uống trà lắm. Takuan tán dương đức tính thâm trầm của nó, còn Yagyu thì dành những năm tàn của mình trong việc nghiên cứu trà đạo.
- Tráng sĩ dùng thêm chút nữa ?
- Đa tạ lão bá, xin đủ.
Miyamoto Musashi miên man nghĩ đến vị dật sĩ dùng kiếm cắt cành mấu đơn dạo nào và đột nhiên chú ý nhìn bát trà trước mặt, hắn ngạc nhiên và khích động đến cùng cực. Không biết lúc đó hắn có thốt ra tiếng kêu nào không ?
Cầm chiếc bát sành lên ngắm nghía, mắt hắn sáng rạng rỡ:
chiếc bát cân đối, màu men tươi, không tì vết, nét vẽ sắc sảo, giản dị mà không tầm thường. Dưới trôn bát, chú ý nhìn những vết bay gọn gàng, vững mạnh của người nghệ sĩ đã tạo ra nó, hắn như lại được nhìn thấy một lần nữa sự tinh vi, sắc bén khác thường của đường kiếm Yagyu.
Thật là sản phẩm của một vị kỳ nhân, hàm chứa niềm giao cảm huyền diệu giữa tâm linh và vật chất. Hắn không hiểu tại sao, chỉ cam thấy như vậy. Có lẽ trực giác của hắn bén nhậy hơn trực giác của những người khác chăng ? Miyamoto Musashi vuốt ve thành bát. Hắn muốn được tiếp xúc lâu hơn nữa với mỹ tác tuyệt kỹ này.
- Tiền bối ! Vãn bối không biết gì về cách uống trà và những đồ dùng để uống trà, nhưng đây là một chiếc bát hết sức tinh xảo. Ai làm ra nó hẳn phải là một nghệ sĩ siêu đẳng.
- Sao tráng sĩ lại nói thế ?
Lời Koetsu dịu dàng nhưng nghiêm trang. Ông nhìn chàng thanh niên, hình như trên mặt ông thoáng một chút kiêu hãnh.
- Vãn bối không giải thích được, chỉ nói ra điều mình cảm thấy.
- Tráng sĩ cảm thấy đích thực những gì ?
Musashi suy nghĩ một lát rồi nói:
- Vãn bối không thể nói rõ được. Nhìn những vết bay dưới trôn bát thì cảm thấy có một cái gì phi thường làm khích động vãn bối vô cùng.
- Hừ ...
Koetsu là một nghệ sĩ tài hoa, ai cũng biết. Ông lại nhã nhặn nữa nên ai cũng mến yêu. Nhưng dưới cái lớp vỏ nhã nhặn ấy, ông vẫn tự cho không mấy người hiểu được nghệ thuật của ông. Miyamoto Musashi này chắc gì hơn những người khác. Ông cắn môi:
- Những vết bay ấy thế nào ?
- Mạnh và sắc. Rất sắc.
- Có thế thôi ư ?
- Không ...Còn nữa, còn có một cái gì cao cả và táo bạo như muốn vươn lên, thoát ra ngoài khuôn sáo.
- Gì nữa ?
- Người làm nó có một kinh nghiệm và hiểu biết sâu xa về mỹ thuật nên đã đem sở học và tài thiên phú ra tạo nên chiếc bát, toàn thể đẹp thanh thoát như thế này. Trông thì giản dị mà thật ra rất cầu kỳ. Nhìn những vết bay quét ngược, vãn bối còn thấy người này kiêu ngạo, mục hạ vô nhân, có thể rất danh tiếng mà cũng có thể cô đơn lắm. Tiền bối mua bát này ở đâu hay có biết ai đã tạo ra nó chăng ?
Koetsu cười ha hả:
- Biết ! Tên người tạo ra nó là Koetsu. Nhưng lão phu chỉ làm đồ gốm để tiêu khiển những khi rảnh rỗi mà thôi.
Miyamoto Musashi nghe đồn nhà chuyên môn về kiếm học này nhiều tài năng, nhưng không ngờ môn gì ông cũng hơn người. Hắn hơi hối đã nói thẳng ra những điều hắn nghĩ, vì có vài ý xúc phạm. Hắn lúng túng:
- Vì tiền bối hỏi nên vãn bối thưa thực. Tiền bối tha lỗi nếu có điều gì chẳng lọt tai.
- Chà ! Chàng thanh niên này khách sáo quá ! Có gì mà không lọt tai ? Xem ra tráng sĩ cũng ưa đồ gốm lắm nhỉ ?
- Trước vẻ đẹp, ai mà không xúc động. Tuy nhiên, vãn bối chẳng biết gì mấy về đồ gốm.
- Dĩ nhiên rồi. Tạo nên một tác phẩm đắc ý, có khi phải dùng đến kinh nghiệm cả đời người. Làm sao mong tráng sĩ biết nhiều về kỹ thuật ấy được ? Nhưng tráng sĩ quả có khiếu thẩm mỹ, một sự hiểu biết về mỹ thuật thiên bẩm. Luyện kiếm đã giúp tráng sĩ phát triển khiếu này, có đúng không ?
Ông dừng lại, không nói thêm mà Miyamoto Musashi cũng không hỏi gì nữa.
Trời sắp chiều. Hai chiếc bánh nhỏ không đủ dằn bụng một thanh niên đang tuổi lớn. Thể chất và tinh thần hắn đều cần đến những thực phẩm bổ dưỡng hơn, tuy nhiên hôm nay dừng chân trên khu đất hoang dã này, hắn đã được dịp thưởng thức hương vị thanh đạm của một nếp sống xa lạ đối với hắn. Có lẽ hắn còn phải học hỏi nhiều ở Koetsu và mẹ ông. Miyamoto Musashi quay lại cáo từ hai vị chủ nhân:
- Bây giờ cũng đã muộn. Xin nhị vị cho vãn bối được kiếu. Vãn bối đa tạ lòng yêu mến của nhị vị và những lời chỉ bảo hai vị đã ban cho.
Bà lão nhìn Miyamoto Musashi trìu mến:
- Nếu có dịp nào tráng sĩ qua ngõ Honami, xin nhớ ghé thăm tệ xá.
- Phải đấy ! Koetsu tiếp. Chúng ta sẽ nói chuyện nhiều.
Ông thêm:
- Có nhiều thứ lão phu tin chắc tráng sĩ sẽ rất ưa thích.
Đi một quãng xa, Miyamoto Musashi còn quay lại nhìn hai người ngồi trên tấm vải.
Con đường gai góc hắn quyết theo chắc không bao giờ đưa đến cảnh giới bình yên như hai người đang sống.
Nét mặt đăm chiêu, hắn lặng lẽ đi trong đồng cỏ hoang như một chiếc bóng.

Acmagiro
02-03-2008, 10:18 AM
QUYỂN 4 : Fu no Maki

CHƯƠNG 36
CÓ QUÁ NHIỀU KOJIRO






Trong quán rượu ven đô, mùi cá nướng nồng nặc bốc lên lẫn với mùi củi đun khét lẹt.
Quán rượu tồi tàn:
nền đất nện, mồ hóng với bụi lâu năm đóng lem nhem trên vách. Vài cái ghế đẩu đặt không hàng lối xung quanh một tấm ván mộc kê làm bàn trên đôi ngựa gỗ. Sát bếp, chiếc tủ cũ đựng đủ thứ linh tinh, nào đũa tre, bát sành, khay trà, chén ấm phần nhiều đã sứt mẻ, thô kệch.
Ngoài kia ráng chiều đỏ khé. Về phương đông, ngọn tháp chuông chùa Kiyomi đen sẫm nổi như cắt trên nền trời sáng rực tựa có đám cháy. Vài con quạ bay lượn quanh tháp:
những đốm đen nhỏ li ti như những tàn than gió thổi bốc cao trong bầu trời dữ dội.
Trong quán, hai gã đàn ông trung niên dáng khách thương ngồi uống rượu. Bốn gã khác xúm nhau đánh cò quay ở một góc. Cò quay là thanh gỗ có cái đinh đóng lên mặt tấm ván có viết chữ và vẽ những hình thô sơ. Chiếu bạc tuy nghèo nhưng cũng đủ làm khích động người chơi. Họ nói to, cãi nhau, vỗ đùi, đập tay cười ha hả.
Tít trong cùng, một du tăng cúi đầu ngồi yên lặng dường như không quan tâm gì đến việc chung quanh. Gần bếp là một bóng đen dựa lưng vào đống củi ngáy khò khò.
Bóng đen ngồi ngược sáng, lại bị đống củi khá lớn che khuất nên chẳng ai để ý.
Bỗng tiếng một khách thương gọi to, hách dịch:
- Quán ! Mang thêm rượu !
Sau tiếng “dạ” khan, tiếng chén hũ va chạm lách cách, chủ quán bước ra, hai tay bưng khay rượu. Chủ quán vừa lùn vừa mập. Giải khăn rằn ri vắt trên vai buông dài tới gối không làm cho gã trông cao hơn chút nào. Người ta vẫn thấy gã giống như quả dưa bở.
- Tối quá ! Sao không có đèn đóm gì cả thế này quán chủ ? Chẳng biết rượu đưa vào mồm hay vào mũi nữa.
Bọn đánh bạc cười ồ, quay ra phụ họa:
- Ờ phải đấy, tối quá rồi ! Đốt lửa lên chứ.
Lật đật đặt khay rượu lên bàn, chủ quán cơi lửa trong bếp cho bốc cao hơn rồi mang ra một đĩa đèn dầu thông đặt lên giá gỗ. Ngọn lửa vàng khè tỏa khói đen khét lẹt.
Gian quán ấm hơn. Câu chuyện bắt đầu râm ran vui vẻ. Hai gã khách thương nói chuyện làm ăn:
- Năm ngoái đi đòi nợ Yoshioka. Con mẹ nó, đã không lấy được đồng nào còn bị nắm cổ tống ra ngoài. Tổ cha quân khốn kiếp.
- Bác không tính kỹ. Ta ấy à, chỉ mất một lần, thấy không trả được thì thôi liền không bán chịu nữa.
- Ai biết đâu ! Tưởng võ đường bề thế như vậy, ngờ đâu toàn đồ ăn quỵt !
Rồi như sực nhớ ra điều gì, gã hạ thấp giọng:
- Này ! Nghe nói Seijuro chết rồi phải không ?
- Ủa vậy hả ? Sao bác biết ?
Gã chưa kịp đáp đã có tiếng cắt ngang:
- Đâu có ! Chưa chết !
Mọi người cùng quay lại nhìn về phía kẻ vừa nói, ai nấy đều tỏ ra khích động hết sức.
- Phải, chưa chết. Chính mắt ta trông thấy người ta khiêng hắn từ đồng Rendaiji về. Máu loang ra tận áo ngoài, hắn vẫn còn rên rỉ. Nghe đâu gãy tay, chắc tàn tật suốt đời rồi. Võ công thế là bị phế !
- Đáng kiếp ! - Gã khách thương nhổ đánh bẹt bãi nước bọt xuống đất - Nó ăn quỵt thì trời phạt nó !
- A di đà Phật ! Vị du tăng bỗng lên tiếng. Các vị đừng nói thế phải tội. Những việc xảy ra kiếp này đều là quả nghiệp kiếp trước. Có nhiều căn duyên lắm. Nếu chỉ vì ăn quỵt mà suốt đời tàn phế, chẳng hóa ra hình phạt của Trời Phật nặng quá ru ?
- Dù sao, như vậy cũng là rồi đời phái Yoshioka.
- Như bảng cáo yết nói thì hắn tỷ kiếm với Miyamoto Musashi. Bác biết Miyamoto Musashi là ai không ?
- Nghe đồn là một tay kiếm khách giang hồ còn trẻ mà công lực ghê gớm lắm.
Hắn đả bại Seijuro bằng một kiếm, cái mới làm cho Yoshioka thêm nhục.
Cả quán im lặng bùi ngùi. Tin ấy như gợi ở họ một chút tình thương xót. Họ đăm đăm nhìn lửa cháy, sau mới có người lên tiếng:
- Thế đồ đệ Seijuro tính sao ?
- Còn tính sao nữa. Phải trả thù chứ, mất mặt quá mà !
- Yoshioka còn ai nữa mà trả thù ?
Chủ quán từ trước vẫn dỏng tai nghe, đứng trong bếp nói vọng ra góp chuyện:
- Còn chứ ! Còn Denshichiro !
Đang uống rượu, khách bỗng ho sặc sụa phun cả rượu ra ngoài. Khách dằn mạnh chén lên bàn, cười hăng hắc:
- Con mẹ nó ! Denshichiro thì làm gì được ! Thằng đó ngỗ nghịch, rượu chè bê tha, vùng này ai còn lạ ! Nó chỉ dựa tiếng tổ phụ để lừa đảo vay mượn.
- Ấy thế mà là tay khá nhất đấy - Chủ quán đáp, giọng nghiêm trang - Hắn tuy là út nhưng có khí phách và võ nghệ lại còn cao hơn Seijuro, phải cái ham hưởng lạc quá!
Bóng đen bên đống củi ngồi đã lâu không động tĩnh, bỗng cựa mình. Bóng đen này vào quán từ chiều, ít nói, gọi rượu uống say túy lúy mà chủ quán không thắc mắc.
Gần đây thiếu gì những bậc kỳ nhân, cao thủ chán cảnh bon chen hoặc bị thất sủng, đi phiêu bạc giang hồ qua lại vùng này như cơm bữa. Gặp những người tính tình kỳ lạ, chủ quán cũng cho là thường. Vả cũng ngại, lỡ dây vào tay hung hãn thì chỉ thiệt thân, cho nên cùng lắm mới dám hỏi vài câu cần thiết.
Nhìn áo bóng đen sắp chạm vào lửa trong bếp, gã đến bên lay dậy:
- Khách quan ! Khách quan !
Bóng đen mở mắt đỏ ngầu nhìn. Gương mặt hốc hác, ánh lửa bập bùng soi hai má trũng sâu càng làm đôi gò má cao thêm. Bóng đen đáp buông sõng:
- Gì ?
- Khách quan ngồi tránh ra một chút. Lửa bén vào áo bây giờ !
Bóng đen vén áo, đổi cách ngồi. Dưới ánh lửa sáng, bây giờ mặt bóng đen trông rõ từng nét, phô ra một gương mặt còn trẻ, nhưng gầy và da mặt đen xạm. Nhìn kỹ thì là Matahachi, nhưng một Matahachi chán nản và bệ rạc vô cùng, trán hằn nhiều vết nhăn, mắt lờ đờ đục ngầu đờ đẫn vì rượu.
Chủ quán hơi giật mình, hỏi giọng lo lắng:
- Khách quan sao vậy ? Trong mình có được khỏe không ?
- Không. Ta không sao.
- Trông khách quan xanh quá.
- Đã bảo không sao mà ! Đem cho ta bình rượu nữa.
Nói xong, Matahachi gục đầu xuống ngực. Hắn thấy nóng, chẳng biết vì ngồi lâu gần lửa hay vì uống nhiều rượu. Bèn phanh áo ra nhưng vẫn không hết bực bội. Lòng hắn chán nản và buồn rầu không kể xiết.
Từ Osaka, nghe tin Miyamoto Musashi sẽ tỉ đấu với Seijuro, hắn lần mò tìm tới để xem cuộc đấu ra sao và cũng hy vọng gặp thằng bạn cũ. Nhưng đến nơi đã muộn. Trên đường đi, ở quán, điếm nào cũng thấy có người nói đến tin Seijuro bị thương hoặc chết và tài sử kiếm thần tốc của Miyamoto Musashi. Matahachi đã cạn tiền, lại thấy mình thua kém bạn quá sức, càng tỏ ra buồn phiền ganh tị. Lòng đố kỵ đưa đến sự căm ghét, hắn mong phái Yoshioka trả thù.
“Yoshioka đông người, toàn những tay cao thủ. Thằng Takezo kiêu ngạo quá, thế nào cũng có lúc bị hạ. Ai cũng cho nó là kiếm sĩ, nhưng kiếm sĩ thì làm cóc gì. Cốt là có tiền. Có tiền mới hơn người. Ta sẽ làm ra tiền bất cứ bằng cách gì. Nó với ta còn trẻ, con đường còn dài, ai biết sau này ai sẽ hơn ai !”. Nghĩ đến đây, Matahachi cảm thấy tinh thần phấn khởi hơn đôi chút. Nhưng sao miệng hắn khô và đắng quá. Hắn liếm môi:
- Khát quá !
Bèn đứng dậy vịn tay lên vách men ra chỗ để khạp nước múc uống ừng ực. Chiếc gáo tre run run trên tay, nước lạnh làm hắn dễ chịu. Nỗi buồn rầu dường như tiêu tan, hắn thấy trong người sảng khoái hơn, bèn đến bên cửa vén màn bước ra, chân vẫn còn loạng choạng.
Trong bếp, chủ quán đảo mắt nhìn quanh, ngạc nhiên không thấy khách. Nhìn ra ngoài, sương buông mờ mờ. Đằng xa, bóng một người chân nam đá chân chiêu, nghiêng ngả đi trong màn sương giữa những hàng cây âm u như ẩn như hiện.
- Khách quan ! Khách quan !
Không có tiếng trả lời. Bóng người cứ lầm lũi đi. Chủ quán chạy theo:
- Khách quan ! Khách quan chưa trả tiền !
- Hả ? Cái gì ?
- Khách quan quên ...
- Quên gì ? Chẳng quên gì hết !
- Khách quan quên chưa trả tiền rượu.
- Vậy hả ? Nhưng ta không có tiền !
- Không có tiền !
Chủ quán tức giận lập lại.
- Ừ. Không có ! Không có một đồng dính túi.
- Nói bậy ! Không được ! Không tiền sao dám vào quán ?
Chủ quán đổi giọng, nhảy tới nắm áo Matahachi. Nhưng hắn nhanh chân đã nhảy lùi lại mấy bước, thò tay lấy cái hộp đựng kim đơn trong bọc ném tới trước mặt người chủ quán. Hộp kim đơn này hắn đoạt được của người thanh niên lẹm cằm chết trên đồi Mokoyama ngày trước.
- Này giữ lấy ! Ta trả tiền rượu đó !
Không may, cái hộp đập trúng ngay vào mặt chủ quán. Gã ôm mặt kêu váng lên.
Mọi người chạy ùa ra bao quanh lấy Matahachi.
Cũng như phần đông các sâu rượu khác, thấy kẻ nào uống quỵt thì phẫn nộ làm như kẻ đó làm mất danh giá của giới lưu tinh, hai khách thương cũng xông ra hoa tay múa chân chửi rủa rầm rĩ.
Matahachi sợ hãi tỉnh rượu nhưng vẫn làm ra vẻ anh hùng, hắn để tay vào đốc kiếm hét lớn:
- Chúng mày biết ta là ai không ?
Có tiếng cười gằn, chửi thề:
- Là đồ ăn quỵt chứ còn ai nữa !
- Ta là Kojiro, thuộc kiếm phái Chujo, đồng đạo với Ito, học trò Kanemaki Jisai.
Matahachi nêu một hơi những danh tính hắn cho là lừng lẫy võ lâm, hy vọng làm bọn kia phải sợ hãi mà tháo lui. Không ngờ chỉ nghe tiếng cười và chế giễu đáp lại:
- Đó là những tên chó nào, chúng ta không cần biết. Anh em ! Xông vào bắt lấy nó!
Một kẻ nhảy đến định ôm Matahachi. Hắn rút gươm đánh soạt, thuận tay chém một nhát. Lưỡi gươm hớt qua tay kẻ kia, máu tuôn xối xả. Gã bèn lùi lại kêu ầm ĩ:
- Trời ơi ! Nó chặt cụt tay ta rồi !
Nghe tiếng kêu, trông máu chảy, cả bọn sợ hãi tưởng đâu chính máu mình tuôn ra.
Không ai bảo ai, tất cả cùng tản ra xa đến hàng trượng.
Matahachi được thể vác gươm xông tới, đâm dứ người này một chiêu, chém giả kẻ kia một nhát. Cả bọn hè nhau chạy như vịt.
- Ha ha ! Chúng mày tưởng ta không phải Kojiro chăng ? Kojiro là ta đây ! Vô địch ! Vô địch !
Hắn vung kiếm veo véo, chém dọc phạt ngang, đắc ý như chưa bao giờ được thế, rồi ngửa mặt nhìn trời cười khanh khách, răng trắng bóng dưới ánh sao. Đột nhiên lòng hắn buồn rười rượi, miệng cười mà hai hàng lệ chứa chan. Hắn vụng về tra kiếm vào vỏ, loạng choạng bước.
Dưới đất, chiếc hộp sơn then nằm trơ trọi. Miếng xà cừ cẩn trên nắp hộp phản chiếu ánh sao, lóe sáng như con đom đóm.
Tò mò, lão du tăng nhặt cái hộp lên. Lão ngạc nhiên, tay mân mê chiếc hộp sơn then rồi trở ngược lại quán, ghé vào chỗ ánh sáng gần cửa, quan sát kỹ.
- Hừ ! Hộp này là hộp đựng kim đơn của sư huynh ta đây mà. Triện son đóng dưới đáy còn rõ. Nhưng ông chết rồi, sao cái hộp lại ở đây ?
Bèn chạy theo Matahachi:
- Kojiro ! Kojiro !
Matahachi vẫn thản nhiên đi. Trong cơn chán nản, hắn chẳng nhớ tên mình đã mạo nhận là gì nữa. Cho đến khi lão tăng ở đằng sau kéo áo hắn mới sực tỉnh:
- Đại sư muốn gì ?
- Ngươi có phải là Kojiro không ?
Giọng vị tăng nghiêm nghị khiến Matahachi chột dạ:
- Phải. Ta là Kojiro.
- Ta muốn hỏi một câu, ngươi phải nói thật.
- ...
- Ngươi lấy hộp kim đơn này ở đâu ?
- Hộp kim đơn nào ?
Matahachi làm bộ lơ đãng.
- Hộp này.
Vừa nói, lão tăng vừa giơ chiếc hộp sơn then cẩn xà cừ ra trước mặt, tay kia nắm chắc cây thiền trượng. Chiếc nón nan hất ngược về phía sau, gương mặt lão dưới ánh sao tuy trông không rõ nhưng rắn rỏi, gương mặt của một tráng niên chứ không phải của một người tu hành đã có tuổi.
Matahachi giật mình:
- Ngươi là ai ?
- Không cần nói tên ... Hãy trả lời câu ta hỏi:
Hộp này ngươi lấy ở đâu ?
- Không ở đâu cả. Ta vẫn mang trong mình từ trước.
- Nói láo ! Ngươi không thú nhận hả ?
Matahachi ra vẻ ngây thơ:
- Thú nhận cái gì ?
- Ngươi không phải là Kojiro !
Câu nói vừa dứt, cây thiền trượng đã vụt đánh véo một cái. Tránh không kịp, Matahachi bị trượng đập trúng, ngã lăn quay. May không trọng thương, hắn bật dậy cắm đầu chạy.
Du tăng đuổi, nhặt gậy phóng theo. Chiếc thiền trượng lướt qua tai hắn rớt xuống đất. Matahachi kinh hãi, gia tăng cước lực. Hắn cứ chạy như thế, chạy thục mạng, chẳng biết phương hướng trời đất gì nữa. Đằng sau, nhà sư đuổi theo phóng gậy liên tiếp. Theo những ngõ hẻm ngoằn ngoèo, may mắn hắn mấy lần tránh được chiếc gậy phóng tới.
Đến một chỗ cỏ rậm cao, nhà cửa thưa thớt, quay lại nhìn không thấy ai, hắn mới liều ngồi xuống thở dốc. Matahachi bị một phen vừa mệt vừa sợ. “Ghê quá ! Cây trượng thật lợi hại. May nhờ mấy cái hẻm mình mới tránh được. Chẳng biết tên hòa thượng giả đó là ai, có thù gì với mình. Thời buổi này, quả không còn biết tin ai nữa !”.
Matahachi khát quá. Bả vai đau, hắn đưa tay nắn, không thấy có triệu chứng gì gãy xương, chỉ ê ẩm, chắc bầm bắp thịt vai thôi. Mừng thầm, hắn đi sâu vào trong ngõ, chú ý tìm nước. Gặp cái giếng lộ thiên, thành xây đá ong cao tới bụng, lại sẵn gầu để gần, hắn thả gầu xuống múc nước uống một hơi rồi lấy nước vã vào mặt.
Mồ hôi nhễ nhại, nước lạnh làm hắn rùng mình khoan khoái. Đã khát, Matahachi ngồi nghỉ, dựa lưng ngay vào thành giếng. Nhìn lên trời, sao thưa lấm tấm. Sương chiều tan từ bao giờ. Mảnh trăng thượng tuần nhô lên khỏi đầu hồi căn nhà gỗ, chiếu ánh sáng mờ đục trên mái ra. tồi tàn vào những khung cửa sổ nhỏ xíu dán giấy.
Đám mây đen kéo qua mặt trăng trông như hình người, rìa đám mây vàng úa. Matahachi mường tượng nhìn thấy bộ mặt hấp hối của người thanh niên lẹm cằm, đôi mắt lạc thần, cái miệng méo xệch trông thật ghê sợ và dòng nước rãi lẫn máu trào ra bên khóe mép. Hắn lấy tay dụi mắt, lắc lắc đầu như để xua đuổi hình ảnh thương tâm vừa hiện ra. Hắn hối hận đã tiêu hết cả số tiền của người chết, nhưng tự hứa khi nào thành công sẽ hoàn lại đủ số cho gia đình kẻ bất hạnh và sẽ dựng cho y một bia mộ bằng đá nữa.
Liên tưởng đến tờ chứng thư đề tên Kojiro, hắn đưa tay vào bọc tìm cuộn giấy dầu, thấy nó vẫn còn ở nguyên đó thì yên dạ. Dù sao, tờ chứng thư và cái tên giả cũng đã giúp hắn rất nhiều. Mấy tháng gần đây, hắn thường lang thang đến các nhà giàu xứ quê, trưng tấm chứng thư ra hoặc dùng cái tên Kojiro bịp những anh ngốc nghếch muốn học võ để kiếm bữa ăn và chỗ ngủ qua ngày.
“Tấm giấy này thế mà đắc dụng đáo để !”. Hắn tự nhủ, “Tội gì mà bỏ !”. Matahachi nhìn những căn nhà tồi tàn trong xóm. Dân khu này nghèo quá, nhà cửa xập xệ, đổ nát, mái ra. lồi lõm chắc đã lâu không được lợp lại, chẳng biết có đủ che mưa che nắng không. “Nhưng họ cũng còn hơn ta, ít nhất họ cũng có một chỗ trú !”. Hắn nghĩ vậy.
Qua khung cửa sổ, một gia đình đang ngồi ăn cơm. Hai vợ chồng, mấy đứa con cùng bà mẹ già quây quần xung quanh cái liễn sành độc nhất đựng món ăn trong ngày !
Người nghèo hình như lại càng thương nhau hơn, hắn nhận thấy vậy. Nghĩ đến mẹ già hắn đã giận dữ bỏ lại một mình trong cái quán nhỏ bên bờ biển vào một chiều lộng gió, hai hàng nước mắt hắn lại chực tuôn rơi. Hắn thế mà nhiều tình cảm lắm. Bà cụ nóng tính nhưng thương hắn vô cùng. Hắn còn kém cả những người nghèo kia, tuy nghèo mà vẫn nặng tình người và vẫn còn được xum họp. Bất giác, hắn đưa tay lên chùi nước mắt !
Matahachi nhớ lại lời mẹ dặn, những khi buồn rầu hay thất vọng hãy đến cầu đức Phật Bà Quan Âm, ngài sẽ phù hộ cho qua cơn đau khổ. Mẹ hắn thường lui tới cửa Phật. Tối nay chẳng biết ngủ nhà ai, hay là hắn cũng đi tìm một ngôi chùa nào đó để tá túc, nhân thể lễ Phật cầu xin và biết đâu lại gặp được mẹ.
Men theo những ngõ tối trong xóm, Matahachi bị hai ba con chó đói theo sau gầm gừ, thỉnh thoảng sủa những tiếng vu vơ. Quen với sự xua đuổi, hắn cũng chẳng thèm để ý, cứ mặc kệ.
Hết ngõ hẻm, ra chỗ thoáng, đến ven một cái miễu nhỏ với nhiều lùm cây rậm rạp, âm u, đen sẫm, lại có đàn chó nữa vây quanh một gốc cây lớn.
Sao nhiều chó thế. Chúng chạy lui chạy tới, sủa ẩm ĩ. Con thì quào chân trước vào thân cây định trèo, con tung mình nhẩy lên. Mấy con chó theo hắn cũng bỏ đi nhập bọn với lũ chó dưới gốc cây, thi nhau sủa, hú vang động cả một vùng.
Tò mò, Matahachi đến gần nhìn lên. Trên cây dường có người mà hình như là một thiếu nữ. Hắn nhặt hòn đá ném đàn chó. Chúng cúp đuôi chạy tản ra xa, nhưng vẫn quay đầu lại sủa. Chẳng bao lâu lại trở lại xúm quanh Matahachi, sủa còn dữ dội hơn trước. Matahachi nhặt đá ném lia lịa. Chẳng ăn thua gì. Đàn chó đuôi cúp vào bụng, nhe nanh gầm gừ. Matahachi trông rõ lông chúng dựng đứng, thân hình gầy guộc, xương sườn phô ra từng rẻ như sóng gợn.
Nghe nói tụi chó đói này khó đuổi lắm. Muốn trị chúng, phải bắt chước chúng đi bốn chân và sủa như chúng. Matahachi bèn quỳ xuống thử hành ngay ý định, nhưng cũng không kết quả. Tiếng sủa của hắn lạc lõng chẳng giống tiếng sủa của lũ chó thật kia chút nào. Một lúc, hắn bỗng thấy mình khôi hài và trơ trẽn. Mình làm cái gì thế này ? Ít ra cũng là một kiếm sĩ mang song kiếm, sao lại quỳ mà hú như chó ? Thiếu nữ trên cây nhìn xuống còn coi mình ra gì nữa ? Bèn vùng dậy, rút trường kiếm phóng một chiêu vào con chó gần nhất. Chiêu kiếm trượt. Chó vụt chạy. Lại phóng chiêu nữa vào con chó thứ hai. Lần này trúng, con chó ngã lăn ra, kêu oẳng một tiếng, giãy đành đạch. Những tiếng thở hằng hặc, rồi khò khè của con vật sắp chết làm đồng loại nó sợ hãi chạy xa nhưng vẫn không ngớt sủa.
Matahachi dậm chân đuổi xong con này đến con khác, một lúc sau chúng mới tản hết. Quay lại gốc cây nhìn lên, Matahachi vẫn thấy thấp thoáng còn bóng người.
- Ai ở trên đó, xuống được rồi đấy !
Không nghe đáp. Chỉ thấy tiếng nhạc khánh mơ hồ kêu lanh canh như giọt nước rơi vào vại sành.
- Ồ, ai như Akemi ! Phải Akemi không ?
- Ai đấy ?
- Matahachi. Nàng không nhận được tiếng ta sao ?
- Ồ, Matahachi. Thúc thúc đi đâu thế ?
- Nàng làm gì trên ấy. Sợ chó hả.
- Không !
- Vậy xuống đi.
Ở trên cây, Akemi đưa mắt nhìn bốn phía. Trăng suông mờ mờ. Cây cỏ chỗ nào cũng như phủ đầy sương khói, nhưng trong những bụi rậm ở ven đường dẫn đến miếu, giá có ai ẩn nấp thật khó mà biết.
- Thúc thúc đi đi. Đừng đứng đấy, nó thấy. Nó đang tìm tiểu nữ.
- Nó là ai ?
- Một người thúc thúc không biết đâu. Năm ngoái nó giúp tiểu nữ nhưng tiểu nữ không ngờ nó làm thế chỉ để lợi dụng. Nó hành hạ tiểu nữ đủ điều. Không chịu nổi tiểu nữ phải trốn đi.
- Ai ? Toji hả ?
- Không phải. Người đó thì tiểu nữ chả sợ. Ối ! Kìa, nó đã tới kia kìa ...Chạy đị..Thúc thúc chạy đi ...Nó thấy thì khốn.
Akemi rối rít, luống cuống. Từ trên cây tiếng nhạc khánh vang xuống nhanh và rõ mồn một:
lanh canh, lanh canh ...rồi bỗng ngưng hẳn. Có lẽ nàng đã tìm cách buộc chặt chùm khánh nhỏ vào tay áo.
- Đừng sợ ! Sao phải chạy ? Ta không bảo vệ được nàng ư ?
Vừa khi ấy, một bóng đen hiện ra trên đường hẻm. Matahachi mặc kệ Akemi trên cây, xốc kiếm xăm xăm đi tới.
- Ai ?
Tiếng hét đồng thanh cùng thoát ra một lúc trên cửa miệng hai người. Bóng đen vừa tới nhìn lưỡi kiếm tuốt trần còn dính máu trên tay Matahachi, hỏi lớn:
- Ngươi là ai ? Muốn gì ?
Matahachi lặng thinh. Lúc nãy, nghe giọng nói cuống quýt của Akemi hắn có đôi chút e ngại, nhưng bây giờ nhìn kỹ bóng đen mới đến, hắn thấy không có gì đáng sợ.
Bóng đen cao lớn thật nhưng dáng điệu không hiên ngang, quần áo sặc sỡ như con nít, chắc chẳng tài cán gì. Nhà sư vừa rồi còn làm hắn hoảng chứ với tên thiếu niên này hắn đâu ngán ! Bèn lấy bộ mặt khinh mạn, cười khẩy mà không đáp.
Bóng đen quát hỏi lại:
- Ngươi là ai ?
Matahachi cười trêu cợt:
- Ta ấy à ? Ta là người.
- Ha ! Là người ! Một tên vô danh. Được lắm, nếu danh tính ngươi xấu xa, nói ra phải hổ thẹn ...
- Đừng láo ! Ta không muốn nói chỉ vì chẳng muốn xưng danh với đứa tiểu tốt.
- Này, hãy giữ mồm miệng, đừng để ta nổi giận. Bây giờ thì chờ đấy, ta đến chỗ kia kéo con bé trên cây xuống đã.
- Ha ha ha ...Matahachi cười khanh khách - Ngươi tưởng dễ lắm sao ? Ta là dượng nó, động đến nó ta băm nát thịt.
Bóng đen nhìn Matahachi từ đầu đến chân, gằn giọng:
- Hừ ! Ra thế đấy ! Nhà ngươi muốn chơi trò hiệp sĩ ? Nhưng này, ta bảo thật:
cây sào phơi trên lưng ta đây đã lâu chưa được uống máu ai. Nó khát lắm đó. Mà ta cũng cần thử xem nó còn sắc không. Bấy giờ thì cẩn thận, ngươi chạy không kịp đâu !
Matahachi nghe mà không lường được tầm nghiêm trọng của câu nói. Hắn không ngờ bóng đen đứng trước mặt hắn tuy nhỏ tuổi nhưng là một kỳ tài trong võ lâm, kiếm thuật tinh vi và thần tốc đến độ chỉ một cái vẫy tay nhẹ, chưa đầy nháy mắt, đã có thể chém bay đầu hắn lăn lông lốc. Vì không ngờ nên hắn vẫn lên giọng kẻ cả:
- Khoan ! Chú bé hãy nghĩ kỹ. Bây giờ còn kịp, tạ lỗi đi, ta sẽ cho chạy thoát.
Chậm chút nữa đừng trách ta tàn nhẫn.
Bóng đen mở tròn mắt ngạc nhiên. Không biết tên này là ai mà có thái độ mục hạ vô nhân ngu xuẩn đến thế. Nhưng thấy trò chơi hay hay, tính trẻ nít nổi dậy, hắn chỉ buồn cười không giận. Lại cũng tò mò muốn trêu chọc địch thủ, bèn đổi giọng lễ phép:
- Cám ơn các hạ. Nhưng biết tạ lỗi ai, ít ra các hạ cũng phải cho tại hạ biết quý danh tính là gì chứ ? Đó là lề luật võ lâm, chắc các hạ rõ.
- Cũng được. Nhưng ta nói tên, ngươi chớ có giật mình.
Bóng đen cười như nắc nẻ:
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên ! Nhân thể các hạ cũng nên cho biết thuộc môn phái nào ?
Kiếm sĩ mà lắm mồm như tên này chắc chẳng đáng sợ. Matahachi càng đánh giá địch thủ thấp hơn nữa.
- Ta theo Chujo kiếm pháp.
Bóng đen sửng sốt:
- Chujo kiếm có chiêu thức gì đặc biệt ?
- Tất nhiên phải có. Như chiêu Mãn Thiên Hoa Vũ và Trảm Nhạn Kiếm chẳng hạn.
- A !
Thấy bóng đen thốt kêu có vẻ ngạc nhiên, Matahachi cho là mình đã áp đảo được tinh thần địch thủ. Bèn hỏi ngược lại:
- Còn ngươi ? Theo môn phái nào ?
- Khoan ! Những thế kiếm vừa rồi như Hoa Vũ và Trảm Nhạn ngươi được ai truyền thụ ?
- Sư phụ ta chứ còn ai nữa.
- Tôn sư tên gì ?
- Kanemaki Jisai ! Toda Seigen Kanemaki Jisai.
Bóng đen tỏ ra phân vân cực độ:
- Thế ngươi có biết Ito Yagoro không ?
- Dĩ nhiên là biết. Ito là sư huynh ta, tuy đồng môn nhưng thuộc hàng tiền bối vì niên kỷ y cao hơn ta nhiều. Sao ngươi hỏi thế ?
Bóng đen lờ đi như không nghe tiếng. Gã nghiêm giọng:
- Vậy tên ngươi là gì ?
- Kojiro.
- Là gì ?
Matahachi vênh mặt:
- Thằng này điếc. Ta là Kojiro !
Bóng đen trừng trừng nhìn Matahachi.
- Tại sao ngươi nhìn ta như vậy ? Ngạc nhiên lắm chăng ?
- Có lẽ.
- Vậy cút đi cho rồi, đứng đấy làm gì nữa ?
Bóng đen vẫn không rời mắt khỏi Matahachi. Bỗng gã phá lên cười, tiếng cười thoải mái nhưng đầy vẻ chế giễu. Gã đã hiểu.
- Này các hạ, từ khi bôn tẩu giang hồ đến nay, chưa bao giờ ta được chứng kiến một chuyện quái gở như chuyện này ! Ha ...ha ...ha ... ! Thật là hãn hữu. Bây giờ ta biết tên các hạ rồi, vậy bằng hữu hãy đoán tên ta là gì ?
Matahachi chột dạ. Nhưng hắn vẫn tin Kojiro thật chết rồi, gã lẹm cằm rỗ mặt có bản chứng thư hắn còn giữ trong bọc đây, không thể nào là tên này được. Hắn nói cứng:
- Ai biết tên ngươi là gì ? Ngươi định nhạo ta chăng ?
- Không. Ta hỏi đứng đắn. Tên ta là gì ?
- ...
- Nếu ngươi không biết, ta sẽ nói cho biết. Tên ta cũng là Sasaki Kojiro, ngoại hiệu Ganryu.
Nói xong hắn cười ha hả. Matahachi mồ hôi vã đầy trán.
- Ha ha ! Ta với ngươi thế là cùng danh tính. Vậy hãy kết làm bằng hữu.
Rồi tiến đến bên Matahachi, giơ tay vỗ vai hắn. Nhưng Matahachi nhảy vội ra xa, vung gươm chém xuống.
“Vù !”. Lưỡi gươm của Matahachi bị cước của Kojiro đá bắn tung và trong tay gã ỡ cây sào phơi ữ đã được rút ra từ bao giờ, hàn quang lấp lánh.
Kojiro cười gằn:
- Ngươi mà chạy là mất mạng !
Tiếng gã sắc như dao, nhọn như kiếm xoáy vào tai Matahachi. Mồ hô Matahachi thấm ướt áo trong, toàn thân hắn run lẩy bẩy. “Xoẹt” ! Cây trường kiếm tựa con rắn bạc phóng tới bay qua đầu hắn. Hắn cảm thấy đau nhói sau lưng, đồng thời một sức mạnh vô hình đẩy hắn bắn đi, rơi xuống như chiếc lá gió thổi bay lúc trời giông bão.
Hắn lăn ra đất bất tỉnh.
Thanh trường kiếm của Kojiro đã được tra vào vỏ.
Đến dưới gốc cây lớn, Kojiro nhìn lên. Chẳng có ai. Akemi lại một lần nữa vuột khỏi tay gã.
Xa xa, tiếng chó tru vọng lại dưới ánh trăng suông.
Kojiro đi sâu vào trong miếu. Tàng cây ẩm ướt, âm u dưới ánh trăng khuya, sương mờ đục khiến miễu có không khí rờn rợn như trong truyện liêu trai.
Tìm mãi không thấy Akemi, Kojiro trèo lên cây thông cao, ngồi dựa lưng vào thân cây, đảo mắt nhìn tứ phía. Gió đêm thổi nhẹ rì rào đưa hắn vào giấc mộng. Thế là con chim non tưởng như đã nhốt được trong ***g, giờ đây bay mất. Kojiro nhớ lại những giờ khắc êm đềm bên cô bé. Nàng đa cảm và đam mê, nhưng cũng bướng bỉnh làm sao ! Đôi mắt ngây thơ che giấu những ý nghĩ phức tạp gì, hắn không rõ, nhưng quả đã huyễn hoặc hắn, làm hắn như ngây như dại. Hắn dâng cả tình yêu nồng nàn nhất của tuổi trẻ cho cô bé. Vậy mà trời ơi, sao nàng không hiểu ? Hay trong cơn say mê, có lẽ hắn đã quá thô bạo, có những hành động khiến con chim non ấy phải sợ hãi chăng ? Nhưng biết làm sao khác ? Bản tính hắn thế. Ngay từ khi hãy còn là môn sinh của Jisai, Kojiro đã tỏ ra là một thiếu niên tàn nhẫn, lì lợm.
Lúc giao đấu, hắn chỉ cần thủ thắng, không quan tâm gì đến phương cách mà hắn chẳng phân biệt thế nào là phải, trái nữa, cho nên nhiều lần đã dùng những thủ thuật đê hèn mà không biết.
Một bữa kia, bấy giờ hắn mới nhập môn, vì có thái độ khinh bạc nên bị bạn đồng môn lớn tuổi ghét, xúm lại đánh cho một trận thừa sống thiếu chết bên bìa rừng. Một người trong bọn thương tình cứu tỉnh, đem về rịt thuốc cho, nhưng hắn đã thừa cơ đoạt gươm của người ấy, xuất kỳ bất ý giết chết ân nhân tại đương trường không hối hận.
Chuyện đó tới tai tôn sư. Ông không nói nhưng cũng không đuổi Kojiro đi, vì tiếc một môn sinh có tài. Hơn nữa, lại có chủ ý coi sự lì lợm của Kojiro là đức tính kiên trì cần thiết cho người học kiếm. Bọn đồng môn cũng dần lảng tránh, không ai muốn tranh thắng với Kojiro làm gì vì thắng hắn là tự chuốc lấy thù hận cả đời.
Chẳng biết rồi đức tính kiên trì ấy đi đôi với bản năng tàn ác, ưa áp chế của Kojiro sẽ đưa hắn tới danh vọng, chức vị gì trong võ lâm, nhưng ở tình trường, hắn thất bại. Không tiếp xúc nhiều với nữ phái, hắn thiếu kinh nghiệm nên vẫn chưa hiểu tại sao Akemi không ưa hắn.
Ngồi trên cây, mãi suy nghĩ miên man, Kojiro không để ý đến một bóng đen đang đi tới miễu.
Nhìn xác người nằm sóng soài trên cỏ, bóng đen tiến lại gần lật lên. “A ! Thằng uống rượu quỵt đây mà ! Sao nó lại nằm đây ?”. Thì ra gã du tăng đuổi theo Matahachi khi nãy.
Nghe tiếng kêu, Kojiro bừng tỉnh. Hắn đưa mắt nhìn xuống nhưng vẫn giữ im lặng. Du tăng vạch áo Matahachi ra xem và lẩm bẩm:
“Không sao ! Thân thể còn nóng, chắc mới bị điểm huyệt”. Bèn liên tiếp phóng chỉ, giải những huyệt đạo khả nghi bị bế tắc. Quả nhiên lát sau, Matahachi đã cựa quậy được, miệng ú ớ.
Du tăng vực Matahachi lên vai, đem đặt dưới gốc cây, đá cho một cước rồi lại bồi thêm nhát gậy để nạn nhân mau tỉnh. Đức Phật bao dung ngài trông thấy cảnh ấy chắc cũng không bằng lòng về cách hành xử của người đệ tử.
- Đứng dậy !
Matahachi lờ đờ mở mắt, ngơ ngác nhìn không biết đang ở âm ty hay dương thế.
Nhà sư rút trong bọc ra sợi dây lòi tói, bẻ quặt hai tay gã về phía sau thân cây buộc chặt lại, rồi như một phán quan lên án tội nhân, y chống nạnh đứng trước mặt gã, nghiêm khắc hỏi:
- Hà, thằng này ! Nhận ra ta là ai không ? Ngươi làm ta đuổi theo hụt hơi.
Matahachi lặng thinh, nét mặt đờ đẫn.
Nhà sư nắm tóc gã, đập đầu vào gây nghe cộp cộp.
- Ngươi lấy hộp kim đơn ấy ở đâu ? Khai thật, không ta giết chết !
Matahachi không nói, chỉ lặng lẽ cúi đầu. Hình như gã vẫn chưa ý thức được rõ ràng cảnh huống gã đương phải chịu.
- À, thằng này gan ! Này gan !
Nhà sư đưa hai ngón tay thọc vào mũi Matahachi cấu mạnh. Gã thét lên một tiếng đau đớn, nước mắt ràn rụa. Nhìn gã thở hổn hển, nhà sư mới buông tay. Dưới ánh trăng, hai dòng nước đen ở mũi trào ra rỏ giọt xuống ngực áo. Matahachi liếm môi cảm thấy mằn mặn.
- Có nói không ?
- Dạ dạ ...Xin đại sư nhẹ tay, tiểu nhân xin nói ...Giọng Matahachi lạc đi, lắp bắp. Số là ...số là ...mùa hè năm ngoái khi tiểu nhân còn làm phu vác đá ở công trường Mokoyama ...
Và gã đem chuyện gặp tráng sĩ mặt rỗ kể lại, lúc tráng sĩ ấy bị ném chết ra sao, trước khi chết gã lấy túi tiền thế nào, nhất nhất tường thuật đầy đủ.
- Trong túi tiền còn có hộp kim đơn và một chứng thư ...
- Bản chứng thư ấy bây giờ ở đâu ?
- Dạ, ở áo tiểu nhân.
Lão tăng thò tay vào bọc Matahachi, lôi cuộn giấy dầu mở ra. Trăng mờ không để lão trông rõ nét chữ nhưng dấu triện son lớn đúng là triện của Chujo kiếm phái kèm theo thủ bút của Toda Seigen Kanemaki Jisai.
- Tiểu nhân thật đắc tội. Vậy xin hoàn lại bản chứng thư, còn tiền thì phần đã trót tiêu hết, phần bị lừa, không có ngay được, xin đại sư cho khất, tiểu nhân sẽ trả sau.
- Những điều ngươi nói có thật không ?
- Dạ, tiểu nhân đâu dám nói dối.
Trút hết những điều u uẩn giữ trong lòng bấy lâu nay, Matahachi cảm thấy nhẹ nhàng như người có vết thương nung mủ vừa mới vỡ. Gã khoan khoái cho là đã thoát nạn, hay ít ra cũng tưởng thế.
Lão tăng yên lặng, nét mặt tư lự. Lát sau mới lên tiếng:
- Nhà ngươi tên gì ?
- Dạ, Matahachi.
Đột nhiên nghe soạt một tiếng, ánh bạc lóe lên, nhà sư đã lăm lăm cây đoản kiếm.
- Đại ...đại sư làm gì thế ? Định giết tiểu nhân chăng ?
Du tăng thong thả gật đầu:
- Phải ! Ngươi phải chết.
- Tiểu nhân đã nói hết sự thật và hoàn lại bản chứng thư. Đại sư không tin sao ?
Du tăng điềm tĩnh:
- Tin ! Nhưng ta ở vào cái thế khó xử. Kusanagi Tenki là huynh trưởng ta. Tenki là danh tính của tráng sĩ rỗ mặt ngươi đã gặp. Còn ta tên Ichinimiya Gempachi, tuy mặc tăng bào nhưng ta chính là một kiếm sĩ được ủy thác cho đi điều tra về cái chết của Tenki.
Matahachi cuống quýt lo sợ. Gã van lạy:
- Đại sư ...à ...à ...đại hiệp ! Xin đại hiệp tha mạng. Tiểu nhân biết đã làm bậy, nhưng quả thật không giết Tenki, chỉ đoạt số tiền và mạo danh để kiếm sống. Đại sư ...
đại hiệp cởi trói cho, tiểu nhân xin làm giấy cam kết ...
Gempachi thở dài. Hình như y cũng có đôi phần xúc động và phân vân, nhưng nghĩ một lúc y vẫn lắc đầu:
- Ta chẳng quan tâm đền tiền bạc và cũng rất tiếc phải giết ngươi. Trước khi gặp ngươi, ta đã đến lâu đài Fushimi dò la tin tức, quả đúng như lời ngươi nói, huynh trưởng ta bị ném đá chết.
- Dạ, đúng như vậy.
- Nhưng gia đình ông không tin như thế đâu ! Tenki là một kiếm sĩ kinh nghiệm, tài ba vào bậc thượng thừa, sao lại có thể chết về tay những người thợ tầm thường được ?
Ông chết không chiến đấu thì còn ra thể thống gì nữa ?
- Dạ dạ. Xin đại hiệp xét kỹ, tiểu nhân không giết Tenki.
Gempachi mỉm cười:
- Ngươi không giết nhưng Kojiro giết. Ta mang cái đầu ngươi và bản chứng thư này về để làm tin ...
Matahachi sợ run người. Gã thều thào:
- Tiểu nhân tên là Matahachi, không phải Kojiro !
- Ngươi phải giúp ta. Vả chăng ngươi sống cũng bằng vô dụng mà thôi. Uống rượu đã không có tiền trả thì lấy đâu mà tự chu cấp trong cái xã hội nghiệt ngã này được. Ta cho ngươi nằm xuống nghỉ ngơi để khỏi chết vì đói khát. Rồi ta sẽ gửi tiền về giúp đỡ cha mẹ ngươi trong việc ma chay, hơn nữa còn dựng cho ngươi cái bia mộ bằng đá ...
Matahachi nghe không chịu nổi. Gã tức giận rống lên:
- Đại ... đại hiệp ... Ta không cần tiền ! Không muốn chết ! Thả ta ra ! Ai cứu ta với!....Cứu ta ... t ... a ... a ...
Tiếng kêu của gã vang xa trong đêm tịch mịch cùng với tiếng chó tru ở bìa rừng dội lại. Gempachi cười hăng hắc:
- A di đà Phật ! Muốn hay không, ta cũng sẽ cho ngươi tiêu diêu miền lạc cảnh.
Hãy cứ coi đây như là chuyện được, mất ở đời !
Nói đoạn, y lùi ba bước, thanh đoản kiếm nắm chắc trong tay sẵn sàng đâm tới.
- Khoan !
Tiếng thét đột nhiên, sắc và cực mạnh từ trên cao vọng xuống làm Gempachi khựng lại.
- Ai ?
- Kojiro !
Gempachi nhảy vội ra xa rút trường kiếm:
- Kojiro ! Lại Kojiro nữa ! Ngươi có giả mạo không đấy ?
Tiếng cười khanh khách vang lên, nửa đứng đắn nửa giễu cợt:
- Không ! Ta chính là Kojiro thật ! Gempachi, ngươi định chặt ta ra làm hai đoạn chăng ?
- Đúng ! Nếu ngươi là tên giả mạo thì hãy coi chừng lưỡi gươm của ta !
- Hay lắm ! Nhưng ngươi sẽ không phân biệt được chân giả đâu. Vì khi “cây sào phơi” này ra chiêu, ngươi đâu còn ở dương thế !
Nghe nói đến “cây sào phơi”, Gempachi chột dạ:
- Nếu đúng là Kojiro thì ngươi làm gì trên đó ?
- Chuyện còn dài, sẽ nói sau !
Vừa dứt lời, một bóng đen đã phi thân như chớp xẹt, đáp xuống gần chỗ Gempachi đứng, êm như lá rụng, kéo theo cành khô và lá thông rơi lả tả.
Lại một lần nữa Kojiro xuất hiện bất ngờ làm Matahachi co rúm người lại vì sợ hãi. Gã rủa thầm số mệnh khốn kiếp, run rủi gã gặp cả hai tên này một lúc thì thoát làm sao được !
Gã lầm rầm khấn đức Phật Bà Quan Âm phù hộ, mong mẹ đến cứu. Trong lúc vô tình, tay gã cựa quậy, nhưng chỉ thấy sợi dây lòi tói quá chặt cứa vào da thịt đau rát.
Nhìn thanh niên đứng trước mặt, Gempachi ngạc nhiên. Y không rõ đây có phải là Kojiro thực không, vì theo chỗ hắn biết, môn đồ Chujo kiếm phái sống cuộc đời khổ hạnh, quần áo thường mặc chỉ là vải gai, không như thanh niên này, sang trọng và diêm dúa quá. Nhưng nhìn thanh trường kiếm quá khổ đeo trên vai thì có thể là Kojiro lắm, vì thanh kiếm mệnh danh “cây sào phơi” này rất phù hợp với lời đồn đại trong võ lâm; và ngoài Kojiro ra, không ai xử cây kiếm dài như thế, vừa không chính xác lúc công lại vừa không gọn lúc thủ.
Gempachi phân vân hỏi lại:
- Thiếu hiệp quả thật là Sasaki Kojiro, biệt danh Ganryu đấy chăng ?
Kojiro cười:
- Đã không tin thì trả lời cũng vô ích.
Bèn tự động ngồi xuống một gốc cây, tháo kiếm để bên và mời Gempachi ngồi cạnh. Thấy thế, Gempachi không do dự gì nữa, lập tức làm theo. Kojiro lên tiếng trước:
- Tại hạ ngồi trên cây đã nghe hết mọi chuyện. Được biết huynh đài đi điều tra về cái chết của Tenki, mà Tenki là bạn đồng môn của tại hạ thì huynh đài và tại hạ cũng coi như bằng hữu. Huynh đài có ý giết tên chó má kia, tại hạ cho là vô ích. Nếu quả huynh đài vì sợ gia đình Tenki không tin, cần phải có bằng chứng thì để tại hạ xin viết một lá thư nói rõ đầu đuôi. Như thế vừa xác nhận những điều huynh đài đã điều tra được mà cũng tránh cho tại hạ khỏi phải dính vào chuyện này, sinh thù oán, mặc dầu cái tên tại hạ chỉ là do sự mạo danh mà ra.
Gempachi gật gù khen phải. Y cho câu chuyện đã có người thứ ba biết rồi thì khó mà che đậy được, nên đồng ý với Kojiro.
- Còn tên mạo danh tại hạ, huynh đài hãy nhường cho tại hạ xử trí.
Thấy lời yêu cầu hợp lý, Gempachi không phản đối.
- Vậy tùy thiếu hiệp. Chuyện này như vậy là giải quyết xong.
Kojiro đứng dậy đeo kiếm lên vai.
- Tại hạ có chút việc cần, chờ dịp khác sẽ tương hội.
- Thiếu hiệp quên gì không ?
- Chẳng có gì quên ...Huynh đài có ý gì vậy ?
- Bản chứng thư ...
Gempachi vừa nói vừa lấy cuộn giấy dầu ra trao cho Kojiro.
- Nghĩ cho cùng, có lẽ anh linh sư huynh tại hạ đã run rủi để chúng ta gặp nhau ở đây và hoàn lại thiếu hiệp bản chứng thư ...
Nhưng Kojiro mỉm cười:
- À, bản chứng thư ! Huynh đài cứ giữ lấy.
Gempachi ngạc nhiên:
- Sao vậy ?
- Tại hạ không cần.
- ... ?
- Tại hạ chẳng dùng mảnh giấy ấy vào việc gì được !
- Coi kìa ! Sao thiếu hiệp lại nghĩ thế ? Lệnh sư trong lúc lâm chung đã quyết định cấp cho thiếu hiệp bản chứng thư này, lại sai Tenki trao tận tay thiếu hiệp. Chẳng may dọc đường ông ấy tử nạn. Bấy nhiêu là ưu ái, thiếu hiệp phải biết ơn chứ !
- Sư phụ quyết định những gì, tại hạ đâu biết. Tại hạ có những hoài bão riêng.
- Trời ơi ! Sao thiếu hiệp lại có những ý tưởng khinh mạn như thế ?
- Huynh đài đừng hiểu lầm ý tại hạ. Tại hạ chỉ nói là có hoài bão muốn tiến xa hơn sư phụ, thế thôi. Chưởng môn một kiếm phái vô danh nơi lậu hạng không phải mục đích tại hạ.
- Thiếu hiệp không nói chơi đấy chứ ?
- Tại hạ nói hoàn toàn đứng đắn.
Gempachi lắc đầu như không tin lời mình vừa nghe.
- Tại hạ biết ơn tôn sư nhưng quả thật thấy tờ chứng thư này vô dụng. Ito Yagoro nhận chứng thư do tôn sư cấp nhưng sau đó đã khai triển nhiều chiêu kiếm lạ. Tại hạ cũng có ý ấy và muốn lập một kiếm phái riêng:
Sasaki Kiếm phái. Rồi đây huynh đài sẽ nghe danh Sasaki Kiếm phái lừng lẫy. Cho nên tại hạ không cần bản chứng thư này.
Phiền huynh đài mang về trả cho Chujo phái, bảo họ lưu trữ cùng với những sổ bộ khai sinh, khai tử tại đền.
Nghe Kojiro giương giương tự đắc nêu những tham vọng của hắn ra mà không một lời khiêm tốn hoặc nhún nhường, Gempachi không còn biết nói sao nữa.
- Huynh đài chuyển đến gia đình Tenki lời phân ưu của tại hạ. Sau này có dịp, tại hạ sẽ tới thăm huynh đài.
Lời hắn kiêu ngạo, hàm ý bao bọc che chở. Gempachi không vui, muốn trách hắn mấy câu, nhưng nghĩ kỹ lại thôi vì thấy vô ích. Y bỏ cuộn giấy dầu vào bọc, xốc túi hành trang lên vai, nhặt thiền trượng bỏ đi sau lời từ biệt khô khan.
Kojiro nhìn theo, không giấu nụ cười chế nhạo. “Chắc y giận lắm !”.
Đến gần gốc cây, hắn nhìn Matahachi vẫn còn bị trói, gục đầu ủ rũ:
- Còn thằng này ! Đồ vô tích sự ! Ngươi mạo danh ta làm điều xằng bậy, thật đáng hổ thẹn. Ngươi muốn nói gì không ?
Matahachi lặng thinh. Dĩ nhiên, hắn chẳng có gì để nói.
- Ta đã nghe ngươi xưng danh là Matahachi. Nhưng họ gì ?
- Honiden.
- Có phải là Ronin không ?
- Dạ phải.
- Để ta dạy ngươi bài học. Ngươi đã trông ta trả lại bản chứng thư đấy. Nếu một kẻ mệnh danh là kiếm sĩ mà không đủ kiêu hãnh để tự lập, tự tạo cho mình một cái tên thì kẻ đó kể như vất đi, không đáng nói tới. Ngươi hèn hạ mạo danh ta thì còn gì đáng khinh bỉ hơn nữa.
Kojiro lấy mũi kiếm hất cằm Matahachi lên:
- Ngươi nên nhớ: cáo đội lốt hùm ở đâu cũng chỉ là cáo.
- Dạ dạ ! Từ nay tiểu nhân xin nhớ.
- Ta chẳng giết ngươi làm gì, bẩn gươm. Kệ ngươi ở đây cho chó nó ăn thịt. Làm sao thoát được thì làm !
Hắn định bước đi, nghĩ sao lại rút đoản kiếm phạt một miếng vỏ cây trên đầu Matahachi.
- Ta cần bút mực, ngươi có không ?
- Dạ, trong bọc áo tiểu nhân.
Kojiro mài mực, chấm bút viết lên thân cây:
“Tên này mạo danh ta đi khắp nơi làm nhiều điều vô sỉ. Ta bắt trói nó ở đây cho mọi người phỉ nhổ. Ta, Sasaki Kojiro, ngoai hiệu Ganryu, quyết định trừng phạt nó để cảnh cáo những kẻ mạo danh ta”.
Hắn bỏ bút xoa tay đắc ý.
Đêm đã khuya. Gió thổi mạnh qua tàn thông và cành khô rào rào như nước triều đổ vào ghềnh đá. Tiếng chó tru dữ dội hơn trước.
Kojiro mắt đổ lửa, rảo bước biến vào màn sương dầy đặc tựa con báo đen mất hút trong rừng rậm.


HẾT CHƯƠNG 36.

Acmagiro
02-03-2008, 10:19 AM
CHƯƠNG 37
ĐÃNG TỬ





Chiếc cáng do bốn người khiêng chạy phăng phăng trong đêm, dự trù tới giờ dần thì có thể đến rừng tùng đầu đường Shijo. Cáng là một phương tiện di chuyển có từ lâu, nhưng trước đây chỉ dùng cho các bậc quyền thế và phụ nữ. Sau này, nó được phổ cập trong dân gian, nhà giàu không mấy ai là không có cáng và phu cáng riêng để dùng khi cần đến.
Bây giờ chỗ nào cũng có cáng. Ở kẻ chợ cũng như thôn quê gần các trấn không lấy gì làm sầm uất, nếu vội hay mệt mỏi không muốn đi bộ, khách du vẫn có thể thuê cáng hai hoặc bốn người khiêng tùy theo túi tiền mình có. Cáng thuê thường xấu và thô sơ, đan bằng mây hoặc đóng bằng ván mỏng treo dưới cái đòn tre. Trong cáng, lủng lẳng nhiều sợi dây da sống để khách giữ cho khỏi ngã. Phu cáng đi nhanh thường hát những bài hát bình dân cho bước chân đều nhịp và quên mệt nhọc. Khách ngồi cáng không muốn bị xóc phải giữ chặt những sợi dây da treo ấy và nhún nhảy theo.
Chiếc cáng này đã bốn người khiêng lại còn thêm tên bộc đeo ống tre, mang đèn ***g và bốn phu dự phòng chạy theo. Cả bọn thở hồng hộc. Mặc dầu chiếc đèn ***g mang tên hiệu của một thanh lâu nổi tiếng vùng Osaka, người ta không thấy dấu hiệu gì khác chứng tỏ khách ngồi cáng là một gái giang hồ. Trong đêm lạnh, hơi thở của họ trắng như khói.
Bỗng có tiếng từ trong cáng vọng ra:
- Quách Minh ! Đem rượu !
Tên bộc vội vã chạy vượt lên, tháo ống tre khoác trên vai đưa vào.
- Còn sớm. Hãy dừng chân nghỉ chút đã.
Không ai bảo ai, bốn phu cáng đều chậm bước. Đến chỗ khoảng khoát, họ dừng cả lại, để cáng xuống, rút khăn lau mồ hôi nhễ nhại trên trán.
Trong cáng, Yoshioka Denshichiro nằm dài, đầu gối lên chiếc gối nhỏ, xung quanh quần áo ngổn ngang lẫn lộn với nhiều ống tre đựng rượu mới uống hết.
- Chà, sương lạnh quá. Đây là đâu thế ?
- Đồng Matsubara rồi ! Còn chừng mười dặm nữa thì đến chân cầu Gojo.
- Nhanh đấy. Bây giờ mới đầu giờ sửu.
- Seijuro tiểu chủ đang nóng ruột chờ. Xin huynh trưởng gấp cho.
Mới tu được vài hớp, rượu đã hết, Denshichiro vứt ống tre xuống đất. Hắn trút cơn bực dọc lên đầu tên bộc:
- Biết rồi ! Đã bảo mua kha khá rượu vào mà chỉ được có chút thế này !
Yoshioka Denshichiro, em Seijuro, uống rượu như cái hũ chìm, càng uống mặt càng tái đi. Tính hắn nóng như lửa, khác xa với tính tình Seijuro, nhưng kiếm thuật của hắn cũng tinh vi hơn Seijuro một bậc. Lúc còn sinh thời Yoshioka Kempo, có người dám cả gan so sánh kiếm kỹ của hắn với của lão nhân gia và thấy nhiều chỗ kiếm chiêu của hắn, nếu được khai triển và luyện tập công phu hơn, còn có phần ảo diệu hơn cả của Kempo. Trong võ đường, khi hai anh em giao đấu với nhau, Denshichiro đôi lúc nhường Seijuro mà Seijuro không biết. Điều đó khiến hắn kiêu ngạo. Khi Yoshioka Kempo quy tiên, giao võ đường lại cho Seijuro, Denshichiro không bằng lòng, nhưng chỉ để bụng và từ đấy thôi không tham gia vào bất cứ sinh hoạt gì của phái Yoshioka nữa.
Hắn bỏ mặc, phủi tay coi mình không có trách nhiệm, vung tiền rong chơi những nơi trà đình tửu quán, có khi vắng mặt hàng năm không lai vãng gì đến đường Shijo.
Năm ngoái, sau khi rời khỏi vùng Nara, hắn đến ngụ tại một khách điếm thuộc tỉnh Yamato. Tin Seijuro bị hạ nhục tại đồng Rendaiji làm hắn vô cùng tức giận và dù bất mãn với anh, hắn cũng lập tức trở về võ đường, xem sự thể ra sao để tìm cách rửa hận.
Denshichiro thuê cáng đi bất kể ngày đêm, thay đổi phu cáng đã mấy lần. Mỗi khi tinh thần bị căng thẳng hoặc chấn động như thế, hắn lại phải mượn rượu trấn an. Lần này có lẽ vì tửu lượng không đủ nên sự nóng nẩy đã bắt đầu ló dạng.
Tiếng chó sủa gần bìa rừng về phía miễu mỗi lúc một nhiều. Phu cáng có người lấy làm lạ. Denshichiro nói:
- Khiêng ra đấy coi xem chuyện gì !
Sau khi Kojiro bỏ đi, Matahachi vùng vẫy tìm hết cách cởi dây trói.
Nhưng sợi dây buộc quá bền chặt mà cách trói của tên du tăng giả kia quả đã tinh tế, gã không làm sao thoát ra được. Thấy vắng người, đàn chó đến mỗi lúc một đông, vây xung quanh gã, xù lông nhe nanh, sủa rầm rĩ.
Matahachi càng sợ càng vùng vẫy, mồ hôi toát ra như tắm. Đêm nay, Matahachi đã hai lần suýt chết trong gang tấc, nay bị trói cả tay chân, bất lực trước đàn chó đói này, gã thấy tình thế còn nguy ngập hơn gấp mấy lần.
Như đánh hơi được mồi ngon, đàn chó xông vào càng lúc càng gần. Có con nhảy tới cắn xé áo, gã phải hét lên nó mới lui ra gầm gừ. Tay chân bị trói chặt, không còn cách gì khác, Matahachi chỉ còn bộ mặt là cử động được. Gã trợn mắt, lè lưỡi, gào bằng mọi thứ giọng của dã thú mà gã tưởng tượng ra lúc bấy giờ, kể cả những câu chửi rủa tục tằn để mắng nhiếc ba đời giống chó. Máu ở lỗ mũi tuôn ra, Matahachi chẳng biết đau là gì, nhưng chảy vào mồm làm phiền gã quá. Gã sủa ăng ẳng, gâu gâu rồi hú lên, hy vọng đàn chó sẽ lầm gã với đồng loại. Chẳng biết đàn chó có lầm không, nhưng lúc ấy gã sủa hăng quá tưởng chỉ còn thiếu mọc đuôi ra mà vẫy.
Denshichiro và bọn phu cáng đến gần miễu. Matahachi vẫn còn sủa, nhắm mắt vào mà sủa. Trông Matahachi thật thảm hại:
chân tay trói quặt vào gốc cây, quần áo xốc xếch rách bươm, mặt mũi đầy máu, mồm há hốc ra mà gào, tiếng ằng ặc trong cổ họng không ai phân biệt được là tiếng người hay tiếng chó nữa.
Phu cáng đuổi chó đi, đến bên gốc cây. Gã đã ở trong tình trạng gần như hôn mê rồi. Cắt dây, vã nước vào mặt một lúc, Matahachi mới tỉnh.
- Ai như chồng bà chủ quán Yomogi đây mà !
- Chồng Oko hả ? Oko làm gì có chồng !
- Ờ ờ ! Denshichiro đáp. Ta nghe nói nàng ở với Toji !
Matahachi mệt nhọc lắc đầu. Ai hỏi gì, gã cũng mặc kệ. Gã không còn hơi sức đâu mà xác nhận hay chối cãi điều gì nữa chứ đừng nói đến giải thích.
Mọi người chán quá, để yên gã ngồi dựa gốc cây. Họ có việc cần kíp phải làm, chỉ khuyên gã cẩn thận đừng để chó tới gần nữa. Denshichiro bước vào cáng. Y thèm rượu, bảo phu cáng chạy nhanh cho chóng đến Kyoto rồi nhắm mắt thiu thiu ngủ, quên hẳn chuyện vừa qua như không có việc gì xảy ra cả.
oo Seijuro mở mắt. Cây đèn cạnh chỗ nằm, qua chiếc ***g giấy màu xanh nhạt, tỏa ánh sáng mờ dịu làm căn phòng thêm ấm cúng. Seijuro cảm thấy dễ chịu.
Đã bốn ngày nay, Seijuro nằm liệt giường. Hết mê lại tỉnh, bây giờ sốt đã bớt nhưng cơn đau vẫn còn râm ran, đôi khi buốt nhói đến tận óc. Bốn bề vắng lặng. Tiếng ngáy nho nhỏ của một võ sinh túc trực ngoài cửa vọng vào càng làm tăng sự yên tĩnh.
Không biết giờ này là giờ gì, đêm khuya hay sắp sáng, Seijuro định gọi gia nhân hỏi nhưng lại thôi.
Y sinh chữa cho hắn nói vết thương quan trọng nhất vào những ngày đầu. Xương bả vai vỡ vụn, nếu chỗ dập nát ấy có triệu chứng làm độc thì khó cứu lắm. Một nửa mình bên phải hắn cuốn băng kín mít, vết máu loang ra tận ngoài đã khô thành từng mảng nâu thẫm trên nền vải trắng.
Seijuro run run giơ tay kéo tấm chăn đắp lên ngang ngực. Cử động nhỏ ấy cũng làm hắn đau xét thịt, hắn cắn răng giữ cho khỏi kêu, nước mắt ràn rụa.
“Thôi thế là hết ! Nhưng còn tổ phụ, còn môn phái ! Trời ơi !” Seijuro hét lên căm phẫn, nhưng tiếng hét dường như tắt nghẹn lại trong cổ họng.
Gà gáy sang canh. Ngọn đèn dầu lụi dần rồi tắt phụt trong tiếng”xèo” của dây bấc rớt vào lòng đĩa. Gian phòng tối sầm lại, khung cửa sổ dán giấy trắng hơn. Hình như bên ngoài trời đã bắt đầu hửng sáng. Seijuro nằm lặng nhìn trần nhà. Hồi tưởng lại lúc đối diện Miyamoto Musashi ở đồng Rendaiji, hắn còn như trông thấy trước mặt đôi mắt dữ đội đỏ như hổ phách của địch thủ.
“Đáng lẽ chẳng nên gặp hắn. Ta chưa sẵn sàng. Giá tránh mặt một thời gian và luyện tập thì may ra còn có cơ hội cứu vãn được thanh danh. Ta vội quá !” Lại nghĩ đến những năm dài mê mãi truy hoan, Seijuro hối hận vô cùng, tự giận mình ươn hèn và đánh giá quá thấp địch thủ.
Những bước chân di động ngoài hiên cùng với nhiều tiếng ồn ào cắt đứt dòng tư tưởng của hắn. Hắn đưa mắt nhìn ra cửa. Người võ sinh túc trực bên ngoài bước vào, nét mặt hết sức khích động:
- Tiểu chủ ! Thiếu gia đã về !
Nỗi vui mừng hiện lên nét mặt, Seijuro chớp chớp mắt nhìn bọn gia nhân chạy nhốn nháo, đổ thêm than vào lò và thay đèn mới. Than chưa kịp bắt lửa đã nghe Denshichiro oang oang:
- Thế nào ! Tiểu chủ tỉnh chưa ?
Seijuro vừa mừng vừa tủi. ”Rồi ! Giờ khắc trông đợi đã đến !” Hắn mong được gặp em, muốn nói mấy câu mừng rỡ nhưng lại vô cùng ngần ngại. Mặc dầu chính hắn là người ra lệnh cho đi gọi Denshichiro về nhưng trong thâm tâm hắn sợ, chẳng biết giải thích ra sao về sự thất bại này, nhất là đối với Denshichiro, người em đã nhiều lần coi thường hắn. Nỗi mừng gặp em không che lấp được sự lo lắng ấy. Gương mặt Seijuro trông thiểu não.
- Hà ! Đi suốt đêm mệt quá ! Tiểu chủ thấy chưa, khi gặp khó khăn thì thằng đãng tử này đâu có bỏ tiểu chủ ! Bây giờ tiểu đệ đã về đây rồi, thách đứa nào dám đụng đến bản phái.
Seijuro mỉm cười hài lòng. Denshichiro đến ngồi bên, xoa tay hơ lên mặt lò sưởi.
Nhìn tên gia nhân bưng trà đến, gã cau mặt:
- Gì thế ?
- Dạ, xin mời thiếu gia dùng trà !
- Ta không uống trà ! Hâm cho ta bình rượu !
Ngắm Seijuro nằm dài trên chiếu, da mặt xanh như tàu lá, Denshichiro mủi lòng.
Xa nhau mới hơn một năm, gã thấy anh mình già đi có đến hàng chục tuổi. Gã hỏi, giọng thương cảm, nhưng không giấu vẻ kiêu ngạo che chở:
- Sao tiểu chủ lại để đến nỗi thế này ? Khi gặp nó tiểu chủ sử chiêu kiếm gì ? Thằng ấy chỉ là một tên vô danh, sao để nó tập kích thình lình như vậy ?
Gia nhân mở hé cửa thò đầu vào:
- Trình thiếu gia, rượu đã hâm xong.
- Đâu ?
- Tiểu nhân để ở phòng bên. Xin thiếu gia đi tắm rồi giải khát.
- Ta không cần tắm. Mang rượu vào đây !
- Vào phòng tiểu chủ đang dưỡng thương hay sao ?
- Chứ còn gì nữa ! Đồ ngu ! Bao lâu nay ta không gặp anh ta, bây giờ hàn huyên, để ta uống với anh ta một chút rượu không được à ?
- Dạ dạ ...
Rượu bưng vào, Denshichiro hối hả rót, uống, rót, uống ...
- Khà ! Cái này đáng gọi mỹ tửu đây. Tiểu chủ dùng một chút không ?
Seijuro mệt nhọc lắc đầu, khe khẽ nói:
- Hiền đệ ...Hiền đệ đừng uống rượu trước mặt ta được không ?
- Tiểu chủ bảo gì ?
- Hiền đệ đừng uống rượu. Rượu gợi cho ta nhiều kỷ niệm không vui ...
- Chà, tiểu chủ không đùa đấy chứ ?
Seijuro nghiêm mặt:
- Ta nghĩ đến tiên nghiêm. Nếu người còn sống, chắc chẳng muốn chúng ta sống buông thả thế này đâu !
Denshichiro cười ha hả:
- Tiểu chủ sảng rồi !
- Không, ta không sảng. Bây giờ hiền đệ chưa thấy, còn ta, ta thật hết sức hối tiếc những việc đã làm.
Denshichiro nhếch mép cười chế giễu:
- Đấy là ý riêng tiểu chủ. Tiểu chủ tính tình đa cảm, chí không quyết thì hỏng việc.
Uống vài chung rượu, sao gọi là buông thả ?
Rồi nghiêm giọng, gã tiếp:
- Nếu tiểu chủ muốn biết sự thật thì đây đệ xin nói:
Tiểu chủ giao chiến với Miyamoto Musashi là lầm lẫn. Không phải vì nó giỏi giang gì nhưng vì tiểu chủ không có máu kiếm sĩ.
Đã nhiều lần, đệ yêu cầu tiểu chủ phong kiếm quy ẩn, để chức chưởng môn lại cho đệ, nhưng tiểu chủ không nghe, cứ khăng khăng bảo đó là nghiêm mệnh. Bây giờ nếu võ đường này giao cho đệ xử lý thì đoan chắc với tiểu chủ, nó sẽ phát triển gấp mười lần lúc trước ...
Denshichiro dốc ngược bình rượu, rót những giọt cuối cùng vào chén.
Seijuro nhăn mặt:
- Denshichiro !
Hắn gượng ngồi dậy, nhưng đau quá phải dùng tay trái nắm cổ tay em:
- Này ! Đổ rượu bây giờ !
Denshichiro giữ tay Seijuro, chuyển chén rượu sang tay kia. Seijuro thều thào:
- Thì ta ...thì ta sẵn sàng nhường võ đường lại cho ngươi. Bây giờ còn biết làm sao khác được ! Ngươi thay ta điều khiển bản phái, cố làm rạng danh ...
Chưa nói hết câu, dường như không chịu nổi mệt nhọc, Seijuro để rơi đầu xuống gối, quay đi tránh tia mắt em, hai giọt lệ lăn trên đôi gò má xanh xao.
Im lặng nặng nề bao trùm cả gian phòng. Một lúc lâu mới nghe Denshichiro cất tiếng:
- Được ! Nếu tiểu chủ chỉ muốn có thế ...
- Hiền đệ ! Đừng coi thường lời ta nói. Hiền đệ nên nghĩ kỹ, địch thủ của chúng ta rất lợi hại. Nếu hiền đệ lại tái phạm vào những lỗi lầm ta đã phạm thì thà đóng cửa võ đường còn hơn. Ta ...ta không muốn danh dự tiên phụ bị Ô nhục thêm lần nữa.
- Tiểu chủ yên tâm. Tiểu đệ không như tiểu chủ đâu.
- Hiền đệ hứa tu tỉnh chứ ?
- Tu tỉnh cái gì ? Nếu phải bỏ rượu thì tiểu đệ không nghe lời tiểu chủ được. Tiểu chủ miễn chấp, khi nào cần, tiểu chủ không thể không có rượu ...
Seijuro thở dài:
- Ừ, thôi cũng được. Miễn điều độ. Vả lại rượu chẳng phải là lỗi lầm duy nhất.
Denshichiro hơi mỉm cười:
- Nhược điểm của tiểu chủ là nữ sắc, đệ biết rồi. Khi nào bình phục, có lẽ tiểu chủ nên lập gia đình đi là vừa, để sống vào khuôn phép ...
- Không ! Ta không còn muốn bon chen gì trên trường danh lợi thị phi, nhưng lấy vợ lập gia đình thì chưa phải lúc.
Nghĩ một lúc, hắn tiếp:
- Thế nhưng có một người ta nghĩ ta có trách nhiệm phải cưu mang. Nếu người đó sung sướng thì thật ta không còn mong gì hơn nữa. Ta sẽ sống cuộc đời tàn còn lại, đơn độc, trong một gian nhà cỏ ở ven rừng cũng đủ ...
- Ai thế ?
- Ngươi biết mà làm gì ? Đấy là chuyện riêng, ta sẽ gắng chuộc lỗi. Thôi, ra ngoài đại sảnh gặp anh em đi, ta muốn nằm nghỉ.
- Tiểu chủ yên tâm. Đệ hứa sẽ trả mối thù không đội trời chung này. Thằng Musashi bây giờ ở đâu ?
- Denshichiro ! Seijuro chằm chằm nhìn em. Thì ra hiền đệ vẫn chưa hiểu ý ta sao ? Ta vừa cảnh cáo ngươi đừng phạm vào những lỗi lầm ta đã phạm ...
- Thằng đó là kẻ thủ không đội trời chung với bản phái. Chính tiểu chủ sai người đi tìm tiểu đệ về, nếu không phải để rửa hận ngay thì tại sao lại phải vội vàng thế ?
Seijuro lắc đầu, nghiêm giọng:
- Không hấp tấp được. Lúc này ...lúc này ...ta cấm hiền đệ giao đấu với nó ...
Denshichiro ngạc nhiên, bực tức. Sự cấm cản của người anh trong thâm tâm gã không phục chỉ làm gã khó chịu.
- Tại sao ?
- Vì ngươi không thắng được nó !
Denshichiro mặt xám lại:
- Tại sao không ? Một kiếm phái lẫy lừng như Yoshioka phái mà không thắng nổi tên vô danh tiểu tốt ấy à ?
- Không !
Thanh âm Seijuro tuy nhỏ nhưng đầy xác tín và bi phẫn.
Denshichiro cười ha hả, rung động cả hai vai. Gã uống nốt chén rượu, chống tay đứng lên, đá chiếc bình không lăn lông lốc trên sàn, hét lớn:
- Mang bình rượu khác vào đây. Hết rồi !
Người nhà mang rượu đến, nhưng Denshichiro đã bỏ đi. Seijuro nằm nghiêng, đầu lệch sang bên. Tên người nhà hoảng hốt quỳ xuống đỡ đầu chủ đặt ngay ngắn lên gối và kéo chăn đắp. Seijuro mệt nhọc bảo:
- Thiếu gia đâu, mời trở lại, ta còn muốn nói câu chuyện.
Yên tâm vì tình trạng Seijuro không có gì đáng ngại, tên người nhà lùi ra ngoài đi tìm Denshichiro.
oo Ngoài đại sảnh, bọn Ueda Ryohei, Miike Jurozaemon, Nampo Yoichibei, Otaguro Hyosuke và hai ba người khác vào hàng cao cấp của phái Yoshioka đang họp nhau bàn bạc, nét mặt nghiêm trọng.
Thấy Denshichiro đến, cả bọn đứng dậy thi lễ.
- Thiếu gia đã gặp tiểu chủ chưa ?
- Ta vừa ở đó ra.
- Tiểu chủ có vui mừng được tái ngộ thiếu gia không ?
- Cũng vậy thôi. Ta với anh ta tính tình xung khắc, ít khi đồng ý về việc gì, nên gặp nhau mà chẳng mãn ý.
- Tiểu chủ nói những gì về chuyện bản phái ?
- Tiểu chủ trao quyền chưởng môn cho ta. Hiện nay bào huynh ta còn mệt, chắc sẽ có văn thư sau ...
- Thế còn việc trả hận ? Chúng đệ phải làm gì ?
- À ...à ...việc đó chưa quyết định rõ ràng ...và cũng chính là điều bất đồng ý kiến giữa anh em ta.
Mọi người yên lặng, mỗi người theo đuổi một ý kiến riêng. Ueda lấy tư cách người có niên kỷ cao nhất trong bạn, đưa ra lời khuyên:
- Thiếu gia với tiểu chủ tính tình xung khắc ai cũng biết. Nhưng chẳng may tiểu chủ thương tích trầm trọng chưa hồi phục, thiển nghĩ thiếu gia chẳng nên tranh luận làm gì...
Denshichiro hơi bực mình nhưng nể Ueda, gã chỉ ôn tồn vỗ vai lão:
- Ueda đệ không biết, bào huynh ta có ý chê ta không đủ tài thắng tên đó nên cấm ta giao đấu với nó ...
Ueda gật gù:
- Đệ hiểu.
Denshichiro chăm chú nhìn lão:
- Hiểu là hiểu thế nào ?
Ueda không giải thích nhưng rõ ràng lão cho Seijuro nói phải. Bầu không khí trở nên ngột ngạt.
Vừa may tên người nhà mở cửa bước vào:
- Xin mời thiếu gia trở lại. Tiểu chủ có lệnh muốn được đàm đạo thêm với thiếu gia.
Denshichiro cau mặt:
- Rượu đâu ?
- Dạ ! Để ở phòng tiểu chủ.
- Mang đến đây !
Jurozaemon ngập ngừng:
- Thế thiếu gia không muốn trở lại xem tiểu chủ muốn ...
Gã chưa kịp nói hết câu, Denshichiro đã cắt ngang:
- Không cần !
Rồi quay sang hất hàm bảo tên người nhà:
- Đi lấy rượu ! Đứng đấy à ?
Mọi người nhìn nhau, vẻ ngạc nhiên hiện trên nét mặt. Denshichiro giận dữ:
- Các ngươi sao thế ? Sợ tên khốn kiếp ấy cả chăng ?
Mấy ngày nay, đồ chúng Yoshioka họp nhau lại từng nhóm, bàn tán rất nhiều về mối nhục thất trận của chưởng môn. Không ai không uất hận, nhưng đến khi tìm cách trả thù thì ý kiến chia thành hai phái:
một phái muốn giết Miyamoto Musashi ngay. Phái này có những phần tử cực đoan, đòi hạ thủ hắn ngay tức khắc, dù bằng những phương tiện không chính thống, không được võ lâm coi trọng, tỷ như dò la chỗ ở của Musashi rồi đặt người phục kích quăng lưới bắt sống, hoặc lấy câu liêm giật cho ngã. Thậm chí có kẻ còn đề nghị dùng ngụy kế lừa gạt và đầu độc nữa. Phái kia ôn hòa hơn, chủ trương rửa hận trong danh dự, kêu gọi anh em nhẫn nhục một thời gian để cải tổ và tập luyện cho hoàn chỉnh rồi mới hành động. Đứng đầu phái này là Jurozaemon, có Ueda ủng hộ và chưởng môn Seijuro mặc nhiên chấp thuận.
- Bào huynh ta nhát như cáy ngày, trúng thương một lần đã rụt vòi lại. Chim bị tên sợ cây cong, chẳng nói làm gì, nhưng ta đâu phải kẻ khiếp nhược mà phải nghe lời bào huynh ?
Rượu mang đến, Denshichiro tự tay rót uống rồi đẩy khay sang cho mọi người.
Không khí cởi mở hơn.
- Ueda đệ có mặt tại đồng Rendaiji ngày hôm đó, thấy những gì kể lại ta nghe.
- Thưa thiếu gia, ngày hôm đó tuy đệ có mặt ở đồng Rendaiji thật nhưng không được tận mắt mục kích trận đấu. Tuy nhiên theo lời tên võ sinh Miike Jurozaemon theo hầu tiểu chủ thì dường như tiểu chủ bị tập kích.
Và Ueda thuật lại hết những chuyện đã xẩy ra như lời Miike Jurozaemon nói.
- Hừ ! Denshichiro gật gù. Bào huynh ta rõ ràng bị tập kích rồi, nhưng bảo là bị đánh lén thì cũng không đúng. Hai bên đã trực diện nhau. Bào huynh ta chí không quyết nên bị sơ hở.
Hắn cầm chén rượu uống cạn:
- Ta sẽ tìm Miyamoto Musashi quyết tử với nó.
Jurozaemon vội cất tiếng can:
- Thưa thiếu gia ! Không ai ngờ vực tài năng của thiếu gia, nhưng ...
Vừa định rót thêm rượu, Denshichiro khựng lại:
- Nhưng cái gì ?
- Theo thiển ý, giao đấu với Miyamoto Musashi không phải là chuyện quan trọng.
Quan trọng là danh dự của môn phái nằm trong kết quả của sự giao đấu ấy. Xin thiếu gia nghĩ đến hiểm họa ...
Denshichiro dằn mạnh chén rượu xuống bàn:
- Hiểm họa ! Hiểm họa ta thua nó chăng ?
- Tiểu đệ không có ý nghi ngờ ...Jurozaemon lắp bắp. Tiểu đệ xin rút lại ...
Nhưng mũi tên đã bắn đi, hậu quả không ngăn lại được nữa. Denshichiro đứng phắt dậy nắm áo Jurozaemon đẩy mạnh vào tường.
- Cút ! Đồ hèn. Ta không muốn có những tên đồ đệ nhát như cáy. Cút đi cho khuất mắt.
Mặt Jurozaemon xám lại vì ngạc nhiên và căm giận. Nhưng gã tự kềm chế. Gã chỉ xốc lại áo, cúi đầu điềm đạm:
- Xin đa tạ thiếu gia đã lưu tình.
Rồi đến trước bàn thờ tổ ở cuối phòng thắp hương làm lễ và lặng lẽ bỏ đi.
Không ai nói câu gì. Bầu không khí trong phòng tưởng như có phiến đá ngàn cân đè nặng. Denshichiro một mình ngồi rót rượu uống hết chén này đến chén khác, một lúc lâu mới cất tiếng:
- Nào, chúng ta cùng nâng chén rồi giải tán thôi. Ta chắc thằng Musashi chưa rời khỏi Kyoto này đâu. Nó còn quanh quẩn đâu đó để khoe khoang thành tích. Anh em hãy trở về võ đường dượt lại và hướng dẫn võ sinh tập luyện. Bảo họ phải hết sức và nói cho họ biết ta sẽ không nhẹ tay như bào huynh ta đâu !
Đúng một tuần sau, một võ sinh hớt hải về báo cáo:
- Đã biết chỗ nó trốn rồi !
Trong thời gian ấy, Denshichiro cũng không xao lãng việc luyện tập. Buổi tối, gã ôn lại những bí kíp võ công, những chiêu thức bí mật chỉ truyền cho người cầm đầu môn phái. Ban ngày, sau ba bữa rượu thường lệ, gã ra võ đường tiếp cận đại sảnh cùng với đồ chúng Yoshioka dượt lại những chiêu kiếm của môn phái. Sức mạnh của gã cùng cách sử dụng tinh xác những chiêu kiếm bình thường này mà hàng ngày võ sinh vẫn đem ra tập luyện với nhau làm mọi người ngạc nhiên và hãnh diện vô cùng. Mọi hy vọng phục thù đều đặt trong tay Denshichiro.
Denshichiro ngưng tập dượt. Gã gác kiếm lên giá, gỡ mặt nạ, lau tay, quay ra hỏi tên võ sinh đứng cúi đầu chờ lệnh.
- Hay lắm. Ngươi thấy nó ở đâu ?
- Trình thiếu gia, ở ngõ Honami. Miyamoto Musashi tới ngõ Honami thì đi thẳng vào tư thất Koetsu.
Denshichiro nhìn về phía trước, mặt đăm chiêu:
- Quái ! Sao tên quê mùa ấy lại biết Koetsu ?
- Tiểu nhân không rõ.
- Thôi được, đi ra !
Đoạn Denshichiro quay ra nói với mọi người:
- Anh em chuẩn bị ! Ta đến ngõ Honami bây giờ !
Nhưng Ueda và Yoichibei vội chạy theo:
- Thiết nghĩ làm thế không ổn. Người ngoài sẽ cho mình sinh chuyện gây hấn. Nếu có thắng cũng không tránh khỏi dị nghị.
- Cần quái gì ! Nghi lễ là để dùng ở võ đường. Trên chốn giang hồ, trong những cuộc tranh phong, kẻ nào thắng là thắng, xá gì đến nghi lễ.
- Đúng vậy ! Nhưng xin thiếu gia nghĩ kỹ, tên đó đâu có thắng tiểu chủ bằng cách ấy. Mình là chưởng môn một danh môn chính phái phải thủ lễ chứ. Thiếu gia khoan đã, hãy gửi cho nó một phong thư định ngày tháng và nơi hẹn, rồi đường đường chính chính mà thắng nó chẳng hơn ư ?
- Ừ, Ueda đệ nói có lý. Chúng ta làm thế cũng được !
Đoạn thêm:
- Ueda đệ bảo người viết thư ngay. Mà ta không muốn bào huynh ta hay bất cứ người nào ngăn cản ta làm việc này. Ta nhất định phải giết nó, không trì hoãn lâu được !
- Thiếu gia không ngại.
Yoichibei nói trấn an:
- Chúng đệ sẽ không để xảy ra chuyện như vụ Jurozaemon và Toji. Thiếu gia thấy có cần phải trình tiểu chủ về việc này không ?
- Dĩ nhiên phải cho tiểu chủ biết. Nhưng chuyện đó để ta làm.
Cả hai theo chân Denshichiro. Đến phòng Seijuro, họ đứng ngoài chờ, thầm cầu nguyện cho hai anh em nhất trí hành động, đừng mỗi người một ý. Một lúc sau thấy vẫn im lặng, đồ chừng câu chuyện đã dàn xếp xong, Ueda và Yoichibei bắt đầu bàn bạc về ngày giờ thuận tiện nhất cho cuộc gặp gỡ. Thì bỗng nghe tiếng Denshichiro gọi lớn:
- Ueda, Yoichibei, vào cả đây ! Cần lắm !
Cả hai đẩy cửa ùa vào, thấy Denshichiro đứng sững giữa phòng, mặt tái mét. Gã cầm phong thư dài, tay run run cố kìm sự giận dữ chỉ chực nổ tung:
- Này ! Các ngươi xem ! Thật u mê cực độ ! Ra lệnh chỉ cấm ta và toàn phái đối đầu với nó lúc này. Đóng triện son rồi bỏ đi không biết nơi nào nữa. Hèn nhát thế này thì làm sao nghe lời được.


Hết chương 37.

Acmagiro
03-03-2008, 09:51 PM
CHƯƠNG 38
NGƯỜI MẸ




Otsu đặt giỏ khâu xuống lắng nghe. Hình như có tiếng chân người bước nhẹ ngoài vườn.
- Ai đó ?
Nàng đứng dậy đẩy cửa nghiêng đầu nhìn ra. Bên ngoài vắng lặng, chỉ thấy gió thổi xào xạc và tiếng những chiếc lá phong khô theo nhau lăn nhanh trên sàn gỗ.
Otsu quay trở vào, buồn bã. Đã mấy ngày nay, nàng đợi Jotaro nhưng không thấy tăm hơi thằng bé, không biết chuyện gì đã xảy ra cho nó ? Bà Honiden rời khỏi nhà trọ từ sáng sớm. Cuộc đời của bà bây giờ chỉ còn quanh quẩn ở mấy việc:
tìm Miyamoto Musashi, gặp lại con trai và đi chùa lễ Phật.
Một mình trong phòng vắng, nỗi cô đơn và phiền muộn bao quanh, Otsu không còn lòng dạ nào chú tâm đến việc kim chỉ.
Làng Sannen này thuộc trấn Kiyomi thật là hẻo lánh. Khách phần đông vãng lai chỉ vì mục đích hành hương và viếng thăm cổ tích. Con đường băng qua làng gập ghềnh khó đi, mùa đông tuyết phủ đến mắt cá chân, mùa xuân lầy lội. Tuy vậy cảnh Sannen quyến luyến lòng người, vì sau con đường lầy lội ấy là những căn nhà tranh gọn ghẽ lẩn bên giậu trúc xanh với những khóm trà đơm hoa trắng, đỏ. Cuối xuân, hoa mận hoa mơ rụng đầy. Cảnh vật kém phần tươi đẹp nhưng mang một sắc thái riêng, gây cho khách du một nỗi buồn man mác.
Bà Honiden không lần hành hương nào qua trấn Kiyomi mà không đến trọ Ở quán Đại Lộc trong làng Sannen. Chủ quán biết ý khách ưa tĩnh, bao giờ cũng dành cho bà một căn thảo ốc riêng biệt phía sau vườn, bên gốc đào cổ thụ. Bấy giờ mới chưa hết tháng giêng, hoa đào đang rộ nở, rực rỡ vô cùng. Những cánh hoa mỏng run run trước gió, cạnh mấy cái mầm non mới nhú ở đầu cành xanh như ngọc.
Mùa xuân trở lại, đáng lẽ phải vui tươi, nhưng sao Otsu cảm thấy bồn chồn lo lắng quá. Nàng ngồi thừ người bên chiếc giỏ khâu nghĩ ngợi, không để ý đến vợ người chủ quán từ dưới bếp gọi vọng lên. Mãi sau, nghe tiếng đập cửa, nàng mới giật mình.
- Gần ngọ rồi, cô nương muốn dùng cơm chưa để cho người mang tới ?
- Ô ! Đã đến giờ ăn rồi đấy ! Thôi ta đợi lão bá về ăn một thể.
- Lão bá dặn hôm nay về trễ. Cô nương chẳng đợi được đâu !
- Nhưng ta không đói.
- Không đói cũng phải ráng, chứ ngày một bữa thì sao đủ sống ?
- Cảm ơn bác, thật tình ta không đói mà.
Sau nhà, bác thợ gốm đã đốt lò. Khói củi thông bốc cao, cuồn cuộn đen trong bầu trời trong vắt. Mùi nhựa thông thơm và hơi cay thoang thoảng đưa vào tận phòng Otsu.
Ngoài đường, tiếng ngựa hí, tiếng chân người đi lẫn với những tiếng cười nói lao xao.
Cùng với những câu chuyện buôn bán trong vùng, chuyện thờ cúng ở đền miếu còn cả chuyện Denshichiro, kẻ đãng tử mới trở về làm chưởng môn Yoshioka phái. Otsu chú ý lắng tai nghe. Hôm xảy ra cuộc giao đấu ở đồng Rendaiji, nàng đã cố tìm cách đến đó nhưng không được. Bà Honiden đi, giao nàng cho vợ chồng chủ trọ canh giữ. Mỗi khi nàng cất bước ra ngoài hoặc chỉ mở cửa nhìn ra đường cũng đã có người trông chừng để mắt dòm ngó.
“Cô nương đi đâu ? Có về ăn cơm trưa không ?” hoặc “Hôm nay trời lạnh, cô nương phải cẩn thận đừng ra ngoài !”. Lời nói xem ra tự nhiên, nhưng Otsu đã hiểu ngụ ý.
Nàng muốn viết phong thư gửi cho Jotaro ở lâu đài tướng công Mitsuhiro nhưng lại thôi, vì dự đoán thế nào rồi thư cũng bị chận lại, chắc gì đến tay nó được.
Dân làng Sannen thuần hậu, cả tin và bảo thủ. Họ cho lão bà Honiden giữ con dâu ở đây tất có lý do chính đáng nên không dám trái ý bà, một người đối với họ là tượng trưng của uy quyền đảng tộc.
Otsu thở dài. Nàng nghĩ đến Miyamoto Musashi. Như con chim bị nhốt, nàng bất lực. Sự so sánh tình trạng hiện nay với con chim bị giam giữ, nàng thấy thật chua chát.
Otsu nghĩ đến thân phận mình, phải rồi, nàng còn bị giam trong cái ***g lễ giáo nữa, vì mặc dầu bị từ hôn, xã hội vẫn coi nàng là con dâu nhà Honiden.
Otsu mang chiếc áo lụa của bà cụ ra khâu những đường chỉ sứt và xếp gọn lại. Có bóng người thấp thoáng ngoài song rồi tiếng nói trong trẻo của một thiếu nữ:
- Chẳng biết phải đây không ?
Thiếu nữ trạc hai mươi, đôi mắt đẹp não nùng, đứng bên hàng giậu trúc phía vườn sau. Thấy Otsu, nàng hỏi vọng vào:
- Nhà này phải quán trọ không tỷ tỷ ?
Otsu nhìn, ngạc nhiên. Nàng đã nhận ra cô bé này trong vòng tay Miyamoto Musashi dưới chân cầu đường Gojo mà Jotaro gọi tên là Akemi thì phải. Kỷ niệm đau thương nổi dậy làm nghẹn lời, Otsu trừng trừng nhìn Akemi không chớp. Akemi tưởng mình lầm, xin lỗi và hỏi chữa:
- Thưa tỷ tỷ có biết quán trọ chỗ nào, chỉ em ...
Nhìn cây đào nở rộ, nàng suýt soa:
- Trời ơi đẹp quá ! Tỷ tỷ ở đây thật thích.
Một nữ tỳ chạy đến:
- Cô nương tìm chỗ trọ ?
- Phải.
- Vậy mời cô nương đi lối này. Cổng vào ở phía trước.
- Quán này trông ra đường à ?
- Vâng, nhưng yên tĩnh lắm.
- Ta thích ở chỗ xa mặt đường riêng biệt, đi về không ai để ý. Căn nhà nhỏ này dễ thương quá, có cho thuê không ?
- Dạ có, nhưng nhà đã có người thuê rồi.
- Cô nương ngồi kia đó hả. Để ta ở chung với cô được không ?
- Chắc không được đâu, vì còn bà mẹ già nữa. Bà cụ khó tính lắm. Nhưng bây giờ bà đi vắng, để khi về cô nương hỏi xem.
- Vậy cho ta mướn căn phòng ở tạm. Ngươi dẫn ta đến gặp chủ nhân.
- Vâng. Cô nương theo cháu.
Cả hai thoăn thoắt men hàng rào ra phía đường, để Otsu ngồi ngẩn ngơ tiếc đã bỏ lỡ dịp tốt hỏi thiếu nữ vài câu. Nàng thẫn thờ tự trách:
“Mình thật chậm chạp. Cơ hội thế mà bỏ qua. Bận sau phải nhanh trí hơn mới được !”.
Để dẹp những ý tưởng ghen tuông nhen nhúm, Otsu đã nhiều lần tự nhủ Miyamoto Musashi chẳng phải người trăng hoa. Chàng gặp Akemi dưới chân cầu chưa chắc đã là vì có tình ý. Nhưng bây giờ ... bây giờ ... nhìn Akemi, những điều nàng tự nhủ hầu như sụp đổ. Cái dáng đi quyến rũ ấy, đôi mắt buồn não nùng ấy, làm sao mà Miyamoto Musashi có thể vô tình được ! Nàng lại khôn khéo hơn ta. Trời ơi ! Và Otsu đột nhiên như thấy muôn ngàn cây kim đâm vào tim đau nhói. “Chẳng qua mình không đẹp bằng, mình lại là đứa mồ côi, không gia đình thân thuộc, hy vọng gì Miyamoto Musashi để ý.
Thật là mơ ước hão huyền !”. Hơn lúc nào hết, Otsu mong găp Jotaro vì bây giờ, nàng nghĩ, chỉ có nó là người có thể giúp nàng được mà thôi.
Hồi tưởng đến ngày còn ở chùa Shippoji và khi cứu Miyamoto Musashi khỏi cây đại bách trong một ngày dông bão, Otsu thở dài, hai hàng nước mắt rưng rưng. Nàng kéo tay áo lên thấm:
“Mình nhiều tuổi rồi, chẳng còn vô tư như nó mà cũng không còn can đảm làm gì nữa”.
- Otsu ! Ngươi có trong phòng không ? Làm gì mà để tối thui không thắp đèn đóm gì cả thế này ?
Tiếng bà Honiden the thé ngoài hiên khiến Otsu giật mình. Hoàng hôn xuống từ bao giờ nàng cũng chẳng hay. Nàng vội vàng đi thắp đèn, mang lại đặt bên cạnh chỗ ngồi của bà Honiden. Bà nhìn nàng, lạnh lùng.
- Hôm nay chắc bà mệt. Bà gặp Matahachi không ?
- Ngươi trông ta khắc biết, hỏi gì nữa.
Bà nhăn mặt kêu đau. Otsu vội quỳ xuống:
- Để con bóp chân cho.
- Không, chân không đau, nhưng vai thì mỏi lắm. Có lẽ tại trời ẩm, bệnh thấp nó hành. Ngươi bóp vai cho ta.
Otsu vòng ra sau lưng, dùng tay bóp và đấm nhè nhẹ lên vai bà lão. Bà thở ra khoan khoái, cười nói:
- Con dâu ta khéo quá !
Nhưng trong thâm tâm, bà nghĩ:
“Chẳng còn bao lâu đâu con ạ. Chờ ta tìm được thằng Matahachi rồi mày sẽ biết”.
- Bắp thịt trên vai bà sao cứng thế ! Bà thở có thấy đau ngực không ?
- Ờ đau. Đôi khi như có cục đá đè lên. Chắc ta cũng sắp hết lộc trời rồi.
- Chỉ nói gở. Bà còn khỏe lắm, thanh niên cũng chẳng hơn đâu !
- Ở đời biết thế nào được. Như cậu Gon đấy, hôm trước mạnh hôm sau đã ra người thiên cổ. Nên ta phải cố tìm thằng Takezo trước khi ta chết.
Thấy bà Honiden nhắc đến Miyamoto Musashi, Otsu rụt rè hỏi dò:
- Con xem ra Miyamoto Musashi cũng không phải là người xấu.
Bà Honiden khẽ nhếch mép, liếc nhìn Otsu:
- Hừ ! Cô thương nó hơn thằng Matahachi phải không ?
- Không phải thế !
- Thế sao lại ruồng rẫy con ta ?
Otsu lặng thinh. Nàng chẳng muốn nhắc đến thư từ hôn của Matahachi làm gì vì biết nói ra, bà Honiden cũng chẳng tin nào.
- Ta sẽ tìm thằng Matahachi dẫn về đây rồi tùy nó và ngươi định liệu. Về làng cáo gia tiên xong, chúng bây muốn đi đâu thì đi. Nhưng ta chắc ngươi và nó lại đi rêu rao kể xấu ta khắp nơi chứ gì ?
- Sao bà ngờ con vậy ? Con đâu phải hạng người như thế. Khi ở làng bà đối với con thế nào con nhớ chứ !
- Cha ! Các cô thời nay ăn nói khéo quá. Ta cổ hủ thật nhưng thật thà nghĩ sao nói vậy. Này ta bao thật, nếu ngươi lấy thằng Takezo, ta sẽ không đội trời chung với ngươi, bấy giờ thì đừng trách.
Otsu lặng thinh.
- Sao ngươi khóc ?
- Con khóc đâu ?
- Thế nước gì rỏ vào gáy ta thế ?
- Con xin lỗi. Con không cầm được cảm xúc.
- Ừ thôi, bỏ chuyện ấy đi. Đừng nghĩ đến nữa. Bóp mạnh mạnh lên một chút, phía bả vai ấy.
Ngoài vườn, thấp thoáng ánh đèn. Otsu ngỡ con hầu giờ này thường mang cơm tới, nhưng khi ánh đèn đến gần thì ra là một nhà sư. Trên ***g đèn nhà sư cầm thấy đề chữ “Sơn Thần Miếu”.
- A di đà Phật.
Bà Honiden chạy ra.
- Xin cho bần tăng hỏi thăm, quý thí chủ phải chăng là Honiden lão bá ?
- Dạ phải, đại sư có điều chi dạy bảo ?
- Bần tăng ngụ Ở miếu Sơn thần. Chiều nay có kiếm khách đến hỏi thí chủ. Biết thí chủ thường lên lễ miếu, vị đó để lại thư này nhờ chuyển cho thí chủ. Nhân có việc vào thành, bần tăng mang đến giao cho thí chủ đây.
Nói đoạn, móc trong bọc ra một cuộn giấy niêm kỹ đưa cho bà Honiden. Bà cúi đầu đỡ cuộn giấy, mời nhà sư vào trong nhà dùng trà. Nhưng nhà sư thoái thác, viện lẽ trời tối, sợ vào thành khuya quá rồi lui bước.
“Chẳng biết thư của ai đây ?”. Bà Honiden vào phòng, cởi dây buộc và bật dấu sáp niêm. Bà ghé thư vào ánh đèn đọc. Càng đọc mặt bà càng tái nhợt, tay cầm tờ giấy mỏng run lật bật.
- Otsu !
- Con đây ! Tiếng nàng đáp từ trong phòng vọng ra.
- Thôi khỏi cần pha trà. Nhà sư đi rồi !
- Con pha xong rồi đây. Nếu khách đi rồi thì bà con ta uống.
- Hừ, con này hỗn. Ta có phải là cái ống cống đâu mà ngươi muốn đổ nước gì vào thì đổ. Để trà đấy, mặc áo đi với ta.
Otsu ngạc nhiên:
- Đi đâu ?
- Đi giải quyết cái việc ngươi đang mong chứ đi đâu !
- À thế thư là của Matahachi đấy hả bà ?
- Không việc gì đến ngươi !
Otsu tiu nghỉu. Nàng không hiểu sao bà Honiden đối với nàng hay giận dữ như thế. Nàng cho là vì tuổi già, bà dễ buồn bực.
- Để con gọi người dọn cơm.
- Vậy ngươi chưa ăn cơm à ?
- Chưa, con đợi bà về.
- Ta ăn cơm ngoài tiệm rồi. Thật con này ngu chẳng ai bằng. Vậy xuống bếp bảo họ dọn cơm mà ăn. Mà nhanh nhanh lên đấy.
Otsu mở cửa bước ra, bà còn gọi với:
- Đêm nay chắc lạnh. Ngươi đã khâu xong áo cho ta chưa ?
- Dạ xong cái kimono rồi.
- Ta không nói cái kimono. Ta nói cái áo khoác ngoài kia. Ta đã lấy ra để ngươi khâu cùng một lúc với chiếc kimono mà. Lại còn đôi bít-tất nữa, giặt chưa ? Và chiếc quai dép cũng sắp đứt rồi, bảo họ đi mua cho ta đôi khác ...
Những lời sai bảo của bà Honiden đổ lên đầu Otsu dồn dập như mưa bấc, đến trả lời còn không kịp, nói gì làm xong. Otsu vâng dạ liên hồi. Lòng sợ hãi bà Honiden bắt nguồn từ khi nàng còn ở làng khiến nàng tê dại không còn biết phản ứng ra sao, chẳng khác gì con ếch nhỏ bị thôi miên trước đôi mắt sắc lạnh của con rắn.
Cơm dọn ra, Otsu không còn muốn ăn nữa. Nàng nhịn luôn. Tàn nén hương, bà Honiden ở trên nhà đã giục lên đường. Otsu mang áo khoác, gậy và dép của bà đặt trước cửa.
- Thế đèn đâu ?
- Phải mang đèn nữa ư ?
- Mô Phật ! Sao lại có người ngu đến thế ! Tối thu thế này mà ngươi để ta lần mò trên núi không đèn đóm gì hay sao ?
- Con quên mất. Để con đi lấy.
Otsu không dám hỏi bà Honiden đi đâu, về hướng nào, sợ lại làm bà nổi giận.
Nàng chạy đi mượn chiếc đèn ***g rồi cắm cúi đi trước, theo con đường nhỏ dẫn đến chân núi Sannen. Cả hai lặng lẽ bước. Sương đêm lùa vào áo. Otsu lạnh nhưng trong lòng nàng mừng rỡ vì sắp gặp Matahachi. Trước mặt bà Honiden, nàng sẽ mạnh dạn trình bày những điều u uẩn, những điều ray rứt nàng bấy lâu nay và sẽ giúp nàng giải quyết êm đẹp vấn đề tình cảm của hai người, Matahachi và nàng. “Xong rồi, ta sẽ đến lâu đài Mitsuhiro tướng công gặp Jotaro. Ta phải gặp nó mới được”.
Nghĩ đến đây Otsu vui hẳn lên, không thấy lạnh và cũng không còn đói nữa.
Đêm khuya trèo núi thật chẳng dễ gì, nhất là đối với một bà già và một thiếu nữ yếu đuối như Otsu. Cả hai phải thận trọng từng bước để khỏi ngã trẹo chân hay sa xuống hố.
Thỉnh thoảng tiếng cú rúc đằng xa làm đêm vắng càng thêm tịch mịch. Trời cao đen thẫm, vài ngôi sao thưa nhấp nháy.
Đi được một lúc khá lâu, bà Honiden dừng lại lắng tai nghe. Hình như có tiếng rì rào, gió đưa vẳng tới khi xa khi gần, không phân biệt được về hướng nào.
- Otsu ! Tai người còn thính, nghe phải tiếng suối không ? Về phía nào vậy ?
Otsu chú ý rồi lấy tay chỉ:
- Về phía này.
- Đúng rồi. Ta chắc đấy là suối sau phía miếu Sơn thần.
Quả nhiên đi một thôi nữa, tiếng suối nghe rõ mồn một. Suối không lớn nhưng tiếng kêu rào rào của dòng nước đổ vào ghềnh đá trong đêm vắng nghe gần như chỉ cách chỗ hai người đứng chừng vài chục trượng. Bà Honiden và Otsu lại cắm cúi đi. Đến bên một cây anh đào thật lớn cành xòe ra như tán, hoa rụng đầy đất, thấy chiếc bảng gỗ lợp mái. Otsu giơ đèn soi, thấy trên bảng viết sáu chữ:
“Sơn thần miếu, anh đào thụ”. Bà Honiden giằng lấy đèn trên tay Otsu, kề sát bảng đọc cho rõ.
Đọc xong bà gọi, tiếng vang động cả sơn lũng:
- Matahachi ! Ma ... ta … ha ... chi ... Mẹ đây !
Bà run run chứng tỏ bị khích động đến cùng cực. Sắc mặt bà nhợt nhạt nhưng ánh mắt long lanh. Lòng mẹ thương con toát ra trên khắp cơ thể bà, từ cánh tay gầy guộc run rẩy vịn vào tấm bảng bên gốc đào đến những lời lắp bắp bà nói, chẳng biết với Otsu hay với chính bà:
- Nó bảo đợi ta ở đây mà ! Ma ... ta … ha ... chi ...
Otsu gần bà Honiden đã lâu nhưng chưa bao giờ thấy bà bị khích động sâu xa đến thế.
- Otsu ! Chớ để đèn tắt.
Bà đưa đèn cho Otsu cầm, bảo nàng đi vòng quanh thân cây rồi theo bà trèo những bậc thềm đá lên miếu.
- Trong thư nó nói sẽ đợi ta cạnh gốc anh đào gần miếu Sơn thần.
- Matahachi nói đợi bà tối nay sao ?
- Không nói tối nay mà cũng chẳng nói rõ tối nào cả. Cái thằng ! Bao giờ cũng như con nít, có lớn mà chẳng có khôn. Không hiểu tại sao nó không đến gặp ta tại nhà trọ ?
Otsu kéo tay áo bà lão:
- Yên ! Con nghe hình như có người đang đi lên.
Bà Honiden run rẩy:
- Con trai ta đấy ư ?
Rồi xăm xăm bước xuống. Nhưng người đi lên không phải Matahachi. Đó là một thanh niên cao lớn, y phục màu xanh, vai đeo trường kiếm. Gã bước nhanh qua mặt hai người, vòng ra sau miếu, một lát lại trở lại chỗ hai người đứng.
- Lão bá và cô nương có gặp một thiếu nữ ở trên này không ?
Bà Honiden lắc đầu. Otsu nhìn gương mặt thanh niên khi mờ khi tỏ dưới ánh đèn thì ngờ ngợ đã gặp ở đâu mà không nhớ.
- Thiếu nữ tại hạ đang tìm cũng trạc tuổi cô nương, nhưng thấp hơn cô nương một chút và gương mặt tròn hơn. Nàng tên Akemi, trước làm tại một phòng trà ở ngoại thành. Lão bá và cô nương có thấy thiếu nữ ấy quanh vùng này không ?
Cả bà Honiden lẫn Otsu đều lắc đầu.
- Quái lạ. Có người nói nàng trốn ở miếu sơn thần.
Nói đoạn, thanh niên hối hả rẽ sáng ngả khác. Bà Honiden nhìn theo lẩm bẩm:
- Lại một thằng vô tích sự ! Lưng đeo trường kiếm trông ra vẻ kiếm khách lắm nhưng đêm tối đi săn gái.
Otsu cúi đầu đăm chiêu. Nàng không nói gì với bà Honiden về việc người thiếu nữ hồi chiều đến tìm chỗ trọ Ở quán Đại Lộc, nhưng nàng đoán mười phần chắc chín chính là Akemi. Akemi đang tìm cách trốn chạy khỏi tay gã này. Đột nhiên nàng sực nhớ ra. Gã thanh niên vừa rồi là người đứng cạnh gốc liễu dưới chân cầu đường Gojo hôm Tết. Nhưng nàng không hiểu Akemi, gã thanh niên ấy và Miyamoto Musashi có liên quan gì với nhau. Nàng tự nhủ sẽ hỏi lại Jotaro cho rõ khi có dịp.
Đi quanh quẩn một lúc bên gốc đào, không thấy Matahachi ló mặt, bà Honiden thất vọng cùng Otsu xuống núi. Trên đường về quán trọ, cả hai lại gặp gã thanh niên áo xanh đi lên. Gã trừng trừng nhìn bà và Otsu. Bà quay mặt đi:
- Đôi mắt nó dữ quá ! Như mắt thằng Takezo.
Bỗng bà linh cảm hình như có người đang theo dõi rình rập. Đôi lúc, bà nghe sột soạt, khi thì bên trái, khi bên phải.
Trong đêm tối, bóng chiếc đèn ***g Otsu cầm đi phía trước lung lay theo nhịp bước. Vòng ánh sáng nhỏ, vàng úa hắt lên những cành cây thấp giống như những cánh tay quỷ sứ đen đủi, khẳng khiu lúc vươn ra, khi thu lại làm bà nổi gai ốc. Một tiếng cú rúc rất gần. Bà Honiden quay lại, bỗng giật nẩy mình. Một bàn tay từ sau gốc cây thò ra vẫy.
- Matahachi ! Mô Phật !
Bà vội đưa tay lên miệng cho khỏi kêu to. Con bà chắc chỉ muốn gặp riêng bà thôi nên nó đợi Otsu đi trước xa xa mới bắt chước tiếng cú rúc làm hiệu. Bà vội gọi Otsu:
- Ngươi cứ cầm đèn đi trước đi. Đợi ta chỗ ngã ba rẽ về quán, ta có chút việc, sẽ gặp lại ngươi sau.
Đoạn chạy ngay tới gốc cây:
- Matahachi, mày đấy ư ?
- Vâng, con đây.
Bà Honiden nắm chặt lấy tay con trai:
- Mày làm gì dưới gốc cây thế ? Mô Phật ! Sao tay con lạnh thế này con ?
Sự ân cần của bà làm Matahachi cảm động. Hắn ghé tai mẹ thì thầm:
- Con phải trốn cái thằng mặc áo xanh vừa lên núi, mẹ trông thấy chứ ?
- Gã đeo trường kiếm trên lưng ấy hả ?
- Vâng !
- Con biết nó à ?
- Biết. Tên nó là Kojiro.
- Cái gì ? Ngoại hiệu của mày là Kojiro mà ?
- ...
- Ở Osaka, mày đưa ta coi bản chứng thư đề tên Kojiro. Mày bảo ta mày lấy ngoại hiệu là Kojiro phải không ?
- À à ... con bảo thế hả ?
- Còn gì nữa. Cả cậu Gon cũng nghe thấy ...
Matahachi lấp liếm:
- Không phải. Thằng đeo kiếm trên lưng mới là Kojiro. Mấy ngày trước đây nó suýt giết chết con, bây giờ gặp nó thì khốn ...
Bà Honiden ngạc nhiên đến sững sờ. Nhưng sờ má con trai, thấy nó gầy quá. Quần áo Matahachi ban đêm bà trông không rõ nhưng bà đoán cũng chẳng lành lặn gì, bất giác quá thương cảm, bà ôm lấy con mà khóc. Bà cũng không muốn hỏi thêm, chỉ nói:
- Thôi chẳng hề gì. Này Matahachi, con có biết cậu Gon mất rồi không ?
- Cậu Gon ? Cậu Gon mất rồi hả ?
- Ừ ! Ngay sau khi mày bỏ đi trên bãi biển Sumiyoshi. Cậu mất vì sao mày biết không ?
- ...
- Cậu mất trên đường đi trả hận. Cậu Gon với ta già rồi, đáng lẽ được quyền ở nhà nghỉ ngơi, thế mà vẫn phải bôn ba. Chắc mày đã hiểu sao rồi !
- Đã ! Mẹ đã cho con biết khi ở Osaka.
- Vậy tốt ! Mày đã nhớ. Giờ ta có tin vui cho mày.
- Tin gì vậy ?
- Tin con Otsu.
- Người cầm đèn đi với mẹ lúc nãy là Otsu đấy ư ? Bây giờ lớn thế rồi đó ? Để con đi gặp nó.
Chưa dứt lời Matahachi định vùng chạy đuổi theo. Nhưng bà Honiden đã giữ hắn lại:
- Khoan. Ta dẫn nó lên đây là để mày gặp nó. Nhưng ta muốn biết khi gặp nó mày sẽ làm gì ?
- Con sẽ bảo nó con rất tiếc đã để nó phải chờ đợi lâu và mong nó tha lỗi.
- Rồi sao nữa ?
- Con hứa sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện như thế nữa. Mẹ ! Mẹ cũng bảo nó như thế hộ con ...
- Rồi sao ?
- Rồi sao hả ? Ờ ... Ờ ... rồi ... rồi lại vẫn như xưa. Con với nó sẽ về làng làm lễ cưới.
Mẹ tính nó có bằng lòng không ?
Bà Honiden giơ tay tát đánh bốp vào mặt Matahachi:
- Thằng ngu độn, vô sỉ.
Matahachi xoa má. Hắn không hiểu tại sao mẹ hắn lại đột nhiên giận dữ như thế, nhưng chưa kịp hỏi, bà Honiden đã the thé:
- Ta bảo mày xin lỗi nó bao giờ ? Sao mày lại có thể có ý tưởng đi cưới một đứa đã ruồng bỏ mày để đi với thằng khác về làm vợ ? Sao mày ngu thế ? Ta sẽ cho mày gặp nó nhưng không phải để xin lỗi nó. Nghe chưa ?
Bà nắm vai áo Matahachi lắc mạnh:
- Mày khóc hả ? Mày còn thương cái con bé đĩ thõa ấy đến độ khóc vì nó được hả?
Như vậy mày không phải là con ta !
Nhưng mắng Matahachi, bà cũng không ngăn được nước mắt mình ràn rụa. Hai mẹ con ôm nhau phục xuống gốc cây âm thầm khóc cùng với những tiếng côn trùng than vãn xung quanh.
Lát sau, giọng bà Honiden bình tĩnh hơn:
- Này con ! Mẹ chẳng còn sống bao lâu nữa. Rồi khi mẹ nằm dưới ba tấc đất, con có muốn nói với mẹ câu gì hay làm vui lòng mẹ cũng chẳng được. Matahachi, nghĩ kỹ đi con, Otsu chẳng phải là đứa con gái độc nhất trên đời này ...
Tiếng bà càng dịu dàng:
- Con chẳng nên quyến luyến đứa phản bội ấy làm gì. Con ưng ai, mẹ sẽ đi hỏi cho, dù phải trăm lần nghìn lần mang lễ vật đến cầu cạnh, dù phải đi đi về về đến kiệt sức ...
Nhưng Matahachi vẫn ngồi yên lặng ủ rũ.
- Matahachi ! Con hãy quên nó đi. Dù tình cảm con thế nào, nó cũng không xứng đáng được chấp nhận vào dòng họ Honiden. Nếu thật con còn thương nhớ nó thì giết ta đi cho rồi. Sau đó làm gì thì làm chứ chừng nào mẹ còn sống ...
- Mẹ im đi !
Bà Honiden sửng sốt:
- A ! Thằng này láo ! Dám lớn tiếng với ta hả ?
- Con hỏi mẹ:
mẹ lấy vợ hay con lấy vợ ?
- Thằng này điên ! Sao mày hỏi vậy ?
- Thế tại sao con không được tự chọn lấy người con ưa thích. Mẹ đòi hỏi quá đáng!
Sự bất hòa giữa hai mẹ con đã diễn ra. Lần nào cũng thế, nó bắt đầu bằng những thành kiến, những ý kiến đối kháng va chạm nhau, rồi tính bướng bỉnh của bà Honiden, cảm tưởng uất hận vì bị chèn ép của Matahachi thêm vào khiến hai người chỉ sau vài câu đã trở thành thù nghịch.
- Qúa đáng ? Tiếng bà Honiden rít lên the thé. Qúa đáng chỗ nào ? Mày là con ai, ở chỗ nào chui ra, thằng kia ?
- Cái đó không quan hệ. Con muốn cưới Otsu. Con yêu nó !
Matahachi tự thấy mình liều hết sức. Hắn không dám nhìn mẹ, hắn ngước mắt lên trời.
- Mày nói thật không, thằng kia ?
Bà Honiden rút phắt thanh kiếm nhỏgidấu trong bọc ra, quay ngược mũi kiếm lại dí vào cổ họng. Matahachi hét lên:
- Mẹ làm gì thế ?
- Ta không nhịn được nữa rồi. Mày có thương ta thì đâm cho ta một nhát. Ta không còn muốn sống nữa !
Matahachi ôm chầm lấy bà:
- Mẹ ! Mẹ ! Mẹ đừng làm thế. Con là con của mẹ đây mà. Mẹ bảo gì con cũng xin nghe hết.
- Vậy mày có bỏ con Otsu không ? Bỏ ngay lập tức ?
- Nếu mẹ muốn thế, sao lại dẫn nó đến đây ? Con không hiểu ...
- Mô Phật ! Tại vì ... tại vì ta giết nó thì dễ, nhưng nó đã làm nhục mày, ta muốn để chính tay mày trả thù. Mày phải ơn ta mới phải chứ !
Matahachi trợn mắt, giật lùi:
- Mẹ muốn con giết Otsu ?
- Ừ ! Nếu mày không chịu thì nói ngay. Chịu hay không chịu ?
- Mẹ ! Mẹ !
- Vậy là mày không chịu. Cũng được. Mày không phải là con ta nữa. Nếu mày không đủ can đảm cắt đầu con bé trơ tráo khả ố ấy thì hãy cắt đầu ta đi ! Cắt đầu ta đi !
Matahachi đờ đẫn cả người. Con cái thường gây phiền lụy cho cha mẹ, nhưng đây chính mẹ hắn lại đặt hắn vào một tình trạng đau thương và khó xử nhất đời ! Sự tàn ác đến dã man của bà Honiden làm hắn rùng mình. Matahachi thấy ớn lạnh đến xương tủy. Hắn lẩm bẩm một mình:
- Con sẽ làm ! Con sẽ làm ! Con sẽ giết nó !
Bà Honiden nắm vai hắn cười thỏa mãn. Đoạn tra kiếm vào vỏ, bà nói:
- Thế mới đáng mặt con ta, đáng mặt truyền nhân họ Honiden. Tổ tiên nhà ta sẽ hãnh diện ...
Matahachi ôm đầu, thiểu não:
- Mẹ có chắc không ?
- Con đi ngay đi. Nó đợi dưới kia ... Nhanh lên.
- Hừ ...
- Để ta viết sẵn phong thư. Khi chặt đầu nó xong, gửi ngay về làng. Mối hận nhà ta thế là trả được nửa. Còn thằng Takezo nữa, được tin con Otsu chết, thế nào nó cũng tìm đến. Thật là Trời Phật giúp ta, anh linh cậu Gon phù hộ ... Nhanh lên con ... Nhanh lên, đừng để nó chạy mất.
- Mẹ đợi ở đây hả ?
- Không, ta theo mày nhưng không để nó biết. Ta mà lộ diện nó lại khóc lóc xin xỏ và bảo ta trái lời hứa với nó, không được.
- Nó yếu đuối, không có gì tự vệ, giết nó dễ quá mà - Matahachi vừa nói vừa thong thả đứng dậy - Mẹ cứ ngồi đây, con sẽ chặt đầu nó mang lại.
- Mày dại lắm. Phải đề phòng chứ. Nó tuy là con gái nhưng thấy dao đâm tất cũng biết phản ứng. Cứ để ta đi sau trông chừng.
Matahachi chậm rãi xuống đồi. Bóng cây chỗ đậm chỗ nhạt, lòng hắn rối bời, chẳng biết xử trí ra sao.
- Nhớ đấy ! Phải cẩn thận.
Matahachi dừng lại.
- Ngã ba đường mãi tít dưới kia. Sao mày đi chậm thế ?
- Mẹ cứ để yên, con biết rồi. Nếu mẹ muốn đi, sao không đi đi. Con người ta chứ đâu phải con chó con mèo mà giết dễ dàng. Phải tìm kế chứ.
- Được rồi ! Ừ thì mày tìm kế. Ta ngồi đợi đây vậy.
Một con chim lợn bay ngang, kêu “éc”. Vài tiếng cú rúc đằng xa. Matahachi lặng lẽ lẩn vào bóng tối.
oo Otsu ngồi đợi ở ngã ba đường. Vòng ánh sáng chiếc đèn ***g để bên soi rõ tảng đá chỗ nàng ngồi và làm đêm tối xung quanh nàng càng sâu thẳm. Mượn cơ hội này, nàng định bỏ trốn, nhưng thấy hành động như thế chẳng giải quyết được gì, lại uổng công chờ đợi bao nhiêu ngày nay để gặp Matahachi, nên thôi.
Một mình nghĩ miên man, Otsu nhớ đến Miyamoto Musashi, hồi tưởng lúc còn ở trên đồi Nakayama và bên cầu Hanada. Dễ có đến bốn năm năm qua rồi, nhưng mối tình của nàng đối với Miyamoto Musashi không phai nhạt, có phần còn sâu đậm hơn. Mặc dầu đôi khi Otsu buồn giận vì tưởng như bị ruồng rẫy, nhưng trong thâm tâm, nàng vẫn hy vọng và tin tưởng vào lòng chung thủy của người yêu. Sự tin tưởng ấy giúp nàng thêm can đảm, nhờ vậy lúc này ngồi giữa rừng trong đêm tối, nàng không chút sợ hãi. Mối tình của nàng đối với Miyamoto Musashi chẳng khác gì những vì sao kia, mây âm u dù có che khuất, nhưng vì sao vẫn còn đó.
- Otsu !
Otsu giật mình:
- Ai đó ?
Nàng nhớn nhác nhìn quanh. Đêm đen vẫn dày đặc. Nàng cầm đèn giơ cao, banh mắt soi mói từng lùm cây trong bóng tối. Không thấy gì khác lạ mà cũng không có tiếng đáp. Otsu tưởng mình mê và tiếng gọi vừa rồi chỉ là ảo giác. Tuy vậy nàng cũng cứ hỏi lại:
- Ai đó ?
- Matahachi ! Honiden Matahachi !
Otsu thở phào mừng rỡ:
- Matahachi hả ? Chàng ở đâu, tối quá chẳng thấy gì hết !
- Otsu quên giọng nói của ta rồi sao ?
- Quả có khác. Chàng đứng đâu, sao không ra chỗ đèn sáng này ?
Tiếng thở dài rồi một bóng người từ sau gốc cây bước tới:
- Ta thẹn quá, chẳng muốn gặp. Không biết Otsu có tha thứ cho ta không ?
Otsu không đáp. Nàng trừng trừng nhìn Matahachi:
- Chàng gầy đi nhiều nhỉ ? Chàng đã gặp bá mẫu chưa ?
- Đã. Bà đang đợi trên kia. Ta nhớ Otsu lắm, không ngày nào không nghĩ đến nàng.
- Bá mẫu có nói chuyện gì cho chàng biết không ?
- Có, nói cả rồi.
Otsu mừng thầm. Như vậy, Matahachi đã biết ý định của nàng, khỏi phải giải thích lôi thôi và tránh được bối rối cho cả hai người. Nàng vui vẻ:
- Thế thì hay lắm. Chúng ta quên chuyện cũ đi, chẳng qua đó chỉ là điều nhầm lẫn lúc thiếu thời ...
- Otsu ! Sao nàng lại nói thế ?
Matahachi ngạc nhiên lắc đầu và hơi nghi mẹ đã không kể hết cho mình nghe những điều xảy ra. Tuy vậy, hắn cứ tiếp:
- Làm sao quên được ! Hình ảnh nàng luôn luôn hiện ra trong trí óc ta. Cả khi ngủ, ta cũng chiêm bao thấy nàng !
Otsu cúi đầu, nhỏ nhẹ:
- Matahachi ! Chàng với thiếp không cùng một tâm sự. Chàng nên hiểu. Hai ta cách biệt nhau xa quá.
- Ừ ! Năm năm rồi còn gì, thời gian ấy chẳng bao giờ trở lại.
- Phải rồi ! Đã năm năm. Chúng ta không còn những tình cảm như xưa nữa.
- Không ! Nàng lầm ! Chúng ta vẫn có thể tìm lại được những tình cảm như xưa chứ, nếu ta muốn. Năm năm qua, thôi coi như bỏ, bây giờ hãy bắt đầu lại ...
- Không được. Sợi dây đứt nối lại vẫn còn có cái gút. Tình yêu không còn nữa, vĩnh viễn không còn. Thiếp nói đến cách biệt không phải chỉ thời gian mà là cái hố sâu, cái vực thẳm nó ngăn cách chàng và thiếp, không tài nào lấp được, không cầu nào bắc qua được.
- Ta hiểu nàng còn giận ta lắm. Ta có lỗi với nàng rất nhiều, nhưng tuổi thanh niên bồng bột, mấy ai không thế !
Otsu thở dài.
- Otsu ! Otsu ! Ta xin lỗi. Ta là nam nhi mà phải quỳ xin lỗi nàng như thế này, nàng chẳng thương ta ư ?
Nhìn con người không có khí phách quỳ bên cạnh, lòng khinh rẻ khiến Otsu lúng túng.
- Là nam nhi mà chàng xử sự không đáng nam nhi.
- Otsu ! Ở đây nói chuyện lâu không tiện. Nàng hãy theo ta, trốn bà cụ đi, chúng ta đến một nơi khác làm lại tất cả ...
Nói đoạn cầm tay Otsu, nhưng nàng giật ra:
- Đừng chạm vào thiếp ! Thiếp thà chết ...
Trước lời nói quyết liệt và nét mặt lạnh lùng của Otsu, Matahachi sửng sốt, nghẹn lời. Cơn giận tràn đến.
- Nàng nhất định không đi ?
- Không !
- Không theo ta ?
- Không.
- Vậy nàng yêu thằng Takezo hả ?
- Dĩ nhiên ! Mẫu thân chàng đã nói cho chàng biết rồi. Ta yêu Takezo ở kiếp này và còn ở những kiếp sau nữa, mãi mãi ...
Matahachi run bần bật, mặt tái nhợt:
- Nàng sẽ hối hận vì câu nói ấy.
Một lúc sau, lấy lại được bình tĩnh, hắn tiếp:
- Có phải Takezo bảo nàng nói câu ấy cho ta biết không ?
- Lầm ! Takezo không bảo ta phải làm gì hết.
- Otsu ! Sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn. Nó có lòng tự ái thì ta cũng có lòng tự ái. Ta cấm nàng gặp nó.
- Quyền gì ngươi cấm ?
- Nàng là con dâu nhà Honiden. Cả làng Miyamoto, ai cũng biết.
- Thế a ? Vậy ai gửi thư từ hôn năm năm trước ?
- Ta không biết. Ta đâu có viết thư gì ! Đấy là Oko tự tay viết rồi gửi.
- Matahachi ! Không ngờ ngươi vô sỉ, hèn mạt đến thế. Một trong hai lá thư rõ ràng mang bút tích và chữ ký của ngươi, bảo ta quên ngươi đi và hãy lấy người khác.
- Bằng chứng đâu, đưa xem ...
- Vất đi rồi. Takuan đọc xong lấy hỉ mũi và vất thùng rác rồi !
- Vậy là vô bằng cớ ! Cả làng đều biết nàng là vị hôn thê của ta. Nàng phải là vợ ta !
- Matahachi ! Ngươi tự hào là nam nhi mà gian dối bất nghĩa. Không người đàn bà nào muốn lấy một đứa gian dối làm chồng !
- Nàng hãy giữ mồm miệng !
Rồi nắm vạt áo Otsu.
- Bỏ ra !
Matahachi rút kiếm. Khi kiếm đã rút khỏi vỏ, hắn không còn tự chủ được nữa.
Mắt lộ hung quang, Matahachi tựa con thú dữ, vung tay chém xuống. Otsu vô cùng kinh hãi, giật mạnh vạt áo, lưỡi kiếm chém hụt dội vào thân cây tuột khỏi tay hắn. Cây đèn tắt ngấm. Bóng tối như tấm màn che chụp lên mọi vật. Nhất thời không ai trông thấy gì cả, chỉ nghe tiếng Matahachi văng tục, cành khô gãy rào rạo và tiếng chân sột soạt.
Khi Matahachi nhặt được kiếm lên thì Otsu đã biến mất.
Theo con đường đá dốc, bà Honiden lật đật chống gậy xuống núi, gặp con trai đang hớt hải trèo lên, tay còn lăm lăm cây kiếm.
- Mày chưa giết được nó à ?
- Nó chạy mất rồi.
- Thằng vô tích sự ! Đồ vô dụng !
Vừa hét bà vừa vung gậy đánh Matahachi. Matahachi trốn sau gốc cây. Thấy có bóng đen thấp thoáng giữa những lùm bụi, nhanh mắt, hắn trông thấy la lớn:
- Kìa ! Nó kia kìa ! Con đuổi theo, mẹ đón đầu nó phía này.
Bóng đen phân vân, đổi hướng. Cả hai mẹ con lại hè nhau đuổi, bỗng mất hút không thấy bóng đen đâu nữa.
Chỗ ấy cành nhỏ dày chi chít, cỏ gianh mọc cao đến gần đầu mà đất lại ẩm ướt.
Có lẽ là bờ suối vì tiếng nước đổ ào ào nghe gần lắm. Đột nhiên bà Honiden reo lên:
- Matahachi ! Đúng nó đấy ! Cái gì trăng trắng sau mày đấy ?
Matahachi quay lại, quả nhiên thấy có hình người nằm sóng soài bên đám sậy.
- Giết đi ! Phóng gươm ra còn đợi gì nữa, thằng vô tích sự !
Matahachi như cái máy, nắm đốc kiếm vào hai tay đâm mạnh xuống. Phụp !
Máu phun có vòi bắn cả vào mặt.
Hắn rút kiếm đâm thêm nhát nữa.
- Này hèn ! Này bất nghĩa ! Quân yêu nữ ! Dâm phụ !
Cứ mỗi câu, Matahachi lại đâm một nhát. Hắn say máu, phóng kiếm loạn xạ không còn biết vào những chỗ nào nữa.
Hình người nằm dưới đất chẳng phản ứng gì mà cũng chẳng kêu la. Chỉ nghe tiếng bà Honiden hô:
“Giết ! Giết !” và tiếng hắn thở hổn hển. Đến khi tay hắn tê chồn và thanh kiếm gẫy đôi, Matahachi mới ngưng lại.
Toàn thân hắn run lẩy bẩy, mắt đổ hào quang. Matahachi trừng trừng nhìn cái xác dưới chân. Thế là hết. Xong.
Bà Honiden cũng không một lời. Im lặng. Im lặng hoàn toàn, không cả tiếng côn trùng khóc dưới cỏ. Đêm sâu càng thêm sâu và trên trời, sao vẫn nhấp nháy.
Lát sau, khi bà Honiden tìm được cây nến đánh lửa châm lên, Matahachi mới như người tỉnh mộng. Nhìn tay và ngực áo nhớp nháp, mùi máu tanh nồng nặc, hắn kinh sợ lạc thần:
- Trời ơi ! Otsu ! Otsu ! Ta giết nàng rồi !
Rồi vứt kiếm, bưng mặt khóc rưng rức.
Con gió thổi qua, ngọn nến tắt phụt. Bà Honiden rùng mình. Trong một thoáng, nhìn Matahachi ôm mặt bê bết máu đứng dưới ánh lửa giữa đêm sâu, bà có cảm tưởng như vừa thấy quỷ hiện hình. Bất giác bà lẩm nhẩm một câu chú, khi định thần lại mới lên giọng nói cứng:
- Cái thằng này, nhát như thỏ đế. Giết nó là tốt còn khóc nỗi gì ? Nó phá hạnh phúc, danh dự của mày thì mày phải giết chứ ! Này, cầm lấy gươm, cắt đầu nó đi cho ta!
Nhưng Matahachi vẫn đứng im như phỗng. Đêm tối, có lẽ bà không nhìn thấy những nét hằn học trên mặt con nên bà vẫn tiếp tục đay nghiến.
- Mày không xứng đáng với dòng họ. Mày không cắt đầu nó thì ta cắt !
Đoạn xăm xăm vạch cỏ cúi xuống.
- Mẹ làm gì vậy ? Matahachi hét lớn.
- Cái gì ? Nó không đáng bị lấy đầu hay sao ? Mày còn thương nó hả ?
- Giết nó chưa đủ, bà còn định cắt đầu nó ư ? Sao tàn nhẫn dã man đến thế ?
Bà lão rít lên, sấn lại đánh Matahachi. Hắn tránh khỏi, phẫn nộ la lớn:
- Bà nhân danh những điều đẹp tốt mà giết người, hành động như đồ mọi rợ. Bà cắt đầu nó đi, mang về làng mà lấy tiếng. Tôi đi đây, tôi không nghe bà nữa.
- Mô Phật ! Matahachi ! Mày điên rồi ! Ta vì danh giá nhà mày mà trả thù. Tao sẽ cắt đầu nó để rồi mày xem có khác gì đầu đứa khác không. Chỉ xương với da chứ có gì đâu mà sao mày mê muội đến thế ?
Matahachi định giằng thanh kiếm trong tay mẹ, bỗng khựng lại. Thấp thoáng đằng xa có ánh đèn giữa những lùm cây, tiếng gậy khua và tiếng gọi nhau í ới. Hắn hoảng sợ, lau mau tay vào vạt áo rồi bỏ bà lão, vội vã lẩn vào bóng tối.
- Matahachi ! Mày đi đâu ?
Bà Honiden chạy theo, nhưng nghĩ sao lại quay lại. Hối hả quỳ xuống chân cái xác người bà lờ mờ thấy nằm sóng soài trong đám cỏ bị dẫm nát lẫn với lá khô, cành gẫy. Bà lẩm bẩm:
- Otsu, đừng oán ta. Bây giờ ngươi đã về cõi vô minh thì ta với ngươi không còn thù hằn nữa. Ta cầu cho vong hồn ngươi được siêu sinh tịnh độ. A di đà Phật !
Rồi tay nắm tóc, tay cầm kiếm, bà cắt ngay lấy thủ cấp người bạc mệnh.
oo Tiếng chân người mỗi lúc một gần. Lính quýnh không biết xoay sở ra sao, bà Honiden đứng lên xách chiếc thủ cấp chạy. Nhưng đã muộn. Mới vài bước đã có kẻ trông thấy, rồi ba bốn bóng đen đuổi theo vây quanh lấy bà kêu lớn:
- Đây rồi ! Có người trên này. Mang đèn lại đây mau !
- Cái gì thế ? Bà Honiden quát. Tránh ra ! Các ngươi làm gì vậy ?
- Ủa, ai nhưng tiếng lão bá trọ Ở quán ?
- Chính thị.
- Lão bá làm gì trên này ?
Người mang đèn tới, theo sau là một nhà sư dáng quắc thước, áo chùng màu nâu già, nón nan che kín mặt.
- A di đà Phật ! Bà Honiden ở Miyamoto đó phải không ?
- Đại sư là ai, sao biết tên ta ?
Nhưng thay vì trả lời, nhà sư lại hỏi:
- Otsu đâu ?
Nghe nhắc đến tên Otsu, bà Honiden mới sực nhớ. Trông xuống, tay bà vẫn giữ chiếc thủ cấp máu còn rỏ giọt. Chiếc thủ cấp da mặt xám ngoét, mắt trắng dã, loang lổ những máu và đất. Mọi người giật mình kinh hãi lùi xa mấy bước.
Bà Honiden giơ cao thủ cấp lên, nhếch mép định nói câu gì, bỗng ngừng bặt trợn mắt:
- Ối ! Không phải đầu con Otsu.
Rồi vất thủ cấp xuống, bà trừng trừng nhìn theo run lẩy bẩy:
- Matahachi ! Lầm rồi ! Lầm rồi ! Người này là ai thế này ?
Tiếng bà lẫn trong hơi thở khò khè như người suyễn. Bà nhìn lên. Nhà sư đã bỏ nón ra từ bao giờ, sừng sững đứng trước mặt. Ông nghiêm khắc hỏi:
- Thí chủ nhận ra bần tăng là ai không ?
Như kẻ mất hồn, bà ú ớ:
- Takuan ! Sao thầy lại ở đây ?
- A di đà Phật ! Bần tăng ngẫu nhiên đi qua làng Sannen này và tình cờ cũng được biết thí chủ và Otsu cùng ở quán Đại Lộc. Thí chủ dẫn Otsu đi đâu, phải chăng có ý định giết nàng.
- Phải.
- A di đà Phật ! Lòng từ bi của Đức Phật vô bờ, nhưng tội nghiệt này của thí chủ thật khó tha thứ. Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Thí chủ hãy nghĩ kỹ:
giết Otsu có vãn hồi được danh dự của thí chủ không, hay chỉ làm cho danh dự ấy thêm nhơ nhuốc ? Giết Otsu có mang lại hạnh phúc cho con thí chủ không hay chỉ làm cho nó thêm đau khổ ? Ý định sát nhân của thí chủ không phải là phương cách vẹn toàn, huống chi còn gây thêm cái chết tức tưởi cho kẻ vô tội này nữa. A di đà Phật ! Bần tăng xin Đức Phật nhiệm mầu ban ơn soi sáng để thí chủ sơm hối ngộ.
Lời thuyết nghiêm nghị của Takuan thiền sư vang lên trong đêm tịch mịch khiến mọi người im lặng cúi đầu. Nhưng chẳng lung lạc được bà Honiden. Quan niệm về gia đình, hạnh phúc, danh dự đảng tộc là những thành kiến thâm căn cố đế, nó đã ăn sâu vào tâm thức bà từ nhỏ, không thể nhất đán một sớm một chiều bỏ đi được. Miyamoto Musashi và Otsu, hai kẻ đã xâm phạm vào bức thành trì kiên cố ấy, đã làm nhục dòng họ bà, bà coi như kẻ thù không đội trời chung. Nên bà phản ứng quyết liệt:
- Xì ! Thầy biết gì về gia đình với hạnh phúc ? Thầy có gia đình không ? Ở thì ở chùa, ăn cơm thí, ỉa đồng, áo quần vá táp nham tứ thời một manh, thầy biết gì về tình mẹ con, về danh dự gia tộc mà nói ? Có bao giờ thầy biết đến những khó khăn của người dân mang cơm cho thầy ăn đâu ! Trước khi thuyết cho người khác nghe, thầy hãy tự kiếm sống lấy cái đã. Nói thì hay lắm, nhưng vô tích sự.
Lời đối đáp của bà Honiden làm mọi người mỉm cười, kể cả Takuan. Tuổi tác đã không làm bà bớt đi sự ác độc trong lời nói. Bà vẫn cay nghiệt như xưa. Takuan lắc đầu bảo người trong bọn:
- Bác nào dẫn bà lão về quán. Nhớ cầm đèn theo kẻo vấp ngã.
- Cám ơn, ta không cần. Ta về một mình cũng được. Cho ta mượn cái đèn.
Một số người ở lại, bọc chiếc thủ cấp, rồi lần theo vết máu tìm đến thi thể kẻ bất hạnh.
- Quán chủ có biết người này là ai không ?
Takuan hỏi.
- Bây giờ còn tối không rõ được. Nhưng trông dáng dấp gầy mà cao thế này thì có lẽ là tên say rượu vẫn đến ngủ nhờ ở cổng ngoài miếu sơn thần. Hắn tên Akakabe Yasoma, trước sống ở chợ, ngoại thành Kyoto, ưa lừa đảo ăn quỵt nên ai cũng ghét.
- Chúng sinh thật nhiều oan nghiệt, không hiểu vì cớ gì lại để cho bà Honiden cắt đầu như vậy. Quán chủ hãy vì bần tăng cho người khiêng giúp lên miếu, sáng mai ta sẽ xin vị trụ trì một cái lễ và chôn cất hắn tử tế kẻo tội nghiệp.
Bỗng có tiếng kêu rối rít:
- Đại sư ! Đại sư ! Đậy lại có xác chết nữa !
Mọi người lật đật cầm đèn chạy đến.
- Ô ! Một thiếu nữ. Nàng chết rồi à ?
- Không. Chưa. Chỉ mới ngất đi thôi.

Hết chương 38.

Acmagiro
04-03-2008, 03:02 PM
CHƯƠNG 39
ÁNH TUYẾT




Miyamoto Musashi đi bộ dọc theo bờ sông, lững thững hướng về phía Kyoto. Hắn nghĩ tới lời cha dặn. Cho đến lúc chết, cha hắn, ông Munisai luôn luôn nhắc hắn phải ghi nhớ công nghiệp hiển hách của tiền nhân. “Ta tuy chỉ là kiếm sĩ quê mùa ở một làng hẻo lánh miền chân núi, nhưng con chớ quên con thuộc dòng dõi Shinmen, một dòng dõi đã từng nêu nhiều chiến tích anh dũng và góp phần xây dựng nên xứ sở này. Con nên tự hào về công nghiệp ấy và phải cố noi theo”.
Những lời trối trăn ấy của cha lúc lâm chung còn như vang vọng bên tai Miyamoto Musashi vừa bùi ngùi vừa cảm khái. Lại nghe nói tại ngã ba sông Kogawa, chỗ hợp lưu của hai dòng suối lớn trước khi đổ vào đại hà chảy ra biển, còn lưu lại di tích một căn nhà và một ngôi cổ miếu. Căn nhà này thuộc dòng họ Shinmen do tổ phụ hắn dựng lên đã lâu đời, có đến hàng mấy trăm năm trước.
Tiện dịp qua đây, hắn muốn viếng thăm cảnh cũ để biết thêm về nguồn gốc của mình, xem những di vật của tiền nhân và vào miếu thắp hương tưởng niệm. Nhưng đến nơi chẳng thấy nhà cửa gì. Hỏi thăm, không ai rõ. Có lẽ nhà xưa, miếu cũ, không chịu nổi sự tàn phá của thời gian, đã sụp đổ rồi; người ta dọn dẹp cày bừa san bằng thành ruộng.
Sự thay đổi sao mà nhanh chóng quá ! Cả một quá khứ oai hùng tan đi không dấu vết. Còn lại, họa chăng chỉ mình hắn, kẻ thừa kế độc nhất và cô đơn của một dòng họ bị quên lãng.
Miyamoto Musashi tần ngần đứng nhìn dòng nước chảy miên man. Rồi thất vọng, hắn bỏ đi, tiếp tục men theo đường ven sông đến khu ngoại thành, không chủ đích.
Lững thững tản bộ trên những con đường ngoại ô vắng vẻ, Miyamoto Musashi đảo mắt nhìn quanh. Rặng liễu trông bên con lạch nhỏ thưa dần. Thay vào đấy, một vài căn nhà gỗ ẩn hiện sau những mảnh vườn xinh xắn bên hàng dậu xanh hoặc sau những cây tùng thấp lè tè thân uốn éo như trong tranh vẽ.
Đến gần một gốc liễu to mọc trên bờ lạch, rễ xù xì bò ngoằn tựa đàn rắn, Miyamoto Musashi tháo hành trang ngồi nghỉ.
Cuối xuân, lá liễu dài xanh biếc rủ xuống trước mặt như tấm mành. Cơn gió thoảng qua, mành liễu rung động. Một mình ngồi không biết làm gì, hắn phóng kiếm cắt từng lá liễu, trước chậm sau mau, rồi xoay cườm tay hươi kiếm ngược lên chẻ đôi nhành liễu. Bất giác hắn nghĩ đến chiêu “hiết liễu kiếm”, một chiêu kiếm được truyền tụng trên giang hồ, do một cao thủ phát huy và khai triển. Nếu quả thật có chiêu kiếm như vậy thì cũng đáng công nghiên cứu lắm, vì nếu ta coi những nhành liễu rung động kia là kẻ địch bao vây tứ phía thì chẻ đôi chúng ra đúng lúc mà chính xác chẳng phải dễ dàng gì. Hắn tự hứa có dịp sẽ tìm hiểu rõ hơn về chiêu thức ấy và người đá phát minh ra nó.
Nhìn con lạch nông, nước lờ đờ chảy dưới chân, Miyamoto Musashi ngạc nhiên.
Nước con lạch như phân đôi ra hai luồng, bên trong bên đục. Hắn đồ chừng phía thượng nguồn có người làm nghề phiếu lụa hoặc mài kiếm nên xả nước đục ra như vậy.
Đang phân vân, bỗng thấy một bà lão đi qua. Hắn nhận ra thân mẫu Koetsu, nhà luyện kiếm đã gặp và cùng uống trà trên đồng Rendaiji ngày nào. Vừa hay, bà cụ cũng nhận ra hắn. Bà mừng rỡ kêu lên:
- Ồ tráng sĩ ! Hân hạnh quá ! Chắc tráng sĩ đương muốn tìm ngõ Honami ?
Bà tưởng Miyamoto Musashi muốn đến thăm bà và Koetsu, nên không để cho hắn kịp đáp, bà tiếp ngay:
- Tệ xá cũng gần đây thôi. Mời tráng sĩ theo lão.
Trước sự ân cần ấy, hắn không muốn và cũng chẳng có lý do gì từ chối, bèn cúi đầu cảm ơn rồi vui vẻ đeo hành trang lên vai theo bà cụ.
Trại Honami bên ngoài trong khiêm nhượng, nhưng bên trong càng vào sâu càng rộng. Ngay cổng vào là một khu vườn trồng toàn trúc xanh, tùng biếc lẫn với những hàng phong, cành dày chi chít đan nhau như một khu rừng nhỏ. Bấy giờ, trên cành, lá non mới nhú, nhưng theo lời bà cụ, đến mùa thu lá phong rực rỡ ánh lên dưới nắng, trông chẳng khác gì rắc vàng. Bởi thế mới có tên “Honami” (ngõ phong vàng) và chủ nhân trại còn được gọi là Honami tiên sinh.
Trong trại có nhiều nhà, chia thành từng khu vực thuộc gia đình Koetsu và gia đình các biểu huynh, biểu đệ Ông. Họ quây quần với nhau, cùng làm nghề đúc và mài kiếm.
Một con suối từ chân núi chảy sát khuôn viên, Koetsu lợi dụng tiện nghi ấy, khơi thêm nhiều mạch nước dẫn quanh co khắp trại. Mạch dùng lấy nước pha trà, mạch dùng nấu ăn tắm giặt, mạch dùng cho lò luyện kiếm.
Kiến thức luyện kim của Koetsu thâm diệu, kinh nghiệm của ông ít người bì kịp, ông lại có tài tổ chức, nên tuy khách đặt hàng nhiều mà ông vẫn đủ thì giờ rảnh rỗi, lúc uống trà, khi ngắm cảnh, đọc sách. Cũng như phần đông các nhà kỹ nghệ và thương gia đương thời, ông xuất thân từ một gia đình kiếm sĩ. Trong cuộc tranh chấp sứ quân, vì không muốn đứng hẳn về phe phái nào, một số kiếm sĩ đã rửa tay treo kiếm, theo đường doanh nghiệp. Riêng Koetsu chọn kỹ thuật luyện kim và chuyên hẳn về ngành đúc kiếm.
Lẽ dĩ nhiên, làm nghề tự do thì địa vị xã hội không được bằng địa vị kiếm sĩ, nhưng cuộc sống đỡ bấp bênh và nguồn lợi dồi dào hơn. Vả nhờ tại học và tiền bạc, đám thương gia tuy không nắm được những địa vị then chốt, lại rất có thế lực và được trọng nể.
Thấy mẹ dẫn Miyamoto Musashi vào, Koetsu chạy ra nghênh tiếp. Hàn huyên xong, ông tạ khách:
- Tráng sĩ thứ lỗi. Lão phu hiện đương bận trông thợ đúc một thanh kiếm đặc biệt nên xin để mẫu thân hướng dẫn tráng sĩ đi xem trang trại. Xin tráng sĩ cứ tự nhiên, chiều nay xong, ta tha hồ chuyện phiếm.
Lời nói của Koetsu thành thật, khách dù dễ mếch lòng đến đâu cũng không thể giận.
Miyamoto Musashi theo Koetsu lão bà, đi một vòng quan sát xưởng đúc kiếm, xưởng nung đồ gốm, thư khố, phòng làm sơn mài. Hắn rất thích thú, không ngờ danh bất hư truyền, Koetsu là người đa tài mà ngành gì ông cũng tỏ ra xuất sắc.
Bà cụ còn pha trà, làm bánh, vừa làm vừa trò chuyện với hắn, coi hắn như người nhà. Trong bầu không khí cởi mở ấy, hắn thấy dễ chịu vô cùng. Những lời thân mật đầm ấm của Koetsu lão bà gây trong lòng hắn một cảm giác yên vui, cái cảm giác hắn chỉ có xưa kia khi còn ở bên cạnh mẹ và chị.
Thấm thoắt đã bốn ngày trôi qua, Miyamoto Musashi ở trại Honami. Ban ngày sau buổi tập dượt sáng, hắn ưa ra vườn tản bộ, vào thư khố đọc sách hoặc có khi đến xưởng luyện kim xem xét và đàm luận kiếm học với Koetsu. Kiến thức của hắn vì thế cũng phong phú thêm, và điều làm hắn sảng khoái hơn cả là luôn luôn hắn có sự quân bình về tinh thần với thể chất.
Nhưng sợ Ở lâu không tiện, Miyamoto Musashi ngỏ ý cáo từ. Thì Koetsu đã khoát tay ngăn lại:
- Trạng sĩ chẳng nên làm thế, phụ lòng hiếu khách của lão phu. Nếu tráng sĩ ở đây thấy buồn, muốn ra đi, lão phu chẳng dám giữ. Nhưng nếu không chê nơi này hủ lậu, xin lưu lại ít lâu nữa. Trên kệ thư phòng còn nhiều sách đáng đọc. Vài ngày nữa, lão phu lại định nung đôi cái bát sành để thử nghiệm chất men mới chế. Tráng sĩ ở lại mà xem.
Nặn đồ gốm cũng thú vị đáo để, chẳng kém gì rèn kiếm. Nếu muốn, tráng sĩ cũng nên làm vài cái cho vui.
Ai mà có thể từ chối những lời mời mọc chí tình đến thế ? Miyamoto Musashi chỉ còn biết cúi đầu vâng lệnh.
Trong thư phòng treo nhiều tranh đẹp, cổ họa thời Kamakura, liễn mang thủ bút của Vương Hi Chi đời Tấn. Có một bức, Miyamoto Musashi ngắm mãi không chán. Bức tranh nhan đề “Hạt dẻ” do Tống Lương Khải vẽ. Nó nhỏ thôi, chỉ bằng cái mặt bàn thấp, giấy cũ, có lẽ trước đây màu vàng nhưng bây giờ đã thành nâu sẫm. Nhưng Miyamoto Musashi thích quá chừng, gần như bị mê hoặc. Hắn nói với Koetsu:
- Tiền bối vẽ tranh, chưa chắc mấy người được bằng. Riêng tại hạ, chỉ mong sao có được những nét bút đơn giản như trong tranh này mà thôi.
Koetsu cười:
- Lão phu lại nghĩ khác. Tranh lão phu, ai học cũng có thể vẽ được, miễn tập cho thuần. Nhưng riêng nét bút của Tống Lương Khải thì khác lắm. Tập không được mà phải có thiên phú. Nét vẽ Tống Lương Khải sinh động vô cùng mà ý tưởng thâm trầm, dùng kỹ thuật không, không đạt được.
Miyamoto Musashi xem lại bức tranh. Trên tranh vẽ một con sóc trầm ngâm nhìn hai trái hạt dẻ, một trái còn nguyên vỏ, một trái vỏ đã nứt đôi để hở nhân bên trong. Con sóc dáng sợ hãi, phân vân. Nỗi băn khoăn của nó lộ trên đôi mắt đen nhánh, đôi chân trước chụm vào nhau và cái đuôi dựng ngược. Bộ lông mềm gió tạt sang bên. Tất cả những ý đó được thể hiện bằng vài nét thủy mặc đơn sơ, thoạt trông thì ngây ngô, nhưng càng nhìn càng linh hoạt và buộc người xem phải suy nghĩ về ý nghĩa tác giả muốn phô diễn.
Miyamoto Musashi gật gù:
- Tiền bối nói rất phải !
Hôm sau, Koetsu vào thư phòng, lại bắt gặp hắn đang ngồi trước bức tranh ấy. Ông cười:
- Vẫn còn mê bức tranh của Tống Lương Khải ? Có vẻ tráng sĩ thích họa phẩm này lắm ? Vậy lão phu xin tặng đấy, khi nào đi thì cuốn lại mang theo.
Miyamoto Musashi phản đối:
- Tiền bối nói đùa. Đây là một tác phẩm vô giá, không chừng là vật gia bảo, tại hạ đâu dám vô lễ thế.
Nhưng Koetsu nghiêm trang:
- Lão phu nói thật. Tráng sĩ thích thì cứ lấy. Thực ra lão phu còn nhiều tranh khác.
Tranh phải để cho người thích thưởng ngoạn nó sở hữu mới đúng. Lão phu chắc họa sĩ khi vẽ tranh này cũng muốn thế.
- Vậy tại hạ lại càng không nên lấy - Hắn cười - thích thì có thích nhưng thì giờ đâu mà ngắm và treo ở đâu mà ngắm ? Tại hạ chỉ là một lãng tử nay đây mai đó, chẳng biết đâu là định sở, đến thân này còn không chắc bảo toàn được thì một họa phẩm quý giá như tranh kia mang đi càng thêm bận !
Koetsu thở dài ảo não:
- Có lẽ tráng sĩ chẳng muốn điều gì hệ lụy. Ở tuổi tráng sĩ, chắc cũng chẳng muốn có nhà làm gì, nhưng theo ý lão phu, ai cũng nên có một chỗ ở riêng biệt, dù đó chỉ là một túp lều. Không có nó, ta sẽ cảm thấy trơ trọi, như bị ruồng bỏ. Sự trơ trọi về vật chất cũng có thể dồn ta vào sự cô đơn tinh thần đấy ...
- Tại hạ chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy. Ước mong của tại hạ là được đi đây đi đó, khắp nơi trên xứ sở này, ngủ dưới bóng cao sơn, nằm trên bờ đại hải, trau dồi kiếm đạo và khi cần, đem chút tài mọn của mình ra giúp người cô thế. Có lẽ trong thâm tâm, tại hạ chỉ muốn làm một kẻ suốt đời phiêu lãng.
- Cũng là thường tình ! Tuổi trẻ nào mà chẳng vậy. Nhưng không nên tưởng rẳng giấc mơ của mình chỉ thực hiện được ở những vùng xa xôi, chân trời góc bể. Nếu nghĩ như thế, ta sẽ xao lãng việc giải quyết ngay những vấn đề trước mắt. Đa số thanh niên đều có những ý tưởng không thực tế, lão phu sợ rằng vì thế mà khi thất bại, họ bất mãn với cuộc sống.
Rồi Koetsu cười ha hả:
- Lão phu e đã lạm bàn mất rồi ! Thôi ta quên chuyện ấy đi. Hôm nay lão phu đến đây là có ý muốn mời tráng sĩ đi giải sầu một chút.
- ... ?
- Tráng sĩ đã đến kỹ viện bao giờ chưa ?
- Kỹ viện ở ngoại ô thành Kyoto này ư ?
- Phải. Lão phu có người bạn tên Haiya Shoyu. Ông ta đã có tuổi nhưng tính tình còn trẻ trung ưa đùa cợt. Mới nhận được thư ông ấy hẹn tối nay xuống xóm Rokujo.
Tráng sĩ đi không ?
- Không, tại hạ không hứng.
- Nếu tráng sĩ không muốn đi, lão phu chẳng ép. Nhưng thiển nghĩ chỗ đó cũng có cái hay.
Koetsu lão bà mới bước vào, nghe chuyện, lên tiếng:
- Sao không đi ? Đi đi chứ ! Đi cho biết những điều mình chưa biết ! Haiya Shoyu vui vẻ cởi mở nhưng phong nhã, không làm tráng sĩ thất vọng đâu !
Giọng bà vừa như thúc giục vừa như bắt buộc. Bà sang phòng bên mở tủ lấy hai ba chiếc kimono khác nhau kèm theo thắt lưng hợp với màu áo mang sang. Thường thì các bậc già cả không muốn con cháu mình đến vui chơi ở những nơi trà đình, kỹ viện, nhưng Koetsu lão bà khác hẳn, lại có vẻ hân hoan. Bà háo hức hỏi:
- Nào, mấy màu này tráng sĩ thích màu nào ? Cái này được không ?
Miyamoto Musashi lúng túng:
- Vì lão bá và tiên sinh đã muốn, tại hạ không dám trái ý. Nhưng xin cứ để cho vận y phục cũ. Tại hạ quen rồi, mặc thế này thoải mái hơn.
- Không được ! Tráng sĩ thấy thoải mái, nhưng phải nghĩ đến người khác nữa chứ.
Trong chốn ăn chơi như thế, phải làm như mọi người. Ai đến đó cũng là để quên những điều buồn bực, họ muốn mọi thứ xung quanh đều đẹp mắt, vui tai. Không ai muốn thấy những gì luộm thuộm. Tráng sĩ đừng cho đây là một sự giả trá để che đậy giấu diếm con người thật của mình. Vả lại, những bộ quần áo này có gì là diêm dúa ? Chỉ sạch và đứng đắn thôi. Tráng sĩ mặc vào cho lão coi thử.
Khi Miyamoto Musashi ở phòng ra, Koetsu lão bà cười hớn hở. Bà nghiêng cổ ngắm nghĩa, đi quanh hắn một vòng rồi nói:
- Được lắm. Trông điển trai lắm rồi !
Bà đưa hắn một cây kiếm vỏ nạm ngọc, một cái túi gấm đựng mấy đồng tiền vàng và bỏ vật gì vào tay áo hắn không rõ. Đoạn đẩy hắn ra cửa.
Koetsu thắp hương trên bàn thờ tổ, vái mấy vái rồi cũng ra theo. Koetsu lão bà tiễn chân hai người đến tận sân.
Ngoài hiên, họ xỏ chân vào dép mới do Koetsu lão bà để sẵn và gọi gia nhân ra chờ đóng cổng. Tên gia nhân đến gần lão bà nói nhỏ. Bà giật mình ngước mắt nhìn Koetsu.
- Có chuyện gì vậy thưa mẫu thân ?
- Có ba người ăn mặc theo lối kiếm sĩ đứng chờ ở đầu cổng. Liệu đáng ngại gì không ?
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi có ý hỏi. Hắn đáp:
- Không sao. Chắc họ Ở võ đường Yoshioka. Có thể họ chờ tấn công tại hạ, nhưng tiên sinh thì không can gì. Để tại hạ ra trước.
Tên gia nhân nói thêm:
- Lúc nãy, một trong ba người có hỏi dò tiểu nhân về tráng sĩ Musashi ...
Koetsu nhướng lông mày:
- Thế ngươi bảo sao ?
- Dạ, theo lệnh chủ nhân, tiểu nhân đáp ở đây không có ai tên vậy. Hắn tỏ vẻ giận dữ thì một kẻ trong bọn vội kéo ngay hắn đi, vừa đi vừa bàn với nhau những chuyện gì không rõ.
Miyamoto Musashi đề nghị:
- Vậy để tại hạ đi sau một quãng. Nếu xảy ra chuyện gì liên luỵ đến tiền bối, tại hạ thật ân hận lắm !
Nhưng Koetsu gạt ngang:
- Khách sáo ! Tráng sĩ đừng quan tâm. Bọn đệ tử đường Shijo ấy, lão phu chẳng coi vào đâu đâu ! Thôi ta đi kẻo trễ.
Trời về chiều còn sáng. Cả hai thong dong trên đường nhỏ, men theo lạch nước đến bờ sông chẳng gặp chuyện gì bất trắc. Gió xuân nhẹ mơn man. Mặt nước gợn sóng lăn tăn phản chiếu ráng chiều tím nhạt, hàng liễu xanh biếc, rủ lá tha thướt ven sông, thanh bình và diễm lệ. Cảnh trí tươi mát gây lòng khoái hoạt, Koetsu hát một bài, liên tưởng đến Haiya Shoyu, con người lúc nào cũng vui vẻ cợt đùa như cánh nhạn mùa xuân. Bèn hỏi người bạn trẻ:
- Tráng sĩ nghe danh Haiya Shoyu bao giờ chưa ?
- Chưa. Chỉ mới được tiền bối cho biết lúc nãy. Vị đó thân thế ra sao ?
- Ông ta là bạn của lão phu, tính tình phóng khoáng không câu chấp. Lại ưa đùa cợt và sính làm thơ nữa.
- Ồ ! Vậy ra là một thi sĩ ?
Koetsu mỉm cười:
- Gọi như vậy cũng được, nhưng ông ta không sống bằng nghề cầm bút. Ông ta xuất thân từ một gia đình buôn bán và cũng làm nghề ấy. Nói cách khác, ông ta là lái buôn !
- Cái tên Haiya Shoyu (“chính hành”) không mang nghĩa đó. Chính hành là làm việc chính đính, hành vi của người quân tử ...
- Thì ai cũng nghĩ thế, nhưng hành đây là hành thương. Âu cũng là tiền định. Tổ phụ Ông mang hàng hóa đi bán đây đó và đặt cho ông tên ấy. Ông giữ nghiệp cũ, gặp cơ may, phất lên và tích lũy được một gia sản khá lớn. Bây giờ ông thôi không hoạt động thương mại nữa, mặc cho con cái tự ý điều khiển cơ nghiệp, lui về làm thơ, chơi cây cảnh. Gần đến nhà ông ta rồi đấy. Cái cổng đá lớn bề thế kia chính là cổng nhà Haiya Shoyu.
Mãi trò chuyện với Koetsu, Miyamoto Musashi không ngờ có bọn chừng bốn năm người, y phục ra dáng kiếm sĩ đi xa xa phía sau theo dõi. Ngẫu nhiên ngoảnh lại hắn mới để ý bọn họ chạy nấp vào gốc liễu. Gió chiều bỗng trở lạnh và ẩm. Phía đông, mây đen từng đám đùn lên báo hiệu một sự thay đổi thời tiết đột ngột. Áo hai người bộ hành bay phần phật. Miyamoto Musashi ngạc nhiên thấy tay áo bên trái của hắn không nhẹ nhàng tung bay như tay áo bên phải. Nó nặng nề dường như có đựng vật gì ở trong.
Hắn thò tay vào áo lấy ra một sợi dây da thuộc màu nâu mềm, thứ dây da các kiếm sĩ vẫn dùng để buộc cửa tay trước khi lâm chiến. Hắn sực nhớ đến Koetsu lão bà khi trao áo cho hắn, đã bỏ vật gì vào đó. Chắc là cái này đây. Chỉ có bà mới tế nhị như thế. Lòng yêu thương và sự ân cần của bà khiến hắn cảm động. Nhìn Koetsu, ông vẫn điềm nhiên trò chuyện, Miyamoto Musashi quay lại phía sau mỉm cười bâng quơ với những kẻ theo dõi.
Đến trước nhà Haiya Shoyu, Koetsu gọi cổng. Một tiểu bộc tay còn cầm cái chổi bước ra, mời vào. Ông theo tên bộc đi một quãng ngắn, bỗng có cảm giác khác lạ, quay lại thấy Miyamoto Musashi đang bị bốn kẻ lạ mặt bao vây. Ông dừng lại gọi.
- Tiên sinh cứ đi trước, đừng chờ. Tại hạ theo vào ngay đây !
Koetsu nhíu mày. Nhưng nhìn Miyamoto Musashi, ông chỉ đáp gọn:
- Vậy lão phu đợi tráng sĩ trong nhà. Khi dàn xếp xong việc riêng, xin cứ đi thẳng vào đại sảnh.
Bọn kia gườm gườm nhìn vóc dáng cao lớn của nhà kiếm sĩ trẻ tuổi.
- Các ngươi là ai, muốn gì ?
Miyamoto Musashi điềm tĩnh hỏi.
Một kẻ nói:
- Phải chăng ngươi là Miyamoto Musashi ở Miyamoto ?
- Phải.
- Ta là Yoichibei, phái Yoshioka. Chúng ta đến gặp ngươi không có ý định thù nghịch, chỉ muốn trao cho ngươi phong thư của Yoshioka thiếu gia.
Đoạn đưa một cuộn giấy niêm sẵn.
Miyamoto Musashi đón cuộn giấy, đôi mắt sắc như mắt chim ưng không ngớt dò xét bốn kẻ đứng vây quanh và tay không rời đốc kiếm. Hắn bật niêm, mắt liếc nhanh trên những cột chữ lớn rồi gật đầu:
- Được lắm !
- Ngươi phúc đáp ngay để ta về bẩm với thiếu gia.
- Dĩ nhiên ta nhận.
- Ngươi nhận ? Chắc không ?
Miyamoto Musashi quắc mắt:
- Ngươi cho là chuyện này là đùa chăng ?
Thái độ Miyamoto Musashi làm Yoichibei không nghi ngờ gì nữa. Gã thêm:
- Ngươi nên biết từ bây giờ đến lúc ấy chẳng còn bao lâu ...
- Ta sẵn sàng ! Ngay bây giờ cũng được !
- Vậy tốt ! Tối nay cuối giờ tuất, Yoshioka thiếu gia sẽ gặp ngươi tại cổng này.
- Không được ! Ta không muốn làm phiền những người bạn tốt trong nhà này. Vả chăng, ta cũng sắp đến xóm Rokujo giải trí.
Yoichibei ngạc nhiên:
- Xóm Rokujo ?
Nhưng Miyamoto Musashi đã điềm nhiên đi thẳng qua cổng. Câu nói sau của môn đệ Yoshioka chỉ làm hắn mỉm cười.
- Nếu ngươi sai hẹn hay bỏ trốn, đừng mong trở lại Kyoto này nữa !
oo Tư thất của Haiya Shoyu là một thế giới khác biệt hẳn với thế giới xô bồ náo nhiệt ở đô thị. Lối đi từ cổng vào đến tiền đình trải toàn một thứ đá vân đen, xếp đặt công phu nhưng lại có một vẻ tự nhiên như đã được tạo hoá tình cờ đặt lên đó. Hai bên lối đi là những hàng trúc đằng ngà thân thẳng và cao cắt tỉa gọn ghẽ xen lẫn với những bụi trúc đen lùn, lá reo xào xạc mỗi khi gió thổi. Rặng thông cổ thụ xanh um làm bối cảnh phía sau khiến lối đi quanh co càng thêm mát và u tịch. Đi trong khuôn viên một tư thất mà Miyamoto Musashi có cảm tưởng lạc vào một trang viện hay một ngôi chùa cổ kính nào. Mái nhà đại sảnh hơi cong lợp ngói men xanh như bềnh bồng trôi trên những tàn lá. Thật là chỗ ở thần tiên của một cư sĩ giàu có mà sự mưu sinh không còn là một vấn đề phải quan tâm nữa.
Tự sân sau, vang lên những tiếng kêu “bộp bộp” của vợt gỗ đánh vào quả cầu vải trong một trò chơi mới tên là Kemari, được du nhập rất gần đây trong giới quý tộc. Miyamoto Musashi nghĩ, thương gia Haiya Shoyu cũng chơi trò này tất có nhiều liên hệ với giới ấy.
Trong nhà đã lên đèn. Tiểu bộc dẫn khách vào đại sảnh. Nữ tỳ mang trà bánh để lên cái kỷ trước mặt hắn và Koetsu.
- Trời lại trở lạnh nhỉ !
Koetsu định đứng lên khép cửa, nhưng thấy Miyamoto Musashi mãi ngắm nhìn cành mai nở muộn ngoài song nên lại thôi. Ông nhìn ra ngoài:
- Mây đen phủ kín đỉnh Hoài Sơn rồi. Mà gió bấc thổi cũng dữ. Tráng sĩ không lạnh à ?
Miyamoto Musashi cười hồn nhiên:
- Không, tại hạ không lạnh. Nhưng cành mai ngoài kia không khéo gió làm rụng mất !
Người nhà mang lò sưởi tói và khép cửa. Không khí ấm hẳn lên, Miyamoto Musashi cảm thấy thoải mái như khi còn ở nhà Koetsu. Hắn không đả động gì đến chuyện vừa qua mà ông bạn vong niên của hắn cũng không hỏi. Lúc sau, giọng oang oang của chủ nhân đã từ ngoài hiên vọng vào:
- Honami tiên sinh đã đến đấy ư ? Đệ chờ mãi.
Haiya Shoyu bước vào giơ tay khép cửa. Thấy Miyamoto Musashi, ông bỗng khựng lại xin lỗi.
- Lỗi về phần ngu đệ đã không thông báo trước.
Koetsu nói.
Nhưng chủ nhân đã khoát tay và với giọng tự nhiên, vồn vã, ông quay sang hỏi ngay Miyamoto Musashi:
- Tráng sĩ là bạn của Honami tiên sinh thì cũng như bạn của lão phu, đừng nề hà gì. Xin cho biết quý danh tính.
Koetsu đỡ lời:
- Tráng sĩ đây là Miyamoto Musashi, họ Shinmen, quán ở Miyamoto. Cũng có liên hệ với Kaname trong phủ ngày trước.
Haiya Shoyu gầy như hạc, tóc bạc phơ, vóc dáng còn khỏe mạnh nhanh nhẹn.
Ông nói cười sang sảng, giọng ấm và thân mật, không như giọng Koetsu, ôn nhu và hơi kéo dài.
- Ồ thế ư ? Lão phu cũng có biết ông Kaname khi còn phải ra vào trong phủ.
Chẳng hay dạo này Kaname tiên sinh ra sao ?
Trong chuyện thăm hỏi, Miyamoto Musashi chỉ đáp cho đủ lễ, vì hắn cũng chẳng biết gì hơn ngoài lần gặp mặt ngắn ngủi với người chú dượng đêm trừ tịch. Lần tiếp xúc ấy đã để lại trong lòng hắn một kỷ niệm chua chát về tình cốt nhục, hắn chưa quên. Qua câu chuyện với thương gia Haiya Shoyu, hắn lại biết thêm dượng hắn khi làm việc trong phủ, còn là một trong số rất nhiều nha lại đứng ra môi giới giữa giới cầm quyền với các tay phú thương bên ngoài nữa.
Hàn huyên một lúc, Haiya Shoyu xin lui vào nhà trong thay áo.
- Bây giờ đã trễ. Lão phu định đi từ sớm nhưng trông mãi không thấy Koetsu tiên sinh đến. Tối nay trời lạnh hơn bình thường, ta phải dùng cáng chứ không đi bộ được. Để lão phu sửa soạn rồi ta khởi hành là vừa.
Bèn gọi gia nhân khiêng cáng đến.
Lát sau, cả ba người đã ngồi trên ba chiếc cáng do sáu tên phu lực lưỡng khiêng, trực chỉ xóm Rokujo. Đây là lần đầu tiên trong đời, Miyamoto Musashi ngồi cáng.
Đến trường đua ngựa thì trời tối hẳn. Phu cáng dừng lại thắp đèn. Ba chiếc đèn ***g treo trên đầu cáng đong đưa theo nhịp bước, và gió mạnh khiến ngọn lửa mấy lần chực tắt.
Hơi thở của phu cáng đã bắt đầu tỏa ra trắng đục như khói.
- Chà, lạnh dữ !
- Tháng ba gì mà lạ quá ! Chẳng ai bảo là mùa xuân phải không bác ?
Miyamoto Musashi hé rèm nhìn ra ngoài. Xa xa, ánh đèn xóm yên hoa lập lòe ẩn hiện giữa những lùm cây, hắt lên cao thành một vòng sáng mờ mờ dưới bầu trời vần vũ.
Koetsu gọi:
- Tráng sĩ Musashi, chúng ta đến chỗ có ánh sáng đó.
Rồi bảo phu cáng đi chậm lại, song song với cáng của Miyamoto Musashi, ông giải thích:
- Ba năm trước, xóm này ở phố Hoà Ninh gần hoàng cung, nhưng vì ban đêm quá ồn, làm mất trật tự, phiền nhiễu đến hoàng gia nên phải dời ra đây. Xóm này là nơi ăn chơi bậc nhất đô thành, Geisha toàn hạng chọn lọc, những kiểu áo thời trang và những bài ca thời thượng phần lớn đều bắt nguồn từ đó cả. Có thể nói đấy là cái nôi của một trào lưu văn hóa mới.
Nói xong, cười ha hả làm Miyamoto Musashi cũng háo hức và mỉm cười vì lời so sánh.
Gần đến nơi đã nghe tiếng sênh phách đàn ca lẫn tiếng cười nói râm ran theo gió vọng tới.
- Tráng sĩ Musashi ! Có nghe tiếng đàn không ? Shamisen đó ! Đấy là loại nhạc khí mới được canh tân, rập theo kiểu tam huyền mộc cầm ở đảo Ryukyu. Nhiều bản nhạc sáng tác đặc biệt cho loại đàn này rất được ưa chuộng, lão phu đi những trấn xa, hẻo lánh đôi khi cũng nghe thấy, đủ biết nó phổ cập chừng nào và ảnh hưởng của cái xóm yên hoa này quả là mạnh !

Acmagiro
04-03-2008, 03:02 PM
Ba chiếc cáng dừng lại bên một con đường lớn, khách qua lại tấp nập. Đèn đủ màu, đủ kiểu la liệt treo trên những cành liễu, phản chiếu qua rèm lá xanh non, tỏ a ra một thứ ánh sáng lung linh kỳ ảo trên khắp mọi chỗ, nhà cửa đường phố, trên cả y phục và diện mạo của mọi người. Tuy tên gọi là Rokujo nhưng khu này, từ khi được dời đến đây vẫn còn mang danh cũ là Yanagimachi nghĩa là Xóm Liễu. Chả là vì từ ngàn xưa, liễu vẫn được liên kết với những nơi ăn chơi xa hoa và hành lạc !
Ba người bước qua một cái cổng gỗ to, hai bên treo hai cái đèn ***g thật lớn viết “Quán Ogiya”. Koetsu với Haiya Shoyu cùng là khách quen, chủ nhân chạy ra, các kiều nữ bao quanh chào đón nói cười hân hoan không sao tả xiết. Ở đây, mỗi người đều có một biệt danh, do các nàng đặt ra căn cứ trên những nét riêng hoặc những điểm đặc biệt nơi họ cư trú. Như Koetsu, các nàng gọi là Honami tiên sinh vì ở ngõ Honami; còn Haiya Shoyu có tên là Bạch Phát thi sĩ, nhà thơ tóc bạc. Nếu Miyamoto Musashi là khách quen, chắc chẳng bao lâu thế nào cũng có tên mới.
Quán Ogiya cùng với Quán Kikyoya là hai nơi giải trí sang trọng nhất xóm Liễu. Chủ nhân quán Ogiya là tay doanh thương giàu có và thế lực. Ngoài quán này ra, ông còn nhiều cơ sở làm ăn khác nên rất được vì nể, nhưng ở nơi ăn chơi này, người ta thường chỉ biết ông qua biệt danh Lạc Thiên mà thôi.
Xóm Liễu có hai Geisha tài sắc vẹn toàn, một tên Yoshino Dayu tiếp khách tại Quán Ogiya, còn người kia tên Murogimi Dayu, làm ở Quán Kikyoya. Danh tiếng hai cô này vang dội vùng cố đô, các bậc phong lưu và khách làng chơi không ai không biết.
Miyamoto Musashi lần đầu tiên đến một nơi ăn chơi phù phiếm nên không khỏi bỡ ngỡ. Hắn cố giữ bình thản, nhưng đôi khi không giấu nổi ngạc nhiên trước những sự bài trí cực kỳ xa hoa và tráng lệ tại nơi này. Trần nhà và những rui kèo chạm trổ tinh vi, hàng lan can uốn cong cánh phượng, đồ cổ ngoạn trong tủ kính, họa phẩm quý giá treo trên vách, nhất nhất cái gì cũng đẹp mắt và cầu kỳ, Miyamoto Musashi tưởng trong vương phủ cũng chỉ đến thế !
Cuối phòng chính, bên ngoài chiếu ngồi lại có một khu vườn nhỏ bài trí theo kiểu của nhà họa cảnh vườn danh tiếng Kobori Eushu để quan khách thưởng ngoạn. Khu vườn trải toàn sỏi vụn bao quanh một phiến đá đen có những chỗ đã mòn nhẵn, có chỗ điểm những vết trắng lấm tấm. Sỏi được cào thành luống mỗi ngày, những vết cào làm người xem có cảm tưởng đứng trước một cảnh biển, sóng đập vào thành đá tung bọt trắng như trong bức tranh sơn thủy của một danh họa đời Tống.
Koetsu kêu lạnh, ngồi co ro trong góc. Bạch Phát lão gia xếp gối cạnh chiếc bàn thấp, ngồi xuống và kéo Miyamoto Musashi ngồi cạnh. Nữ tỳ mang rượu hâm nóng vừa đúng độ đến, ca kỹ theo vào, đàn phách rộn ràng ngay từ cửa.
Miyamoto Musashi mãi ngắm những đồ cổ ngoạn quên cả uống rượu, Haiya Shoyu phải nhắc:
- Kìa, tráng sĩ uống rượu đi chứ ! Để nguội mất ngon !
Chén đầy, chén cạn, hai ông già mạn đàm đủ thứ chuyện, Miyamoto Musashi chỉ ngồi yên nghe hát hoặc nhìn ngắm vu vơ. Thấy người bạn trẻ có vẻ đăm chiêu, Haiya Shoyu nhắc khéo:
- Tráng sĩ uống ít rượu lắm nhỉ ! Đến đây phải vui lên chứ, giữ lễ quá mất thú !
- Đa tạ tiên sinh, vãn bối không uống được nhiều !
- Tráng sĩ hình như chẳng phải là đại kiếm khách !
- Hẳn thế rồi !
Miyamoto Musashi cười vui vẻ, xoay câu nói có ý chế nhạo thành lời đùa cợt !
- Nếu tráng sĩ sợ uống nhiều rượu làm mất nhuệ khí hoặc giảm ý chí luyện tập không thành danh được thì quả không có phong độ của một kiếm khách.
Ông vừa nói vừa cười ha hả.
- Không phải thế. Miyamoto Musashi đáp. Chỉ vì vãn bối nhiễm phải một tật ...
- Tật gì ?
- Cứ say rượu thì buồn ngủ.
- Ngỡ gì ! Say đi rồi ngủ ngay tại đây có sao ! Chẳng ai nói gì đâu.
Quay sang các nàng Geisha chiêu đãi, ông chỉ Miyamoto Musashi:
- Chuốc rượu cho tráng sĩ đi. Chừng nào say, bế tráng sĩ vào giường đi ngủ.
Tiếng cười lại ha hả cất cao, xen lẫn với những tiếng hinh hích của các nàng chiêu đãi cười thầm trong tay áo.
Không khí đã có chiều lơi lả. Các nàng làm ra vẻ bạo dạn hơn.
- Để thiếp chuốc rượu !
Một kỹ nữ lại ngồi sát bên Miyamoto Musashi mặt đỏ như gấc, chẳng biết vì say hay vì thẹn. Có kẻ lên tiếng:
- Không được ! Nương nương đây là tiểu thiếp của Bạch Phát lão gia, để thiếp bồi tiếp công tử.
Tráng sĩ bây giờ đổi thành công tử. Nhưng mọi người, kể cả Miyamoto Musashi, chẳng ai chú ý đến sự thay đổi cách xưng hô nhỏ mọn ấy. Khách và kỹ nữ ngồi lẫn lộn với nhau trên chiếu, bá vai kề vế uống rượu, sự nghiêm chỉnh ban đầu không còn nữa.
Koetsu xem chừng cũng say rồi. Ông nói:
- Yoshino Dayu đâu ? Sao không thấy Yoshino ?
- Ờ ! Cuộc vui thế này mà không có Yoshino ngâm thơ thật phí !
- Đi tìm nàng đến. Để ta giới thiệu với tráng sĩ trẻ tuổi đây ...
- Khó lắm, thưa tiên sinh. Nàng đang bận tiếp khách bên Đông sảnh. Nàng đâu có phải để giới thiệu với ai cũng được !
- Cứ bảo có ta đợi, nàng sẽ sang ngay. Nàng biết rõ ta mà, không ngại !
Một người chạy đi tìm tì nữ của Yoshino dẫn đến. Koetsu hỏi:
- Cháu là tì nữ của Yoshino phải không ?
- Dạ phải.
- Vậy đi mời cô nương đến đây ngay. Nói có Honami Koetsu đợi.
Mắt cô bé chớp chớp ra vẻ ngần ngại. Tì nữ này mới khoảng mười một mười hai mà hai má đã hây hây, mắt đen láy, trong dáng ngây thơ có pha chút tinh nghịch của thiếu nữ sớm dậy thì. Trưởng thành ở những nơi lầu hương gác tía, sau này chắc cô bé cũng kiêu sa chẳng kém gì nàng Yoshino. Koetsu giục:
- Đi ! Đi ngay đi, ta sẽ có thưởng ...
Cô bé tần ngần một lát rồi lui khỏi phòng. Mới vài bước đã thấy ả vỗ tay reo gọi rối rít. Ai nấy đổ xô ra hành lang. Koetsu cũng mở song cửa.
Một cảnh đẹp vô cùng bày ra trước mắt mọi người. Tuyết đã xuống từ bao giờ, phơi phới như ngàn ngàn triệu triệu cánh mai theo nhau rụng. Mặt hoa viên trắng bông. Trên những cành tùng, tuyết đọng nặng chĩu, đong đưa theo làn gió nhẹ.
Các nàng kỹ nữ, ca nhân đứng chật hành lang, bàn tán xôn xao không biết tuyết có còn giữ được thế này đến ngày mai không.
Haiya Shoyu sốt ruột, chờ mãi không thấy Yoshino lại, bèn sai một nữ chiêu đãi khác đi tìm.
Lúc sau, trở về nói nhỏ:
- Yoshino muốn tới lắm, nhưng không được. Khách không cho.
Koetsu trợn mắt:
- Khách nào vậy ? Yoshino đâu phải người thường, nàng muốn làm gì mà chả được ! Hay bây giờ lại ham tiền quá rồi !
- Không ! Nàng nói ông khách này quyền thế lắm. Mấy lần xin cáo biệt mà không được !
Haiya Shoyu gật đầu:
- Dĩ nhiên. Ai lại muốn để một người như Yoshino đi khỏi khi đang ngồi với mình. Khách nào vậy ?
- Thưa, Tokugawa đại gia.
- Tokugawa đại gia ? Ngài đi một mình à ?
- Không. Với vài thân hữu khác nữa.
Haiya Shoyu ngồi thừ người buồn bã:
- Thật đáng tiếc. Tuyết đẹp như thế này, rượu ngon như thế này mà không có Yoshino để ta làm bài thơ cho nàng phổ vào đàn Shamisen dạo lên nghe có phải tuyệt không. Thật đáng tiếc !
Bỗng ông vỗ đùi:
- Hay thế này:
Tokugawa đại gia cũng là thi sĩ. Chúng ta làm bài thơ gửi tới, chắc ông sẽ cảm thông với hoàn cảnh chúng ta, để Yoshino tạm sang đây một lúc. Đại huynh nghĩ thế nào ?
Koetsu mỉm cười:
- Chưa chắc. Nếu muốn Tokugawa thuận, bài thơ phải thật xuất sắc. Xoàng xoàng chỉ tổ làm trò cười.
- Đại huynh lại chê tiểu đệ rồi. Hay chúng ta cùng góp sức làm một bài. Ngắn thôi, chừng bốn câu cũng đủ.
- Hà hà ! Cũng được, nhưng phải cái đệ thơ dở lắm. Xin hiền huynh khởi xướng.
- Hừ ... Nàng nào mang cho ta văn phòng tứ bảo ra đây. Để xem ...
Bút mực mang đến. Ngẫm nghĩ một lúc ông viết:
Ngoài song, hoa tuyết bay
Chim lẻ ước gặp bầy ...
Rồi đưa cho Koetsu. Nhà luyện kiếm tìm mãi không ra vận, hỏi Miyamoto Musashi:
- Thế nào, tráng sĩ có ý kiến gì không ? Giúp lão phu với.
Miyamoto Musashi chữa thẹn:
- Quả tình vãn bối từ trước đến nay chẳng làm thơ bao giờ. Sợ làm hỏng việc của nhị vị tiên sinh. Xin thứ cho.
Mãi sau, Koetsu mới tiếp:
Mai già run cánh mỏng
Khí lạnh ngút từng mây ...
Haiya Shoyu đọc, khen tạm được. Ông cũng nhận là trong lúc này khó tìm ý tưởng đặc biệt. Tuy nhiên, những điều chính đã nói hết trong hai câu “mai già run cánh mỏng” và “chim lẻ ước gặp bầy” rồi. Vậy ta cứ gửi.
Bèn chép vào giấy hoa tiên, niêm phong cẩn thận và trao cho một kỹ nữ:
- Các nàng khác không ai có được phong thái như nàng. Hãy vì ta đưa thư này cho Cô Lãnh đại gia và đừng để đại gia giận ...
Cô Lãnh là biệt danh của Tokugawa Ieyasu ở đây, có nghĩa là ngọn núi đứng biệt lập, ý nói về quyền thế của Tokugawa.
Rượu chừng vài tuần nữa mới thấy người kỹ nữ mang thư phúc đáp về để trong một cái hộp sơn mài cực kỳ mỹ lệ.
Koetsu chột dạ, nói:
- Chắc Tôn đại gia ngạc nhiên lắm, không ngờ lại gặp chúng ta ở đây đêm nay.
Lần sau phải cẩn thận hơn mới được !
Ông thong thả mở hộp, lấy tờ thư ra. Trước nét mặt ngỡ ngàng của cả ba người, phong thư chỉ là một tấm hoa tiên vân màu ngà, trên không có chữ nào cả.
Ông quay sang hỏi người kỹ nữ:
- Thế này là thế nào ? Nàng có chắc không đánh rơi mất thư phúc đáp của Tokugawa đại gia chứ ?
- Tiện thiếp đâu dám cẩu thả. Chính tay đại gia đưa cho tiện thiếp hộp này bảo mang về trình tiên sinh.
Haiya Shoyu vẻ tư lự, lúc sau mỉm cười nói:
- Hay ngài không tìm được tứ nào hợp ý, kéo cờ trắng rồi. Không có chữ gì, thư để trắng tức là đầu hàng.
Haiya Shoyu có tính hay suy diễn mọi việc như vậy để lấy lợi cho mình.
Nhưng Miyamoto Musashi nói:
- Vãn bối không nghĩ thế. Chắc ngài muốn nhị vị tiên sinh đọc lời phúc đáp ...
- Đọc tờ giấy trắng này ?
- Chính thế. Màu trắng là màu tuyết. Và rượu sa-kê cũng trắng.
Koetsu gật gù:
- Tráng sĩ nói phải. Nếu ta đọc, thư này có nghĩa:
“Hãy uống rượu ngắm tuyết ... “ Rồi vỗ vai Bạch Phát thi sĩ, ông nói tiếp:
“Và đừng nghĩ đến chim Yoshino, chim nhạn làm gì cho thêm bận !”.
Haiya Shoyu không vừa ý, cau mặt nhìn ra ngoài trời. Tuyết vẫn rơi phơi phới, phủ trắng phau cả những mái lầu và những mầm mẫu đơn mới nhú.
Koetsu say rồi. Ông nằm yên trong góc, mắt lim dim. Cảnh mãn thiên mai vũ chẳng biết có gợi thêm ý gì cho nhà thơ không, chỉ thấy Bạch Phát lão thi sĩ, uống hết chén này đến chén khác, nét mặt không vui. Các nàng kỹ nữ cũng thu dọn đàn địch sênh phách, tô điểm lại nhan sắc.
Miyamoto Musashi yên lặng đứng dậy, kéo cửa khẽ lẻn ra ngoài. Chẳng ai hỏi gì đến hắn. Hắn chọn thời điểm rút lui thật vừa đúng lúc.
Phía sau các phòng tiếp khách, nhiều hành lang hẹp đan vào nhau như những lối đi dọc ngang trong một mê thất mà ánh sáng yếu ớt của một vài ngọn đèn nhỏ treo ở mỗi khúc quanh không đủ soi tỏ hết mọi chỗ. Miyamoto Musashi men theo những lối đi lờ mờ ấy, tránh mọi cửa mở hé để lọt ánh sáng ra ngoài. Đến một chỗ có mùi thức ăn bốc ra, đồ chừng là bếp, hắn đẩy cửa bước vào.
Trong phòng xếp la liệt thực phẩm. Gạo, ngô, rau, đậu, thịt cá, bát đĩa để đầy kệ.
Thì ra đó là một căn phòng kho. Cuối phòng, một cô bé trạc mười một mười hai đang lúi húi xếp dọn. Thấy có người vào, cô bé ngẩng lên:
- Khách quan là ai ? Vào làm gì ? Chỗ này chỉ dành cho người làm.
Miyamoto Musashi nhận ra ngay cô bé là tì nữ của nàng Yoshino, nhưng giờ đây không có cái vẻ dịu dàng ngây thơ như lúc hắn gặp trong phòng khách nữa. Mắt cô bé sắc như dao, đôi lông mày cau lại.
- Ta không được vào đây hay sao ?
- Không.
- Không.
Cô bé tiến đến trước mặt Miyamoto Musashi:
- Chắc khách quan muốn tìm phòng tắm. Xin đi theo tiểu nữ, phía đằng này.
Cô bé cúi đầu, toan nắm tay Miyamoto Musashi dẫn đi. Hắn vội nói:
- Không. Ta không say và cũng không cần phòng tắm. Ta muốn nhờ cô một việc.
- ... ?
- Dẫn ta đến một căn phòng trống và mang cho ta chút gì ăn lót dạ.
- Vậy xin khách quan cứ trở về phòng, tiểu nữ sẽ gọi người mang thức ăn tới.
- Không. Mọi người đang vui đùa và uống rượu, không ai muốn ăn. Làm phiền họ, ta không thích.
Cô bé gật đầu:
- Vậy khách quan ngồi đây cũng được. Khách quan muốn dùng thứ gì ?
- Chẳng có gì đặc biệt. Mang cho ta liễn cơm trắng với chút củ cái muối là đủ.
Nữ tì ngạc nhiên, giương mắt nhìn, nhưng không nói gì, lẳng lặng đi lấy những thứ ông khách muốn.
Ăn cơm xong, Miyamoto Musashi đứng dậy, toan mở cửa ra ngoài thì nghe tiếng hỏi:
- Khách quan đi đâu ?
Hắn không ngờ cô bé vẫn còn quanh quẩn gần đó, rình rập.
- Ta ra ngoài có chút việc. Sẽ trở về ngay.
- Xin khách quan nhớ quay trở lại. Nếu không, tiểu nữ bị trách phạt.
Miyamoto Musashi cười rộ, lộ hàm răng trắng bóng. Vẻ mặt tươi cười của hắn làm cô bé yên dạ.
- Nhất định rồi. Nếu các vị trong phòng có hỏi thì bảo ta đến khuôn viên Kim Các Tự, vãn cảnh chùa ngắm tuyết, rồi trở lại.
- Vâng.
Cô bé đi trước, mở cổng vườn sau. Trên mái cổng, tuyết đóng dày hàng tấc. Lối vườn sau ngoắt ngoéo, vắng vẻ, không đèn đóm gì nhưng nhờ ánh tuyết hắt lên vẫn đủ sáng. Những vết chân của Miyamoto Musashi in hằn trên nền tuyết tinh khiết như những vết chân dã thú đi tìm mồi trong đêm hoang lạnh.
Đến trước một tiệm bách hóa, hắn bước vào hỏi mua một đôi dép cỏ, thứ tốt dùng để đi tuyết, nhưng không có. Tiệm này phần lớn chỉ bán nón nan rộng vành cho khách đến tiêu khiển ở xóm Liễu nhưng lại muốn che mặt không để người khác biết. Hắn phải nhờ chủ nhân sai người đi mua hộ. Trong lúc chờ đợi, Miyamoto Musashi mượn giấy bút viết một bức thư ngắn, cởi áo ngoài gấp lại cẩn thận, bỏ thư vào tay áo đã gấp rồi đưa cho chủ nhân mà nói:
- Tại hạ ra đi có chút việc, không tiện mặc áo này. Nếu đến đầu giờ tý không thấy về, phiền chủ nhân cho người mang áo đến quán Ogiya tìm Honami tiên sinh trao lại giùm.
Chủ nhân thắc mắc toan hỏi, Miyamoto Musashi vội gạt ngang:
- Mọi chi tiết, tại hạ đã viết trong thư, xin cố giúp cho.
Đồng thời lấy ra ít bạc vụn đưa tặng. Chủ nhân cười vui vẻ bỏ ngay vào bọc, mặt tươi như hoa:
- Được mà ! Được mà ! Khách quan khỏi quan tâm, lão sẽ làm giúp.
Miyamoto Musashi lại mua một cái nón nan. Khi người nhà mang dép về, hắn thay dép mới, buộc quai chằng lên đến cổ chân, thử đi thử lại nhiều lần, khi thấy vừa phải không chặt mà cũng không lỏng quá mới sửa lại áo và kiếm đeo bên sườn, đội nón che kín nửa mặt và rời khỏi cửa hàng bách hóa.
Tuyết vẫn rơi đều đều không ngớt. Những bông to và nhẹ hơn cả cánh hoa mai rụng.
oo Ven bờ sông, trông sang đường Shijo, còn ánh đèn thưa thớt. Nhưng về phía đông gần rừng, ngoài mấy vòng tròn sáng vàng úa từ những cây đèn đá tỏa ra, không có dấu tích gì chứng tỏ có sự sinh hoạt của cư dân. Khu này bình nhật đã ít người qua lại, ban đêm tuyết xuống càng vắng lặng. Sự yên lặng càng rõ rệt hơn khi những mảng tuyết dầy đọng trên cành quá nặng rớt xuống. Tiếng rớt “bịch” ngắn, gọn, không một âm vang, gợi cho người nghe cái cảm giác bực bội như niềm hy vọng đột nhiên bị bóp nghẹt.
Trước thềm tòa cổ miếu ven sông, cổng đóng im ỉm, chừng hai chục người quỳ gối cúi đầu khấn nguyện. Chuông từ xa vẳng lại năm tiếng, báo hiệu giờ dậu đã qua. Đêm nay, tiếng chuông nghe trong và mạnh, như đâm thấu tâm can, khiến mọi người hồi hộp, vô tình xích lại gần nhau. Họ mong tìm được thêm từ người bên cạnh chút hơi âm hay một niềm an ủi.
Yoshioka Denshichiro đứng dậy trước tiên:
- Anh em ! Như vậy đủ rồi ! Đã đầu giờ tuất, ta đi là vừa !
Cả bọn lục tục làm theo, xốc lại áo và buộc lại giày cỏ. Một người nói:
- Đêm nay lạnh lắm đấy, đừng buộc quai dép chặt quá, dễ đứt. Trời thế này, lẽ ra mang giày quai vải mới phải.
Denshichiro đã chuẩn bị kỹ ngay từ nhà, đầu thắt băng vải đen, tay đeo bao da mềm hở ngón để sử kiếm cho tiện. Cả bọn nối đuôi nhau theo chủ soái, lặng lẽ bước những bước vội vàng trên nền tuyết xốp. Bốn bề yên lặng, chỉ nghe tiếng thở đều đều và hơi thở của họ bốc ra thành từng vệt khói trắng đục.
Khu xóm Liễu chỗ nào cũng đông đúc, duy chỉ có cánh đồng trống rỗng sau Kim Các Tự là vắng vẻ. Ở đó ít lùm cây rậm rạp, chỉ có vài gốc thông trơ trọi và cỏ gianh cũng thấp, không làm cản trở cuộc giao đấu bằng bất cứ loại võ khí gì nên cả hai bên dù không ước hẹn, đều ngầm hiểu và cùng hướng về phía đó trước tiên.
Giờ tuất quả có quá sớm. Tuy nhiên Yoshioka đã chọn và Miyamoto Musashi chấp nhận. Denshichiro nóng lòng trả hận, trì hoãn lâu e kẻ địch trốn mất nên gã quyết định hành động càng sớm càng tốt. Yoichibei thì được lệnh lảng vảng gần nơi cổng đá nhà Haiya Shoyu với một võ sinh giữ việc liên lạc. Cho nên khi bọn Miyamoto Musashi lên cáng đến xóm Rokujo, Denshichiro đã được tin báo tức khắc.
Đi được một quãng còn cách Kim Các Tự khoảng chừng vài chục trượng, thấy có lửa lập lòe sau một bức tường đổ nát trên nền nhà cũ bỏ hoang, thầy trò Yoshioka ngạc nhiên khựng lại:
- Ai ?
- Phải Ueda không ?
Thì ra Ueda và Jurozaemon.
Denshichiro hơi bực. Gã rất tin vào kiếm thuật của mình nên thấy đàn em đến đông, gã tưởng họ coi thường mình, nhất là những người đó lại là hai tay xem ra bản lãnh có phần cao nhất phái. Gã buông sõng:
- Đến đây làm gì ?
- Chúng đệ sốt ruột quá, ở nhà không yên nên đến đây xem thiếu gia có điều gì sai phái chăng ?
Lời nói khéo của Ueda làm Denshichiro bớt giận. Tuy vậy gã cũng vẫn không thoải mái:
- Ta đến nhiều người quá. Nếu giết được nó mà giang hồ biết ta đông thế này, tất sẽ bảo ta ỷ chúng hiếp cô, mang tiếng.
- Không hề gì. Đây còn cách Kim Các Tự đến vài chục trượng, chúng đệ ngồi cả đây phòng bất trắc để một mình thiếu gia tới đó trừng phạt nó.
- Cũng được !
- Chắc thiếu gia đi đường lạnh, ngồi đây sưởi ấm cái đã. Còn sớm, bây giờ mới khoảng giữa giờ tuất, vội gì !
Denshichiro đến gần đống lửa, Ueda nhích sang bên nhường chỗ. Đồ chúng lục tục theo sau, quây quần bên ngọn lửa bốc cao. Denshichiro cởi bao tay, giơ ra trước mặt sưởi, bẻ đốt ngón tay kêu răng rắc. Ánh lửa hắt lên mặt hắn làm vằn lên những tia máu trên mặt và làm mặt gã đỏ ửng.
- Gần đây có hàng quán gì không ?
Denshichiro hỏi.
- Có, có một quán ở gần đây.
Denshichiro quay lại bảo người vừa nói:
- Vậy đi mua cho ta bình rượu.
- Mua rượu bây giờ ?
- Chứ gì ! Trời lạnh thế này, có chút rượu vào cho ấm bụng !
- Chắc gì họ còn mở.
- Cứ đập cửa lâu lâu vào, thế nào cũng được.
Đồ chúng Yoshioka biết vị chưởng môn mới của họ thích rượu. Sáng, trưa, chiều, tối, không mấy khi là không thấy Denshichiro thiếu gia chuếnh choáng. Mãi rồi họ cũng chấp nhận, cho đấy là một cái tật vô hại. Bữa nay, trước khi ra đi, Denshichiro chỉ uống chút ít. Gã cũng biết cuộc giao chiến đêm nay hết sức quan trọng, không những cho tính mệnh của gã mà còn cho cả danh dự và tương lai môn phái nữa. Nhưng trời lạnh, ngồi bên đống lửa ấm áp, gã thấy thèm rượu hết sức.
Khi người ta đã muốn điều gì thì luôn luôn có đủ lý lẽ biện minh hầu thỏa mãn ý muốn ấy. Tính Denshichiro lại nóng, ai cản cũng không được, chỉ làm gã tức giận và bướng bỉnh thêm, cho nên đồ đệ Yoshioka ngồi đầy ra đó mà im như thóc.
Ueda liếc mắt hất hàm bảo người vừa nói:
- Thiếu gia đã muốn uống rượu thì ngươi đi mua đi. Một chút cũng chẳng sao, còn hơn để tay chân tê cóng !
Lát sau rượu mang về, hâm vừa đúng độ. Denshichiro ôm vào lòng, tu một hớp, khà ra khoan khoái:
- Hà ! Đây là bạn thiết và là người thân thích nhất của ta đây !
Gã cười ha hả, nhưng Ueda thì nuốt lệ. Hắn thầm mong cho vị chưởng môn của hắn uống ít hơn mọi bữa.
Quả nhiên, sau chừng chục lần đưa bình rượu lên môi, Denshichiro thôi không uống nữa. Gã trao bình cho một đồ đệ gần đấy và bảo:
- Ngươi giữ nó cho ta. Để xong việc, ta sẽ hỏi đến !
Tuy làm ra bộ thản nhiên, Denshichiro cũng biết sinh mệnh mình nằm trong cái bình ấy.
Có tiếng sột soạt. Mọi người như cành cây cong đột nhiên được buông ra, đứng bật dậy.
- Ai ? Miyamoto Musashi hả ?
Mọi người lắng tai, tay để vào đốc kiếm. Im lặng như tờ. Không động tĩnh. Tiếng củi khô nổ lách tách. Lúc sau mới thấy một bóng đen từ phía sau nền nhà đổ hiện ra giơ tay vẫy.
- Anh em còn ngồi cả đây à ?
Bóng đen mặc y phục dạ hành, quần bó chẽn để dễ di động nhưng không giấu được vẻ chậm chạp của một người nhiều tuổi. Khi bóng đen đến gần vùng ánh sáng đống lửa, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.
- Ngỡ ai, hóa ra là Genzaemon lão trượng. Lão trượng đến đây làm gì thế ?
Yoshioka Genzaemon là em Yoshioka Kempo, vào hàng thúc bá của Seijuro và Denshichiro. Ông đã già nhưng vẫn còn lưu tâm đến vận mệnh bản phái và vẫn thường khuyên nhủ thiệt hơn Seijuro khi hắn còn giữ chức chưởng môn.
Denshichiro thấy chú, tỏ vẻ ngạc nhiên. Gã không mong một sự trợ giúp nào ở ông chú già yếu ấy. Khác với Seijuro, những lời nhắn nhủ của ông chỉ làm gã bực mình nhưng vì là hàng dưới, gã chỉ vâng dạ cho xong chứ không để vào tai.
- Denshichiro ! Ta nghe nói ngươi sẽ giao đấu với thằng Musashi tối nay phải không ?
- Thưa thúc thúc, cháu đã định đến thỉnh ý thúc thúc, nhưng vì gấp quá ...
- Còn phải thỉnh ý gì nữa. Anh mày bị nó đánh cho tàn phế, danh dự cả phái Yoshioka bị nhấn xuống bùn nhơ, mày không trả thù ấy thì ai đứng ra cáng đáng ?
- Dạ chính thế. Cháu đã nhất quyết.
- Phải lắm. Ta đến đây cũng vì lẽ ấy. Trời lạnh mà ta không ngại chỉ vì muốn nói với mày một câu. Mày biết câu gì không ?
- Dạ, cháu xin lắng nghe.
- Danh dự bản phái là trọng, thân ta không đáng kể. Nhưng không phải vì thế mà hành động bừa bãi được. Đừng vội vàng hấp tấp, hãy bình tĩnh cháu ạ. Ta nghe thằng ấy kiếm pháp chẳng phải tay vừa.
Ngừng một lúc, ông lại nói:
- Nếu chẳng may cháu có mệnh hệ nào, ta sẽ lo mai táng chu tất.
Denshichiro cười lớn:
- Thúc thúc quá lo xa. Cháu đâu phải như Seijuro.
Đoạn dắt tay chú đến ngồi bên đống lửa, hô mang rượu ra để ông uống. Rượu được vài ngụm, Yoshioka Genzaemon nói:
- Lúc này cũng gần đến giờ rồi. Sửa soạn đi là vừa. Ta nghĩ các anh em khác nên tránh mặt, cả ta nữa. Hãy đứng ở phía xa xa, kẻo giang hồ họ lại nói cuộc chiến không công bằng, rồi đồn đại mất cả hùng khí bản phái.
Mọi người nghe theo, đứng dậy rảo bước ẩn vào sau những gốc thông lân cận, để một mình Denshichiro ngồi bên đống lửa.
Gã đeo bao tay, xốc lại kiếm. Vết chân đồ chúng Yoshioka tản mát ra từ phía in lên nền tuyết trắng những vệt dài đen sẫm.
Không gian vắng lặng, chỉ nghe tiếng củi nổ lép bép. Đôi lúc một cành cây khô gẫy dưới sức nặng của tuyết đọng, vang lên khô khan. Denshichiro đảo mắt dò xét bóng đêm xung quanh.
Chuông từ xa vẳng lại thong thả buông sáu tiếng. Giờ tuất đã qua, vân không thấy Miyamoto Musashi. Denshichiro đã tỏ vẻ bồn chồn nóng nảy.
Từ xa, một bóng đen rảo bước đi đến, nhanh như chạy.
Denshichiro vội vàng phóng chân đá tuyết, dập cho lửa tắt rồi rút vào ẩn dưới một tàn thông. Tiếng bóng đen chạy đến nói trong hơi thở hổn hển:
- Thiếu gia ! Nó sắp tới rồi !
- Yoichibei ! Ngươi thấy nó ở đâu ?
- Đệ mai phục gần chùa, rõ ràng thấy nó bước lên tam cấp. Nó đi một mình, nhưng có vẻ phòng bị kỹ, vừa đi vừa ngoái cổ trông tứ phía, lại tránh những bụi cây rậm.
Thiếu gia sẵn sàng chưa ?
- Rồi ! Để mặc ta. Ngươi tìm chỗ ẩn đi !
- Anh em đâu cả ?
- Họ tản ra quanh đây thôi. Ngươi cũng thế, dừng đứng lớ ngớ ở đó, vướng chân vướng cẳng ta, vô ích.
Yoichibei trở gót. Y làm bộ nghe lệnh, nhưng thực ra thừa lúc Denshichiro quay đi, lẩn ngay xuống sân ngôi cổ tự nấp ở đấy. Y đã có chủ ý. Ở đó y có thể nhìn rõ cuộc đấu và khi cần, tập kích địch thủ nếu có dịp. Đêm khuya vắng vẻ như thế này, ngoài anh em Yoshioka ra còn ai biết ?
Thu hình dưới sàn gỗ, trong bóng tối ẩm thấp. Yoichibei cảm thấy lạnh thấu xương. Mồ hôi trong lần áo lót bốc hơi, lấy bớt đi nhiệt độ, y càng lạnh, răng đánh vào nhau lập cập. Yoichibei mong đó chỉ là cái lạnh bên ngoài chứ không phải vì sợ.
Đến sân sau chùa, Denshichiro đứng lại sửa dây da buộc cổ tay, rồi gác chân lên rễ một gốc cây đổ, đợi. Mắt gã dán vào hàng cột lớn dọc theo hành lang Kim Các Tự.
Trong chùa vắng lặng. Thỉnh thoảng mới có tiếng băng nhũ rơi trên mái xuống đánh bộp một cái.
Denshichiro sốt ruột, đổi thế đứng rồi đi đi lại lại, vết chân hằn sâu trên tuyết, vẻ bực bội. Sự chờ đợi làm gã khó chịu, nhất là bây giờ hơi rượu đã tan hết. Gió lạnh thổi vào mặt gã, nhôn nhốt như kim châm. Yoichibei cũng sốt ruột không kém. Y nhẩy từ chỗ nấp ra. Denshichiro giật mình rút gươm:
- Ai ?
- Tiểu đệ !
Denshichiro cau mặt mắng:
- Ngươi làm gì trong đó ? Miyamoto Musashi đâu ?
- Không biết ! Đệ quả đã trông thấy nó vào chùa. Sao đến bây giờ vẫn chưa thấy mặt.
- Hay thằng khốn kiếp ấy trốn rồi ! Ngươi nhìn phía đó, để ý mọi tiếng động, nhất là ở những chỗ tối. Ta coi phía này.
Đoạn cả hai chia nhau quan sát. Lúc sau vẫn không thấy động tĩnh gì, Denshichiro bắt đầu mất bình tĩnh, cho là Yoichibei đã hoảng báo. Đột nhiên có ánh đèn lập lòe về phía hàng lang chùa. Gã đưa tay gạt Yoichibei và nói nhỏ, bảo y hãy nấp vào sau gốc thông.
Ánh sáng dường như của một chiếc đèn bão, lắc lư theo nhịp bước, từ trong chùa đi ra. Đèn lúc ẩn lúc hiện sau hàng cột lớn, mờ tỏ soi phần dưới bộ y phục nâu sồng của một nhà sư.
Nhà sư đi một mình hay với người nào khác, Denshichiro trông không rõ vì tối quá.
Không dằn được tò mò, gã nhẩy ba bước đến sát hàng hiên. Ngọn đèn đột nhiên tắt phụt.
Trong cái lúc tranh tối tranh sáng, mắt người chưa kịp điều tiết để thích ứng với mọi sự thay đổi chung quanh ấy, Denshichiro bỗng nhiên hét lớn:
- Miyamoto Musashi !
Nhưng lập tức, gã cũng ý thức ngay được sự nhầm lẫn chiến lược của mình.
Denshichiro đứng dưới thềm chùa, thấp hơn Miyamoto Musashi có đến năm sáu bộ. Ở một vị trí như vậy, dù có giở tuyệt kỹ của Yoshioka kiếm phái ra chăng nữa cũng không công được, mà thủ cũng khó. Nhảy lên hiên cho ngang với hắn, sẽ chậm đi một chút, đường kiếm mất đi sự thần tốc, dũng mãnh. Và biết đâu sau hàng cột tối kia chẳng có kẻ ẩn nấp.
Nói thì lâu nhưng phản ứng của Denshichiro rất nhanh. Gã tung mình nhảy lui năm bước ra chỗ khoảng khoát giữa sân. Sau gã là tuyết, là gió, không có gì cản trở, gã có thể mặc sức tung hoàng. Vừa vững vị trí, Denshichiro đã hô lớn:
- Miyamoto Musashi, xuống đây !
Trên hiên, Miyamoto Musashi vẫn không lộ hình tích. Không ai biết hắn đứng đâu.
Ven tường ? Sau cột ? Hắn thận trọng tối đa. Chỉ nghe từ trên thềm vọng xuống:
- Denshichiro ! Ngươi sẵn sàng chưa ?
Giọng Miyamoto Musashi bình tĩnh. Câu hỏi tầm thường ấy không ngờ lại có tác dụng mạnh mẽ tựa gáo dầu sôi đổ vào tâm trạng hừng hực của Denshichiro.
Từ trước, Denshichiro vẫn coi Miyamoto Musashi chẳng qua như một tên lực sĩ quê mùa, nhờ tuổi trẻ và nhanh nhẹn mà thắng được bào huynh gã. Không theo một môn phái chính thống nào, kiếm pháp Miyamoto Musashi.

Acmagiro
04-03-2008, 03:03 PM
CHƯƠNG 40
Yoshino Dayu


Haiya Shoyu đã say. Mặt lầm lì tái ngắt, ông đăm đăm nhìn tờ giấy hoa tiên không chữ để trước kỷ, lẩm bẩm:
- Thế này thì quá lắm ! Cậy có quyền thế muốn làm gì cũng được sao !
Haiya Shoyu chống tay toan đứng dậy, nhưng lảo đảo ngã ngồi xuống. Sumigiku, ái thiếp ông, che miệng cười khúc khích. Ông nhìn nàng, chữa thẹn:
- Nàng cười ta say chăng ? Chưa, ta chưa say, nhưng có say cũng chẳng hề gì. Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh. Phải thế không, ái nương ?
Nàng Sumigiku mỉm cười. Những cảnh này nàng đã chứng kiến nhiều lần. Khách đến đây giải trí, mặc sức say sưa vì ở đa số, cơn say của họ vô hại. Quan niệm chung, rượu cũng là một thứ giải trí tao nhã, miễn người uống vẫn giữ được vẻ phong lưu, đĩnh đạt.
Haiya Shoyu là nhà buôn, nhưng có máu nghệ sĩ, ưa đùa cợt. Ông biết hài hóa những tật xấu của mình thành ra dễ gây hảo cảm. Rồi vì dư dả tiền bạc, mua chuộc kết thân với giới quyền quý, nên được kính nể chẳng khác gì các bậc vương tôn khác.
Nhưng đêm nay ông không hài lòng vì không được Yoshino Dayu chiếu cố, mặc dầu đã cho người ân cần mời mọc. Điều ấy làm Haiya Shoyu cảm thấy như bị cự tuyệt.
Ông buồn rầu bảo người kỹ nữ:
- Sao vắng vẻ thế này ? Họ đi đâu cả ?
Sumigiku không đáp, kéo tấm chăn mỏng choàng lên vai ông, ân cần khuyên giải:
- Khuya rồi, tiên sinh đi nghỉ, bận tâm làm gì ?
Nhưng ông không nghe, gạt tay nàng ra, gượng đứng dậy lảo đảo một lúc mới vịn được vào vách.
- Tiên sinh định đi đâu ?
- Ta đến phòng Cô lãnh đại gia.
Qua dãy hàng lang đèn sáng lờ mờ, Sumigiku dìu ông đến trước một gian đại sảnh, rồi gõ cửa. Tiếng đàn ca, sênh phách bên trong ồn ào vọng ra tận ngoài. Gõ mấy lần mới thấy cửa mở. Một tráng niên vóc dáng trung bình, đầu cạo trọc dáng tựa thiền sư nhưng trang phục lại theo lối thế tục, bước ra.
Tráng niên nhìn Haiya Shoyu, ông cũng trố mắt nhìn lại. Bỗng nhiên cả hai cùng phá lên cười ha hả:
- Ha ha ! Takuan Soho ! Ngươi làm gì ở đây thế này ?
- Mô Phật ! Ngỡ ai hóa ra lão huynh. Thì ra lão huynh đặt thương điếm ở đây đấy hả ?
- Chứ sao ! Chốn này lạc cảnh, nếu dung được đệ tử của nhà Phật thì hẹp gì chẳng có chỗ cho thương điếm của tại hạ !
Nói xong lại cười ngất. Sự ngạc nhiên thích thú làm Bạch Phát lão thi sĩ tỉnh cơn say quên cả mối sầu trước đó.
Hàn huyên một lúc, mãi đến khi Takuan hỏi Haiya Shoyu đến đây làm gì, ông mới sực nhớ mục đích của mình. Ghé tai nhà sư, ông hỏi nhỏ:
- Tolugawa đại gia có trong ấy không ?
- Ngài về rồi. Chỉ còn tướng công Mitsuhiro và ngài Nobutada.
Karasumaru Mitsuhiro và Konoe Nobutada đều thuộc hoàng tộc. Mitsuhiro, tước Tả Xuyên Hầu, giữ chức vụ lớn tại đế kinh, bổng lộc cao hàng mấy vạn gia. lúa đồng niên nhưng vẫn chẳng đủ tiêu dùng. Mitsuhiro tướng công tính phóng túng, ưa vui chơi, thích được mỹ nữ chiều chuộng nên ít khi có mặt tại công đường. Hình như chỉ ở những chỗ như thế này, thoát khỏi mọi ràng buộc của chức vụ, ông mới thoải mái. Mitsuhiro chẳngiấu gì điều ấy. Có lần ông đã nói:
Chức vụ cao mà làm gì. Bình sinh ta chỉ muốn luôn luôn ngồi bên người đẹp, mùa xuân ngắm hoa, mùa thu thưởng trăng, rồi nếu có phải chết đi thì được lìa trần với bát rượu trên tay, thế là mãn nguyện.
Bởi tiếp Mitsuhiro tướng công là danh kỹ Yoshino Dayu, tuy đã gấp hai tuổi trăng tròn mà phong tư dung mạo còn rất tươi đẹp, thiếu nữ đôi tám chưa chắc đã ăn đứt.
Mặt hoa hơi cúi dường e thẹn, môi mọng đỏ như trái anh đào, mái tóc đen mượt chải cầu kỳ làm tôn màu trắng phớt hồng của làn da nhồi phấn trang điểm theo lối đương thời, trông nàng chẳng khác gì pho tượng quý.
Nghe cười ha hả ở phòng ngoài, Mitsuhiro tướng công quay hỏi nàng Yoshino:
- Phải chăng Bạch Phát thi sĩ đấy ?
Yoshino cắn môi khẽ gật, mi mắt chớp mau. Nếu ông già này đến kéo nàng đi thì quả thật nàng chẳng còn biết xử trí ra sao nữa. Hai bên cùng là khách quý, cùng hào sảng như nhau, nàng chẳng muốn vì bên này mà bên kia phải mất lòng.
Đang bối rối, Takuan đã khoác vai Haiya Shoyu nghiêng ngả bước vào. Yoshino Dayu toan đứng dậy thi lễ, Mitsuhiro tướng công kéo áo nàng nói nhỏ:
“Bất tất”, rồi với giọng làm ra vẻ thành thật:
- Chà ! Lâu lắm không gặp tôn huynh. Hôm nay sao may mắn thế này, thật là đại hạnh !
Hải lão công kính cẩn đáp lễ rồi không khách sáo, tiến đến trước mặt Mitsuhiro và Nobutada ngồi ngay xuống:
- Đa tạ tướng công. Lão phu cũng thế, không ngờ được diện kiến tướng công lại còn may mắn gặp ông bạn cố tri này nữa.
Haiya Shoyu vừa nói vừa chỉ tay vào Takuan.
Nữ tỳ mang thêm rượu. Chén thù chén tạc, sau những lời chúc tụng thường lệ, trong câu chuyện đôi khi đã có ngụ ý châm chọc, khích bác.
Haiya Shoyu rót rượu cho Takuan, nói:
- Trong cuộc đời ô trọc này, thiền sư thế mà là người khôn ngoan nhất. Không bị ràng buộc lợi danh mà vẫn luôn luôn hưởng lạc thú, như thế chẳng phải là điều đáng mong ước lắm sao ?
- Phải lắm. Mitsuhiro xen vào. Như phái quý tộc ta mới đáng buồn. Danh cương lợi tỏa, làm gì cũng phải nhìn trước ngó sau, thật chẳng vao giờ được thỏa chí.
Haiya Shoyu cười ra vẻ không tin:
- Tướng công nói quá. Quyền thế như tướng công muốn gì chẳng được. Chẳng hạn nàng Yoshino đây nếu không sợ Oai tướng công, đâu có thích ngồi chỗ này mãi.
Tiếng cười khỏa lấp ý chế giễu, làm như chỉ là nói đùa. Nhưng Mitsuhiro tướng công khó chịu. Ông hơi đỏ mặt:
- Đấy là Yoshino Dayu tự chọn đấy chứ. Dĩ nhiên trong cuộc vui chơi, chẳng ai muốn ngồi bên một ông già lẩm cẩm.
- Vị tất đã đúng. Để xin hỏi nàng Yoshino.
Nàng Yoshino chỉ lặng thinh. Vẻ bối rối hiện trên khuôn mặt. Sự ganh tị giữa hai ông khách đã đến lúc gay go, cần được giải tỏa. Takuan vội nói:
- Hai vị đều là những bậc phong lưu nhã khách cả. Bần tăng đề nghị cách này, hai vị nghĩ sao ?
Mọi người lặng yên chú ý.
- Ta đặt một trò chơi, hai vị đấu với nhau, người nào thắng, nàng Yoshino sẽ chuốc rượu.
Tiếng vỗ tay hưởng ứng rào rào. Nobutada cũng thêm:
- Vậy xin mời đại sư làm trọng tài khảo sát. Như thế mới công bằng.
- Nhưng chơi trò gì mới được chứ ?
- Cờ vây.
- Ồ, cờ vây mệt trí. Tìm trò gì thoải mái hơn, chỗ này vui chơi chẳng nên gò bó quá !
Bàn tán một lúc, mọi người đều đồng ý thi uống rượu. Mặc dầu Bạch Phát thi sĩ đã say khướt nhưng ông vẫn tự cho đủ sức thắng đối phương nên không phản đối.
Hai bình rượu lớn được bưng ra. Takuan kiểm soát dung tích và nồng độ, rồi để mặc các đối thủ tự rót uống. Chén đầy chén cạn, chẳng bao lâu, mắt Haiya Shoyu và Mitsuhiro đều đỏ hoe, giọng nói lè nhè. Đã đến lúc rượu đối với họ không còn mùi vị gì nữa, chỉ đắng ngắt. Yoshino mượn cớ vào nhà trong, bỏ đi từ lúc nào.
oo Miyamoto Musashi trở lại Quán Ogiya sau khi tạt qua cửa hàng bách hóa lấy chiếc áo đã gửi. Căn phòng cũ vắng hoe, trên kỷ trơ khay rượu với hai cái chén nhỏ. Hắn ngồi xuống rót rượu uống một mình.
Bỗng cửa xịch mở. Một nữ tỳ bước vào. Trông ra thì là tiểu tỳ hầu hạ Yoshino, đã cho hắn ăn cơm khi nãy.
- Khách quan đã về đấy ư ?
- Ừ, ta vừa về.
- Khách quan đi lối nào vậy ?
- Cửa sau.
- Cửa sau đóng khóa mà. Sao vào được ?
Miyamoto Musashi không đáp, chỉ mỉm cười hỏi lại:
- Họ đi đâu hết ? Sao phòng vắng tanh thế này ?
- Các vị ấy sang đông sảnh, đang cùng Mitsuhiro tướng công chơi trò thi uống rượu.
- Cả Honami tiên sinh nữa ?
- Không. Không thấy Honami tiên sinh đâu.
- Có lẽ tiên sinh về nhà rồi. Nếu thế thì ta cũng về thôi.
- Không phải. Tiểu nữ không tin ngài đã về. Mà quý khách cũng không tự tiện về được. Lệ Ở đây ai về, cô nương cháu cũng đến cáo biệt.
- Lệ gì khắt khe thế ?
- Nếu không, lần sau cô nương cháu không tiếp đâu.
- Chà ! Cô nương ngươi khó quá nhỉ !
Lần đầu tiên đến chốn ăn chơi, tiếp xúc với giai cấp thượng lưu, Miyamoto Musashi gặp nhiều điều phiền toái. So với nếp sống giang hồ của hắn, muốn đến là đế n, muốn đi là đi, không gì kềm tỏa, hắn thấy chẳng sung sướng bằng. Hắn cau mặt:
- Có lẽ ta phải phá lệ này mất !
Vừa hay Takuan ở ngoài bước vào.
- Miyamoto Musashi ! Nghe tiếng quen, quả là ngươi. Đến đây hồi nào thế ?
Vừa nói vừa vỗ vai hắn, thân mật. Miyamoto Musashi ngạc nhiên lui khỏi bàn rượu, chống hai tay xuống chiếu, rạp đầu kính cẩn:
- Takuan ! Không ngờ con cũng gặp thầy ở đây !
Nhưng Takuan đã cúi xuống nâng dậy và nói:
- Đừng ! Chỗ này là nơi giải trí, đến đây cốt để mua sự thảnh thơi, chẳng nên có những nghi lễ phiền phức. Nghe nói Koetsu tiên sinh ở phòng này, ta muốn gặp. Tiên sinh đâu sao không thấy ?
- Lúc nãy còn ngồi ở đây, không biết bây giờ đâu.
- Miyamoto Musashi ! Ta nghe nhiều chuyện về ngươi, muốn nói với ngươi vài điều, nhưng chỗ này không tiện. Thôi để khi khác. Giờ hãy tìm Koetsu tiên sinh đã.
Dứt lời, đẩy tấm bình phong, đi ra phía sau. Thì thấy Koetsu bình thản nằm ngủ trong góc.
Takuan không tiện đánh thức, toan lui ra, nhưng Koetsu đã cựa mình mở mắt. Nhìn thiền sư, ông ngạc nhiên nhỏm dậy có ý hỏi. Takuan giải thích về sự có mặt của mình nhân đến thăm và cùng đi với tướng công Mitsuhiro. Ra phòng ngoài, Koetsu nói:
- Nếu có Mitsuhiro tướng công thì lão phu cũng sang bên ấy vấn an nhân thể.
Rồi quay về phía Miyamoto Musashi:
- Cả tráng sĩ nữa ! Về làm gì vội, sáng mai về cũng chưa muộn.
Thế là cả ba bỏ sang đại sảnh phía đông.
Đến nơi, Haiya Shoyu và Mitsuhiro không còn ai uống rượu nữa. Cả hai ngồi yên lặng nhìn nhau, đờ đẫn như đắm chìm trong một nỗi buồn vạn cổ. Bọn kỹ nữ cũng đã bỏ đi, chỉ còn Sumigiku ủ rũ trong góc, tay vẫn ôm đàn, thỉnh thoảng nhấn một cung, nghe nghẹn ngào và xót xa như tiếng nức nở.
Koetsu tiên sinh nhìn cảnh này không khỏi lẩm bẩm:
- Tịch mịch quá ! Hay ta về quách !
Mọi người phân vân. Nghĩ cho cùng, thế cũng phải. Kéo dài thêm cái không khí “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” này ra làm gì, mất hứng thú. Bèn chẳng ai bảo ai, lục tục đứng dậy sửa mũ áo.
Bỗng có tiếng gõ cửa. Một tỳ nữ bước vào vừa thở dốc vừa nói:
- Xin quý khách lưu lại chút nữa. Cô nương cháu muốn mời quý khách quá bộ lại tư thất.
- A ! Ai thế ? Phải Yoshino chăng ?
- Dạ phải. Cô nương cháu xin tạ lỗi và xin quý tôn khách thông cảm cho cô cháu chẳng thể chiều lòng riêng một ai. Nếu bồi tiếp Mitsuhiro tướng công thì Bạch Phát tiên sinh buồn, mà chiều Bạch Phát tiên sinh thì để Mitsuhiro tướng công ngồi một mình sao đành dạ !
Nên cô nương cháu xin thỉnh tất cả quý tôn khách đến tư thất để cô nương cháu được hân hạnh hầu tiếp.
Mọi người, trừ Miyamoto Musashi ra, nhìn nhau ngạc nhiên, không tin điều ả thị tỳ vừa nói. Vì Yoshino là danh kỹ đất thần kinh, rất được sủng ái, từ trước đến nay không tiếp ai tại tư gia bao giờ, dù người đó là bậc công khanh có thế lực đến đâu đi nữa. Nay lại mời cả bọn về nhà là có ý gì ?
Nhưng dịp may chẳng muốn bỏ lỡ, ai cũng vui vẻ nhận lời. Mitsuhiro và Haiya Shoyu tỉnh hẳn rượu, bảo ả tỳ nữ:
- Nhà cô nương ngươi gần đây không ?
- Dạ cũng không xa, ngay cuối trang viện này. Xin quý khách theo tiểu nữ.
Miyamoto Musashi không có ý kiến, nhưng nghe lời Koetsu khuyên cũng đi. Bèn gọi người mang giày cỏ để đi tuyết đến, rồi cả năm người theo chân ả nữ tỳ ra ngoài.
Tuy là khách quen. Haiya Shoyu và Koetsu không biết chỗ ở của Yoshino. Cả hai đoán nàng sẽ đãi trà vì được biết Yoshino cũng là một đệ tử trung thành của trà đạo. Phải rồi ! Giời lạnh thế này, ngồi uống trà trong phòng ấm với mỹ nhân, còn gì thú hơn nữa.
Quanh co mãi, khỏi đường lớn, đến một khu đất cây cối lưa thưa, tuyết phủ đầy, vẫn chưa thấy nhà cửa gì, Haiya Shoyu sốt ruột hỏi:
- Ngươi dẫn chúng ta đi đâu mà đến chỗ toàn gai góc thế này ?
- Không phải gai đâu, thưa khách quan. Đây là vườn mẫu đơn. Tư thất của cô nương cháu ngay sau vườn này. Đến cuối xuân, mẫu đơn nở, chúng cháu thường hay bắc ghế ra ngoài vườn ngồi ngắm hoa, thích lắm.
- Ờ ! Nhưng giờ khác. Trời thế này mà cứ ở ngoài lạnh lỡ cảm hàn thì khốn.
- Dạ cũng gần đến rồi.
Quả nhiên lát sau đã thấy một căn nhà gỗ hiện ra. Trước nhà có miếng vườn nhỏ.
Cây đèn đá trong góc tỏa vòng ánh sáng tròn chiếu mấy khóm mẫu đơn đã bắt đầu trổ nụ. Bên hiên, cây tùng nghênh khách đứng nghiêm chỉnh, tuyết còn nặng trĩu trên cành chưa rụng.
Cả bọn năm người bước lên thềm, tháo giày cỏ rồi lần lượt theo ả nữ tỳ vào phòng.
Phòng bài trí thật đơn sơ, không ai ngờ đây là tư thất của một danh kỹ đương thời.
Trong góc, lò sưởi cháy bập bùng. Xà nhà màu nâu gụ, có lẽ dựng đã lâu nên nhiều chỗ nứt nẻ và khói ám đen nhưng được giữ rất sạch sẽ. Không có bàn ghế gì, chỉ có sáu cái bồ đoàn và một cái kỷ thấp dùng làm chỗ ngồi chơi. Trên vách, đối diện với chiếc kỷ, treo bức thư họa, vẽ đôi chim nhạn đang bay, nét chữ trên bài thơ cực kỳ xương kính.
Phía dưới đặt lọ hoa nhỏ men xanh, cắm độc nhất một bông trà. Bên cạnh, dựa vào vách là cây đàn tỳ đã cũ.
Chủ nhân bước ra, mặc kimono vàng nhạt, thắt lưng lụa đen. Nàng trang điểm rất giản dị, mái tóc cầu kỳ không còn nữa, làn suối mun được buông lơi, thả tự nhiên cho chảy xuống lưng và chỉ buộc hờ bằng một sợi dây lụa đỏ. Phấn hồng phớt nhẹ trên má và mắt nàng để tự nhiên, long lanh như nước hồ thu, nét đan thanh không bút nào tả xiết.
- Ồ ! Yoshino ! Sao duyên dáng và yêu kiều đến thế !
- Đẹp lắm ! Mà cũng tân kỳ nữa. Nàng định mời chúng ta gì đây ?
Trong khung cảnh này, quả thật chẳng cần phấn son và trang phục rườm rà, Yoshino đã gây xúc động. Koetsu là người khó tính cũng phải khen:
- Khéo lắm ! Chủ nhân thật có khiếu thẩm mỹ.
Yoshino Dayu khiêm tốn cảm tạ. Phân ngôi chủ khách xong, nàng gọi con hầu sửa soạn đồ trà, rồi nói:
- Tiện nữ mời tôn khách đến đây cốt để tạ lỗi. Tệ xá nghèo nàn chẳng có gì trân quý kính dâng, chỉ có lửa ấm và trà ngon. Thiển nghĩ tôn khách chẳng nỡ từ chối vì lửa ấm cũng như lòng thành trong một đêm lạnh như đêm nay thì người nghèo cũng như người giàu ai ai cũng mong ước cả.
Mọi người gật gù, tán thưởng. Hơi ấm trong lò tỏa ra phả vào mặt, Koetsu nghĩ đến lần đạp tuyết vừa qua, càng cảm thấy ấm áp hơn, như người đang đói được dự một bữa tiệc thịnh soạn. Chắc đó cũng là chủ ý của Yoshino. Càng nghĩ ông càng thấy nàng quả là một thiếu phụ đặc sắc và tế nhị.
Miyamoto Musashi ngồi trên chiếc bồ đoàn trong góc. Bản tính hắn vốn e thẹn trước mặt đàn bà con gái, vả lúc sơ kiến hắn chẳng muốn có những hành động sỗ sàng.
- Đại hiệp nữa ! Xin mời đại hiệp lại gần đây sưởi ấm.
Hắn chỉ ậm ừ. Lần đầu tiên tiếp xúc với một người mà cả đất thần kinh coi như đệ nhất danh kỹ, trong một không khí phong lưu, thanh lịch cùng với các bậc tiền bối hắn ngưỡng mộ, Miyamoto Musashi dè dặt trịnh trọng. Hắn mang mặc cảm tự coi mình quê mùa, không lấy làm thích thú như lúc được ngồi trong một quán nhỏ ven đường, bên chiếc bàn gỗ tạp, ăn uống tự do.
Mời mọc mấy lần, Yoshino Dayu phải đến kéo hắn tới bên lò sưởi, hắn mới làm theo, miễn cưỡng giơ tay ra trước ngọn lửa. Nhìn tay áo Miyamoto Musashi, Yoshino Dayu thấy một vết loang đỏ. Nhân khi mọi người mãi chuyện vãn, nàng rút khăn ra lau vết loang ấy.
- Đa tạ cô nương.
Nếu Miyamoto Musashi im lặng đừng cảm ơn thì chẳng ai để ý. Nhưng nghe hắn nói, mọi người quay nhìn. Mắt mở lớn ngạc nhiên, Mitsuhiro tướng công hỏi:
- Máu phải không ?
Yoshino mỉm cười:
- Không. Chỉ là cánh mẫu đơn nở sớm.

Acmagiro
04-03-2008, 03:04 PM
CHƯƠNG 41
CÂY ĐÀN VỠ


Nước sôi vừa đúng độ, đồ dùng pha trà sẵn sàng để bên, Yoshino thoăn thoắt đổ bột trà vào bát, châm nước sôi, đánh cho trà ngầu bọt. Những cử chỉ ấy nhanh nhẹn, tự nhiên và nếu chú ý hình như có một chút gì nồng ấm trong khóe mắt và nụ cười của Yoshino mỗi khi nàng bưng trà đến cho khách. Đôi má lúm đồng tiền càng tăng vẻ quyến rũ khiến Bạch Phát thi sĩ, nhà thơ đa tình, cứ ngây người ra ngắm.
Lửa bắt đầu lụi. Yoshino bỏ thêm củi vào lò. Tiếng than nố lách tách, khói trắng bốc cao, tỏa mùi thơm nhè nhẹ. Ngửi mùi thơm khác lạ, Mitsuhiro tướng công hỏi:
- Nàng đun củi gì thế ? Mùi này không phải mùi củi thông.
- Dạ không phải. Đấy là gỗ mẫu đơn.
Mọi người ngạc nhiên vì mẫu đơn mọc thành bụi, làm gì có gỗ mà dùng làm củi sưởi. Nhưng Yoshino đã cầm một khúc đưa Mitsuhiro xem. Khúc gỗ nhỏ, thớ vặn vẹo, khô đanh, rất nhiều mắt, cành cụt chĩa ra tua tủa.
- Những gốc này tiện nữ cho đào ở vườn ngoài, đem phơi để dành làm củi sưởi.
Tuy không nhiều nhưng cũng đủ dùng. Khu vườn quý tôn khách đi qua lúc nãy trồng toàn mẫu đơn có đến hàng trăm năm nay, nhiều cây đã cỗi nên không ra hoa to nữa. Tiện nữ lựa những cây nào tốt và thuộc giống quý mới để lại.
Miyamoto Musashi thấy hay hay, tò mò hỏi:
- Theo ý cô nương, thế nào mới là giống mẫu đơn quý ?
- Mẫu đơn là hoa vương, hoa nào cũng đẹp. Nhưng theo thiển ý, giống hoa tốt phải to, nhiều cánh và thuần sắc, như vậy mới xứng đáng là phú quý chi hoa. Tỷ như những khóm trồng ở ngoài kia có tên Đại Hồng Phấn và Mỹ Nhân Kiểm là những thứ đặc biệt lắm. Đại Hồng Phấn hoa to, đỏ, mịn như nhung và Mỹ Nhân Kiểm trắng như tuyết không có một tạp sắc nào.
- Cô nương rành về mẫu đơn lắm nhỉ.
- Đại hiệp quá khen. Những điều nhỏ nhặt ấy, tiểu nữ đều đọc ở trong sách.
Rồi đăm đăm nhìn Miyamoto Musashi, nàng nói:
- Mẫu đơn là hoa vương. Cho nên sau khi chết, gốc nó vẫn giữ được tính chất khác thường. Cũng như có những người giá trị của họ không thể lẫn với những người tầm thường được. - Và mơ màng như để nói với chính mình - Trên đời này, mấy ai được như hoa mẫu đơn kia, khi cánh đã héo rồi danh thơm còn lưu mãi.
Lời Yoshino gieo mối cảm hoài sâu xa trong lòng khách. Mọi người ngồi im không nói. Lát sau Takuan mới lên tiếng:
- Trong cuộc nhân sinh ngắn ngủi này, con người chúng ta chỉ nở hoa vào lúc thanh xuân thật, nhưng sinh tử vốn hư không, có lìa bỏ được ý niệm phân biệt sinh tử mới gọi được là giải thoát.
Yoshino với tư cách chủ nhân, yêu cầu quan khách lưu chút kỷ niệm. Mitsuhiro tướng công bèn bảo Koetsu:
- Chủ nhân đã yêu cầu, xin nhường tiên sinh khai bút.
Con hầu mang giấy mực ra, trải thêm tấm thảm lên sàn. Koetsu tiên sinh cầm bút, trầm ngâm giây lát rồi chấm vào nghiên mực, tay đưa thoăn thoắt trên tờ giấy lụa vân.
Nét bút tung hoành, chẳng mấy chốc đã thấy hiện ra một cành mẫu đơn trông sinh động như thật. Nhìn hoa, Takuan cao hứng, viết ngay một bài cảm đề theo thể thơ Haiku:
Vướng mắc gì trong vòng hệ lụy ?
Cánh hoa kia tuy đẹp Nhưng rồi cũng tàn phai.
Bạch Phát lão nhân thì chọn thể thơ tứ tuyệt:
Hoa tươi không nỡ hái
Hoa rụng lòng bâng khuâng
Vườn khuya bông tuyết trải
Hạt bụi vào hư không.
Đọc thơ, Yoshino mắt rướm lệ. Riêng Miyamoto Musashi mừng thầm, vì chẳng ai bảo hắn đề thơ lưu niệm.
Bức tranh được treo lên, Yoshino cúi đầu tạ khách. Bỗng có người lên tiếng:
- Chủ nhân nổi tiếng danh cầm, sẵn có đàn tỳ, sao không dạo nghe một bản ?
Vâng lời, Yoshino đến bên vách nâng đàn, rồi không đợi giục, kéo bồ đoàn ngồi giữa phòng, vặn giây so phím, lựa một khúc hợp với tâm sự.
Mới đầu còn gẩy vài tiếng, tuy chưa thành khúc điệu mà đã tỏ ra lão luyện.
Tiếng đàn từ dây này sang dây khác vang lên, lúc khoan lúc nhặt, bộc lộ niềm u uẩn. Tiếng nào cũng mang nặng nỗi bất đắc chí thuở bình sinh, nghe ra nghẹn ngào thương cảm.
Lửu lụi dần, gian phòng tối hơn, chẳng ai để ý. Cử tọa dường như bị thôi miên bởi sức cám dỗ của tiếng đàn bi thiết. Mãi đến khi kết thúc, năm ngón tay nàng phả cả vào bốn dây, nghe đánh “toang”, tưởng như không chịu nổi những u uất, cây đàn muốn vỡ tung, mọi người mới giật mình sực tỉnh.
Yoshino để đàn lại chỗ cũ, khiêm nhượng:
- Tiện nữ còn phải học nhiều, xin quý tôn khách lượng thứ.
Tân khách cúi đầu không đáp. Nói gì cũng bằng thừa sau những tiếng đàn như thế.
Yoshino gọi người nhà mang thêm củi, gây lửa lớn hơn.
Câu chuyện đổi sang nghệ thuật pha trà và uống trà của một vài sắc dân miền bắc hải đảo. Dịp này Koetsu và Takuan chứng tỏ các vị quả là những bậc hiểu biết uyên bác về nghệ thuật dùng trà.
Trời đã khuya, có lẽ cuối giờ sửu, mọi người từ tạ ra về. Yoshino Dayu đứng bên cửa cảm ơn quan khách, cúi chào từng người trong khi khách lần lượt buộc giày cỏ bước xuống thềm.
Miyamoto Musashi cũng ngỏ lời từ biệt, nhưng Yoshino giữ lại. Nàng kéo áo hắn nói nhỏ:
- Hãy khoan ! Đại hiệp ở lại đây đêm nay. Bất cứ vì lý do gì thiếp cũng không để chàng về được.
Musashi thẹn, mặt đỏ như gấc. Hắn vờ không nghe, cứ xăm xăm bước.
- Honami tiên sinh ! Tiện nữ giữ Musashi đại hiệp ở lại tối nay, được không ?
Miyamoto Musashi bối rối, gạt tay thiếu phụ ra:
- Cô nương tha lỗi, tại hạ phải về.
Nhưng Koetsu bước đến bên, đẩy nhẹ hắn vào phòng và ghé tai nói nhỏ:
- Tráng sĩ, sao lại thế ? Ở lại đi, lúc nào về cũng được.
Miyamoto Musashi tưởng mọi người đồng lõa với nhau giữ hắn ở lại để trêu cợt vì thấy hắn quê mùa. Nhưng nhìn nét mặt nghiêm trang của Koetsu và Yoshino, hắn thấy là không phải thế. Takuan lầm lì chẳng nói câu nào, trong khi Haiya Shoyu và Mitsuhiro cười lớn:
- Musashi ! Ngươi là người có diễm phúc nhất Kyoto này đấy !
Bỗng một ả thị tỳ đạp tuyết hớt hải chạy đến bên Yoshino nói nhỏ mấy câu.
Nghe xong, nàng nghiêm sắc mặt:
- Tiện nữ đoán quả không sai. Mấy đường hẻm sau nhà bị vây kín rồi, chỉ có cổng chính là còn ra vào được, nhưng bị canh chừng. Ngoài đường nhiều kẻ đeo kiếm đứng tụm năm túm ba dòm ngó. Qúy khách phải cẩn thận, tiện nữ đã cho gọi phu cáng đến đón quý vị Ở ngoài. Riêng Musashi đại hiệp thì không thể nào dời đây được, nhất định phải ở lại.
Yoshino phong cách đa tình rất mực, ngón đàn điêu luyện gây xúc động lòng người, thế mà khi hữu sự, nàng lại tỏ ra can đảm vô cùng, bình tĩnh cắt công việc đâu ra đấy, chẳng kém gì nam nhi. Thấy vết máu trên tay áo Miyamoto Musashi, nàng có ý nghi, áy náy lo cho hắn nên đã phái người đi dò xét.
Yoshino kéo Miyamoto Musashi vào nhà trong, khép cửa lại:
- Musashi đại hiệp ? Bây giờ đã biết chuyện gì xảy ra ở ngoài rồi, chàng còn muốn đi không ?
- Tại hạ phải đi.
Yoshino Dayu nghiêm mặt:
- Để làm gì ? Để chứng tỏ chàng không sợ họ phải không ?
Musashi lặng thinh. Yoshino Dayu tiếp:
- Nếu đại hiệp sợ bị chê là hèn nhát thì sáng mai ra gặp họ cũng chẳng muộn. Bây giờ họ đang phục kích, lại có số đông. Mãnh hổ nan địch quần hồ, nếu để chàng rơi vào bẫy của họ rồi mất mạng thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ và uổng chí bình sinh.
- Xin cảm ơn cô nương đã cho nghe những lời xác đáng. Nhưng còn danh dự … - Tiện nữ biết. Tiện nữ không khuyên đại hiệp trốn chạy, chỉ lưu tâm suy xét. Một cuộc xô xát xảy ra ở nơi này sẽ làm bao người vô tội chết oan. Lòng nhân có cho phép chàng làm như thế không ? Xin nghĩ kỹ, đừng vọng động ?
Miyamoto Musashi cho là phải. Hắn xếp bằng trên chiếc bồ đoàn đặt ở góc phòng.
Nàng Yoshino ngồi bên lò sưởi, gọi:
- Musashi đại hiệp ! Đến đấy sưởi cho ấm, chỗ ấy lạnh lắm !
Nhưng hắn chối từ:
- Cô nương đi nghỉ, đừng quan tâm đến tại hạ. Khi nào trời sáng, tại hạ sẽ đi.
Mời mọc mãi, Miyamoto Musashi vẫn chỉ cảm ơn, ngồi im như tượng. Thế nhưng sự vụng về của hắn không làm Yoshino giận. Trái lại nàng thấy hắn có một vẻ gì khác thường, rất quyến rũ.
Yoshino hơn Miyamoto Musashi chừng năm tuổi. Cảm tình nàng đối với hắn như của một người chị mà cũng như của một người tình. Lẫn lộn, khiến nàng háo hức, say mê.
Có người nói nếu coi đàn ông chỉ như con bò vắt sữa lấy lợi, thì hãy làm nghề ca kỹ. Đối với Yoshino, điều này không đúng, vì nàng, tuy đã được huấn luyện để trở thành một danh kỹ tài sắc vẹn toàn, tiểu nữ vẫn không để mất đi bản chất dễ cảm, dễ rung động của lòng mình. Nàng vẫn còn biết yêu, biết cảm.
Nhìn gã thanh niên ngồi kia, dáng cứng đơ, tuy là một kiếm sĩ đã xông pha nhiều trận, nhưng hãy còn ngây dại trong tình trường, từ chối mọi lời mời mọc, không dám đến cả nhìn mình nữa, như sợ ánh mắt mình mê hoặc, nàng cảm thấy xót thương và tự nhiên trong lòng dâng lên một niềm mến yêu dào dạt, như một trinh nữ lần đầu gặp người tình lý tưởng.
Tuyết ở mái hiên đổ xuống nghe như có ai nhảy vào vườn. Miyamoto Musashi rướn mình, nghe ngóng. Mỗi lần có tiếng động như thế, thần kinh hắn lại căng thẳng, các chân tóc dựng đứng. Yoshino rùng mình. Lúc gần sáng là lúc lạnh nhất trong đêm, nhưng không phải nàng rùng mình vì lạnh mà vì nhìn gã thanh niên kia tinh thần căng thẳng quá độ, nét mặt khẩn trương đến thành dữ dội.
Ấm nước sôi phì phì trên bếp. Tiếng nước reo quen thuộc khiến nàng cảm thấy bớt trống trải. Yoshino pha trà và gọi:
- Sắp sáng rồi. Đại hiệp lại uống trà, ngồi gần lửa cho ấm.
- Cảm ơn cô nương.
Miyamoto Musashi đáp nhưng vẫn không nhúc nhích.
Chén trà nguội dần. Yoshino chẳng muốn khẩn khoản mời nữa làm phiền người bạn trẻ. Tuy nhiên nàng khó chịu. Đổ chén trà nguội vào bình đựng nước cặn, nàng tự nhủ:
”Thật phí ! Thừa trà cho tên thô lỗ này uống. Chẳng biết một chút lịch thiệp gì !”.
Thế nhưng nhìn hắn nàng lại thương.
- Musashi đại hiệp !
- ... ?
- Sao đại hiệp có thái độ như thế ?
- Tại hạ không muốn trễ nải sự đề phòng.
- Đề phòng cái gì ?
- Kẻ thù ! Dĩ nhiên ! Cô nương đã biết rồi !
- Đại hiệp lầm ! Nếu cứ tiếp tục thế này thì khi kẻ thù đến, chàng sẽ kiệt sức, không còn đủ tỉnh táo mà đối phó. Thiếp không biết gì về kiếm đạo, nhưng nhìn đại hiệp, thấy không thắng được. Chàng sẽ chết trong đám loạn đao mà thôi. Thật đáng buồn và đáng tiếc !
Lời nói của Yoshino Dayu có lẽ chỉ do lòng lân ái, thương xót, nhưng làm Miyamoto Musashi bối rối. Hắn dời chỗ ngồi đến bên bếp lửa.
- Cô nương chê tại hạ còn non nớt ?
- Thiếp làm phật ý đại hiệp chăng ?
- Không. Nhưng tại hạ muốn được nghe những lời giải thích rõ hơn.
Sau trận đấu vừa rồi ở hậu viên Kim Các Tự, Miyamoto Musashi ý thức rõ rệt mối nguy ghê gớm đương bao vây hắn. Kẻ thù bây giờ là toàn thể phái Yoshioka rình rập, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là ra tay bất cần luật lệ. Miyamoto Musashi muốn bỏ đi, mai danh ẩn tích một thời gian nhưng nghĩ thế hèn quá lại thôi. Hắn phải trở lại cáo biệt những người đã cư xử rất tốt với hắn như mẹ con Koetsu lão mẫu. Ngẫu nhiên làm sao lại gặp Yoshino Dayu.
Nàng ngụ ý chê hắn chưa đủ trưởng thành. Có lẽ đúng. Hắn muốn hỏi cho ra lẽ.
- Xin cô nương cho biết tôn ý.
Yoshino Dayu không trả lời. Miyamoto Musashi cau mặt tiếp:
- Hay cô nương đùa, chế giễu tại hạ ?
Nụ cười vừa nở trên môi vội tắt ngay, Yoshino Dayu lắc đầu:
- Tiện nữ đâu dám thế. Đối với một kiếm sĩ, trước vấn đề sinh tử như vậy, tiện nữ đâu dám đùa cợt.
- Vậy ý cô nương ra sao, đừng để tại hạ nóng ruột hơn nữa.
- Đại hiệp muốn nghe đàn chăng ? Tiện nữ xin gẩy một bản tặng đại hiệp.
- ... ?
- Mà thôi ! Trong hoàn cảnh thế này, đại hiệp còn lòng dạ nào nghe đàn nữa, phải không ?
Không hiểu ý tứ Yoshino ra sao, Miyamoto Musashi đấu dịu:
- Sao không nghe ? Thì cô nương cứ đàn đi, ít ra tiếng đàn của cô nương cũng làm tại hạ thư thái.
Vâng lời, Yoshino dạo một bản hành khúc.
Đàn xong, nàng nói:
- Có bao giờ đại hiệp tự hỏi một cây đàn chỉ có bốn dây như thế này mà có thể diễn tả được mọi vi tế của âm thanh không ?
- Không. Tại hạ không rõ.
- Cây đàn cũng như con người đấy, đại hiệp ! Nhưng trước khi giải thích, để tiện nữ đọc một đoạn trong bài Tỳ Bà Hành của Bach Cư Dị tả tiếng đàn, chắc đại hiệp biết:
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt Trước nghê thường sau thoắt lục yêu Dây to dường đổ mưa rào Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu Trong hoa, oanh ríu rít nhau Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao Cung đàn lựa khúc thanh tao, Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây ...
Xem thế, cây đàn nhỏ bé này có thể phát ra không biết bao nhiêu là âm giai, từ những tiếng nhỏ như tơ, cao tựa hạt châu nẩy trên mâm bạc và trầm tựa như mưa rào đổ, nhất nhất đều được cả. Tại sao vậy ? Nhờ cái gì mà cây đàn có thể rung động đáp ứng mọi sự sai khiến của người gẩy ? Ngay từ nhỏ, lúc đang học, thiếp đã thắc mắc phá một cây đàn ra xem. Mãi sau mới biết được cái bí mật ấy nằm trong lòng đàn. Nó chính là cái tâm của cây đàn.
Nếu đại hiệp coi kỹ, sẽ hiểu tại sao nhờ nó mà cây đàn rung động, gây ra những âm hưởng vô cùng tinh tế, vi diệu, và cũng nhờ nó mà mỗi cây đàn có một âm sắc riêng, không cây đàn nào giống cây đàn nào.
Yoshino đặt cây tỳ bà lên kỷ, cầm dao nhọn đâm mạnh một nhát, trước sự sững sờ của Miyamoto Musashi. Hắn không ngờ và cũng không cản kịp. Miyamoto Musashi cảm thấy như đau nhói ở tim và như có máu từ trong lòng đàn rỉ ra. Hắn giữ một tiếng kêu.
Bàn tay nhanh nhẹn, quyết liệt của Yoshino giơ lên đâm xuống ba lần. Cây đàn vỡ toang.
Nàng cầm cây đàn vỡ giơ lên cho Miyamoto Musashi xem. Hắn nhìn mặt Yoshino, nhìn mảnh đàn vỡ và nhìn những ngón tay trắng muốt còn nắm con dao nhọn, tự hỏi người đứng trước mặt hắn là nàng danh kỹ đất thần kinh có ngón đàn tuyệt diệu hắn vừa được nghe hay chỉ là một thiếu phụ mà bản chất tàn ác đã được phô diễn trong hành động hắn vừa chứng kiến.
Yoshino chỉ tay vào mảng gỗ trong lòng đàn và nói:
- Miếng gỗ cong này chính là cái tâm của cây đàn. Nếu nó cứng và thẳng, tiếng đàn sẽ cứng ngắc, buồn tẻ. Phải gọt nó cong, nhưng như thế cũng chưa đủ. Lúc dán vào lòng đàn, hai đầu nó phải để lơi cho tự do rung động thì mới tạo nên được sự phong phú trong âm thanh.
Tâm trí con người cũng thế, phải mềm dẻo thích nghi. Sau mỗi khi căng thẳng, hãy để cho lòng thoải mái. Cứng quá thì gãy.
Mắt Miyamoto Musashi không rời khỏi cây đàn. Môi hắn mím chặt. Yoshino lại tiếp:
- Điều tiện nữ vừa nói, ai chơi đàn cũng biết. Vì thế, búng tay một cái, thiếp có thể vận dụng cả bốn dây, phát ra tiếng gió rít, mưa gầm hay sét nổ, nhờ đặc tính quân bình hòa hợp của miếng gỗ trong lòng đàn. Tối nay, khi nhìn đại hiệp lần đầu tiên, tiện nữ không thấy một chút gì gọi là mềm dẻo thoải mái. Chỉ thấy sự ngay đơ, cứng ngắc làm cho tiện nữ lo sợ. Xin đại hiệp tha lỗi cho, tiện nữ không bao giờ có ý đùa cợt hay chế giễu đại hiệp, đại hiệp có hiểu cho không ?
Một tiếng gà gáy xa xa. Về phương đông, trời đã rạng hoa lê. Miyamoto Musashi ngồi đăm chiêu nhìn cây đàn vỡ, những mảnh gỗ vụn rải rác trên mặt kỷ và sàn nhà. Hắn không nghe tiếng gà và cũng không ngờ trời đã sáng.

Acmagiro
27-03-2008, 12:54 PM
CHƯƠNG 42
TRÁI TIM ĐAU



Tiết trời ấm áp đã hai ngày. Tuyết tan hết từ lâu, và ở trong vườn những lá non lại mới bắt đầu nhú.
Buổi trưa, không khí oi nồng. Hơi nước từ dưới đất bốc lên rung rung trong ánh nắng chói lòa gay gắt. Người ta đã phải mặc áo mỏng mùa hè thay cho áo kép.
Bên chiếc cổng tò vò lớn trước tư dinh Tả xuyên hầu Mitsuhiro, một thiền sư trẻ tuổi đang đứng chờ, nhẫn nại. Nhà sư trang phục theo lối lữ hành:
áo xắn cao, quần bó chẽn, vai đeo tay nải, bụi đường bám lốm đốm trắng nhiều chỗ. Gọi cổng mấy lần không thấy ai ra mở nhà sư trẻ tỏ vẻ sốt ruột. Ông dùng cây vồ nhỏ gõ vào cánh cổng vài lần nữa cũng không kết quả, bèn bỏ đi, men theo chân tường đá vòng quanh mãi.
Đến một chỗ tường được thay bằng hàng giậu thấp, ông dừng lại ghé mắt nhìn vào. Bên trong, lẩn giữa những lùm cây cắt xén gọn ghẽ, là mấy gian nhà cỏ.
- Thầy chùa tìm ai ?
Nhà sư giật mình. Đang dáo dác nhìn quanh xem người vừa hỏi đứng chỗ nào, thì lại nghe tiếng nói tiếp, giọng dấm dẳn buông sõng:
- Muốn xin ăn thì lại đằng bếp. Chỗ này là nhà khách, có gì đâu !
Định thần nhìn kỹ, mới thấy một thằng bé trạc mười bốn mười lăm, đen đủi, đứng bên trong giậu. Nhà sư ngạc nhiên, kho hiểu sao trong dinh Mitsuhiro tướng công lại nuôi những gia nhân nhỏ tuổi thiếu lễ độ như vậy. Tuy nhiên, vẫn ôn tồn:
- Bần tăng không phải kẻ đi khất thực. Bần tăng là Nansoji ở tỉnh Izumi, mang thư đến cho Takuan, nghe nói ngụ Ở đây. Thí chủ phải chăng là tiểu bộc trong dinh ?
- Không phải. Tôi tên Jotaro, khách của Mitsuhiro tướng công, cũng như Takuan, không phải người hầu.
- Mô Phật ! Bần tăng không biết. Vậy phiền tiểu thí chủ vào báo với Takuan thiền sư có Nansoji đợi ngoài này.
- Được ! Để tôi gọi.
Dứt lời, chạy ngay đi. Trong lúc vội vàng, thế nào vấp phải chiếc rễ cây lớn mọc chồi trên mặt đất, ngã sóng soài. Mấy quả quít giấu trong tay áo rơi ra ngoài lăn lông lốc.
Thằng bé nhặt lên gom lại rồi lật đật vào nhà. Lúc sau trở ra nói:
- Takuan đi khỏi rồi.
- Đi đâu ?
- Hình như lên chùa Phổ Tế.
- Bao giờ về ?
- Không rõ. Người nhà bảo “sẽ về ngay”.
Nhà sư đứng tần ngần một lát, đoạn mở tay nải đeo trên vai ra rút một phong thư định đưa cho Jotaro, nhưng nghĩ sao ông lại cất đi và nói:
- Bần tăng muốn ngồi chờ Takuan về. Tiểu thí chủ có biết chỗ nào có thể ngồi chờ được mà không làm phiền đến ai thì chỉ giùm.
Jotaro gật đầu, chui hàng rào ra dẫn nhà sư trẻ tuổi qua sân đến một căn nhà đã đổ nát dùng làm lẫm lúa.
- Đây, chỗ này. Thầy ngồi đợi ở đây chắc chẳng làm phiền ai đâu.
Lẫm lúa bỏ hoang đã lâu ngày. Rêu mọc từng đám trên nền đất ẩm lẫn với những đống phân bò và bánh xe gẫy, lưỡi cày han rỉ.
Nhà sư trố mắt nhìn Jotaro, chưa kịp nói câu gì, Jotaro đã bỏ chạy.
Đến trước căn nhà gỗ về phía tây hoa viên, nó gọi:
- Cô Otsu ! Em mang quít về cho cô đây !
Đã mấy ngày nay, Otsu bệnh nằm liệt giường. Thầy thuốc do Takuan mời đến khám nói nàng bị tâm bệnh, cắt cho mấy thang thuốc bổ. Nhưng nàng nào có uống.
Thuốc sắc rồi để nguội phải đổ đi. Otsu sờ tay lên má, biết mình gầy lắm. Những gân xanh nổi rõ trên mu bàn tay làm ngón tay nàng như dài và trắng hơn. Từ khi ngất đi sau miếu sơn thần đêm hôm đó, Otsu được đưa về tĩnh dưỡng tại tư dinh Mitsuhiro. Sự sợ hãi, thất vọng và tủi cực làm tinh thần và thể chất vốn đã yếu đuối của nàng không còn được như xưa nữa. Lúc nào Otsu cũng hâm hấp sốt mà cũng chẳng biết đói. Sáng nay, Otsu thèm ăn một quả quít. Nàng ngỏ ý với Jotaro. Thằng bé xuống bếp nhưng chẳng may, nhà bếp không có thứ trái cây ấy. Nó chạy ra tiệm thực phẩm để mua cũng không được.
Vòng ra phố chợ, chỉ thấy rau đậu lẫn với các quầy hàng xén bán kim chỉ gương lược, chẳng chỗ nào bán quít.
Thất vọng, Jotaro trở về, nghĩ không còn cách gì khác ngoài cách xem vườn nhà nào trồng quít thì hái trộm vài quả. Qua một thửa vườn cây cối sum sê, thấy hai cây chĩu chịt những quả còn xanh, Jotaro mừng hết sức, mon men đến gần. Ngờ đâu, chẳng phải quít mà chỉ là mận. Nó không biết mùa này đâu phải là mùa quít !
Thất thểu đi một lúc, bỗng mắt Jotaro sáng lên vì nó vừa trông thấy trên bệ thờ lộ thiên ở góc vườn nhà kia một đĩa trái cây trong đó để lẫn lộn những quả táo xanh và mấy quả quít đỏ.
Jotaro nhổ nước bọt vào lòng bàn tay và xoa hai bàn tay với nhau. Một cử chỉ quen thuộc nó thường làm mỗi khi gặp công việc khó khăn cần phải dùng nhiều sức hay cần phải tập trung ý chí. Đoạn nhìn trước nhìn sau không thấy ai, nó chui tọt qua hàng rào, nhanh như con sóc.
Lấy ba quả quít bỏ vào tay áo chui ra, đối với Jotaro không có gì khó khăn. Nhưng ra khỏi vường, nó sợ, khấn thầm trong bụng:
“Lạy các ngài, xin đừng phạt con. Con không ăn quít này, con chỉ mượn tạm, sau sẽ xin hoàn lại đầy đủ”. Nó không biết bàn thờ thờ ai nên khấn bừa là các ngài, và cũng không dám nói là lấy cho cô Otsu ăn, sợ thần linh phạt cô nó.
Jotaro bày ba quả quít lên bàn, bóc một quả đưa cho Otsu. Nhưng Otsu không động đến.
- Sao chị không ăn ?
Otsu vùi mặt xuống gối, nước mắt chan hòa. Jotaro tặc lưỡi:
- Chị lại khóc rồi ! Sao chị khóc hoài vậy ?
- Chị xin lỗi em.
- Chị đừng xin lỗi nữa. Chị ăn đi cho em vui lòng.
- Cám ơn Jotaro, em cứ để đấy, chị ăn sau.
- Quả này em bóc rồi, chị ăn đi.
- Em đối với chị tốt quá, nhưng quả thật bây giờ chị chưa muốn ăn.
- Tại chị khóc nhiều quá đấy mà ! Chị ơi, có chuyện gì làm chị buồn thế ?
- Chị khóc vì sung sướng đấy em ạ. Em tốt quá !
- Em không muốn chị khóc và gầy yếu như thế này đâu. Chị làm em cũng muốn khóc.
Otsu chùi nước mắt:
- Thôi chị không khóc nữa. Chị hứa với em chị không khóc nữa, em bằng lòng chưa ?
- Chị phải ăn quả quít này em mới bằng lòng. Chị muốn ăn quít, em đi lấy về cho chị, bây giờ chị lại không ăn. Nếu không ăn uống gì thì làm sao mà sống được ?
- Ừ, thì chị ăn đây !
Otsu cầm quả quít đã bóc. Những ngón tay trắng xanh run run nhặt những sợi xơ trắng trên múi quít, nàng tách quả quít ra làm hai, đưa cho Jotaro một nửa.
- Em ăn với chị.
Jotaro nuốt nước bọt. Nó thèm lắm, nhưng nghĩ đến lời đã khấn, nó không dám.
- Không, em không ăn đâu, chị ăn đi.
- Sao không thấy thầy Takuan ở nhà. Em biết thầy đâu không ?
- Hình như lên chùa Phổ Tế rồi. Jotaro đáp.
- Hôm qua thầy Takuan có gặp sư phụ của em phải không ?
- Vâng, sao chị biết ?
- Thầy Takuan nói. Không rõ thầy ấy có cho Miyamoto Musashi biết chúng mình ở đây không ?
- Em cũng không rõ.
- Thầy Takuan bảo với chị sẽ dẫn Musashi về đây. Thầy ấy có nói cho em biết thế không ?
- Không.
- Vậy chắc thầy quên rồi.
- Chị có muốn em nhắc không ?
- Ừ, em nhắc thầy thì tốt.
Nàng mỉm cười. Lần đầu tiên từ khi nằm bệnh, Jotaro thấy Otsu mỉm cười, vẻ sung sướng lộ trên nét mặt.
- Nhưng đừng nhắc thầy chuyện ấy trước mặt chị.
- Sao vậy ?
- Thầy ấy gớm lắm, cứ cho là chị mắc bệnh tương tư, rồi chế giễu chị.
- Thế nếu sư phụ em đến gặp chị thật, chị có hết bệnh không ?
- Đấy ! Đến em mà cũng nghĩ chị như thế !
Tuy nói vậy, nhưng Otsu vui sướng hẳn ra. Niềm hân hoan và hy vọng lóe sáng trên khuôn mặt xanh xao như tia nắng hửng lên trong một buổi chiều thu ảm đạm.
Có tiếng hắng giọng bên ngoài và tiếng gọi của một gia nhân:
- Cô nương ! Jotaro có trong ấy không ?
- Có. Chuyện gì thế ?
- Takuan muốn gặp Jotaro. Thầy có việc muốn dặn.
Jotaro chạy vội ra, Otsu gọi với:
- Đừng quên nhắc thầy Takuan việc ấy, nghe em !
Rồi nằm xuống quay mặt vào vách, kéo chăn che kín đôi má gầy ửng đỏ.
oo Tả xuyên hầu Mitsuhiro ngồi đàm đạo với Takuan trong thư phòng phía sau đại sảnh. Jotaro theo người hầu vào, cúi đầu chào Mitsuhiro lấy lệ rồi chạy ngay đến bên Takuan ghé tai nói nhỏ:
- Lúc nãy có một ông sư đến tìm thầy. Ông ấy ở trấn Izumi tới và cũng ăn mặc giống như thầy. Cháu đi gọi lại nhé !
- Thôi không cần. Ta gặp ông ấy rồi. Ông ấy than phiền mày đối với ông ấy tệ quá.
- Cháu đối tệ với ông ấy bao giờ ?
- Để khách ngồi đợi ở nhà kho, cạnh đống phân bò là không tệ à ?
- Thì tại ông ấy bảo tìm hộ cho một chỗ ngồi chờ không muốn ai làm phiền, cháu mới dẫn đến đó chứ.
Mitsuhiro tướng công nghe chuyện, cười bò ra, rung cả hai vai, rút khăn thấm nước mắt mấy lần. Mãi sau mới lấy lại được vẻ trang nghiêm. Takuan cũng lắc đầu, mỉm cười:
- Cái thằng này, thật bất trị !
Mitsuhiro lại hỏi:
- Vậy ra đại sư tính đi thẳng về Tajima, chứ không qua trấn Izumi nữa đấy ?
- Dạ chính thế. Bần tăng sợ về không kịp.
Jotaro ngạc nhiên, giương mắt tròn xoe nhìn Takuan:
- Thầy định đi đâu ?
- Ta phải về nhà thăm lão mẫu. Bà bệnh nặng.
- Thầy cũng có mẹ à ?
Takuan cười:
- Dĩ nhiên là có.
- Bao giờ thì thầy trở lại ?
- Cái đó còn tùy tình trạng sức khỏe của bà.
- Vậy cô Otsu với cháu phải ở đây, không gặp lại thầy nữa ư ?
- Sao lại không ? Ta đã xin với tướng công cho Otsu lưu lại đây ít bữa đến khi bình phục. Cháu phải săn sóc và khuyên Otsu chịu khó ăn uống. Đối với nàng, dưỡng sinh đúng phép tốt hơn là uống thuốc.
Jotaro thừ người ra suy nghĩ:
- Khó lắm ! Cháu đã khuyên nhiều lần mà cô Otsu chẳng nghe. Cháu sợ không đủ sức.
- Ta biết. Đấy là tâm bệnh, phải kiên nhẫn mới được.
- Nếu sư phụ cháu đến thăm, chắc cô Otsu khỏi. Thầy gặp sư phụ cháu rồi phải không ?
- Ừ, ta đã gặp Miyamoto Musashi.
- Ở đâu ?
Takuan nhìn Mitsuhiro, phân vân không muốn đáp. Jotaro tiếp luôn:
- Bao giờ sư phụ cháu đến ? Thầy có hứa dẫn sư phụ cháu đến thăm cô Otsu phải không ?
- Ờ ...ờ ...
Mitsuhiro tướng công xen vào nói:
- Miyamoto Musashi ! Có phải anh chàng thanh niên kiếm sĩ ta gặp tại quán Ogiya đó không ?
- Thưa phải. Takuan đáp.
Đoạn quay về phía Jotaro, ông ôn tồn giải thích:
- Ta không quên lời hứa ấy đâu. Vừa rồi ở chùa Phổ Tế về, ta có tạt qua ngõ Honami tìm Miyamoto Musashi nhưng không thấy. Chắc hắn vẫn còn ở nhà Yoshino.
Mitsuhiro tướng công nhướng lông mày:
- Thật ư ?
Rồi lẩm bẩm:
- Tên quê mùa ấy có gì đặc biệt mà Yoshino phải quan tâm đến thế ?
Takuan nghe, không khỏi cười thầm, nhưng cũng phụ họa:
- Lòng đàn bà khó dò. Hình như chẳng nhiều thì ít, Yoshino Dayu cũng như Otsu, đều bị bệnh cả. Mà anh chàng Musashi này xem ra rồi cũng như các thanh niên khác thôi, khó tránh khỏi bị quyến rũ.
Trời đã về chiều. Takuan đứng dậy cáo từ. Lúc chia tay mỗi người một tâm trạng, không buồn cũng chẳng bịn rịn. Nhà sư chợt đến, chợt đi là sự thường, không ai lấy làm ngạc nhiên hoặc tỏ ý lưu lại.
Takuan ra khỏi thư phòng, Jotaro chạy theo nắm áo:
- Thầy đến an ủi cô Otsu cháu một chút. Cô ấy cứ khóc hoài, cháu không sao dỗ được.
- Otsu có nhắc đến Miyamoto Musashi không ?
- Có. Cô Otsu hỏi thầy bao giờ dẫn Miyamoto Musashi về ? Nếu ông không về, chắc cô Otsu chết mất.
- Không sao đâu, rồi sẽ khỏi.
- Thầy Takuan ! Yoshino Dayu là ai vậy ?
- Sao cháu hỏi ta câu đó ?
- Thì lúc nãy thầy nói sư phụ cháu ở nhà Yoshino mà !
- Ờ ...ờ ...Bây giờ ta không đến thăm Otsu được, nhưng ta muốn nhắn một lời khuyên.
- ... ?
- Cháu bảo Otsu hãy cố gắng ăn uống, giữ gìn sức khỏe. Đó là phương cách thiết thực nhất trong lúc này.
- Thì cháu cũng đã nói nhiều lần như vậy. Cô Otsu không nghe. Cháu biết làm sao được ?
- Nếu Otsu không nghe, cháu cứ nói thật ...
- Nói thật cái gì ?
- Nói thật là Miyamoto Musashi đang say mê một kỹ nữ tên Yoshino ở xóm Rokujo và hiện ở nhà nàng mấy đêm nay. Otsu có ngu mới đi yêu một người như vậy !
Jotaro trợn mắt nhìn Takuan. Nó sững sờ không nói nên lời. Lát sau mới hét lớn:
- Nói láo ! Ông sư này nói láo ! Ông ấy là thầy tôi ! Ông ấy là kiếm sĩ, chưa bao giờ làm điều gì bậy ! Ông xui tôi nói thế để cô Otsu tự tử chết hay sao ? Ông mới là thằng ngu, thằng khùng !
Takuan cười ha hả.
- Này ông đầu trọc kia, ông không được nói xấu sư phụ tôi ! Mà ông quyền gì bảo cô Otsu là ngu !
Takuan gật gù:
- Khá ! Cháu thật là đứa trẻ tốt, có lòng trung hậu.
Rồi đưa tay xoa đầu Jotaro. Nhưng Jotaro cúi tránh, không để tay ông chạm vào đầu nó.
- Từ nay, không nhờ ông giúp việc gì nữa. Tôi sẽ tự đi tìm thầy tôi dẫn về cho cô Otsu.
- Cháu biết chỗ nào không ?
- Không. Nhưng tôi sẽ tìm được !
- Tùy. Nhưng ta bảo trước, tìm chỗ ở của Yoshino Dayu không phải dễ. Cháu muốn biết, ta chỉ cho.
- Không cần ! Tôi không cần ông chỉ.
Takuan nhìn thằng bé rồi mỉm cười nói:
- Jotaro ! Ta không thù gì Otsu mà cũng chẳng ghét Miyamoto Musashi. Trái lại, trong thâm tâm, ta vẫn mong ước cả hai sum họp với nhau, sống một cuộc đời bình thường ...
- Vậy tại sao ông lại nói những chuyện độc ác như thế ?
Takuan thở dài, ngồi xuống gốc cây bên vệ đường:
- Ta lầm ! Ta không ngờ những điều ta dự đoán làm cháu hiểu lầm ta ! Cháu nói có lý, nhưng cháu phải biết cả hai đều là những người bệnh. Miyamoto Musashi, sư phụ cháu, hắn đang ở cái lúc phải tự xét mình, khắc kỷ để tự tu dưỡng. Hy vọng hắn ý thức được đàn bà còn nguy hiểm hơn là đao kiếm gấp bội lần. Nhưng ngoài Miyamoto Musashi ra, ai có thể giải quyết được những việc riêng tư ấy của hắn. Nên ta nghĩ tốt hơn hết cứ để cho hắn tự giác ngộ. Còn Otsu, nàng rất cần giúp đỡ. Ta là thiền sư đã nhập thế, có bổn phận giúp đỡ nàng, chữa những người mắc tâm bệnh cũng như thầy lang chữa những người mắc bệnh thể chất. Nhưng hỡi ơi ! Ta chẳng làm gì được ! Nếu Otsu không ý thức nổi được rằng mối tình của nàng vô vọng thì ta chỉ còn cách khuyên nàng giữ lấy sức khỏe mà thôi. Và nếu không được nữa thì nói thật cho nàng biết.
Takuan nói thao thao, chẳng biết Jotaro có hiểu gì hay không hay chỉ là để tự thuyết phục. Thằng bé vẫn còn giận:
- Ông không cần giúp cô Otsu. Tôi sẽ giúp cô ấy.
- Vậy tốt. Takuan gật đầu. Cháu đến xóm Liễu xem Miyamoto Musashi làm gì rồi về nói cho Otsu biết. Otsu sẽ đau lòng lắm nhưng cũng giúp cho nàng sáng mắt.
Ông nói đoạn, đứng dậy sửa lại tay nải, chống gậy bỏ đi.
Jotaro nhìn theo, lẩm bẩm:
- Sư khùng, láo khoét !
Rồi nghĩ thế nào, nó đưa tay ra banh mồm lè lưỡi, vẫy vẫy ngón tay sau lưng Takuan, bắt chước cử chỉ của những trẻ đầu đường xó chợ chế giễu những nhà sư khất thực.
Bóng Takuan khuất dần sau hàng cây, Jotaro một mình đứng lặng. Nó thấy cay cay ở mắt và tự nhiên nước mắt trào ra. Nó gục đầu vào thân cây nức nở.
Khi lòng đã nguôi nguôi, Jotaro chùi nước mắt. Như con chó con mất mẹ, nó thất thểu đi tìm người hỏi thăm đường đến xóm Liễu.

Acmagiro
29-03-2008, 08:39 AM
CHƯƠNG 43

HƯƠNG TRẦM





Trong xóm Liễu, lác đác đã có vài quán rượu và tiệm ăn lên đèn. Khách làng chơi thưa thớt. Giờ này, các ả giang hồ còn bận trang điểm, không mấy ả đứng phất phơ đón khách trước cửa.
Trời chưa tối, nhưng hai chiếc đèn ***g lớn treo trước quán Ogiya đã được thắp sáng. Jotaro đến xóm yên hoa, nhận ra ngay nơi mình muốn tìm, nên dừng chân trước cổng chính Quán Ogiya nghe ngóng. Nó không rõ xóm Liễu ở đâu, cứ tưởng phải đi xa nên đã chuẩn bị kỹ cho cuộc hành trình. Nói là chuẩn bị nhưng thực ra có gì đâu, đeo thêm cái túi vải gai trong bỏ vài thứ lặt vặt, kể cả cái mặt nạ nó ưa thích, thường lúc nào nhàn rỗi lại đem ra ngắm và đeo vào mặt, và thanh gươm gỗ dài. Đôi dép vẫn là đôi dép cỏ cũ, xơ xác, mòn vẹt gót.
Qua cánh cửa khép hờ, đang ngó nghiêng nhìn vào trong sân, bỗng thấy một người dáng dấp và y phục có vẻ như gia nhân trong quán đi ra. Thấy Jotaro, gã ngạc nhiên hỏi giọng hách dịch.
- Mày là ai ? Trẻ con đến đây làm gì ?
- Tôi tìm sư phụ. Miyamoto Musashi ở đây phải không ? Bác làm ơn báo cho ông ấy biết có học trò ông đợi ngoài này.
Sự ngạc nhiên trên mặt gã gia nhân bỗng biến mất, nhường chỗ cho sự khó chịu và tức giận. Cũng vì Miyamoto Musashi mà hai ngày nay, phái Yoshioka cho người đi lục soát khắp xóm, công việc làm ăn của gã bị đình trệ, tiền trà nước thu vào sút kém hẳn đi.
Nhớ đến lời dặn của viên quản lý, gã cau mặt:
- Ở đây không có ai tên đó cả. Nhãi con, mới mở cửa chưa có khách đã đến quấy rầy ! Đi ra !
Đoạn xô Jotaro ra khỏi cổng. Jotaro vung tay gạt mạnh:
- Ơ hay ! Bác này làm gì thế ? Tôi hỏi tin, không cho biết thì thôi, can gì đẩItoi !
- Á à ...thằng này bướng ! Mày đến đây do thám hả ?
- Và không đợi trả lời, gã nắm ngay lấy cổ áo Jotaro nhấc bổng lên, ném bịch ra ngoài cửa.
Jotaro ngã ngồi xuống vệ đường, đau điếng. Cơn giận nổi dậy, phừng phừng, mắt hoa lên, nhớ đến lúc đánh nhau với con chó đen trong trang trại nhà Yagyu, Jotaro rút phắt thanh kiếm gỗ cầm tay xông vào chém bừa vào mặt kẻ thù. Gã gia nhân tránh kịp nhưng cũng bị lưỡi kiếm sướt qua má, máu chảy ròng ròng. Tay ôm má, miệng la, tay kia túm áo Jotaro, gã quật thằng bé xuống đất. Song Jotaro lấy chân đạp lên đùi địch thủ, tung mình đứng ngay dậy được, rồi sẵn gươm và nhân lúc kẻ thù hãy còn ở thế nửa quỳ nửa đứng chưa vững, nó giơ kiếm chém một nhát lên đầu gã. Nhát chém khá mạnh vì Jotaro dùng cả hai tay nắm chuôi kiếm bổ xuống. Nhưng may cho gã, thanh kiếm gỗ không sắc, tóc gã lại rậm buộc lên thành búi lớn trên đỉnh đầu nên chỉ nghe tiếng bịch, gã gia nhân thở phì một cái, quay lơ ra đất, như một khúc gỗ bị vất lên cỏ.
Trời chạng vạng. Lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, Jotaro lẩn vào bụi rậm bên cổng và thoắt cái đã biệt dạng.
Sự việc xảy ra mau chóng, song không qua được mắt một ả kỹ nữ đứng trên lầu tiệm ăn nhỏ gần đấy. Ả hô hoán:
- Giết người ! Có kẻ giết người ! Thằng bé mặc áo đen mang gươm giết gia nhân quán Ogiya rồi !
Người ta đổ xô ra gọi nhau í ới, mang đèn bu xung quanh xác gã gia nhân Quán Ogiya. Nhưng gã không chết, chỉ ngất đi. Xoa rượu và giật tóc mai một hồi thì tỉnh, gã được dìu vào nhà. Hú vía ! Ở cái xóm yên hoa này, ẩu đả xảy ra hàng đêm. Nếu không đổ máu chết người thì chẳng ai để ý và chủ quán cũng giấu nhẹm nội vụ đi hay tìm cách giảm bớt sự trầm trọng để khỏi bị điều tra phiền phức và tránh tai tiếng.
Phố chính đã lên đèn rực rỡ. Rặng liễu trồng hai bên vệ đường tỏa ánh sáng xanh mát huyền ảo. Khách chơi bắt đầu đổ đến tấp nập. Nhưng không phải con lộ nào trong xóm cũng đông đúc và sáng sủa như thế. Quanh co giữa những căn nhà gỗ nhỏ của những người buôn bán lặt vặt hoặc những kẻ sống bám vào các tiệm nước, các nhà hành lạc, là những bãi hoang tối tăm, những đoạn đường sình lầy ít người qua lại. Khu Rokujo này đang được mở rộng nhưng sự phát triển quá nhanh, các tiện nghi về giao thông không theo kịp.
Jotaro trốn trong bãi hoang một lúc lâu, hay ít ra nó tưởng thế. Tiếng mõ cầm canh từ xa vẳng lại rời rạc. Sao khuya cũng đã lác đác trên bầu trời vẩn đục và mờ mờ do ánh sáng trong xóm hắt lên. Thấy không ai đuổi theo tìm mình, Jotaro vững dạ, nhưng lại áy náy lo cho Otsu và buồn phiền chẳng biết bây giờ sư phụ nó ở đâu. Nó đánh liều tìm đường ra khỏi bãi hoang, theo lối mòn để ra đường chính. Nhưng đi được một quãng chạm ngay phải hàng rào, Jotaro phải quay lại tìm lối khác. Không hiểu sao, lối này cũng lại dẫn đến chân hàng rào như lúc nãy. Rào thì cao, làm toàn bằng cây gỗ to bằng bắp đùi đẽo nhọn, dựng khít bên nhau, những khe hở nhỏ đến nỗi thò bàn tay qua không lọt. Jotaro phân vân lo sợ. Nó không biết xóm này chỉ có một cổng chính, xung quanh là hàng rào cao một trượng bao bọc để giữ an ninh cho xóm.
Jotaro quay trở lại, cứ nhắm nơi nào có ánh đèn mà tới. Nhưng nó cũng cẩn thận, tránh những chỗ sáng quá. Nó lùi lũi đi, hy vọng thoát khỏi khu này, một nơi mà nó cho là toàn những người không tốt, mặc dầu họ ăn mặc đẹp đẽ.
Qua một ngã tư, bỗng có tiếng gọi phía sau. Lúc đầu không để ý, Jotaro cứ đi, nhưng tiếng chân dường như đuổi theo nó. Jotaro quay lại không thấy ai, chỉ có một cô bé ăn mặc ra dáng nữ tỳ, tuổi cũng khoảng cùng trang lứa với nó, đang cố gắng chạy theo.
Jotaro dừng lại. Cô bé tiến đến hỏi:
- Anh có phải là người đến tìm Miyamoto Musashi ở quán Ogiya không ?
Jotaro định chối, song nhìn dáng điệu cô bé hiền lành, thở hổn hển, có vẻ không làm hại mình được, nên gật đầu:
- Phải - Tên anh là Jotaro hả ?
- Phải.
- Vậy anh theo tôi, tôi đưa anh đến gặp Miyamoto Musashi.
Nghe nói gặp sư phụ, Jotaro mừng hết sức. Nhưng e ngại, nó hỏi:
- Cô là ai, sao biết Miyamoto Musashi ?
Cô bé cắt nghĩa nàng là tỳ nữ của Yoshino Dayu. Nghe tên Yoshino Dayu, Jotaro không còn nghi ngờ gì nữa. Nó cũng tâm sự:
- Musashi tiên sinh là sư phụ tôi, tôi phải đến gặp ông tức khắc. Nhưng sư phụ tôi có chắc ở đó không ?
- Nếu không ở đó, cô tôi sai đi tìm anh làm gì ?
Cô bé đi bên cạnh Jotaro không ưa bắt chuyện. Hỏi câu gì nó cũng chỉ trả lời gióng một.
- Yoshino là ai vậy ?
- Chủ tôi.
- Bà đã già chưa ?
- Chưa.
- Bà làm gì ?
- Làm ở Quán Ogiya.
- Sư phụ tôi ở nhà bà hả ?
- Phải.
- Ông ở đó làm gì ?
Cô bé quay nhìn Jotaro, lát sau mới đáp nhưng không đúng câu hỏi:
- Sắp đến rồi đấy. Tới cái cổng treo chiếc đèn ***g kia, anh cứ đẩy mà vào. Tôi phải đi làm việc khác.
Dứt lời, rẽ vào một đường hẻm lát đá, hai bên trồng toàn mẫu đơn đã bắt đầu trổ nụ.
Theo lời chỉ, Jotaro đến trước cổng. Cổng gỗ, thấp và hẹp, chắc là cửa sau của một trại nhỏ. Cánh cổng khép hờ, Jotaro đẩy nhẹ vào không một tiếng động. Qua khu vườn trồng nhiều cây không rõ loại gì, được cắt xén gọn ghẽ hiện lên trong bóng tối lờ mờ như những hình kỷ hà đủ cỡ, Jotaro thấy một căn nhà gỗ.
Trong nhà vắng lặng, có vẻ bỏ hoang. Jotaro hơi ngạc nhiên, chẳng lẽ cô bé đó đánh lừa mình, nhưng đã vào đây cũng cứ thử xem. Nếu không thấy sư phụ thì đi ra, có gì mà ngại.
Bèn gõ cửa. Đến năm sáu tiếng chẳng ai trả lời. Đợi khá lâu lại gõ nữa. Cũng không động tĩnh. Sốt ruột, Jotaro đi vòng quanh. Bếp, chỗ ở gia nhân, vựa củi, kho chứa đồ, nơi nào cũng vắng lặng tối om. Cửa sổ độc nhất trông ra vườn lại quá cao, Jotaro cố kiễng chân, đầu mới chạm tới khung gỗ.
Tìm quanh mãi, thấy một khúc cây, Jotaro hì hục vần sát vào chân tường dưới cửa sổ rồi trèo lên, dí mũi qua hàng song tre. Nó bỗng suýt kêu lớn.
Trong phòng, Miyamoto Musashi, thầy nó, nằm trước lò sưởi, tay co lại gối đầu, trên mình đắp chiếc chăn thêu. Lửa lò đã lụi nhưng ánh than còn hồng chiếu lên những đường thêu vàng óng ánh. Jotaro chưa bao giờ thấy thầy nó đắp tấm chăn đẹp đến thế !
Quanh chỗ Miyamoto Musashi nằm, rải rác một nghiên mực, mấy ngọn bút và ba bốn tấm giấy đã vẽ xong, tấm thì bông hoa, tấm thì bụi trúc. Một tấm vẽ con gà còn bỏ dở.
Trông thấy sư phụ, Jotaro muốn đưa tay ra ôm ngay lấy người nó quý mến và cảm phục xa vắng bấy lâu nay, nhưng nhìn cách ăn mặc và công việc thầy nó đang làm, nó giận.
- Sao sư phụ ta lại có thể yên tâm ngồi vẽ những bức tranh như thế kia được ?
Ông không biết cô Otsu đang ốm hay sao ?
Tấm chăn Miyamoto Musashi đắp, nó cho là biểu hiện của nếp sống khoái lạc, sa đọa sư phụ nó đang bị chìm đắm vào. Lại nhớ đến lúc Miyamoto Musashi ôm một thiếu nữ không quen biết dưới chân cầu ngày đầu năm, nó tự nhủ:
- Thầy ta bây giờ khác rồi, không còn như trước.
Sự bực tức tràn đến kèm theo niềm cay đắng. Jotaro hờn dỗi không muốn gặp thầy nữa. Nó thong thả tuột xuống.
- Jotaro ! Miyamoto Musashi gọi. Ai dẫn con đến đây ?
Jotaro lại ngẩng đầu lên nhìn vào. Miyamoto Musashi vẫn nằm bên lò sưởi, nhưng mắt hé mở và nụ cười thật tươi. Nó nhảy bổ xuống khỏi khúc gỗ, chạy vội về phía trước, đẩy mạnh cửa, xông vào phòng như vũ bão, ôm lấy cổ sư phụ:
- Thầy ! Thầy !
Miyamoto Musashi cũng ôm lấy đầu đầy bụi đất của Jotaro, ghì vào ngực mình:
- Lâu lắm ta không gặp con. Sao con biết ta ở đây ? Thầy Takuan chỉ cho phải không ?
Rồi ngồi dậy, để đầu Jotaro vào lòng mình. Hơi ấm của sư phụ truyền sang, Jotaro thấy dễ chịu vô cùng, bao nhiêu hờn giận quên đi hết cả. Nước mắt chạy quanh, nó như con chó con nằm bên mẹ, sung sướng nhận những cái vuốt ve âu yếm. Lát sau mới sực nhớ:
- Thầy ! Otsu ốm nặng. Cô ấy muốn gặp thầy lắm. Cô ấy mong thầy hết sức. Thầy đến thăm cô ấy đi. Chỉ một lần thôi, con chắc cô ấy sẽ chóng khỏi.
- Tội nghiệp !
- Tết vừa rồi, cô Otsu có đến chân chân cầu Gojo đợi thầy, thấy thầy ôm một cô gái nào đấy, cô Otsu giận và từ bấy giờ không vui, ít nói, ít cười, ăn ngủ cũng thất thường, cô gầy lắm !
- Thế ư ? Ngày hôm đó ta cũng xúc động quá. Akemi đột nhiên hiện ra làm ta lúng túng.
- Akemi là bà con gì với thầy ?
- Người quen cũ, đã lâu. Nhưng thôi đừng nói chuyện ấy nữa. Bây giờ Otsu ra sao?
- Cô Otsu đang ở trong dinh tướng công Mitsuhiro. Thầy đến thăm đi. Gặp thầy, thế nào cô ấy cũng khỏi bệnh.
Jotaro còn nói rất nhiều, câu nào cũng không ngoài mục đích thuyết phục sư phụ đến thăm cô nó. Nhưng Miyamoto Musashi như ở tận đâu đâu, mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Những lời cầu khẩn của thằng bé chẳng khác gì nước vỗ vào thành đá, vẫn trơ trơ không suy suyển. Miyamoto Musashi chỉ trả lời ậm ừ.
Jotaro khó chịu, giật tay áo sư phụ, định bắt ông phải tỏ thái độ dứt khoát, bỗng nghe tiếng chân người. Nữ tỳ của Yoshino bước vào, mang bộ áo của Miyamoto Musashi đặt lên kỷ:
- Tiểu tỳ đã giặt xong áo và gột sạch vết máu. Xin đại hiệp kiểm lại.
- Cám ơn cô. Thế còn Yoshino đâu ?
- Chủ nhân tiểu tỳ bận tiếp khách, sai tiểu tỳ về vấn an và hỏi xem đại hiệp có cần gì nữa không ?
- Ta ở đây rất vừa ý, nhưng nếu ở lại lâu hơn nữa sợ làm phiền chủ nhân. Cho nên xin cáo biệt. Phiền cô chuyển lời cảm ơn chân thành của ta đến chủ nhân.
Nghe sư phụ nói, Jotaro sung sướng quá, nhảy cẫng. Ờ ! Có thế chứ. Chắc ông đã quyết định đi thăm Otsu. Ông đúng là một mẫu người tốt và ngay thẳng, xứng đáng làm sư phụ nó.
- Ngoài ra, ta muốn nhờ cô chỉ đường cho chú em đây ra khỏi xóm, mang áo này đến ngõ Honami hoàn lại cho Koetsu tiên sinh. Jotaro ! Con làm việc ấy giúp ta được không ?
- Thưa không được !
Ả nữ tỳ xen vào làm cả hai thầy trò cùng ngạc nhiên.
- Anh này đã đả thương một gia nhân ở quán Ogiya. Chuyện đó được bỏ qua vì chủ nhân tiểu tỳ đích thân can thiệp và bảo lãnh. Nhưng để anh ấy ra ngoài tất sẽ bị theo dõi. Mấy hôm nay, đồ chúng Yoshioka canh gác ngặt lắm, xin đại hiệp cẩn trọng !
- Cảm ơn cô, nhưng ta cũng có kế hoạch riêng.
Tuy nhiên, sợ nguy hiểm đến tính mạng Jotaro, Miyamoto Musashi đồng ý giao cho một người khác mang áo đến ngõ Honami trả Koetsu lão bà.
Ả nữ tỳ đi rồi, Miyamoto Musashi mặc lại bộ áo bằng vải thô của hắn. Bộ áo bạc màu vì sương nắng, mồ hôi loang lổ, nhưng sao hắn thấy đẹp và trân quý vô cùng, mặc vào thoải mái hơn lụa là nhiều.
Khi thắt đến thắt lưng và đeo kiếm, cảm giác cô đơn của Miyamoto Musashi biến mất. Hắn thấy tự tin và an toàn hơn. Thanh kiếm đối với Miyamoto Musashi thân thiết như ruột thịt, như bố mẹ anh em và có lẽ thay cho vợ con hắn suốt đời. Mà đúng vậy:
từ trước đến nay Miyamoto Musashi vẫn tâm nguyện như thế.
Jotaro ra vườn, ngẩng mặt nhìn trời. Sao đêm lấp lánh. Mảnh trăng hạ huyền lấp ló sau ngọn cây.
- Khuya rồi, nhưng không sao, mình đánh thức cô Otsu dậy. Chắc sự bất ngờ này sẽ làm cho cô sung sướng lắm.
Miyamoto Musashi đến bên, vỗ vai Jotaro:
- Con ra cửa sau đợi ta.
- Thế thầy không đi cùng với con à ?
- Đi chứ. Nhưng ta muốn đích thân từ biệt Yoshino. Cũng không lâu đâu !
- Vâng. Vậy con đợi thầy ngoài cửa.
Con đường kiếm đạo còn dài và gian khổ. Quán Ogiya, đối với Miyamoto Musashi là nơi nghỉ chân nhiều hứng thú nhưng tạm thời. Mấy ngày nhàn rỗi ở đây đã giúp hắn lấy lại được quân bình về tâm hồn cũng như thể chất, giúp hắn cảm thông được với cái đẹp, hòa đồng với thiên nhiên. Hắn không mảy may nghi ngờ sự chính trực của đời sống khổ hạnh hắn đang sống, nhưng sự chối bỏ tất cả mọi lạc thú đôi khi khiến hắn tự cảm thấy nhỏ mọn hẹp hòi.
Giây đàn căng quá sẽ đứt, tinh thần căng quá sẽ khủng hoảng. Sau trận giao chiến với Denshichiro, tinh thần và thể chất Miyamoto Musashi đã gắng sức tột độ, cần được nghỉ ngơi. Hắn cũng đã uống chút rượu, muốn ngủ thì ngủ, muốn đọc sách vẽ tranh thì đọc sách vẽ tranh. Cứ để tâm hồn đôi khi tự do như thế, quả nhiên hắn thấy thư thái hơn trước.
Mở cửa sau, Miyamoto Musashi định vào cảm ơn Yoshino. Nhưng nghe tiếng đàn phách vọng ra, tự nhiên hắn đổi ý. “Vô ích mà cũng chẳng hợp thời. Cái thường của họ là cái vô thường của ta. Mình không thuộc về xã hội ấy”. Hắn lặng lẽ cúi đầu, tạ Ơn người tri kỷ trong lòng, rồi lui bước.
Nữ tỳ của Yoshino chạy theo, trao cho Miyamoto Musashi phong thư nhỏ. Hắn mở ra, mùi hương trầm thoang thoảng phả trên giấy hoa tiên:
“Mỗi đêm hoa mỗi tàn, chỉ ánh nguyệt lung linh vĩnh cửu. Bên chén rượu nồng thiếp ngồi nhỏ lệ. Trân trọng gửi chàng những hàng chữ này làm duyên hội ngộ”.
- Thư ai đấy thầy ?
- Hỏi làm gì, con không biết đâu !
Jotaro hểnh mũi:
- Chà ! Mùi hương trầm ! Thơm quá !

Acmagiro
29-03-2008, 08:40 AM
CHƯƠNG 44

KHUNG CỬA







Jotaro đi theo sư phụ. Nó thầm nghĩ không biết làm cách nào ra khỏi chỗ này.
Xóm Liễu tường cao vây bốn mặt, đêm khuya, chỉ cổng chính là còn mở, lại nghe nói kẻ thù rình khắp nơi, chắc ở cổng đó phải đông lắm. Jotaro lo sợ hỏi sư phụ:
- Đi đường nào, thầy ?
- Các cửa đều đóng cả rồi phải không Jotaro ?
- Dạ phải, chỉ còn cửa chính mở. Mà đường ấy không đi được đâu, ta nên tìm chỗ nào tường thấp trèo ra thì hơn.
Miyamoto Musashi nhìn đồ đệ, mỉm cười, rồi nghiêm nghị bảo:
- Mạng sống quý thật, nhưng làm như vậy là hèn nhát. Ta không thể có thái độ trốn tránh mà phải đường hoàng đi ra bằng cổng chính.
Jotaro ngước nhìn sư phụ. Nó suy nghĩ về lời nói. Trên bước đường giang hồ, Jotaro nhiều lần nghe nói đến sự hèn nhát. Kiếm sĩ mà bị coi là hèn nhát thì không còn đáng gọi là kiếm sĩ, cho nên nó tự thẹn đã có những ý nghĩ như vừa rồi.
- Vậy con cũng ra bằng cổng chính !
Jotaro chữa lại.
Miyamoto Musashi vỗ vai nó:
- Giỏi lắm ! Nhưng con phải biết dũng cảm và liều lĩnh khác nhau. Con còn nhỏ, chưa biết võ nghệ, mà cứ nhắm mắt xông vào chốn đao kiếm, khác nào kẻ không biết bơi đòi nhảy bừa xuống nước để qua sông. Cái chết cầm chắc trong tay, một cái chết vô ích. Như vậy ta gọi là xuẩn động !
- Nhưng con không muốn là một tên hèn nhát.
- Ai bảo con hèn nhát đâu ! Vả chúng theo ta chứ đâu phải con !
Jotaro cúi đầu ngẫm nghĩ.
- Vậy con phải làm thế nào bây giờ ?
- Yên tâm ! Ta sẽ giúp con trèo tường ra ngoài !
Hai thầy trò vừa đi vừa trò chuyện, bỏ đường lớn rẽ vào những đường mòn cỏ lau rậm rạp, lúc lâu thì đến chân rào gỗ. Hàng cột đen trùi trũi, to lớn ken sát nhau lừng lững trước mặt, Jotaro nghểnh cổ trông lên chỉ thấy trời sâu thẳm, mấy ngôi sao thưa lúc ẩn lúc hiện không rõ.
Miyamoto Musashi dừng lại:
- Con ra ngoài đó trước, đợi ta.
- Đợi thầy ở đâu ?
- Trường đua ngựa.
- Thế nào thầy cũng đến chứ ?
- Jotaro ! Ta không nói dối. Một trong những điều ta muốn dạy con là sự thành thật, sao lại cứ nghi ngờ ta. Con đi nhặt cho ta hòn đá.
Jotaro nhặt một hòn đá đưa cho thầy. Miyamoto Musashi ném viên đá qua bên kia rào, lắng nghe động tĩnh, không thấy gì khả nghi, mới cúi xuống khẽ bảo đồ đệ:
- Leo lên vai ta rồi bám vào đầu cột mà trèo ra ngoài.
- Dép con bẩn.
- Không sao, cứ leo lên.
Nhưng rào cao quá. Ở trên vai Miyamoto Musashi mà Jotaro với tay mãi cũng không tìm được chỗ nào để bấu cho chắc vào hàng rào được. Miyamoto Musashi phải bảo Jotaro đứng trên hai bàn tay mình, giơ cao lên, thằng bé mới bám được vào đầu cột.
- Nhìn kỹ xem bên ngoài có ai không !
Jotaro đưa mắt quan sát:
- Không. Bãi hoang, chỉ toàn cỏ lác.
- Có thể chỗ này trũng nước. Vậy đừng nhảy, hãy bám vào cột leo xuống từ từ. Chớ gây tiếng động vô ích.
- Dạ.
Một lúcs au, nghe tiếng chân đạp lên bùn, rồi tiếng Jotaro kêu khẽ:
- Tới rồi thầy !
- Vậy tốt. Đi mau đi, đợi ta ở chỗ trường đua.
Bên kia tường rào, trước khi đi, Jotaro còn ghé sát miệng vào khe cột hở, nhắc Miyamoto Musashi như để lưu ý sư phụ nỗi quan tâm lớn lao của nó:
- Con đợi thầy đến gặp cô Otsu đấy !
Miyamoto Musashi không đáp, lắng tai nghe cho đến khi thấy bước chân đứa học trò nhỏ xa dần mới bỏ đi trở lại, tìm lối ra đường lớn.
Miyamoto Musashi bước nhanh ra khỏi cổng chính. Số đệ tử Yoshioka ngồi sưởi bên vệ đường, không để ý đến sự xuất hiện thình lình của hắn, mà cả hai tên có phận sự lảng vảng gần cổng cũng không ngờ.
Mấy đêm nay, đồ chúng Yoshioka chia nhau canh gác cẩn mật tất cả những điểm quan trọng quanh xóm Liễu, đề phòng Miyamoto Musashi bỏ trốn. Sau khi dò xét và phong văn kẻ thù còn ở quán Ogiya, chúng mấy lần định xông vào quán lục soát nhưng không được. Cũng như mọi lần, khi bàn việc gì quan trọng, đồ chúng Yoshioka thường chia thành hai phái. Một phái, muốn trả thù ngay cho chủ, đưa ý kiến phải xông vào quán lập tức, tốc chiến tốc thắng, bắt cho bằng được Miyamoto Musashi đem về trị tội.
Phái kia, cẩn trọng hơn, bày mưa theo dõi, muốn lừa kẻ thù vào bẫy để giết, một phần vì e ngại sức khoẻ và đường gươm dũng mãnh của Miyamoto Musashi, một phần vì không muốn làm kinh động đến nơi ăn chơi nổi tiếng nhất kinh đô, thường được các bậc vương tôn và những tay quyền thế trong phủ lui tới giả trí. Hơn nữa, thế lực của Yoshioka ngày nay đã giảm đi nhiều, nhất là sau khi Seijuro bị tàn phế và Denshichiro bị giết thê thảm, họ càng dè dặt không dám vọng động.
Hai phái giằng co mãi, sau đi đến quyết định chỉ bao vây bên ngoài, cắt đệ tử thay phiên nhau mai phục tại các nơi hiểm yếu. Cho nên đã mấy đêm liền, người của Yoshioka không ngừng dòm ngó kẻ ra vào quán Ogiya, nhất là những thanh niên vóc dáng cao lớn. Đôi khi chúng không từ cả việc bắt phu cáng phải dừng lại vạch màn cho chúng coi rõ mặt khách ngồi trong. Chúng sợ Miyamoto Musashi trá hình trốn mất.
Có điều không ai ngờ kẻ thù chẳng đội trời chung ấy của chúng lại hiên ngang ra đi bằng cổng chính.
Đệ tử Yoshioka kinh ngạc há hốc mồm. Định thần một chốc, gã mới kêu lên được thì Miyamoto Musashi đã rởi khỏi cổng xa đến mấy chục bước.
- Anh em ! Nó đấy ! Đuổi theo mau !
Mọi người bỏ đống lửa quay ra. Quả nhiên phía trước chúng là vóc dáng lợi hại của kẻ thù; ánh đèn chiếu vào, bóng hắn đổ dài di động trên mặt đường lát đá !
- Musashi ! Quân súc sinh ! Muốn sống đứng lại !
Một đệ tử Yoshioka hét lớn.
Miyamoto Musashi rút phắt kiếm, hắn quay lại không đáp. Sự im lặng của hắn làm đồ chúng Yoshioka nổi gai ốc. Vài tên tay đã để vào đốc kiếm, vội khựng lại không dám rút gươm ra, dường như sợ nếu làm cử chỉ gì khiêu khích, có thể sẽ bị hắn giết ngay tức khắc. Có tên thụt lùi về phía sau. Musashi tiến tới, lưỡi kiếm đưa thẳng trước mặt, vững vàng, không mảy may rung động. Đồ chúng Yoshioka lui mấy bước.
Đột nhiên một tiếng thét thật lớn rung động cả khu phố, Miyamoto Musashi tung mình như chớp xẹt nhảy đến dựa lưng vào bức tường của một căn nhà gần đó.
Đệ tử Yoshioka bao vây xung quanh thành hình vòng cung, lúc đầu còn ít, sau càng lúc càng nhiều, có đến chừng ba chục. Số đông làm chúng tăng thêm nhuệ khí. Tiếng la hét cùng những lời chửi rủa tục tằn vang rân cả khu xóm. Hàng quán đóng cửa rầm rầm.
Musashi vẫn yên lặng dựa lưng vào vách, gươm tuốt sẵn cầm tay. Dưới mái hiên, trong bóng tối, hắn đảo mắt vọ nhìn khắp vòng vây trước mặt, lượng chỗ cường, chỗ nhược để tùy cơ ứng biến. Tiếng chửi rủa, hắn bỏ ngoài tai, coi như những tiếng sủa của bầy sơn cẩu. Chúng càng ồn ào, Miyamoto Musashi càng vững dạ vì rõ ràng chúng chẳng có kế hoạch gì, ô hợp như một lũ thảo khấu.
- Ngươi có phải là Miyamoto Musashi ở Miyamoto không ?
- Chính thị. Bọn ngươi muốn gì ?
- Chúng ta là đệ tử Yoshioka. Muốn gì ngươi tất biết ! Sẵn sàng chưa ?
Tiếng cười gằn của Miyamoto Musashi làm cả bọn ớn lạnh:
- Sẵn sàng ? Ta sẵn sàng ngay cả trong giấc ngủ. Đứa nào muốn chết thì cứ lại đây.
Nhưng ta cần biết một điều trước khi giao đấu:
các ngươi là kiếm sĩ tôn trọng luật giang hồ hay muốn ỷ vào số đông để thủ thắng ?
Không kẻ nào đáp lại. Tiếng ồn ảo giảm bớt nhưng cũng chẳng ai dám tiến tới.
Không khí có vẻ căng thẳng hơn trước.
Bỗng từ đám đông, một lão tráng bước ra. Miyamoto Musashi chú ý thủ thế. Trước một đám đông giận dữ, đầy thù hận, chỉ sơ hở hay nhầm lẫn một chút có thể mất mạng như chơi, hắn cũng đề phòng, sợ có kẻ dùng ám khí, nên đã chọn chỗ đứng gần một cột gỗ.
Lão tráng không cầm gươm nhưng đeo song kiếm. Chính là Ueda. Có lẽ ông mới tới. Điềm tĩnh và đĩnh đạt, Ueda chậm chạp tiến lên mấy bước. Tiếng ồn ào im hẳn. Phong cách ấy chứng tỏ ông là một trong những người có uy tín của phái Yoshioka.
- Miyamoto Musashi ! Chúng ta đến đây làm gì, ngươi thừa biết. Ngươi đã làm nhục bản phái, dùng thủ thuật đê hèn khiến chưởng môn chúng ta thành tàn phế, giết Denshichiro, người thừa kế của bản phái. Những tội ác tày trời ấy không thể tha thứ được !
Nếu chúng ta để ngươi sống, chúng ta không còn mặt mũi nào đứng trên đời này nữa !
Những lời cáo buộc nghiêm nghị, vững vàng ấy làm xúc động đồ chúng Yoshioka.
Tiếng la phẫn nộ vang trời dậy đất.
- Giết ! Giết nó để trả thù cho Seijuro và Denshichiro !
- Còn đợi gì nữa ? Anh em hãy xông vào lấy đầu thằng súc sinh lập tức !
Nhưng Ueda giơ tay ra hiệu cho đồ chúng Yoshioka yên lặng, rồi tiếp:
- Ta là Ueda, chỉ muốn trả thù cho chưởng môn nhân và khôi phục danh dự cho bản phái. Đó là lề luật võ lâm, tuyệt không có ý gì ỷ chúng hiếp cô. Ngươi là kiếm sĩ tất hiểu rõ. Bây giờ hãy trông đây !
Dứt lời, Ueda rút kiếm đánh soạt, ánh hàn quang thành hình vòng cung lấp lánh.
- Được lắm ! Ueda ! Ngươi xứng đáng là một kiếm sĩ. Nhưng nếu muốn trả thù, sao không đường đường chính chính tuyên chiến theo đúng đường lối võ lâm, như Seijuro và Denshichiro đã làm ? Tại sao lại để đồ đệ ngươi mai phục đánh lén.
- Chính ngươi đã lẩn trốn nên chúng ta phải canh giữ, chứ không phải đánh lén.
- Vô lý ! Nếu ta muốn, ta có nghìn cách trốn, và chắc bây giờ đã không đứng trước mặt bọn ngươi !
Ueda cười gằn:
- Trốn sao được ! Yoshioka chúng ta tai mắt khắp nơi, sao để ngươi thoát !
- Ta cũng tin như thế. Nhưng khu này không phải là chỗ định hơn thua. Tuy nhiên nếu bọn ngươi cố tình trả hận ngay tại chỗ, ta sẵn sàng chấp nhận và ta chấp cả bọn ngươi. Chỉ tiếc rằng danh dự phái Yoshioka lại bị đạp xuống bùn nhơ một lần nữa !
Ueda do dự. Đệ tử Yoshioka đã tụ tập khá đông, nếu cùng xông vào tấn công một lượt cũng có thể thắng được, nhưng thắng chẳng vinh gì mà bại thì quá nhục nhã, không còn hy vọng gì phục hưng lại danh dự môn phái.
Dùng dằng chưa quyết, bỗng tiếng kêu báo động vang dội:
- Lính tuần tới ! Anh em giải tán ! Giải tán !
Mọi người nhốn nháo. Từ đằng xa, đã vẳng tiếng vó ngựa lộp cộp.
Ở xóm Liễu, những chuyện sinh sự xảy ra rất thường. Chẳng đêm nào không có, nhưng phần lớn là giữa các toán du đãng anh chị thanh toán lẫn nhau hoặc giữa các tên dẫn mối tranh khách. Cho nên quan lãnh binh cảnh vệ đã đặt riêng một biệt đội đặc trách khu vực này, đêm nào cũng liên tục tuần phòng khắp các ngả đường và cả bên ngoài rào, tại những bãi hoang, vì ở đó hay xẩy ra những vụ án mạng rất khó điều tra ra hung thủ. Quan lãnh binh là người rất mực liêm chính, được lòng tin cậy của hoàng gia, nên quyền hành lớn. Những tên phạm pháp làm rối loạn trật tự do thuộc hạ ngài bắt được phần lớn không oan uổng gì và thường bị dân chúng khinh ghét. Những bang phái có danh vọng tỷ như kiếm phái Yoshioka, vì lý do đó, hết sức tránh mọi hành động bị liệt chung với những toán du đãng thông thường.
Nghe báo động có lính tuần đến, đồ chúng Yoshioka rục rịch tản mát để khỏi bị bắt bớ điều tra lôi thôi. Nhưng khi ngựa tới, té ra không phải lính tuần. Một thanh niên cao lớn, áo khoác ngoài đỏ chói, lưng đeo trường kiếm nhảy vội xuống. Ueda nhận ngay ra là Sasaki Kojiro.
Một niềm hy vọng thoáng hiện. Lão tươi cười giơ tay đón chàng kiếm sĩ trẻ tuổi:
- Ganryu thiếu hiệp ! Được gặp thiếu hiệp ở đây, thật là đại hạnh !
Kojiro cũng vồn vã đáp lễ, nhưng sự vồn vã ấy chỉ thoáng cái đã biến mất, nhường chỗ cho một thái độ nghiêm cẩn.
- Ueda lão huynh ! Lão cùng anh em bản phái làm gì mà tụ tập ở đây đông thế này ?
Từ khi theo Seijuro về tá túc một dạo ở đường Shijo, Kojiro vẫn có thói quen gọi phái Yoshioka là bản phái, mặc trên danh nghĩa, hắn chẳng có liên hệ gì với phái này.
Ueda đưa mắt về phía bức tường có Miyamoto Musashi đứng. Lão đáp gọn:
- Thiếu hiệp nhìn rõ ai không ?
Tuy đã dư biết, Kojiro vẫn vờ hỏi:
- Miyamoto Musashi ?
- Chính thị !
Nhìn Ueda rồi nhìn Miyamoto Musashi, Kojiro nói lớn:
- Ueda lão huynh ! Musashi đại hiệp ! Không ngờ gặp cả hai vị Ở đây, tại hạ rất ngạc nhiên. Các vị có những chuyện riêng cần giải quyết, đáng lý ra tại hạ không can thiệp, nhưng vì cùng trong giới võ lâm, nên có điều phải nói.
Giọng Kojiro sang sảng. Gã còn trẻ, ăn mặc sặc sỡ như con nít, nhưng bấy giờ phong cách gã chững chạc lắm. Gã tỏ vẻ tự tin hết sức, gần như ngạo mạn.
Trong lòng tuy khó chịu nhưng Ueda vẫn bình tĩnh không lộ ra ngoài, để xem gã giở trò gì. Thấy không ai phản đối, Kojiro nói tiếp:
- Các vị có bao giờ tự hỏi làm náo động phố xá như thế này nếu lính tuần bắt gặp, sẽ bị phiền nhiễu như thế nào không ? Nhưng đấy là chuyện riêng của các vị, tại hạ không biết. Tại hạ chỉ lưu ý, các vị đều là những kiếm sĩ có danh vọng, nếu để bị bắt vì tội ẩu đả tầm thường và làm mất trật tự ngoài phố như những tên vô lại khác thì xấu hổ chung cho cả võ lâm, tại hạ không chấp nhận được.
Đồ chúng Yoshioka cất tiếng ồ lên một lượt, phản đối những lời lẽ hàm ý hỗn xược ấy. Nhưng Ueda đã giơ tay ra hiệu im lặng.
- Thiếu hiệp nói cũng có lý.
- Đúng vậy ! Các vị đã chọn nhầm chỗ và nhầm lúc để thanh toán việc riêng. Nếu các vị muốn so kiếm với nhau, sao không theo đúng luật giang hồ, đường hoàng công bố lời thách thức, địa điểm và giờ giao đấu ?
Có tiếng xì xào bàn tán, kẻ phản đối người tán thành. Sau cùng Ueda mới cất tiếng:
- Thiếu hiệp nói phải. Nhưng nếu chúng ta định ngày giờ và địa điểm, thiếu hiệp có bảo đảm rằng Miyamoto Musashi sẽ có mặt không ? Tại hạ sẵn sàng làm trung gian dàn xếp.
- Dĩ nhiên, nhưng ta muốn biết thiếu hiệp có bảo đảm được việc đó chăng ?
- Bảo đảm ...bảo đảm ...Cái đó phải hỏi hắn !
Nói đoạn, quay sang phía Miyamoto Musashi như thầm hỏi ý.
- Hay thiếu hiệp bày ra chuyện này để cho y trốn đấy ?
Kojiro có vẻ giận:
- Ueda lão huynh muốn sỉ nhục ta chăng ? Tại hạ không phải là bạn Miyamoto Musashi, không có lý do gì để che chở cho hắn. Nếu hắn trốn, cả võ lâm đều biết hắn là thằng hèn và sẽ phỉ nhổ hắn.
Nhưng Ueda lắc đầu. Giọng lão mạnh và quyết định:
- Như vậy không đủ. Chúng ta không rời khỏi nơi đây đêm nay nếu không có gì bảo đảm hắn không trốn ! Phải thế không anh em ?
Đồ chúng Yoshioka cùng reo lên một lượt, vang động cả khu phố:
- Phải ! Phải ! Như vậy mới được !
Kojiro quay gót. Gã tiến đến bên bức tường, đối diện Miyamoto Musashi trong bóng tối. Bốn tia mắt nhìn nhau, dò xét, tia mắt của hai dã thú. Có cái gì ghê gớm, ác liệt trong những tia mắt ấy, đòi hỏi hai bên phải nhận thức giá trị tinh thần của nhau, thôi thúc nhưng thoáng một chút nghi kỵ ... và thách thức.
- Miyamoto Musashi ! Ngươi vừa nghe những điều ta nói chăng ? Ngươi có chấp nhận một cuộc giao tranh với kiếm phái Yoshioka vào ngày giờ và địa điểm sẽ được ấn định không ?
- Ta chấp nhận !
- Vậy tốt.
- Tuy nhiên, ta không muốn ngươi can thiệp.
- Như thế là thế nào ? Ngươi không muốn ta bảo lãnh sự có mặt của ngươi ?
- Đúng vậy ! Ta đã giao đấu với Seijuro và Denshichiro. Trong lúc giao đấu, ta không có một hành động nào hèn nhát. Tại sao đệ tử của họ lại không tin ta và cho rằng ta sẽ bỏ trốn ?
- Hay lắm ! Miyamoto Musashi ! Thật là một lời nói kiêu hùng, ta sẽ không quên lời ấy của ngươi. Bây giờ, hãy định giờ và địa điểm đi !
- Ta để quyền ấy cho bên kia. Ta sẽ chấp nhận bất cứ nơi nào và giờ nào họ định.
- Chà ! Được lắm. Vậy từ này đến lúc giao đấu, tìm ngươi ở đâu ?
- Ta không có địa chỉ nhất định.
- Vậy làm sao chuyển thư cho ngươi được ?
- Bảo họ định địa điểm và ngày giờ ngay tức khắc, tại đây ! Ta sẽ đến !
Kojiro gật đầu, tin tưởng và thầm phục con người mà nếu phải coi là kẻ thù, gã cũng hãnh diện. Gã trở gót, lui về phía đồ chúng Yoshioka, bàn luận một lúc với Ueda và một số đồ đệ Yoshioka khác rồi trở lại bảo Miyamoto Musashi:
- Điểm hẹn là gốc cổ tùng ở chân đồi Sinh Minh, trên đường đi Quan Lãnh vào cuối giờ dần, ngày mốt. Truyền nhân đại diện Yoshioka kiếm phái là Yoshioka Genjiro, trưởng nam của Yoshioka Genzaemon và là biểu đệ của Seijuro và Denshichiro. Nhưng Genjiro còn nhỏ, phải có một số cao đồ trợ giúp. Ta phải nói trước như thế để khỏi có sự hiểu lầm về sau.
- Được lắm ! Ta chấp nhận !
Mọi điều đều được hai bên thỏa thuận. Đệ tử Yoshioka đem bút mực và bảng gỗ đến. Chính tay Kojiro viết những điều ấy lên bảng gỗ và Ueda sai người mang ra dựng ở ngã tư, chỗ đông người qua lại nhất.
Miyamoto Musashi nhìn tấm bảng gỗ, thờ ơ đọc những hàng chữ đen nét mực chưa khô viết trên đó rồi lẳng lặng bỏ đi, theo đường dẫn đến trường đua ngựa.
oo Một mình trong bóng tối dưới mái trường đua, Jotaro đi đi lại lại, lo lắng. Một cái cáng đi qua cũng khiến nó chạy vội ra, một tiếng chân người cũng làm nó bồi hồi nghe ngóng. Nhưng chỉ là những khách làng chơi về muộn dáng đi nghiêng ngả, tiếng hát đứt quãng lưu lại chút dư âm thoảng theo gió đưa đến tai nó.
Hết đi đi lại lại rồi ngồi bó gối trên nền đá lạnh ẩm ướt sương đêm, Jotaro nghĩ ngợi vẩn vơ. Hay thầy nó bị thương, chết rồi cũng nên, ở một chỗ nào đó. Góc tường ?
Vệ cỏ ? Trong đám lau sậy ven sông ? Jotaro lo sợ, kinh hãi, hoảng hốt. Nếu không, sao mãi bây giờ chưa tới. Nó không kiên nhẫn được nữa, bỏ luôn trường đua, cắm đầu chạy về hướng xóm Liễu. Mới được chừng trăm bước, tiếng Miyamoto Musashi từ trong bóng tối đã vang lên, gọn mà mạnh:
- Jotaro ! Chạy đi đâu thế ?
Jotaro giật mình. Hoàn hồn, nó sung sướng vô tả.
- Có chuyện gì mà chạy vậy ?
Jotaro thở phào, nhẹ hẳn người đi như vừa trút được khối đá đè nặng trên ngực.
- Thầy ! Sao lâu thế ? Con đợi mãi sốt ruột quá định chạy về xóm tìm thầy !
Miyamoto Musashi cười, ôm lấy nó vui vẻ bảo:
- Ngốc ơi là ngốc ! Làm vậy có khi lỡ cơ hội ta gặp lại con ! Rồi lại trách ta sai hẹn!
- Thầy có thấy đông đệ tử Yoshioka ở cổng không thầy ?
- Cũng khá !
- Họ không giữ thầy lại à ? Không có chuyện gì xảy ra phải không ?
- Không.
- Giờ thầy đi đâu ? Dinh tướng công Mitsuhiro ở phía này. Con chắc thầy muốn gặp cô Otsu lắm.
- Muốn gặp lắm chứ !
Jotaro nhảy cẫng.
- Khuya thế này, chắc cô Otsu phải ngạc nhiên và phục con hết sức.
Musashi nắm chặt tay Jotaro dẫn đi. Hơi ấm của sư phụ truyền sang, Jotaro cảm thấy an toàn hơn bao giờ hết.
- Jotaro ! Con có nhớ cái quán ăn ở đó ta gặp con lần đầu không ? Quán tên gì nhỉ?
- Nhớ, nhưng dinh tướng công này đẹp hơn quán ấy nhiều !
Miyamoto Musashi phì cười:
- Dĩ nhiên rồi !
Đến cổng dinh, Jotaro dừng lại:
- Cổng đóng rồi, nhưng nếu ta đi vòng về phía sau, còn cái cửa nhỏ cho gia nhân ra vào. Để con gọi cửa báo cho họ rõ. Nếu Mitsuhiro tướng công biết thầy đến, thế nào ông cũng ra đón. Cái ông sư Takuan ấy thật là ác. Con hỏi thầy ở đâu, ông không nói, chỉ bảo ở xóm Liễu, lại còn bảo tốt hơn hết là đừng đến tìm thầy ...
Jotaro vừa lí láu, vừa kéo sư phụ đi. Đến trước một cửa hẹp bên hàng rào cây xanh, nó ngừng lại chỉ tay lên khuôn cửa sổ còn sáng ánh đèn, bên trong một ngôi nhà gỗ nhỏ ở cuối vườn:
- Cô Otsu ở chỗ ấy đấy thầy. Chắc cô còn thức đợi con về.
Và không chờ Miyamoto Musashi đáp, nó chạy vội đến toan đập cửa.
Nhưng Miyamoto Musashi giữ tay nó lại:
- Khoan ! Ta không vào đâu. Ta chỉ muốn nhờ con một chuyện này thôi !
- Sao ? Thầy không vào ? Đã đến đây mà thầy không vào à ? Thế thầy đi với con làm gì ?
- Ta muốn đưa con về đến nhà, an toàn.
- Không ! Không ! Thầy không đi được !
Jotaro hét lên và nắm chặt lấy tay áo sư phụ.
- Jotaro ! Nói khe khẽ chứ. Đừng làm kinh động mọi người. Con hãy nghe ta.
- Con không nghe. Thầy hứa cùng về với con mà !
- Thì ta cùng về với con rồi !
- Đâu phải về để nhìn cái cánh cổng này thôi ! Con muốn thầy về gặp cô Otsu kia mà !
- Jotaro ! Con hãy bình tĩnh, để ta nói con nghe. Trong hai ngày nữa, có thể ta không còn ở trên trần thế này nữa.
- Con biết rồi ! Thầy vẫn thường nói đời kiếm sĩ bấp bênh, sống nay chết mai, không có gì chắc chắn.
- Đúng vậy ! Con đã biết như thế là tốt. Nhưng lần này không phải nói suông. Lần này, chín phần mười ta có thể chết. Vì vậy ta nghĩ chẳng nên gặp Otsu.
- Vô lý. Càng nên gặp chứ !
- Con còn nhỏ dại, ta giải thích cho con cũng bằng thừa. Lớn lên con sẽ hiểu.
- Thầy ! Thầy nói thầy sắp chết. Thật không ?
- Thật. Nhưng đừng nói chuyện ấy cho Otsu biết nghe con, nhất là trong khi nàng đang đau nặng. Hãy khuyên Otsu giữ gìn sức khỏe và tìm đường đi đến hạnh phúc. Đó là điều ta muốn nhắn con nói với nàng. Chớ nói ta sắp chết.
- Không ! Con nói hết ! Con sẽ nói hết. Làm sao mà con giấu được cô Otsu ?
Nước mắt Jotaro chảy quanh. Nó giật giật tay áo sư phụ:
- Thầy ơi ! Thầy đi với con đi !
Miyamoto Musashi đẩy Jotaro ra:
- Con vẫn không nghe lời ta !
- Nhưng con thương cô Otsu lắm. Nếu con nói thầy không muốn vào thăm, bệnh cô Otsu sẽ nặng thêm.
- Đó là điều ta nhờ con. Hãy khuyên giải nàng, hãy nói với Otsu chừng nào ta còn theo đường cung kiếm thì gặp nhau chỉ thêm khổ cả cho hai người mà thôi. Con đường ta chọn đòi hỏi một kỷ luật khắt khe, sự chế ngự những tình cảm yếu đuối, bắt ta sống một cuộc đời khắc khổ, chịu đựng thử thách. Nếu không, ta sẽ không bao giờ tìm thấy ánh chân quang.
Jotaro, con hãy nghĩ kỹ. Con cũng thế, nếu con muốn theo con đường ta theo, con cũng sẽ phải làm như ta, nếu không sẽ không bao giờ trở thành một kiếm sĩ xứng đáng với tên ấy.
Jotaro không nói gì, nhưng vẫn thút thít. Miyamoto Musashi quàng tay qua vai nó, kéo nó ôm chặt vào lòng:
- Kiếm đạo vô cùng, mà đời người thì hữu hạn. Nếu ta không còn trên dương thế này, con hãy tìm một sư phụ khác xứng đáng mà học hỏi. Ta không thể đến gặp Otsu được vì ta biết không gặp ta, nàng sẽ có hạnh phúc hơn. Và khi có hạnh phúc, nàng sẽ hiểu lòng ta bây giờ. Ánh sáng trên khung cửa kia, có phải ở phòng nàng không ? Chắc nàng cô đơn lắm. Thôi con hãy vào đi, đừng khóc nữa.
Jotaro bắt đầu hiểu lờ mờ nỗi đau lòng của sư phụ. Nó chùi nước mắt, ngửa mặt lên hỏi thầy, mong bấu víu vào chút hy vọng cuối cùng vừa lóe trong trí:
- Thế khi học xong, thầy sẽ đến với cô Otsu chứ ?
- Ờ, có lẽ, ngày ấy ...
- Bao giờ hả thầy ?
- Khó biết trước được con ạ.
- Hai năm nhé ?
Miyamoto Musashi không đáp.
- Ba năm ?
- Con đường khắc kỷ không biết đến đâu là cùng.
- Thế suốt đời thầy, thầy không bao giờ gặp cô Otsu sao ?
- Nếu tài của ta quả có thực, có lẽ một ngày nào đó, ta sẽ đạt tới mục đích. Nếu không, suốt đời, ta cũng vẫn chỉ là kẻ ngu ngốc như bây giờ mà thôi. Nhưng cũng có thể ta sẽ chết sớm. Một người mà tương lai như thế, làm sao có thể để đời mình ràng buộc với đời sống của một thiếu nữ trẻ đẹp và đầy hứa hẹn như Otsu ?
Miyamoto Musashi nói rất nhiều. Jotaro dường như nghe không kịp. Chẳng biết nó có hiểu hết không nhưng nó vẫn bướng bỉnh bám lấy ý nghĩ muốn dẫn sư phụ vào với Otsu.
- Thầy chẳng cần hứa gì cả. Chỉ vào thăm cô Otsu một lát thôi. Một lát thôi, cô ấy sẽ sung sướng lắm.
- Không giản dị như thế đâu con ! Otsu và ta đều còn trẻ. Nói ra thì thẹn, nhưng gặp nàng, ta biết không thể nào làm ngơ được trước những giọt nước mắt và những lời cầu khẩn của nàng. Ta sợ ta không giữ được lòng bình tĩnh.
Miyamoto Musashi bây giờ đã khác. Hắn không còn là một thanh niên mới lớn, tàn nhẫn và vị kỷ như khi ở trên cầu Hamada đã cự tuyệt Otsu. Hắn điềm đạm, vị tha hơn, và dịu dàng hơn. Dịu dàng hơn nhiều lắm. Có lẽ vẻ duyên dáng của Yoshino đã đánh thức ngọn lửa đam mê trong lòng hắn nên hắn phải cố tình quay đi trước những quyến rũ của nàng. Đối với Otsu, hắn không chắc vào lòng mình. Hắn không dám có ý tưởng gì để nàng hiểu đời nàng sẽ phải lệ thuộc vào đời hắn.
Jotaro nghe tiếng sư phụ nói nhỏ bên tai, trong khi nó gục mặt vào cột rào thút thít:
- Jotaro ! Bây giờ con đã hiểu ý ta chưa ?
Thằng bé lắc đầu không đáp. Đến khi nó chùi nước mắt quay ra thì không thấy ai nữa. Xung quanh Jotaro, sương đã xuống từ bao giờ, làm mờ đục cả những lùm cây lân cận.
Thất vọng, Jotaro sợ hãi chạy quanh, cuống quít gọi:
- Sư phụ ! Sư phụ ! ...

Acmagiro
01-04-2008, 09:05 AM
CHƯƠNG 45

GIĂNG BẪY









Trăng vừa ló khỏi ngọn cây, đồ chúng Yoshioka đã chia thành nhiều toán trèo lên đồi Sinh Minh, nhằm hướng cổ tùng tiến tới.
Họ đi yên lặng dưới trăng, chập chờn ẩn hiện. Bóng họ lúc đổ dài, lúc khuất lẩn vào những bụi cây mọc tràn ra cả sơn đạo, hình thù cổ quái.
Xa xa, cắt trên nền trời trong vắt, gốc tùng to lớn, tàng lá rậm rạp mọc chênh vênh bên bờ vực sâu. Bóng tùng che lấp ánh trăng khiến vực tối om, đã sâu lại càng thăm thẳm.
Trên tàng cây, sườn núi đá dốc gần như thẳng đứng. Chỗ đó chỉ có loài vượn ở; họa hoằn, vào những ngày hè nắng ráo mới thấy một hai gã tiều phu mạo hiểm trèo lên kiếm củi. Sơn đạo khúc khuỷu. Mưa, tuyết từ thượng nguồn đổ xuống hàng năm cày nát mặt đường, để lại nhiều vết ngoằn ngoèo sâu hoắm lẫn với những hòn quái thạch rải rác.
Đệ tử Yoshioka leo dốc một cách khó nhọc. Nhìn lên, về phía gốc cổ tùng đã có ánh lửa lập lòe, bóng nhiều người thu hình ngồi im lìm bên các tảng đá trông như những con cua đêm rình mồi trên bãi cát.
- Anh em đến có vậy thôi à ?
- Còn một số đi sau, cùng với Genzaemon lão tiền bối.
- Hơi ít. Ta dự trù khoảng trăm rưởi, nhưng đây chỉ được nửa số ấy thôi chứ mấy.
Người kia quay lại lẩm nhẩm tính:
- Quả vậy ! Không ngờ anh em đến ít thế !
- Hừ ! Kể cả số người đến trễ, có lẽ cũng chỉ được tám chục.
Một đệ tử nói:
- Người đời thường phù thịnh chứ ai phù suy ? Nhiều mà không dùng được thì thà ít mà có bản lĩnh và hết lòng với môn phái lại hơn.
- Huynh đệ nào vừa nói thật chí lý. Ta thấy anh em có mặt ở đây đều là những hảo thủ trung thành, vậy cứ chờ xem.
Tuy đã tự trấn an như vậy nhưng đa số vẫn không yên bụng. Nghĩ đến chiêu kiếm thần tốc của Miyamoto Musashi sau sân chùa Kim Các đã đưa Denshichiro và Yoichibei sang bên kia thế giới chỉ trong nháy mắt, họ còn thấy rùng mình sởn gai ốc. Ngồi sát lại bên đống lửa, một số thì thào bàn bạc:
- Tền này quá lợi hại, không thể khinh suất. Phải dùng mưu ...
- Dĩ nhiên rồi. Cho nên đệ nghĩ địa hình ở đây hiểm trở, ta phải đặt ổ phục kích và phải hành động ngay. Nếu không sợ trễ quá.
Người khác nói:
- Cái khó là không biết nó tới bằng đường nào mà phục kích. Chẳng rõ các vị huynh trưởng có cắt người đi do thám trước không ?
- Chờ được tin thì muộn. Lúc này ta cứ chia ba toán mà phục ở những chỗ hiểm địa ở cả ba ngả đường. Nó đến bằng ngả nào cũng chết.
- Như vậy e lực lượng mình bị phân tán, số người ở mỗi nơi không đủ sức cự lại.
- Không hề gì. Mình có ưu thế bất ngờ. Vả lại khi phát giác ra nó ở chỗ nào thì mọi người cùng đổ lại, ba mặt giáp công rồi cứ dùng cách xa luân chiến mà đánh, khoẻ mấy cũng phải nhược.
Nghe ra lời bàn hợp lý. Cả bọn im lặng không phản đối. Lại có người nói:
- Nghe đâu Ueda lão huynh cũng đã sắp đặt hai tay cung nỏ sẵn sàng và một tay dùng hỏa khí nữa.
- Vậy tốt quá. Hỏa khí ở đâu thế ?
- Hình như của một khách thương người Bồ Đào Nha tặng. Hiệu nghiệm vô cùng !
Mọi người cùng à một tiếng, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Nhưng có kẻ bất nhẫn cho rằng làm thế không quanh minh chính đại. Đã lấy số đông áp đảo và đánh lén lại còn dùng ám khí.
Tuy nhiên chẳng ai quan tâm. Họ chia thành ba toán, phân công rồi cứ tiến hành cuộc giăng bẫy.
Bỗng nghe tiếng lào xào. Một người kêu lớn:
- Anh em ! Nó tới !
Tình thế đột nhiên căng thẳng. Bóng người nháo nhác ẩn vào các bụi rậm ! Đống lửa bị đạp tắt ngúm. Chỉ một loáng, khoảng đất trống bên gốc tùng đã vắng hoe, bầu không khí yên lặng nặng trĩu đe dọa bao trùm khắp cây cỏ. Dưới ánh trăng rung rung, côn trùng cũng không lên tiếng và những cành thông ướt sương lấp lánh như những lưỡi kiếm thép.
Thời khắc trôi qua, không động tĩnh. Yên lặng nặng nề như thế chẳng biết bao lâu.
Mãi sau mới thấy hai xa phu lực lưỡng phăng phăng lên đồi, vai khiêng cái cáng lớn.
Họ đặt cáng ngay trên khoảng đất trống, vén rèm cho một ông già và một thiếu niên bước ra. Tưởng ai, hóa ra là Yoshioka Genzaemon và người trưởng nam, Yoshioka Genjiro, mười ba tuổi, mới nhậm chức chưởng môn của kiếm phái. Bọn đệ tử Yoshioka canh chừng dưới chân núi, trong lúc vội vã đã hoảng báo.
- Tình hình này mà còn khệnh khạng đi cáng !
- Tân chưởng môn còn ít tuổi, đi cáng chẳng có gì quá đáng. Huynh đệ khe khắt quá !
Bấy giờ, đồ chúng Yoshioka mới lục tục bước ra tham kiến. Ueda và một số anh em khác có trách nhiệm cũng vừa đến. Một ngọn đèn ***g được thắp lên nhưng ánh sáng bị che bớt, chao qua chao lại, mờ đục và yếu ớt dưới ánh trăng vằng vặc.
Vừa ra khỏi cáng, Genzaemon đã hỏi ngay, giọng đầy vẻ quan thiết:
- Anh em đến đủ cả rồi đấy chứ ?
Một người đáp:
- Dạ đủ cả.
- Vậy Ueda cho bố trí đi thì vừa.
Đoạn quay sang phía thiếu niên, ông nói:
- Genjiro ! Con ra đứng dưới gốc thông kia lược trận. Cuộc chiến này rất quan hệ cho phái Yoshioka ta mà con là chưởng môn. Con chưa biết võ công nên các vị đây sẽ vì con mà chiến đấu. Đừng sợ gì cả ...
Ông vỗ vai con trai, khuyến khích. Genjiro bậm môi khẽ gật, bước tới bên gốc cây. Tuy còn nhỏ nhưng dường như đã ý thức được tầm quan trọng của tình thế, chàng thiếu niên đứng thẳng, yên lặng, tay nắm chặt, dáng điệu nghiêm trang và cứng nhắc như một hình nộm bằng gỗ được trưng bày trong ngày lễ của các thiếu niên kiếm sĩ.
- Chúng ta đến hơi sớm, bây giờ mới đầu giờ dần.
Genzaemon vừa nói vừa rút trong bọc ra một ống điếu và nhồi thuốc. Genzaemon đã già, không biết võ công, có tật ưa hút thuốc, bấy giờ được coi là một thứ hàng xa xỉ và hiếm vì phải mua từ các tàu buôn ngoại quốc. Nhưng vì ông đứng vào hàng thúc bá của Seijuro và Denshichiro, vả tính ông hào sảng, rất quan tâm đến sự thịnh suy của môn phái nên ai ai cũng kính mến, coi ông như trưởng lão của cả phái. Hễ có chuyện gì quan trọng, trước đây, bao giờ Seijuro cũng hỏi ý kiến ông; huống chi bây giờ, Genjiro, trưởng nam của ông lại mới được công cử làm chưởng môn, nên ý kiến ông càng được trọng nể lắm.
- Lão phu nghĩ việc này nên hết sức cẩn thận. Bản phái chẳng may bị tên đó làm nhục, chỉ còn cháu - Genzaemon nhìn Ueda - là người cao tuổi nhất, xứng đáng làm niên trưởng để hướng dẫn công cuộc phục thù. Genjiro tuy là truyền nhân nhưng chẳng biết gì về võ công, mà lão phu thì hồ đồ, xin hãy vì bản phái mà hết lòng cho.
Ueda cảm động quỳ xuống đáp:
- Việc là việc chung, tại hạ đâu dám xao lãng. Sao lão trượng lại nói thế ?
Genzaemon đỡ Ueda dậy:
- Ấy cũng là vì việc chung nên lão phu mới đề nghị nên hỏi ý kiến tất cả anh em để họ cùng góp phần vào việc diệt thù. Cháu nghĩ sao ?
- Lão trượng nói rất phải.
Bèn tập hợp tất cả mọi người lại, trừ những kẻ có phận sự phải canh phòng, để bàn luận. Chủ trương mai phục ở các nơi hiểm yếu trên cả ba nả đường đổ lên đồi Sinh Minh được tán thành. Mọi người nhất quyết phải giết cho được Miyamoto Musashi bằng mọi giá và bằng mọi cách.
- Nếu tất cả anh em cùng đồng lòng như vậy thì còn gì hơn nữa. Chỉ xin thi hành cho bằng được. Lão hủ rất tiếc không trẻ lại vài chục tuổi để tiếp sức với anh em !
Ueda bèn đem trình hai cung thủ và người sử dụng hỏa khí:
- Tại hạ cũng đã có kế hoạch. Vạn bất đắc dĩ, nếu nó quá mạnh, những huynh đệ này cũng dùng được việc.
Mọi người phấn khởi, nhất nhất tuân theo sự xếp đặt của Ueda:
Một toán xuống mai phục ở ven bờ vực, một toán ẩn trong khu rừng bách gần ngã ba đường đi Quan Lĩnh và một toán bố trí ngay tại chỗ, lo bảo vệ hai cha con Genjiro. Cung thủ án chỗ cao nhất trên đồi và người anh em sử dụng hỏa khí trèo lên cành thông ngồi đợi, nạp đạn sẵn và mồi lửa để bên, nếu thấy địch chạy là bắn.
Phân công bố trí xong, mọi người tản đi không tiếng động, êm như loài thủy cầm lẩn vào đám sậy.
oo Đứng lâu nghe chừng khó chịu, Genjiro vặn mình, nhăn mặt. Chân nó đã hơi tê, sương thấm qua lần dép cỏ lạnh buốt.
- Ngứa quá !
- Genjiro ! Gì thế ?
Yoshioka Genzaemon hỏi con.
- Lá thông rơi vào cổ áo khó chịu lắm. Mà con buồn ngủ quá !
- Phải ráng. Can đảm lên, chút nữa có chuyện gì xảy ra, hãy coi cho kỹ. Bây giờ là chưởng môn kiếm phái Yoshioka rồi, không được có những cử chỉ hèn yếu.
Tiếng cú rúc từ xa vẳng tới. Một con chim đêm bay ngang qua, cánh đập phành phạch và bóng đổi dài trên nền cỏ ướt.
- Thân phụ ! Con sợ !
- Sợ cái gì ? Không được tỏ ra khiếp nhược !
Thình lình, tiếng quát ở phía lưng chừng đồi làm Genjiro giật bắn người. Nó chạy lại ôm chầm lấy cha. Genzaemon gỡ tay Genjiro ra, trừng mắt nhìn. Một giọng nói nửa giận dữ nửa chế nhạo vọng lên:
- Ta là Sasaki Kojiro. Mắt ngươi mù hay sao mà không thấy ?
- Không biết ! Đứng lại ! Quân này đến do thám chăng ?
Tiếng cười ha hả:
- Nếu quả ta do thám thì lưỡi gươm này đưa ngươi về chín suối từ lâu rồi !
Thấy Kojiro, Ueda vội chạy ra đón. Nhìn chàng thanh niên mặt đầy nộ khí, ông quát đồ đệ:
- Anh em ai về chỗ nấy, không được vô lễ !
Đoạn quay sang phía thanh niên:
- Thiếu hiệp đại xá cho. Vi bản phái phải bố trí tự vệ nên mới có chuyện này.
Không ngờ thiếu hiệp cũng lại có mặt, lão phu rất lấy làm cảm kích !
Thấy thái độ hòa nhã của Ueda, Kojiro nguôi giận, tra kiếm vào vỏ, khiêm nhượng.
- Kính chào lão tiền bối, vãn sinh chỉ vì trách nhiệm mà đến chứ không có ý gì khác.
- Đa tạ thiếu hiệp.
- Đêm trước, vì đã đứng ra làm trung gian dàn xếp cuộc tranh chấp này nên vãn sinh phải lo tròn bổn phận. Mới đây, nhờ may mắn biết được một số chi tiết về Miyamoto Musashi, vãn sinh muôn thông báo để quý phái rõ.
Ueda ngạc nhiên, nhưng thấy thanh niên này có ý thiên về phía mình nên hoan hỉ mời Kojiro đến gần gốc tùng đàm đạo.
Xong phần giới thiệu và nghi lễ, đôi bên đề cập ngay vào việc chính. Kojiro nói:
- Vãn sinh dự định sẽ thành lập một kiếm phái sau này nên phải học hỏi và theo dõi những trận thư hùng của các hảo thủ võ lâm. Miyamoto Musashi tuy là tên quê mùa nhưng mới đây đã lập nhiều thành tích đáng kể ...
Ueda không hiểu Kojiro có ý gì, đang phân vân thì gã tiếp:
- Vãn sinh ngạc nhiên lắm, để tâm dò xét thì được biết một vài điều rất hữu ích.
Tên này sinh trưởng ở Miyamôt, con một kiếm sĩ quê mùa vùng Mimasaka. Lúc lớn, cùng với bạn đầu quân, tham dự trận Sekigahara. Thua trận, trở về làng, hắn làm nhiều điều phi pháp càn rỡ bị dân làng khinh ghét đuổi đi. Là một tên vô lại, nhưng Miyamoto Musashi có sức khoẻ hơn người, có đôi chút võ nghệ và khi chiến đấu thì cực kỳ dũng mãnh liều lĩnh. Hắn không có sư phụ nên kiếm pháp chẳng ra đường lối gì. Phương pháp chính thống của quý phái không làm Miyamoto Musashi e dè đâu, chẳng khác gì đem lời nói ra mà lý luận với kẻ điếc. Cho nên, theo thiển ý, nếu không dùng bẫy bắt hắn như bắt một con thú dữ thì quý phái nhất định thất bại. Nói thế để quý phái liệu mà hành động !
Ueda gật đầu:
- Đa tạ thiếu hiệp. Ngu lão cũng đã nghĩ đến điều đó.
Rồi đem kế hoạch dự định, chỗ mai phục cùng việc dùng cung nỏ và hỏa khí sẵn sàng truy kích Miyamoto Musashi ra sao kể cho Kojiro nghe hết.
Kojiro mỉm cười, nói lửng lơ:
- Cũng được ! Xem ra tên đó rơi vào ổ phục kích của quý phái thì cũng khó lòng thoát. Nhưng vẫn còn có chỗ sơ hở.
Khó chịu vì thái độ hợm hĩnh của gã thanh niên, Ueda hỏi:
- Sơ hở chỗ nào ?
- Các vị tính kế để bắt Miyamoto Musashi, được lắm ! Nếu hắn cứ thẳng thắn, đơn độc trèo lên núi, tất sẽ chết trong tay quý vị. Nhưng nếu hắn không đến thì sao ? Cả kế hoạch của quý vị sẽ phải vất bỏ vì vô dụng.
- Phải chăng thiếu hiệp muốn nói tên đó chạy trốn. Nếu thế chúng ta sẽ yết bảng khắp nơi nêu sự hèn nhát ấy ra để hạ nhục hắn. giang hồ sẽ chê cười hắn.
- Có thể các vị sẽ làm thế, nhưng chẳng ai cấm Miyamoto Musashi đi rêu rao khắp nơi là Yoshioka đã giăng bẫy lừa hắn nên hắn không muốn làm nạn nhân của một âm mưu bất chính. Danh dự quý phái có vãn hồi được đâu mà công của các vị là công cốc.
Hơn nữa, Miyamoto Musashi vẫn sống, sẽ trả thù các vị, mối lo là ở đó !
Genzaemon nghe ra, nhìn Ueda như ngầm hỏi cách xử trí. Vị trưởng lão lặng thinh. Tuổi già làm óc ông đặc lại, không còn sáng kiến gì nữa.
Lát sau, gã thanh niên lại nói:
- Vãn sinh có một kế nhỏ.
Không ngăn nổi vui mừng, cả hai người kia cùng đồng thanh:
- Xin thiếu hiệp cho nghe.
Kojiro bèn ghé miệng vào tai Ueda nói thầm mấy câu, xong quay ra cao giọng với một vẻ tự tin đặc biệt:
- Thế nào ? Tiến bối thấy làm như vậy có ổn chăng ?
Nét mặt rạng rỡ, Ueda gất đầu lia lịa, mỉm cười thỏa mãn:
- Thiếu hiệp giúp cho như thế thì còn gì bằng nữa !
Rồi xích lại gần Genzaemon, ghé tai nói nhỏ cho ông nghe cái mưu kế của Sasaki Kojiro.
oo Hôm sau, trời gần sáng, Miyamoto Musashi tới ngôi quán nhỏ bán rượu ở phía bắc trấn Kitano, nơi trước đây hắn gặp Jotaro và thu nhận Jotaro làm đồ đệ. Quán tiêu điều hơn và chủ quán cũng già hơn trước nhưng vẫn còn nhớ hắn, niềm nở mời vào, hàn huyên như vừa gặp một người thân lâu ngày không tin tức.
Ăn xong bữa cơm và ngủ một giấc dài, Miyamoto Musashi ra đi đến xế trưa mới trở lại, mang về một tấm bố nhờ chủ quán thuê may cho một chiếc áo chẽn nhiều túi, một cái khố. Vải thừa thì làm một dây lưng dài thật chắc. Hắn cũng không quên mua tặng chủ quán một bịch khoai. Chủ quán đưa vải ra tiệm may, bảo may gấp, khi trở về lại mua một bình rượu sa-kê rồi vào bếp lúi húi gọt khoai nấu món canh khoai hầm thịt.
Buổi chiều vắng khách, cả hai bày món ăn ra bàn, chén chú chén anh, nói chuyện mãi đến đêm mới đi nghỉ.
Gà gáy sang canh, nghe tiếng nước dội ngoài giếng, chủ quán tỉnh giấc. Trông ra, Miyamoto Musashi đang đứng dưới trăng tắm nước lạnh. Tắm xong, hắn mặc quần áo mới.
Chủ quán cũng ra, thắt hộ dây lưng và sửa soạn hành trang giúp.
- Hôm qua, đại hiệp nói chẳng ở đây lâu. Không ngờ đi sớm thế ?
Chủ quán tuổi đã cao, lại không có gia đình, thấy Miyamoto Musashi sống đơn độc cũng như mình thì đem lòng lân ái. Ông săn sóc chàng thanh niên, coi như người nhà, hỏi thăm cả về Jotaro và đoán thằng bé chắc bây giờ lớn lắm. Musashi hứa khi trở lại Kyoto sẽ tới trọ nhà ông và dẫn Jotaro đến.
Miyamoto Musashi ra đi, chủ quán tiễn chân đến tận cửa ngoài, lòng bùi ngùi nhìn theo như vừa tiễn chân một người thân chẳng hy vọng gì tái ngộ.
Trăng lung linh trên nền trời trong vắt. Miyamoto Musashi cảm thấy lòng lâng lâng, mỗi bước một nhẹ nhàng, đầy hứng khởi.
Gió đêm mơn man trên mặt. Chút rượu sa-kê uống vừa phải, giấc ngủ ngắn mà ngon, nước giếng lạnh chà xát cơ thể khiến huyết mạch chạy điều hò a, bộ quần áo mới mặc ấm áp dễ chịu, Miyamoto Musashi không có cảm tưởng mình là người sắp chết. Hồi tưởng hôm nào trên đỉnh Đại Bàng sơn, hắn cũng có cảm giác như thế này. Co khác là bấy giờ cành cây nặng trĩu băng giá mà bây giờ thì nụ đã bắt đầu nở hoa.
Sau khi rời khỏi dinh tướng công Mitsuhiro, Miyamoto Musashi đến đền Kuruma ngồi nhập định dưới gốc thông, hy vọng tìm thấy, trong sự yên tĩnh suy tư, trạng thái chân phúc của tâm hồn. Hắn cố gắng xua đuổi những tư tưởng bi quan về cái chết, nhưng đầu óc lộn xộn không sao thoát khỏi những ý niệm hắc ám.
Bây giờ tắm nước lạnh xong, đột nhiên thấy dễ chịu hơn, hắn tiếc đã phí thì giờ vô ích.
Tiếng kèn thờ não nuột từ một nhà có đám tang ở đâu vọng đến. Trong đêm tịch mịch, điệu nhạc bi ai gợi lên trong tiềm thức Miyamoto Musashi cái cảnh một gia đình buồn thảm ngồi canh thức xung quanh cỗ quan tài bằng gỗ mộc. Cảnh này ở đâu ? Hắn cố nhớ mà không sao nhớ được.
Thấp thoáng sau hàng cây là sông Kamo và đằng xa, nơi chân trời, giải Thiên Sơn ba mươi sáu ngọn đầy bí ẩn ngạo nghễ nhìn hắn. Nước sông trắng xoa như bạc, Miyamoto Musashi men theo dòng sông, qua cầu gỗ. Chủ quán đã nói với hắn muốn đi Quan Lĩnh, từ phía bắc Kyoto phải qua cầu này vì đây là đường gần nhất.
Sang bên kia sông, vừa được mấy bước, nghe tiếng gọi, Miyamoto Musashi đứng khựng, nhưng không định hướng được tiếng ấy từ đâu đến. Thêm vài bước lại nghe tiếng gọi. Miyamoto Musashi dừng lại lần nữa, chú mục nhìn kỹ xung quanh. Từ xa, một dáng người cao lớn rảo bước đi tới, tay vẫy lia lịa. Hắn không đoán được là ai mặc dầu cái dáng cao lớn ấy rất quen thuộc, hình như hắn đã gặp vài lần.
Đến gần thì ra ...Kojiro. Miyamoto Musashi đề phòng. Hắn không tin chàng thanh niên này, nhưng vì y làm trung gian giữa hắn và phái Yoshioka, nên không lộ ra mặt. Kojiro lên tiếng:
- Nhân huynh vẫn được an khang đấy chứ ?
Vồn vã nhưng kiểu cách và thân mật quá đáng. Đáp lại, Miyamoto Musashi chỉ giữ thái độ nghiêm cẩn, trả lời đủ lễ.
Đưa mắt về phía cầu sông Kamo và nhìn xung quanh không thấy ai, Kojiro lại hỏi:
- Nhân huynh đi một mình ?
- Dĩ nhiên tại hạ đi một mình.
- Chắc huynh đài miễn chấp cho đệ việc làm đêm hôm trước. Đa tạ huynh đài đã nhận lời.
- Tại hạ phải cảm ơn các hạ mới phải chứ. Sự can thiệp của các hạ đã tránh cho đôi bên một cuộc xô xát đẫm máu xảy ra ở một nơi chẳng mang vinh dự gì cho võ lâm.
Thế là may lắm.
Miyamoto Musashi cũng đáp lại bằng những lời lẽ khiêm tốn.
- Nhân huynh đến nơi hẹn ?
- Đúng thế !
- Đến một mình ?
- Dĩ nhiên. Đây là chuyện riêng của tại hạ.
- Hừ ...Musashi huynh ! Nhân huynh tha lỗi, nhân huynh có hiểu lầm hay quên những lời giao ước đệ đã nói với nhân huynh đêm hôm ấy chăng ?
- Ờ ...ờ ...không ! Tại hạ không quên điều gì cả ...
- Đây không phải là một cuộc tỷ kiếm tay đôi, giữa hai kiếm sĩ với nhau như trường hợp Seijuro và Denshichiro ...
- Tại hạ biết.
- Yoshioka Genjiro tuy là chưởng môn nhưng chỉ là một thiếu niên không hiểu võ công gì. Vậy nhân huynh không phải chỉ đương đầu với y mà phải đương đầu với những đệ tử bảo vệ y, có thể là mười, hai mươi hay hàng trăm người và toàn là những hảo thủ cả. Qúy huynh biết thế không ?
- Biết chứ ! Tại sao các hạ hỏi điều đó ?
- Họ đang mai phục ở ba ngả đường đi Quan Lĩnh, gần gốc cổ tùng chờ nhân huynh ...
- Sao các hạ biết ? Các hạ vừa ở đó đến chăng ?
Kojiro ngượng, nói lảng:
- À ...Không ...Đệ đoán vậy và cũng đoán nhân huynh đi đường này nên chờ để lưu ý nhân huynh đấy thôi. Đệ thấy có bổn phận phải làm thế vì là người trung gian dàn xếp ...
- Cảm ơn các hạ.
- Thật nhân huynh chỉ đi có một mình hay còn người nào nữa sẽ nhập bọn ?
- Thực ra tại hạ còn một kẻ đồng hành ...
- Ồ ! Ai vậy ? Ở đâu ?
- Ở ngay đây thôi !
Trước sự ngạc nhiên của Kojiro, Miyamoto Musashi chỉ bóng mình trải dài dưới ánh trăng và cười ha hả.
Kojiro có vẻ thẹn và giận:
- Có gì đáng cười ? Hình như huynh đài không coi lời cảnh cáo của đệ vào đâu cả.
Nhưng Miyamoto Musashi nghiêm mặt:
- Các hạ cho rằng tại hạ đùa chăng ? Khi Bồ tát Mạn Đà La nói rằng kẻ nào tin có đức Toàn Năng đi bên mình thì kẻ đó có sức mạnh bằng hai người, các hạ cũng cho rằng ngài nói đùa chăng ?
Kojiro không đáp. Miyamoto Musashi lại tiếp:
- Nhìn bên ngoài, có vẻ như Yoshioka phái sẽ áp đảo được tại hạ. Họ đông người, tại hạ chỉ có một. Nhưng xin các hạ đừng lo lắng gì cho tại hạ. Nếu biết họ dàn ra mười người, tại hạ cũng đem theo mười bằng hữu để đối địch; họ dàn ra trăm người, tại hạ cũng mang theo trăm người, thì cuộc chiến sẽ rối loạn lắm ! Bao nhiêu người sẽ chết hoặc bị thương và vấn đề cũng chỉ giải quyết được thế thôi, nghĩa là giữa cá nhân tại hạ và Yoshioka phái, một còn một mất, vậy có ích gì ?
- Nhân huynh nói cũng phải, nhưng khi chiến đấu mà đã biết trước thất bại thì e rằng ...e rằng ...
- Không hợp với binh sách chứ gì ? Xin đa tạ ! Tại hạ đã có chủ ý.
- Nếu nhân huynh đã nhất định như thế thì thôi. Chỉ xin lưu tâm tìm cách gì ít nhất bảo toàn được sinh mang !
- Sinh mạng con người là quý, tại hạ cũng tin như vậy. Nhưng các hạ hãy nhìn kìa:
con sông Kamo này có thể là con sông đưa đến cửu tuyền, con đường tại hạ sắp đi để tới ngã ba Quan Lĩnh có thể là con đường đầy gai góc đưa tới địa ngục, nhưng đối với tại hạ, nó là con đường độc nhất dẫn đến một đời sống trọn vẹn.
Lui một bước, Kojiro trừng trừng nhìn Miyamoto Musashi:
- Nghe huynh đài nói, không biết huynh đài còn đủ lý trí không !
- Các hạ muốn nghĩ gì thì nghĩ. Có những người sống cũng như chết và có những người chết rồi mà còn sống !
Rồi không để Kojiro nói thêm, Miyamoto Musashi tiếp ngay:
- Đường trước mặt đi đến đâu thế, các hạ ?
- Qua làng Hananoki đến ngã ba Quan Lĩnh, dưới gốc cổ tùng, chỗ huynh đài sẽ trở thành người ...thiên cổ.
Dường như không lý gì đến ẩn ý của người trước mặt, Miyamoto Musashi vẫn hỏi tiếp:
- Xa không ?
- Chừng năm dặm nữa. Còn đủ thì giờ !
- Đa tạ. Bây giờ xin cáo biệt. Sẽ tái ngộ các hạ Ở một nơi khác.
Nói xong, quay ngoắt sang một đường mòn gần đấy, thấp hơn. Kojiro gọi với:
- Miyamoto Musashi ! Không phải ! Đường này mới đi Quan Lĩnh !
Nhưng Miyamoto Musashi không đáp, Kojiro chạy theo:
- Lầm đường rồi, quay lại đi !
Bỗng gã dừng lại vì thấy Miyamoto Musashi ở xa xa, quay lưng lại mặt ngẩng nhìn trời. Kojiro bật cười vì sự hiểu lầm của mình:
Miyamoto Musashi đang đi tiểu.
Gã rảo bước trở về đường cũ, ngồi trên phiến đá đợi. Trông lên vầng nguyệt sáng, gã mỉm cười tưởng tượng đến sự thích thú sắp được chứng kiến một cuộc tranh hùng đẫm máu. Nếu gã không nhanh trí báo cho Miyamoto Musashi biết trước ổ phục kích thì hắn chết mau quá, còn gì là thú vị ?
Chờ mãi không thấy Miyamoto Musashi lên, Kojiro đứng dậy theo đường mòn nhìn xuống. Không có Miyamoto Musashi. Hắn đã biết đâu mất. Chỉ còn những bụi cây lá nghiêng ngả trước gió đêm và xa xa vẳng lại tiếng cút kít của một cái cối xay lúa chạy bằng guồng nước.

Acmagiro
01-04-2008, 09:06 AM
CHƯƠNG 46

DƯỚI TRĂNG HỘI NGỘ







Đợi một lúc lâu, sau khi thấy Kojiro đã đi khuất, Miyamoto Musashi mời từ trong chỗ nấp chui ra. Hắn rất vừa ý vì đã tìm cách tránh được Kojiro, một người theo ý hắn vừa giảo quyệt vừa tàn bạo. Miyamoto Musashi có cảm tưởng gã thanh niên này chỉ lợi dụng sự tranh chấp giữa hắn với phái Yoshioka để mưu lợi riêng, chứ không chủ ý thực tâm dàn xếp. Con người giả nhân giả nghĩa ấy không hợp với tình tình ngay thẳng của hắn.
Có lẽ Kojiro tưởng hắn phải quỳ gối xin giúp đỡ khi biết tin toàn phái Yoshioka hợp lực đánh hắn. Hoặc hắn sẽ phải trốn chạy không dám đến. Nếu quả thế thì Kojiro lầm lắm.
Mạng sống rất quý, mất đi không lấy lại được. Takuan đã nói với hắn nhiều lần, nhưng sống hèn nhát vô ích, thì có khác gì chết. Kiếp người hai mươi năm hay bảy mươi năm chẳng quan hệ, vì nó có nghĩa gì đâu trong cái vô tận của thời gian ? Điều quan hệ chính là lưu lại một chút gì trong lòng người và trong lịch sử dân tộc.
Miyamoto Musashi nghĩ thế và đã chọn kiếm đạo. Hắn muốn sống như một kiếm sĩ và sẽ chết như một kiếm sĩ. Con đường tuy cam go nhưng thích thú vô cùng, cho nên không có vấn đề bỏ trốn hay cầu xin giúp đỡ. Hắn đến chỗ hạn với lòng ngay thẳng, vô úy của một kẻ cầm kiếm vững tin ở sức mình.
Điều quan tâm hiện tại của Miyamoto Musashi là làm sao giảm bớt được nguy cơ bị tấn công ở nhiều mặt. Nhớ lại những điều đã học trong binh pháp, khi một nhóm nhỏ phải đương đầu với một lực lượng mạnh và đông gấp bội, yếu tố bất ngờ là yếu tố sinh tử.
Phải đánh nhanh và mạnh vào chỗ nhược của địch rồi rút lui tức khắc trong lúc địch hoảng hốt và hàng ngũ còn rối loạn.
Như viên đại tướng duyệt lại địch tình trước khi lâm trận, hắn dàn ra trong óc tất cả những điều đã thu thập được trong ngày hôm trước, sau khi đi thăm địa hình các nơi lân cận.
Có ba sơn lộ dẫn đến đồi Sinh Minh. Cả ba lộ dạig tương tự nhau và đều tụ lại dưới gốc cổ tùng trên đường đi Quan Lĩnh. Sơn lộ dễ đi nhất là sơn lộ Kojiro vừa tới.
Nhưng ngoài những sơn lộ ấy lại còn một đường mòn nữa, hiểm trở hơn, đi vòng lên phía đỉnh núi. Đường này không dẫn tới gốc cổ tùng, theo lời chủ quán nói, mà mất hút ở sườn núi đá ngay trên ngọn cây. Đường bỏ hoang đã lâu ngày, nhiều đoạn đá lở ngổn ngang, có chỗ phải bám vào dây leo đánh đu như vượn mới qua được.
Trong cuộc tranh thắng sắp tới, nếu muốn đoạt yếu tố bất ngờ, hiển nhiên phải dùng đường ấy. Không chần chừ, Miyamoto Musashi rẽ ngay sang hướng núi đá, nhanh như một con sóc.
Qua đồi Kagura, hắn vòng sau một ngôi cổ mộ, rồi theo hướng bắc đi thẳng mãi.
Xuyên qua khu rừng trúc xum xuê che kín cả ánh trăng, bên một làng nhỏ sơn cước, Miyamoto Musashi đến chân núi đá. Bên kia sườn núi là hướng đi Quan Lĩnh. Theo lời chủ quán, vào những hôm trời quang, nếu đứng ở trên cao, có thể nhìn thấy cây cổ tùng cành xòe ra như cái tán.
Miyamoto Musashi ngồi nghỉ một lúc, đưa mắt định hướng rồi bắt đầu lên núi. Qua hàng phong thưa, mặt nước một cái hồ nhỏ dưới chân phản chiếu ánh trăng lóng lánh như gương. Càng lên cao, mặt hồ càng bị che lấp rồi khuất hẳn sau những tàn cây. Dòng sông Kamo hiện ra, trắng như bạc, uốn éo tự giải lụa chạy dài đến tận chân trời và mờ dần trong làn sương trắng đục.
Miyamoto Musashi có cảm tưởng đang nắm cả địa hình vùng phụ cận cổ thành Kyoto trong lòng bàn tay. Nếu trăng cứ sáng như thế này, khi sang bên kia sườn núi, hắn hy vọng có thể bao quát được hết địa thế và chú ý một chút, biết được những chỗ nào đối phương mai phục. Tỷ như tướng Oda trong trận đánh danh tiếng Okehazama, Miyamoto Musashi đã chọn con đường hiểm trở đến tấn công thay vì con đường dễ đi rộng rãi.
Tiếng chân đạp lá khô và ánh lửa đuốc thấp thoáng khiến Miyamoto Musashi đề phòng, nhảy đến thu hình sau một gốc phong. Một người đứng tuổi, ăn mặc ra lối gia nhân nhà quý tộc chậm chạp vạch cây đi tới, tay trái cầm bó đuốc đã lụi, tay kia:
một con dao phát. Mắt gã đảo nhìn tứ phía, mặt nhem nhuốc khói đuốc thông, quần áo ướt nhẹp.
- Đi đâu ?
Tiếng quát của Miyamoto Musashi làm gã gia nhân giật nẩy mình, suýt đánh rơi cả đuốc. Thấy một thanh niên cao lớn hiện ra, lão kêu khẽ nửa vui mừng, nửa kinh ngạc:
- Miya ...Miyamoto Musashi ? Tráng sĩ có phải là Miyamoto Musashi ở Miyamoto không ?
Miyamoto Musashi trừng trừng nhìn lão, nghi ngờ. Ánh đuốc rọi vào làm mắt hắn đỏ như hổ phách. Nhìn ánh mắt dữ tợn ấy, gã gia nhân kinh hãi quỳ mọp xuống.
- Ngươi là ai ?
- Dạ ...dạ ...tiểu ...tiểu ...tiểu nhân ...
- Đừng lắp bắp. Ngươi là ai, nói mau !
- Tiể ...tiểu nhân phục vụ trong dinh tướng công Mitsuhiro.
- Vậy được ! Chớ sợ ! Ta chính là Miyamoto Musashi ở Miyamoto. Đêm khuya, ngươi lên núi làm gì ?
- Vậy ...vậy tráng sĩ đúng là Miyamoto Musashi !
Nói xong, vứt cả đuốc và dao, ù té chạy ngược trở lại đường cũ xuống núi, trước sự ngạc nhiên của Miyamoto Musashi.
Tiếng chân đạp lá khô và cành gẫy xa dần. Lát sau nghe tiếng gọi:
- Kura ! Ngươi ở đâu đó ?
- Ở đây, dưới này ! Sao ông lại trở lại ?
Không phải tiếng Kura, một gia nhân khác của Mitsuhiro, mà là tiếng thằng Jotaro.
- Jotaro đấy hả ?
- Vâng !
- Lên ngay đây, mau lên !
- Dốc lắm ! Mà nhiều gai, không đi được !
- Nhanh lên ! Ta đã tìm được Miyamoto Musashi. Không tới mau, hắn đi mất.
Jotaro dìu Otsu trên đường núi dốc ở phía dưới, thấp hơn đến hai ba trượng. Phải một thời gian sau, hai người mới khó nhọc leo lên được ngang tầm đứng của lão gia nhân. Nàng thở hổn hển, gương mặt trắng bệch như sáp. Jotaro đốt ngọn đuốc mới, sắc diện nàng hồng thêm đôi chút. Otsu ôm ngực nói:
- Ông có chắc đã gặp Miyamoto Musashi không ?
- Chắc. Chính Miyamoto Musashi xác nhận mà, lầm thế nào được ! Nếu cô nương không đi nhanh, hắn rẽ sang đường khác mất thì uổng công !
- Phía nào ? Jotaro hỏi.
- Trên núi, cách chỗ này không xa lắm. - Lão gia nhân vừa nói vừa cầm đuốc chỉ - Còn Kura đâu ?
- Ông ấy đi hướng khác. Hay trở về rồi cũng nên.
Dáng điệu bị khích động rõ rệt, Otsu lẩy bẩy vịn vào vai Jotaro, giục:
- Mau lên em !
Mấy bữa nay, bệnh của nàng không thuyên giảm. Lúc nào Otsu cũng hâm hấp sốt và không ăn uống gì. Nhưng khi nghe tin Miyamoto Musashi sắp giao đấu với Yoshioka, nàng không chịu nằm yên, nhất định đòi đi gặp người yêu. Otsu bắt Jotaro dẫn lên ngỏ lời cảm tạ và từ biệt Mitsuhiro tướng công rồi lui về phòng sửa soạn hành trang. Mitsuhiro ngăn thế nào cũng không được, đành phải phái gia nhân đi các ngả tìm Miyamoto Musashi và hộ tống nàng.
Cả đêm, Otsu không ngủ. Mới canh ba nàng đã sẵn sàng:
tóc bới cao, áo chẽn, dép cỏ, kèm theo một chút lương khô và nước uống. Nàng đánh thức Jotaro dậy, rồi cả hai cùng khập khiễng dìu nhau trên sơn đạo đi Quan Lĩnh.
Đêm khuya, trời cao trong vắt và buốt lạnh làm run rẩy đôi vai gầy người thiếu nữ cô độc. Sức mạnh nào đã giúp Otsu qua được những khó khăn trên sơn đạo ? Trong cái cơ thể nhỏ bé, đau yếu ấy, không ngờ mối tình u uẩn nhưng mãnh liệt đã trở thành sức mạnh giúp nàng không quỵ ngã ở dọc đường.
Đầu giờ dần, Otsu và Jotaro tới được chân núi.
- Cô nhắm chừng leo được không ?
Jotaro lo lắng hỏi.
Otsu không đáp, chỉ gật. Mắt nàng sáng lên vì hy vọng, nhưng môi nàng khô và mồ hôi rỏ giọt trên da mặt tái ngắt. Người gia nhân già bảo:
- Qua khỏi chỗ này thì đường bằng phẳng dễ đi hơn. Cô nương hãy ngồi nghỉ một lát đã.
Nàng lắc đầu, chống gậy cả quyết bước tới. Jotaro bắc tay lên miệng làm loa, gọi lớn:
- Sư phụ ! Con đây ! Thầy đợi con !
Tiếng Jotaro non yếu nhưng cũng vang động cả khu rừng vắng làm phấn khởi lòng người thiếu nữ. Trèo được một quãng, Jotaro thấy tay Otsu vịn trên vai nó càng lúc càng nặng. Quay lại nhìn, Otsu xem chừng không kham nổi nữa. Dưới ánh trăng, da mặt nàng nhợt nhạt. Nàng thở hổn hển:
- Gi ...Jotaro ...
Cây gậy rời khỏi tay, Otsu ngã chúi xuống vệ đường, mặt úp sấp. Đến khi Jotaro đỡ được Otsu dậy, một dòng máu từ khóe miệng nàng chảy ra, đen sẫm trên khuôn mặt trắng bệch. Thằng bé lo sợ cuống quít:
- Cô Otsu ! Cô làm sao thế ?
Nó lấy tay quệt máu:
- Cô thổ máu rồi đây này ! Trời ơi ! Em đã bảo cô đừng đi mà ! ...
- Jotaro ...Jotaro ...để cô nằm ...
Nói xong, mắt nhắm nghiền. Jotaro cuống cuồng, lấy tay đập vào lưng Otsu.
- Cô Otsu ! Tỉnh dậy đi ! Tỉnh dậy đi !
Otsu lờ đờ mở mắt. Trên đôi môi tái nhợt, phác một nụ cười héo hắt. Jotaro cúi xuống gần mặt nàng:
- Cô muốn gì không ?
Otsu không nói, mắt mở trừng trừng, nụ cười như đóng băng lại trên môi. Trong cơn hôn mê, nàng tưởng trông thấy một cảnh gì tươi đẹp lắm ở xa tít, bên kia một con sông sương khói phủ mờ mờ. Đột nhiên cảnh sông biến mất, Otsu giật mình vẳng nghe tiếng Jotaro hỏi:
- Cô uống nước nhé ?
Otsu khẽ chớp mắt. Jotaro gỡ ống tre đeo bên sườn ra, nhưng thật không may, trông ống không còn một giọt nước. Nó để túi hành trang trên cỏ, đặt đầu Otsu lên, rồi bảo:
- Cô nằm tạm đây, em đi kiếm nước.
Jotaro lắng tai nghe. Hình như có tiếng suối róc rách. Nó xách ông đi về phía ấy, quả nhiên chẳng bao lâu thấy một dòng suối nhỏ lẩn trong các bụi cây cành lá rậm rạp.
Dòng nước trong veo đổ lên những viên sỏi tròn, trắng phau, đến một chỗ phẳng chảy tràn ra thành vũng. Mặt nước long lanh in màu nền trời xanh bạc, trong và sáng vô cùng, đẹp hơn cả nền trời chính thức ở trên kia.
Jotaro để ống tre sang bên. Trước khi múc nước, nó thèm uống một vài ngụm, bèn quỳ gối trên cỏ, chống hai tay, vươn cổ dài ra.
Mặt nước xao động. Bóng những thân cây rung rinh vỡ thành những vệt ngang trên tấm gương sáng. Bên cạnh những thân cây ấy, một hình ảnh khiến Jotaro trông thấy, giật mình tưởng đó là ảo ảnh.
Vì bóng người đứng bên gốc cây chính là Miyamoto Musashi, sư phụ nó. Jotaro dụi mắt ngẩng nhìn sang bên kia vũng nước. Quả nhiên thầy nó đứng đấy, nửa thân trên bị bóng cây che khuất, nhưng cái dáng hiên ngang cao lớn, đôi giày cỏ thầy nó đi, sợi dây da buộc bên ngoài xà cạp màu chàm, Jotaro không thể nào lầm được. Jotaro hét lên một tiếng mừng rỡ:
- Thầy !
Nước bắn tung tóe ra xung quanh. Chỉ ba bước, Jotaro đã nhảy sang bờ bên kia, rơi vào vòng tay mở rộng của sư phụ.
- Thầy ! Thầy đến bao giờ thế ?
Miyamoto Musashi ghì chặt đồ đệ vào lòng:
- Khẽ chứ con ! Chỗ này nguy hiểm, chớ nên để lộ tung tích của ta.
Jotaro hạ thấp giọng:
- Sao thầy biết con ở đây ?
- Nghe tiếng con, ta biết. Ta đợi con mới được một lúc. Mang nước về cho Otsu đi.
Jotaro quay nhìn vũng nước:
- Nước đục mất rồi, múc sao được nữa.
Miyamoto Musashi tháo ống tre bên hông đưa cho thằng bé:
- Con mang nước này về để nàng uống.
Jotaro giơ tay định cầm, nhưng vội rụt ngay lại:
- Không ! Thầy mang đến cho cô ấy !
Hai thầy trò nhìn nhau. Một lúc, Miyamoto Musashi vỗ vai Jotaro, trong cái vỗ vai ấy dường như có sự thông cảm và thân mật khác thường:
- Nào thì đi ! Chắc nàng mong chúng ta lắm.
Otsu nằm thiêm thiếp bên đường, tay áo kimono trắng mở rộng như cánh con chim câu bị tên bất động nằm trên cỏ. Miyamoto Musashi quỳ xuống, quàng tay nâng đầu nàng lên đặt trên đùi mình rồi dịu dàng kề ống nước đến gần đôi môi tái nhợt và mím chặt của Otsu. Hắn khẽ gọi, giọng run run vì xúc động:
- Otsu ! Hãy tỉnh dậy ! Nước đây !
Đôi mắt Otsu hé mở. Nàng uống thong thả từng ngụm nhỏ. Nước mát khiến nàng rùng mình nhưng cũng làm nàng dễ chịu hơn trước. Jotaro quỳ gối bên hai người, nói:
- Cô Otsu ! Thầy em đấy ! Thầy em đương cho uống nước chứ không phải em đâu! Miyamoto Musashi đấy, cô có biết không ?
Trên đôi mắt lạc thần, giờ đây đã thấy có chút sinh khí. Hai giọt lệ long lanh trên khóe mắt chảy dài xuống đôi má gầy. Nàng khẽ gật đầu xác nhận.
Jotaro mừng rỡ vô cùng:
- Thầy ! Cô Otsu nhớ thầy hết sức. Cô bỏ cả ăn cả ngủ, nhất định đòi đi gặp thầy, con khuyên can thế nào cũng không nổi. Thầy bảo cô ấy đi chứ con không thể nào làm được nữa.
- Lỗi tại ta. Để ta khuyên nàng. Bây giờ con hãy đi chỗ khác chơi một lát để ta nói chuyện với Otsu, được không ?
- Sao vậy thầy ? Con ngồi đây không được à ?
Otsu đưa mắt nhìn Jotaro. Nhìn ánh mắt cầu khẩn ấy, lòng Jotaro mềm hẳn lại.
Đối với thầy, đôi khi Jotaro còn tỏ ra bướng bỉnh ; nhưng với Otsu, nó không bao giờ từ chối nàng điều gì, ngay cả điều nó không hiểu rõ.
Jotaro chống tay đứng dậy:
- Vậy con ra ngoài mỏm đá đằng kia, khi nào thầy nói chuyện xong thì gọi con.
Thằng bé đi rồi, cả hai cùng cảm thấy bẽn lẽn và bối rối. Otsu mệt nhọc dựa lưng vào gốc cây, mắt e thẹn nhìn xuống đất. Nàng vốn nhút nhát, cơn bệnh lại càng tăng thêm tính nhút nhát cố hữu ấy. Thấy Otsu không tỏ ra thân mật, Miyamoto Musashi ngượng, quay mặt lên nhìn trời. Hắn không biết nói gì và cũng không biết bắt đầu ra sao nữa. Từ sau cái đêm mưa gió, Otsu một mình trèo lên cây đại bách ở sân chùa Shippoji giải thoát cho hắn, Miyamoto Musashi đã lờ mờ hiểu nàng yêu hắn. Mối tình u uẩn đó ấp ủ trong năm năm qua ngày càng bền chặt khiến hắn không thể nào không biết và không đáp lại. Trong nhiều đêm dài trằn trọc, cô đơn ở thạch thất cũng như ở những ven đồi hoang vắng, Miyamoto Musashi đã phải nén lòng mình, chôn vùi mối tình nồng nhiệt sau bộ mặt lạnh lùng.
Nhiều phen hắn tự dối lòng và tỏ ra lãnh đạm với Otsu. Con đường hắn đi còn dài và còn nhiều gian khổ phải khắc phục. Nhưng giờ đây, trăng tà, trời sắp sáng. Chẳng bao lâu nữa vầng nguyệt kia sẽ không còn trên trời cao, cũng như đời hắn chẳng biết sẽ ra sao sau khi cuộc chiến kết thúc. Trong những giờ khắc ngắn ngủi còn lại này trên dương thế, hắn thấy có bổn phận phải nói rõ điều ấy cho Otsu biết để đáp lại tấm lòng kiên trinh chung thủy của nàng.
Nhưng Miyamoto Musashi nghẹn lời. Muốn nói, hắn không đủ tiếng để diễn tả và chẳng biết bắt đầu thế nào cho hợp cảnh.
Otsu thì chỉ biết khóc. Tình yêu đốt cháy tâm can nàng. Tất cả những gì xã hội thường gọi là nhân luân, đạo đức, tôn giáo, tự ái ...đối với nàng đều vô nghĩa. Trước mãnh lực ghê gớm của mối tình nàng đối với Miyamoto Musashi, Otsu tưởng có thể bỏ hết hay chết vì nó được. Thế mà bây giờ đây, trước mặt người nàng hằng mong nhớ đến thành bệnh hoạn, Otsu bất lực chẳng nói được lời nào. Nàng để mặc nước mắt tuôn trào. Nước mắt yêu thương, vui mừng hay phẫn hận ?
Một đàn ngỗng bay ngang, tiếng kêu từ trên tường không vọng xuống. Đêm sắp tàn, đàn chim xoải cách bay về rặng núi ở chân trời, tiếng kêu mỗi lúc một xa ...Miyamoto Musashi buột miệng:
- Đàn ngỗng ấy thiên di về phương bắc.
Nói xong, thấy lời nói của mình nhạt nhẽo, hắn cúi xuống nhìn Otsu. Bỗng gặp trong ánh mắt nàng một niềm thông cảm và âu yếm vô hạn. Cả hai cùng nhớ đến những kỷ niệm xưa ở quê cũ, khi Miyamoto Musashi với Matahachi còn là những thanh niên mới lớn và Otsu ở chùa Shippoji, mỗi khi xuân về, thường cùng đứng nhìn theo những đàn ngỗng trời thiên di về phương bắc.
Cả hai cùng để lòng hướng về ngôi làng cũ nghèo nàn vùng Miyamoto, có chùa Shippoji nhỏ bé, hai bên bờ sông Yoshino Sumigiku dại nở đầy và mỗi khi sắp sang đông, gió bấc thổi làm rung động những cánh hoa cải vàng lấm tấm như những cánh bướm non.
Otsu nói khẽ, tựa thì thầm:
- Chúng ta đã để mất nhiều thì giờ quý báu. Thật tiếc !
- Ừ, thật tiếc. Nàng có hối đã bỏ làng đi không ?
- Không. Chẳng bao giờ thiếp hối điều ấy.
- Jotaro nói nàng ốm nặng lắm phải không ?
- Cũng không nặng lắm. Xin chàng đừng quan tâm đến sức khỏe thiếp.
- Bây giờ nàng đỡ chưa ?
- Khá hơn trước nhiều. Phải chăng bây giờ chàng sắp giao chiến với phái Yoshioka?
Có gì nguy hiểm đến tính mạng không ?
- Sợ cũng có thể nguy đến tính mạng.
- Nếu chàng có mệnh hệ nào, thiếp không thể sống được !
Ánh mắt Otsu long lanh, cả quyết. Lòng tự tin và quyết tâm ấy khiến Miyamoto Musashi ngạc nhiên và thẹn với mình, vì đã lâu nay, sống chết làm hắn phân vân và hoang mang lắm. Bao nhiêu suy tư vẫn chưa mang lại cho hắn một dứt khoát. Trên đường hành đạo, trong nhiều trường hợp, hắn không phân định được lúc nào phải chết và lúc nào đáng chết. Trong khi ấy, một thiếu nữ yếu đuối như Otsu, không được huấn luyện và không có công phu hàm dưỡng gì đặc biệt, lại có thể sẵn sàng chấp nhận cái chết để được toại ý, bình thản và không do dự. Miyamoto Musashi không ngờ người thiếu nữ yếu đuối kia có sức mạnh tinh thần đáng sợ đến thế !
- Đừng nói bậy ! Vì lý do gì nàng chết ? Ta vì danh dự một kiếm sĩ mà phải chiến đấu với phái Yoshioka. Ta đã chọn con đường ấy tất không thể lui bước. Nhưng nàng ?
Nàng chết vô ích, có lợi gì cho ai và giải quyết được gì ?
Sự bất bình của Miyamoto Musashi nổ ra đột ngột và thành thực khiến chính hắn cũng phải kinh ngạc. Nhìn Otsu ôm mặt khóc, hắn hối hận đã quá lời.
- Otsu ! Nàng không hiểu lòng ta. Ta rất xúc động và cảm ơn nàng đã dành cho ta một mối tình đằm thắm và sâu xa như thế. Nhưng quả tình, nàng chết theo ta thật vô lý. Cho đến nay, dù ta đã lừa dối lòng mình nhiều lần nhưng chưa bao giờ lừa dối nàng, cả khi nàng dắt ta chạy trốn.
Otsu ! Mai đây, khi trời sáng, có thể ta chỉ còn là cái xác không hồn. Những giờ khắc này ở bên Otsu có thể là những giây phút cuối cùng trong đời. Ta thú thực đã yêu nàng ngay từ dạo ấy và ở trên cầu Hamada, ta bỏ đi, chẳng phải đã muốn lừa dối nàng mà vì đã tự lừa dối mình đó.
Có những đêm dài trăn trở, nghĩ đến Otsu, lòng đam mê và thương nhớ nổi dậy, ta đã muốn bỏ ngay tất cả, sẵn sàng đi tìm gặp nàng để cùng nhau sống một cuộc đời bình thường trong hạnh phúc như mọi người ...
Otsu ngước nhìn Miyamoto Musashi, nét mặt rạng rỡ, má ửng hồng và đôi môi hé mở như uống những lời ngọt ngào của người yêu.
- Nhưng ...
Miyamoto Musashi quay mặt đi, nhìn về phía khác:
- Nhưng ta không thể. Trong thanh kiếm dựng bên, lòng ta nguội lại và mối cuồng si ấy không còn nữa.
Yên lặng một lát, Miyamoto Musashi lại tiếp:
- Thanh gươm thức tỉnh ta mỗi khi ta bị những đam mê khác cám dỗ. Otsu ! Định mệnh đã an bài như thế, hay phải chính ta đã tự tạo ra điều ấy ? Giữa tình yêu và kiếm đạo, ta phải chọn một. Nhưng chọn điều nào cũng làm lòng ta đau xé. Như ngọn đèn trước gió lung lay, ta đã có lúc ngả về phía này, có lúc nghiêng về phía kia. Otsu ! Ta chẳng phải là vĩ nhân mà cũng chẳng là anh hùng ...
Miyamoto Musashi dừng lại. Muốn nói thêm nhưng sợ lời không hết ý. Trong giờ khắc này, dưới trăng vằng vặc, hắn quyết thổ lộ hết tâm can, vạch trần những điều hắn mơ ước cho người hắn yêu mến.
- Otsu ! Đó, con người ta như thế. Khi ta nghĩ đến nàng, ta cũng nghĩ đến thanh kiếm ta mang bên sườn, con đường phải đi. Vỏ kiếm trơn mát, lưỡi kiếm sắc lạnh là lẽ sống của đời ta. Ta có thể chết vì danh dự của kiếm sĩ, nhưng Otsu ! Otsu ! Ta không thể chết vì một người đàn bà, dù người đó là nàng đi nữa. Ta yêu Otsu, nhưng sự thật là như thế, nàng hãy tha lỗi cho ta !
Miyamoto Musashi cảm thấy bàn tay giá lạnh của Otsu bóp chặt tay mình. Lời Otsu dịu dàng nhưng cương quyết:
- Thiếp biết rõ điều ấy lắm, nhưng thiếp vẫn yêu chàng như thiếp đã yêu !
- Nhưng nàng không thấy là điên rồ khi phải chết vì ta sao ? Giây phút này, ở bên Otsu, ta yêu nàng thành thật; nhưng khi xa nàng, ta sẽ quên mất. Nàng đừng điên rồi mà chết theo một người như vậy. Hãy sống cuộc đời nàng đáng được hưởng, êm đềm trong một gia đình hạnh phúc. Trời sắp sáng rồi, ta phải đi. Otsu ! Hãy nhớ những lời ta vừa nói như những lời vĩnh biệt.
Miyamoto Musashi nhẹ nhàng gỡ tay Otsu. Nàng cuống cuồng nắm áo Miyamoto Musashi, nước mắt ràn rụa:
- Musashi ! Hãy ngồi lại thêm chút nữa.
Otsu muốn nói nhiều với người yêu, dàn trải tất cả những nhớ nhung, hy vọng cũng như đau buồn nàng đã trải qua trong suốt mấy năm, nhưng sao nàng bối rối quá, lưỡi líu lại, cổ họng tắc nghẹn; chỉ thấy những giọt lệ theo nhau chảy dài trên má. Mắt ngước nhìn Miyamoto Musashi, Otsu quên hết, lòng tự ái, quá khư cũng như tương lại, nàng chỉ biết có hiện thân của mối tình trước mặt mà nàng phải cố giữ không để cho vuột mất.
Trong đôi mắt cầu khẩn van lơn ấy, có một vẻ gì khiêm nhượng và đẹp một cách lạ kỳ khiến Miyamoto Musashi vô cùng thương cảm. Lòng hắn mềm hẳn lại nhưng cũng làm hắn lo sợ vô cùng. Hắn có cảm tưởng lòng sùng mộ kiếm đạo của hắn bị lung lay, như một cái cây mọc cạn sắp bị trận gió phũ phàng thổi bật rễ.
Miyamoto Musashi quay mặt đi tránh ánh mắt mê hồn ấy.
- Otsu ! Nàng có hiểu lòng ta không ?
- Thiếp hiểu chứ. Nhưng thiếp vẫn tin nếu chàng chết, thiếp sẽ không sống nổi.
Cái chết có ý nghĩa đối với chàng thế nào thì đối với thiếp, nó cũng có ý nghĩa như thế.
Nếu vì danh dự, chàng có thể bình tĩnh rời bỏ cuộc đời này thì thiếp cũng có thể từ bỏ cuộc sống vì không muốn kéo dài đau khổ. Chuyện ấy, thiếp phải quyết định một mình, không ai giúp được, kể cả chàng.
Giọng Otsu trở nên vững mạnh. Nàng thôi khóc, và với một vẻ bình tĩnh lạ lùng, nàng nói tiếp:
- Musashi ! Nếu trong thâm tâm chàng đã coi thiếp là vị hôn thê thì điều đó cũng đủ làm thiếp mãn nguyện. Chàng đã nói không muốn cho thiếp đau khổ, vậy đừng khuyên thiếp ở lại một mình. Ngày nào chàng đi sang bên kia thế giới mà thiếp được theo chân thì đó là ngày thiếp sung sướng vô hạn, một ngày tưng bừng của thiếp, có chim hót, có bướm bay. Đó là ngày vu quy của thiếp vì thiếp được sum họp với chàng.
Nói một hơi, dường như mệt nhọc, Otsu dựa đầu lên ngực người yêu thở hổn hển, nét mặt rạng rỡ.
Trăng lụn dần. Trời chưa sáng nhưng sương đêm đã bắt đầu tan, chỉ còn quanh quất trong những bụi cây và trên mặt cỏ ẩm ướt.
Thình lình một tiếng thét kinh sợ vang lên trong sự vắng lặng của đêm tàn. Otsu giật mình. Miyamoto Musashi hối hả đứng dậy cầm tay nàng:
- Otsu ! Ta phải đi. Đừng phí cuộc đời vào những nỗi buồn vô ích. Ta hiểu lòng nàng lắm, nhưng ta đã chọn đường đi. Ngày hôm nay hay mai sau, thân thể ta có thể thành cát bụi nhưng hồn ta còn mãi, trăm năm, ngàn năm trong lòng dân tộc.
Otsu run run nắm tay người yêu lần chót. Nàng muốn chạy theo nhưng không đủ sức. Gục ở bên đường, mắt hoen lệ nhìn những bước đi vội vã của Miyamoto Musashi, Otsu tưởng có thể hét to đến xé ***g ngực để mong vơi bớt nỗi bi thương, nhưng sao không một tiếng nào thoát ra khỏi cổ.
Nàng cúi đầu. Bóng nàng câm lặng tựa phiến đá.
Jotaro từ trên đồi cao chạy xuống, tay còn cầm chiếc mặt nạ. Sỏi đá theo chân nó đổ rào rào. Nhìn bóng Otsu yên lặng bên đường, nó hét:
- Cô Otsu ! Cô có sao không ?
- Không. Cô không sao em ạ !
Nghe tiếng Otsu đáp, Jotaro yên lòng đến gần.
- Thầy em đâu ?
- Thầy em đi rồi. Tiếng ai vừa hét thế ?
- Em không biết. Em đang đeo cái mặt nạ này ngồi ngắm trăng thì có tiếng sột soạt đằng sau. Tưởng là chồn cáo gì đó em quay lại, bỗng nghe tiếng thét kinh hãi như tiếng người vừa gặp quỷ. Họ tưởng em là quỷ hay họ là ma hiện hồn hả cô ?

Acmagiro
03-04-2008, 07:48 PM
CHƯƠNG 47

GỐC CỔ TÙNG







Miyamoto Musashi rảo bước trên sườn núi. Trời đã gần sáng. Vầng trăng trên đầu hắn như đuổi sau lưng, lúc ẩn lúc hiện lấp loáng sau những tàng cây ẩm ướt.
Vài con vạc đi ăn đêm về buông tiếng kêu rời rạc khô khan.
Mồ hôi trên trán vã ra. Mỗi khi có cơn gió, Miyamoto Musashi cảm thấy mát rượi.
Hắn bước vội thêm. Từ triền núi nhìn xuống, lờ mờ hiện ra một mái đền. Miyamoto Musashi tự nhủ:
“Có lẽ đã gần đến ngã ba. Chỗ này xưa kia là bãi chiến trường, đền này hẳn được dựng riêng thờ những linh hồn oan khuất”. Ý niệm về cái chết lại lởn vởn trong trí. Hắn ngẩng mặt nhìn trời cao. Một đám mây đen che kín mặt trăng, rìa đám mây viền ngân nhũ óng ánh. Miyamoto Musashi thở mạnh. Không biết hắn vừa thở ra hay hít vào, nhưng tiếng thở dài như xua đi những ý tưởng hắc ám làm hắn dễ chịu hơn. Lát nữa đây, có thể linh hồn hắn sẽ theo đám mây kia bay về cõi hư vô. Trong vũ trụ, cái chết của một người cũng chỉ như cái chết của con bướm, chẳng quan trọng gì, nhưng đối với nhân thế, có khi có những cái chết ảnh hưởng sâu xa đến những người còn lại, tốt cũng như xấu. Là kiếm sĩ, hắn sẽ đem hết khả năng để bảo toàn mạng sống, nhưng nếu phải chết, hắn sẽ chết đĩnh đạt và xứng đáng.
Có tiếng ai gọi văng vẳng từ xa. Otsu hay Jotaro ? Không lẽ hai người đó lại không biết hắn đang ở trong một hoàn cảnh cần phải hết sức thận trọng và kín đáo. Hay đó chỉ là ảo giác ? Hắn hy vọng như thế nhưng không thể không quay nhìn lại phía sau sợ có người theo dõi.
Tiếng nước suối róc rách chảy trong khe đá. Miyamoto Musashi chợt thấy khát. Hắn đến bên suối, quỳ xuống, bụm tay múc uống rồi vã nước lên mặt. Vị ngọt mát và hơi the của nước suối lạnh khiến Miyamoto Musashi tự biết mình vẫn tỉnh táo và bình tĩnh. Miyamoto Musashi giận đã có những ý nghĩ mềm yếu lẩn quẩn trong vòng tình cảm tầm thường.
Câu danh ngôn “thắng ngoại địch thì dễ, thắng bản thân mới khó” chẳng biết đọc được ở đâu làm hắn suy nghĩ và hổ thẹn.
Miyamoto Musashi tháo ống tre múc đầy nước. Trời sắp sáng. Nếu cứ chần chờ mãi, e mất yếu tố thuận lợi. Trường hợp hắn bây giờ, một mình phải đương đầu hàng bao nhiêu người với đủ loại vũ khí, thời điểm lý tưởng là lúc trăng vừa lặn. Hắn sẽ lợi dụng điểm này, bất ngờ xông vào như ngọn cuồng phong, chém giết càng nhiều càng tốt rồi rút ngay trước khi trời rạng sáng.
Miyamoto Musashi cởi áo ngoài, xếp gọn vào đẫy, siết chặt thêm bộ áo chẽn mới may cho bó sát vào người, chỉnh lại quai dép rồi đứng dậy hối hả cất bước.
Dưới ánh trăng lu, trên nền rừng đen sẫm, một vệt dài như dải lụa trắng hiện ra, ngoằn ngoèo, nhiều chỗ lờ mờ dười màn sương lãng đãng. Không thể lầm được, đó là một trong những sơn đạo đi Quan Lĩnh. Đồi Sinh Minh tất ở dưới kia, chỉ cách chỗ Miyamoto Musashi đứng chừng vài chục trượng. Tuy chưa nhìn thấy gốc cây tùng già nhưng hắn đã mường tượng tàn lá xum xuê của nó run rẩy. Gió lạnh từ trên núi đổ xuống, kéo theo nhiều vạt sương trắng đục, quyện vào những bụi cây ven đường như khói. Tiếng tre già kẽo kẹt. Miyamoto Musashi đi nhanh, thận trọng từng bước. Hắn đang ở trong khu vực của tử thần, gây tiếng động vô ích có thể làm hỏng kế hoạch đã toan tính.
Gặp chỗ bụi gai cản lối, Miyamoto Musashi nằm sát xuống đất trườn mình đi như một con rắn, mười đầu ngón tay bám chắc lên những mảnh đá trơn trượt.
Thấy bức tường đất chắn ngang, Miyamoto Musashi khựng lại, phân vân. Hắn lắng tai một chút không thấy gì khả nghi, bèn quyết định trèo qua. Êm và nhanh như sóc chuyền cành, chỉ một thoáng, Miyamoto Musashi đã ở bên kia tường.
Thì ra đây là khuôn viên một ngôi cổ miếu hoang phế. Chỗ hắn đứng chắc trước kia là một cái sân rộng, bây giờ bụi gai và cỏ dại mọc đầy, khuất sau những bụi gai, ẩn hiện một cây đèn đá và căn miếu nhỏ, cửa gỗ im lìm.
Miyamoto Musashi không biết miếu thờ ai nhưng bỗng cảm thông với người đã khuất.
Tiến đến gần khung cửa gỗ nhìn lên, dưới ánh sáng mờ của vầng trăng sắp lụn, ba chữ Tử Sĩ Miếu (Ichijoji) bất giác làm hắn xúc động và bi thương vô hạn. Chỉ trong thời gian ngắn nữa, biết đâu hắn chẳng thành người thiên cổ, linh hồn sẽ quanh quất nơi đây nghìn năm hiu quạnh như vong linh các tử sĩ vô danh trong miếu này. Ý nghĩ ấy làm Miyamoto Musashi gần gũi hơn với những người đã khuất, những người tuy không biết danh tính mà hắn đã coi như bạn. Hắn nảy ý định muốn nhân cơ hội này cầu xin họ phù hộ.
Miyamoto Musashi tiến đến bên bồn đựng nước mưa bằng đá ở cạnh cửa, bụm tay múc nước súc miệng rồi theo tục lệ, vẩy nước lên chuôi kiếm và quai dép để tẩy trần và tỏ lòng thành kính. Đoạn giơ tay toan kéo sợi dây chuông thỉnh các vong hồn về chứng giám trước khi cầu nguyện.
Nhưng hắn vội dừng ngay lại.
“Ta cầu xin điều gì đây ? Cầu xin các vong hồn tử sĩ phù hộ ?”. Miyamoto Musashi tự hỏi và nhìn sợi dây trừng trừng. Sợi dây thừng cũ lâu ngày đã sẫm màu vì mưa nắng đong đưa trước mặt hắn như mời gọi. Hắn lắc đầu bối rối. Chỉ mới đêm qua, và cả sáng nay nữa, hắn đã tuân theo số mệnh, tự nhủ luôn luôn sẵn sàng chấp nhận cái chết trong danh dự với lòng tự tin và bình tĩnh. Thế mà lúc này hắn bắt gặp mình đang sửa soạn cầu xin một sức mạnh thiêng liêng nào đó che chở.
“Ta điên rồi ! Sao ta lại có những ý định mâu thuẫn như thế ? Chẳng hóa ra công phu luyện tập của ta mấy năm nay không mang lại kết quả gì sao ? Ta tưởng đạt được phần nào chân tướng của kiếm đạo nhưng ta vẫn còn hy vọng hão huyền. Ảo tưởng nào đã xui ta còn vương vấn với cuộc sống như kẻ sắp chết đuối bám vào một cánh bèo ? Otsu chăng ? Chị ta chăng ? Hay những lạc thú trên đời này ?”.
Miyamoto Musashi cau mày phẫn nộ. Hắn không ngờ đã có thái độ chủ bại vài khắc trước cuộc chiến sinh tử và quên rằng người kiếm sĩ chỉ có cái chết là bạn đồng hành chứ không thể có thần linh nào trợ giúp được. Và cái chết phải là tuyệt đích của người cầm kiếm ! Miyamoto Musashi vã nước lạnh vào mặt như hắn đã làm trước kia ở thạch thất mỗi khi tinh thần dao động.
Trừng trừng nhìn chữ Ichijoji, Miyamoto Musashi đột nhiên tỉnh ngộ. Phải rồi !
Cái chết phải là tuyệt đích của người cầm kiếm. Hắn thấy sảng khoái vô cùng, tự tin vô cùng. Không ngờ khi ý thức được sự thất bại tinh thần của mình, hắn đã vượt qua, chế ngự được nó.
Cuộc chiến chưa bắt đầu. Sự thử thách còn nguyên vẹn, sao hắn đã có những tư tưởng khiếp nhược ? Miyamoto Musashi không kéo chuông, không cầu nguyện nữa. Nghiêm trang chắp tay cúi đầu trước cửa miếu, hắn tạ Ơn vong linh các tử sĩ đã chỉ cho hắn con đường phải theo rồi lui bước.
oo Ra khỏi khuôn viên ngôi miếu cổ, Miyamoto Musashi đổ dốc như chạy. Sỏi đá rào rạo dưới chân, hắn đi nhanh cho kịp lúc trăng lặn. Khi nhìn thấy tán cây tùng già bên dưới, thấp hơn chừng vài trượng, Miyamoto Musashi bỏ đường mòn lẩn vào bụi.
Sương trên triền núi chưa tan, nhưng khu đất hoang quanh gốc cổ tùng đã quang đãng. Từ phía sau mỏm đá nhìn xuông, Miyamoto Musashi thấy ngồi lẩn trong những cành cây thấp bóng một người mang súng. Hắn thương hại cho Yoshioka, một kiếm phái trước đây danh tiếng nhường ấy mà nay sa sút quá đỗi, phải dùng ám khí đối phó với một kiếm sĩ đơn độc như hắn. Trong trận sinh tử này, môn phái Yoshioka chắc không nề mất thanh danh, quyết tâm giết hắn. Và không phải chỉ có một kẻ dùng hỏa khí, chắc còn nhiều tay cung nỏ nữa ẩn nấp đâu đó. Hắn cần phải thận trọng đề phòng hơn nữa.
Miyamoto Musashi thắt chặt khăn buộc tóc, cử động các ngón tay. Dưới lớp da thuộc mềm của chiếc bao tay cũ, những ngón tay hắn co duỗi dễ dàng, thoải mái. Hắn thử rút kiếm:
lưỡi kiếm nhẹ nhàng tuột khỏi bao, trơn tru không một tiếng động.
Gần sáng, sương lạnh buốt như kim châm nhưng trong lần áo chẽn, da Miyamoto Musashi nóng bỏng. Máu hai bên thái dương rần rật, hắn vận khí cho huyết mạch điều hòa, cố kềm chế nội lực sung mãn trong mình đang tìm cách tuôn ra ào ào như thác lũ.
“Cường bất khiển tắc nhược”, lời khuyên của Ozoin, vị cao tăng tại chùa Ozoin ngày nào văng vẳng bên tai. Miyamoto Musashi hít một hơi dài, giữ cho lòng thật bình tĩnh trước khi lâm trận.
Rồi như một con mãnh thú sắp vồ mồi, hắn bò chậm chạp đến bên tảng đá lớn gần ngọn cổ tùng, thu hình trong bóng tối chờ trăng lặn.
Miyamoto Musashi có một lợi điểm:
các địch thủ hắn đều quay lưng vào sườn núi.
Chúng chỉ nhìn ra phía ngã ba đường và mai phục ở những nơi hiểm địa dẫn đến ngã ba, tuyệt nhiên không ngờ và cũng không tin Miyamoto Musashi có thể xuất hiện ngay trên đầu chúng.
Trời tối thình lình:
trăng vừa khuất sau triền núi. Những bụi cây rừng đen sẫm hơn.
Cả khu đồi Sinh Minh như tắm trong bầu không khí mờ ảo, tranh sáng tranh tối; nếu không dự bị trước, mắt người khó điều tiết để kịp ứng phó.
Nhanh như cắt, Miyamoto Musashi nhảy xuống, rút kiếm. Sỏi đá đổ rào rào cùng với tiếng thét xé toang màn đêm tịch mịch.
- Nó đấy !
- Đâu ?
- Phía sau ...
Đệ tử Yoshioka cầm hỏa khí ngồi trên cây vừa kịp quay lại thì cánh tay trái Miyamoto Musashi đã vung lên theo hình vòng cung. Liền sau đó nghe một tiếng rú đau đớn. Lửa nháng trong đêm tối, mùi thuốc súng khét lẹt. Thân người đổ xuống kéo theo những cành thông gẫy răng rắc.
Hòn đá do Miyamoto Musashi ném ra nhanh và chính xác đến độ không ai tưởng hắn còn cách xa gốc cây đến chục bộ mà đã giết được một người. Sự hỗn loạn sau đó thật cùng cực. Đồ chúng Yoshioka từ trong các chỗ nấp xông ra kêu ơi ới. Gươm, giáo, đao, côn, móc, chùy ...đủ loại vũ khí tua tủa như lông nhím.
Trong màn đem đen như mực loãng, những bóng người chạy ngang dọc va chạm vào nhau, gọi tên Miyamoto Musashi chửi bới om sòm và hô hoán chớ để hắn thoát. Nhưng không ai biết Miyamoto Musashi đứng đâu và tại sao hắn lại có mặt ở ngay bên gốc thông mà không qua ba đường sơn đạo.
Giữa cảnh hỗn loạn, bỗng nghe tiếng sang sảng:
- Ta là Miyamoto Musashi ở Miyamoto ...
Mọi người khựng lại, quay nhìn về phía tiếng nói:
- Ta đến theo lời giao ước tại xóm Liễu. Truyền nhân Yoshioka, hãy cẩn thận ! Ta đi một mình, các ngươi muốn giao đấu từng người hay cả phái, ta bất chấp ...
Đồ chúng Yoshioka ngạc nhiên, không ngờ Miyamoto Musashi liều lĩnh đến thế. Lời thách thức của hắn quả nhiên hợp cách. Nhưng sự ngạc nhiên của họ không lâu. Miyamoto Musashi vừa dứt lời, hai mũi tên đã bay vụt về phía hắn. Kiếm vung lên. Những mũi tên bị gãy đôi, bắn tung rớt xuống đất.
Tiếng thét xung trận của môn đệ Yoshioka vang lên như sấm động. Genjiro run cầm cập chạy đến nép sát vào gốc thông già, vạt áo trắng lộ ra trong đêm tối.
- Thân phụ ! Thân phụ !
Tiếng kêu sợ hãi của cậu bé khiến Yoshioka Genzaemon hoảng hốt. Ông sực nghĩ ra chỗ sơ hở của mình, chạy đến bên con nhưng không kịp nữa. Bóng Miyamoto Musashi đã sà đến trước. Ánh thép lóe lên chém vẹt lớp vỏ thông cùng với thủ cấp của tân chưởng môn Yoshioka lăn lông lốc trên mặt đất.
Genzaemon tái mặt, rống lên như chính ông vừa bị thương, tiếng kêu đau đớn xé ruột. Ông phóng kiếm vào ngực Miyamoto Musashi:
- Súc sinh ! Mày nỡ tàn nhẫn ...
Lời Genzaemon chưa dứt, đường kiếm Miyamoto Musashi thuận chiều đã hớt ngược lên, tiện đứt luôn cánh tay phải và nửa mặt của ông. Genzaemon phục xuống, máu phun như tưới vào áo Miyamoto Musashi. Đồ chúng Yoshioka la hét vang rền, vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, nhất tề xông vào, giáo đâm, đao chém, côn phạt không còn kể gì chiêu thức và lề lối võ lâm nữa.
Nhìn cuộc giao tranh mới thấy Miyamoto Musashi ghê gớm. Bị bao vây, hắn không tỏ vẻ gì luống cuống, trái lại như hổ dữ giữa đàn dê, một mình một kiếm tung hoành, ánh thép của hắn loang loáng vung đến đâu xác người ngã đến đó, đầu giáo, đầu côn bị tiện đứt rơi lả tả.
- Cung thủ đâu ! Bắn đi ! Bắn đi !
- Đừng bắn. Gần quá, trúng anh em mất !
Một đồ tử Yoshioka lẩn ra phía sau Miyamoto Musashi, dùng trường thương đâm vào lưng hắn. Nghe tiếng vù, mũi thương chưa tới đích, Miyamoto Musashi đã nghiêng mình tránh kịp, bắt cây thương kéo giật về phía trước. Người cầm thương ngã chúi vào một đệ tử khác. Thuận tay, Miyamoto Musashi thét một tiếng lớn chém luôn cả hai, kẻ từ bả vai xẻ đến rốn, kẻ mất luôn cánh tay cầm thương, ngã chồng lên nhau giẫy đành đạch. Số còn lại kinh hoảng, đánh dứ vài chiêu rồi nới lỏng vòng vây, kêu gọi đồng bọn dưới chân núi lên tiếp sức.
Gốc cổ tùng ở đó đã lâu ngày, có đến vài thế kỷ. Vỏ thông xù xì, cành thông rậm rạp đã chứng kiến nhiều cuộc giao tranh ghê rợn, kể cả lần triệt thoái đẫm máu của đoàn quân Taira từ cổ thành Kyoto lên phương bắc và những trận hạ sơn của phái tăng lữ Hiei làm áp lực với hoàng gia; nhưng chưa bao giờ thấy một cuộc tranh sống quyết liệt và dã man như lần này. Không biết có phải mùi máu tanh và xương thịt của người chết đã đổ ra thấm xuống gốc tùng làm cho nó xanh tốt hay không mà nó run lên như được ngửi mùi quen thuộc. Cành cổ tùng xao động rì rào, đổ lên xác kẻ chết và vai người sống những giọt sương mai lạnh buốt.
Miyamoto Musashi dựa lưng vào gốc tùng. Dưới chân hắn, xác người, cánh tay, mảnh sọ còn dính tóc cùng với những đoạn binh khí gãy lẫn lộn. Áo quần hắn loang lổ những máu, mồ hôi trộn với máu làm ngón tay hắn nhớp nháp.
Thân cây tùng già to đến ba bốn người ôm không xuể là một lá mộc tốt chắn cho hắn phía sau lưng nhưng không phải là chỗ thủ thế lâu dài. Địch thủ có cung tên. Một kẻ dùng hỏa khí đã bị diệt, nhưng biết đâu không còn những tên khác nữa.
Miyamoto Musashi thấy phương cách hiệu quả hơn hết vẫn là lối đánh xáp lá cà, tìm chỗ nhược của địch tấn công vào, rồi khi vòng vây bị phá vỡ sẽ do lối ấy mà thoát. Sức người có hạn, hắn không thể cứ đơn độc cầm cự với chiến thuật xa luân cho đến khi trời sáng.
Tiếng người ồn ào càng lúc càng gần. Đồ chúng Yoshioka dưới chân núi leo lên mỗi lúc một đông, ánh đuốc lập lòe sau những bụi cây thưa lá.
Miyamoto Musashi giữ vững tay kiếm, mắt như mắt vọ, bao quát khắp vùng đồi trước mặt. Không một ý đồ nào của địch thủ qua được mắt hắn, nhưng trong óc, hắn đương lượng giá sự cường nhược của các địch thủ ở gần.
- Gốc cổ tùng ! Gốc cổ tùng ! Nó đứng đó.
Một tiếng nổ chát chúa. Ánh lửa lóe ra trong đêm tối, tiếp theo là vật gì đụng mạnh vào thân cây kêu đánh “phụp”. Viên đạn hỏa mai ghim vào vỏ cây chỉ cách đầu hắn chừng hơn tấc.
Tóc dựng đứng, thét lên một tiếng ghê rợn, Miyamoto Musashi như ngọn cuồng phong nhảy đến sát bên một đệ tử Yoshioka gần nhất. Gã kinh hoảng, giật lùi né tránh nhưng chậm quá. Lưỡi gươm Miyamoto Musashi đã đâm suốt qua bụng gã. Rút gươm ra, Miyamoto Musashi phóng chạy. Tiếng la hét đuổi theo:
- Anh em ! Chớ để nó thoát ! Nó bị thương rồi ! Nó bị thương rồi !
Thực ra Miyamoto Musashi chưa bị vết thương nào trầm trọng, nhưng dưới ánh sáng vừng đông vừa rạng, trông hắn ghê gớm quá. Máu bê bết khắp mình. Mặt hắn chỗ đỏ chỗ đen nhem nhuốc, chiếc khăn bịt đầu không còn màu vàng nguyên thủy mà đỏ sẫm.
Hắn chạy theo hình chữ chi để tránh đạn và tên, đồ chúng Yoshioka tưởng hắn trúng thương, say máu không giữ nổi thăng bằng nữa. Đến ngã ba, gặp toán phục kích đổ lên, toán sau ập tới, như một con thú nguy hiểm bị dồn vào góc rừng, Miyamoto Musashi gầm lên. Bản năng tự vệ nổi dậy, mắt rực đỏ màu hổ phách, hắn vung kiếm đâm hữu phạt tả, đem hết khả năng bảo toàn sinh mạng.
Miyamoto Musashi sử dụng kiếm khác hẳn với các kiếm sĩ đương thời. Phần lớn trong kiếm thuật bấy giờ, nếu lưỡi kiếm chém hụt, tất cả uy lực của chiêu kiếm bị mất vào quãng không và người dùng kiếm phải rút kiếm về, bắt đầu một chiêu khác. Dù nhanh đến đâu đi nữa, sự rút kiếm về như vậy cũng mất thời gian và cả uy lực của chiêu kiếm trước coi như mất hết. Miyamoto Musashi trái lại đã không rút kiếm về. Hắn tiếp tục sử dụng uy lực của chiêu nọ tiếp chiêu kia, liên tu bất tận dù cả khi kiếm trúng đích. Lẽ dĩ nhiên dụng kiếm như thế phải có công lực hết sức dồi dào, lưỡi kiếm sắc bén, chặt xương như gọt khoai vậy. Cho nên trong trận giao tranh hiện nay, đường kiếm của Miyamoto Musashi như hai vệt sáng đan nhau, hay nói khác đi như hai lá thông nối đầu với nhau vậy. Cách biến chiêu của hắn cũng thần tốc và dũng mãnh lạ kỳ, hắn đã tự phát minh và khai triển khi ở trong rừng nhìn những lá thông cuồn cuộn trong một trận cuồng phong, đâm vào đầu và mặt hắn.
Lối sử kiếm này chẳng theo chiêu thức nào nhất định, không thuộc trường phái nào nên không ai biết và dĩ nhiên chẳng được coi là chính thống. Nhưng chính thống hay không, Miyamoto Musashi không cần, miễn nó nhanh và hữu hiệu. Quả vậy, trong trường hợp một mình phải chống với số đông, lối sử kiếm của Miyamoto Musashi thật vô địch.
Đồ chúng Yoshioka kể cả những cao thủ của môn phái, không rõ điều đó, cứ lăn xả vào và trở thành mồi ngon cho lưỡi gươm của Miyamoto Musashi.
Thấy địch thủ quá dũng mãnh, Ueda, một trong bảy cột trụ còn lại của Yoshioka phái, thận trọng hơn, huy động đệ tử dàn thành thế trận. Ông đã có chủ ý:
vô hiệu hóa những đường gươm tàn độc của Miyamoto Musashi bằng cách dùng trường thương giữ cho hắn ở xa. Dưới ánh sáng của vầng đông càng lúc càng rạng, hắn sẽ trở thành cái bia dễ dàng cho súng hỏa mai và cung nỏ.
Không rõ Miyamoto Musashi có biết ý ấy không, nhưng hắn đã không rơi vào bẫy.
Đường gươm dũng mãnh của Miyamoto Musashi rít lên vù vù, tiện đứt đầu các cây thương ở gần, gọn gàng như chém chuối.
Không đầy chớp mắt, hắn đã phạt ngang hạ bàn một đệ tử Yoshioka rồi hươi ngược kiếm chém vào ngực Ueda. Ueda kịp thời ngửa mình ra sau tránh khỏi, nhưng cũng bị rách áo. Ông phóng chiêu phản kích liền, nhằm vào bụng Miyamoto Musashi hy vọng hắn sẽ phải thu kiếm về. Không ngờ Miyamoto Musashi khi chiến đấu, cực kỳ liều lĩnh và vì hắn không học trường phái nào nên chỉ tùy cơ ứng phó. Khi mũi gươm đến gần, Miyamoto Musashi thót bụng nghiêng mình né tránh rồi xoay người đưa ngược lưỡi kiếm của hắn vào gáy Ueda. Biến chiêu hết sức mau lẹ và chính xác:
lưỡi kiếm xuyên qua gáy lão cao thủ Yoshioka, lòi ra đằng trước đến một tấc. Ueda không thốt được lời nào, ngã sấp. Miyamoto Musashi rút kiếm ra, máu tuôn có vòi.
Sự kinh hoàng gần như làm tê liệt những đệ tử còn lại. Nhân cơ hội, Miyamoto Musashi xông vào chém giết không tiếc tay, mở đường máu nhằm thoát khỏi vòng vây. Xác đồ chúng Yoshioka chết nằm la liệt trên đồi cỏ, máu loang thành vũng. Bóng Miyamoto Musashi vùn vụt chạy xuống dốc khi ẩn khi hiện, nhấp nhô sau những hòn quái thạch hai bên sơn đạo.
Đao, thương phóng theo, tiếng reo hò dậy đất lẫn với những tiếng kêu rên của kẻ sắp chết gây thành cảnh tàn bạo, hỗn độn và bi thương vô tả.
- Miyamoto Musashi ! Đồ súc sinh hèn nhát !
- Thằng du đãng khốn kiếp kia ! Hãy quay trở lại ! Chúng ta không để mày trốn thoát.
Mặc ! Miyamoto Musashi cứ chạy. Dường như hắn không lưu ý gì đến những lời nguyền rủa, chỉ mong ra khỏi chỗ nguy hiểm này. Cuộc chiến càng kéo dài càng bất lợi cho hắn.
Về phương đông, trời đã sáng hẳn. Tay hắn nhớp nháp những máu tanh nồng, hắn vừa chạy vừa đổi tay kiếm, lau vào vạt áo ngoài trên đó máu với óc nhuộm loang lổ từng mảng cứng như da trâu và đỏ sẫm.
Thình lình, một toán đệ tử Yoshioka có đến hai chục người mặt mũi nhem nhuốc dưới lớp bùn hóa trang, từ chỗ mai phục nhô lên, hò hét. Miyamoto Musashi đã thấm mệt.
Hắn muốn tránh đám đông giận dữ ấy nhưng không lối thoát. Bên phải là vực sâu, bên trái là vách đá trơ trọi, đằng sau địch quân đuổi gần tới. Những tiếng la “Giết ! Giết !”, tiếng chân rậm rịch dội vào vách đá vang động đồi núi.
Bị dồn vào tuyệt lộ, Miyamoto Musashi nhất quyết bán đắt sinh mạng. Thần chết là kẻ đồng hành với người kiếm sĩ. Câu ấy đối với hắn không lúc nào có nghĩa hơn lúc này.
Hắn nhảy đến ẩn vào bóng tối một tảng đá lớn.
Khi đồ chúng Yoshioka từ trên sườn đồi đổ xuống tiếp sức được với toán ở chân núi chạy lên thì không còn thấy Miyamoto Musashi đâu nữa.
- Không lý gì thằng súc sinh ấy biến mất. Nó chỉ trốn đâu đây thôi ! Anh em hãy lục tìm cho kỹ.
- Bèn chia nhau thành từng bọn dùng giáo và chĩa ba đâm vào các bụi rậm.
- Miyamoto Musashi ! Mày ở đâu ? Đồ hèn nhát ! Chuột nhắt !
Vù một cái, một bóng người từ sau tảng đá nhảy ra, như chớp xẹt, lưỡi gươm chém bay đầu một tên cầm giáo.
Cả bọn thất kinh, không thể tưởng tượng Miyamoto Musashi lại có thể xuất thủ nhanh như thế. Nhưng độc đạo chật hẹp, vực sâu hiểm trở, Miyamoto Musashi khó thi triển kiếm pháp mà địch thủ của hắn cũng khó lợi dụng số đông áp đảo hắn được.
Như cá lội ngược dòng nước, Miyamoto Musashi tiến một cách khó khăn. Đường kiếm hắn bây giờ thu nhiều hơn công. Phóng xong một chiêu, trúng hay không hắn cũng lui về thế thủ. Có những đồ tử Yoshioka hoặc sơ hở hoặc vụng về để mất thăng bằng, có thể là mồi ngon của Miyamoto Musashi mà hắn cũng không giết. Phần lớn địch thủ của Miyamoto Musashi sử dụng trường thương, ước lượng tầm chính xác của mũi gươm thì dễ chứ mũi thương thì khó. Hắn không dám khinh địch.
Miyamoto Musashi lùi dần, không biết vì chủ ý hay vì mệt mỏi. Hơi thở hắn nhanh, sắc mặt hơi tái. Những đường gươm của hắn cũng không còn uy mãnh như trước.
Đồ chúng Yoshioka gia tăng áp lực. Càng lúc số người bao vây Miyamoto Musashi càng đông, nhưng không ai dám đến gần. Họ mong hắn vấp rễ cây hay tảng đá ngã ra là xông lại.
Dưới chân đồi có tiếng ngựa hí, lừa kêu he he. Dân chúng đã bắt đầu một ngày sinh hoạt mới, thồ vật dụng và nông phẩm từ các làng lân cận đến Cổ Thành đổi bán.
Họ tụ tập đằng xa, thấy đánh nhau, nghểnh mặt nhìn lên vừa kinh hãi vừa tò mò bàn tán.
Chỉ trong mấy khắc giao tranh, hình dáng bề ngoài của Miyamoto Musashi đã biến đổi. Khăn buộc đầu và tóc hắn bê bết máu, mồ hôi. Quần áo loang lổ bùn đất, máu từng mảng khô đen đóng cứng. Lông mày dựng ngược, mắt đỏ như than hồng, trông chẳng khác gì một con quỷ dữ vừa từ địa ngục trồi lên. Hắn thở hổn hển, thân áo phía trước rách toang để lộ bộ ngực trần phập phồng như thổi bễ.
Trong cơn nguy cấp, Miyamoto Musashi rút đoản kiếm. Đoản kiếm trong tay trái ngang tầm mắt, trường kiếm trong tay phải chênh chếch dưới bụng. Hắn dùng đoản kiếm phóng ra những hư chiêu để đối phương bối rối rồi dùng trường kiếm đâm tới hoặc phạt ngang. Kết quả không mấy khi không đạt được:
địch thủ thường bị tiện đứt đùi hay bị đâm thủng bụng. Kỹ thuật phối hợp song kiếm này Miyamoto Musashi về sau có hoàn chỉnh và chú thích rất cặn kẽ trong cuốn Go Rin No Sho, “cách dùng song kiếm chống số đông khi bị bao vây”, nhưng bây giờ hắn chỉ áp dụng nó vì bản năng tự vệ.
Theo những tiêu chuẩn về kiếm thuật, Miyamoto Musashi không phải là tay sành kiếm học. Trường phái, truyền thống, hay lý thuyết gì gì ...hắn cũng mặc kệ. Trong cuộc giao tranh mà sinh mệnh như ngàn cân treo sợi tóc này, hắn phải chiến đấu một cách thực tiễn. Thắng đã, rồi lý thuyết sau !
Từ dưới chân đồi vẳng lên nhiều tiếng la ó, những câu khích lệ và những lời giục hắn chạy trốn.
- Chạy đi ! Chạy đi ! Chạy không trễ mất ! Trễ là toi mạng.
- Tên kia ! Chiến đấu đơn độc như thế có lợi ích gì ? Chết vô ích !
Những lời ấy theo gió thoảng đưa lên, nhưng Miyamoto Musashi dường như không nghe thấy. Núi có đổ, trời có sập cũng thế thôi, hắn chẳng quan tâm. Điều hắn quan tâm là một bãi lau hắn vừa thấy ở cách chỗ hắn đứng chừng hơn trượng.
Bãi lau cao hơn đầu người nhiều, trải dài đến tận khe núi bên một khu rừng già, có thể dùng làm đường rút an toàn được. Miyamoto Musashi múa tít song kiếm. Đồ chúng Yoshioka e dè, nới giãn vòng vây. Hắn nhảy lui, tiến tới, giương đông kích tây, cốt làm cho địch nghi ngờ không rõ chủ ý của hắn. Đến gần bãi lau, đột nhiên Miyamoto Musashi nhảy xuống triền núi nhanh như một con lợn rừng tháo chạy.
Ba bốn đệ tử Yoshioka đuổi theo, phóng thương vùn vụt. Miyamoto Musashi vẫn chạy như bay, chẳng mấy chốc đã lẩn vào bãi lau mất dạng.
Đồ chúng Yoshioka đứng trên sơn đạo hô hoán chửi rủa rầm trời.
- Nó còn ở đó ! Anh em, bao vây nó !
- Không ! Nó chạy rồi ! Kia kìa !
Mọi người chỉ trỏ một bóng đen xa xa đang rảo bước bên hàng cây. Không ai biết chắc có phải đấy là Miyamoto Musashi không và cũng không ai dám nhảy xuống khu rừng lau lục soát để tìm hắn cả.
Trời đã sáng rõ. Một buổi sáng đẹp trời cũng như những buổi sáng khác.

Acmagiro
03-04-2008, 07:50 PM
MÓN LỄ VẬT







Từ hơn trăm năm nay, khu rừng Sinh Minh vẫn là nơi ẩn náu của giáo phái Hiei. Tuy mang danh giáo phái nhưng các tăng sĩ trụ trì, ngoài Phật sự ra, còn có nhiều hoạt động thế tục. Vào hậu bán thế kỷ thứ mười sáu, phái này đã huy động một số lớn tăng sĩ và dân quê xuống núi làm áp lực với hoàng gia đòi quyền lợi về chính trị.
Oda Nobunaga đã ra lệnh tiêu diệt giáo phái Hiei và trong một đêm kinh hoàng, ba ngàn đền miếu của giáo phái Hiei bị thiêu rụi gần hết.
Biến cố xảy ra đã bốn thập niên. Ngày nay những ngôi đền của phái Hiei chưa hoàn toàn đổ nát đã được sửa chữa, nhưng kỷ niệm đêm ấy vẫn còn ghi một ấn tượng kinh hoàng trong trí những nhà sư sống sót. Tăng sĩ Hiei bây giờ không còn hoạt động chính trị nữa, tuy nhiên họ vẫn mang nặng mặc cảm bị đàn áp và tự nhiên sinh lòng thương xót những kẻ cô thế.
Trong khu rừng Sinh Minh, trên một ngọn đồi về phía nam có căn chòi gỗ mệnh danh là am Mudoji, nơi tăng nhân Hiei dành cho khách lỡ độ đường tạm trú. Am nhỏ nhưng đủ tiện nghi, trông ra cảnh trí u tịch. Vào những hôm trời u ám, quanh am mây thấp phủ đầy, nhưng trong am vẫn ấm áp vì củi đốt chẳng thiếu và cửa ngõ kín đáo.
Am thường bỏ không. Sáng chiều, cảnh thanh vắng chỉ bị ngắt quãng bởi tiếng chim lảnh lót hay tiếng gió rì rào trong lá trúc.
Nhưng hôm nay sao lại có tiếng niệm Phật văng vẳng đưa ra. Tiếng niệm trầm, giọng đàn ông đọc kinh Liên Hoa, trước nhỏ sau to rồi lại nhỏ dần, dường như người niệm đang trong cơn mê giật mình sực tỉnh. Mãi đến khi một chú tiểu bước vào, tiếng niệm kinh mới dứt.
Chú tiểu bưng cái khay trên để liễn cơm, đĩa rau cùng bát đũa. Khay cơm đạm bạc thường thấy dọn ra hàng ngày vào chính ngọ. Chú để cơm trên bàn, đánh tiếng:
- A di đà Phật !
Người đàn ông dường như không để ý. Hắn ngồi trước quyển kinh trên một cái bồ đoàn trải lên sàn gỗ mộc đen bóng, quay mặt vào tường như một nhà tu đang nhập định.
Tấm áo rộng màu tro nhạt khoác trên mình, trông tưởng là tăng nhân, nhưng hắn không có cái vẻ khắc khổ của kẻ tu hành. Trái lại, với vóc dáng cao lớn, tóc buộc gọn trên đỉnh đầu, hắn có phong thái của một giang hồ kiếm sĩ. Không thấy người đàn ông trả lời, chú tiểu nói thêm:
- A di đà Phật ! Mời thí chủ dùng cơm.
Miyamoto Musashi, người đó chính là Miyamoto Musashi, quay ra mỉm cười, hàm răng trắng bóng dưới làn da nâu sạm nắng:
- Cám ơn chú. Đã đến giờ ngọ rồi đấy !
- Thí chủ dùng cơm ngay chứ ?
- Phải, chú để đấy cho ta.
Trong khi Miyamoto Musashi ăn cơm, chú tiểu nhìn quanh quẩn. Thấy gần chỗ Miyamoto Musashi ngồi có nhiều vỏ gỗ bạch đàn vương vãi, chú hỏi:
- Thí chủ tạc tượng phải không ? Tượng gì thế ?
- Tượng Phật.
- Đức Phật Di Đà ?
- Kiếm. Ta muốn tạc tượng đức Phật Bà Quan Âm nhưng không kinh nghiệm nên chẳng biết bắt đầu ra sao. Còn vụng lắm. Chưa ra hình thù gì đã đứt tay rồi.
Nói đoạn, chìa tay ra cho chú tiểu xem.
Nhưng chú tiểu không nhìn chỗ tay đứt mà lại để ý đến cánh tay buộc vải của hắn.
- Vết thương thí chủ ra sao ?
- Đã đỡ nhiều. Chắc mai tháo vải ra được. Nhân thể nhờ chú trính với các vị thủ tòa ta thành thật đa tạ lòng bao dung của các vị.
- Thí chủ cứ ở đây tĩnh dưỡng cho đến khi khỏi hẳn. Nếu thí chủ muốn tạc tượng đức Quán Thế Âm thì phải lên chính điện xem pho tượng ngài ở đó mới được. Đẹp lắm !
Hay để tiểu tăng dẫn thí chủ đi. Cũng gần đây thôi, chỉ cách chỗ này khoảng chừng vài chục trượng.
Miyamoto Musashi rất mừng, ăn vội bữa cơm, chờ dọn dẹp xong rồi theo chân chú tiểu ra ngoài.
Đã mười ngày nay, Miyamoto Musashi tá túc ở Mudoji không bước chân ra cửa, phần vì muốn giữ kín tung tích, phần muốn tĩnh dưỡng cho bình phụ hẳn. Vết thương ở tay không lấy gì làm nặng nhưng hắn bị một vết giáo đâm vào đùi khá sâu. Trong lúc say máu, Miyamoto Musashi không biết, mãi khi tới chùa mới rõ.
Nhờ lòng trắc ẩn và bao dung của các tăng lữ Hiei, hắn được săn sóc chu đáo và cho trú ngụ tại am này. Tuy vết thương ở tay và đùi đã lên da non, nhưng Miyamoto Musashi đi đứng vẫn còn ngượng. Hắn phải lấy bao kiếm dùng làm gậy chống tạm.
Không khí trong lành, gió núi nhẹ mơn man. Ngoài vết thương ở chân còn hơi nhức, Miyamoto Musashi thấy trong mình khỏe khoắn và trận chiến trên đồi Sinh Minh đối với hắn bây giờ chỉ còn là cơn ác mộng.
- Thí chủ học võ phải không ?
- Phải.
- Nếu học võ thì tạc tượng đức Quán Thế Âm làm gì ?
Miyamoto Musashi lặng thinh.Bồ tát Quán Thế Âm theo sự hiểu biết của hắn là hiện thân của lòng từ bi, trắc ẩn. Nhân dịp được nhàn rỗi, hắn muốn tạc tượng ngài dâng lên Tam Bảo để tỏ lòng biết ơn và cầu siêu cho các vong hồn đã vì hắn mà oan khuất.
Nhưng không tiện trả lời chú tiểu, Miyamoto Musashi chỉ giữ yên lặng.
- Sao thí chủ không để thì giờ luyện tập võ nghệ ?
Câu hỏi làm Miyamoto Musashi đau nhói. Tuổi chú tiểu có lẽ cũng bằng tuổi Yoshioka Genjiro, vóc dáng cũng tương tự. Trong cái ngày hôm ấy, bao nhiêu người đã bị thương tật hoặc chết dưới đường gươm của hắn, hắn không biết. Hắn cũng chẳng nhớ đã làm cách nào thoát khỏi vòng vây và sự may mắn kỳ lạ nào đã giúp hắn tránh hết được những lằn tên, đạn. Nhưng có hai điều đã ghi sâu vào tiềm thức Miyamoto Musashi và cứ lẵng nhẵng theo hắn ngay cả trong giấc ngủ:
ấy là tiếng thét kinh hoàng của Yoshioka Genjiro và cái xác không đầu của cậu bé lăn trên nền cỏ bên gốc thông già dưới chân hắn.
Đã mấy lần Miyamoto Musashi giở sổ tay, xem lại những điều đã ghi chép từ trước.
Bắt gặp câu:
“không làm gì để rồi phải hối tiếc”, lòng Miyamoto Musashi se lại. Trong bầu không khí thanh tịnh, an bình của căn am nhỏ, hắn quả đã hối tiếc, và cái chết đau thương của Genjiro, nếu cho đó là điều cần thiết phải làm trên con đường hắn đã chọn, thì con đường ấy sao mà man rợ và bi thảm !
Miyamoto Musashi quay hỏi chú tiểu đi bên:
- Này chú, phải chăng chư tăng thuộc quý phái như Vô Trụ và Nhất Quán đại sư đều có vẽ tranh hoặc tạc tượng các vị bồ tát đặt ở chùa ?
- Tiểu tăng không rõ, nhưng nghe nói các vị đã góp rất nhiều vào việc tô tượng và vẽ hình bồ tát. Tiểu tăng nghĩ nếu ta vẽ tranh, đúc tượng Phật càng nhiều bao nhiêu thì càng gần niết bàn bấy nhiêu.
Miyamoto Musashi mỉm cười:
- Nói thế cũng được. Vẽ hình Phật là cốt để noi theo hầu đạt được tâm cảnh Phật.
Niết bàn chính là tâm cảnh của Phật. Ta học võ công cũng thế, giữ tâm cho ngay đừng mê vọng. Những lời dạy trong kinh sách chỉ ta niết bàn chẳng khác nào ngón tay chỉ mặt trăng. Lời dạy thì nhiều, bảo chúng ta cùng hướng về mặt trăng, chúng ta chớ lầm mặt trăng với hướng tay chỉ.
Miyamoto Musashi bỗng ngừng lại, thấy mình nói những câu chẳng ra đầu đuôi gì, liếc nhìn chú tiểu đánh trống lảng:
- Cái bia bên hàng cây kia là bia gì đó chú ?
- À, đấy là bia ghi lời tiên tri của một thiền sư đời trước. Thí chủ muốn coi cứ tự tiện.
Đến gần, Miyamoto Musashi tò mò đọc:
Giới luật nhiệm mầu

Như dòng nước cạn

Gió hồ lạnh căm

Vẫn theo pháp nạn

Đọc xong, Miyamoto Musashi ngạc nhiên. Lời tiên tri thật ứng nghiệm. Sau cái đêm pháp nạn ba nghìn đền miếu ra tro ấy, giáo phái Hiei vẫn còn có kẻ u mê. Một số tăng lữ tiếc nhớ uy quyền cũ thoát ly ra lập chùa riêng, lợi dụng chúng sinh vào những mục đích riêng tư. Thay vì phổ độ họ, những người này đã ngụp lặn trong biển mê vọng và kéo chúng sinh cùng chìm đắm trong biển ấy. Miyamoto Musashi định hỏi chú tiểu thêm vài câu nữa, bỗng từ xa có một tăng nhân chạy đến:
- Gehen, sao lâu thế ? Chú đi đâu, sư bác tìm mãi không thấy ?
- Tiểu đệ dẫn thí chủ này lên chính điện chiêm bái đức Quán Thế Âm.
- Lần khác không được sao ? Về ngay gặp sư bác.
Miyamoto Musashi vội chen lời:
- Xin thứ lỗi. Tại hạ không rõ chú này bận việc. Vậy nhà chùa cứ dẫn chú ấy về, để khi khác tại hạ đi lấy cũng được.
Nhưng tăng sĩ đã quay sang Miyamoto Musashi:
- Không ! Không phải chỉ có chuyện Gehen mà thôi. Có người muốn gặp thí chủ trên phương trượng.
- Gặp tại hạ ?
- A di đà Phật ! Bần tăng chẳng muốn làm phiền, nhưng các vị đó cố đòi cho được gặp thí chủ.
Miyamoto Musashi vội vã theo chân vị tăng.
Bước vào phương trượng, đã thấy mười nhà sư mặc áo đen, thắt khăn nâu, mặt hầm hầm chờ sẵn. Họ cũng là tăng nhân thuộc giáo phái Hiei nhưng đã thoát ly.
Nhìn Miyamoto Musashi một cách ngạo mạn, họ tự cho mình có quyền thi hành giới pháp và không giấu vẻ mục hạ vô nhân trên nét mặt:
- Ngươi là Miyamoto Musashi ở Miyamoto ?
Giọng nói hách dịch, đầy thù nghịch.
- Chính thị. Các vị có điều gì dạy bảo ?
- Chúng ta đến cáo tri cho ngươi biết bản quyết định của Kim Cương Điện. Hãy dỏng ta ra mà nghe đây:
“Cáo tri cho Miyamoto Musashi ở Miyamoto. Núi Hiei là nơi thanh tịnh thiêng liêng, không bao giờ dung dưỡng kẻ gây thù chuốc oán. Lại càng không thể dùng làm chỗ ẩn náu cho những tên du đãng đê hèn hay sinh sự. Bản điện đã điều tra kỹ và ban lệnh này, truyền Miyamoto Musashi sinh quán làng Miyamoto phải lập tức rời khỏi vùng núi Sinh Minh. Nếu bất tuấn sẽ bị trừng phạt theo đạo pháp, bấy giờ đừng trách”.
Miyamoto Musashi sững sờ, nhưng cũng lễ phép thưa:
- Tại hạ xin tuân lệnh thủ tòa Kim Cương Điện. Tuy nhiên bây giờ đã quá ngọ và vì chưa chuẩn bị gì, tại hạ xin phép được lưu lại đến sáng mai. Và xin cũng cho biết thêm lệnh này được phát xuất từ đâu ? Tại hạ nhớ kỹ khi đến đây đã trình lên vị thủ tòa và được ưng thuận cho tá túc. Không hiểu sao lại có sự thay đổi như vậy ?
Một nhà sư áo đen đáp:
- Nếu nhà ngươi thực muốn biết thì ta nói rõ cho nghe. Lúc đầu chúng ta cũng thương tình vì ngươi đơn độc chống lại với hàng trăm người, đã tỏ ra khá dũng cảm.
Nhưng sau lại có kẻ đến cho biết ngươi chẳng qua chỉ là một tên vô lại làm nhiều điều càn rỡ cần bị trừng trị nên chúng ta buộc lòng phải xét lại, không thể để ngươi ẩn náu ở đây được !
À ra thế. Miyamoto Musashi nghĩ. Chắc lại phái Yoshioka đấy thôi. Oán cừu chồng chất, phái này hẳn đã đặt điều nói xấu hắn nhiều lắm. Nhưng không biết trong số đệ tử Yoshioka còn sống sót, ai đã làm việc vu cáo đê hèn ấy. Dù sao đi nữa, hắn vẫn phải phòng bị. Mối thù quá sâu đậm, không thể khinh xuất.
Miyamoto Musashi chẳng muốn tự bào chữa, lạnh nhạt đáp:
- Té ra là vậy ! Ngày mai tại hạ sẽ đi sớm.
Rồi quay gót, theo sau là tiếng cười chế giễu và những lời khinh mạn của bọn tăng sĩ áo đen:
- Thế mới biết họ đồn hão. Thằng này tầm thường quá, ra quái gì !
- Trẻ tuổi ngông nghênh.
- Thật xấu lây cả những người cầm kiếm !
Miyamoto Musashi quay phắt lại, cau mặt:
- Các vị nói gì ?
- Nói gì thì người đã nghe rõ đấy.
- Này, ta bảo cho mà biết, vì tôn trọng quý giáo, ta sẵn sàng tuân lệnh thủ tòa, nhưng nếu các vị buông lời hỗn xược, thanh kiếm này không để yên đâu ! Phải chăng quý vị muốn gây sự ?
Bọn tăng sĩ áo đen đấu dịu:
- Ấy là chúng ta nói thế. Đệ tử nhà Phật không sát sinh, nhưng những kẻ như ngươi cần được giác ngộ. Khi ra khỏi vùng này hãy coi chừng, tiếng đồn về ngươi chẳng có gì đáng hãnh diện.
- Ta chẳng làm điều gì quấy. Khi giao đấu với Yoshioka, ta không hề có hành động gì đáng phải hổ thẹn.
- Láo !
- Vậy hành động gì quấy nói ta nghe !
Tiếng cười nhạt:
- Ngươi còn dám hỏi à ?
- Này, ta cảnh cáo, nếu không nói hay nói bậy ta cắt lưỡi.
- Ha ! Được lắm ! Ta chỉ hỏi một câu, một câu thôi ! Chúng ta biết ngươi đã chống trả phái Yoshioka dũng mãnh. Nhưng tại sao lại giết một đứa trẻ mới mười ba, không biết võ công gì. Hành động ấy không gọi là dã man, hung tợn thì còn gọi là gì nữa ?
Mặt Miyamoto Musashi xám lại. Đột nhiên, hắn thấy yếu hẳn trước những lời buộc tội gay gắt ấy. Tăng nhân áo đen nói thêm:
- Seijuro tàn phế, đã đi tu. Denshichiro cũng bị ngươi giết. Chỉ còn Genjiro, truyền nhân độc nhất của dòng họ Yoshioka, ngươi cũng giết nốt, khiến dòng Yoshioka tuyệt diệt. Thật quá ư bất nhân và tàn nhẫn ! Thử nghĩ hành động ấy có đáng gọi là kiếm sĩ không ? Cái dũng của người cầm kiếm không phải chỉ có biết giết người mà còn phải xét xấu tốt, nên hay không chứ ! Nếu không giúp cũng dung tha người yếu đuối. Miyamoto Musashi ! Ngươi là kẻ tàn bạo, không có lòng trắc ẩn. Chiếu đạo pháp, phương trượng trục xuất ngươi khỏi nơi này !
Miyamoto Musashi điếng lặng. Những lời trách cứ của bọn tăng sĩ áo đen đúng một phần, nhưng ở địa vị hắn trong trường hợp đặc biệt sáng hôm ấy, hắn đã làm điều phải làm.
Là con người trọng nguyên tắc, Miyamoto Musashi không thể không giết Genjiro. Vì phái Yoshioka đặt thiếu niên này vào địa vị chưởng môn, Genjiro không còn là người thường nữa mà là chủ soái của cả môn phái. Chừng nào Genjiro còn sống, phái Yoshioka vẫn còn. Miyamoto Musashi dù có giết mười, hai mươi đệ tử đi nữa, Yoshioka vẫn không mất. Nhưng ngay từ lúc đầu, nếu hạ thủ Genjiro, đương nhiên trên danh nghĩa, hắn đã tiêu diệt địch thủ. Sau này dù có chết trong đám loạn quân, hắn cũng vẫn là kẻ chiến thắng. Đồ chúng Yoshioka không thể viện cớ gì để lật đổ cái thế ấy được. Đó là luật võ lâm và đó là nguyên tắc. Miyamoto Musashi phải bảo vệ nguyên tắc ấy.
Nhưng hình ảnh hãi hùng của một đứa trẻ cụt đầu nằm lăn trên đất, máu loang thấm ướt cả áo ngoài, cảnh tượng ấy man rợ quá, gây xúc động bi thương cùng cực và để lại trong lòng hắn một niềm ngao ngán không dứt được. Hành động tàn bạo ấy chính hắn cũng thấy ghê tởm. Cho nên Miyamoto Musashi đứng lặng.
Bọn tăng nhân áo đen bỏ đi đã lâu, Miyamoto Musashi trở lại Mudoji, lòng buồn vời vợi. Hắn tự hỏi:
“Chân tướng kiếm đạo ở đâu ? Có thể nào người cầm kiếm phải vứt hết những quan niệm về nhân luân, lòng trắc ẩn, tình yêu thương đi mới mong đạt được hay không ? Để trở thành một vật vô tri vô giác, một hòn đá ?”. Những ý nghĩ chán nản ấy không phải đây là lần đầu tiên hắn có. Nhiều lần trước, sự hoài nghi len lỏi vào tâm tư, Miyamoto Musashi đã có lúc muốn tung hê tất cả, trở về làng cũ cưới Otsu rồi cùng sống với nàng một cuộc đời bình thường như mọi người.
Sống cuộc đời bình thường như mọi người ! Miyamoto Musashi thở dài liên tưởng đến Haiya Shoyu, đến Kaname, đến Quán Ogiya. Và lắc đầu:
“Nếp sống ấy không phải của ta. Ta sẽ trở thành con cá mắc cạn chết trong vũng nước tù hãm mất !”.
Bầu trời chiều trong và dịu, báo hiệu một đêm thanh tĩnh. Vài cánh hoa anh đào rơi nhè nhẹ như bông tuyết, để lại trên cành những đài hoa trơ trụi. Miyamoto Musashi ví những đài hoa ấy với lòng mình, không nơi ẩn náu trước những giằng co ray rứt của trách nhiệm, tình yêu và lòng trắc ẩn. Kể từ sau cuộc chiến trên đồi Sinh Minh, tâm hồn hắn đã đổi khác đi nhiều.
Miyamoto Musashi châm đèn, mang pho tượng đang khắc dở ra làm tiếp. Mai đi rồi, tối nay hắn cố khắc cho xong. Dù xấu hay đẹp, hắn cũng phải hoàn tất pho tượng, cúng vào chùa để làm lễ vật cầu siêu cho vong linh Genjiro và các đệ tử Yoshioka khác.
Đèn lụi dần, hắn đổ thêm dầu và khêu bấc. Giữa đêm sâu, trong cái yên lặng gần như tuyệt đối của ngôi am nhỏ, người ta chỉ nghe tiếng mũi đoản kiếm đục vào gỗ và những miếng vỏ bào mỏng nhẹ nhàng rơi trên chiếu. Mùi gỗ bạch đàn thơm thoang thoảng.
Miyamoto Musashi chăm chú điêu khắc, để cả tinh thần cũng như thể chất vào công việc. Tính hắn xưa nay vẫn thế. Đã không làm thì thôi, làm thì tập trung mọi năng lực cho đến khi xong, bất kể nhọc mệt hay chán nản.
Pho tượng càng lúc càng rõ nét, tuy thô kệch nhưng không đến nỗi không ra hình thù gì. Khi tương đối trông được, Miyamoto Musashi lau sạch, quét dọn chỗ ngồi, đặt tượng lên bàn rồi cúi đầu ba lần lâm râm khấn nguyện.
Ngày mai, hắn sẽ mang pho tượng Quán Thế Âm lên chùa đặt chung với nhiều tượng khác. Tượng không đẹp nhưng hắn đã để hết tâm hồn vào đó, sáng tạo nên bằng lòng thành và niềm ân hận sâu xa, với hy vọng vong linh những người quá vãng sẽ được Phật bà cứu độ đời đời.
Đêm đã khuya, trống sang canh điểm từ lâu. Miyamoto Musashi sắp xếp vật dụng vào đẫy rồi ra nhà sau tắm. Căn phòng vắng vẻ. Hàng cây mềm cạnh am thì thầm và ánh trăng hạ huyền tuy mờ nhạt cũng đủ in lên nền giấy mỏng trên song cửa bóng hàng cây xao động.
Bỗng nghe sột soạt rồi cửa lùa xịch mở. Gió đêm thổi ngọn đèn nhỏ lung lay. Một bóng đen chui vội vào rồi cửa lại được khép ngay tức khắc.
Miyamoto Musashi ở nhà sau bước ra, mình còn quấn tấm khăn ẩm. Hắn trải chiếu dọn chỗ nằm và tắt đèn, túi hành trang để cạnh. Lúc sau đã nghe tiếng hắn thở đều và tiếng ngáy nho nhỏ.
Từ dưới gầm bàn thờ, bóng đen chui ra êm nhẹ như một con mèo. Tiếng ngáy dừng lại. Bóng đen vội nằm ép xuống sàn. Đến khi tiếng ngáy trở lại đều đều, bóng đen mới tiếp tục bò đến gần chiếu.
“Mày !”. Một giọng khàn khàn đồng thời ánh thép loáng lên dưới ánh trăng chênh chếch chiếu qua song. “Xem mày có thoát ...”. Nhưng câu nói chưa dứt, bóng đen đã bị hất ra ngoài cửa sổ đánh rầm ! Song cửa gẫy răng rắc cùng với tiếng thân người rơi bịch trên nền đất. Tiếng kêu đau đớn, cành lá rơi lả tả, rồi cảnh vật trở về yên tĩnh như cũ.
Miyamoto Musashi đã ngồi dậy từ bao giờ, dựa lưng vào vách, nắm chặt chuôi kiếm, lắng nghe động tĩnh. Thấy không có gì lạ, hắn vội vàng xách kiếm ra hiên. Nhìn bóng đen nằm co quắp dưới hè, Miyamoto Musashi thận trọng đến gần. Nghe rên rỉ, hắn sực nhớ lúc nãy khi vùng dậy gạt mũi dao, hắn cảm thấy nhẹ hẫng. Như một cục bông. Không biết kẻ này là ai, định ám sát hắn sao đường dao yếu thế, như chẳng có công lực gì cả.
Miyamoto Musashi quát:
- Ngươi là ai ? Sao vào đây hành thích ?
- Ừ ...ừ ...Takezo ! Đã đến nước này ...ối chao, đau ... !
- Ủa, bà Honiden !
Miyamoto Musashi ngạc nhiên. Té ra không phải là đệ tử Yoshioka hay tăng nhân Hiei vì ghét hắn mà đâm lén khi hắn ngủ. Hắn cúi xuống, vực bà lên, nói:
- Để con dìu bà vào am. Ngoài này lạnh.
Bà Honiden không hơi sức đâu chống cự nữa, mặc hắn muốn làm gì thì làm !
Nhưng bà luôn mồm kêu đau:
- Takezo, bây giờ mày bắt được ta thì hãy giết ta đi. Ối ! Đau quá ! Chắc gãy lưng mất !
Miyamoto Musashi bế bà Honiden đặt lên chiếu, đắp chăn và gối đầu cho bà. Hắn an ủi:
- Bà nằm đây, con đi pha trà. Bà nằm nghỉ đến sáng mai hãy hay.
Nhưng bà Honiden lắc đầu đáp yếu ớt:
- Không ! Ta không uống trà của mày. Thằng súc sinh ...
Miyamoto Musashi lúng túng, không biết xử trí ra sao. Hắn xích ra xa thầm nghĩ:
“Không biết bà đã gặp Matahachi chưa ? Chắc bà là người lên chùa kể tội, nói xấu ta với các tăng nhân phái Hiei. Thảo nào họ thay đổi ý kiến !”. Nghĩ vậy nhưng hắn vẫn vào nhà trong đun nước.
Lúc mang trà ra, bà Honiden đã thiếp đi từ bao giờ. Miyamoto Musashi để cho bà nằm nghỉ, ngồi uống trà một mình, canh chừng cho tới sáng.
Khi chú tiểu Gehen đến dọn dẹp xong, Miyamoto Musashi theo chú lên yết kiến thủ toà. Hắn trình bày tự sự, cúng pho tượng do chính tay hắn tạc, đồng thời cũng thỉnh cầu để cho bà Honiden lưu lại chùa ít lâu đến khi bình phục.
Bấy giờ vị hoà thượng thủ toà mới vỡ lẽ. Tuy nhiên ông xét để cho bà Honiden lưu lại chùa có điều bất tiện. Nhân có sư thầy thuê bò từ tỉnh Omi chở phẩm vật lên núi, ông đề nghị để con bò ấy cho bà Honiden cưỡi đến tỉnh Omi rồi nhờ Miyamoto Musashi trả bò cho chủ hộ.
Thấy cách này thuận tiện, Miyamoto Musashi vui vẻ nhận lời.

Acmagiro
05-04-2008, 07:36 PM
CHƯƠNG 49

BÌNH SỮA ĐỔ





Sơn đạo từ đỉnh đồi Sinh Minh đến tỉnh Omi gập ghềnh vòng vèo như rắn lượn. Miyamoto Musashi dẫn bò thong thả xuống dốc. Trên lưng bò, bà Honiden nằm sấp, hai tay ôm cổ con vật miệng rên khe khẽ.
Sợ bà lão mệt, Miyamoto Musashi quay lại:
- Hay ta dừng chân chỉ một chút. Đường núi khó đi mà bà với con cũng chẳng có gì vội ...
Bà lão lặng thinh như không nghe thấy.
Đặt được bà Honiden lên lưng bò cũng là một điều khó khăn. Bà lão nhất định không đi và cũng nhất định không cưỡi bò. Để thuyết phục, Miyamoto Musashi phải nói khéo, nhấn mạnh rằng chùa là nơi thanh tĩnh, phụ nữ lưu lại không tiện, phiền đến sự thanh tu của các tăng sĩ. Bấy giờ bà mới nghe và vì bị cái ngã đau quá, toàn thân ê ẩm nên bà đành phải cưỡi bò vậy.
Bà Honiden tỏ vẻ khó chịu mỗi khi Miyamoto Musashi hỏi han hay săn sóc. Sự ân cần của gã thanh niên chỉ làm tăng thêm sự nhục nhã và niềm uất hận của bà mà bà không làm gì được. Bà yên lặng biểu lộ sự khinh bỉ.
Miyamoto Musashi không hiểu sao mẹ người bạn cũ của mình lại có thái độ ấy. Đã bao lần hắn bị phiền. Những mẹo vặt của bà khiến hắn suýt chết mấy lần. Nhiều lúc mất bình tĩnh, hắn muốn giết phứt bà đi cho rồi, nhưng nghĩ lại thì không nỡ, nhất là lúc này bà yếu trông thấy, đi không được mà cũng chẳng thốt ra tiếng.
Nhớ lại những lời nói độc địa của bà Honiden, Miyamoto Musashi mỉm cười. Bây giờ nằm yên như thế kia, không rủa xả được, chắc bà tức lắm.
- Đường núi khấp khểnh mà con bò lại gầy. Bà chịu khó một chút, đến tỉnh Omi, con tìm thầy và mua thuốc trị thương cho bà.
Bà Honiden vẫn im lặng.
- Hay là bà ngồi xuống vệ đường này nghỉ, cho nó giãn gân cốt ...
Rồi không đợi trả lời, Miyamoto Musashi buộc bò vào gốc cây, đỡ bà lão xuống. Bà dựa đầu vào thân cây, tóc xõa rũ rượi, gạt tay Miyamoto Musashi ra, miệng lẩm bẩm câu gì không rõ.
Buổi sáng đầu mùa hạ đẹp vô cùng. Gió ấm mơn man và ở dưới chân đồi, mặt hồ Biwa lóng lánh như tấm gương trong.
- Chắc bà khát ? Miyamoto Musashi vừa hỏi vừa tháo đẫy. Con có mang nước và cơm nắm. Bà ăn một chút cho đỡ đói nhé ?
Bà Honiden vẫn bướng bỉnh lắc đầu.
- Từ hôm qua bà chẳng ăn uống gì. Như thế thì càng bệnh thêm thôi. Quanh đây không có thầy thuốc, chứ nếu có, con đã mời đến chữa cho bà rồi. Hay con chia đôi phần ăn này, bà dùng với con một nửa ?
- Không đời nào !
- Bà nói gì ?
- Ta dù có chết đói, xác để cho quạ tha chứ không đời nào ăn cơm của kẻ thù !
Rồi quay đi, bà nhổ bọt.
Miyamoto Musashi lắc đầu. Hắn không lấy thế làm giận, chỉ tội nghiệp cho bà lão.
Không ngờ sự hiểu lầm của bà sâu xa và dai dẳng đến thế. Có lẽ nếu gặp con trai, sự tức giận ấy sẽ giảm bớt và giúp bà thông cảm với hắn hơn. Miyamoto Musashi nghĩ bà đã giã, cũng như mẹ mình nên hắn cố tìm lời an ủi:
- Bà nghĩ lại đi. Bà yếu lắm, phải ăn chút gì để sống mà gặp Matahachi chứ. Bà có muốn gặp Matahachi và thấy hắn thành công không ?
Bà lão trừng mắt:
- Việc gì đến mày ? Rồi mày biết, nó sẽ thành công, không cần mày nhắc.
- Con cũng nghĩ thế. Nhưng bà phải giữ gìn sức khỏe để còn nhìn thấy hắn chứ.
- Đồ giả nhân nghĩa. Đừng tưởng nói khéo thì ta quên mối thù đâu !
Miyamoto Musashi buồn thấy bà lão cứ hiểu lầm hắn mãi. Nói với bà lão chẳng khác gì đánh bùn sang ao. Hắn bực mình bỏ đi, để mặc bà ngồi bên gốc cây với con bò cái.
Xách đẫy bước tới sau một tảng đá lớn, hắn giở cơm nắm ra ăn. Nắm cơm gói trong lá khô cùng với đậu nấu đường, hắn thấy ngon miệng, nhưng cũng chỉ ăn một nửa, còn một nửa bọc lại cất vào đẫy, phòng khi nào bà Honiden hỏi đến.
Nghe tiếng lào xào, Miyamoto Musashi quay nhìn về phía chỗ bà Honiden. Một người đàn bà nhà quê tóc cắt ngắn, y phục tương tự như y phục các phụ nữ trong vùng nhưng gọn ghẽ hơn, đang đứng nói chuyện với bà lão:
- Trong quán cháu có người khách trọ Ốm. Cô ấy muốn uống sữa. Lão bá cho cháu vắt sữa con bò này được không ?
- Ta không biết. Vùng ta ở không nuôi bò sữa, chẳng hiểu nó có sữa không ?
- Để cháu thử.
- Ngươi biết vắt sữa bò à ?
- Dạ biết.
Nói đoạn ngồi xuống bên con vật, rút trong bọc ra một cái bình nhỏ thường dùng để đựng rượu, lúi húi vắt. Chẳng mấy chốc đã được lưng bình. Khi đầy, người đàn bà đứng dậy cười toét miệng:
- Cám ơn lão bá. May quá, không phải xuống núi.
Rồi lấy vải bọc miệng bình, tong tả quay gót.
- Này chị kia !
Tiếng bà Honiden gọi giật lại. Bà ngó trước trông sau không thấy ai, bèn ghé tai người đàn bà ấy nói nhỏ:
- Cho ta một hớp được không ? Một hớp thôi, ta khát quá !
Người đàn bà ngạc nhiên nhìn bà lão, lưỡng lự một lát rồi mở miếng vải, đưa bình sữa cho bà.
Bà Honiden vồ ngay lấy tu ừng ực, sữa tràn cả ra hai bên mép. Lát sau bà nhăn mặt, đưa trả:
- Sữa gì vừa nhạt vừa tanh, còn khó uống hơn thuốc. Nhưng cũng đỡ khát.
- Lão bá sao thế ? Ốm à ?
- Ừ, ốm, nhưng thường thôi. Ta cảm gió xoàng.
Bà đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Không thấy ai, bà có vẻ khỏe hẳn ra. Bà hỏi:
- Này chị, đường này đi đâu thế ?
- Đến tỉnh Omi dưới núi.
- Ta muốn đi tắt, có đường nào không ?
Người đàn bà ngạc nhiên nhưng cũng đáp:
- Có, mà lão bá định đi đâu ?
- Đâu cũng được. Ta chỉ muốn tránh mặt thằng vô lại kia thôi.
Nói đoạn hất hầm về phía Miyamoto Musashi ngồi. Người đàn bà nhìn theo chẳng thấy ai lại càng ngạc nhiên lắm.
- Đường nào ? Chỉ ngay cho ta đi !
- Lão bá đi độ một quãng nữa thì có con suối. Rẽ trái ngược lên phía bắc rồi cứ thế mà đi thẳng, chừng đến trưa là tới Omi.
- Vậy được. Trời Phật phù hộ ngươi.
Rồi hạ thấp giọng:
- Nếu gặp ai hỏi, chớ nói chỉ đường cho ta nghe !
Đoạn tay giữ áo, tay cầm gậy lẩn vào đám cỏ tranh đi mất. Người đàn bà ngẩn ngơ chẳng hiểu ra sao, hết đứng nhìn con bò lại nhìn quãng đường bà Honiden vừa cất bước.
Tiếng cười của Miyamoto Musashi ở phía sau làm người đàn bà giật mình.
- Bác ở gần đây phải không ? Chồng bác đốn củi hay làm rẫy ?
Nhìn chàng thanh niên cao lớn có vẻ giang hồ đãng tử đột nhiên xuất hiện, người đàn bà hơi sợ. Nhưng dường như quen với những mẫu người như thế qua lại vùng này nhiều lần, chị ta mạnh dạn đáp:
- Không. Chúng tôi mở quán trọ.
- Xa không ?
- Cũng gần thôi, dưới triền núi.
- Vậy hay lắm. Ta muốn nhờ một việc, đưa hộ phong thư này cho người quen, bác giúp được không ? Ta sẽ trả tiền sòng phẳng.
Người đàn bà bán quán tỏ vẻ ngần ngại.
- Ta không phải tên vô lại như bà cụ vừa rồi nói với bác đâu. Ta chỉ có ý định giúp bà cụ nhưng bây giờ bà ấy đã khỏe, đi được rồi thì càng tốt, ta khỏi phải bận tâm nữa.
- Nhưng còn người bệnh ở quán. Làm sao mang sữa về ?
- Không khó gì. Ta sẽ mang về giúp và đợi bác ở quán.
Thấy được mối hàng lại có tiền công, người đàn bà vui vẻ nhận lời.
- Vậy khách quan định đưa thư cho ai ?
- Cho một người tên Otsu ngụ tại dinh tướng công Mitsuhiro, khu bắc ngoại thành.
Vừa đi vừa về thì khoảng nửa đêm bác đã trở lại nhà được rồi, có gì mà ngại.
Thỏa thuận xong, Miyamoto Musashi lấy giấy bút viết mấy câu cho người thiếu nữ mà khi ở Mudoji không đêm nào hắn không nghĩ đến, rồi trao cho người đàn bà. Tần ngần trông theo đến khi người ấy khuất dạng, hắn mới cầm thừng dẫn bò đi. Lòng hắn buồn vui lẫn lộn.
“Không ngờ ta còn có cơ hội gặp lại Otsu. Giờ này không biết nàng đã bình phục hẳn chưa. Nhận được thư ta, chắc thế nào nàng cũng lên đường ngay. Jotaro cũng thế.
Trễ lắm là trưa mai ta đã gặp lại cả hai rồi”.
Miyamoto Musashi háo hức như khi còn bé chờ mẹ đi chợ về, đợi ăn cái bánh bỏng mẹ hứa.
Rồi mặc cho bò nhẩn nha bước một, vừa đi vừa gặm cỏ, chàng thanh niên thong thả theo sau. Cốt cách ngang tàng của một kiếm sĩ nhưng dáng điệu lại thư thái nhàn du, trông hắn bây giờ không ai bảo là kẻ mười ngày trước đó đã gây chấn động võ lâm, trên đồi Sinh Minh, ngã ba Quan Ngoại.
Mấy câu Miyamoto Musashi viết cho Otsu thật giản dị:
“Cầu Hanada trước đây nàng đợi ta. Bây giờ ta đợi nàng ở cầu Kara, tỉnh Omi. Gặp nhau, nhiều chuyện muốn nói”.
Hắn muốn viết thêm vài lời âu yếm nữa để tỏ tình ý thiết tha, nhưng lại thôi. “Ồ, chắc Otsu sẽ hiểu”. Nghĩ đến “nhiều chuyện muốn nói” viết trong thư, hắn mỉm cười.
Đến quán, Miyamoto Musashi buộc bò vào gốc cây rồi xách bình sữa tới trước cửa quán. Cũng như đa số các quán trọ thời đó, quán này có một mái hiên rộng, ở phía trước kê vài cái bàn gỗ tạp thô sơ để lữ khách ngồi ăn những món điểm tâm thườ ng hoặc uống trà. Nếu muốn dùng cơm thịnh soạn hơn và có người hầu thì vào phòng trong, bên lò sưởi và đồng thời cũng là chỗ nấu bếp. Miyamoto Musashi đến gần bàn ngoài hiên hỏi vọng vào:
- Quán có ai không ? Ta mang sữa tới đây này !
Một người đàn bà trung niên chạy ra. Miyamoto Musashi giao bình sữa cho mụ và nói:
- Sữa của khách.
Người đàn bà trố mắt nhìn, vẻ không hiểu. Miyamoto Musashi giải thích rõ đầu đuôi, bấy giờ mụ mới vỡ lẽ, bèn gọi người đàn ông đang lúi húi bên bếp lửa ở trong nhà:
- Qúy khách ! Sữa quý khách sai đi mua đã mang về đây này !
Người đàn ông chùi tay vào vạt áo quay ra. Gã còn trẻ nhưng nét mặt gầy, buồn và có vẻ chán chường. Mí mắt hùm hụp, đỏ hoe, chẳng hiểu vì thức khuya hay vì rượu.
Đỡ bình sữa từ tay người đàn bà, gã nhìn chàng thanh niên đứng ngoài hiên. Bỗng kinh ngạc, mồm há hốc:
- Takezo !
- Ủa ! Matahachi !
Miyamoto Musashi cũng kêu lớn, kinh ngạc không kém. Và giơ tay ra đón bạn. Matahachi cũng giơ tay. Bình sữa rơi vỡ toang, mảnh tung tóe trên nền đất, sữa đổ lênh láng.
Hai người bạn ôm lấy nhau, cánh tay siết chặt. Miyamoto Musashi vỗ nhẹ lên lưng Matahachi:
- Đã bao lâu rồi không gặp mày ! Thật không ngờ ...Có lẽ từ sau vụ Sekigahara đấy nhỉ ...
- Ờ ...sau trận Sekigahara ...Đồi Ibuki ...
Họ bỏ nhau ra mà vẫn còn nắm chặt tay nhau, trìu mến. Miyamoto Musashi nhìn thẳng vào mặt bạn:
- Mày già hơn trước nhiều.
- Hơn sáu năm rồi còn gì ...Bao nhiêu biến chuyển. Tao đã hăm bốn.
Mùi sữa thoảng bay ngòn ngọt, bao bọc lấy hai người như đưa họ lùi về dĩ vãng, lúc cả hai còn là những đứa trẻ ngây thơ bên gối mẹ trong một làng nhỏ vùng sơn cước.
- Takezo ! Giờ mày nổi tiếng lắm rồi, đâu còn là thằng Takezo ngày xưa nữa. Để tao gọi mày là Miyamoto Musashi cũng như mọi người. Chuyện mày một mình đánh nhau với cả phải Yoshioka trên đồi Sinh Minh ai cũng biết. Lại còn những chuyện trước đây nữa, tao có nghe kể lại ...
Miyamoto Musashi ngượng, hơi đỏ mặt:
- Ồ, còn phải học nhiều. Tao ở vào thế bắt buộc phải tự vệ đấy thô i. Trên đời này xem ra nhiều kẻ có danh mà không có thực nên kể như tao may mắn. Thôi, nói chuyện mày đi. Mày trọ Ở đây đấy à, Matahachi ?
- Ừ, cũng đã được mươi ngày. Tao bỏ Kyoto đi Edo nhưng được nửa đường thì có trở ngại ...
- À ra vậy ! Họ bảo tao trong quán này có người ốm nhờ mua sữa. Mày ốm hả ?
- Ờ ...không ...không ...Đấy là người đi với tao.
- Cũng phiền nhỉ ...Gặp mày tao mừng quá. Lần chót nhận được tin mày đến nay đã ba năm. Mày viết bức thư đưa thằng bé làm ở quán rượu chuyển, nhớ không ? Bấy giờ tao đang trên đường đi Nara ...
Matahachi cúi đầu, hy vọng Miyamoto Musashi quên những lời khoác lác của gã viết trong thư hồi đó. Hắn mà nhắc lại thì thật là xấu hổ. Nhưng trong cơn vui mừng, Miyamoto Musashi kéo tay Matahachi:
- Ra ngoài này nói chuyện cho tự nhiên. Ai cùng đi với mày thế ?
- Người quen. Mày để ý làm gì !
Cả hai dắt tay nhau ra khỏi quán.
- Bây giờ mày làm nghề gì sống ?
- Tao không có tài, nên kiếm chỗ quyền quý dựa dẫm cũng khó ...
- Vậy có nghĩa là mày thất nghiệp ? Trước đây cũng thế, không làm gì hết à ?
- Cũng có chút đỉnh vài nghề cực nhọc. Nhưng thôi, đừng nhắc đến những chuyện ấy nữa. Tao buồn lắm.
Mắt Matahachi mờ đi. Những hình ảnh của quá khứ tủi cực bên cạnh Oko trong một căn phòng nhỏ hẹp, hôi hám, sặc mùi ẩm mốc và mùi rượu sa-kê rẻ tiền hiện về, làm gã nghẹn họng. Tâm trạng ấy không qua được mắt Miyamoto Musashi. Hắn kéo Matahachi ngồi xuống cỏ:
- Ngồi xuống đây. Kể hết chuyện mày cho tao nghe đi. Sự thể ra sao mà khốn khổ thế ?
- Cũng tại Oko hết. Mụ ấy mê hoặc tao ...
Rồi Matahachi kể cho Miyamoto Musashi nghe quãng đời gã sống bên người đàn bà sa đọa ấy. Miyamoto Musashi ngao ngán, vừa thương hại vừa phẫn nộ cho bạn. Tại sao Matahachi lúc nào cũng tự coi mình kém cỏi như vậy ? Tại sao hắn lại đổ lỗi cho người khác, dường như muốn quy hết trách nhiệm cho họ về những ngu xuẩn, hèn yếu của mình ?
- Matahachi ! Mày cứ nói tại Oko thế này, tại Oko thế nọ, nhưng mày có bao giờ nghĩ rằng mày đã thiếu tự chủ và dại dột không ?
Giọng hắn trở nên nghiêm khắc:
- Chỉ có mình mới có thể tạo cho mình một cuộc đời đáng sống. Ngoài mày ra, không ai làm gì cho mày được !
Matahachi thở dài, giọng thiểu não:
- Ta cũng nhận phần nào có lỗi, nhưng định mệnh cả. Nếu không gặp Oko ...
- Lại thế rồi ! Thời đại này mà mày còn nói thế thì đời mày vất đi, không bao giờ thành đạt. Mày muốn đi Edo lập nghiệp thì cứ đi, nhưng đó là chỗ bon chen danh lợi, rập khuôn theo kẻ tầm thường tất không khá. Phải có những hành động hơn người.
- Thì lúc trước ở làng tao cũng muốn theo nghề cung kiếm ...
- Ừ, đời còn dài, sự cố gắng là cần thiết. Có người nói tài năng chỉ do tập luyện.
Tao nghĩ đúng. Ngoại trừ những kẻ tài năng xuất chúng không kể, còn nếu muốn đạt được một trình độ tài năng bình thường nào đó thì phải bền chí tập luyện. Ở Edo, mày nên kiếm một nghề độ nhật đã và đừng quên lập chí.
Matahachi bứt một cọng cỏ đưa lên miệng cắn. Lòng gã nặng trĩu hổ thẹn. Gã hối hận đã để trôi qua sáu năm thanh xuân quý báu.
Những chuyện Matahachi nghe kể lại về Miyamoto Musashi đúng hay không, không biết nhưng trước mặt gã bây giờ là Miyamoto Musashi bằng xương bằng thịt, khuyên gã những lời chân thành, đôi khi nghiêm khắc, với phong thái chững chạc, tự tin, thật khác xa với gã. Nhưng dù Miyamoto Musashi vẫn mày tao với gã, coi gã như bạn thân, Matahachi thấy thái độ nghiêm nghị ấy gần như cao ngạo. Gã đau đớn ý thức sự hèn kém của mình.
- Matahachi ! Mày phải cố gắng !
Miyamoto Musashi vỗ vai bạn, khuyến khích, nhưng đồng thời cũng linh cảm qua cái vỗ ấy, một tâm hồn bạc nhược, nếu không được nâng đỡ, dìu dắt hàng ngày thì khó mà thoát khỏi những cám dỗ bên ngoài.
- Thôi, việc đã qua thì cho qua, đừng nghĩ đến nữa. Mày đã để mất sáu năm thì coi như mày bắt đầu trễ sáu năm. Những năm ấy là một bài học quý giá. Nhưng phải bắt đầu lại ...
Matahachi cúi mặt lặng thinh. Miyamoto Musashi đổi sang chuyện khác.
- À, tao mới gặp bà cụ.
- Mẹ tao hả. Bà đi đâu vậy ?
- Lên chùa lễ Phật.
- Ờ. Bà cụ thì không chùa nào không đến. Chẳng biết bây giờ bà có khỏe không ?
- Tao lấy làm lạ sao mày không thừa hưởng được sức mạnh và đức kiên trì của bà cụ. Thật khó có người đàn bà nào ở tuổi bà mà được thế.
Nhìn Matahachi, Miyamoto Musashi không hiểu sao gã lại là con bà Honiden được.
Bỗng nảy ra ý nghĩ:
nếu Matahachi nên người khá, có lẽ bà bớt hiểu lầm hắn.
- Này Matahachi ! Sao mày có người mẹ như thế mà mày không làm điều gì cho bà cụ được vui lòng. Tao không còn cha mẹ, không làm gì được, chứ mày ...Tao có cảm tưởng mày chẳng phải là đứa con hiếu thảo. Tao nghĩ không gì sung sướng cho bằng có người để chia sẻ nỗi vui buồn. Tao chẳng phải là nhà đạo đức đi thuyết giảng những giá trị luân lý gì đâu, tao chỉ là một lãng tử. mày không biết nỗi cô đơn đứt ruột của tao khi đứng trước một cảnh đẹp mà không có người thân để cùng chia sẻ niềm vui thích.
Ngừng một lát, Miyamoto Musashi cầm tay Matahachi:
- Mày biết những lời tao nói là thành thực, giữa một người bạn và một người bạn.
Hơn nữa lại là người cùng xóm, thân nhau từ hồi còn uống chung một bình sữa. Matahachi ! Chúng ta hãy lấy lại cái tinh thần của chúng ta hồi trước khi dự trận Sekigahara.
Bây giờ chiến tranh hết rồi, nhưng sự chiến đấu để sống còn trong một thế giới hòa bình không phải là dễ. Phải có kế hoạch, phải có tinh thần tranh đấu. Nếu mày quyết tâm làm lại cuộc đời, tao sẽ cố hết sức giúp ...
Tay cầm cọng cỏ mà nước mắt chảy tràn trề, Matahachi nghe những lời bạn nói thật chí tình, không như những lời mắng nhiếc của mẹ gã. Gã xúc động, quệt nước mắt:
- Mày nói đúng. Cảm ơn mày đã chỉ cho tao đường ngay. Tao sẽ làm theo lời mày bảo, trở nên người khác ngay từ bây giờ. Nếu không thành được kiếm sĩ danh vọng thì cũng lập thân được. Đến Edo, tao sẽ tìm thầy để học.
- Vậy tốt. Tao sẽ tìm cho mày một thầy giỏi để chỉ bảo cho mày. Có chí thì vừa làm vừa học cũng thành công.
- Nhưng Miyamoto Musashi ...
- Gì ?
- Còn một chuyện nếu không cho mày biết thì áy náy quá ...
- Có gì mà áy náy. Tao hứa giúp thì giúp tận tình, đừng lo lắng về tiền bạc ...
- Không ! Không phải chuyện ấy. Chuyện người đồng hành với tao kia ...Người đó là một thiếu nữ.
Miyamoto Musashi cười:
- Thì có sao !
- Nhưng người thiếu nữ này mày cũng biết.
- Ai ?
- Akemi !
Miyamoto Musashi bất giác “ồ” lên một tiếng. Hắn định nói:
“Thế thì tệ quá !” nhưng ngừng ngay được.
Akemi không sa đọa như mẹ, nhưng ngụp lặn trong nếp sống phóng đãng từ nhỏ, nàng rồi cũng sẽ như mẹ nàng mà thôi. Huống chi sau khi bị thất thân với Seijuro, nàng còn cặp kè với Kojiro, giờ lại ở với Matahachi. Không biết sợi dây oan nghiệt nào đã buộc Matahachi với mẹ con Oko như vậy !
Thấy Miyamoto Musashi không nói, Matahachi tưởng hắn ghen.
- Mày giận tao đấy hả ? Tao nói thực vì chẳng muốn giấu mày điều gì.
- Đồ ngốc ! Điều tao quan tâm là mày chứ không phải Akemi. Không biết mày tự chuốc lấy khó khăn hay tại định mệnh khắc nghiệt. Tao tưởng sống với Oko, mày đã học được bài học đắt giá rồi !
Như đứa trẻ phạm lỗi bị mắng, Matahachi lặng thinh.
- Qúy khách ! Thị nữ tìm các vị mãi không thấy.
Người hầu trong quán chạy ra, hớt hải:
- Cô nương có ở đó không ?
- Cô nương nào ? Akemi hả ?
- Cô nương ốm nằm trong phòng. Thị nữ mang thức ăn vào không thấy ai hết.
Dường như có linh tính báo trước. Miyamoto Musashi đoán được tự sự, nhưng hắn vẫn nói:
- Ta trở lại quán coi !
Trong phòng, chiếc chiếu vẫn còn trải ở góc. Gối xô lệch, chăn chưa gấp. Matahachi mở ngăn kéo và cửa phòng xếp hành trang:
- Quần áo đem đi hết ! Cả tiền bạc ! Không còn đến cái lược hay cái khăn nữa !
Trời ơi !
Matahachi mắt lạc thần, sắc mặt trắng bệch. Gã tất tả chạy ra hiên rồi lại trở vào, mở tủ tìm kiếm, bối rối:
- Nàng bỏ ta ! Sao lại bỏ ta ? Đem cả tiền bạc đi ! Làm sao bây giờ ?
Mụ người làm và chủ quán đứng trước cửa quán ngơ ngạc nhìn nhau rồi nói:
- Chắc chưa xa đâu. Khách quan đi tìm ngay còn kịp. Biết ngay mà, khi mới đến, ta đã đoán nàng giả ốm.
Matahachi chạy ra hiên, đứng nhìn con đường ngoằn ngoèo thoai thoải dốc ở chân núi ẩn hiện giữ những bụi lau cao. Gã chẳng rõ và cũng không đoán được Akemi đã cao chạy xa bay rồi hay còn lẩn quất đâu đây.
Bên gốc cây, con bò nghểnh cổ kêu một tiếng “bò ... O ...” dài. Lá reo xào xạc.
Nắng hè bắt đầu gay gắt.
- Matahachi ! Âu đó cũng là điều may. Hãy để nàng tìm nơi hợp ý, sống cuộc đời nàng ưa thích.
Một con bướm vàng cánh mong manh dưới nắng, theo gió thổi, chao đi chao lại rồi mất hút dưới vực sâu.
Miyamoto Musashi nhìn bạn nói tiếp:
- Mày vừa hứa với tao làm lại cuộc đời thì đây là lúc thuận tiện nhất, còn chờ gì nữa ?
Matahachi cắn môi để khỏi bật khóc. Gã ừ một tiếng khẽ. Tiếng ừ dường như không thoát ra khỏi miệng và cũng dường như chẳng có một chút nhiệt thành nào, trong khi mắt gã vẫn đăm đăm nhìn con đường trước mặt.
Miyamoto Musashi lay vai gã:
- Nghe tao, Akemi đi đâu cũng chẳng nên theo, vì không phải đấy là chỗ của mày. Hãy tìm gặp bà cụ thân sinh ra mày ngay. Đi bây giờ còn kịp, đến suối rẽ lên phía bắc về tỉnh Omi.
Rồi không đợi Matahachi phản ứng, Miyamoto Musashi vào phòng mang dép và hành trang ra cho bạn. Hắn rút ở bọc ra túi bạc vụn:
- Tao không có nhiều nhưng có thể chia cho mày một nửa. Nếu mày đi Edo, tao sẽ đi với mày. Ngày mai, đến cầu Kara, tao sẽ đợi mày ở quán gần đó.
oo Matahachi đi rồi, Miyamoto Musashi lui vào trong nhà nằm nghỉ trên ghế dài kê gần hiên. Hắn muốn đợi thư phúc đáp của Otsu.
Khí hậu dễ chịu và ánh nắng đang thịnh của một ngày hè ấm áp làm Miyamoto Musashi lim dim mắt, thả hồn theo giấc mộng. Nhìn hai cánh bướm chập chờn trên những cụm hoa dại ven đồi, hắn tưởng một trong hai cánh bướm ấy là ... Otsu.
Bỗng những tiếng cười nói xôn xao phía ngoài vọng vào làm Miyamoto Musashi chú ý:
- Bọn ấy hữu danh vô thực.
- Ừ. Ypshioka trước tiếng nổi như cồn, bây giờ tệ quá. Đời nào cũng thế, xem ra hậu duệ không bằng tổ phụ. Yoshioka ở đời thứ ba này không còn được ai kính trọng nữa.
- Đúng vậy. Con cháu không đáng an táng cạnh tiền nhân.
- Sao không ? Khi chết tớ sẽ được táng gần mộ cụ tổ nội tớ ở đồi này.
Tiếng cười ha hả:
- Chúng mình là những thằng thợ đá thì kể làm gì ! Ấy là nói chuyện các nhà quyền thế, có danh vọng kia. Như Yoshioka ... như Ogasawara Genshinsai …
Bọn công nhân chất phác này, ngày nào cũng vào khoảng cuối giờ mùi, thường kéo nhau lên quán nhấm nháp vài ly rượu trước khi tản mát về các ngả trong xóm. Họ cười nói oang oang, bàn đủ mọi thứ chuyện. Những ngày gần đây, chiến tích của Miyamoto Musashi, một mình chống cự với cả phái Yoshioka, là đầu đề cho bọn họ bàn tán không dứt.
Một anh thợ đá còn trẻ hoa chân múa tay, thuật lại những chiêu kiếm của Miyamoto Musashi cứ như thật. Y kể vanh vách danh tính các cao thủ Yoshioka bị người “anh hùng dân gian” (danh từ của y) giết ra sao, sự tấn công vũ bão của người anh hùng ấy vào đám đồ chúng Yoshioka như vào chỗ không người như thế nào khiến cả bọn gật gù tán thưởng. Chuyện này chắc y kể đã nhiều lần và mỗi lần kể lại thêu dệt thêm vài chi tiết mới nên cử tọa khoái lắm, nhất là kèm theo lời tường thuật, y còn lấy cái chổi ở góc phòng, bắt chước biểu diễn những chiêu kiếm ấy một cách sống động nữa.
Bọn thợ đá chăm chú ngồi nghe không để ý tới bốn người đàn ông vừa bước vào quán. Họ ăn mặc ra dáng kiếm sĩ nhưng ba người khoác tăng bào đen phái Hiei, còn một người trẻ tuổi cao lớn lại trang phục diêm dúa và sặc sỡ như con nít, lưng đeo kiếm dài. Người trẻ tuổi ấy chính là Sasaki Kojiro “Ganryu”.
Cả bốn hách dịch ngồi vào bàn ngay ngoài hiên, khinh mạn nhìn bọn thợ đá khiến bọn này nhột nhạt không dám bàn cãi gì nữa. Kojiro gọi trà bánh rồi cùng các tăng sĩ châu đầu vào nhau nói nhỏ những gì không ai nghe rõ.
Bọn thợ im lặng một lúc, sau đó lại ồn ào hơn trước. Câu chuyện vẫn không ngoài sự tán tụng võ nghệ của Miyamoto Musashi, người mà đối với họ là hiện thân của lòng dũng cảm tuyệt đối.
Nhưng lời tán tụng ấy có lẽ làm rát tai các tăng sĩ Hiei và Kojiro, vì thấy cả bốn ngưng nói chuyện. Kojiro cau mày quay ra lớn tiếng, gọi:
- Này chú kia !
Bọn thợ giật mình. Một người đáp:
- Đại hiệp gọi chúng tôi ?
- Ừ, cái chú trẻ tuổi ngồi ngoài đó. Có vẻ chú đã chứng kiến trận đánh ngay từ đầu.
Phải chăng chú phục Miyamoto Musashi lắm ?
Người thợ tre gãi tai ậm ừ rồi gật:
- Giỏi chứ !
- Chú nói bậy bạ. Ta là Sasaki Kojiro, ngoại hiệu Ganryu, đứng lược trận ấy từ lúc khởi thủy không thể nhầm lẫn được. Thường thì đối với những kẻ không hiểu võ nghệ, ta chẳng lý đến, nhưng các chú huênh hoang tài năng tên đó quá độ, có thể làm cho những ai không được thấy tận mắt như các vị đây, đánh giá nó sai lầm nên ta phải chỉnh.
Có tiếng lẩm bẩm. Một số lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng không ai phản đối gì. Được đà, Kojiro lại tiếp:
- Phải biết rằng tên Miyamoto Musashi đó rất xảo quyệt. Hắn gây hấn với Yoshioka, một kiếm phái nổi danh, chỉ cốt để lấy tiếng trong võ lâm. Phái Yoshioka ai còn lạ gì, bây giờ đang suy yếu. Phái ấy như cái cây mục, đẩy một cái là gãy, ai cũng có thể làm được chứ Miyamoto Musashi tài cán gì ? Sở dĩ không ai làm vì không ai nỡ và vì lòng kính trọng Yoshioka Kempo là người sáng lập ra môn phái ấy mà thôi.
Miyamoto Musashi đã hèn hạ làm chuyện không đáng làm, lại còn đánh lén. Trong những trận giao tranh với Yoshioka Seijuro, Yoshioka Denshichiro, và ngay cả vừa rồi trên đồi Sinh Minh nữa, hắn đều đánh bất ngờ. Đấy không phải là hành động đường hoàng mà là một thủ đoạn đáng khinh bỉ.
Có tiếng người cắt ngang:
- Nhưng Miyamoto Musashi đã đơn độc giao chiến với hàng trăm kẻ địch ...
- Đúng. Mới xem thì tưởng hắn anh dũng. Nhưng không phải ! Đó chỉ là mành lới bày ra để khoa trương thanh thế và lấy tình cảm của võ lâm. Ta chứng kiến vụ này từ đầu. Những chiêu kiếm của hắn toàn là tránh né hoặc dùng mẹo vặt, không phải là những chiêu chính thống. Nếu nói hắn có tài thì cái tài độc nhất nằm ở đôi chân hắn.
Khi gặp dịp, hắn chạy trốn nhanh không ai bì kịp.
Nói đoạn Kojiro cười ha hả, rót mọt chén trà tự thưởng câu nói vừa rồi mà hắn cho là ý nhị. Các tăng sĩ áo đen cũng cười phụ họa, duy bọn thợ ngồi trên ghế loay hoay tỏ vẻ khó chịu.
- Lại còn chuyện này nữa:
hắn giết Yoshioka Genjiro, một đứa bé mới mười ba tuổi không biết võ công. Thật dã man, hành động tàn nhẫn ấy không xứng đáng với tư cách người cầm kiếm, đó là hành động đáng phỉ nhổ chỉ thấy ở những tên vô lại ...
Rồi lan man, Kojiro kể lại những chuyện xấu xa trong thời niên thiếu của Miyamoto Musashi ở làng Miyamoto, những hành vi mà gã nghe thuật lại qua miệng các nhà sư áo đen phái Hiei.
- Thế mà các chú phục hắn, tâng bốc hắn, coi hắn như bậc anh hùng. Ta không có liên hệ gì với kiếm phái Yoshioka mà cũng không thù hằn gì Miyamoto Musashi. Ta chỉ đứng giữa, lấy điều công bằng mà nói. Một người theo kiếm đạo như ta chỉ biết phục vụ sự thật và lẽ phải.
Kojiro ngưng lại, uống một ngụm trà rồi quay qua các tăng sĩ Hiei:
- Trời đã ngả bóng. Bây giờ chúng ta chia tay ở đây để quý vị lên đường kẻo trễ.
Ba tăng sĩ áo đen đứng dậy cùng thi lễ rồi bước ra ngoài. Bọn thợ ngơ ngác một lúc rồi như tù được thả, ùa nhau ra khỏi quán, theo sơn đạo tản mát vào các đường mòn khắp chỗ. Bóng núi ngả dần trùm lên khu rừng và những bụi lau thưa rải rác. Một tiếng chim họa mi vang trong buổi chiều tà, như giục kẻ tha hương mau tìm về tổ ấm.
Kojiro trả tiền xong, bước ra cửa. Bỗng như sực nhớ điều gì, hắn lại quay vào hỏi chủ quán:
- À ông quán, có bấc đèn không ?
- Dạ có, treo trên vách, sát cột. Khách quan cứ tự tiện lấy.
Trong quán chưa lên đèn. Kojiro quờ quạng đến gần cây cột, rứt vài sợi.
Túm bấc đèn rớt xuống đất. Gã cúi nhặt, bỗng thấy có hai bàn chân đi dép cỏ duỗi song song trên chiếc ghế dài cạnh đấy. Theo bàn chân, gã nhìn ngược lên. Một người nằm tên ghế. Nhìn mặt người nằm, gã giật mình đánh thót, tưởng như vừa bị gáo nước lạnh hắt vào mặt. Gã nhảy lui thủ thế.
- Kìa, bằng hữu !
Miyamoto Musashi nhỏm ngay dậy. Đoạn cười, hàm răng trắng bóng trong cảnh tranh tối tranh sáng của gian quán. Mắt hắn chòng chọc nhìn Kojiro.
Kojiro ngượng. Gã có cảm tưởng như Miyamoto Musashi đã nghe hết những lời gã nói và trong cái cười ấy hàm ý chế giễu. Gã lấy lại được bình tĩnh ngay, nhưng trong một thoáng, quả đã biểu lộ sự bẽn lẽn.
- Kìa Musashi huynh ! Nằm trong này hồi nào mà kín tiếng thế ? Gặp lại Musashi huynh, đệ rất mừng.
Nhưng vừa nói xong, gã hối ngay:
câu nói vừa sáo vừa giả dối. Gã chữa:
- Lần trước thật tiếc không được cùng đi với nhân huynh. Võ công của huynh quả là tuyệt thế. Không ai tưởng tượng được một người chiến đấu đơn độc mà lại có thể làm cho toàn phái Yoshioka phải xính vính như vậy.
Miyamoto Musashi mỉm cười đáp lễ:
- Đa tạ quý bằng hữu đã đứng làm trọng tài phân xử. Và cũng đa tạ quý bằng hữu về những lời phê bình võ công của tại hạ. Không mấy khi được nghe người khác phê bình mình, nay được cái hân hạnh ấy, tại hạ thêm sáng mắt. Tại hạ không bao giờ quên.
Lời nói rất ư lễ độ, không mang một chút thù hận, nhưng khiến Kojiro rùng mình. Gã cười gượng:
- Tại hạ cũng vậy, không quên cuộc gặp gỡ hôm nay !
Nói đoạn cúi chào, bước ra cửa đi thẳng.

Acmagiro
06-04-2008, 04:33 PM
CHƯƠNG 50

CÂY LIỀN CÀNH





Jotaro hớn hở bước qua cổng. Chỗ Otsu và Jotaro ở bây giờ là một căn nhà gỗ nhỏ, khuất sau khu vườn trúc cạnh một con suối hẹp. Căn nhà ra. đơn sơ do một cư sĩ bạn Mitsuhiro tướng công cho mượn. Trước cổng treo tấm bảng “Ginkakuji”, chữ đã mờ và nền gỗ nứt nẻ. Tuy đơn sơ, nhưng bầu không khí thanh tịnh của cảnh vật thật hợp với tâm hồn Otsu, người thiếu nữ đa cảm và đau yếu đang cần tĩnh dưỡng này.
Bệnh Otsu thuyên giảm nhiều. Mấy hôm nay nàng đã ăn được chút ít và sắc diện hồng hào hơn. Nhưng mối u tình của nàng vẫn như một màng lưới vô hình ngăn cách nàng với thế giới xung quanh.
Ngồi dưới hàng hiên, Otsu lơ đãng nhìn những đám mây trôi. Nắng chiều đã nhạt. Vài con chim én chao đi chao lại bắt mồi nhắc nàng liên tưởng đến quãng đời thơ ấu xưa kia trên chùa Shippoji. Lúc ấy nàng cũng ngồi như thế này mơ mộng vẩn vơ. Bấy giờ nàng còn là một cô bé thơ ngây, chưa biết buồn phiền, lo nghĩa; nhưng bây giờ, hình bóng và tâm trạng ấy chỉ còn trong dĩ vãng. Và Otsu khẽ thở dài.
- Cô Otsu ! Em đã về !
Tiếng Jotaro vui vẻ gọi đột nhiên kéo nàng khỏi giấc mộng. Jotaro chùi chân trên bãi cỏ trước nhà rồi bước lên hiên đến gần Otsu.
- Cô nghĩ gì mà thừ người ra thế ?
- Không ! Nghĩ gì đâu ! Có tin gì lạ không em ?
- Có. Tin này chắc làm cô vui lòng.
- Tin gì ? Otsu náo nức hỏi.
- Tin sư phụ. Nghe nói ông ẩn trên núi.
- Ồ !
Otsu vui mừng kêu. Nàng lấy tay ôm ngực. Sự xúc động khiến mặt nàng hơi tái.
- Có người bảo hình như ông ở chùa Hiei trong rừng Sinh Minh.
- Vậy cũng đỡ lo. Chắc không xảy chuyện gì nguy đến tính mệnh.
- Cô đi thăm không ? Em kiếm cái gì ăn rồi chúng ta cùng đi, kẻo ông bỏ chỗ ấy thì chẳng biết đường nào mà tìm.
- Ừ, em vào lấy cơm ăn đi, cô để phần trong hộp ấy. Cô ăn rồi.
- Vâng, cô sửa soạn là vừa, em xong ngay bây giờ.
Jotaro nhảy chân sáo xuống bếp. Nó ăn vội vàng rồi lên nhà, nhưng ngạc nhiên thấy Otsu vẫn còn ngồi bên cạnh bàn ngoài hiên, bất động.
- Kìa ! Sao cô không sửa soạn đi ?
- Có lẽ cô không đi đâu, em ạ !
Jotaro sửng sốt:
- Sao vậy ? Lúc cô muốn gặp thầy em, lúc lại không, thế là thế nào ?
Otsu cầm tay Jotaro kéo xuống ghế.
- Cô nghĩ kỹ rồi. Cái đêm gặp thầy em trên núi, cô đã nói hết những điều u uẩn trong lòng. Thầy em có lý tưởng riêng và không muốn sự gì ràng buộc. Trên đời này, có lẽ thầy em và cô chẳng bao giờ còn cơ hội gặp nhau nữa. Cô không rõ có phải thầy em muốn ẩn giấu tung tích hay không nhưng được biết ông đã thoát hiểm là cô yên tâm rồi.
Nếu thầy em không cho người đến tìm cô thì cô gặp ông bây giờ chỉ làm phiền ông mà thôi ...
- Vậy nếu không ai đến tìm cô, cô sẽ sống thế này mãi à ?
Otsu gật.
- Ứ ! Không được !
Jotaro dậm chân phản đối.
Otsu phân vân chẳng biết có nên giải thích cho thằng bé hiểu rõ ý mình không, nhưng nhìn nét mặt hờn giận của Jotaro và nghĩ đến lòng nhiệt thành của nó, nàng không thể không nói. Vả nó đã lớn, có lẽ giãi bày tâm sự cho nó hiểu càng làm tăng sự cảm thông giữa hai người.
- Jotaro. Em đã biết đấy. Cô yêu Miyamoto Musashi với tất cả tâm hồn. Trước đây cô tưởng mối tình không được đáp ứng, nhưng sau khi gặp lại thầy em sau gần năm năm xa cách, cô đã hiểu và tin cậy ở chàng vô cùng. Miyamoto Musashi với cô bây giờ như cây liền cành, dù phải xa nhau hàng vạn dặm hay có bị chia lìa vì cái chết thì hai người cũng vẫn như một. Cho nên cô không thấy cô độc nữa. Cô có thể cứ sống như thế này suốt đời để cầu nguyện cho thầy em tìm được con đường muốn đi và đạt được lý tưởng thầy em theo đuổi ...
- Cô nói dối ! Thế sao cô vẫn muốn gặp ông và khi không được gặp, cô lại khóc ?
Cô có bằng lòng cuộc sống như thế này đâu ?
Otsu rút khăn lau nước mắt. Jotaro cầm tay nàng lắc mạnh:
- Đấy ! Cô lại khóc rồi !
Otsu ngẩng nhìn Jotaro, mắt đỏ hoe nhưng miệng mỉm cười:
- Cô mềm yếu quá phải không em ? Tại cô không cầm được xúc động mỗi khi nghĩ đến thầy em. Em ăn cơm rồi à ?
- Ăn rồi.
Jotaro đáp sẵng. Nó giận Otsu vì có cảm tưởng như bị lừa dối. Mấy ngày nay, Jotaro đã mất nhiều công dò hỏi tin tức sư phụ, hy vọng khi tìm được chỗ ẩn của Miyamoto Musashi, chắc thế nào Otsu cũng đến thăm. Ngờ đâu nàng không cùng một ý. Jotaro bỏ ra suối ngồi.
Chiều xuống thong thả. Bóng núi đổ trên những khu rừng xa loang to dần thành từng mảng màu lam sẫm. Jotaro lấy chân khỏa nước. Nước trong nhưng lạnh khiến nó vội vàng rụt chân lại, xuýt xoa:
- Chà, lạnh dữ !
Ngồi một lúc, cơn giận dường đã tan, Jotaro đứng lên về nhà. Bỗng một gia nhân trong dinh Mitsuhiro tướng công hối hả chạy đến:
- Jotaro ! Có thư !
Vừa nói vừa lấy trong bọc ra một cuộn giấy nhỏ trao cho thằng bé. Trao xong, còn dặn:
- Tướng công nói cô nương phải bảo trọng sức khỏe. Nếu cần giúp đỡ gì, cứ đến dinh.
Jotaro gật đầu, cầm thư. Nhìn chữ đề bên ngoài, nó thốt kêu mừng rỡ:
- Ô ! Đúng chữ thầy ta đây ! Vậy là ông còn sống !
Rồi định bật niêm giở ra đọc, nhưng dừng ngay lại kịp. Thư gửi cho Otsu, không phải cho nó. Hờn giận lại kéo đến, Jotaro xịu mặt, lững thững đi vào. Otsu hỏi:
- Thư của ai đấy em ?
- Của sư phụ !
Nét mặt Otsu tươi hẳn lên:
- Thư gửi cho cô hả ?
- Gửi cho cô ! Nhưng ông ở đâu, cô để ý làm gì ?
Otsu mỉm cười thấy Jotaro giấu thư ra sau lưng. Nàng định giật lấy nhưng Jotaro né tránh, chạy vòng quanh bàn.
- Jotaro ! Em ác lắm nhé !
Otsu đuổi theo. Hai, ba vòng thấm mệt, nàng ngồi thở dốc. Thằng bé ái ngại đến bên, chìa cuốn thư ra:
- Em xin lỗi. Thế mà cô bảo không muốn đi thăm. Không muốn đi thăm mà mới nghe nói có thư đã rối rít cả lên !
Nhưng Otsu không quan tâm đến lời Jotaro chế giễu. Nàng cầm thư chạy ngay vào phòng.
Những ngón tay run rẩy trắng bệch bật vội sáp niêm. Đèn mới khêu mà hoa đèn đã nở, chắc có tin vui. Otsu đọc đi đọc lại không biết chán những chữ thân yêu, nét mực còn đen nhánh. Trong thư, Miyamoto Musashi hẹn rõ nơi gặp. Hai hàng lệ chứa chan, nàng không ngờ có được cơ hội và hạnh phúc như thế.
Bất giác liên tưởng đến câu thơ của Bạch Cư Dị tả nàng Dương Qúy Phi lúc ở âm cảnh được tin vua Đường gửi xuống:
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can Lê hoa nhất chi xuân đới vũ Otsu thẹn, chùi nước mắt, tự nhủ:
“Chắc bây giờ chàng đang đợi ta. Ta phải sửa soạn hành trang ngay mới được !”. Bèn viết vài hàng vội vã cáo biệt chủ nhân cùng Mitsuhiro tướng công rồi xếp quần áo vào đẫy.
Ra khỏi phòng, thấy Jotaro vẫn còn ngồi ngoài hiên, nét mặt ủ rũ, Otsu gọi:
- Jotaro ! Em vào sắp quần áo rồi đi với cô chứ !
Thằng bé chẳng đáp mà cũng chẳng nhìn Otsu. Nàng đến bên đặt tay lên vai nó:
- Em vẫn giận cô đấy à ?
- Sao không giận được ? Thư sư phụ nói những gì mà cô giữ bí mật thế ?
- Ấy chết ! Cô quên ! Tại mừng quá đấy mà. Không có lý do gì mà cô lại giấu em.
Đây, Jotaro đọc đi !
- Không đọc nữa. Em chả muốn đọc.
- Jotaro ! Đọc đi ! Đây là cái thư đầu tiên thầy em gửi cho cô và hẹn gặp cô. Cô mừng quá !
Nét mặt Otsu rạng rỡ khiến Jotaro cũng vui lây. Nó quên hết những điều hờn giận trước.
Tuy trời tối nhưng cả hai đều muốn đi ngay để hôm sau đến kịp nơi hẹn.
- Hôm nay có trăng. Đi ban đêm càng mát, cô nhỉ.
oo Miyamoto Musashi đến tỉnh Omi lúc trời hửng sáng. Vài sợi khói xanh nhạt mỏng manh bốc lên nhẹ nhàng từ những mái rạ. Qua bầu không khí ướt sương, hắn đã nhìn thấy mờ mờ những con đường ngang dọc trong trấn. Miyamoto Musashi tự hỏi không biết Otsu đi đường nào tới. Thư đến tay nàng chắc cũng phải nửa ngày. Ban đêm nàng phải nghỉ, chắc buổi sáng mới khởi hành. Với sức đi bộ của Otsu thì đến được chỗ hẹn ở cầu Kara buổi chiều cũng là sớm. Cho nên hắn cứ thong thả dẫn bò đi, vừa đi vừa ngắm cảnh.
Qua một cây đền có nhiều cây anh đào cổ thụ, hoa mới nở còn động sương mai, Miyamoto Musashi thích thú thưởng ngoạn từng thế cành, từng bông hoa hàm tiếu. Những cây anh đào này chắc đã được trồng từ lâu lắm nên gốc mới vặn vẹo nghiêng ngả vì mưa gió. Có cây cong trĩu xuống như người lễ Phật, có cây giơ cành ra tựa như chào đón khách thập phương. Mỗi cây một vẻ, cây nào cũng đẹp.
Nhưng điều Miyamoto Musashi ưa thích nhất là sức sống mãnh liệt của chúng. Cành non vươn lên, thẳng và mạnh như những nét phát của một họa sĩ tài hoa, lấy sinh lực luân lưu trong lòng thớ gỗ cổ thụ để nuôi dưỡng hoa mới, truyền lại đời sau một mầm sống tốt đẹp.
Cạnh đền, trên một cái gò thấp, dựng một bia đá. Miyamoto Musashi tò mò đến gần xem, thấy có chữ li ti khắc trên bia. Thì ra là một bài ngụ ngôn hắn đã biết và thuộc lòng từ nhỏ. Bài ngụ ngôn kể chuyện một vị tăng già đang đứng chiêm ngưỡng bóng đức Phật Quan Âm ánh trên mặt hồ trong cung, bỗng thấy một phi tần hái hoa đi ngang đấy.
Phi tần đẹp tuyệt vời khiến vị tăng già không sao kềm chế được lửa dục. Bao nhiêu đạo đức thu thập được sau gần một kiếp tu hành bỗng nhiên mất hết. Vị tăng trở về căn nhà cỏ, đốt hương trước Phật đài cầu nguyện. Nhưng trông đâu cũng chỉ thấy mặt mỹ nhân.
Trông song cửa tưởng lược cài, trông mây tưởng tóc ...chỗ nào cũng có bóng dáng người đẹp. Mấy ngày đêm như thế, tâm hồn hoang mang, dao động, vị tăng già buồn bã, hổ thẹn. Ông không mong gì thấy niết bàn nữa nên nhất quyết đi tìm nàng cung phi để thổ lộ nỗi lòng, dù có chết cũng được bình yên mà chết ... Đến trước hoàng cung, ông cắm gậy xuống đất đứng chờ ... suốt ngày ... suốt đêm ... Suốt ngày ... suốt đêm ...
Miyamoto Musashi vừa dắt bò vừa lẩm nhẩm đọc bài ngụ ngôn như người đọc kệ, nhưng không sao nhớ lại được đoạn cuối ra thế nào.
- Đại hiệp ! Đại hiệp dắt bò ! Dừng lại đã !
Một tráng niên dáng nông phu chạy theo. Miyamoto Musashi dừng lại. Gã nông phu để tay lên đầu con vật và xoa mũi nó. Dường như nhận ra người quen, con bò vẫy tai kêu “bò ...ò ...” ra vẻ bằng lòng lắm.
- Đại hiệp ở trên chùa Hiei xuống ?
- Phải ! Sao bác biết ?
- Tôi cho sư thầy trên chùa thuê con bò này để chở đậu. Sao đại hiệp lại dẫn nó đi đâu ?
- Ồ ! Thế ra bác là chủ bò đấy ? Trên chùa nhờ tôi dẫn nó về trả bác. Nhưng tôi muốn thuê nó ít lâu nữa để đi Edo, bác thuận không ?
- Tôi không phải chủ mà chỉ là người làm ở trại. Đại hiệp muốn thuê cứ dắt đến trại. Cũng gần đây thôi, tiện đường lắm.
Quả nhiên trại ở ngay ngã ba sông, rất tiện cho khách thương hồ đi lại. Chỉ còn vài dặm là đến tỉnh Omi, chỗ này có thể coi như cửa ngõ vào trấn nên hàng quán đông đúc.
Sau khi thuê bò xong, Miyamoto Musashi dùng điểm tâm ngay tại quán gần đấy, mua vài thức lặt vặt rồi lại thong thả giong bò đi.
Hắn nghĩ đến lúc được hội ngộ Otsu mà lòng xốn xang. Trước đây, tuy yêu Otsu thành thực, Miyamoto Musashi vẫn sợ những ràng buộc. Nhưng bây giờ, sau khi đã gặp nàng trên núi, hắn không còn e ngại nữa.
Otsu thông minh, xinh đẹp, nhiệt thành và nhất là thông cảm mối ưu tư của hắn, nên hắn tin tưởng vô cùng. Miyamoto Musashi nguyện sẽ không từ chối bất cứ điều gì Otsu muốn nhưng ngược lại, nàng phải tôn trọng nếp sống kiếm sĩ của hắn. Dù sao chăng nữa, Miyamoto Musashi không muốn lưỡi kiếm sắc của mình bị nhụt.
Mỉm cười, Miyamoto Musashi nói thầm như tự nhủ:
- Không khéo thành ông sư già trong truyện ngụ ngôn mất. Bây giờ đến lượt ta, phải giữ sao đừng để cho sóng tình dìm mình chết đuối.
Trời sáng hẳn. Cầu Kara hiện rõ ở phía chân trời. Cầu gồm hai nhịp, nối liền với nhau bằng một đảo nhỏ. Trên đảo một cây liễu lớn mọc vượt hẳn lên trên những tàn cây khác, từ xa trông rất rõ nên khách thập phương dùng nó làm mốc gọi là Liễu Kiều. Lên tới giữa nhịp cầu thứ nhất, Miyamoto Musashi đã nghe tiếng reo vui mừng của tên học trò nhỏ:
- Kia rồi ! Sư phụ kia rồi !
Jotaro vừa nhẩy cẫng lên vừa chỉ trỏ cho Otsu trông thấy. Nàng ở quán trà dưới gốc liễu bước ra, lấy tay che ánh nắng sớm làm chói mắt.
- Đó ! Ông đi ở trên cầu đó ! Ồ, mà sao ông lại dắt con bò ?
Jotaro cắm đầu chạy lên cầu đón thầy. Miyamoto Musashi cười, phô hàm răng trắng bóng, giơ hai tay ôm chặt lấy Jotaro vào lòng:
- Lâu ta không gặp con. Con nhớ ta không ?
Không đáp, Jotaro chỉ gật. Nó thấy cay cay ở mắt. Jotaro cầm lấy dây dắt bò cho thầy, đi bên cạnh, liến thoắng:
- Cô Otsu kia kìa ! Ở trước quán. Thầy mua bò làm gì ? Để cưỡi đấy à ? Thầy đau chân hay bị thương không đi được ?
Miyamoto Musashi mỉm cười:
- Không, ta không sao. Bò ta thuê cho Otsu cưỡi đi Edo.
Jotaro mừng rỡ:
- Vậy con cũng cưỡi.
Nói đoạn quay lại kêu “bò” nhại con vật. Con bò không biết gì cũng đáp bằng một tiếng “bò ... Ò” dài như trêu tức nó làm cả hai thầy trò cùng cười vui vẻ.
Đến trước quán, Miyamoto Musashi nhìn Otsu và Otsu nhìn hắn. Bốn mắt đầy tình ý yêu thương nhưng chẳng ai nói một lời. Trước mặt khách lạ, họ sượng sùng không muốn biểu lộ cảm nghĩ.
Nhìn về phía sau, giàn hoàng đậu đã trổ hoa. Miyamoto Musashi bảo Otsu:
- Hoa mới nở đẹp quá.
Rồi bước ra vườn. Otsu đi theo, có Jotaro bên cạnh liến láu kể chuyện ở Ginkakuji cho thầy rõ. Sự ngượng ngùng nhờ thế cũng hết và một lát sau, người ta đã nghe tiếng cười và tiếng nói chuyện nho nhỏ giữa hai người.
Một làn chớp bỗng lóe lên trong không khí, tiếp theo là tiếng sấm vang động làm Otsu giật mình, run rẩy.
Chủ quán chạy ra, tay ô tay nón vẫy gọi:
- Các vị vào thôi. Sắp bão đến nơi rồi !
Đằng xa, phía đỉnh núi, mây đen từng đám đùn lên chẳng mấy chốc đã kín cả bầu trời. Gió thổi ào ào làm rung động các chùm hoa vàng trên giàn hoàng đậu và những con ong vò vẽ cuối cùng cũng đã bỏ đi nơi khác từ bao giờ.
Vài giọt mưa bắt đầu rơi lộp độp.
Jotaro thích thú vỗ tay reo:
- Mưa ! Ồ mưa ! Thật là đúng lúc !
Đối với Jotaro, mưa đến thật là đúng lúc nhưng đối với Miyamoto Musashi và Otsu, cơn mưa làm cả hai bối rối. Cùng đi vào phòng cả thì có vẻ như là một đôi tình nhân hẹn hò nhau trong tiểu thuyết nên Miyamoto Musashi nấn ná ngoài vườn. Otsu bước vào hiên, tà áo vàng của nàng run rẩy không khác gì những chùm hoa hoàng đậu.

Acmagiro
10-04-2008, 06:39 PM
CHƯƠNG 51

DƯỚI THÁC NƯỚC







Hôm sau, cả ba người, Otsu, Miyamoto Musashi và đồ đệ rời quán trà Liễu Kiều lên đường đi Edo. Trời quang đãng, ánh nắng đầu mùa chan hòa, vạn vật dường tươi đẹp hẳn lên. Màu lá cây xanh non, không khí trong vắt. Ven suối, những cánh hoa rừng rụng sau trận mưa vừa rồi còn rải rác trên nền cỏ ướt.
Otsu cưỡi bò, Miyamoto Musashi thong dong đi cạnh. Cả hai nét mặt hớn hở. Bao nhiêu sầu muộn trước đây hình như họ đều để lại đằng sau cả. Jotaro chạy nhảy như con sóc. Nó lấy lá cuộn thành kèn thổi te te và đuổi bắt những con sáo sậu đậu ở vệ cỏ.
Mặt trời mỗi lúc một cao, Jotaro đã thấy mồ hôi vã lấm tấm. Nó lấy tay quệt:
- Nóng quá ! Mới sáng mà đã nóng. Đây là đâu thế thầy.
- Đèo Mã Yên Sơn. Nghe nói khúc này khó đi lắm, sang bên kia, đường mới khá hơn.
- Thảo nào con thấy mệt !
Miyamoto Musashi phì cười:
- Tại con chạy nhảy nhiều. Đường còn dài, muốn đi lâu phải giữ sức chứ !
Otsu xen vào:
- Mình chả có gì vội. Đường vắng, cứ thong thả, đến Edo lúc nào thì đến.
Jotaro phản đối:
- Tại cô cưỡi bò. Thử đi bộ như em xem !
Nhưng vừa than mệt xong, Jotaro đã quên ngay. Thấy đằng xa có thác nước, Jotaro vội reo lên:
- Ồ ! Đằng kia có cái thác. Ta lại xem đi thầy !
Miyamoto Musashi cũng phụ họa:
- Ờ phải đấy, ta lại đó nghỉ chân.
Cả ba rẽ vào đường mòn. Càng vào sâu, cảnh càng hoang dã. Cỏ cao ngang đầu gối, hoa dại rụng đầy, sau trận mưa, nước suối dâng cao kéo theo những cành khô gẫy dạt vào bờ từng đám.
Tiếng nước đổ ầm ầm nghe mỗi lúc một rõ, muốn nói chuyện với nhau phải cao giọng hơn bình thường.
Đến gần thác, thấy có gian lều gỗ chẳng biết ai đã dựng lên, dùng làm chỗ trú chân thật hợp ý.
Jotaro đỡ Otsu trên lưng bò xuống, rồi dẫn con vật buộc vào gốc cây hòe gần một thảm cỏ mướt. Otsu chỉ tấm biển gỗ dựng bên thác:
- Kìa ! Tấm biển đề tên thác nước:
Meoto no taki - thác Phu Phụ - tên nghe lạ quá!
Chàng biết tại sao có tên ấy không ?
Miyamoto Musashi lắc đầu. Cả hai lẳng lặng đứng nhìn nước từ trên núi ầm ầm đổ xuống, tung bọt trắng phau. Họ đoán có lẽ dòng nước, khi đến chỗ dốc trước khi đổ xuống vực sâu đã bị chia hai, một bên chảy hùng tráng mạnh mẽ, một bên thong thả êm đềm, nên mang tên thế chăng.
Dù thế nào đi nữa, thác nước thật đẹp. Hai dòng song song bổ túc cho nhau trước khi nhập chung làm một, đổ từ trên cao hàng chục trượng xuống một cái hồ lớn rồi chia thành nhiều nhánh len lỏi giữa những ghềnh đá xanh rêu như những con rắn bạc mất hút trong đám cỏ lau và cây rừng rậm rạp dưới chân núi.
Nước chảy liên miên, tiếng thác nước ầm ầm đổ khiến phong cảnh sống động và như tiếp cho Jotaro một nguồn sinh lực mới. Thằng bé nhảy trên những hòn đá ngổn ngang, la hét vang trời, thỉnh thoảng ngưng lại để nghe giọng mình dội vào vách đá vang vang, lấy làm thích thú.
- A ! Có cá ! Có cá !
Jotaro nhặt đá ném. Hết con này đến con khác, cứ thế mê mãi đuổi cá theo dòng suối xuống vùng hạ lưu. Chẳng bao lâu tiếng la hét của nó loãng đi và bị tiếng thác nước khỏa lấp, không còn nghe thấy gì nữa.
Trong bóng mát của gian lều, Miyamoto Musashi và Otsu ngồi cạnh nhau, giữa hằng hà sa số những vòng hào quang sặc sỡ như những chiếc cầu vồng nhỏ do ánh mặt trời chiếu lên trên nền cỏ ướt. Otsu nói:
- Không biết thằng bé chạy đâu ? Mười bốn mười lăm rồi mà còn nghịch ngợm quá!
- Nó còn trẻ con. Ở tuổi ấy, ta nghịch hơn thế nữa. Trái lại, Matahachi lại khác ta. Hắn hiền như bụt. Chẳng biết bây giờ hắn đâu. Hắn đáng phải để ý hơn là thằng bé.
- Nói đến Matahachi, thiếp mới sực nhớ, mong hắn đừng có mặt.
- Sao vậy ? Có mặt Matahachi mình sẽ giải thích để hắn khỏi hiểu lầm. Tốt chứ.
Otsu bứt cỏ:
- Chẳng biết hắn có hiểu không ? Mẹ con bà Honiden nhiều thành kiến và bướng lắm, không như mọi người đâu.
- Otsu ! Có chắc nàng không đổi ý không ?
Otsu ngạc nhiên, hỏi lại:
- Đổi ý về việc gì ?
- Về lòng mình. Ta muốn nói nàng có hối hận đã từ hôn Matahachi chăng ?
Otsu cau mày như vừa nghe một điều trái ý.
- Không ! Thiếp không bao giờ hối hận !
Thiếu nữ mặt ửng đỏ, gục đầu, lấy tay bưng mặt. Cử chỉ ấy cùng những rung động nhẹ của đôi vai nàng, tất cả đều như gào lên một sự thật:
“Lòng thiếp thuộc về chàng, chàng không biết ư ? Thiếp là của chàng chứ chẳng phải của ai hết”.
Tiếc đã lỡ lời, Miyamoto Musashi quàng vai Otsu tha thiết. Mấy ngày nay, nhìn ánh sáng đùa giỡn trên thân hình người thiếu nữ, ban đêm dưới ngọn đèn mờ lay động, ban ngày dưới ánh dương quang lộng lẫy, nhìn làn lông tơ lấm tấm mồ hôi, hắn nghĩ đến một bông sen mới nở còn ướt sương mai.
Trong quán trà, chỉ nằm cách nhau một tấm bình phong mỏng, hắn đã ngửi mùi hương từ mái tóc người thiếu nữ bay ra phảng phất lẫn với mùi da thịt nồng ấm. Giờ đây, tiếng thác đổ ngoài kia khích động hắn vô cùng. Mạch máu hắn chảy mạnh. Miyamoto Musashi cảm thấy nhộn nhạo khác thường, bèn bỏ ra xa, đến gần chỗ nước chảy, ngồi khuất trong đám cỏ cao.
Được một lúc, Otsu cũng tới bên, ôm gối hắn và ngước mắt nhìn bộ mặt đăm chiêu thoáng chút hốt hoảng của người yêu.
- Giận thiếp đấy ư ? Nếu có điều gì không phải, cho thiếp xin lỗi.
Miyamoto Musashi không đáp. Mặt hắn đanh lại, cố làm ra vẻ nghiêm trang. Otsu bỗng ôm lấy cổ hắn ghì chặt. Mùi hương của thiếu nữ và cử chỉ nồng nàn ấy khiến Miyamoto Musashi ngây ngất. Hắn không còn tự chủ nổi, ôm chặt lấy Otsu và đè nàng xuống cỏ.
- Otsu ! Otsu !
Nhưng Otsu vùng vẫy, cố thoát khỏi vòng tay lực lưỡng của hắn.
- Đừng ! Đừng ! Musashi, chàng mà cũng thế ư ?
Lệ ứa ra hai bên khóe mắt, tiếng nức nở và nét mặt van lơn của người thiếu nữ làm Miyamoto Musashi sửng sốt. Hắn bỏ Otsu ra. Nàng kinh hãi chạy về lều.
Một chiếc túi nhỏ đựng đồ trang sức từ tay áo Otsu rớt xuống đất nằm trên cỏ, bên một cánh hoa nhàu nát. Miyamoto Musashi đăm đăm nhìn cái túi, thảng thốt:
- Ta đã làm gì ? Ta đã làm gì Otsu ?
Xấu hổ và hối hận tràn ngập lòng người trẻ tuổi. Hắn bị lạc hướng và có cảm tưởng như vừa bị xúc phạm. Otsu lừa dối hắn sao ? Nhưng lời nói của nàng, mắt nàng, môi nàng, tóc nàng, cả thân thể và dáng điệu của nàng nữa, đều mời mọc hắn, thổi bùng ngọn lửa đam mê trong lòng hắn, rồi khi ngọn lửa ấy đã phừng cháy, cũng lại chính nàng dập cho nó tắt.
Sao vậy ? Miyamoto Musashi không ý thức được trinh tiết đối với Otsu quý trọng đến mức nào và sự cố gắng của nàng để người yêu không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm khác ngoài kiếm đạo. Hắn chỉ nhìn thấy sự thất bại chua cay của mình trong sự không kềm chế nổi lòng ham muốn. Hình như bao nhiêu cố gắng để trở thành người phi thường của hắn đều hư ảo, hão huyền cả.
Miyamoto Musashi phục xuống cỏ. Hắn tự nhủ chưa làm điều gì xâm phạm nhưng sao lương tâm hắn vẫn không an ổn. Mùi đất ẩm xông lên, Miyamoto Musashi dần dần lấy lại được bình tĩnh. Khi đứng dậy, mắt hắn không còn ngọn lửa đam mê nữa mà nguội lạnh như tiền. Dường như hắn vừa nghe tiếng gọi, tiếng gọi của sông rộng núi cao, của lý tưởng hắn đã nguyện phục vụ. Lông mày hắn cau lại như trước kia hắn đã cau lại lúc phải đơn phương lâm trận với hàng trăm đệ tử Yoshioka dưới gốc cổ tùng. Một đám mây che khuất vầng thái dương. Con chim rừng bay qua, buông tiếng kêu lanh lảnh. Cơn gió đổi chiều làm tiếng thác nghe khác lạ. Miyamoto Musashi phanh ngực áo, thong thả đến gần chân thác nước.
Như con chim sẻ nhỏ sợ hãi, Otsu đứng sau gốc sồi lớn chứng kiến tất cả những băn khoăn lo lắng của người tình. Nàng không biết Miyamoto Musashi có hiểu cho nàng không. Thấy Miyamoto Musashi đau đớn, đã mấy lần Otsu muốn chạy ra giải thích cho chàng rõ, nhưng hình như có cái gì cầm chân nàng lại. Lần đầu tiên, nàng thấy thần tượng của nàng, người mà nàng đã dâng hiến cả linh hồn, không phải là hiện thân của đạo đức như nàng tưởng. Sự phát hiện ra trong con người Miyamoto Musashi một con thú trần trụi với dục tính mãnh liệt khiến mắt Otsu mờ đi vì buồn rầu và kinh hãi.
Otsu muốn chạy, tìm một chỗ nào thật vắng vẻ ẩn tránh. Nàng muốn bình tĩnh hơn để suy nghĩ, nhưng đi một quãng lại lo sợ và bất định.
“Có lẽ Miyamoto Musashi khác mọi người. Lòng ham muốn và sự tỏ tình của chàng cũng khác. Ta đã làm khổ chàng”.
Bèn quay trở lại chỗ Miyamoto Musashi đứng, nhưng chẳng thấy ai, chỉ thấy hơn nước như sương bao phủ và tiếng thác đổ ầm ầm rung chuyển cả căn lều gỗ.
- Cô Otsu ! Cô Otsu đâu ?
Tiếng Jotaro gọi thất thanh.
- Cô đây.
- Sư phụ ngã xuống thác rồi ! Cô đứng đây, em xuống xem sao.
Jotaro nắm dây leo, chuyền xuống giữa những phiến đá trơn trượt. Nhưng Otsu làm sao mà có thể cứ đứng ở đây được. Nàng cũng tìm cách theo chân thằng bé.
Đến lưng chừng ghềnh, Otsu thấy một vật gì như phiến đá trắng ở giữa thác.
Chính là Miyamoto Musashi, tựa một sinh vật tí hon giữa cảnh hùng vĩ của thác nước cao hàng chục trượng trên đầu !
Hai tay chắp trước ngực, trần truồng, hắn cầu nguyện.
- Sư phụ !
- Miyamoto Musashi !
Nhưng những tiếng hét ấy chẳng bao giờ hắn nghe được. Như nghìn nghìn vạn vạn con rồng bạc điên cuồng gầm thét xung quanh, đưa móng vuốt ra quấn lấy vai lấy tay hắn, sẵn sàng lôi hắn đi, những dòng nước nghìn cân nặng của thác Phu Phụ có thể đưa hắn tới cái chết tăm tối. Một chút sơ hở, mất thăng bằng, một hơi thở sai lại khiến công lực suy giảm, Miyamoto Musashi sẽ bị cuốn vào vực sâu, không cách gì trở lại.
Hắn có cảm tưởng như tim phổi và cơ thể hắn bị sức nặng của cả dãy Mã Yên Sơn đè lên. Hắn không thể khinh xuất.
Ngọn lửa dục vọng trong lòng hắn lụi dần ...lụi dần ...Ngọn lửa ấy giống như lòng tham vọng trước đây đã đẩy hắn ra trận Sekigahara, đã là động lực thôi thúc hắn thực hiện những võ công phi thường. Nhưng nếu hắn không hướng dẫn, chế ngự được tham vọng, nó sẽ biến hắn thành giống thú hung bạo. Mà với một kẻ thù vô hình, nguy hiểm như thể ẩn tàng trong xương thịt, đau đớn thay cho Miyamoto Musashi, lưỡi gươm của hắn lại vô dụng !
Ý thức sự thất bại hiển nhiên của mình, Miyamoto Musashi hoang mang bối rối.
Đứng dưới thác nước điên cuồng, hắn cầu nguyện, mong tìm sự quân bình của thể xác và tâm hồn trong khi tranh thắng với cơn thịnh nộ của trời đất, cũng như trước kia hắn đã tranh thắng ngọn Đại Bàng Sơn.
- Sư phụ ! Sư phụ đừng bỏ con !
Tiếng thét của Jotaro giờ đây là một lời van xin nức nở. Nó cũng chắp tay trước ngực, mặt nhăn lại, cùng chia xẻ với thầy sức nặng ghê gớm của khối nước, niềm đau và sự buốt lạnh thầy nó đang gánh chịu.
Jotaro không hiểu sao sư phụ mình lại làm thế. Đứng dưới thác nước cho đến chết chăng ?
Bỗng nó giật mình:
cô Otsu cũng không còn trên bờ bên kia nữa. Hay lại ngã xuống suối rồi ?
Đột nhiên, giữa những tiếng gió hú và thác đổ ầm ầm, Jotaro nghe tiếng thầy.
Tiếng được, tiếng mất, không rõ ràng, chẳng biết là lời niệm kinh hay là những lời tự trách, nhưng tiếng thầy nó mạnh lắm, đôi lúc át cả tiếng gió gào và tiếng thác đổ.
Rồi thầy nó thận trọng bước ra khỏi thác. Vẻ trẻ trung và mãnh liệt giờ đây lồ lộ trên tấm thân cùng tráng của Miyamoto Musashi. Tâm, thân hắn đã được thanh lọc để sẵn sàng bắt đầu một đời sống mới.
Hiểm họa đã qua. Jotaro thở phào. Nếu cô Otsu không còn ở trên bờ nữa thì chắc cô cũng đã về lều, vì cô tin rằng sư phụ nó không sao cả.
- Cô Otsu chắc hiểu thầy mình hơn mình.
Nó nghĩ thế rồi nhảy từng bước nhẹ nhàng trên những hòn đá, tìm quãng suối hẹp lội sang bờ bên kia.
Khi đến gần lều, Jotaro rón rén nhìn vào trong thấy Otsu ôm áo và kiếm của sư phụ, mặt đầm đìa nước mắt, nhưng môi lại như mỉm cười.
Otsu không giấu mình khóc. Jotaro thấy lần này những giọt nước mắt của cô Otsu khác những giọt nước mắt những lần trước. Nó không hiểu tại sao, chỉ linh cảm một chuyện gì quan trọng lắm đã xảy ra giữa hai người.
Jotaro bỏ đi, ra chỗ gốc hòe, nằm xuống thảm cỏ cạnh con bò và nói:
- Cứ thế này thì bao giờ mới đến Edo ?

Acmagiro
10-04-2008, 06:40 PM
CHƯƠNG 52

MỘT VỤ BẮT CÓC







Trên đỉnh núi bên kia đèo, tuyết chưa tan, trắng lóa mắt nhưng ở chân đồi, hai bên bờ sơn đạo, nơi Otsu và Jotaro thong dong bước, cây cỏ xanh mát.
Gió thổi nhẹ hiu hiu, đồng cỏ lau gợn sóng.
Jotaro dong bò cho Otsu cưỡi. Nó đang tuổi lớn, tuy dáng người mảnh khảnh nhưng màu da bánh mật và ánh mắt tinh anh tiềm ẩn một sức sống dồi dào. Nhìn Jotaro, Otsu đã thấy trước một thanh niên dũng cảm và quả quyết, nhưng lằn ranh giữa lòng quả cảm và bướng bỉnh mảnh như tơ, khó mà phân định.
Càng lớn, Jotaro càng bướng bỉnh và đòi hỏi, nhất là nó lại quen sống nếp sống phóng túng không gì câu thúc.
Tính bướng bỉnh ấy khiến Otsu nhiều khi bực mình, nhất là sự háu ăn của nó, thật không giới hạn. Khi đi ngang qua một quán ăn hay một cửa hàng thực phẩm, thế nào Jotaro cũng đòi mua một thứ gì. Nếu không thì ì ra, không chịu dẫn bò đi nữa.
Qua xóm Suhara, đã ăn bánh bỏng ở một quán ven đường rồi, mới được vài dặm, Jotaro đã kêu đói. Cả hai phải tạt vào dùng bữa sáng tại một hàng cơm cuối xóm. Ăn xong, Jotaro lại nói với Otsu:
- Vùng này hồng khô ngon có tiếng. Cô mua một ít mang theo để ăn đường chứ !
Nhưng Otsu lờ đi như không nghe thấy.
Đến FukJuroma, một thị trấn khá quen thuộc có nhiều món ăn đặc biệt, ngửi mùi thơm từ trong bếp bay ra, Jotaro không nhịn được, nài nỉ:
- Cô Otsu, hay ta nghỉ chân ở đấy một lát.
Otsu lặng thinh. Thằng bé hểnh mũi hít hà:
- Thơm quá ! Cô không ngửi thấy gì à ?
- Mình mới ăn xong mà, cứ dừng lại luôn như thế, bao giờ mới đến nơi !
- Nhưng em đói ...
Vừa nói, Jotaro vừa giữ chặt dây thừng. Con bò, dường như đồng tình với nó, cũng dừng lại gặm cỏ.
- Jotaro hư lắm. Nếu em cứ thế, cô sẽ xuống đi bộ và mách thầy em ...
Jotaro phụng phịu. Nó không sợ vì dư biết Otsu chỉ dọa chứ không dám làm.
Trong thâm tâm, Otsu rất chiều nó.
Quả nhiên, thấy nét mặt Jotaro không vui, nàng trên lưng bò tuột xuống rồi cùng vào quán. Thằng bé ngồi ngay vào bàn, gọi luôn hai đĩa bánh dày đậu.
- Hành phi trộn với đậu ngọt rắc lên bánh dầy. Ngon tuyệt ! Em thèm rỏ dãi ra đây này.
- Jotaro ! Em phải giữ ý tứ ! Gọi cho cô ấm trà.
- Cô không ăn bánh ư ?
- Không, cô không đói. Ăn nhiều thành con lợn, xấu lắm.
Jotaro không để ý đến lời nhắc khéo. Nó vơ vào:
- Nhưng em đã gọi hai đĩa. Vậy để em ăn luôn phần của cô vậy.
Nói đoạn nó gọi thêm trà, buộc lại cây kiếm gỗ ra phía sau lưng cho khỏi vướng, rồi ngồi ngay ngắn chờ bánh mang ra.
Nhìn dáng điệu trịnh trọng của Jotaro, Otsu không khỏi mỉm cười.
Ăn một loáng hết hai đĩa bánh, Jotaro mới quay nhìn xung quanh. Bỗng nó há hốc mồm, chạy bổ ra cửa.
Tuy ngạc nhiên nhưng Otsu cũng uống hết chén trà. Tra tiền chủ quán xong và sắp sửa đứng dậy thì Jotaro trở về. Thằng bé thở hổn hển, đến bên thiếu nữ, ghé tai thì thầm:
- Matahachi ! Em vừa thấy Matahachi !
Otsu tái mặt:
- Hắn đến đây làm gì ?
- Không biết. Nhưng ông ấy nhìn vào quán. Thấy em, ông ấy bỏ đi, em đuổi theo để coi cho chắc. Đúng là Matahachi !
Nhìn vẻ mặt nghi ngờ của Otsu, Jotaro nói:
- Cô không tin à ? Hay để em gọi ông ấy lại.
- Đừng ! Đừng làm thế !
Đoạn, ghé tai Jotaro, Otsu hỏi khẽ:
- Thầy em có cách xa đây không ?
Jotaro lắc đầu:
- Em không biết. Chắc xa. Tại con bò này đi chậm quá !
Otsu hồi hộp. Tim nàng đập dồn dập. Sợ càng chùng chình, Musashi đi càng xa, nàng vịn vai Jotaro trèo lên lưng bò, bảo nó dẫn lên đường ngay tức khắc.
Trên lộ, Otsu và Jotaro không nói lời nào, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Otsu thì lo lắng, nàng không biết xử trí ra sao nếu gặp lại Matahachi. Còn Jotaro thì lấy làm lạ không hiểu tại sao thầy nó lại bỏ đi trước, chỉ dặn nó ở lại cùng đi với Otsu và giúp đỡ nàng.
Tuổi trẻ tò mò, không nhịn được, Jotaro bèn hỏi:
- Cô và sư phụ giận nhau đấy à ?
Thấy Otsu không đáp, nó hỏi lại:
- Sao từ khi ở thác, sư phụ không nói gì với cô nữa, lại bỏ đi trước, bảo đợi cô ở Edo là sao ?
Otsu quay đi, kín đáo chùi giọt lệ trên khóe mắt. Nàng chẳng biết trả lời thế nào cho phải vì chính nàng cũng chưa tìm được lời giải đáp thích đáng về hành động của Musashi.
Hồi tưởng lại sáu bảy năm trước khi còn ở chùa Shippoji, Otsu cũng đã bị một viên đội trưởng làm hỗn. Bây giờ thấy hành động ấy ở Musashi, nàng bối rối.
Mặc dầu hai trường hợp hoàn toàn khác nhau, nàng vẫn không hiểu rõ thái độ dùng sức mạnh để chiếm đoạt như vậy có phải là thường tình của đàn ông hay không và thái độ cự tuyệt của nàng có hợp với hoàn cảnh ấy không ? Mớ ý tưởng hỗn độn và nỗi băn khoăn khiến Otsu phiền muộn. Mối u tình nàng mang trong lòng bấy lâu nay như dòng suối êm đềm, bỗng trở thành thác lũ.
Otsu liên tưởng đến tiếng thác đổ ầm ầm, tiếng kêu thét ngỡ ngàng của lòng nàng trước hành động của người yêu và vẻ ngạc nhiên trên nét mặt Musashi. Nàng lại càng hoang mang hơn nữa vì nếu cứ như thế này mãi, cả hai không hiểu nhau thì sự theo chàng như một cái bóng thật là phi lý.
Thấy Otsu mắt đỏ hoe, sự bối rối hiện rõ trên gương mặt, Jotaro thôi không hỏi nữa. Và nó cũng quên ngay những điều vừa hỏi.
Đến Kozengi, Jotaro dẫn bò, rẽ sang một đường lớn nhiều người qua lại hơn. Ngay chỗ rẽ là một căn lều gỗ dùng làm trụ sở cho lính tuần tra xét những khách bộ hành để tìm bắt kẻ gian phi và đôi khi cả những kiếm sĩ đối nghịch với chính quyền.
Otsu và Jotaro cũng bị lính tuần chặn giữ, nhưng nhờ có chứng thư của tướng công Mitsuhiro nên không bị làm khó dễ gì. Tiếp tục cuộc hành trình, qua nhiều quán xá ven đường, lần này Jotaro ngoan ngoãn dắt bò đi, không đòi ăn như những lần trước.
Hết quãng đường phố tương đối đông dân cư, lại đến quãng đường vắng vẻ, cây cao và bụi gai mọc chi chít. Jotaro bỗng hỏi Otsu:
- Cô Otsu ! Huyền Trang là ai ?
- Huyền Trang ?
- Vâng. Khi qua quán đằng kia, có người chỉ cô và nói “Huyền Trang cưỡi bò” !
Vậy Huyền Trang là ai vậy ?
Otsu cười:
- Không rõ có đúng không, cô chỉ biết Huyền Trang là một vị sư nhà Đường bên Tàu, sang nước Thiên Trúc thỉnh kinh và mang về Trung Hoa nhiều bộ kinh quý giá lắm.
- À, cháu biết rồi ! Đấy là ông sư Tam Tạng. Vậy nếu cô là Huyền Trang thì cháu là Tôn Ngộ Không rồi !
Otsu cười như nắc nẻ. Nhìn thằng bé đen đủi, chân tay dài múa may như con vượn, nàng trêu nó:
- Ừ, vừa là Tôn Ngộ Không lại vừa là Trư Bát Giới nữa. Vì em háu ăn lắm.
Không vừa, Jotaro đáp lại:
- Như vậy mới xứng với sư Tam Tạng hay khóc !
Cả hai cùng cười vang, không nhớ gì đến những chuyện buồn phiền trước đấy nữa.
- Tại sao Huyền Trang lại cùng đi với Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hả cô ?
Otsu biết chuyện Tam Tạng thỉnh kinh từ khi còn ở chùa Shippoji, nhưng nghe thằng bé hỏi thì hơi lúng túng. Nàng chỉ đáp đại khái:
- Ngộ Không tượng trưng cho sự khôn ngoan tháo vát, Bát Giới là lòng dục của con người, còn Huyền Trang, lòng sùng đạo.
Sự giải thích ấy chẳng biết có thỏa mãn được tính tò mò của Jotaro không, nhưng không thấy nó hỏi thêm gì nữa.
oo - Đứng lại !
Tiếng quát kèm theo bóng người trong bụi nhảy xổ ra chặn đường khiến Otsu và Jotaro giật mình thất sắc. Định thần nhìn kỹ, thì ra là Matahachi; một Matahachi gầy đen, quần áo xốc xếch. Gã trợn mắt, chỉ tay vào mặt Otsu, giọng hằn học:
- Con tiện tỳ kia ! Xuống ngay !
Cơn ghen tức lộ trên nét mặt, gã hùng hổ sấn đến đầu con bò Otsu đang cưỡi.
Từ khi giã biệt Musashi trên sơn đạo ở sườn đồi Sinh Minh, Matahachi nghe theo lời khuyên của bạn, đến Edo lập nghiệp. Gã có ý đợi Musashi tại Liễu kiều để cùng đi. Nhưng số phận run rủi, gã vừa tới Liễu kiều đúng lúc thấy Musashi sánh vai Otsu vào quán trọ. Sự hân hoan trên nét mặt hai người khi tương hội khiến Matahachi nổi cơn ghen, quên luôn những lời khuyên chí tình của bạn, cho đó chỉ là những lời dối trá. Gã theo dõi Musashi và Otsu suốt dọc hành trình, đôi lúc lạc dấu vết, mãi đến bây giờ mới được dịp ra tay.
Ngạc nhiên cực độ, Otsu không thốt nên lời, trừng trừng nhìn gã.
- Xuống ngay ! Mày theo thằng Takezo, thất thân với nó rồi phải không ?
Phẫn nộ và khinh bỉ thay cho ngạc nhiên, Otsu xám mặt.
- Ta không xuống ! Ta không liên quan gì đến ngươi cả !
- A ! Matahachi giận dữ thét. Nhưng ta có liên quan ! Ngươi xuống không ?
Thét đoạn, hắn sấn đến nắm áo Otsu. Jotaro gạt gã ra:
- Ông làm gì thế ? Cô ấy không muốn xuống thì không xuống. Ông có quyền gì ...
Matahachi nhảy lui:
- Thằng oắt này là ai ?
- Là ai không cần biết, nhưng ông không được động đến cô Otsu.
- A ! Láo ! Ta nhớ ra rồi ! Mày là thằng oắt con bưng rượu ở quán Kitano !
- Mà ông là gã say rượu ở quán ấy ! Phải rồi, ông sống bám vào mụ điếm già, bây giờ bị mụ bỏ chứ gì !
Câu nói của thằng bé khiến Matahachi nhảy lên như có ai cầm nắm muối xát vào vết thương đang rướm máu của gã.
- Đúng không ?
Mắt Matahachi trợn ngược:
- Nhãi con khốn nạn ! Ai dạy mày thế ?
Gã nhoài tay ra định túm cổ Jotaro. Nhưng nhanh như cắt, Jotaro đã luồn qua bụng bò, chuồn sang bên kia, ngoái cổ lại hét:
- Đồ tồi ! Hèn nhát ! Bắt nạt trẻ con !
Con bò vùng lên chạy, mang theo Otsu trên lưng. Nàng kinh hãi kêu cứu. Jotaro chạy theo, định đỡ Otsu xuống thì bị Matahachi túm được.
- Oắt con ! Tao bắt được mày rồi ! Nói lại những điều vừa rồi tao nghe thử !
Jotaro vung tay đấm vào mặt gã:
- Đồ tồi ! Đồ hèn nhát ! Ăn bám vào gái điếm !
Matahachi túm ngực áo nó nhấc bổng lên. Thằng bé vừa định rút kiếm gỗ ra liền bị Matahachi tức giận ném ngay vào bụi rậm. Đầu va vào gốc cây, Jotaro nằm sóng soài bất tỉnh.
Mở mắt ra, con đường mòn vắng hoe, Jotaro không nhớ chuyện gì đã xảy ra. Một tiếng chim lảnh lót từ trên ngọn cây cao vọng xuống, nó nghe như tiếng sáo ai thổi đột nhiên bị cắt đứt.

Acmagiro
12-04-2008, 09:59 PM
CHƯƠNG 53

HIỆP SĨ ĐẤT KISO









Musashi ngồi nghỉ chân trên lưng chừng đồi chờ Otsu và Jotaro đi tới. Đợi lâu không thấy bóng hai người, hắn có vẻ đã hơi sốt ruột. Nhìn những đám mây trắng trên nền trời xanh, Musashi vẩn vơ dõi xem những đám mây ấy bay về hướng nào hay cứ nằm yên như thế mãi, lơ lửng treo trên ngọn đồi giữa hắn và khu rừng thưa dưới chân núi.
Bỗng mí mắt hắn giật lia lịa. Linh cảm một chuyện gì không hay xảy ra cho Otsu, Musashi đứng dậy, đi đi lại lại.
Musashi vẫn thường nghĩ đến Otsu và càng nghĩ đến nàng bao nhiêu, hắn càng tự giận mình. Tiếng kêu lo sợ, trách móc của Otsu còn như đồng vọng bên tai cùng với tiếng thác đổ. “Musashi ! Chàng mà cũng thế ư ?”. Hắn đã biểu lộ hành động xấu xa gì để Otsu phải trách móc như thế ? Otsu yêu hắn hay không ? Yêu hắn vì hắn là Musashi hay chỉ yêu cái phần phi thường của một kiếm sĩ trong hắn ?
Musashi định gạt đi, không muốn bận tâm đến nữa. Đã hứa đi cùng Otsu đến Edo, để nàng ở đó theo học môn gì nàng thích, bề nào hắn cũng có trách nhiệm.
Nhưng còn thanh kiếm đeo bên sườn đây mà hắn coi như người tình không rời nửa bước, hắn phải đối xử ra sao ? Đã nhiều ngày nay, thì giờ tập luyện và tu dưỡng của Musashi không được điều hòa. Nhìn dãy núi xanh biếc phía xa cùng cảnh trí bao la trước mặt. Musashi tự thẹn thấy mình nhỏ mọn.
Trời đã ngả bóng. Mãi không thấy Otsu và Jotaro đến, Musashi bồn chồn tự hỏi:
“Hay là họ bị giữ lại ở ngã ba Kozengi rồi !”. Linh tính báo cho hắn biết thực sự đã có chuyện chẳng lành. Quàng túi hành trang lên vai, sửa lại quai nón và bao kiếm, hắn vội vàng đổ dốc.
Đi chừng một quãng, bỗng gặp một khách bộ hành nhìn hắn hỏi:
- Phải chăng đại hán là người vừa ở ranh tỉnh tới, cùng đi với một thiếu nữ và một tiểu đồng ?
Lo lắng, Musashi đáp:
- Phải ! Có chuyện gì thế ?
- Thiếu nữ bị bắt cóc rồi. Người ta thấy nàng bị dẫn vào rừng.
- Mô Phật ! Thế còn thằng bé ?
- Không biết. Chẳng ai rõ nó đi đâu !
Lòng nóng như lửa đốt, Musashi không kịp cảm ơn người cho tin, hớt hải chạy xuống đồi trở lại phía ngã ba ranh tỉnh chỗ có đồn canh. Đến nơi, trời vừa chạng vạng. Cửa đồn đóng và hàng rào cản tre cũng đã được buông xuống. Trong các quán xá, người ta đang lục đục dọn đồ.
Musashi tiến đến gần một ông già hỏi tin tức. Ông già nghễnh ngãng, hắn phải hỏi đi hỏi lại hai ba lần, ông lão mới nghe ra:
- À, tráng sĩ muốn hỏi thăm nữ lang ngồi trên lưng bò trông như nhà sư Tam Tạng ấy chăng ?
- Phải, cùng với một tiểu đồng đeo kiếm gỗ dài trên lưng. Lão trượng biết họ đâu không ?
- Ờ ờ, có thấy cả hai qua đây.
- Bây giờ họ đâu ?
- Lão không rõ.
Nghe trả lời, Musashi toan bỏ đi nhưng cũng thêm:
- Có người nói họ bị bắt dẫn đi về phía này.
Ông lão gật gù:
- Có thể lắm. Vùng ranh tỉnh này nhiều dư đảng vô lại. Nếu quả họ bị bắt cóc thì không bị dẫn trở lại ngã ba này đâu. Chúng theo đường lên mả ngụy rồi ra hồ Nobu rồi.
Cảm ơn ông lão, Musashi vội vàng quay gót, dạ bồi hồi lo sợ. Otsu yếu đuối, vạn sự trông vào hắn lúc đi đường, nếu xẩy chuyện gì e rằng ...e rằng ...nàng khó sống.
Đêm xuống dần, tuy chưa tối hẳn nhưng trên trời đã lốm đốm sao thưa. Musashi cắm cúi đi, không một ý niệm gì về kẻ đã bắt cóc Otsu là Matahachi. Hắn đồng ý với ông già, đồ chừng kẻ đó là một trong những tên vô lại hay thảo khấu thường ẩn nấp ở nơi hoang dã vùng biên giới để dụ dỗ và bắt cóc những thiếu nữ khờ dại đem bán.
Càng đi, trời càng tối. Dưới tàng cây rừng, Musashi nhìn phía trước không xa được quá vài thước. Hắn có cảm tưởng dường như đang lên dốc chứ không có dấu hiệu gì thoai thoải xuống bờ hồ. Nghi đi lạc, hắn trèo lên ngọn cây khoáng đãng nhìn sao và quan sát tứ phía để định hướng.
Trong bóng đêm, lờ mờ ẩn hiện một mái nhà với rặng cây. Ánh đèn đỏ quạch hắt ra như một đốm nhang ai thắp trên mộ.
Không còn cách nào khác, Musashi quyết định tiến tới, hy vọng gặp người để hỏi thăm đường và nếu biết được tin tức gì thêm thì càng tốt. Đi mãi, đi mãi. Ánh đèn lúc ẩn lúc hiện. Musashi lấy làm kỳ, đôi lúc nghĩ đó là ma trơi, nhân trời lặng gió hiện lên lơ lửng như thế, đến gần gặp hơi người thì tắt chứ chẳng phải đèn đóm gì hết.
Đột nhiên vừa từ trong rừng ra, rẽ khỏi một lùm cây lớn, hắn trông ngay thấy đốm lửa đó. Và một căn trại.
Căn trại không to nhưng vững chắc, mặc dầu mái ra. dày đã lõm nhiều chỗ. Ánh đèn thực ra là lửa đốt trong lò. Và bên cạnh lò, một bóng người đang hoạt động.
Musashi cúi mình, nhẹ nhàng men đến bên vách. Phía tay mặt có một gian bếp. Bên bếp buộc một con bò lang. Musashi tin chắc đấy là con bò mà hắn đã thuê cho Otsu cưỡi.
Nấp trong bóng tối bên vách, nín thở, hắn nghe có tiếng lọc cọc đều đều như tiếng guồng tơ quay.
Bỗng giọng đàn ông từ sau bếp vọng ra, mạnh và hơi khàn:
- Khuya rồi, mẹ đi nghỉ thôi. Mẹ cứ than mỏi mắt mà vẫn làm trong tối, rồi thành lòa đấy.
Bóng đen đáp gì hắn không nghe rõ, nhưng lát sau không thấy tiếng guồng tơ quay nữa. Có bóng đàn bà đi đi lại lại trước ánh lửa, cúi xuống đứng lên như đang mải dọn dẹp.
Giọng đàn ông lại tiếp:
- Con rửa tay chân xong là vào ngay đấy ! Mẹ hâm canh lên là vừa.
Một lúc, nghe tiếng người đến bên con bò vỗ đầu nó mà nói lớn:
- Mẹ đã coi con bò con mang về chưa ? Bò cái, dáng nhiều sữa, tốt lắm.
Con vật rùng mình, dậm chân. Người kia vỗ nhè nhẹ lên vai nó. Tiếng bà mẹ trong nhà vọng ra:
- Để đấy mai hãy hay, trời tối thế này coi gì được.
Lợi dụng cơ hội tốt, Musashi đổi chỗ nấp. Hắn lẳng lặng trườn đến dưới cửa sổ, nép mình bên tảng đá, hé mắt nhìn vào gian phòng chính trong nhà. Ngoài ánh sáng từ lò lửa phát ra còn ánh sáng một cây đèn nhỏ để ở góc phòng, nên tương đối trông khá rõ mọi thứ. Vật đầu tiên khiến hắn chú ý là một cây thương dài treo trên vách, gác vào một cái giá mồ hóng đã đóng đen. Mũi thương bóng loáng. Những vòng vàng hoặc đồng cẩn trên cán thương đỏ rực, chứng tỏ vũ khí ấy đã được sử dụng thường xuyên và vẫn được lau chùi một cách trìu mến.
Musashi lấy làm lạ. Theo luật hiện hành, nhà nông không được dùng vũ khí dù họ có đủ tiền mua. Đó là những vật dụng không được tàng trữ trong nông trại, đừng nói gì đến dùng nó.
Gã đàn ông bước vào phòng. Gã còn trẻ, trạc ngoài hai mươi nhưng thoạt trông đã biết không phải là một nông dân thường.
Mắt gã tinh nhanh và sắc sảo. Gã mặc áo màu chàm theo kiểu nông dân, ngắn tới gối nhưng chân quấn xà cạp và đi dép cỏ. Mặt tròn, tóc rậm buộc túm về phía sau bằng sợi dây thừng ngắn. Trông gã nặng nề, bước đi chậm chạp nhưng vững vàng như bước đi của một con gấu. Từ trong bếp mùi khói tỏa ra, cay và khét. Khói sộc vào mũi khiến Musashi khó chịu, muốn hắt hơi. Hắn cố giữ, đưa tay che mũi song quá trễ.
Tiếng hắt hơi bị ngắt quãng làm bà mẹ từ trong bếp nói vọng ra:
- Ai đó ?
Không nghe đáp, bà tiếp:
- Gonnosuke ! Cổng ngoài đóng kỹ chưa ? Ta nghe tiếng ho, hình như có người lạ trong vườn !
Musashi rón rén bước khỏi chỗ nấp dưới cửa sổ, đến ẩn sau một gốc cây.
- Phải tiếng ho không hay mẹ nghe lầm tiếng chuột rúc đấy ?
- Ta đâu điếc. Chắc khói bếp làm nó ho. Ngươi ra coi xem.
Im lặng một lúc, rồi tiếng chân bước. Những bước vững vàng, chắc chắn.
Người có tên Gonnosuke nhẹ nhàng kéo cánh cửa chính. Thong thả, từ tốn, gã phóng tia mắt ngờ vực nhìn bốn phía, đầu hơi đưa về phía trước. Dáng điệu gã có một vẻ gì thận trọng khiến Musashi phải e dè. Hắn không biết Gonnosuke có mang võ khí gì không nhưng khi thấy gã bước ra hiên và ánh sáng trong nhà hắt lên lưng, Musashi thấy rõ một cây gậy gã giấu đằng sau. Cây gậy khá dài, bằng tre lên nước bóng loáng. Nhìn cách cầm cây gậy sát vào người, Musashi tin rằng gã đã sử dụng cây gậy này nhiều lần và thành thuộc lắm.
Từ chỗ nấp sau gốc cây, hắn nhảy ra:
- Yên tâm ! Ta không phải kẻ đạo chích. Ta đến tìm một người.
Gonnosuke khựng lại, phóng tia mắt sắc như dao yên lặng nhìn Musashi, đánh giá địch thủ.
- Ngươi hãy đem trả thiếu nữ và đứa nhỏ bị bắt lúc nãy. Nếu họ không sao thì ta bỏ qua, coi như không có chuyện gì. Nhưng nếu họ bị thương, ta sẽ không tha thứ ...
Yên lặng. Tuyết tan trên đỉnh núi khiến dòng suối sau trại dềnh lên, nước chảy róc rách càng làm tăng sự yên lặng nặng nề.
- Mang họ ra đây ! Lập tức !
Giọng Musashi cất cao, quyền uy và cấp bách. Nhưng Gonnosuke đâu phải là người dễ bị áp đảo. Tay phải giữ đầu gậy tre áp sát vào mình, gã sẵn sàng tung đòn chí tử.
- Đồ dòi bọ ! Ngươi là ai, tên gì ? Sao dám đến đây bảo ta bắt cóc con nít ?
- Ngươi thừa biết người thiếu nữ cưỡi con bò kia và đứa trẻ yếu đuối không thể tự vệ nên đã hèn hạ cưỡng bách bắt đi, còn chối nỗi gì !
Một tiếng rít. Cây gậy tung ra nhanh như chớp. Musashi chưa kịp nhận ra đâu là đầu gậy, đâu là cánh tay người cầm thì gậy đã tới sát bên sườn. Hắn nhảy chéo, tránh miếng đòn sát thủ.
- Khoan ! Đừng manh động, ngươi sẽ hối không kịp !
Nhưng Gonnosuke dường như không để lời cảnh cáo ấy vào tai. Musashi lùi ba bước thì gã cũng tiến ba bước, liên tiếp phóng chiêu bổ trên, phát ngang và quạt là là mặt đất.
Musashi tiếp tục tránh né. Hai lần, hắn định rút kiếm nhưng lần nào cũng không được. Vì đưa tay rút kiếm, khuỷu tay phải của hắn sẽ bị hở. Đòn gậy tre của địch thủ vù vù trước mặt, nhanh và mạnh như vũ bão, tất nhiên không để hắn làm việc ấy.
Musashi thấy địch thủ không phải kẻ tầm thường. Chỉ một chút khinh xuất cũng có thể mất mạng. Hắn giữ thế thủ, chú tâm quan sát đối phương, thấy gã rất bình tĩnh, tấn vững vàng, thủ kín đáo mà công mau lẹ. Musashi nghĩ thầm:
Gã nông dân này học lối đánh côn ở đâu thật xuất sắc. Gã đã làm chủ được cây gậy của mình, kỹ thuật còn cao hơn nhiều người sử dụng gươm bén. Nhưng Musashi không có thì giờ lượng định lâu. Đòn này tiếp đòn khác, lúc tay trái, lúc tay phải, lúc cả hai tay, Gonnosuke sử dụng cây gậy tre cực kỳ xảo diệu đôi lúc làm Musashi tránh đòn xong mà kinh hãi toát mồ hôi. Gươm còn có cán, có mũi, nhưng cây gậy của gã nông dân này có hai đầu, đầu nào cũng chí tử. Gã tung lên, bổ xuống, phạt ngang, đâm trước, thúc sau, quay tít cây gậy như tay thợ rất mực lành nghề bắt bột làm kẹo:
lúc dài, lúc ngắn, lúc cao, lúc thấp, lúc kéo bột nhỏ như tơ, lúc cô đặc thành cục, chỗ nào cũng thấy đầu gậy, lúc nào cũng thấy đầu gậy cả.
Tiếng bà mẹ từ trong nhà vọng ra:
- Gonnosuke ! Thằng này chẳng phải đồ thảo khấu tầm thường.
Thanh âm bà có vẻ quan ngại như chính bà đang giao đấu.
- Không hề gì.
Giọng Gonnosuke bình tĩnh. Những chiêu thức kỳ quái lại tiếp tục được phóng ra, mạnh và nhanh hơn trước. Dường như thấy có mẹ đứng quan sát, gã lên tinh thần và càng thêm phấn khởi.
Mẹ Gonnosuke hô lớn:
- Cẩn thận ! Nó ở bên trái. Sử đòn Liên Hoa Lạc.
Nhưng bộ vị của Musashi chỉ là hư bộ. Lợi dụng lúc Gonnosuke bị phân tâm, Musashi tiến sát đến bên gã, chộp cổ tay Gonnosuke nắm cứng rồi dùng một thế nhu quyền vật ngã quay lơ ra đất. Cây gậy văng ra xa. Mặt Gonnosuke nhăn lại vì đau đớn. Bà mẹ kêu thét nhảy vào nhà trong rồi tung cửa ra ngoài.
Trên mặt cỏ, Gonnosuke nằm ngửa. Gã nghiến răng, cong người, hai chân đạp xuống đất bành bạch, cố hết sức hất Musashi đang quỳ đầu gối trên ngực. Hai địch thủ công lực có phần tương đương nhưng Musashi nhờ nhanh nhẹn đã chiếm được thượng phong. Những ngón tay cứng như sắt của hắn đã ghì Gonnosuke xuống mạnh và chắc như những sợi dây lòi tói. Thế mà hắn cũng phải vất vả lắm mới giữ được địch thủ khỏi vùng dậy. Cả hai không nói một lời, không phát ra một tiếng kêu.
Chỉ nghe phì phì như hơi thở của loài mãng xà trong bóng tối.
- Gonnosuke ! Đừng sợ !
Nghe tiếng mẹ Gonnosuke, Musashi tưởng trong tình thế này, thế nào bà cũng xin tha cho con trai. Và hắn cũng chẳng hẹp hòi gì mà không thuận.
Nhưng hắn lầm. Bà mẹ Gonnosuke chạy ra, trong tay đã lăm lăm cây thương từ bao giờ. Dưới ánh đèn hắt qua khung cửa vừa mở, mũi thương và những vòng đồng trên cán thương lóe sáng. Và lưng hắn sẽ là cái đích dễ dàng cho mũi thương ấy.
Musashi cảm thấy nhột nhạt, dường như tia mắt của bà cũng đã xoáy vào gáy hắn trước khi ngọn thương đâm tới.
Hắn tiếc đã phản ứng chậm, không giải quyết cuộc đấu sớm hơn để bây giờ đứng trước một tình thế khó xử. Lối thoát độc nhất của Musashi là phải bỏ ngay gã nông phu. Như mũi tên bật khỏi dây cung, Musashi tức khắc tung mình đánh vút, chớp mắt đã nhảy ra khỏi sân, xa hơn một trượng. Hắn lăn mình đến gần gốc cây, thanh mộc kiếm sẵn sàng cầm trong tay lăm lẳm.
Mũi thương cũng vừa phóng tới, cắm ngập xuống đất chỉ cách chỗ Gonnosuke nằm chừng hơn gang, cán thương còn rung rung dưới sức ném của bà lão.
- Ái chà ! Thằng này giỏi ! Ngươi tưởng chúng ta là những nông dân quê mùa nên đến đây tác quái chăng ?
Gonnosuke vùng đứng dậy. Gã xốc lại áo và khoát tay:
- Khoan ! Con nghĩ đây là một chuyện hiểu lầm. Ta chẳng nên vì chuyện hiểu lầm mà giết hại nhau vô ích !
Đoạn quay sang phía Musashi:
- Túc hạ là ai không rõ, nhưng bất luận là ai cũng xin thu kiếm về. Đây là một sự hiểu lầm đáng tiếc.
Thấy thái độ khoan hòa của địch thủ, Musashi gật đầu tra kiếm vào vỏ:
- Tại hạ cũng có điều không phải, xin thứ lỗi.
Bèn tự xưng danh tính, rồi cả ba bước vào nhà.
Phân ngôi chủ khách xong, Musashi trình bày lý do tại sao đến đây và hỏi về lai lịch con bò cái.
- À ra thế ! Gonnosuke vỗ đùi đáp. Vì con bò mà ngờ vực. Cũng chẳng có gì đâu, do ngẫu nhiên thôi. Số là kẻ thô lậu này lúc chiều đi câu cá, thấy con bò vị sa lầy gần đầm cỏ lác. Nó không lên được, cứ đứng đấy mà kêu rống. Chỗ hoang dã chẳng có ai, nghĩ âu là của trời cho nên cố gắng buộc dây kéo lên. Ở chốn thôn ổ, có con bò như có thêm người giúp việc. Huống chi đây lại là con bò cái, sữa tốt lắm. Không ngờ lại là bò của tráng sĩ ...
Nghe những lời chất phác, Musashi mỉm cười:
- Cũng chẳng phải của tại hạ. Đấy là bò thuê để người bạn đồng hành cưỡi. Thật đáng tiếc đã không trình bày rõ ràng để đến nỗi suýt nữa thì xẩy ra thù oán !
Mẹ Gonnosuke xen vào:
- Tráng sĩ nói phải. Nhiều khi có những chuyện không đâu mà làm lụy đến nhiều người. Đây là bài học quý giá. Ta sống đã quá nửa đời rồi nhưng hành động quả còn hấp tấp. Gonnosuke, ngươi dẫn tráng sĩ đi xét khắp các nơi đi, để tráng sĩ yên lòng chúng ta không giấu những người bạn của tráng sĩ ở trong nhà.
Đoạn quay sang Musashi, bà nói:
- Xin tráng sĩ cứ tự tiện lục soát.
Gonnosuke cũng phụ họa:
- Để các hạ nghi ngờ, tại hạ thật vẫn còn áy náy. Nào xin mời các hạ.
Nhưng Musashi gạt đi:
- Thôi, bất tất ! Lời lão bá và Gonnosuke hữu cũng đủ cho tại hạ tin rồi. Tại hạ làm phiền lão bá và bằng hữu đã nhiều. Xin cho cáo biệt.
- Không được. Mẹ Gonnosuke lại nói. Gonnosuke, ngươi ăn cơm đi rồi dẫn tráng sĩ đến khu rừng ven hồ. Ta chắc nếu chúng bắt cóc cô nương thì cũng đem đến quanh đó thôi. Chỗ ấy là nơi tụ tập của nhiều du đãng bất lương lắm.
oo Lúc đầu gió còn thổi nhẹ, sau mạnh dần, ào ào qua những tàn cây lớn và kéo rạp đầu các bụi lau sậy. Bó đuốc trong tay Gonnosuke đã phải mồi lại mấy lần mà xem chừng gió chưa đứng.
Số nông dân trong vùng này đếm được khoảng mười nhà. Gonnosuke dẫn Musashi đi hỏi tin tức đã đến chín. Vẫn không kết quả. Đến đâu cũng chỉ gặp những bộ mặt e dè hoặc ngái ngủ. Không ai trông thấy bất kỳ một thiếu nữ hoặc thiếu niên nào có hình dạng như Musashi mô tả.
Gonnosuke bảo bạn đồng hành:
- Còn một căn nữa ở cuối xóm. Gia đình này vừa làm nghề trồng rẫy vừa săn thú.
Nếu không có tin gì khác thì đêm nay ta đến phải ngưng. Quanh đây không còn ai để hỏi thăm nữa.
- Đa tạ bằng hữu đã nhọc công. Nếu không ai biết hay nghe nói gì thì chắc chúng không dẫn qua đây rồi.
- Có gì mà nhọc công. Đi bộ tại hạ không ngại, đi cả đêm cũng chẳng sao. Có điều không biết đường hướng gì mà cứ đi thì thật vô ích.
- Đúng thế.
- Hai người đó với các hạ liên hệ ra sao ? Thân thuộc, bạn bè hay nô bộc ?
- Họ là những người thân nhất của tại hạ.
Thấy Musashi đáp lửng lơ, Gonnosuke cũng không hỏi thêm. Cả hai yên lặng đi dưới ánh đuốc. Mặc dầu gió đã dịu hơn trước nhiều nhưng ngọn lửa vẫn chiếu ánh sáng bập bùng đỏ quạch lên những cành cây khiến chúng trông như những cánh tay của những hình thù quái dị đang múa may trong đêm tối.
Musashi muốn biết thêm về kỹ thuật sử côn của người nông phu nhưng không tiện hỏi. Buổi sơ kiến hắn không muốn tỏ ra tò mò quá. Hắn tự nhủ “Thôi để chờ dịp khác. Thế nào ta cũng phải tìm hiểu mới được. Một kỹ thuật trác tuyệt như vậy mà mình không học hỏi thì thật đáng tiếc !”.
Đã đến cuối xóm. Gonnosuke chỉ căn trại nằm khuất sau một bụi tre cao, những gốc tre lớn bằng bắp chân lá rậm xào xạc và thân tre cọ vào nhau kẽo kẹt.
- Đến nơi rồi. Các hạ đứng đây để tại hạ vào hỏi thì hơn. Họ biết tại hạ nên không nghi ngờ gì, có thể cho mình tin tức tốt.
Gonnosuke đi vào con đường đất nhỏ. Lát sau nghe tiếng gã đập cửa. Khi cầm đuốc đi ra, trông gã có vẻ vội vàng hơn trước. Gã nói:
- Người chồng không biết gì, nhưng vợ hắn cho một tin chắc các hạ phải hài lòng.
Dáng điệu và lời nói của Gonnosuke khiến Musashi bồn chồn. Hắn nhướng lông mày ra dáng hỏi.
- Mụ vợ nói lúc chiều có gặp một thằng bé chừng mười bốn mười lăm tuổi, quần áo lem luốc, lưng đeo thanh gươm gỗ dài, nét mặt hớt hải. Nó hỏi thăm mụ đường đến văn phòng quận lỵ. Mụ hỏi nó đến để làm gì thì nó nói để thưa việc cô nó bị một tên du đãng bắt đi nên nhờ văn phòng và lính tuần tìm giúp.
Mụ khuyên thằng bé không nên đến, vô ích. Lính tuần không bao giờ tìm giúp những người dân thường bị bắt. Nếu kẻ đó là hàng quý tộc thì lính tuần mới làm, còn không thì mặc kệ. Những chuyện bắt người dẫn đi như thế này xảy ra hằng bữa, sáng, trưa, chiều, tối, ai hơi đâu !
Theo ý tại hạ, thằng bé ấy có thể là người các hạ muốn tìm. Các hạ nghĩ sao ?
Musashi gật đầu:
- Đúng rồi. Thế bây giờ nó đâu, đi về hướng nào ? Người đàn bà có cho biết thêm tin tức gì không ?
- Co. Mụ bảo mụ khuyên thằng bé đến Narai, quá ngã ba Yabuhara. Ở đấy có một lão hiệp tên Daizo, chuyên buôn bán dược thảo lại hay cứu giúp người khốn khó. Đến đấy mà tìm.
Musashi mừng lắm, cảm ơn Gonnosuke:
- Đa tạ bằng hữu. Nhờ quý bằng hữu, tại hạ mới biết phải làm gì. Tại hạ xin đi ngay gặp vị lão hiệp ấy, may ra ...
- Bây giờ thì trễ rồi, mà đi đêm xuyên rừng cũng khó. Chi bằng xin mời về nghỉ tạm ở tệ xá, để sáng mãi cũng không muộn.
- Được không ? Sợ phiền lão bá ...
- Có gì mà phiền. Ta băng qua hồ này, đỡ được nửa đường. Tại hạ đã hỏi mượn thuyền của chủ nhân căn trại vừa rồi. Xin cứ theo tại hạ.
Cả hai men theo đường xuống hồ, tới một bực đá quả nhiên có chiếc thuyền con buộc đó.
Gió đã yên từ bao giờ. Mặt hồ, phẳng như mặt trống phản chiếu bóng núi Koma đen sẫm cắt trên nền trời đầy sao lấp lánh.
Musashi giơ cao đuốc, Gonnosuke chống sào đẩy chiếc thuyền con lướt nhẹ trên mặt hồ phẳng lặng. Ánh đuốc phản chiếu mặt hồ đỏ rực, hồng hơn cả ngọn lửa bó đuốc hắn cầm trên tay.

Acmagiro
19-04-2008, 07:47 AM
CHƯƠNG 54

VẾT RĂNG RẮN ĐỘC





Ánh đuốc trông xa tựa đôi chim lửa đang vờn nhau trên mặt hồ, trong một chuyện thần thoại.
Bên bờ hồ, Matahachi nhìn sững, khẽ thốt:
- Có người ! Có người đấy !
Gã kéo dây thừng buộc chéo tay Otsu lại với nhau, lôi nàng đứng dậy. Nhưng Otsu ghì xuống, nhất định không đứng.
- Đứng dậy !
- Không !
Matahachi nắm đầu dây quất vào vai Otsu. Nàng vẫn ngồi lì.
- À bướng ! Này, bướng ! Này, bướng !
Sau mỗi tiếng, gã lại quất đầu dây thừng vào vai, vào lưng thiếu nữ. Otsu đau, nhăn mặt, nước mắt chảy ràn rụa nhưng tuyệt nhiên không thốt một lời van xin hay mắng nhiếc. Thái độ ấy như khiêu khích và càng làm cho Matahachi giận dữ hơn, gã nắm cổ áo kéo nàng đứng dậy.
- Đứng lên ! Muốn hay không cũng phải đi theo ta !
Rồi đẩy Otsu một cái. Thiếu nữ ngã sấp. Tay bị trói, nàng đang cựa quậy uốn mình định ngồi dậy thì bị Matahachi nắm tóc giật mạnh khiến nàng bật ngửa. Đau và tức giận, Otsu dùng chân đạp gã rồi kêu cứu ầm lên. Matahachi giơ tay bịt vội miệng nàng, tay kia xé vạt áo nhét vào miệng Otsu. Otsu chỉ còn ú ớ. Một vệt máu đen rỉ ra bên khoé mép. Mặc kệ ! Matahachi cúi xuống nắm cổ áo Otsu lôi đi như lôi một con vật.
Đến một ngôi miếu nhỏ bỏ hoang bên rặng liễu, Matahachi đẩy cửa, kéo Otsu vào. Miếu hôi hám, mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc nhưng trên bệ gạch thờ đã đổ nát còn lưu lại một bát hương bằng sành và hai cái chén gỗ.
Mái miếu thủng một lỗ lớn, ánh sao đêm chiếu lờ mờ hình vẽ một con rắn quấn chung quanh cái cột, đầu ngóc lên như đe dọa. Bất giác Otsu ước trở thành con rắn để có thể chui qua khe miếu mà trốn thoát.
Đưa mắt nhìn quanh, thấy không có gì khả nghi, Matahachi đẩy Otsu vào sát bệ thờ rồi ra khỏi miếu, khép cửa. Ngồi chặn bên ngoài, gã nhìn ánh lửa đuốc trên mặt hồ xa dần và suy nghĩ miên man. Bữa nay thật là một ngày khó nhọc. Lúc bắt Otsu dẫn vào rừng, gã có ngờ đâu nàng bướng đến thế. Có lúc Otsu đòi cắn lưỡi tự tử. Matahachi biết tính nàng, những lời đe doa. ấy chẳng phải là những lời dọa suông. Bị khinh miệt quá sức, Matahachi đã có ý tưởng sát nhân nhưng không dám thực hiện. Âu cũng là điều may, vì ngồi đây bây giờ, nếu làm việc ấy gã sẽ hối hận biết chừng nào.
Matahachi không hiểu tại sao đàn bà lại ưa Musashi hơn gã trong khi lúc đầu thì khác hẳn. Otsu đấy, trước đây đã chẳng là vị hôn thê của gã là gì ? Oko nữa, lúc đầu chọn đi theo gã, sau lại coi gã như một miếng giẻ thừa, muốn vất đi cho rảnh nợ. Lại cả Akemi ! Người đàn bà nào khi gặp Musashi cũng so sánh nó với gã. Chỉ có một lý do để cắt nghĩa:
Musashi đã nói xấu gã sau lưng, thế thôi ! Cho nên nó đã chiếm được lòng Otsu. Nghĩ đến đấy, Matahachi tức giận vô kể, tự trách mình ngu hết sức. “Mình đã tin vào những lời giả nhân giả nghĩa của nó”. Matahachi tự nhủ.
“Nào suốt đời làm bạn, nào giúp đỡ lẫn nhau, nào tìm thầy dậy nghề cho mình để làm lại cuộc đời ! Láo ! Láo hết ! Trong khi ấy nó đi với vợ mình”. Cơn ghen khiến Matahachi mờ mắt.
- Thằng đểu !
Gã thốt ra lời chửi tục tằn và rủa thầm Musashi đã lừa dối:
“Bây giờ ta mới biết. Thì ra trên đời này có những thằng bên ngoài được mọi người kính nể mà bên trong toàn dòi bọ. Đọc thiên kinh vạn quyển ? Trau dồi kiếm đạo ? Để làm gì ? Hừ ! Để trở nên thằng phản bạn, lừa lọc, đạo đức giả à ?”.
Matahachi nắm chặt hai tay đạp vào đùi:
“Nhất định ! Phen này ta nhất định phải làm cho nó biết tay. Ta còn thở ngày nào là còn phải nghĩ đến trả thù ngày đó !”.
Gã đạp tung cửa, nhảy vào trong miếu. Nhìn Otsu nằm co quắp bên bệ gạch, gã hét:
- Con kia ! Trả lời tức khắc câu ta hỏi lúc nãy !
Im lặng.
- À ra nó khinh mình ! Nó ra gan ! Nó ...
Sực nhớ ra nùi giẻ vẫn còn trong miệng Otsu, Matahachi cúi xuống giật mạnh.
- Otsu ! Hãy trả lời câu ta hỏi !
Tiếng Otsu yếu ớt:
- Ta không có gì phải trả lời. Nếu ngươi muốn giết ta thì cứ giết, nhưng nên xử sự đĩnh đạt, xứng đáng là kẻ nam nhi ...
Matahachi cười khẩy:
- Đừng nói bậy. Ta giết ngươi làm gì. Ý ta đã quyết phải cho ngươi và thằng Takezo đau khổ suốt đời vì chúng bay làm hại đời ta.
- Matahachi ! Ngươi lầm rồi. Chính ngươi đã quyết định đời ngươi. Ngươi đi theo Oko mới ra nông nỗi ...
- Nói láo !
Lời nói của Otsu đã khơi dậy nỗi đau và sự bất lực trong lòng gã. Gã lớn tiếng:
- Câm mồm ! Ta cấm nói đến chuyện ấy.
Otsu thở dài thất vọng:
- Mẹ con ngươi là những kẻ lạ đời. Sao cứ ngoan cố đổ tội cho kẻ khác và nuôi lòng oán hận phi lý ...
- Không nói lôi thôi ! Ta chỉ muốn hỏi ngươi có bằng lòng lấy ta không ? Nghĩ đi rồi trả lời cho ta biết.
Giọng Otsu yếu ớt nhưng cương quyết:
- Việc gì phải nghĩ nữa. Trong đời này và tất cả những đời sau, ta chỉ yêu có Musashi. Lòng ta là của chàng rồi ! Sẽ không bao giờ thuộc về một tên hèn hạ như ngươi cả !
- A !
Toàn thân Matahachi run lẩy bẩy. Gã nhếch mép cười độc ác.
- Dù muốn hay không, đêm nay mày cũng ở trong tay ta ...
Otsu rùng mình:
- Ta không cha không mẹ. Không một ai thân thích khác. Ta không sợ chết.
- Hừ ! Ai nói đến cái chết ! Giết ngươi để làm gì ? Ta sẽ làm thế này ...
Matahachi vồ lấy Otsu, một tay bịt chặt miệng nàng, một tay nắm lấy tay Otsu. Matahachi cắn lên vai thiếu nữ. Otsu thét lên đau đớn nhưng tiếng thét bị chặn ngay trong cổ họng như tiếng con vật bị chọc tiết. Máu loang ra thấm cả áo ngoài, chảy theo cánh tay trần của Otsu xuống đến tận lòng bàn tay Matahachi. Otsu dãy dụa, mặt tái dần rồi ngã lăn ra bất tỉnh. Matahachi bỏ nàng xuống. Trên trán Otsu, mồ hôi vã ra lạnh ngắt. Matahachi lo sợ, cúi xuống cạy miệng thiếu nữ xem nàng có cắn đứt lưỡi không. Thấy không có máu, gã yên tâm, giật tóc mai và gọi cho nàng tỉnh.
Lúc sau, Otsu mở mắt. Trong cơn hôn mê, nàng lắp bắp gọi tên Jotaro cầu cứu.
Đến khi định thần lại và biết mình đang ở đâu, Otsu mới thôi. Cơn đau kéo đến khiến vai tê dại, nàng cố giữ cho khỏi bật ra tiếng khóc to nhưng nước mắt vẫn ràn rụa hai bên má.
Trong bóng tối của gian miếu hoang, sự yên lặng chỉ bị cắt đứt bởi những tiếng thút thít và tiếng rên nho nhỏ.
- Đau hả ? Đó là bài học để ngươi ghi nhớ suốt đời. Dù vết cắn trên vai ngươi có lành nhưng vẫn còn vết sẹo. Để ngươi biết ngươi là của ta, đã thuộc về ta. Để thằng Takezo cũng phải biết thế. Bây giờ thì trốn đi. Muốn trốn ta cho trốn nhưng không thể quên ta được !
Otsu muốn đứng dậy nhổ vào mặt tên vô sỉ hèn hạ, nhưng không đủ sức. Mệt quá rồi, nàng chẳng còn nghe thấy gì nữa, chẳng còn làm gì được nữa dù biết rằng gã hèn hạ ấy đang quỳ bên cạnh tháo dây trói cho nàng.
Matahachi với tay lên bệ thờ, cầm chiếc chén gỗ ra hồ múc nước. Vừa bước khỏi cửa, thấy ngay một bóng đen ù té chạy. Gã đuổi theo bén gót, ôm được, vật ngay xuống.
Thì ra là một lão nông.
- Xin đại nhân tha mạng. Già này chẳng làm gì nên tội. Nhân dẫn lừa mang thóc ra chợ bán, thấy có tiếng khóc trong miếu thì tò mò dòm xem mà thôi ...
- Thật không ? Hay định dò xét cái gì ?
- Bẩm thật, lão đã già không dám nói dối ...
- Vậy lừa đâu ?
- Dạ Ở đằng kia.
- Dẫn ta lại coi, nếu không thì coi chừng cái đầu lão !
Vừa dọa, Matahachi vừa mân mê chuôi kiếm đeo bên sườn.
- Dạ dạ ...
Đi khỏi ba gốc liễu, quả nhiên thấy con lừa trên lưng tải hai bịch thóc. Matahachi bảo ông già:
- Bỏ thóc đi, dẫn lừa theo ta trở lại miếu.
Tội nghiệp ông già chất phác, gặp người đeo gươm thì sợ hãi, chẳng quan quân cũng phường thảo khấu, đều có quyền sinh sát cả. Lão líu ríu vâng lời.
- Chúng ta muốn đi Edo, cần con lừa của ngươi để cô nương cưỡi.
- Dạ dạ ...
- Mà chúng ta không muốn đi đường đông đúc. Ngươi hãy dẫn lừa theo đường mòn trong rừng, càng vắng càng tốt.
- Dạ, xin đại nhân lấy con lừa, còn tha cho già này về cày cấy. Vợ già đau ốm, chỉ trông cậy vào có mình già.
- Không được ! Đừng có lôi thôi. Muốn ta thử gươm trên cái đầu hói của lão hả ?
- Dạ dạ ...Nhưng đi đường rừng phải trèo cao, mệt nhọc lắm, chẳng biết già này có kham nổi không ?
- Mặc kệ !
Matahachi túm cổ ông lão, bắt cột hành trang rồi vực Otsu lên lưng lừa. Cả ba người cùng với con vật qua khỏi rặng liễu thì trực chỉ khu rừng chân núi.
Đường mòn càng lúc càng dôc thêm, ông già dẫn lừa thở phì phò mà con vật xem chừng bước chân cũng không được vững nữa. Sỏi đá đổ rào rào. Dưới chân họ, mây mù tụ từng đám nhưng ở xa xa, về phương đông, trời đã hửng sáng.
Otsu nằm phục trên lưng lừa từ khi còn tối, chẳng nói một lời. Khi nhìn ánh dương quang vừa hé, nàng bảo Matahachi:
- Matahachi ! Tha ông già về và trả con lừa lại cho người ta. Ta thấy đã có thể đi bộ được.
- Ngươi có trốn không ?
- Không. Ta cam đoan không trốn.
Rồi với nụ cười héo hắt, nàng tiếp:
- Trốn làm gì khi ta còn phải mang trên vai vết răng của loài rắn độc.

CHƯƠNG 55

LỜI CẢNH GIÁC CỦA MỘT NGƯỜI MẸ







- Con đã dùng những đòn đặc biệt, nhưng nó khoẻ và nhanh vô cùng. Sợ không làm gì được ...
Mẹ Gonnosuke cắt ngang:
- Nói nhỏ chứ ! Khua nó dậy đấy hả ? Mày thua nó chỉ vì sơ xuất. Từ trước mày chưa gặp đối thủ nào xứng đáng nên thiếu kinh nghiệm, bây giờ là lúc có cơ hội tốt để học hỏi ...
Bà nói dịu dàng nhưng cương quyết và khích lệ, nghe như lời răn bảo một đứa trẻ lên năm.
- Phải có ý chí và quyết tâm mới nên người được chứ ! Đừng để uổng công ta nuôi dạy.
Musashi tỉnh đã lâu. Những lời đối thoại của mẹ con gã nông phu ở phòng kế tuy nhỏ nhưng nghe khá rõ, làm hắn ngạc nhiên. Cuộc đụng độ tối qua tưởng như kết thúc, Musashi coi đó chỉ là một sự hiểu lầm giữa đôi bên, không ngờ có hậu quả nghiêm trọng trong gia đình này đến thế.
Một tiếng nấc nhỏ, cơ hồ gã nông phu không giữ được xúc động bật lên khóc. Rồi tiếng bà mẹ nghiêm nghị:
- Vô ích ! Khóc không giải quyết được gì cả. Hãy thách nó giao đấu lần nữa để giữ vững lòng tự tin. Ta xem đường côn của mày đâu đến nỗi ...
- Nhưng con không đủ sức. Xin mẹ tha thứ cho con, mẹ cho con bỏ võ công để làm một nông dân thường. Con cầm cuốc có lẽ còn có ích hơn cầm côn.
Musashi nhẹ nhàng tung chăn ngồi dậy, đến bên vách ghé mắt dòm qua khe cửa. Trời mới rạng đông, phòng còn tối nhưng hắn cũng thấy mẹ Gonnosuke ngồi trên chiếu đối diện với người con trai trước bàn thờ gia tiên. Tuy đã có tuổi, vậy mà lưng bà chưa còng và phong cách chững chạc trong thế ngồi rất nghiêm túc của bà chứng tỏ bà đã thừa hưởng một quá khứ vinh hiển từ một dòng họ hào hùng. Bất giác Musashi đem lòng kính nể và có hảo cảm với người đàn bà cương nghị ấy.
Gonnosuke vẫn mặc bộ y phục ngày hôm trước, vóc dáng to lớn thô kệch trái hẳn với thái độ khiêm cung của gã lúc bấy giờ.
Bà cụ sẵng giọng:
- Mày nói cái gì ? Muốn làm nghề nông cả đời hay sao ?
Gonnosuke lặng thinh, đầu cúi gục. Bà bèn nhích lại gần, kéo đầu con trai đặt vào lòng mình rồi nói bằng một giọng ôn tồn và âu yếm:
- Gonnosuke ! Ta cố gắng đến ngày nay là để mong con trở thành hào kiệt, khôi phục lại danh dự của cha ông. Con biết đấy, ta không nề khổ cực, sinh nhai đạm bạc cũng chỉ vì mục đích ấy. Bây giờ bỏ cả, như thế là thế nào ? Con không nghĩ gì đến công phu tập luyện hàng chục năm nay, không thương ta, không quan tâm đến dòng máu hiệp sĩ đất Kiso nữa hay sao ?
Nói xong, dường như không cầm được xúc cảm, bà khóc. Xúc cảm hay lây. Gonnosuke cũng chan chứa nước mắt.
- Sao bây giờ con khác trước ? Can đảm để đâu ?
Bà lau nước mắt:
- Nó còn ở phòng bên. Chừng nào nó tỉnh dậy, con hãy tìm cách khiêu khích nó để giao tranh lần nữa. Nếu con để mất lòng tự tin thì họ nhà ta coi như đến đây là tuyệt diệt.
Gonnosuke lắc đầu:
- Nó khôn ngoan lắm. Đêm qua đi thuyền trên mặt hồ, con đã rình cơ hội thuận tiện để tấn công nó nhưng không lúc nào nó lộ chút sơ hở. Nhiều lần con đã tự nhủ tên đó chỉ là một Ronin tầm thường, nhưng không hiểu sao con không dám ...
- Bởi ngươi hèn nhát, khiếp nhược. Bà gắt lên. Phải ngươi đã thề với ta sẽ lập một môn phái riêng để rạng danh tổ phụ không ? Ngươi quên rồi chăng ?
- Con không quên, nhưng sợ lúc đó con quá chủ quan, tin tưởng vào sức mình.
Chưa đủ chính chắn, làm sao dám lập môn phái ? Con trộm nghĩ thà bẻ côn đi cày con hơn để mẹ chịu cảnh cơ hàn trong lúc tuổi mẹ thì cao và sức khoẻ kém dần.
Bà cụ trừng mắt:
- Nói bậy ! Mày từ bỏ võ công để săn sóc ta không làm ta sung sướng gì hơn. Trước nay, mày chưa được dự trận nào quan trọng, mới thua một lần đã tỏ ra khiếp nhược. Ta không nói nữa. Gonnosuke ! Khi nó dậy, mày phải khiêu khích nó. Nếu lần này thua, bấy giờ gác côn cũng chưa muộn.
Musashi thong thả quay về chỗ nằm. Nếu gã nông phu khiêu khích, nhất định hắn không thể từ chối được, mà nếu hắn xuất thủ dù chỉ để tự vệ, hắn cũng sẽ thắng dễ dàng. Trận đánh này quyết định tương lai của Gonnosuke và tuổi thọ của bà lão, vì bất luận thế nào, cục diện cũng sẽ làm tinh thần bà chấn động, không chắc sống được.
Bình tĩnh thu nhặt hành trang, hắn yên lặng mở cửa lẻn ra ngoài.
Mặt trời mới rạng. Những ngọn bạch dương trồng trước trại ửng hồng như vừa được rắc phấn. Men theo vách nhà bếp, Musashi thấy con bò hắn thuê nằm thản nhiên, mắt lơ đãng nhìn ra xa, miệng nhóp nhép. Hắn đưa tay chào từ giã con vật, xuyên qua rặng bạch dương rồi rảo bước lẩn vào những bụi cây thấp ở ven rừng. Hôm ấy, núi Koma trông rõ mồn một từ chân cho đến đỉnh. Thỉnh thoảng mới có vài cụm mây hồng nhẹ nhàng trôi theo gió sáng.
“Jotaro còn nhỏ, Otsu thì yếu đuối. Không biết cả hai có gặp nguy hiểm gì không.
Nếu phen này không tìm ra tung tích thì âu cũng là Trời Phật đã an bài !”. Musashi tự nhủ thầm để tìm sự yên tĩnh. Sau biến cố ở thác Phu Phụ, mặc dầu đã giữ vững ý chí quyết tâm theo con đường kiếm thuật, tâm hồn hắn đôi khi vẫn bị xao động vì tình yêu và bổn phận. Trước gió sớm bay vừa, lòng hắn cũng xôn xao như những lá bạch dương, không kềm giữ nổi.
Đến Narai, trời đã quá trưa. Trấn Narai đương hồi thịnh. Có tiệm bán đồ da, trưng ra đủ thứ loại da thuộc và lông thú. Tiệm khác trang hoàng mỹ lệ chuyên về nghề làm lược, một đặc sản đất Kiso.
Thấy một cửa hàng treo bảng hiệu vẽ con gấu lớn với chữ đề to tướng “Đại Hùng Dược Phòng” và ngay cạnh cửa có cái cũi nhốt con gấu đen, Musashi bước vào.
Trong hiệu la liệt bảng gỗ nêu tên các vị thuốc đã được bào chế sẵn bằng mật gấu.
Mãi pha trà, chủ nhân không để ý, chỉ hỏi:
- Khách quan cần gì ?
- Xin lỗi, tại hạ muốn hỏi thăm một người tên Daizo, nghe nói chuyên buôn bán dược thảo ở trấn Narai này.
Chủ nhân quay ra, nhướng mày, cặp kính trễ xuống mũi:
- Daizo ư ? Ông ấy ở đằng kia, gần ngã ba, cách đây một quãng.
Vừa lúc ấy, một thằng bé ăn mặc ra dáng tiểu đồng bước vào. Chủ nhân vội nói:
- Này Isu, tráng sĩ muốn tìm Daizo tiên sinh, mày dẫn ông ấy đi chỉ nhà cho tường tận rồi về đây ta bảo.
Tiểu đồng đầu cạo trọc chỉ để lại túm tóc phía sau gáy, ra hiệu cho Musashi đi theo. Nghe chủ tiệm bào chế gọi Daizo bằng tiên sinh thì chắc lão hiệp này rất được dân địa phương kính nể, Musashi mừng thầm thấy công của mình không đến nỗi là công cốc. Đến ngã ba Yabuhara, thằng bé chỉ căn nhà phía trái bên kia đường và nói:
- Đấy, chỗ ấy.
Rồi tong tả quay gót.
Musashi ngạc nhiên. Ngôi nhà không có vẻ gì là một cửa hiệu có bán dược thảo. Mặt tiền, dài đến hai trượng, bốn dãy liếp gỗ mắt cáo che gần hết. Tường cao bao bọc hai gian nhà kho lớn, cổng ra vào bằng đá khá kiên cố, cửa lúc bấy giờ đang đóng kín. Hắn đến trước cổng, ngần ngừ một lát rồi vừa đằng hắng, vừa đẩy cửa vào, thấy mình đứng ngay trong một căn phòng rộng.
- Có ai trong nhà không ?
Phòng rộng nhưng vắng, sáng mờ mờ làm hắn liên tưởng đến một tiệm nấu rượu Sakê. Nền đất nện khiến không khí mát mẻ, dễ chịu khác thường.
Musashi đằng hắng nhắc lại câu hỏi. Đợi khá lâu mới thấy một người từ phòng trong bước ra. Phòng này trải chiếu, có lẽ là văn phòng. Người vừa bước ra hất hàm có ý hỏi. Musashi trình bày mục đích xong, ông ta chậc lưỡi, nói:
- Thì ra tráng sĩ đến vì thằng bé đấy !
Bèn mời vào, lấy thêm gối đặt lên chiếu để khách ngồi rồi tiếp:
- Tiếc quá, tráng sĩ đến hơi trễ. Thằng bé tới đây hồi nửa đêm, bấy giờ chúng tôi đang chuẩn bị hành trang để chủ nhân đi du ngoạn. Theo lời kể hình như nó đi cùng với một nữ lang, nửa đường bị cưỡng bức bắt đi. Nếu tên vô lại đó là thảo khấu hay cường đồ thì truy ra cũng dễ, nhưng đằng này không phải. Dường như cũng lại là một kẻ lữ hành khác không phải ở địa phương này.
Thấy thằng bé tứ cố vô thân lại tỏ ý sợ hãi, Daizo tiên sinh dẫn nó theo, may ra trên đường đi, tìm gặp được người mà nó gọi bằng cô, tên là ...tên là ...
- Otsu.
- Phải rồi ! Otsu ! Thằng bé ấy đối với tráng sĩ là thế nào ?
- Nó là học trò tại hạ.
- Thật tiếc ! Nếu tráng sĩ đến sớm chút nữa thì gặp. Daizo tiên sinh mới đi khoảng đầu giờ dần.
- Các hạ biết tiên sinh đi đâu không ?
- Khó mà biết được. Vì cửa hiệu chúng tôi không giống các hiệu khác nên chủ nhân ít khi ở nhà. Mỗi năm hai lần, vào mùa xuân hay mùa thu, những kẻ hái thuốc trên núi mới mang thuốc xuống giao để chúng tôi bào chế. Lúc ấy mới bận. Còn những tháng khác, Daizo tiên sinh thường đi du ngoạn các nơi, khi thì suối nước nóng, khi thì chùa miếu, chỗ nào cảnh đẹp lại dừng chân nghỉ vài ngày, có khi hàng tuần khó mà lường trước.
Lần này chắc tiên sinh đi thăm thiền viện Zenkoji rồi tiện đường đến Edo, nhưng đấy chỉ là dự đoán, chủ nhân chúng tôi không nói rõ đi đâu bao giờ. Tráng sĩ dùng trà ?
Musashi gật đầu cảm ơn. Người đàn ông mang trà ra, Musashi lại hỏi thêm về niên kỷ cùng vóc dáng Daizo.
- Ồ ! Tráng sĩ gặp chủ nhân tôi thì nhận ra ngay. Ông đã quã ngũ tuần nhưng còn khoẻ, dáng đẫy đà, da đỏ hồng và mặt có vài vết rỗ, thái dương bên phải tóc hoa râm hơi thưa ...
- Thế y phục ra sao ?
Người kia gật gù:
- Ờ ...ờ ...Tráng sĩ có hỏi mới nhớ. Lần này ông vận y phục đặc biệt:
kimono bằng vải sọc Trung quốc đặt mua ở Sakai riêng cho cuộc hành trình này. Mới nhập cảng, ít người biết, có khi chưa ai mặc cũng nên. Tráng sĩ thấy là nhận ra tức khắc.
Nghe mô tả, Musashi cũng mường tượng được phong cách của Daizo và có đôi chút khái niệm về nếp sống của ông. Hắn uống cạn chén trà, cảm ơn người làm công rồi ra khỏi hiệu.
Nắng chiều chênh chếch. Musashi tự nhủ cứ đà này thì không thể nào đuổi kịp Daizo trước khi trời tối nữa rồi, nhưng nếu đi tới khuya để sáng sớm hôm sau trèo lên đèo Shiojiri thì có thể đợi Daizo ở đó được.
Gần đến chân đèo, ánh tà dương đã tắt hẳn. Màn sương mỏng xanh phơn phớt đã bắt đầu phủ lên mặt lộ. Trong bóng núi đổi màu đen sẫm, đây đó vài đốm lửa tiều mới nhóm càng làm tăng vẻ cô tịch đìu hiu của vùng sơn dã.
Còn đến năm chục dặm đường nữa mới đến đèo, Musashi cứ lầm lũi đi, mặc cho bóng tối bao vây tứ phía. Đi đã lâu, xem chừng thấm mệt, gặp một tảng đá nhẵn, hắn ngồi xuống giở lương khô ra ăn rồi nằm nghỉ ngay trên tảng đá.
Gió mát hiu hiu, Musashi lâng lâng dõi theo những vì sao nhấp nhánh và ngủ quên lúc nào không biết.
Giấc ngủ của người kiếm khách Giang hồ say và lâu, mãi đến khi nghe những tiếng nói lào xào, hắn mới tỉnh.
Trời đã sáng rõ. Musashi nhỏm dậy nhìn quanh không thấy ai. Ngôi miếu nhỏ chênh vênh trên mỏm đá ở đỉnh đèo trông càng nhỏ giữa cảnh bao la của trời đất.
- Lên đây ! Lối này ! Tiếng đàn ông vọng lại. Ở đây trông thấy núi Phú Sĩ !
Musashi quay nhìn tứ phía. Quả nhiên, sau lưng hắn, lềnh bềnh trên một biển mây, ngọn Phú Sĩ uy nghi hồng rực phản chiếu ánh thái dương vừa hé. Núi cao và hùng vĩ, trên ngọn tuyết phủ trắng xóa, có giải mây năm sắc vắt ngang mang một vẻ đẹp huyền bí hắn chưa bao giờ thấy. Musashi kêu lên khoái trá. Từ nhỏ, được xem nhiều tranh vẽ cảnh Phú Sĩ sơn, hắn cũng có đôi chút ý niệm, nhưng đây là lần đầu tiên được thấy tận mắt ngọn danh sơn này. Và cảnh thật gợi trong lòng hắn nhiều hoài cảm bao la khiến hắn xúc động vô tả.
Từ sau trận chiến dưới gốc cổ tùng, đôi khi Musashi đã dám có ý tưởng cao ngạo trên đời này mấy ai đủ khả năng là đối thủ của hắn. Nhưng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, trước vẻ sáng lạn huy hoàng và bền vững của ngọn Phú Sĩ sơn, niềm ý thức sự nhỏ bé của mình và sự phù du của kiếp sống khiến hắn tự thẹn đã đặt quá nhiều quan trọng vào những võ công đạt được.
Thiên nhiên là cái thước để con người tự lượng. Hạt cát trên sông Hằng, thân phận con người là thế trong cái trình tự tạo hóa đã an bài, không cách gì thoát khỏi. Mặc cảm tự ti xâm chiếm lòng hắn, Musashi quỳ xuống chắp tay cúi đầu lâm râm khấn nguyện xin được tha thứ về những ý tưởng ngạo mạn của mình, đồng thời cầu cho vong hồn mẹ hắn an nghỉ đời đời, chị hắn, Otsu và Jotaro được an lành trong cuộc sống. Sau hết, lại xin tiền nhân phù hộ cho hắn đủ nghị lực làm rạng danh tổ quốc và dân tộc, dù công nghiệp ấy hắn không dám sánh cùng núi non hùng vĩ trước mặt.
Nhưng cầu nguyện xong, nhìn lưỡi gươm bên sườn, hắn lại có ý tưởng khác. Ừ, con người nhỏ bé thật, nhưng cái gì đã khiến cho con người ý thức được mình nhỏ bé ? Thiên nhiên chỉ cao cả qua nhãn tuyến của con người. Thần linh chỉ hiện hữu khi cảm thông được với người. Chính con người, sinh vật có tâm linh và ý thức chứ không phải gỗ đá vô tri, đã phát hiện ra sự cảm thông ấy. Cho nên con người nếu hợp nhất với thiên nhiên, không phân chia nhĩ, ngã, không phân biệt với ngoại cảnh, biết lấy cái tâm bình đẳng với vũ trụ, cái tâm chân như của nhà Phật để làm căn bản hành động, thì khó gì không thực hiện được những công nghiệp vĩ đại ? Và với thanh kiếm ba thước này, hắn đâu còn nhỏ bé so với ngọn Phú Sĩ sơn kia ...
Nghĩ đến đấy, Musashi khoan khoái lạ thường. Tuy cách xa trăm dặm, ngọn núi dường như gần gũi hơn, trên cùng một bình diện với hắn.
Tiếng chân người rộn rịp cùng với tiếng gọi nhau í ới càng lúc càng gần. Dưới chân đèo, khách hành hương, tay nải, vai gánh đã thấy đông.
Musashi nghĩ thầm “Sớm muộn gì Daizo cùng với Jotaro cũng qua đây, nếu lời dự đoán của người làm công là đúng. Có lẽ nên thảo vài chữ để lại chỗ này, may ra thằng bé để ý. Mình lên mỏm đá cao trên kia nhìn xuống bao quát được khoảng núi rộng hơn và thấy họ dễ hơn”. Bèn lấy miếng vải và bút mực trong bọc ra viết vội:
“Daizo tiên sinh nhã giám, vãn bối là sư phụ tiểu đồng cùng đi với tiên sinh. Rất mong gặp tiên sinh ở miếu trên đỉnh đèo, xin tiên sinh lưu ý”. Rồi buộc vào cành cây và rời khỏi tảng đá.
Đi được một quãng bỗng nghe phía dưới có người nói:
- Ở trên kia ! Hắn đấy !
Âm thanh quen thuộc lắm, gợi cho Musashi nhớ đến tiếng rít của cây gậy tre. Quả nhiên, giọng Gonnosuke tiếp ngay:
- Musashi ! Ngươi bỏ chạy không dám giao đấu với ta ! Hèn nhát !
Musashi quay lại. Đứng giữa hai tảng đá trên cao, hắn yên lặng nhìn xuống. Mẹ Gonnosuke cưỡi bò phía sau, cách xa con trai chừng hai trượng.
Thấy Musashi lặng thinh và không tỏ vẻ gì muốn giao đấu, Gonnosuke nói:
- Mẹ đợi đây ! Con lên bắt nó !
- Không được ! Tiếng bà cắt ngang. Lúc nào mày cũng hấp tấp, nóng nảy. Trước khi giao tranh phải dự đoán ý nghĩ của địch đã. Nó đứng trên cao lăn đá xuống trong khi mày trèo thì mày nghĩ sao ?
Hai mẹ con nói nhỏ với nhau, gió thổi tạt, Musashi nghe không rõ, nhưng về mặt chiến thuật, rõ ràng hắn đã chiếm thượng phong. Musashi không ngại giao đấu nhưng điều làm hắn khó xử là sự tháo gỡ mối oán giận của nhà này. Nếu Gonnosuke lại thua nữa, mối hiềm khích gia tăng và sẽ không bao giờ chấm dứt. Từ sau cuộc đụng độ với phái Yoshioka, Musashi đã ý thức sự điên rồ của những cuộc tranh chấp chỉ nhằm mục đích thù hận. Nhìn bà mẹ Gonnosuke, hắn liên tưởng tới cụ Osugi, một người đàn bà bướng bỉnh, yêu con và yêu đảng tộc đến thành mù quáng. Khẽ lắc đầu, hắn trở góc, tiếp tục trèo lên.
- Musashi đại hiệp !
Giọng bà mẹ Gonnosuke rõ ràng như có ý cầu khẩn. Musashi dừng bước, quay lại. Bà đã từ lưng bò tuột xuống, và trước sự kinh ngạc của hắn, bà quỳ xuống sụp lạy.
Bối rối, Musashi không biết xử sự ra sao. Trên cao, bên những hòn loạn Musashi ngổn ngang, hắn cố gắng đáp lễ, giơ tay như mời bà đứng dậy.
- Đại hiệp ! Già này thật lấy làm thẹn đã đuổi theo đại hiệp, xin đại hiệp thứ lỗi và đừng lầm là già ngoan cố. Hành động của già chẳng phải vì ác cảm hay oán thù, chỉ xin thương đứa con già, mười năm tự học không thầy, không bạn, không kinh nghiệm.
Xin đại hiệp dạy cho nó một bài học để soi sang đường nó đi ...
Musashi nghe, không thốt một lời. Giọng bà cụ trở nên xúc động:
- Đại hiệp bỏ đi, già ngạc nhiên quá. Kỹ thuật thằng Gonnosuke còn kém nhưng nó đã dày công khổ luyện. Nếu vì lý do gì nó chán nản không tập luyện thì già này phải chết không dám nhìn mặt tổ tiên nữa. Xin đại hiệp rủ lòng thương giáo huấn cho nó.
Nói đoạn, bà lại khấu đầu làm lễ.
Musashi vội vàng bước xuống cầm tay bà đỡ lên lưng bò rồi bảo Gonnosuke:
- Túc hạ dẫn bò cho lão bá. Tại hạ cần suy nghĩ. Nhận hay không sẽ trả lời túc hạ sau.
Hắn đi trước vài bước, và mặc dầu đã hứa trả lời, lúc lâu sau cũng chẳng thấy nói gì. Gonnosuke nhìn lưng Musashi, tay gã ngứa ngáy khó chịu, thỉnh thoảng lại cầm đầu dây thừng quất nhẹ vào chân bò một cái, ra vẻ bồn chồn lắm. Mẹ Gonnosuke có dáng tư lự.
Bỗng Musashi quay lại:
- Được rồi ! Tại hạ nhận.
Gonnosuke đứng khựng, tay nắm chặt côn tre hơn:
- Vậy ngươi đã sẵn sàng ?
Không để ý đến câu hỏi, Musashi nhìn bà mẹ:
- Trận đấu này quyết định sự sống chết của đôi bên, mặc dầu võ khí có khác. Xin lão bá chuẩn bị ...
Lần đầu tiên Musashi thấy bà lão mỉm cười:
- Già biết điều đó. Nếu con già thua trong tay đại hiệp, một người còn trẻ tuổi hơn hắn, thì hắn cũng nên bẻ côn mà quy ẩn. Vậy sống chết có gì khác đâu ? Và nếu chuyện đó xảy ra, già cũng không oán hận !
- Vậy được !
Musashi cúi nhặt đầu dây thừng, bảo với Gonnosuke:
- Ta chẳng nên tỷ thí ở đây, phiền người qua lại. Để buộc bò vào gốc cây rồi ra khu khoảng khoát đằng kia, túc hạ muốn giao đấu bao lâu tại hạ cũng bồi tiếp.
Khu khoảng khoát ở lưng chừng đồi, rải rác vài hòn đá tảng mặt đã nhẵn vì sương tuyết. Cả ba yên lặng đến đó. Tới nơi, Musashi là người đầu tiên lên tiếng:
- Chuẩn bị !
Không đợi nhắc lần thứ hai, Gonnosuke đã nhảy ra giữa bãi, côn tre cầm tay khoảng một phần chiều dài, đầu côn chỉ xuống đất. Musashi tay buông thõng, dáng tự nhiên, nhưng mắt long lanh như mắt vọ nhìn địch thủ.
- Sao ngươi không chuẩn bị ?
- Tại hạ đã sẵn sàng !
- Ngươi đấu tay không chăng ?
Musashi nhếch mép, tay trái đặt lên bao kiếm. Đã đến lúc hắn không muốn phí công lực vào lời nói.
Trong góc, mẹ Gonnosuke ngồi như tượng đá.
Hai địch thủ gờm nhau. Gonnosuke hơi gù, tấn đứng vững chãi, hít một hơi dài như gom khí lực của khắp cả miền đồi núi vào trong ***g ngực để cây gậy tre trong tay gã bung ra với tất cả sức mạnh mong muốn.
Musashi, tia mắt sắc như dao chuyển dần sang màu hổ phách, nhìn Gonnosuke tưởng xuyên thấu tim gan gã. Tia mắt ấy có ma lực ghê gớm. Phóng ra đúng lúc, nó có thể lũng đoạn tâm ý khiến địch thủ tổn thương còn hơn là đao kiếm. Trúng nhược điểm, nó là mũi dùi mở đường để lưỡi kiếm theo sau tàn phá. Chưa ai xuất thủ, nhưng trận chiến đã bắt đầu.
Bỗng mẹ Gonnosuke kêu lớn:
- Khoan !
Musashi tung mình nhảy về phía sau chừng một trượng.
- Đại hiệp sử võ khí gì ? Thiết kiếm hay mộc kiếm ?
- Thiết kiếm hay mộc kiếm không quan hệ, kiếm nào cũng vậy ?
- ... ?
- Kiếm, dù gỗ hay thép, là một tuyệt đối. Trong trận thư hùng như trận này, không có nửa chừng. Kẻ nào sợ thì chạy.
Bà lão im lặng rồi gật đầu:
- Phải lắm. Vậy hai bên hãy khai rõ danh tính và môn sư theo đúng nghi thức để khỏi phải hối tiếc về sau. Sợ khi giao đấu xong thì đã muộn ! Gonnosuke ! Ngươi hay khai trước.
Gonnosuke thu côn về, trịnh trọng cúi đầu trước địch thủ:
- Tiện danh là Gonnosuke, tổ phụ phụng thị dưới trướng tướng quân Yoshimida đất Kiso. Đời tiên phụ chẳng may bị vết nhơ, xin miễn khai rõ, gia đình phải bỏ đi lang bạt.
Tại hạ nguyện khôi phục lại danh dự cho tiền nhân nên đã khổ công tập luyện và khai triển một kỹ thuật về trúc côn, lại có ý định lập riêng môn phái.
Tại hạ đã sẵn sàng, xin lãnh giáo !
Musashi cúi đầu đáp lễ rồi cũng khai danh tính:
- Tiện danh là Miyamoto Musashi, sinh quán ở Miyamoto đất Harima. Tại hạ thụ huấn võ công đầu tiên của tiên phụ, sau tự học để lập chí theo kiếm đạo. Hiện không còn ai thân thích, nếu bị bại, xin đừng quan tâm đến di hài tại hạ.
Đoạn rút kiếm giơ ngang mày, lưỡi kiếm lóe sáng tựa hào quang. Mẹ Gonnosuke nín thở. Không như những bà mẹ khác, bà đã đi tìm và buộc đứa con còn lại độc nhất của mình, đối đầu với một mối nguy hiểm gã chưa bao giờ gặp. Để lấy kinh nghiệm. Để duy trì lòng tự tin. Và để khôi phục lại danh dự. Bà cho rằng đó là con đường phải đi và đó là cách duy nhất. Tất cả hoài vọng của bà đặt lên cánh tay đứa con ấy.
Ngồi trên góc đồi quạnh vắng, bà cầu nguyện không bằng lời mà bằng tất cả lòng tin tưởng vào thần Phật, thỉnh cầu các vị xuống hỗ trợ cho con bà chiến đấu.
Nhìn mũi kiếm của Musashi, Gonnosuke lạnh người. Musashi hôm nay không giống như Musashi gã thấy hai hôm trước.
Hai hôm trước, hắn lưu hoạt, uyển chuyển hơn nhiều trong dáng đi cũng như cách đứng. Tuy là đối thủ, hắn vẫn có vẻ cởi mở, thân thiết, ví như những nét chữ thảo với vẻ bay bướm, phóng dật. Bây giờ, Musashi nghiêm nghị đến khô khan. Mũi kiếm hắn chỉ về đằng trước như một nét chữ chân phương không mang cả đến sơ bút, tuồng như những thế kiếm sắp tung ra đã được chuẩn bị, cân nhắc kỹ càng, bất di bất dịch:
những nét chữ khắc vào đá.
Thái độ của Musashi khiến Gonnosuke phân vân. Gã chưa dám tấn công, cây côn tre vẫn ở thế chờ đợi.
Vạt sương cuối cùng buổi sáng vừa tan hết. Thình lình một tiếng “chát” ghê rợn xé bầu không khí tĩnh mịch. Bộ vị hai địch thủ đã thay đổi. Không ai biết rõ là tiếng gậy hay tiếng gươm vừa được phóng ra. Hư ảo như là tiếng vỗ của một bàn tay.
Gonnosuke vừa trượt đòn phạt ngang vai địch thủ mà chiêu kiếm của Musashi hớt xéo lên cũng hụt, cách thái dương gã đến non nửa tấc.
Musashi biến chiêu lập tức, lợi dụng uy lực của đường kiếm hụt, bổ xuống.
Chiêu này hắn đã ứng dụng trong trận đánh Yoshioka dưới gốc cổ tùng ngày nào, giết hại có đến chục đồ chúng. Nhưng Gonnosuke, bề ngoài thô kệch mà thật ra nhanh nhẹn dị thường. Gã tránh chiêu kiếm sát thủ ấy, hai tay đưa ngược cây côn tre lên đỡ, khuỷu tay phải cao hơn vai trái để cây côn tiếp xúc với lưỡi kiếm phần gần lá chắn cho giảm bớt sức mạnh của lưỡi kiếm chém xuống.
Kiếm và côn giao nhau trên đầu gã. Tình trạng không khác gì tình trạng hai bên khóa kiếm, một chút sai lầm có thể mất mạng trong nháy mắt. Nhưng côn khác kiếm.
Côn không lưỡi, không sống, không mũi, không chuôi, nhưng trong tay một hảo thủ như Gonnosuke, nó có đủ cả mọi đặc điểm ấy. Lại dài hơn kiếm, nó có thể dùng như một cây thương ngắn.
Musashi không dám thu kiếm về. Hắn chưa đoán được đòn kế tiếp của Gonnosuke nên phải vận toàn công lực đè lên võ khí của gã.
Phần Gonnosuke, gã ở trong tình trạng nguy khốn hơn. Đang giữ thế thủ, mọi sơ hở để cây gậy lệch đi, tất lưỡi kiếm chém xuống, chẻ đôi đầu. Mặt gã tái ngắt, hai hàm răng cắn chặt vào nhau làm cổ bạnh ra. Mồ hôi rỏ giọt lên những vết nhăn ở khóe mắt. Cây côn trên đầu đã hơi run và tiếng thở của gã đã nặng hơn trước.
Mẹ Gonnosuke hoảng sợ, sắc diện tái hơn sắc diện người con trai trong cuộc. Bà vươn cổ, mắt lồi khỏi tròng:
- Gonnosuke, hông mày cao quá !
Vừa kêu vừa vỗ vào hông trái, rồi như không chịu nổi sự căng thẳng tinh thần, bà ngã sấp.
Sau lời cảnh giác của bà mẹ, côn và kiếm rời nhau tức khắc, mạnh và nhanh không ai nhìn kịp. Chỉ thấy Musashi hơi lạng đi và tiếng Gonnosuke rống lên như bò bị chọc tiết. Rồi một thân người đổ xuống bất tỉnh.
Musashi giơ tay áo quệt mồ hôi. Hắn tra kiếm vào vỏ, đến bên mẹ Gonnosuke đỡ bà ngồi dậy. Mắt bà lão như lạc thần.
- Tại hạ chém đằng sống.
Musashi ôn tồn nói. Bà lão dường như không hiểu, ngước nét mặt đần độn lên nhìn hắn.
- Gonnosuke chắc chỉ bị thương xoàng, không can gì. Lão bá đến gọi cho tỉnh để tại hạ đi lấy nước.
Nghe Gonnosuke bị thương xoàng, bà ngạc nhiên. Lết đến gần, sờ tay con, mạch vẫn còn đập, áo không dính máu, bà mừng rỡ cuống quít vừa lay vừa gọi. Lát sau, Gonnosuke tỉnh dậy. Mắt lờ đờ, gã nhìn Musashi, lẩm bẩm:
- Tại hạ không phải đối thủ của đại hiệp. Đa tạ đã lưu tình ...
Musashi nắm tay Gonnosuke không đáp. Lát sau mới vạch áo ngoài, chỉ một vết đỏ bầm trên ngực mà nói:
- Nếu không nhanh mắt, tại hạ cũng ra người thiên cổ rồi.
Đoạn nhìn bà mẹ, hỏi:
- Sao lão bá biết mà cảnh giác Gonnosuke hắn đã để hông cao quá.
- Già không hiểu võ công, nhưng thấy nó dồn hết tâm lực vào việc giữ cho kiếm khỏi bổ xuống đầu thành ra không tiến thoái được. Nếu biết hạ thấp hông trái xuống một chút, lưỡi kiếm sẽ tuột đi theo chiều cây côn và đầu côn tự nhiên bung ra đập vào ngực đối thủ, già bèn bảo nó ...
Musashi gật đầu. Hắn đã học được một kinh nghiệm bổ ích. Trong cuộc viễn du vào biên giới của sự sống và chết vừa qua, lời cảnh giác của bà mẹ Gonnosuke hiển nhiên chẳng phải là một lời phù phiếm.

Acmagiro
21-04-2008, 06:39 PM
CHƯƠNG 55

LỜI CẢNH GIÁC CỦA MỘT NGƯỜI MẸ







- Con đã dùng những đòn đặc biệt, nhưng nó khoẻ và nhanh vô cùng. Sợ không làm gì được ...
Mẹ Gonnosuke cắt ngang:
- Nói nhỏ chứ ! Khua nó dậy đấy hả ? Mày thua nó chỉ vì sơ xuất. Từ trước mày chưa gặp đối thủ nào xứng đáng nên thiếu kinh nghiệm, bây giờ là lúc có cơ hội tốt để học hỏi ...
Bà nói dịu dàng nhưng cương quyết và khích lệ, nghe như lời răn bảo một đứa trẻ lên năm.
- Phải có ý chí và quyết tâm mới nên người được chứ ! Đừng để uổng công ta nuôi dạy.
Musashi tỉnh đã lâu. Những lời đối thoại của mẹ con gã nông phu ở phòng kế tuy nhỏ nhưng nghe khá rõ, làm hắn ngạc nhiên. Cuộc đụng độ tối qua tưởng như kết thúc, Musashi coi đó chỉ là một sự hiểu lầm giữa đôi bên, không ngờ có hậu quả nghiêm trọng trong gia đình này đến thế.
Một tiếng nấc nhỏ, cơ hồ gã nông phu không giữ được xúc động bật lên khóc. Rồi tiếng bà mẹ nghiêm nghị:
- Vô ích ! Khóc không giải quyết được gì cả. Hãy thách nó giao đấu lần nữa để giữ vững lòng tự tin. Ta xem đường côn của mày đâu đến nỗi ...
- Nhưng con không đủ sức. Xin mẹ tha thứ cho con, mẹ cho con bỏ võ công để làm một nông dân thường. Con cầm cuốc có lẽ còn có ích hơn cầm côn.
Musashi nhẹ nhàng tung chăn ngồi dậy, đến bên vách ghé mắt dòm qua khe cửa. Trời mới rạng đông, phòng còn tối nhưng hắn cũng thấy mẹ Gonnosuke ngồi trên chiếu đối diện với người con trai trước bàn thờ gia tiên. Tuy đã có tuổi, vậy mà lưng bà chưa còng và phong cách chững chạc trong thế ngồi rất nghiêm túc của bà chứng tỏ bà đã thừa hưởng một quá khứ vinh hiển từ một dòng họ hào hùng. Bất giác Musashi đem lòng kính nể và có hảo cảm với người đàn bà cương nghị ấy.
Gonnosuke vẫn mặc bộ y phục ngày hôm trước, vóc dáng to lớn thô kệch trái hẳn với thái độ khiêm cung của gã lúc bấy giờ.
Bà cụ sẵng giọng:
- Mày nói cái gì ? Muốn làm nghề nông cả đời hay sao ?
Gonnosuke lặng thinh, đầu cúi gục. Bà bèn nhích lại gần, kéo đầu con trai đặt vào lòng mình rồi nói bằng một giọng ôn tồn và âu yếm:
- Gonnosuke ! Ta cố gắng đến ngày nay là để mong con trở thành hào kiệt, khôi phục lại danh dự của cha ông. Con biết đấy, ta không nề khổ cực, sinh nhai đạm bạc cũng chỉ vì mục đích ấy. Bây giờ bỏ cả, như thế là thế nào ? Con không nghĩ gì đến công phu tập luyện hàng chục năm nay, không thương ta, không quan tâm đến dòng máu hiệp sĩ đất Kiso nữa hay sao ?
Nói xong, dường như không cầm được xúc cảm, bà khóc. Xúc cảm hay lây. Gonnosuke cũng chan chứa nước mắt.
- Sao bây giờ con khác trước ? Can đảm để đâu ?
Bà lau nước mắt:
- Nó còn ở phòng bên. Chừng nào nó tỉnh dậy, con hãy tìm cách khiêu khích nó để giao tranh lần nữa. Nếu con để mất lòng tự tin thì họ nhà ta coi như đến đây là tuyệt diệt.
Gonnosuke lắc đầu:
- Nó khôn ngoan lắm. Đêm qua đi thuyền trên mặt hồ, con đã rình cơ hội thuận tiện để tấn công nó nhưng không lúc nào nó lộ chút sơ hở. Nhiều lần con đã tự nhủ tên đó chỉ là một Ronin tầm thường, nhưng không hiểu sao con không dám ...
- Bởi ngươi hèn nhát, khiếp nhược. Bà gắt lên. Phải ngươi đã thề với ta sẽ lập một môn phái riêng để rạng danh tổ phụ không ? Ngươi quên rồi chăng ?
- Con không quên, nhưng sợ lúc đó con quá chủ quan, tin tưởng vào sức mình.
Chưa đủ chính chắn, làm sao dám lập môn phái ? Con trộm nghĩ thà bẻ côn đi cày con hơn để mẹ chịu cảnh cơ hàn trong lúc tuổi mẹ thì cao và sức khoẻ kém dần.
Bà cụ trừng mắt:
- Nói bậy ! Mày từ bỏ võ công để săn sóc ta không làm ta sung sướng gì hơn. Trước nay, mày chưa được dự trận nào quan trọng, mới thua một lần đã tỏ ra khiếp nhược. Ta không nói nữa. Gonnosuke ! Khi nó dậy, mày phải khiêu khích nó. Nếu lần này thua, bấy giờ gác côn cũng chưa muộn.
Musashi thong thả quay về chỗ nằm. Nếu gã nông phu khiêu khích, nhất định hắn không thể từ chối được, mà nếu hắn xuất thủ dù chỉ để tự vệ, hắn cũng sẽ thắng dễ dàng. Trận đánh này quyết định tương lai của Gonnosuke và tuổi thọ của bà lão, vì bất luận thế nào, cục diện cũng sẽ làm tinh thần bà chấn động, không chắc sống được.
Bình tĩnh thu nhặt hành trang, hắn yên lặng mở cửa lẻn ra ngoài.
Mặt trời mới rạng. Những ngọn bạch dương trồng trước trại ửng hồng như vừa được rắc phấn. Men theo vách nhà bếp, Musashi thấy con bò hắn thuê nằm thản nhiên, mắt lơ đãng nhìn ra xa, miệng nhóp nhép. Hắn đưa tay chào từ giã con vật, xuyên qua rặng bạch dương rồi rảo bước lẩn vào những bụi cây thấp ở ven rừng. Hôm ấy, núi Koma trông rõ mồn một từ chân cho đến đỉnh. Thỉnh thoảng mới có vài cụm mây hồng nhẹ nhàng trôi theo gió sáng.
“Jotaro còn nhỏ, Otsu thì yếu đuối. Không biết cả hai có gặp nguy hiểm gì không.
Nếu phen này không tìm ra tung tích thì âu cũng là Trời Phật đã an bài !”. Musashi tự nhủ thầm để tìm sự yên tĩnh. Sau biến cố ở thác Phu Phụ, mặc dầu đã giữ vững ý chí quyết tâm theo con đường kiếm thuật, tâm hồn hắn đôi khi vẫn bị xao động vì tình yêu và bổn phận. Trước gió sớm bay vừa, lòng hắn cũng xôn xao như những lá bạch dương, không kềm giữ nổi.
Đến Narai, trời đã quá trưa. Trấn Narai đương hồi thịnh. Có tiệm bán đồ da, trưng ra đủ thứ loại da thuộc và lông thú. Tiệm khác trang hoàng mỹ lệ chuyên về nghề làm lược, một đặc sản đất Kiso.
Thấy một cửa hàng treo bảng hiệu vẽ con gấu lớn với chữ đề to tướng “Đại Hùng Dược Phòng” và ngay cạnh cửa có cái cũi nhốt con gấu đen, Musashi bước vào.
Trong hiệu la liệt bảng gỗ nêu tên các vị thuốc đã được bào chế sẵn bằng mật gấu.
Mãi pha trà, chủ nhân không để ý, chỉ hỏi:
- Khách quan cần gì ?
- Xin lỗi, tại hạ muốn hỏi thăm một người tên Daizo, nghe nói chuyên buôn bán dược thảo ở trấn Narai này.
Chủ nhân quay ra, nhướng mày, cặp kính trễ xuống mũi:
- Daizo ư ? Ông ấy ở đằng kia, gần ngã ba, cách đây một quãng.
Vừa lúc ấy, một thằng bé ăn mặc ra dáng tiểu đồng bước vào. Chủ nhân vội nói:
- Này Isu, tráng sĩ muốn tìm Daizo tiên sinh, mày dẫn ông ấy đi chỉ nhà cho tường tận rồi về đây ta bảo.
Tiểu đồng đầu cạo trọc chỉ để lại túm tóc phía sau gáy, ra hiệu cho Musashi đi theo. Nghe chủ tiệm bào chế gọi Daizo bằng tiên sinh thì chắc lão hiệp này rất được dân địa phương kính nể, Musashi mừng thầm thấy công của mình không đến nỗi là công cốc. Đến ngã ba Yabuhara, thằng bé chỉ căn nhà phía trái bên kia đường và nói:
- Đấy, chỗ ấy.
Rồi tong tả quay gót.
Musashi ngạc nhiên. Ngôi nhà không có vẻ gì là một cửa hiệu có bán dược thảo. Mặt tiền, dài đến hai trượng, bốn dãy liếp gỗ mắt cáo che gần hết. Tường cao bao bọc hai gian nhà kho lớn, cổng ra vào bằng đá khá kiên cố, cửa lúc bấy giờ đang đóng kín. Hắn đến trước cổng, ngần ngừ một lát rồi vừa đằng hắng, vừa đẩy cửa vào, thấy mình đứng ngay trong một căn phòng rộng.
- Có ai trong nhà không ?
Phòng rộng nhưng vắng, sáng mờ mờ làm hắn liên tưởng đến một tiệm nấu rượu Sakê. Nền đất nện khiến không khí mát mẻ, dễ chịu khác thường.
Musashi đằng hắng nhắc lại câu hỏi. Đợi khá lâu mới thấy một người từ phòng trong bước ra. Phòng này trải chiếu, có lẽ là văn phòng. Người vừa bước ra hất hàm có ý hỏi. Musashi trình bày mục đích xong, ông ta chậc lưỡi, nói:
- Thì ra tráng sĩ đến vì thằng bé đấy !
Bèn mời vào, lấy thêm gối đặt lên chiếu để khách ngồi rồi tiếp:
- Tiếc quá, tráng sĩ đến hơi trễ. Thằng bé tới đây hồi nửa đêm, bấy giờ chúng tôi đang chuẩn bị hành trang để chủ nhân đi du ngoạn. Theo lời kể hình như nó đi cùng với một nữ lang, nửa đường bị cưỡng bức bắt đi. Nếu tên vô lại đó là thảo khấu hay cường đồ thì truy ra cũng dễ, nhưng đằng này không phải. Dường như cũng lại là một kẻ lữ hành khác không phải ở địa phương này.
Thấy thằng bé tứ cố vô thân lại tỏ ý sợ hãi, Daizo tiên sinh dẫn nó theo, may ra trên đường đi, tìm gặp được người mà nó gọi bằng cô, tên là ...tên là ...
- Otsu.
- Phải rồi ! Otsu ! Thằng bé ấy đối với tráng sĩ là thế nào ?
- Nó là học trò tại hạ.
- Thật tiếc ! Nếu tráng sĩ đến sớm chút nữa thì gặp. Daizo tiên sinh mới đi khoảng đầu giờ dần.
- Các hạ biết tiên sinh đi đâu không ?
- Khó mà biết được. Vì cửa hiệu chúng tôi không giống các hiệu khác nên chủ nhân ít khi ở nhà. Mỗi năm hai lần, vào mùa xuân hay mùa thu, những kẻ hái thuốc trên núi mới mang thuốc xuống giao để chúng tôi bào chế. Lúc ấy mới bận. Còn những tháng khác, Daizo tiên sinh thường đi du ngoạn các nơi, khi thì suối nước nóng, khi thì chùa miếu, chỗ nào cảnh đẹp lại dừng chân nghỉ vài ngày, có khi hàng tuần khó mà lường trước.
Lần này chắc tiên sinh đi thăm thiền viện Zenkoji rồi tiện đường đến Edo, nhưng đấy chỉ là dự đoán, chủ nhân chúng tôi không nói rõ đi đâu bao giờ. Tráng sĩ dùng trà ?
Musashi gật đầu cảm ơn. Người đàn ông mang trà ra, Musashi lại hỏi thêm về niên kỷ cùng vóc dáng Daizo.
- Ồ ! Tráng sĩ gặp chủ nhân tôi thì nhận ra ngay. Ông đã quã ngũ tuần nhưng còn khoẻ, dáng đẫy đà, da đỏ hồng và mặt có vài vết rỗ, thái dương bên phải tóc hoa râm hơi thưa ...
- Thế y phục ra sao ?
Người kia gật gù:
- Ờ ...ờ ...Tráng sĩ có hỏi mới nhớ. Lần này ông vận y phục đặc biệt:
kimono bằng vải sọc Trung quốc đặt mua ở Sakai riêng cho cuộc hành trình này. Mới nhập cảng, ít người biết, có khi chưa ai mặc cũng nên. Tráng sĩ thấy là nhận ra tức khắc.
Nghe mô tả, Musashi cũng mường tượng được phong cách của Daizo và có đôi chút khái niệm về nếp sống của ông. Hắn uống cạn chén trà, cảm ơn người làm công rồi ra khỏi hiệu.
Nắng chiều chênh chếch. Musashi tự nhủ cứ đà này thì không thể nào đuổi kịp Daizo trước khi trời tối nữa rồi, nhưng nếu đi tới khuya để sáng sớm hôm sau trèo lên đèo Shiojiri thì có thể đợi Daizo ở đó được.
Gần đến chân đèo, ánh tà dương đã tắt hẳn. Màn sương mỏng xanh phơn phớt đã bắt đầu phủ lên mặt lộ. Trong bóng núi đổi màu đen sẫm, đây đó vài đốm lửa tiều mới nhóm càng làm tăng vẻ cô tịch đìu hiu của vùng sơn dã.
Còn đến năm chục dặm đường nữa mới đến đèo, Musashi cứ lầm lũi đi, mặc cho bóng tối bao vây tứ phía. Đi đã lâu, xem chừng thấm mệt, gặp một tảng đá nhẵn, hắn ngồi xuống giở lương khô ra ăn rồi nằm nghỉ ngay trên tảng đá.
Gió mát hiu hiu, Musashi lâng lâng dõi theo những vì sao nhấp nhánh và ngủ quên lúc nào không biết.
Giấc ngủ của người kiếm khách Giang hồ say và lâu, mãi đến khi nghe những tiếng nói lào xào, hắn mới tỉnh.
Trời đã sáng rõ. Musashi nhỏm dậy nhìn quanh không thấy ai. Ngôi miếu nhỏ chênh vênh trên mỏm đá ở đỉnh đèo trông càng nhỏ giữa cảnh bao la của trời đất.
- Lên đây ! Lối này ! Tiếng đàn ông vọng lại. Ở đây trông thấy núi Phú Sĩ !
Musashi quay nhìn tứ phía. Quả nhiên, sau lưng hắn, lềnh bềnh trên một biển mây, ngọn Phú Sĩ uy nghi hồng rực phản chiếu ánh thái dương vừa hé. Núi cao và hùng vĩ, trên ngọn tuyết phủ trắng xóa, có giải mây năm sắc vắt ngang mang một vẻ đẹp huyền bí hắn chưa bao giờ thấy. Musashi kêu lên khoái trá. Từ nhỏ, được xem nhiều tranh vẽ cảnh Phú Sĩ sơn, hắn cũng có đôi chút ý niệm, nhưng đây là lần đầu tiên được thấy tận mắt ngọn danh sơn này. Và cảnh thật gợi trong lòng hắn nhiều hoài cảm bao la khiến hắn xúc động vô tả.
Từ sau trận chiến dưới gốc cổ tùng, đôi khi Musashi đã dám có ý tưởng cao ngạo trên đời này mấy ai đủ khả năng là đối thủ của hắn. Nhưng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, trước vẻ sáng lạn huy hoàng và bền vững của ngọn Phú Sĩ sơn, niềm ý thức sự nhỏ bé của mình và sự phù du của kiếp sống khiến hắn tự thẹn đã đặt quá nhiều quan trọng vào những võ công đạt được.
Thiên nhiên là cái thước để con người tự lượng. Hạt cát trên sông Hằng, thân phận con người là thế trong cái trình tự tạo hóa đã an bài, không cách gì thoát khỏi. Mặc cảm tự ti xâm chiếm lòng hắn, Musashi quỳ xuống chắp tay cúi đầu lâm râm khấn nguyện xin được tha thứ về những ý tưởng ngạo mạn của mình, đồng thời cầu cho vong hồn mẹ hắn an nghỉ đời đời, chị hắn, Otsu và Jotaro được an lành trong cuộc sống. Sau hết, lại xin tiền nhân phù hộ cho hắn đủ nghị lực làm rạng danh tổ quốc và dân tộc, dù công nghiệp ấy hắn không dám sánh cùng núi non hùng vĩ trước mặt.
Nhưng cầu nguyện xong, nhìn lưỡi gươm bên sườn, hắn lại có ý tưởng khác. Ừ, con người nhỏ bé thật, nhưng cái gì đã khiến cho con người ý thức được mình nhỏ bé ? Thiên nhiên chỉ cao cả qua nhãn tuyến của con người. Thần linh chỉ hiện hữu khi cảm thông được với người. Chính con người, sinh vật có tâm linh và ý thức chứ không phải gỗ đá vô tri, đã phát hiện ra sự cảm thông ấy. Cho nên con người nếu hợp nhất với thiên nhiên, không phân chia nhĩ, ngã, không phân biệt với ngoại cảnh, biết lấy cái tâm bình đẳng với vũ trụ, cái tâm chân như của nhà Phật để làm căn bản hành động, thì khó gì không thực hiện được những công nghiệp vĩ đại ? Và với thanh kiếm ba thước này, hắn đâu còn nhỏ bé so với ngọn Phú Sĩ sơn kia ...
Nghĩ đến đấy, Musashi khoan khoái lạ thường. Tuy cách xa trăm dặm, ngọn núi dường như gần gũi hơn, trên cùng một bình diện với hắn.
Tiếng chân người rộn rịp cùng với tiếng gọi nhau í ới càng lúc càng gần. Dưới chân đèo, khách hành hương, tay nải, vai gánh đã thấy đông.
Musashi nghĩ thầm “Sớm muộn gì Daizo cùng với Jotaro cũng qua đây, nếu lời dự đoán của người làm công là đúng. Có lẽ nên thảo vài chữ để lại chỗ này, may ra thằng bé để ý. Mình lên mỏm đá cao trên kia nhìn xuống bao quát được khoảng núi rộng hơn và thấy họ dễ hơn”. Bèn lấy miếng vải và bút mực trong bọc ra viết vội:
“Daizo tiên sinh nhã giám, vãn bối là sư phụ tiểu đồng cùng đi với tiên sinh. Rất mong gặp tiên sinh ở miếu trên đỉnh đèo, xin tiên sinh lưu ý”. Rồi buộc vào cành cây và rời khỏi tảng đá.
Đi được một quãng bỗng nghe phía dưới có người nói:
- Ở trên kia ! Hắn đấy !
Âm thanh quen thuộc lắm, gợi cho Musashi nhớ đến tiếng rít của cây gậy tre. Quả nhiên, giọng Gonnosuke tiếp ngay:
- Musashi ! Ngươi bỏ chạy không dám giao đấu với ta ! Hèn nhát !
Musashi quay lại. Đứng giữa hai tảng đá trên cao, hắn yên lặng nhìn xuống. Mẹ Gonnosuke cưỡi bò phía sau, cách xa con trai chừng hai trượng.
Thấy Musashi lặng thinh và không tỏ vẻ gì muốn giao đấu, Gonnosuke nói:
- Mẹ đợi đây ! Con lên bắt nó !
- Không được ! Tiếng bà cắt ngang. Lúc nào mày cũng hấp tấp, nóng nảy. Trước khi giao tranh phải dự đoán ý nghĩ của địch đã. Nó đứng trên cao lăn đá xuống trong khi mày trèo thì mày nghĩ sao ?
Hai mẹ con nói nhỏ với nhau, gió thổi tạt, Musashi nghe không rõ, nhưng về mặt chiến thuật, rõ ràng hắn đã chiếm thượng phong. Musashi không ngại giao đấu nhưng điều làm hắn khó xử là sự tháo gỡ mối oán giận của nhà này. Nếu Gonnosuke lại thua nữa, mối hiềm khích gia tăng và sẽ không bao giờ chấm dứt. Từ sau cuộc đụng độ với phái Yoshioka, Musashi đã ý thức sự điên rồ của những cuộc tranh chấp chỉ nhằm mục đích thù hận. Nhìn bà mẹ Gonnosuke, hắn liên tưởng tới cụ Osugi, một người đàn bà bướng bỉnh, yêu con và yêu đảng tộc đến thành mù quáng. Khẽ lắc đầu, hắn trở góc, tiếp tục trèo lên.
- Musashi đại hiệp !
Giọng bà mẹ Gonnosuke rõ ràng như có ý cầu khẩn. Musashi dừng bước, quay lại. Bà đã từ lưng bò tuột xuống, và trước sự kinh ngạc của hắn, bà quỳ xuống sụp lạy.
Bối rối, Musashi không biết xử sự ra sao. Trên cao, bên những hòn loạn Musashi ngổn ngang, hắn cố gắng đáp lễ, giơ tay như mời bà đứng dậy.
- Đại hiệp ! Già này thật lấy làm thẹn đã đuổi theo đại hiệp, xin đại hiệp thứ lỗi và đừng lầm là già ngoan cố. Hành động của già chẳng phải vì ác cảm hay oán thù, chỉ xin thương đứa con già, mười năm tự học không thầy, không bạn, không kinh nghiệm.
Xin đại hiệp dạy cho nó một bài học để soi sang đường nó đi ...
Musashi nghe, không thốt một lời. Giọng bà cụ trở nên xúc động:
- Đại hiệp bỏ đi, già ngạc nhiên quá. Kỹ thuật thằng Gonnosuke còn kém nhưng nó đã dày công khổ luyện. Nếu vì lý do gì nó chán nản không tập luyện thì già này phải chết không dám nhìn mặt tổ tiên nữa. Xin đại hiệp rủ lòng thương giáo huấn cho nó.
Nói đoạn, bà lại khấu đầu làm lễ.
Musashi vội vàng bước xuống cầm tay bà đỡ lên lưng bò rồi bảo Gonnosuke:
- Túc hạ dẫn bò cho lão bá. Tại hạ cần suy nghĩ. Nhận hay không sẽ trả lời túc hạ sau.
Hắn đi trước vài bước, và mặc dầu đã hứa trả lời, lúc lâu sau cũng chẳng thấy nói gì. Gonnosuke nhìn lưng Musashi, tay gã ngứa ngáy khó chịu, thỉnh thoảng lại cầm đầu dây thừng quất nhẹ vào chân bò một cái, ra vẻ bồn chồn lắm. Mẹ Gonnosuke có dáng tư lự.
Bỗng Musashi quay lại:
- Được rồi ! Tại hạ nhận.
Gonnosuke đứng khựng, tay nắm chặt côn tre hơn:
- Vậy ngươi đã sẵn sàng ?
Không để ý đến câu hỏi, Musashi nhìn bà mẹ:
- Trận đấu này quyết định sự sống chết của đôi bên, mặc dầu võ khí có khác. Xin lão bá chuẩn bị ...
Lần đầu tiên Musashi thấy bà lão mỉm cười:
- Già biết điều đó. Nếu con già thua trong tay đại hiệp, một người còn trẻ tuổi hơn hắn, thì hắn cũng nên bẻ côn mà quy ẩn. Vậy sống chết có gì khác đâu ? Và nếu chuyện đó xảy ra, già cũng không oán hận !
- Vậy được !
Musashi cúi nhặt đầu dây thừng, bảo với Gonnosuke:
- Ta chẳng nên tỷ thí ở đây, phiền người qua lại. Để buộc bò vào gốc cây rồi ra khu khoảng khoát đằng kia, túc hạ muốn giao đấu bao lâu tại hạ cũng bồi tiếp.
Khu khoảng khoát ở lưng chừng đồi, rải rác vài hòn đá tảng mặt đã nhẵn vì sương tuyết. Cả ba yên lặng đến đó. Tới nơi, Musashi là người đầu tiên lên tiếng:
- Chuẩn bị !
Không đợi nhắc lần thứ hai, Gonnosuke đã nhảy ra giữa bãi, côn tre cầm tay khoảng một phần chiều dài, đầu côn chỉ xuống đất. Musashi tay buông thõng, dáng tự nhiên, nhưng mắt long lanh như mắt vọ nhìn địch thủ.
- Sao ngươi không chuẩn bị ?
- Tại hạ đã sẵn sàng !
- Ngươi đấu tay không chăng ?
Musashi nhếch mép, tay trái đặt lên bao kiếm. Đã đến lúc hắn không muốn phí công lực vào lời nói.
Trong góc, mẹ Gonnosuke ngồi như tượng đá.
Hai địch thủ gờm nhau. Gonnosuke hơi gù, tấn đứng vững chãi, hít một hơi dài như gom khí lực của khắp cả miền đồi núi vào trong ***g ngực để cây gậy tre trong tay gã bung ra với tất cả sức mạnh mong muốn.
Musashi, tia mắt sắc như dao chuyển dần sang màu hổ phách, nhìn Gonnosuke tưởng xuyên thấu tim gan gã. Tia mắt ấy có ma lực ghê gớm. Phóng ra đúng lúc, nó có thể lũng đoạn tâm ý khiến địch thủ tổn thương còn hơn là đao kiếm. Trúng nhược điểm, nó là mũi dùi mở đường để lưỡi kiếm theo sau tàn phá. Chưa ai xuất thủ, nhưng trận chiến đã bắt đầu.
Bỗng mẹ Gonnosuke kêu lớn:
- Khoan !
Musashi tung mình nhảy về phía sau chừng một trượng.
- Đại hiệp sử võ khí gì ? Thiết kiếm hay mộc kiếm ?
- Thiết kiếm hay mộc kiếm không quan hệ, kiếm nào cũng vậy ?
- ... ?
- Kiếm, dù gỗ hay thép, là một tuyệt đối. Trong trận thư hùng như trận này, không có nửa chừng. Kẻ nào sợ thì chạy.
Bà lão im lặng rồi gật đầu:
- Phải lắm. Vậy hai bên hãy khai rõ danh tính và môn sư theo đúng nghi thức để khỏi phải hối tiếc về sau. Sợ khi giao đấu xong thì đã muộn ! Gonnosuke ! Ngươi hay khai trước.
Gonnosuke thu côn về, trịnh trọng cúi đầu trước địch thủ:
- Tiện danh là Gonnosuke, tổ phụ phụng thị dưới trướng tướng quân Yoshimida đất Kiso. Đời tiên phụ chẳng may bị vết nhơ, xin miễn khai rõ, gia đình phải bỏ đi lang bạt.
Tại hạ nguyện khôi phục lại danh dự cho tiền nhân nên đã khổ công tập luyện và khai triển một kỹ thuật về trúc côn, lại có ý định lập riêng môn phái.
Tại hạ đã sẵn sàng, xin lãnh giáo !
Musashi cúi đầu đáp lễ rồi cũng khai danh tính:
- Tiện danh là Miyamoto Musashi, sinh quán ở Miyamoto đất Harima. Tại hạ thụ huấn võ công đầu tiên của tiên phụ, sau tự học để lập chí theo kiếm đạo. Hiện không còn ai thân thích, nếu bị bại, xin đừng quan tâm đến di hài tại hạ.
Đoạn rút kiếm giơ ngang mày, lưỡi kiếm lóe sáng tựa hào quang. Mẹ Gonnosuke nín thở. Không như những bà mẹ khác, bà đã đi tìm và buộc đứa con còn lại độc nhất của mình, đối đầu với một mối nguy hiểm gã chưa bao giờ gặp. Để lấy kinh nghiệm. Để duy trì lòng tự tin. Và để khôi phục lại danh dự. Bà cho rằng đó là con đường phải đi và đó là cách duy nhất. Tất cả hoài vọng của bà đặt lên cánh tay đứa con ấy.
Ngồi trên góc đồi quạnh vắng, bà cầu nguyện không bằng lời mà bằng tất cả lòng tin tưởng vào thần Phật, thỉnh cầu các vị xuống hỗ trợ cho con bà chiến đấu.
Nhìn mũi kiếm của Musashi, Gonnosuke lạnh người. Musashi hôm nay không giống như Musashi gã thấy hai hôm trước.
Hai hôm trước, hắn lưu hoạt, uyển chuyển hơn nhiều trong dáng đi cũng như cách đứng. Tuy là đối thủ, hắn vẫn có vẻ cởi mở, thân thiết, ví như những nét chữ thảo với vẻ bay bướm, phóng dật. Bây giờ, Musashi nghiêm nghị đến khô khan. Mũi kiếm hắn chỉ về đằng trước như một nét chữ chân phương không mang cả đến sơ bút, tuồng như những thế kiếm sắp tung ra đã được chuẩn bị, cân nhắc kỹ càng, bất di bất dịch:
những nét chữ khắc vào đá.
Thái độ của Musashi khiến Gonnosuke phân vân. Gã chưa dám tấn công, cây côn tre vẫn ở thế chờ đợi.
Vạt sương cuối cùng buổi sáng vừa tan hết. Thình lình một tiếng “chát” ghê rợn xé bầu không khí tĩnh mịch. Bộ vị hai địch thủ đã thay đổi. Không ai biết rõ là tiếng gậy hay tiếng gươm vừa được phóng ra. Hư ảo như là tiếng vỗ của một bàn tay.
Gonnosuke vừa trượt đòn phạt ngang vai địch thủ mà chiêu kiếm của Musashi hớt xéo lên cũng hụt, cách thái dương gã đến non nửa tấc.
Musashi biến chiêu lập tức, lợi dụng uy lực của đường kiếm hụt, bổ xuống.
Chiêu này hắn đã ứng dụng trong trận đánh Yoshioka dưới gốc cổ tùng ngày nào, giết hại có đến chục đồ chúng. Nhưng Gonnosuke, bề ngoài thô kệch mà thật ra nhanh nhẹn dị thường. Gã tránh chiêu kiếm sát thủ ấy, hai tay đưa ngược cây côn tre lên đỡ, khuỷu tay phải cao hơn vai trái để cây côn tiếp xúc với lưỡi kiếm phần gần lá chắn cho giảm bớt sức mạnh của lưỡi kiếm chém xuống.
Kiếm và côn giao nhau trên đầu gã. Tình trạng không khác gì tình trạng hai bên khóa kiếm, một chút sai lầm có thể mất mạng trong nháy mắt. Nhưng côn khác kiếm.
Côn không lưỡi, không sống, không mũi, không chuôi, nhưng trong tay một hảo thủ như Gonnosuke, nó có đủ cả mọi đặc điểm ấy. Lại dài hơn kiếm, nó có thể dùng như một cây thương ngắn.
Musashi không dám thu kiếm về. Hắn chưa đoán được đòn kế tiếp của Gonnosuke nên phải vận toàn công lực đè lên võ khí của gã.
Phần Gonnosuke, gã ở trong tình trạng nguy khốn hơn. Đang giữ thế thủ, mọi sơ hở để cây gậy lệch đi, tất lưỡi kiếm chém xuống, chẻ đôi đầu. Mặt gã tái ngắt, hai hàm răng cắn chặt vào nhau làm cổ bạnh ra. Mồ hôi rỏ giọt lên những vết nhăn ở khóe mắt. Cây côn trên đầu đã hơi run và tiếng thở của gã đã nặng hơn trước.
Mẹ Gonnosuke hoảng sợ, sắc diện tái hơn sắc diện người con trai trong cuộc. Bà vươn cổ, mắt lồi khỏi tròng:
- Gonnosuke, hông mày cao quá !
Vừa kêu vừa vỗ vào hông trái, rồi như không chịu nổi sự căng thẳng tinh thần, bà ngã sấp.
Sau lời cảnh giác của bà mẹ, côn và kiếm rời nhau tức khắc, mạnh và nhanh không ai nhìn kịp. Chỉ thấy Musashi hơi lạng đi và tiếng Gonnosuke rống lên như bò bị chọc tiết. Rồi một thân người đổ xuống bất tỉnh.
Musashi giơ tay áo quệt mồ hôi. Hắn tra kiếm vào vỏ, đến bên mẹ Gonnosuke đỡ bà ngồi dậy. Mắt bà lão như lạc thần.
- Tại hạ chém đằng sống.
Musashi ôn tồn nói. Bà lão dường như không hiểu, ngước nét mặt đần độn lên nhìn hắn.
- Gonnosuke chắc chỉ bị thương xoàng, không can gì. Lão bá đến gọi cho tỉnh để tại hạ đi lấy nước.
Nghe Gonnosuke bị thương xoàng, bà ngạc nhiên. Lết đến gần, sờ tay con, mạch vẫn còn đập, áo không dính máu, bà mừng rỡ cuống quít vừa lay vừa gọi. Lát sau, Gonnosuke tỉnh dậy. Mắt lờ đờ, gã nhìn Musashi, lẩm bẩm:
- Tại hạ không phải đối thủ của đại hiệp. Đa tạ đã lưu tình ...
Musashi nắm tay Gonnosuke không đáp. Lát sau mới vạch áo ngoài, chỉ một vết đỏ bầm trên ngực mà nói:
- Nếu không nhanh mắt, tại hạ cũng ra người thiên cổ rồi.
Đoạn nhìn bà mẹ, hỏi:
- Sao lão bá biết mà cảnh giác Gonnosuke hắn đã để hông cao quá.
- Già không hiểu võ công, nhưng thấy nó dồn hết tâm lực vào việc giữ cho kiếm khỏi bổ xuống đầu thành ra không tiến thoái được. Nếu biết hạ thấp hông trái xuống một chút, lưỡi kiếm sẽ tuột đi theo chiều cây côn và đầu côn tự nhiên bung ra đập vào ngực đối thủ, già bèn bảo nó ...
Musashi gật đầu. Hắn đã học được một kinh nghiệm bổ ích. Trong cuộc viễn du vào biên giới của sự sống và chết vừa qua, lời cảnh giác của bà mẹ Gonnosuke hiển nhiên chẳng phải là một lời phù phiếm.

CHƯƠNG 56

CUỘC GẶP GỠ TÌNH CỜ







Vết thương ở ngực Musashi bây giờ tím bầm, tay hắn cử động hơi khó.
Vận khí thấy huyết mạch vẫn điều hoà, hắn không quan tâm lắm, nhưng không muốn la cà ở dọc đường hỏi tin tức về Jotaro và Otsu nữa mà đổi ý theo hướng đông rẽ sang quan lộ đi Shimosawa. Ở đấy, nếu vết thương có biến chứng gì cũng dễ trị.
Shimosawa là một trấn lớn bên bờ hồ Suwa, dân cư khá đông, nổi tiếng về suối nước nóng và những nhà tắm hơi công cộng. Các gia đình quyền quý và thương gia giàu có dựng nhà nghỉ mát kể có hàng ngàn. Tại các lữ điếm dành cho phái quý tộc, phòng tắm hơi đều có mái che, còn ở những nhà tắm công cộng để giới bình dân dùng thì chỉ là vài cái bồn gỗ quây sơ sài trong một khu lộ thiên gần suối.
Musashi dừng chân trước một trong những nhà tắm công cộng ấy, cởi trang phục máng lên cành cây rồi bước vào bồn nước. Gối đầu lên phiến đá, ngâm mình trong bồn nước ấm hơi nóng bốc mù mịt, hắn thấy sảng khoái vô cùng. Bao nhiêu mệt mỏi dường như theo hơi nước tiêu tan đi mất cả. Hắn đưa tay xoa nhẹ vết thương, cảm thấy dễ chịu, lim dim mắt nhìn ra bên ngoài rào gỗ.
Trời đã xế chiều. Mặt hồ Suwa phẳng lặng phản chiếu ánh hoàng hôn hồng nhạt qua những căn lều thưa thớt của xóm dân chài. Trong thửa vườn nhỏ, rộng mỗi bề chừng chục thước, một người đàn bà lúi húi tưới rau. Gần đấy là ngôi hàng xén bán dầu đèn cùng vài thứ cần dùng khác cho khách. Trước hiên, một người đàn ông trung niên vận trang phục lữ hành ngồi trên ghế đẩu đang thử đôi dép cỏ. Khách vừa thử vừa hỏi chủ quán:
- Ông chủ thấy có ai tên Musashi đi qua đây không ?
Chủ quán lắc đầu. Khách lại tiếp:
- Hắn có bản lĩnh ghê hồn, dám một mình một kiếm giao chiến với cả trăm người phái Yoshioka mà không ai làm gì được. Đảm lược ấy ngày nay không mấy ai có.
- Lão không nghe nói. Thế hắn chừng bao nhiêu tuổi, ăn mặc ra sao ?
Khách không đáp, xem ra cũng chẳng rõ gì hơn ngoài cái tên Musashi vừa thốt, chỉ yên lặng lúi húi buộc quai dép, trả tiền rồi đứng dậy lẩm bẩm:
- Thế nào cũng phải tìm hắn cho bằng được.
Musashi nheo mắt nhìn. Khách lạ vào trạc tứ tuần, da nâu vì sương nắng, tóc hai bên thái dương lốm đốm bạc, nét mặt phong sương và cương nghị. Y phục bằng vải tốt và thanh kiếm đeo bên hông chuôi nhẵn bóng. Hắn đoán người đó phải là một kiếm sĩ có địa vị và từng trải, đã xông pha nhiều trận.
“Không lẽ lại là đệ tử Yoshioka ?”. Musashi nghĩ thầm nhưng vội gạt ngay ý nghĩ ấy, vì nếu là đệ tử Yoshioka thì tất biết rõ tầm vóc, tuổi tác hắn. Vả nghe giọng nói, không thấy vó vẻ gì hằn học hay thù hận. “Nhưng là ai, không hiểu tại sao lại tìm mình ?
Lạ quá !”.
Chờ cho khách đi khỏi, Musashi mới bước ra ngoài bồn tắm. Với quần áo mặc vào, trả tiền xong, hắn ung dung đi ra đường lớn, trong lòng vẫn không khỏi thắc mắc về danh tính và mục đích của kẻ đó. Như một khách thừa lương, hắn bước thong thả, cẩn trọng trông chừng từng bụi cây và các chỗ khuất.
Được quãng xa, đến một khúc quanh, bất ngờ lại gặp chính ngay người khách lạ mặt ấy. Dưới chiếc nón nan, đôi mắt khách sắc như dao liếc nhanh về phía hắn.
Musashi tảng lờ như không biết, cứ tiếp tục đi. Người kia đến gần, hỏi:
- Tráng sĩ phải chăng là Miyamoto Musashi ?
Musashi khẽ gật và kín đáo đề phòng.
Người kia tỏ vẻ mừng rỡ:
- Quả không lầm ! Thật là hạnh ngộ !
- Tôn ông là ai ? Theo tại hạ có việc gì ?
Musashi hỏi.
- Xin tráng sĩ tha lỗi đường đột. Tiện danh là Ishimoda Geki, thủ túc thân tín của tướng công Date Masamune đất Mutsu. Tại hạ có ý tìm tráng sĩ từ lâu ...
- Rất hân hạnh. Nhưng tìm tiểu nhân có việc gì ?
- Đứng đây nói chuyện không tiện, xin mời tráng sĩ tới lữ quán dùng cơm chiều, tại hạ sẽ trình rõ.
Musashi do dự, ý muốn từ chối. Ishimoda Geki lại tiếp:
- Buổi sơ kiến mà xử sự như thế này thật vô phép, xin tráng sĩ đừng nghi kỵ. Tại hạ chính là người có vị thế lớn dưới trướng Masamune tướng công, bổng lộc trên vạn giạ lúa, giannhân hàng chục người, ngựa tốt trăm con. Vì ngưỡng mộ tài năng của tráng sĩ mà đi tìm chứ không có ý gì khác. Xin chớ phụ lòng.
Trước thái độ vồn vã ân cần của khách lại, Musashi không tiện thoái thác, Geki bèn níu áo lôi đi.
Đến chỗ trọ, không ngờ là một lữ điếm sang trọng vào bậc nhất trấn Shimosawa, tì nữ ra đón vào, cầm đèn ***g hướng dẫn qua một lối đi riêng giữa hai hàng tùng xanh trúc biếc. Musashi lại càng không đoán được lý do nào mà một kiếm sĩ có địa vị như thế lại cất công đặc biệt tìm mình.
Thị tỳ mang áo mới đến, thứ áo mềm lót bông để khách dùng trong nhà, đặt trên hai cái khay sơn then khảm xà cừ và nạm bạc. Ishimoda Geki cầm áo nói:
- Đường xa bụi bặm, tại hạ mạn phép vào phòng tắm một lát. Mời tráng sĩ cùng vào một thể.
- Xin cứ tự nhiên, tiểu nhân vừa tắm rồi.
Geki không ép, đi vào nhà trong, đồng thời sai nữ tỳ mang rượu tới. Musashi bước ra hiên. Thị trấn đã lên đèn, tiếng ồn ào cũng giảm bớt. Xa xa, nước hồ đổi từ màu chàm sang màu đen sẫm khiến hắn liên tưởng tới màu mắt đen của Otsu lo lắng nhìn hắn đêm nào dưới ánh trăng trên triền núi. Áy náy và hối hận tràn ngập trong lòng, Musashi tự hỏi không biết giờ này Otsu ở đâu, an nguy ra sao và tự trách mình đã bỏ phí thì giờ đến một chỗ không cần thiết. “Kẻ nào bắt cóc Otsu tất không đời nào dẫn qua một nơi đông đúc như thế này !”. Tưởng tượng nghe tiếng Otsu kêu cầu cứu đâu đây, lòng hắn bồn chồn như lửa đốt.
Geki tắm xong đã trở lại phòng khách. Thấy bộ áo của lữ quán vẫn còn nguyên để trên khay, Geki ngạc nhiên hỏi:
- Tráng sĩ không thay áo ?
- Tiểu nhân mặc thế này cũng đủ. Trong nhà, ngoài đường hay bất kỳ lúc nào, tiểu nhân cũng mặc thế này. Âu là thói quen, vả mặt thế này thoải mái hơn, xin miễn thứ.
Đoạn mỉm cười ra chiều xin lỗi. Ishimoda Geki gật gù:
- Chắc tráng sĩ muốn luôn luôn sẵn sàng. Masamune tướng công thấy thế hẳn phải vừa lòng lắm !
Musashi nhướng mày ra ý hỏi, nhưng Geki chỉ cười, cầm chén tráng vào bát nước nóng để bên rồi thân hành rót rượu mời.
Musashi từ tạ mà nói:
- Buổi đầu gặp gỡ, tiểu nhân được tôn ông quá biệt đãi, dành cho nhiều cảm tình như thế này, không hiểu vì lý do gì, nên thắc mắc mà không dám nhận.
Geki cười ha hả, cầm chén rượu uống cạn:
- Tráng sĩ ngạc nhiên là phải. Nhưng có gì đâu ! Lý do cũng dễ hiểu. Tại hạ bị ma lực của tráng sĩ quyến rũ đấy !
Nói xong lại cười khiến Musashi cũng cười theo, nhưng sau những tiếng cười ấy, mỗi người có một ý tưởng khác.
Geki chưa biết rõ Musashi, chưa dám bộc lộ tâm tình nên nghĩ rằng giải thích như vậy cũng đủ. Trái lại, lời giải thích của Geki càng làm Musashi hoang mang hơn. Hắn còn trẻ, bản tính chân thật, chưa từng trải bao nhiêu trong sự giao tiếp với xã hội, nên không bao giờ tưởng rằng một người đàn ông lại có thể bị quyến rũ bởi một người đàn ông khác. Riêng hắn, không bao giờ hắn cảm thấy như thế cả. Takuan nhiều lúc đùa cợt nhưng những lời ông nói hàm ý tứ sâu xa, hắn coi như bậc thày.
Koetsu sống ở một thế giới khác. Yagyu lão nhân thì đã rút khỏi vòng hệ lụy của nhân sinh, ngưỡng mộ hay không ngưỡng mộ Ông nào có khác gì ? Có lẽ Geki nói như thế chỉ có mục đích tâng bốc. Nhưng Musashi nhìn mắt người đối thoại, thấy không phải là một kẻ xiểm nịnh tầm thường, bèn hỏi thẳng:
- Tôn ông nói bị ma lực của tiểu nhân quyến rũ là thế nào ?
Geki thôi không cười nữa, nghiêm trang đáp:
- Có lẽ vì diễn không hết ý hoặc dùng chữ sai nên tráng sĩ không hiểu rõ. Tại hạ chỉ muốn nói từ khi được nghe đại danh sau trận hỗn đấu trên đồi Sinh Minh, và được diện kiến, tại hạ hết sức cảm phục và đem lòng yêu mến chẳng khác nào bị mê hoặc.
Musashi đỏ mặt gạt đi:
- Tôn ông quá khen, tiểu nhân quả không xứng đáng. Nhưng sao tôn ông biết tiểu nhân đi đường này ?
- Tại hạ có xem mảnh vải yết thị treo trên cây của tráng sĩ.
- À ra thế !
Thật trớ trêu ! Mảnh vải viết để tìm một người thì một người khác lại tìm đến.
Chẳng hiểu rồi ra có liên quan gì đến những việc sau này không. Con tạo có những xếp đặt bất ngờ thật !
Geki lại tự tay rót rượu mời Musashi.
- Anh em bốn bể một nhà, huống chi chúng ta đều trong võ lâm cả. Xin tráng sĩ chớ làm khách, hãy nhận chén rượu này, tại hạ thành thật mong được tráng sĩ coi là bạn.
Musashi cầm chén rượu nâng ngang mày rồi vui vẻ uống cạn.
- Lúc nãy tại hạ đã tự giới thiệu là thủ túc của Date Masamune tướng quân, chắc tráng sĩ chỉ mới nghe danh chứ chưa rõ nhiều về ngài, vậy xin nói rõ.
Masamune tướng công là vị sứ quân đứng đầu một lãnh địa đang hồi phong thịnh lại rất hào phóng. Vùng đất Mutsu phương bắc rộng tới vạn mẫu, bổng lộc hàng năm kể mấy triệu gia. lúa, dưới trướng không biết bao nhiêu là kiếm sĩ nhưng xét cho kỹ, chẳng mấy ai được như tráng sĩ. Tráng sĩ còn trẻ, nếu nghĩ đến tương lai, xin đừng bỏ qua cơ hội.
Musashi đăm đăm nhìn khay rượu, không đáp. Tiếng đàn từ phòng bên vọng tới cùng với bóng tỳ nữ qua lại ngoài hiên in lên nền giấy dán trên song cửa. Bỗng nhiên, Geki đột ngột hỏi:
- Musashi tráng sĩ ! Tráng sĩ luyện kiếm cho ai ?
Bị hỏi bất ngờ, Musashi không biết trả lời sao, vì hắn chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy. Hắn ngay thật đáp:
- Thì cho tiểu nhân !
Geki mỉm cười:
- Tráng sĩ nói đùa rồi ! Mưu cầu danh lợi cá nhân chẳng phải là mục đích tối hậu của người cầm kiếm, nhất là người cầm kiếm ấy là tráng sĩ. Xin đừng giấu nhau nữa !
Vô tình hay hữu ý, Geki đã đưa dần Musashi đến mục đích chính của cuộc gặp gỡ. Lặng yên một lúc, Geki tiếp:
- Toàn thể nước Nhật ngày nay đều đặt dưới quyền thống trị của Tokugawa Ieyasu. Hòa bình và thịnh vượng này, như tráng sĩ biết, chỉ là giả tạo. Dân chúng có được gì không ? Qua bao nhiêu thế kỷ nối tiếp nhau, phái quân phiệt luôn luôn nắm chính quyền, áp bức không những dân chúng àm còn cả hoàng gia nữa. Lợi lộc đều về tay đảng tộc của họ, còn dân chúng vẫn chịu cảnh cơ cực. Dưới thời Tokugawa Ieyasu xem ra dân còn lầm than hơn nữa, và thời đại này chẳng qua cũng chỉ là kéo dài sự chuyên chế tàn bạo của những thời đại trước mà thôi.
Masamune tướng công và một số bạn hữu ngài ý thức điều đó rõ hơn ai hết nên có ý định hành động ...
Ishimoda Geki nói một hơi dài rồi dừng lại, liếc nhìn Musashi, thấy hắn vẫn im lặng lễ phép ngồi nghe và không phản ứng gì thì chẳng biết ý tứ hắn ra sao.
Nhìn xuống khay rượu, Geki mượn cớ:
- Rượu nguội cả rồi ! Nào xin cạn chén đi chứ ! Tử lượng tráng sĩ chắc phải hơn tại hạ.
- Không, tiểu nhân uống ít lắm.
- Người phương bắc vùng tại hạ uống rượu không biết say, một phần vì thói quen, một phần để chống lại hàn khí. Masamune tướng công là một trong những người uống rượu rất hào, uống cả đêm được mà sắc mặt vẫn không đổi.
Chén thù chén tạc, câu chuyện đổi sang nếp sống thường nhật của dân chúng phương bắc và lòng trung thành của Masamune tướng công đối với hoàng gia.
Trong khi Geki thao thao bất tuyệt ca tụng chủ soái với hậu ý kết nạp Musashi thì hắn chỉ tỏ thái độ dè dặt. Tuy nhiên, nghe lời nói và xét ý tứ của Geki, hắn cũng rõ khá nhiều về đường hướng và lý tưởng chính trị của Date Masamune, coi kiếm đạo như con đường độc nhất để khắc kỷ và giải quyết mọi vấn đề xã hội.
Kiếm đạo có từ thời cổ, từ lúc có giai cấp võ sĩ, nhưng ngày nay nghĩa vụ và giá trị tinh thần của nó không còn nữa. Thảng hoặc có người nhớ đến thì chỉ là những khái niệm mơ hồ. Trong cuộc nội chiến giữa các sứ quân vào thế kỷ mười lăm và mười sáu, tinh thần võ sĩ đạo đã bị bóp méo và phần lớn bị thu hẹp trong nghĩa vụ của người võ sĩ đối với chủ soái mà thôi. Bây giờ thì bất cứ người cầm kiếm nào cũng có thể tự phong cho mình là kiếm sĩ, không quan tâm gì đến ý nghĩa của con đường họ theo đuổi nữa.
Những kẻ đó đa số tâm địa còn thấp kém hơn cả tâm địa những người dân quê ngu dốt.
Hồi tưởng lại những năm trong Musashi thất ở lâu đài Himeiji, Musashi nhớ đã xem qua một cuốn sách viết về cốt tủy của kiếm đạo, mục tiêu và kỹ thuật của nó do FJurokian viết. FJurokian chính là bút hiệu của viên võ tướng nổi danh Uesugi Kenshin. Lý tưởng cùng phép ứng dụng kiếm đạo vào xã hội của ông đã khiến lãnh địa do ông cai quản trở thành một trong những lãnh địa giàu mạnh nhất thời ấy. Những lời Ishimoda Geki vừa nói xem ra phản ánh phần nào quan niệm cai trị của Uesugi Kenshin.
- Tráng sĩ tha lỗi cho tại hạ đã dài dòng. Tai nghe không bằng mắt thấy. Nếu tráng sĩ không nề, ngay ngày mai, tại hạ xin dẫn đường đến Mutsu để tráng sĩ đích thân mục kích sự sinh hoạt trong lãnh địa. Chắc chắn Masamune tướng công sẽ rất hân hạnh được đón tiếp tráng sĩ.
Đêm đã khuya. Khay rượu được dọn đi và thay vào bằng những món ăn nóng.
Musashi rất lưu ý đến những lời mời mọc của Ishimoda Geki nhưng vẫn chưa tỏ thái độ rõ rệt.
- Đa tạ tôn ông đã có hảo ý, nhưng tiểu nhân cần suy nghĩ trước khi trả lời dứt khoát ...
Bữa cơm tiếp diễn trong bầu không khí tương đắc giữa hai người bạn mới gặp cho đến cuối canh hai mới dứt.
Về phòng riêng, Musashi không thể không nghĩ đến những lời chí tình của Ishimoda Geki. Hắn cũng đồng ý mục đích tối hậu của người cầm kiếm không phải chỉ là trau dồi kỹ thuật cho cao để trấn áp kẻ khác mà kiếm đạo phải là con đường giải thoát; giải thoát con người khỏi những ẩn ức; giải thoát xã hội khỏi sự đè nén. Mục tiêu tối hậu của người cầm kiếm là không dùng kiếm. Ý tưởng ấy hắn học được ở đâu, bây giờ hiện ra sáng chói. Để có dịp, Musashi sẽ đến thăm Masamune tướng công và nếu con đường ông theo quả có mục đích ấy thì hắn sẽ hợp tác. Lần đầu tiên Musashi nhận thấy có cơ hội mang đến cho kiếm đạo một tinh thần nhân bản, dọn đường cho con người hợp nhất với thiên nhiên như lòng hắn mong ước.

Acmagiro
24-04-2008, 08:31 AM
CHƯƠNG 57

MÓN QUÀ TẶNG





Tỉnh dậy, Musashi nghĩ ngay đến Otsu và Jotaro. Hắn biết trong lúc này không thể nào đi cùng với Ishimoda Geki đến Mutsu được.
Lúc cáo biệt, Geki tỏ vẻ buồn và thất vọng:
- Thật tiếc không được làm bạn đồng hành với tráng sĩ. Hy vọng những lời nói hôm qua trong bữa rượu không bị tráng sĩ bỏ ngoài tai. Nếu đến nơi, tráng sĩ không vừa ý thì cũng xin coi đó như một cuộc du ngoạn. Phong cảnh bắc phương đẹp có tiếng, tráng sĩ chắc biết.
Musashi cảm động vì những lời thành thật ấy. Hắn ấp úng nói:
- Tiểu nhân cũng rất tiếc nhưng có việc riêng phải làm ngay. Có dịp sẽ cùng tôn ông tái ngộ.
Geki chia tay đi về phía đèo Hòa Đa còn Musashi thì rẽ sang hướng Nakasendo. Đến ngã ba Koshu, đang phân vân không biết theo đường nào và đặt kế hoạch ra sao để tìm tung tích Otsu thì có một bọn người rảo bước đi tới. Bọn này ăn mặc ra dáng phu khuân vác hoặc người giữ ngựa, quấn khăn đầu rìu, áo ngắn, chân mang xà cạp. Chúng bâu đến Musashi. Một tên khoanh tay trước ngực nhìn hắn, lỗ mãng nói:
- Khách quan có vẻ lo lắng. Muốn tìm ai chăng, người đẹp hay con hầu ?
Musashi lắc đầu, quay đi chỗ khác. Không biết rõ nên làm thế nào, hắn định rảo quanh khu đó hỏi thăm. Nếu không được tin tức gì, có lẽ đến phải lên phương bắc đi Mutsu vậy. Âu cũng là định mệnh đã an bài, biết làm sao được !
Đang suy nghĩ thì một tên khác lại mò tới:
- Nếu khách quan thực tâm muốn tìm người quen thì bọn nô tài có thể giúp được, còn hơn là đứng nắng hay đi hỏi cầu âu. Người quen của khách quan ra sao ? Bọn tiểu nhân không dám đặt tiền công đâu, tùy hảo tâm của khách quan cho bao nhiêu cũng được !
Nghĩ rằng như vậy lại hơn, Musashi bèn tả hình dáng Otsu và Jotaro cho bọn kia biết. Chúng quay ra hỏi nhau một lúc rồi một đứa nói:
- Bọn này không ai trông thấy người mà khách quan tả cả, nhưng có thể chia nhau đi tìm, thế nào cũng gặp. Kẻ bắt cóc chỉ theo một trong ba đường núi giữa hai trấn Suwa và Shiojira mà thôi. Khách quan không biết đường nhưng tụi này biết.
Musashi nghe, không lấy gì làm tin tưởng lắm, nhưng cũng bảo:
- Vậy tốt, các chú đi tìm ngay đi !
- Rồi ! Làm ngay !
Một tên dáng chừng đầu nậu, họp cả bọn dưới gốc cây, chỉ trỏ người này kẻ kia có vẻ phân công cho từng đứa một. Chúng gật gù cười nói, đoạn tên đầu nậu đên bên Musashi, xoa hai tay vào nhau, lễ phép nói:
- Nô tài đã cắt đặt xong cả rồi, chỉ còn chuyện này hơi khó xử. Ờ ... à ... khó nói quá! À ... à ... chắc khách quan cũng biết, bọn này là thợ thất nghiệp, tiền bạc không có, từ sáng chưa được hột cơm nào. Nhịn đói mà chạy việc cho khách quan thì sợ không được việc, khách quan lại quở trách. Vậy xin ứng trước cho nửa ngày công, nếu hơn chút đỉnh thì càng tốt để bọn nô tài ăn chút gì dằn bụng trước khi đi. Xin bảo đảm với khách quan thế nào cũng tìm thấy.
Musashi tính nhẩm rồi gật đầu:
- Thế cũng được. Ta cũng có ý định đưa trước cho các chú một số tiền nhỏ. Bao nhiêu ?
Tên kia đưa ra một con số. Musashi thấy cao hơn số tiền hắn có thì khựng lại. Hắn cũng biết giá trị của đồng tiền nhưng sống một mình, không thân thích phải giúp đỡ, nhiều khi hắn chẳng để ý đến tiền bạc. Trên bước đường Giang hồ, gặp người ái mộ ủng hộ chút ít để chi phí thì tốt, bằng không, vào ở đậu trong chùa hoặc ngủ qua đêm trong rừng hay bờ suối, có khi quên cả ăn, hắn cũng không quản ngại.
Những ngày gần đây, Otsu nhờ được sự giúp đỡ của Mitsuhiro, đã xuất tiền ra lo hết mọi việc chi tiêu, hắn chẳng phải để tâm gì đến. Như một người vợ hiền, thỉnh thoảng nàng lại còn bỏ vào bọc hắn ít bạc vụn để làm tiền túi.
Musashi khều số bạc ấy ra, chỉ giữ lại chút đỉnh, còn bao nhiêu đưa cả cho tên phu đầu nậu. Mặc dầu hy vọng được nhiều tiền ứng trước hơn, gã phu cũng không từ chối và bằng lòng đi tìm, vì “cảm tình đặc biệt” với khách.
- Khách quan tới đợi ở tam quan chùa Musashi Phật, tụi này sẽ tới đó trước khi mặt trời lặn.
Nói đoạn, cả bọn chia nhau số bạc, rồi giải tán đi các ngả.
Một mình chẳng biết làm gì, Musashi thả bộ quanh vùng, thăm trấn Shimosuwa và lâu đài Takashima, dừng chân quan sát địa hình cùng cách dẫn thủy vào lâu đài để rộng kiên văn, phòng sau này cần đến. Hắn cũng không quên hỏi thăm Otsu và danh tính những kiếm sĩ trong vùng, nhưng chẳng biết thêm được điều gì hữu ích.
Mặt trời xế bóng, Musashi đến chùa Musashi Phật ngồi đợi trên bậc thềm đá dưới tam quan. Khá lâu chẳng thấy ai đến, hắn đảo quanh chùa ngoạn cảnh vườn cho khỏi cuồng cẳng, nhưng lòng bồn chồn, mới được vài bước đã quay lại chỗ cũ dưới tam quan ngồi đợi.
Trời bắt đầu chạng vạng. Nghe tiếng ngựa hí đâu đây, Musashi hơi ngạc nhiên. Đợi lúc nữa cũng không thấy ai đến, hắn theo tiếng ngựa hí đi tới thì thấy ở cái chuồng nhỏ sau chùa có người mã phu già đang dội nước tắm cho hai con ngựa bùn đất còn bám đầy móng.
Thấy Musashi, người mã phu dừng tay nhìn, tỏ vẻ ngờ vực:
- Tối rồi, thí chủ đến đây làm gì thế ? Cần gì chăng ?
Musashi nói rõ lý do. Người mã phu bèn cười hô hố mãi không dứt khiến Musashi cau mày khó chịu. Đợi tin tức thì có gì đáng cười ? Hắn toan phản đối nhưng chưa kịp mở miệng, người mã phu đã nói:
- Thí chủ từ đâu đến ? Ngây thơ thế đáng lẽ chẳng nên đi một mình mới phải. Thí chủ tưởng rằng tụi đó đi tìm người cho thí chủ đấy hẳn ? Nếu trả tiền trước rồi thì ôi thôi... coi như nước lã ra sông, đừng hòng nhìn lại nữa !
- Vậy ra lão cho rằng chúng đóng trò để lừa tiền mỗ chăng ?
Người mã phu tỏ vẻ thương hại:
- Đúng thế ! Chúng bày kế cướp tiền của thí chủ rồi ! Lão mới về nhưng nghe nói trên đường đi, có chục tên du đáng họp nhau ở bên kia đồi đánh bạc, uống rượu. Hẳn chúng nó chứ không ai. Những vụ lừa đảo như thế bây giờ xẩy ra như cơm bữa. Tệ thật !
Rồi lão thuận miệng kể vài vụ cũng khách thương bị côn đồ gạt vào bẫy, lấy nhẵn cả tiền và hàng hóa, rồi kết luận:
- Ối dào ! Đời bấy giờ ấy mà ...Từ nay thí chủ nên cẩn thận !
Nói xong, gánh đôi thùng không xuống đồi múc nước, để Musashi đứng một mình, sượng sùng với lời khuyên, trong bóng chiều bắt đầu buông dày đặc.
Musashi vừa tức vừa buồn cười, tự trách mình quá khờ khạo. “Ta tự hào không sơ hở để địch thủ đâm hông được mà lại bị một bọn dốt nát lừa gạt. Thật không khác gì bị cái tát. Vậy mà mơ những chuyện cao xa, chỉ huy binh đội, lãnh đạo chiến tranh thì làm thế nào được !”.
Trèo những bậc đá lên chùa, hắn tự nhủ thầm sẽ thận trọng hơn trong sự tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Đến tam quan, bỗng thấy một trong những người thợ ban sáng đang đứng đợi.
- À ! Khách quan đây rồi ! Làm nô tài chờ mãi !
Musashi cau mặt, nhưng cũng hỏi:
- Có tin gì không ?
- Có ! Có tin một trong hai người !
- Ai ! Thiếu nữ hay tiểu đồng ?
- Tiểu đồng ! Nhỏ đó với một người đứng tuổi tên Daizo ở Narai đi về phía đèo Hòa Đa. Không thấy tận mắt nhưng nô tài đã cất công đến tận Seba mới được tin đấy !
Bọn kia đã ai về báo tin cho khách quan biết chưa ?
- Chưa. Nhưng ta chắc chúng lừa ta, lấy tiền đi đánh bạc chứ tìm cái gì !
Người thợ gật gù:
- Thường thì như vậy, nhưng nô tài thì không. Thấy khách quan đứng đắn, nô tài cố giúp.
Hơi ngượng vì đã có ý vơ đũa cả nắm, Musashi nói chữa:
- Cám ơn chú đã cho tin.
Rồi móc số bạc vụn ra. Hắn ước tính số bạc chỉ đủ để trả tiền bữa cơm tối nên ngần ngừ một lát. Nhưng lại nghĩ lòng thành thật không thể không được tưởng thưởng, bèn dốc cả số bạc vụn vào tay người thợ. Biết đâu chẳng vì thế mà những ngày sắp tới gã chẳng giúp thêm được vài người nữa, tin rằng người thật thà sẽ được đền đáp xứng đáng ?
Người thợ được tiền, mừng rỡ nâng ngang mày tỏ ý cảm ơn rồi tất tả quay gót.
Trời tối hẳn. Bóng đêm lẫn với bóng núi mờ mờ, vài đốm sao mới xuất hiện nhấp nháy. Tiết trời mát mẻ và trong người dễ chịu, Musashi quyết định đi đêm đến đèo Hòa Đa, hy vọng sẽ gặp Daizo và Jotaro ở đó vào buổi sớm. Hắn dời chùa Musashi Phật, và một lần nữa lại được hưởng cái thú đi đêm một mình trên con đường vắng. Hắn cảm thấy khoan khoái vô cùng, được nghe chính bước chân mình rào rạo trên sỏi đá, lắng nghe cái yên lặng của đất trời rất sinh động chung quanh, quên hết cả để tận hưởng sự hiện hữu của chính mình. Giữa đám đông ồn ào và vội vã trong các thị trấn, Musashi đôi khi cảm thấy buồn và cô độc, nhưng trong cảnh tịch mịch của đêm khuya, không bao giờ hắn thấy đơn côi hay bị ruồng bỏ. Trái lại, tâm hồn hắn dễ rung động, tinh thần linh mẫn và ý tưởng cũng khoáng đạt hơn. Óc và tâm hắn có lúc như rời hẳn nhau, giúp hắn có cái nhìn rất lạnh lùng và khách quan để tự xét.
Qúa nửa đêm, Musashi trông thấy ánh lửa đằng xa. Từ khi qua khỏi cầu Ochi, đường dốc dần. Musashi đoán có lẽ sắp tới chân đèo. Ánh lửa có thể do tiều phu trong rừng đốt sưởi ấm hoặc của một quán ven đường nào còn mở cửa.
Nghĩ đến quán, Musashi sực nhớ chưa ăn cơm chiều và tự nhiên bụng hắn cồn cào sôi sục. Từ khi dời trấn Shimosuwa, lần đầu tiên hắn thấy đói.
Đến nơi, quả nhiên là một cái quán ven đường. Bên ngoài trống bốn cây cột để buộc ngựa nhưng không có ngựa. Tuy nhiên có tiếng lè nhè từ trong quán vọng ra lẫn với tiếng củi cháy nổ lách tách. Musashi đứng trước hiên, do dự. Nếu là một căn lều của nông dân hay tiều phu, hắn không ngại gì mà không xin ngủ đậu nhưng đây lại là một quán hàng. Mà trong bọc hắn không còn đồng tiền nào cả. Mùi cơm và thịt nấu bay ra xộc vào mũi, Musashi nuốt nước bọt. Sực nhớ đến pho tượng mang theo, một pho tượng Quan Âm nhỏ, gọt bằng gỗ mận trong những lúc nhàn rỗi, hắn định đem ra đổi lấy bữa cơm. “Mình sẽ giải thích cho chủ quán rõ, chắc họ chẳng nỡ từ chối”.
Bèn đẩy cửa bước vào. Ba người khách ngồi cạnh lò quay ra nhìn. Râu ria lởm chởm, quần áo xốc xếch, trong cảnh tranh tối tranh sáng bên ngọn lửa bập bùng, không ai đoán được họ bao nhiêu tuổi. Quán nghèo nàn. Hai cái bàn thấp đóng bằng ván cũ với ghế đẩu kê trong góc. Trên bếp, cũng dùng làm lò sưởi, treo cái nồi nấu thịt, mùi thơm tỏa ngào ngạt. Bên cạnh, một hũ sành chắc đựng rượu hâm nóng.
Musashi ngồi vào bàn. Một người khách hỏi:
- Muốn gì ?
- Ai là chủ quán ? Cho cái gì ăn chứ ?
Tức thì cả ba cùng nói:
- Quán ! Có khách !
Một người từ nhà sau bước ra, hất hàm hỏi:
- Dùng gì ?
- Cơm, canh, gì cũng được, mà nhanh lên !
Lát sau, thấy chủ quan bưng ra một liễn cơm nguôi và một bát canh rau cùng đũa bát:
- Khách quan ăn tạm. Nhà hết cơm nóng mà thịt lợn rừng thì chưa chín.
Musashi gật đầu:
- Cũng được !
Rồi bắt đầu ăn ngấu nghiến. Những người kia cũng không nhìn Musashi nữa, tiếp tục quay vào cạnh lò nói chuyện, thỉnh thoảng lại nhổ nước miếng đánh bẹt một cái vào lửa.
Nhân thấy chủ quán đứng gần, Musashi bèn hỏi:
- Ông quán có thấy ai tên Daizo qua đây không ?
Chủ quán không đáp. Musashi nói thêm:
- Daizo trạc năm mươi, tóc hoa râm, đi cùng với một thằng bé khoảng mười lăm tuổi.
Chủ quán bèn quay hỏi những người khách kia:
- Toji ! Lão có thấy ai tên Daizo chừng tuổi dẫn thằng bé qua đường này không ?
Ba người kia đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý rồi cùng lắc đầu. Chủ quán nói:
- Chắc không có, hay chưa tới cũng không biết chừng.
Musashi lại tiếp tục dùng bữa. Khi đã lửng dạ, hắn mới nghĩ đến việc trả tiền. Sở dĩ hắn không nói ngay lúc đầu vì không muốn có vẻ như một tên khất thực trước mặt những người khách lạ. Hắn định nếu chủ quán không nhận bức tượng Quan Âm, hắn sẽ thế con dao chuôi bằng sừng hươu vẫn để trong bọc.
Cơm nước xong, Musashi gọi chủ quán:
- Ông quán này ! Ta có chuyện muốn yêu cầu !
Chủ quán hất hàm ra ý hỏi:
- Ta không có tiền, nhưng cũng không muốn chịu tiền cơm của ông quán. Ông có ưng nhận đồ vật thay cho tiền cơm không ?
- Đồ vật gì ?
- Một bức tượng.
- Tượng thật hay giả ?
- Tượng Quan Âm, chẳng phải do điêu khắc gia danh tiếng nào tạo ra, nhưng do tay ta làm. Chẳng biết có đáng giá bữa cơm hay không nhưng ông cứ xem trước. Nếu được ...
Vừa nói, Musashi vừa lấy ra một cái túi vải và bắt đầu cởi dây buộc. Ba người khách kia cũng ngưng nói chuyện, quay ra chăm chú nhìn tay Musashi cởi dây túi.
Cởi xong, Musashi đổ tất cả lên bàn. Một quyển sổ con, một cái bút với nghiên mực nhỏ, một pho tượng gỗ cùng với một cái túi nhỏ nữa nặng hơn rơi ra lộn xộn.
Mấy đồng tiền vàng từ miệng cái túi nhỏ cũng lăn ra theo, một đồng rơi xuống đất va vào bệ đá kêu đánh keng một tiếng.
Mọi người trố mắt nhìn, kể cả Musashi. Hắn không hiểu sao, nắn nắn cái túi vải, rồi thò tay vào rút ra một mảnh giấy. Mảnh giấy ký tên Ishimoda Geki, trên có ghi vài hàng chữ:
“Chút quà mọn, kính ái tặng tráng sĩ làm tiền lộ phí”.
Musashi bấy giờ mới vỡ lẽ:
đấy là cách mua chuộc của Date Masamune.
Chẳng ai lạ gì sự bất mãn của một số sứ quân thời bấy giờ, bên ngoài tuy ra vẻ thần phục lãnh chúa Tokugawa, nhưng bên trong ngấm ngầm chiêu binh nuôi ngựa làm phản. Date Masamune, một trong số những sứ quân ấy, tất nhiên không qua khỏi thói thường. Ông đã sai thủ túc Ishimoda Geki đi khắp nước Nhật tìm tài năng lạ, nhất là thuộc giới võ lâm Giang hồ, lôi kéo về phe mình.
Nhận tiền của Date Masamune thật không ổn. Hắn không muốn chịu ơn người mà hắn chưa biết rõ đức hạnh cùng chí hướng ra sao. Vả khi nhận tiền rồi, tất bị ràng buộc, mà trong thâm tâm, Musashi chẳng muốn bất cứ sự ràng buộc nào, cho nên, tốt hơn hết, cứ coi số tiền kia như không có. Bèn nhặt hết những đồng vàng vung vãi trên bàn bỏ lại vào túi, rồi chìa bức tượng gỗ cho chủ quán:
- Đây, tượng đây ! Nếu được, ông quán cứ giữ thay cho tiền cơm.
Nhưng chủ quán khoát tay, lắc đầu:
- Không được !
- Sao, không ưng hả ? Tượng không đáng giá chăng ?
- Không phải vậy ! Khách quan không có tiền thì mới nhận. Khách quan có tiền, phải trả tiền chứ !
Thấy chuyện lạ, những người ngồi bên bếp cũng dường như tỉnh hẳn rượu, dời chỗ ngồi đến gần bàn Musashi nhìn hau háu.
Nhận ra sự phi lý của mình, nhưng nghĩ cho cùng chẳng muốn giải thích lôi thôi làm gì, Musashi mở túi lấy một đồng vàng đưa chủ quán.
- Nhiều quá ! Không có tiền thối.
- Không sao. Cứ giữ chỗ lẻ, ta không đòi lại đâu !
- Vậy ở lại chút nữa ăn thịt lợn rừng.
Nhưng Musashi lắc đầu cảm ơn, đeo hành trang, cầm nón ra cửa. Hắn hy vọng nêu không gặp chuyện gì trắc trở sẽ lên tới đỉnh đèo vào đầu giờ mão.
Vùng này nổi tiếng nhiều giống hoa mua rừng rất đẹp, đủ màu sắc, nhỏ bằng cái cúc cũng có và to bằng cái chén cũng có, mọc thành chùm đỏ tươi, vàng óng, tím nhạt hay trắng muốt, mỗi thứ một vẻ không ai là không thích. Rất tiếc, Musashi lại qua đây vào ban đêm nên chỉ trông thấy những lùm bụi đen ngòm, không thưởng thức được gì cả.
Khỏi quán chừng một dặm, bỗng thấy một bóng đen vội vã chạy theo rồi có tiếng gọi giật:
- Khách quan ! Khách quan !
Musashi dừng chân ngoái cổ lại. Bóng đen rảo bước đi tới:
- Khách quan quên cái này !
Nói đoạn lấy trong bọc ra một đồng tiền vàng đưa Musashi.
- Đồng này lăn dưới gậm bàn, khách quan quên chưa nhặt.
Thì ra là một trong số ba người ngồi ở quán hồi nãy. Musashi cầm tiền, cảm ơn rồi tiếp tục cất bước. Không hiểu sao, hắn chẳng thưởng cho người kia chút gì.
Đi được một lúc, người kia bắt chuyện:
- Khách quan cũng trong võ lâm hả ?
- Phải.
- Qúy danh tính là gì ?
- Tại hạ họ Miyamoto.
- Môn phái nào ?
- Không có môn phái.
Nghe những lời đáp nhát gừng như vậy, người khác tất chán nản bỏ đi, nhưng gã này xem ra càng bám riết.
- Vậy đồng đạo rồi. Tiểu đệ cũng là kiếm sĩ, trước có đôi chút danh vọng. Nhưng vì tình thế, bây giờ phải tạm lánh trong rừng.
- Thế à !
- Tiểu đệ săn thú, kiếm củi lấy tiền độ nhật, chờ gặp minh chủ. Thật chẳng khác gì rồng nằm trong ao hẹp !
Musashi mỉm cười:
- Tiếc quá nhỉ ! Thế bằng hữu đứng về phía Osaka hay Edo ?
- Chẳng về phía nào. Nhưng cần gì, phía nào cũng được, miễn có người dùng.
Musashi quay nhìn kẻ đồng hành, cố nhớ xem gã là ai trong ba kẻ ngồi bên lò sưởi ở quán, nhưng trời tối quá trông không rõ.
Musashi rảo bước nhanh hơn, cố ý bỏ rơi gã đồng hành. Chẳng phải tay vừa, gã theo sát nút phía sau về bên trái, một hành động chuẩn bị chiếm ưu thế khi sắp tấn công mà không một kiếm sĩ nào không biết.
Nhưng Musashi không tỏ vẻ bận tâm. Hắn thản nhiên bước những bước dài và nhanh, đều đều trên đường núi dốc.
Gã kia lại tiếp:
- Từ đây đến Edo cũng còn xa. Qua đèo Hòa Đa lại phải trèo đèo Đại Môn, cao và dốc lắm. Nếu không quen đường thì khá mệt.
- Bằng hữu thông thạo vùng này lắm nhỉ ?
- Đương nhiên. Tiểu đệ Ở vùng này đã mấy năm, chung với hai gã kia, ngay sau ngọn đồi trước mặt. Ờ, mà tại sao huynh không đến nghỉ chân ở nhà tiểu đệ ! Nhà đệ tuy nhỏ nhưng cũng đủ chỗ cho khách trú qua đêm. Như thế chẳng tiện lắm ư ?
Một lần nữa, Musashi lại liếc nhìn phía sau. Có một cái gì khác thường khiến hắn nghi ngờ nhưng không nói. Bản tính ưa mạo hiểm lại tò mò muốn biết gã kia định giở trò gì, hắn coi lời mời như một sự thách đố. Bèn gật đầu nhận:
- Qúy xá có xa đây không ?
- Không xa mấy, qua con suối sau đồi này là tới.
- Thế hai ông bạn kia, họ đồng ý chăng ?
- À, hai thằng đó đêm nào chả say như chết ! Chắc bây giờ còn ngồi uống rượu ở quán. Mọi lần đệ phải dìu về nhưng hôm nay thì mặc kệ.
Đi một quãng nữa, bỗng gã nói to như báo hiệu:
- Gần đến rồi ! Cẩn thận, ở đây có cái lạch !
- Phải qua lạch không ?
- Qua chứ ! Huynh trèo lên cây cầu này sang bên kia rồi cứ theo bờ mà đi.
Đoạn lùi lại, nhường Musashi lên trước. Cầu là một thân cây nhỏ không tay vịn, bắc qua chỗ trũng, trông xuống dưới tối om om, lờ mờ dòng nước chảy.
Musashi mới bước được vài bước, thình lình gã đi sau chồm ngay tới, nhấc đầu cầu lên hất hắn xuống rạch.
Đã đề phòng trước, Musashi mượn đà cây gỗ bị nhấc lên, nhảy ngay về phía hòn đá nhô ra cạnh bờ, nhẹ nhàng như én đậu.
- Này, rồi đời tên cường đạo !
Gió kiếm nghe “vù”. Một tiếng thét trong đêm khuya rồi âm thanh của thân cây va vào đá trước khi rơi xuống nước vang theo dòng lạch sâu, kéo dài tưởng như bất tận.
Vài con chim rừng xào xạc bay lên, cánh vỗ phành phạch.
Xác gã thảo khấu vô danh nằm co quắp trên bờ. Có lẽ gã đã tắt thở ngay sau đó, không biết và không ngờ Musashi rút kiếm ra chiêu nhanh đến thế.
Khi đồi Hòa Đa trở lại yên tĩnh, trên cao, một ngôi sao lạc kéo vệt sáng dài từ đông sang tây rồi tắt như một linh hồn vừa lìa cõi thế.
Musashi đọc lời cầu nguyện ngắn, thu nhặt hành trang, vừa định bước đi thì một tiếng nổ chát chúa vang động cả thung lũng. Ánh lửa nhoáng lên từ phía bên kia bờ. Tiếp theo là một tiếng nổ nữa. Musashi nằm sấp, nghe rõ ràng tiếng đạn bay rít trong không khí. Hắn chú mục nhìn sang bên kia. Giữa những lùm bụi và thân cây rừng thưa thớt, lờ mờ hai bóng đen đang thận trọng bò tới.

Acmagiro
29-04-2008, 06:25 PM
CHƯƠNG 58

NGỌN LỬA SIÊU ĐỘ

http://i33.photobucket.com/albums/d95/Yamato-Ichiro/Hokuriku/DSC_4805.jpg






Hắn nằm im nín thở. Hai gã kia đều mang súng hỏa mai. Sau hai phát vừa rồi, tất chúng còn chờ động tĩnh.
Đến bờ lạch, một đứa nói:
- Ngươi chắc sang bên kia không việc gì chứ ?
- Chắc ! Bắn trúng nó mà, rõ ràng nó ngã ! Từ bấy đến giờ không động đậy gì, chắc chưa chết thì cũng bị thương.
- Vậy sang !
Hai bóng đen theo nhau lần xuống dòng lạch. Tiếng cành cây gãy cùng với tiếng chim nháo nhác bay giúp Musashi định ngay được vị trí của chúng.
Như con thú rình mồi trong đêm tối, mắt hắn dán vào bờ lạch. Vừa thấy một cái đầu nhô lên, hắn lập tức tung mình vọt tới,thét một tiếng kinh hồn, đồng thời lia ngang ngọn kiếm.
Tiếng thét khiến cả hai giật mình. Hai tiếng nổ chát chúa cùng phát ra một lượt, nhưng đạn bay lên trời cả.
Chiêu kiếm Musashi cũng không trúng, lưỡi kiếm tiện đứt ngang ngọn cây trên bờ lạch. Mùi thuốc súng tỏa khét lẹt.
Có tiếng chửi thề và tiếng chân chạy rào rạo.
- Vậy mà bảo nó chết ! Nạp đạn đi, ta chặn hậu !
Hiển nhiên tụi này chẳng phải là thảo khấu tầm thường mà có tổ chức hẳn hoi.
Musashi nghĩ thầm. Cho đến nay chỉ mới thấy xuất hiện ba đứa, nhưng không rõ còn bao nhiêu nữa. Cứ để chúng hoành hành thì nhiều người còn phải vong mạng với chúng. Bèn đuổi theo. Thấy tên mang hỏa mai đang lúng túng với ngòi nổ, nhanh như cắt, hắn sà tới. Một thế kiếm dũng mãnh và chính xác chẻ đôi tên đó từ vai đến hông khiến cả thân hình gã đổ xuống như khúc củi mục, không kịp kêu lên một tiếng. Musashi vừa tránh những tia máu phọt ra, vừa đỡ chiêu kiếm của tên cướp còn lại đang xông đến cứu đồng bọn.
Võ nghệ tên này cũng vào hạng cao cường. Gã liên tiếp phóng ra ba chiêu, chiêu nào cũng mạnh mẽ và cực kỳ nguy hiểm, nhưng xét ra thiếu nhanh nhẹn. Có lẽ gã ít luyện tập hoặc không còn trẻ nữa nên tai mắt kém tinh thục.
Biết nhược điểm ấy, Musashi múa kiếm vù vù, giương đông kích tây, kiếm quang loang loáng lúc bên phải lúc bên trái, lúc đằng trước lúc đằng sau khiến gã hoa mắt. Mới vài đường mà bộ vị và chiêu thức đã bắt đầu rối loạn.
Bỗng “keng” một tiếng, cườm tay gã bị lưỡi kiếm của Musashi sướt qua, kiếm tung ra xa, máu tuôn xối xả. Hết sức kinh hãi, gã đá bậy một cước, co cẳng chạy, thoắt cái đã biệt dạng trong đêm tối.
Musashi đuổi theo, quyết tâm bắt cho được tên cường đạo để trừ hậu họa.
Nhưng không rõ địa hình, hắn phải men dọc theo bờ lạch, vì chỉ có đường ấy tương đối dễ đi hơn cả so với cảnh rừng già rậm rạp xung quanh. Hắn tin chín phần mười gã đó chính là một trong ba tên ngồi uống rượu ở quán và theo lời đứa dẫn đường lúc nãy thì cùng ở với nhau trong một căn nhà sau đồi này.
Những dự đoán của Musashi quả nhiên đúng. Con lạch hắn đang men theo mang tên là lạch Giẻ Gai vì ven bờ có vô số những cây giẻ gai mọc rậm rạp. Đầu lạch, một căn nhà gỗ đã được cất lên mấy năm nay, theo kiểu nhà sàn, toàn bằng thân cây giẻ gai để nguyên vỏ ghép lại, phía sau trông xuống một cái vực sâu có đến năm sáu trượng.
Từ thành vực, nước trong núi đá rỉ ra suốt đêm ngày, chảy vào trong một cái hồ nhỏ nên không khí xung quanh lúc nào cũng ẩm ướt.
Tên cường đạo chạy đến trước nhà, đập cửa rầm rầm. Một thiếu phụ bước ra, giơ cao đèn soi rồi sợ hãi kêu lớn:
- Ủa, sao thế này ? Sao máu đầy người thế này ?
- Câm mồm ! Tắt đèn đi !
Gã gạt thiếu phụ sang bên, ngoái cổ nhìn lại:
- Tắt cả đèn trong nhà nữa ! Tắt hết ! Nguy đến nơi rồi !
Đoạn hốt hoảng chui tọt vào trong nhà. Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, thiếu phụ tắt vội đèn chạy theo, đóng sập cửa.
Khi Musashi tới, căn nhà tối om, bốn bề côn trùng kêu ri rỉ. Nấp sau gốc cây lớn, hắn đảo mắt quan sát. Một con mèo đen chạy tới cọ mình vào chân hắn kêu meo meo. Gần chỗ hắn nấp, có cái sào phơi, trên sào sót lại một chiếc áo chưa cất, gió đánh lật phật.
- Nhà này có chủ. Musashi nghĩ.
Hắn dùng mũi kiếm khều chiếc áo rồi lặng lẽ bò đến bên thềm. Hắn đã có chủ đích. Nằm phục dưới bậc cửa, chiếc áo bọc lưỡi kiếm giơ cao, Musashi quát như sấm động:
- Mở cửa !
Tiếng quát dội vào vách đá vọng lại ầm ì, mở cửa ...mở cửa ...mở cử ...a ...rồi chết dần trong sự yên lặng rợn người. Không ai trả lời. Thình lình, một mũi kiếm từ trong khe gỗ vọt ra, đâm thẳng vào chiếc áo. Nhanh như cắt, hắn bật dậy xoay ngang thanh kiếm đè chặt lưỡi kiếm kia giữa hai khe gỗ, đồng thời co cẳng đạp một cái thật mạnh vào cửa.
Cánh cửa bật tung. Có tiếng kêu “ối”, tiếng người ngã cùng với những tiếng răng rắc của thân cây và ván gãy. Musashi xông vào như vũ bão. Một bóng đen nằm ngửa dưới đất đang dùng khuỷu tay lết về phía chân tường. Hắn vung kiếm. Bóng đen la hoảng lăn một vòng. Lưỡi kiếm bổ xuống, tiện đứt góc bàn và mắc ở một vật gì không rõ, khiến bóng đen có cơ hội vùng dậy. Lăm lăm cây trủy thủ trong tay, bóng đen nắm vạt áo Musashi nhằm lưng hắn đâm tới. Gian nhà chật hẹp mà đồ đạc ngổn ngang, hắn bỏ kiếm, chỉ vừa kịp tránh mũi dao sát thủ.
Thanh trường kiếm của Musashi bỗng trở thành vô dụng. Dưới ánh sáng lờ mờ của lò than mới dập, hai bóng đen vờn nhau như hai con thú vờn mồi. Tiếng thét vang, một mũi dao lóe sáng vung lên, cả hai cùng ngã lăn ra đất. Nhưng Musashi đã chiếm thượng phong. Hắn dùng một thế võ khóa tay địch thủ khiến lưỡi dao trủy thủ văng tuốt luốt, chỉ còn tiếng ằng ặc rồi khò khè của kẻ bị chẹt cổ.
Đột nhiên không rõ từ đâu tới, bát đĩa bay đến tứ tung, đập vào thành bàn, vào cột, vào tường rồi vỡ loảng xoảng.
Musashi nhấc bổng gã kia lên, dùng làm mộc đỡ, rồi thuận tay ném một phát tựa trời giáng gã vào bếp lò. Than tro tung bụi mù. Gã nẩy lên một cái rồi rơi xuống, nằm ngay đơ bên chiếc tủ thấp.
Bát đĩa, rồi ấm trà, hũ sành tiếp tục được ném ra như mưa bấc về phía Musashi. Gạt không xuể, hắn phải dùng một cái ghế đẩu che mặt. Lẫn với tiếng loảng xoảng, một giọng đàn bà the thé giận dữ:
- Đồ ăn hại ! Cứ khoe tài giỏi ! Để nó theo về nhà làm loạn thế hả ?
Thanh âm quen thuộc khiến Musashi sững người. Hắn hét lớn:
- Khoan !
Nhưng mụ đàn bà không ngừng, lần này phóng ra cả vung, nồi, chai, lọ ...Musashi nhảy ba bước vào bếp, chỉ một cái khoát tay nhẹ đã đẩy người đàn bà ngã lăn chiêng ra đất, lấy chân đè lên hai cánh tay mụ:
- Mụ là ai ? Không nói ta giết !
Lần này thì chính người đàn bà kia ngạc nhiên. Mụ lắp bắp:
- Phải ...phải Takezo đó chăng ?
Quả nhiên hắn đoán không lầm. Ngoài cụ Osugi ra, chỉ còn một người nữa biết tên tục và thường gọi hắn như thế. Ấy là Oko. Hắn bỏ chân ra:
- Bà làm gì ở đây ?
Oko lồm cồm bò dậy, vén lại tóc và phủi quần áo.
- Takezo ! Chà, bây giờ chú khá trước nhiều quá !
- Oko ! Bà làm gì ở đây ?
Takezo hỏi lại, nhưng Oko chỉ lắc đầu không đáp, lặng lẽ châm đèn, bao nhiêu giận dữ lúc trước dường như nguội hết. Musashi trừng trừng nhìn theo.
Lát sau mụ mới ngượng ngùng nói:
- Kể ra thì xấu hổ ...
- Người nằm kia phải chăng là chồng bà ?
- Phải. Chắc chú biết hắn. Toji đấy !
Musashi không hỏi thêm. Một nỗi buồn man mác bỗng nhiên đến xâm chiếm tâm hồn hắn. Khi còn ở Kyoto, có lần hắn nghe Toji, một trong những nhân vật cột trụ của Phái Yoshioka đã cuỗm tất cả số tiền quyền được dành phục hưng môn phái, trốn đi cùng với ả Giang hồ chủ nhân quán Yomogi. Không ngờ bây giờ gã sa đọa đến thế, trở thành quân cường đạo mai phục chỗ vắng vẻ để bóc lột người lương thiện.
Sự trụy lạc của con người bất giác khiến Musashi bi thương vô hạn. Hắn lắc đầu:
- Tệ quá ! Thôi bà ra săn sóc hắn đi. Nếu biết là chồng bà, ta đã chẳng nặng tay.
Oko vực Toji vào phòng múc nước lau mặt và buộc những vết thương. Gã lờ đờ mở mắt, môi mấp máy như muốn nói điều gì. Oko ghé tai gã thì thầm:
- Đấy là Takezo. Bây giờ hắn đã đổi tên là Musashi ...
Mắt Toji bỗng trợn ngược, hai bàn tay nắm lại. Máu ở vết thương ứa ra thấm ướt cả lần vải buộc.
Oko bước ra khỏi phòng, khép cửa. Musashi ngồi ở một góc nhà ngoài, nét mặt đăm chiêu tư lự.
Mụ thu vội những mảnh chén bát vỡ, kê bàn ghế cho ngay ngắn chút đỉnh, gây lại bếp lửa, đặt bình rượu lên hâm rồi mời Musashi:
- Tình cờ gặp cố nhân, chú ở lại uống chút rượu.
Musashi thoái thác, nói đã uống ở ngoài quán rồi nhưng Oko khẩn khoản:
- Lâu lắm, có lẽ đã bảy tám năm nay rồi đấy nhỉ ! Từ khi rời khỏi đồi Ibuki đến nay không gặp, ta vẫn thường hỏi thăm. Bây giờ chú đổi tên và thành danh rồi, còn nhớ gì đến người cũ !
Câu nói ngụ ý trách móc khiến Musashi hối hận. Hắn cầm bát rượu uống, lòng như lắng xuống và tha thứ hết.
- Không ! Tại hạ vẫn không quên những kỷ niệm cũ.
Cơn gió mạnh nổi lên. Căn nhà tuy đã đóng kín cửa mà gió vẫn luồn vào theo khe vách hở làm lung lay ngọn đèn, kéo theo mùi rêu ẩm ướt.
- Tiện nữ Akemi, chú có gặp nó đâu không ? Đã lâu lắm ta chẳng được tin gì của nó.
- Tại hạ không gặp, nhưng theo lời Matahachi thì dường như cả hai người cùng có ý định đi Edo lập nghiệp, sau đó không biết vì chuyện gì, Akemi mang hết tiền bỏ trốn ...
Oko đăm đăm nhìn ngọn lửa:
- Akemi ? Nó cũng thế ư ?
Rồi thở dài, bất giác so sánh đời mình và đời con gái.
Có tiếng động ở phòng trong. Toji khập khiễng bước ra. Ngửi mùi rượu thơm, gã cũng muốn nhập cuộc.
- Musashi ! Tráng sĩ tha tội cho kẻ lão nhược này đã vô tình xúc phạm.
Musashi không đáp, nhích sang bên nhường chỗ cho Toji. Oko rót một bát rượu đưa gã và giúp gã bưng uống, xong kể lại những ngày lưu lạc của hai người.
Sau khi dời khỏi Kyoto, cả hai cùng định đi Edo, chẳng may đến Suwa, Toji đánh bạc thua nhẵn tiền phải lang bạt nay đây mai đó. Đến vùng này, quẫn quá đành giở nghề cũ hái thuốc độ nhật, tuy thỉnh thoảng cũng kiếm được món bổng của khách qua đường, nhưng từ nay sẽ thôi không làm ăn như thế nữa.
- Tại hạ sẽ về Kyoto và cố gắng lấy lại danh tiếng cũ.
Musashi ngồi nghe, thầm nghĩ Toji cường đạo và Toji kiếm sĩ cũng chẳng khác nhau là mấy, nhưng nếu hắn quả có ý ấy thì đường sá cũng đỡ nguy hiểm hơn nhiều.
Bèn gật gù nói:
- Tại hạ nghĩ đã đến lúc các vị nên bỏ nghề này thôi ! Gian lao quá !
Vài bát rượu khiến Oko trở nên đỏm dáng, mắt long lanh đưa đẩy và bắt đầu làm duyên. Mụ thuộc loại phụ nữ không có tuổi nhất định và đến lúc này vẫn còn nguy hiểm.
Con mèo nuôi trong nhà bên gối chủ thì dễ thương, nhưng thả đi hoang thì chỉ thời gian ngắn sau nó sẽ lần mò rình rập khắp nơi, mắt sáng rực, sẵn sàng rúc đầu vào moi ruột xác chết hay xé thịt khách bộ hành chẳng may ngã bệnh bên đường. Oko cũng thế.
- Này Toji ! Mụ nói. Nghe Musashi kể lại thì con Akemi đã đi Edo.
Hay chúng ta cũng đến đó hưởng cuộc sống văn minh một chút chứ cứ chui rúc mãi ở xó rừng này thì còn gì là đời nữa ! Nếu may mà tìm thấy nó thì lo gì chẳng hái ra bạc !
Toji lơ lửng:
- Cũng được ...Để xem ...
Nhìn Toji co ro bên bếp lửa, đầu gối quá tai, dáng thiểu não, Musashi có cảm tưởng Toji cũng như Matahachi, đã thấm thía nỗi ê chề và bắt đầu cảm thấy hối tiếc. Nghĩ rằng chính hắn cũng từng bị Oko dụ hoặc, hắn rùng mình ghê sợ.
Đêm khuya, rượu gần cạn. Toji dựa lưng vào tường bảo vợ:
- Musashi tráng sĩ chắc đã mệt. Nàng vào dọn cái phòng trong cho tráng sĩ nghỉ qua đêm. Đừng để tráng sĩ tưởng mình không hiếu khách.
Oko cười bả lả:
- Dĩ nhiên rồi !
Và đưa mắt liếc Musashi, nửa nạc nửa mỡ, mụ nhắc lại chuyện cũ:
- Trong phòng tối lắm đấy ! Chú không thích ngủ phòng tối phải không ?
Nhưng Musashi mỉm cười, thẳng thắn đáp:
- Không sao, tại hạ không ngại.
Rồi theo chân Oko qua dãy hành lang lờ mờ đến căn phòng cuối nhà.
Phòng có vẻ như một cái chái cất thêm sau này với mấy cột gỗ chống vào vách đá.
Ở trên trông xuống là vực sâu, không khí ẩm thấp, mỗi khi có cơn gió mạnh, cả căn phòng đu đưa như đánh võng.
Oko đặt đèn xuống bàn:
- Chú ngủ tạm. Chỗ này vẫn để trữ lá thuốc.
Đoạn mang chăn gối đến và lui ra ngoài.
Musashi nhìn quanh. Sát vách kê hàng kệ gỗ trên có xếp vài bó dược thảo khô cùng ít đồ dùng để bào chế. Hắn hơi ngạc nhiên vì không khi nơi đây ẩm thấp, những người buôn dược thảo không bao giờ trữ thuốc ở những nơi như thế này. Tuy nhiên mùi hương nhu thoang thoảng làm Musashi dễ chịu. Hắn tung chăn đắp, rồi trong những tiếng kẽo kẹt nhẹ nhàng như ru của căn phòng, hắn ngủ quên lúc nào không biết.
Bỗng cửa lùa xịch mở. Một bóng người bước vào:
- Takezo, ta mang nước cho chú đây !
Musashi tỉnh giấc nhưng hắn làm như không nghe tiếng. Sự nghi ngờ thoáng hiện.
Oko lại gọi:
- Takezo ! Takezo ! Chú thức hay ngủ ?
Musashi không đáp, vờ nhép miệng cựa mình. Lúc lâu không động tĩnh, Oko nhẹ nhàng đi ra với tay khép cửa.
Musashi trở dậy cuốn chăn như hình người nằm rồi yên lặng đến xem xét các chân cột. Dưới ánh đèn vàng vọt, những điều hắn tìm thấy quả nhiên xác nhận sự nghi ngờ của hắn:
hàng cột vách ngoài nối với nhau bằng những xà gỗ mang chi chít lỗ đinh. Có cột còn lưu lại vết tích những móc sắt gẫy. Các tấm ván sàn cũng thế, vô số lỗ đinh lỗ chỗ, màu sắc lại không hợp với nhau, cái cũ cái mới, chứng tỏ phòng này đã được cất lại nhiều lần và không phải có mục đích chứa dược thảo.
Musashi nhếch mép:
- Ta đoán quả không sai !
Bèn tắt đèn mở cửa bước ra ngoài.
Xung quanh yên lặng như tờ. Toji hỏi Oko:
- Nó ngủ chưa ?
- Rồi !
- Ra xem anh em thế nào !
- Đến đủ cả. Họ xuống cả dưới vực, chắc đã buộc xong dây vào chân cột, chỉ còn chờ trên này ra hiệu đuốc là giật.
Toji không giấu nụ cười thoa? mãn.
- Cứ làm như những lần trước chứ ?
- Còn phải hỏi gì nữa ! Tiền nó giắt trong thắt lưng, thấy xác nó là phải lục soát ngay.
Đoạn lẩm bẩm nói một mình:
“Phen này trả được mối thù môn phái nữa”. Nụ cười trên môi gã dường như không muốn tắt.
Gió thổi lớn. Phải một lúc sau Toji mới đánh được lửa châm đuốc. Ngọn đuốc vừa giơ cao thì “rầm” một tiếng, cả căn phòng Musashi nằm, sụp xuống như động đất. Mái, cột, kèo gãy răng rắc rơi lả tả xuống vực. Thân gỗ va vào thành đá kêu lịch kịch, kéo theo sỏi cát rào rào và bụi bay mù mịt.
Tiếng cây đổ lẫn với những tiếng hò reo vang động cả vùng thung lũng yên tĩnh.
Trong đêm tối, nhiều bó đuốc bỗng nhiên được bật sáng sói hàng chục bóng đen từ những chỗ nấp trong khe đá ào ra tìm bới đống mảnh vụn của căn phòng chứa thuốc trước đây Musashi nằm.
- Ngươi thấy gì không ?
- Không. Chỗ này không có !
- Không chừng xác nó còn vắt trên cây hay mắc đâu đó !
Thình lình cả khu đồi bỗng rực lên một màu hồng tựa ánh bình minh vừa rạng.
Mặt hồ cũng đỏ tươi như máu. Tiếng củi nổ lép bép, khói bốc khét lẹt.
Mọi người đứng sững trông lên. Một quả cầu lửa đang bao quanh căn nhà Toji, những con lửa lem lém liếm hàng vách ván đằng trước, sắp chồm lên mái gỗ và đã có những lưỡi lửa thò ra khỏi cửa sổ rầm thượng, phun phì phì như những lưỡi của một giống quái vật khủng khiếp nào. Khói đen cuồn cuộn ngút trời che lấp cả những tàn lá xung quanh.
- Toji ! Vợ chồng Toji !
Một kẻ hô to, cả bọn hè nhau trèo lên dốc.
Tới hông nhà, thấy Oko và Toji đã bị trói giật cánh khuỷu vào một gốc cây giẻ gai từ bao giờ, ngất xỉu trong làn khói đen mù mịt.
- Nó đâu ? Nó đâu ? Anh em đuổi theo bắt nó !
Nhưng Musashi đã đi xa rồi. Ngọn lửa hắn nhóm lên chưa siêu độ kịp hai tâm hồn tội lỗi.