PDA

View Full Version : [Truyện ngắn] [nên đọc] Cuộc đời của Pi



Cốm
13-03-2008, 02:14 PM
Đây là một cuốn sách mà kishi thấy cực kỳ đặc sắc, rất rất nên đọc thử. Đã gửi lên rồi, mong mọi người nghía qua chút xíu :try:

Nguồn: ttvnol

Cuộc đời của Pi
Yann Martel
Trịnh Lữ dịch/NXB Văn học

"Tặng cha mẹ và anh tôi"
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ

Cuốn sách này ra đời khi tôi đói. Số là, mùa xuân năm 1996, cuốn thứ hai của tôi, một tiểu thuyết, ra mắt bạn đọc ở Canada. Nó chẳng đi đến đâu. Đám điểm sách lúng túng, hoặc kết án tử hình nó bằng những lời khen nhạt nhẽo. Độc giả phớt lờ nó. Tôi giở hết các ngón kịch hề và nhào lộn trong rạp xiếc truyền thông đại chúng, nhưng vẫn chẳng ăn thua gì. Cuốn sách không nhúc nhích được tí nào. Sách xếp trên kệ trong cửa hàng như bọn trẻ đứng chờ để được chơi bóng chày hoặc bóng đá, và cuốn sách của tôi là thằng nhóc yếu ớt oặt oẹo không ai muốn lấy vào đội của mình. Nó im lìm và nhanh ***ng biến mất.

Thất bại ấy cũng không làm tôi nao núng nhiều lắm. Tôi lại bắt tay vào viết một cuốn khác, một tiểu thuyết có khung cảnh tại Bồ Đào Nha thời 1939. Chỉ có điều, trong bụng cứ bứt rứt không yên. Vả lại vẫn còn ít tiền.

Thế là tôi đi Bombay. Việc đó cũng không phi lí lắm nếu độc giả hiểu được ba điều: thứ nhất là bất cứ sinh linh nào muốn hết bồn chồn thì cứ đến Ấn Độ và làm một việc gì đó trong một thời gian nhất định; thứ hai, ở đó có thể sống dài dài với một món tiền ít ỏi; và thứ ba là một tiểu thuyết có khung cảnh Bồ Đào Nha thời 1939 chưa chắc đã phải dính dáng gì đến Bồ Đào Nha thời 1939/

Trước đó tôi đã từng ở Ấn Độ, miền bắc, năm tháng trời. Tôi hoàn toàn không có chuẩn bị gì cho chuyến đi đầu tiên ấy đến tiểu lục địa. Thực ra, tôi được chuẩn bị chỉ một chữ thôi. Khi tôi hàn huyên về các dự định cho chuyến đi với một người bạn biết nhiều về xứ sở ấy, anh ta thủng thẳng nói: “Ở Ấn Độ người ta nói một thứ tiếng Anh quấy lắm. Họ thích những từ chẳng hạn như là bamboozle.” Tôi nhớ đến câu nói ấy của anh ta khi máy bay bắt đầu giảm độ cao để hạ cánh xuống Dehli, và từ bamboozle trở thành sự chuẩn bị duy nhất của tôi cho cái thế giới điên rồ, ầm ĩ, muôn mặt, nhưng vẫn đâu ra đấy của Ấn Độ. Tôi đã có dịp dùng đến cái từ ấy, và nói thực tình, nó cũng đắc lực. Tôi bảo một thầy ký ga xe lửa: “Chẳng nhẽ giá vé đắt đến thế kia à. Thầy không định bamboozle tôi đấy chứ?” Thầy ký đó mỉm cười, nói như hát, “Không đâu thưa ngài! Không có bam-bu-zư bam-bu-ziếc gì ở đây cả. Chúng tôi nói đúng giá vé thật đấy ạ.”

Lần thứ hai này đi Ấn Độ, tôi biết điều hơn về những gì có thể xảy ra và biết mình muốn gì: tôi sẽ yên vị ở một đồn điền trung du và viết cuốn tiểu thuyết của mình. Tôi mường tượng rõ ràng mình đang ngồi ở bàn trong một hàng hiên rộng, giấy tờ ghi chép ngổn ngang, bên cạnh một tách trà nghi ngút. Những triền đồi xanh mướt dày đặc sương mù trải dài dưới chân, và tiếng kêu lảnh lót của các bầy khỉ sẽ lấp đầy màng nhĩ tôi. Khí hậu sẽ vừa vặn làm sao, chỉ cần một áo len mỏng nhẹ vào buổi sớm mai và chiều tà, còn cả ngày có thể mặc cái gì đó ngắn tay. Và trong cảnh đó, bút trong tay, vì một chân lý lớn lao hơn, tôi sẽ biến Bồ Đào Nha thành một tác phẩm hư cấu. Tiểu thuyết là như vậy, là việc biến đổi hiện thực một cách có chọn lọc, đúng không nào? Là việc vặn vẹo hiện thực để vắt lấy cái cốt lõi của nó, đúng không nào? Vậy nên tôi có cần gì phải đi Bồ Đào Nha, đúng chưa nào?

Bà chủ đồn điền sẽ kể cho tôi nghe những câu chuyện về cuộc đấu tranh đánh đuổi người Anh. Chúng tôi sẽ chọn món cho bữa trưa và bữa tối ngày hôm sau của tôi. Sau mỗi ngày viết, tôi sẽ đi dạo trên các đồi chè thoải dài lên xuống của đồn điền.

Chẳng may cho tôi, cuốn tiểu thuyết ấy cứ ngắc nga ngắc ngứ, ho lên ho xuống, rồi chết hẳn. Lúc đó tôi đang ở Matheran, không xa Bombay là mấy, một trang trại trung du, cũng có vài chú khỉ nhưng không có vườn chè nào. Đối với các văn sĩ chưa thành danh, tình cảnh ấy thật sự khốn khổ. Bạn có chủ đề tốt, câu chứ cũng chẳng kém gì. Các nhân vật bạn dựng lên thật sống động đến mức muốn đi xin giấy khai sinh cho chúng. Diễn biến tình tiết của câu chuyện bạn đã vạch ra hết cả, thật lớn lao, giản dị, và hấp dẫn. Bạn đã nghiên cứu hẳn hoi đâu ra đấy, thu thập đủ cả các dữ liệu lịch sử, xã hội, khí hậu, ẩm thực, những thứ sẽ khiến cho câu chuyện có giá trị đích thực. Những đoạn đối thoại cứ nối nhau thật tự nhiên, lấp lánh, căng thẳng. Những đoạn mô tả bùng lên đầy màu sắc, tương phản và các chi tiết sắc sảo đầy ý nghĩa. Thực sự là câu chuyện viết ra như vậy chỉ có thể hay mà thôi. Thế mà tất cả những cái đó chẳng hợp thành một cái gì cả. Mặc cho những lời hứa hẹn sán lạn và hiển nhiên của câu chuyện, sẽ đến lúc bạn chợt nhận ra những lời thì thầm vẫn thôi thúc bạn viết nó ra từ bấy lâu đến nay lại rót vào tai bạn một sự thật rõ ràng và khủng khiếp, rằng câu chuyện hỏng rồi. Nó thiếu một thứ, cái tia lửa có khả năng thổi sự sống vào một câu chuyện, bất kể là các dữ liệu lịch sử hoặc ẩm thực của bạn đúng hay là sai. Câu chuyện của bạn thế là chết hẳn về mặt tình cảm rồi, đó là mấu chốt của vấn đề. Nhận ra sự thật này cũng giống như bị rơi vào một thảm họa tàn hại linh hồn, tôi phải nói với bạn như vậy. Khi tỉnh lại mình phải sống với cảm giác luôn luôn bị đói, đến thắt ruột thắt gan.

Từ Matheran, tôi nhét hết các giấy tờ bản thảo của cuốn tiểu thuyết không thành ấy vào phong bì. Tôi gửi chúng đến một địa chỉ hư cấu ở Siberia, với một địa chỉ người gửi cũng hư cấu luôn, ở Bolivia. Sau khi thầy ký bưu điện đã cộp dấu và quẳng cái phong bì vào thùng chọn thư, tôi ngồi phịch xuống ngay đó, chán nản hết sức. “Sẽ ra sao đây hở Tolstoy?” Tôi tự hỏi, “Mày còn có ý tưởng hay ho nào khác cho cuộc đời của mày không?”

Gì thì gì, vẫn còn ít tiền và vẫn cảm thấy bứt rứt không yên, tôi đứng dậy, bước ra khỏi nhà bưu điện và quyết định đi thám hiểm về miền nam Ấn Độ.

Với những người hỏi tôi làm nghề gì, tôi đã muốn trả lời: “Tôi là đốc-tờ”. Trong tâm trí tôi lúc ấy,bác sĩ là những người phân phát pháp thuật và phép lạ. Nhưng tôi lại tin rằng chỉ qua khỏi chỗ quành trước mặt kia là chiếc xe buýt sẽ gặp tai nạn, và rồi giữa tiếng kêu la rên rỉ của nạn nhân và các cặp mắt sẽ dán chặt vào tôi kêu cứu, tôi sẽ lại phải giải thích rằng danh vị đốc tờ của tôi không phải là bác sĩ y khoa mà là tiến sĩ luật; thế rồi, khi họ xúm vào đề nghị tôi giúp họ kiện chính phủ về vụ tai nạn, tôi sẽ lại phải phân trần rằng bằng cấp của tôi thực sự chỉ là cử nhân triết học mà thôi; tiếp đó, họ sẽ gào thét đòi biết cái tai nạn đẫm máu ấy thực sự có ý nghĩa gì không, và tôi sẽ phải thú nhận rằng chưa hề đọc đến Kierkegaard; vân vân và vân vân. Thế là tôi đành thui thủi với danh phận nhà văn, một sự thật tím bầm và tủi hổ.

Trên đường, chỗ này chỗ kia, cũng có người đối đáp lại cái danh phận nhà văn ấy. Họ bảo: “Một nhà văn ư? Thật chứ? Tôi có một câu chuyện cho ông đây.” Hầu hết những câu chuyện đó chỉ nhỉnh hơn những mẩu giai thoại chút xíu, đều hụt hơi, thiếu sức sống.

Tôi đến thị trấn Pondicherry, một khu tự trị nhỏ xíu trong Liên hiệp Anh về phía nam Madras, ngay bên bờ biển Tamil Nadu. Về dân số và diện tích, Pondicherry là một phần đất không có nghĩa lí gì của Ấn Độ (so về diện tích thì đảo Prince Edward là một lãnh thổ khổng lồ ở Canada), nhưng lịch sử đã khiến cho nó nổi bật. Bởi lẽ Pondicherry đã từng là thủ phủ của lãnh thổ Ấn Độ thuộc Pháp, cho dù lãnh thổ này chỉ là một bộ phận khiêm tốn nhất trong các vương quốc thuộc địa ngày xưa. Người Pháp chắc hẳn đã rất muốn cạnh tranh với người Anh, muốn lắm, nhưng cái lãnh thổ mà họ trầy trật mãi mới chiếm lĩnh được chỉ bao gồm một nhúm các hải cảng nho nhỏ. Họ bám vào những hải cảng này trong gần ba trăm năm. Họ rời Pondicherry năm 1954, bỏ lại đó những tòa nhà trắng xinh xắn, những đường phố chạy vuông góc với nhau, những tên phố như rue de la Marine và rue Saint-Louis, và danh từ kepis, chỉ loại mũ lưỡi trai của cảnh sát.

Tôi ngồi trong quán cà phê có tên Indian Coffee House, phố Nehru. Một gian phòng rộng, tường màu xanh lá cây, trần cao. Quạt trần chạy vù vù trên đầu để lưu thông bầu không khí ẩm ướt. Quán kê chật hết chỗ các bàn hình vuông giống hệt nhau, mỗi bàn bốn ghế. Bạn ngồi được chỗ nào thì ngồi, chung bàn với người nào thì chịu người nấy. Cà phê thì ngon. Lại có bán cả bánh mì nướng giòn. Rất dễ bắt chuyện. Và thế là, một ông già quắc thước mắt sáng với những lọn tóc trắng phau đang nói chuyện với tôi. Tôi khẳng định với ông ta rằng Canada đúng là lạnh, rằng có những vùng đúng là nói tiếng Pháp, và rằng đúng là tôi có thích Ấn Độ, vân vân và vân vân - một thứ trò chuyện nhẹ nhàng thường thấy giữa những người bản xứ tò mò hiếu khách với dân “balô” ngoại quốc. Nghe tôi nói là nhà văn, ông già tròn mắt, gật đầu. Đến lúc phải đi rồi. Tôi giơ tay, cố vẫy ra hiệu cho người hầu bàn đem hóa đơn ra tính tiền.

Rồi ông già bảo: “Tôi có một câu chuyện sẽ khiến cho anh phải tin vào Thượng đế.”

Tôi không vẫy tay nữa. Nhưng vẫn nghi ngại. Biết đâu lại là dòng Thánh Chứng* đang gõ cửa? Tôi hỏi: “Chuyện của cụ xảy ra hai nghìn năm trước ở một nơi hẻo lánh trong Vương quốc La mã phải không ạ?”

“Không.”

Biết đâu ông lão lại là một người rao giảng đạo Hồi. “Thế có xảy ra tại Arập vào thế kỷ thứ VII không ạ?”

“Không, không. Câu chuyện bắt đầu ngay ở Pondicherry này mới vài năm trước đây, và kết thúc, tôi xin nói để ông hay, ở ngay chính quê hương của ông.”

“Và nó sẽ khiến cho tôi tin vào Thượng đế?”

“Đúng như vậy.”

“Thế thì cao cấp quá.”

“Không cao đến nỗi ông không với tới được.”

Người hầu bàn đã đến. Tôi do dự một giây, rồi gọi tiếp hai tách cà phê. Chúng tôi bắt đầu tự giới thiệu làm quen nhau. Tên ông lão là Francis Adirubasamy. Tôi nói: “Nào, cụ làm ơn kể câu chuyện đó đi.”

“Anh phải thật chú ý nghe mới được”, ông lão trả lời.

“Vâng.” Tôi lấy bút và sổ ghi chép.

“Vậy, anh đã đến thăm vườn bách thảo ở đây chưa?” Ông lão hỏi.

“Tôi vừa tới đó hôm qua.”

“Anh có thấy cái đường tầu hỏa giải trí ở đó không?”

“Dạ có.”

“Hiện vẫn còn một tầu chạy vào ngày Chủ nhật cho trẻ con đi chơi. Nhưng trước đây ngày nào cũng có tầu chạy, mỗi giờ hai chuyến. Anh có để ý tên gọi của các trạm đỗ tàu không?”

“Có một trạm gọi là Roseville. Ngay cạnh chỗ vườn hồng.”

“Đúng rồi. Thế còn trạm nữa?”

“Tôi không nhớ.”

“Họ bỏ cái biển tên đi rồi. Trạm đỗ kia ngày trước gọi là Zootown. Đường tầu ấy có hai trạm đỗ: Roseville và Zootown. Ngày xưa có một vườn thú trong khu vườn bách thảo Pondicherry.”

Ông lão kể. Tôi ghi chép các yếu tố của câu chuyện. “Anh phải nói chuyện với cậu ấy,” ông lão bảo tôi, về nhân vật chính. “Tôi rất biết cậu ấy. Bây giờ đã là người lớn rồi. Anh phải hỏi chuyện cậu ấy, với tất cả các thắc mắc của anh.”

Sau đó, ở Toronto, trong số chín cột liệt kê các chủ hộ mang họ Patel trong danh bạ điện thoại, tôi đã tìm ra người ấy, nhân vật chính của câu chuyện. Tim tôi đập thình thịch khi quay số phone của anh ta. Giọng trả lời rất Canada, nhưng vẫn nghe được âm sắc Ấn Độ, nhẹ thôi nhưng không thể lẫn vào đâu được, như một thoáng hương nhang trong không khí. “Chuyện đã lâu lắm rồi,” anh ta nói. Nhưng rồi anh ta vẫn đồng ý gặp. Chúng tôi đã gặp nhau nhiều lần. Anh cho tôi xem cuốn nhật kí anh viết trong thời gian xảy ra các sự kiện của câu chuyện. Anh cho tôi xem cả những mẩu tin, bài cắt trên báo đã có lúc khiến cho anh nổi tiếng, cho dù ngắn ngủi và mờ nhạt. Anh kể câu chuyện của mình cho tôi nghe. Còn tôi thì ghi chép. Gần một năm sau, khó khăn mãi tôi mới nhận được một cuốn băng ghi âm và một bản tường trình của Bộ giao thông vận tải Nhật Bản. Chính khi lắng nghe cuốn băng ghi âm đó tôi thấy đồng ý với ông lão Adirubasamy rằng quả thực đây là câu chuyện sẽ khiến bạn đọc phải tin vào Thượng đế.

Lẽ tự nhiên là câu chuyện của ông Patel phải được kể lại chủ yếu là theo ngôi thứ nhất - tức là bằng chính lời kể của ông và theo con mắt nhìn nhận của ông. Còn mọi thứ sai lêch hoặc nhầm lẫn sẽ hoàn toàn là lỗi ở tôi.

Tôi phải mang ơn nhiều người trong việc này. Rõ ràng là tôi phải cảm ơn ông Patel đầu tiên. Lòng biết ơn của tôi đối với ông là mênh mang như Thái Bình Dương và tôi hy vọng rằng việc tôi kể lại câu chuyện của ông sẽ không làm ông thất vọng. Tôi cũng cảm ơn cụ Adirubasamy đã dắt tôi vào câu chuyện này. Còn để giúp cho tôi hoàn thành được câu chuyện, tôi phải cảm ơn ba vị quan chức có phẩm chất chuyên nghiệp mẫu mực. Đó là các ông Kazuhiko Oda, từng làm tại sứ quán Nhật tại Ottawa; ông Hiroshi Watanabe của công ty tầu biển Oika; và đặc biệt là ông Tomohiro Okamoto, thuộc Bộ Giao thông vận tải Nhật Bản, giờ đã nghỉ hưu. Còn về cái tia lửa thổi được sự sống vào cuốn tiểu thuyết, tôi xin mắc nợ ông Moacyr Scliar**. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của tôi đến cơ quan vĩ đại, tức là Hội đồng Bảo trợ nghệ thuật Canada, vì nếu không có món tiền trợ cấp của Hội đồng, tôi đã không thể chắp nối được câu chuyện này, vốn chẳng dính dáng gì đến Bồ Đào Nha thời 1939. Nếu chúng ta, những công dân, không hỗ trợ các nghệ sĩ, thì chúng ta sẽ giết trí tưởng tượng của mình làm vật hiến tế cho hiện thực thô thiển để rồi chỉ biết qua ngày đoạn tháng, không biết tin vào cái gì, với rặt những giấc mơ vô giá trị.

-------

Thánh Chứng: Tạm dịch chữ Jehova’s Witness, tên một dòng đạo Thiên Chúa, chuyên tâm phổ biến tín ngưỡng này dựa trên các câu chuyện chứng minh sự hiện hữu có chứng kiến của Chúa Jesus. (ND)
** Nhà văn Brazil đương đại, sống và làm việc ở Porto Alegre, thủ phủ tiểu bang Rio Grande do Sul, miền nam Brazil. Đã xuất bản hơn năm mươi tác phẩm, trong đó có những tiểu thuyết nổi tiếng như Đội quân một người, Con Nhân ngưu trong vườn nhà, Bài ca của Đấng Cứu thế giả hiệu, Vũ hội của các loài thú vật… Xuất thân trong một dòng họ Do Thái-Nga di cư sang Brazil từ cuối thế kỷ trước, từ những năm 1960, ông vừa hành nghề bác sĩ vừa viết tiểu thuyết và là đại biểu xuất sắc của dòng văn học Do Thái-Brazil hiện nay. (ND)

Cốm
13-03-2008, 02:15 PM
Phần một
Toronto và Pondicherry

Chương I
Đau khổ đã biến tôi thành một kẻ u buồn.

Dần dần, công việc học hành chữ nghĩa và tu tập tín nghưỡng đều đặn cũng khiến tôi vui sống trở lại. Tôi vẫn duy trì cái mà nhiều người có thể coi là những hành vi tín ngưỡng kì lạ. Tôi họcchương trình phổ thông trung học một năm, rồi vào đại học tổng hợp Toronto, lấy hai ngành chính trong chương trình cử nhân, là nghiên cứu tôn giáo và động vật học. Luận văn năm thứ tư về tôn giáo của tôi đề cập đến một số phương diện của lí thuyết vũ trụ tiến hóa của Issac Luria, một tín đồ Kabbalist* vĩ đại hồi thế kỷ 16 ở Safed. Luận văn động vật họccủa tôi làmột nghiên cứu phân tích chứ năng tuyến nước bọt của loài culi ba móng. Tôi chọn loài culi bởi tính cách khiêm nhường của nó – bình thản, im lặng và hướng nội – hình như đã có tác dụng an ủi phần nào mảnh hồn tan nát của tôi.

Có loài culi hai móng và có loài culi ba móng, phân biệt theo chân trước của chúng, vì chân sau của tất cả culi đều có ba móng. Tôi cómột may mắn lớn là được nghiên cứu loài culi ba móng ngay tại môi sinh tự nhiên của chúng ở rừng rậm nhiệt đới Brazil trong một kì hè. Con vật này quả thật là một sinh linh kì bí. Thói quen thật sự duy nhât của nó là thói vô vi. Nóngủhoặc nghỉ ngơi trung bình hai mươi tiếng một ngày. Đội nghiên cứu của chúng tôi đã thí nghiệm theo dõi nếp ngủ của năm con culi ba móng bằng cách đặt lên đầu chúng, sau khi chúng đã thiếp đi vào lúc chiều tà, những cái đĩa nhựa mầu đỏ tươi đựng đầy nước. Đến sáng hôm sau, những cái đĩa này vẫn y nguyên, đầy nước và đầy các loại côn trùng vùng vẫy trong đó. Con culi chỉ bận rộn vào lúc mặt trời đang lặng, với nghĩa thỏai mái nhất của từ bận rọn. Nó bò dọc một cành cây trong tư thế lộn ngược điển hình với tốc độ khoảng bốn trăm mét một giờ. Dưới mặt đất, nó bò từ cây này sang cây kia với tốc độ hai trăm năm mươi mét ột giờ ki có lí do chính đáng, bốn trăm bốn mươi lần chậm hơn tốc độ di chuyển có lí do của loài báo cheetah. Còn nếu không có lí do gì, mỗi giờ chún chỉ di chuyển được khoảng bốn đến năm mét.

Con culi ba móng không biết gì mấy đến thế giới xung quanh nó. Với thang điểm từ hai đến mười, hai là mức độ lờ đờ bất thường và mười là mức linh hoạt cực điểm, tác giả Beebe (1926) đã đánh giá các giác quan của lưỡi, da, mắt và tai của loài culi ở mức hai, còn mũi thì ở mức ba. Nếu ta gặp một con culi ba móng đang ngủ ở trong rừng, ta chọc hoặc lay nó hai ba cái, nó sẽ tỉnh dậy, và cặp mắt ngái ngủ của nó sẽ hìn quanh, nhưng không thèm nhìn về phía ta. Không biết tại sao nó lại có thói nhìn quanh như thế, vì thực ra con culi nhìn cái gì cũng chỉ như một vệt nhòe nhoẹt mà thôi. Về nghe, lòai culi không đến nỗi điếc lắm, mà thực ra là không thích nghe. Tác giả Beebe có viết rằng culi đang ngủ hoặc đang ăn mà ta có gí súng bắn ngay cạnh thì nó cũng chỉ hơi nhúc nhích mà thôi. Và ta cũng không nên đánh giá quá mức cái khả năng ngửi được cho điểm khá hơn của culi. Người ta tin chúng có khả năng đánh hơi thấy và tránh các cành cây mục, nhưng tác giả Bullock (1968) lại tường trình rằng ông “thường xuyên” thấy các con culi ngã xuống đất vẫn bám chặt lấy đoạn cành mục mà nó đã bò lên.

Ta có thể hỏi vậy làm sao mà chúng sống được.

Chính là nhờ sự chậm chạp như vậy. Tính cách ngủ mê ngủ mệt của culi đã giữ cho chúngkhông bị xa vào vòng nguy hiểm, không rơi và tầm ngắm của hổ báo, cầy cáo, diều quạ. Lông culi là nơi cư trú của một loại tảo có mầu nâu trong ùa khô và xanhlá cây trong mùa mưa, giúp cho nó lẫn lộn vào rêu lá xung quanh, trông như một tổ kiến hoặc tổ sóc, hoặc chỉ như một phần sần sùi của một cái cây.

Con culi ba móng sốn cuộc đời chay tịnh, yên bình trong sự hài hòa hoàn hảo với môi trường. “Với một nụ cười tốt lành thường tực trên môi”, tác giả Tirler (1966) đã viết như vậy. Tôi đã tận mắt thấy nụ cười ấy. Toi không cótình thích gán cho loài vậtnhững tính cách và tình cảm của con người,nhưng đã biết bao lần trong tháng hè đó tại Brazil, khi ngước nhìn những con culi đang trong tư thế nghỉ ngơi, tôi cảm thấy như mình đứng trước những đạo sĩ yoga ở tư thế lộn ngược đang chìm sâu trong suy tưởng, hoặc nhữn ẩn sĩ đang nguyện cầu khẩn thiết, những đấgn hiền triết có cuộc sống bay bổng đầy những tưởng tượng hào sảng mà trí lực dò dẫm kiểu khoa học của tôi không thể nào vươn tới được.

Đôi khi, tôi bị lẫn lộn hai ngành học của mình. Một số bạn học với tôi trong môn nghiên cứu tôn giáo - những kẻ theo thuyết bất khả tri, không phân biệt được đâu là trên đâu là dưới, luôn ghê tởm lí lẽ vốn là vàng ròng của những người thông sáng - khiến tôi liên tưởng đến loài culi ba móng; còn con culi ba móng, tiêu bản đẹp đẽ của phép lạ cuộc sống, thì lại khiến tôi nghĩ đến Thượng đế.

Không bao giờ tôi gặp rắc rối với các đồng nghiệp khoa học. Các khoa học gia là một đám người thân thiện, vô thần,chăm chỉ, thích bia rượu và lúc không bận bịu với khoa học thì đầu óc họ chỉ quan tâm đến tình dục, cờ vua và bóng chày.

Tôi là một sinh viên oách, tôi có thể nói vậy. Tại đại học Thánh Michael, tôi đứng đầu bảng bốn năm liền. Tôi giành đượctất cả các phần thưởng cho sinh viên của khoa Động vật học. Nếu như tôi không giành được phần thưởng nào của khoa Nghiên cứu tôn giáo thì chỉ đơn giảnlà khoa này chẳng cómột phầnthưởng nào giành cho sinh viên (chúng ta đều biết rằng các phần thưởng cho việc nghiên cứu tín ngưỡng không nằm trong tay đám phàm phu tục tử như chúng ta). Còn tấm Huân chương Học thuật của ngài Tổng đốc, phần tưởng cao quí nhất của Đại học Toronto cho sinh viên, phần lớn chỉ giành cho các công dân Canada xuất sắc; nếu không vì cái thằng cu ấy, da trắng hồng, ăn thịt bò, cổ to như gốc cây, hơn hớn ầm ĩ rất khó chịu, thì tôi đã giành được nó rồi.

Tôi vẫn còn thấy đau khổ vì những chuyện nhỏ nhặt. Khi ta đã chịu nhiều đau đớn ở đời, mỗi một nỗi đau mới sẽ vừa nặngtrĩu mà cũng lại chẳng là gì. Cuộc đời của tôi cũng giống như một bức tranh memento mori** trong nghệ thuật châu Âu: lúc nào cũng có mộtchiếc đầu lâu như rằng cười bên cạnh để nhắc nhở tôi về những phù du của ham muốn nhân sinh. Tôi giễu cợt chiếc đầu lâu. Tôi nhìn nó và bảo, “Mày chọn nhầm đối tượng rồi. Mày có quyền không tin vào cuộc đời, nhưng tao lại không tin vào sự chết. Đi chỗ khác!” Chiếc đầu lâu nhúc nhắc rồi nhích lại gần hơn, nhưng tôi cũng chẳng ngạc nhiên. Lí do sự chết cứ bám riết lấy sự sống như vậy không phải là vì nhu cầu sinh học – đó là do ghen tị. Sự sống đẹp đến nỗi sự chết đã phải lòngnó, một mối tình tư vị đầy ghen tuông quắp chặt lấy bất kì thứ gì nó có thể động đến. Nhưng sự sống nhẹ nhàng bỏ qua, mất mát vài thứ chẳng đáng kể, và nỗi u buồn chỉ như một bóng mây bay. Thằng cu trắng hồng lại còn được thưởng của học bổng Rhodes. Tôi yêu hắn và mong cho hắn học được thật nhiều thứ tại Oxford. Nếu như Lakshmi, nữ thần tài sản, có ngày nào đó ban phát cho tôi ân sủng của Người,thì Oxford sẽ đứng thứ năm trong danh sách các thành phố tôi muốn viếng thăm trước khi quá vãng, sau Mecca, Varanasi, Jerusalem và Paris.

-----------

* Kabala hoặc Cabala: Hệ thống lý thuyết thần học bí truyền do các thầy cả Do Thái (rabbi) phát triển và lên tới đỉnh điểm trong thế kỷ 12, 13, có ảnh hưởng phần nào đến tư tưởng của một số triết gia Cơ đốc giáo thời trung cổ và phục hưng. Cốt lõi của Cabala là phương pháp diễn giải kinh sách rất bí hiểm mà các tín đồ tin rằng giúp được cho họ thâm nhập các bí mật thiêng liêng. Người theo thần học Cabala tin rằng muôn vật đều là biến hình của Thượng đế và Linh hồn đã tồn tại từ cõi vô cùng. (ND)

** Memento mori: Tiếng Latin, nghĩa là “nhắc ta nhớ đến cái chết” (ND)
Cuộc đời đi làm của tôi chẳng có gì đáng nói, chỉ trừ một nhận xét rằng cà vạt là một cái thòng lọng, và mặc dù lộn ngược, nó sẽ treo cổ người ta đến chết nếu không thận trọng.

Tôi yêu Canada. Tôi nhớ cái nóng của Ấn Độ, nhớ các món ăn, bọn thằn lằn bò trên tường nhà, phim kịch hát trên truyền hình, lũ bò đủng đỉnh ngoài phố, lũ quạ kêu quàng quạc, nhớ đến cả những cuộc bàn bán về các trận đấu cricket, nhưng tôi yêu Canada. Một xứ sở vĩ đại tuy có quá lạnh đối với người lành mạnh, nơi cư ngụ của những con người thông minh, hăng hái, nhưng đầu tóc để không được đẹp. Dù sao, Pondicherry chẳng còn có cái gì để tôi muốn quay về.

Richard Parker vẫn ở bên tôi. Chưa khi nào tôi quên được nó. Có dám nói tôi nhớ nó hay không ư? Có đấy. Tôi nhớ nó. Vẫn thấy nó trong các giấc mơ. Phần lớn là ác mộng, nhưng là ác mộng muốn màu tình yêu. Lòng người thật lạ. Tôi vẫn không thể hiểu nổi tại sao nó lại có thể bỏ tôi mà đi một cách dửng dưng như thế, không một cử chỉ chia tay nào, không hề ngoái lại lấy một lần. Nỗi đau như thể ai cầm rìu mà bổ vào tận tim vậy.

Các bác sĩ và hộ lý trong bệnh viện tại Mexico thực tốt với tôi hết chỗ nói. Cả các bệnh nhân cũng vậy. Bệnh nhân ung thư và nạn nhân tại nạn xe cộ, một khi đã nghe câu chuyện của tôi, họ chống nạng và lăn xe đến thăm tôi, họvà gia định họ, mặc dầu không ai nói tiếng Anh, còn tôi thì không biết tiếng Tây Ban Nha. Họ mỉm cười với tôi, bắt tay tôi, vỗ về lên đầu tôi, để các món quà, thức ăn và quần áo lại trên giường tôi. Họ khiến tôi rơi vào những trận khóc trận cười không thể ghìm lại được.

Chỉ trong vòng một vài ngày là tôi đã đứng lên được, thậm chí còn đi được một hai bước, mặc dù vẫn buồn nôn, ***ng mặt và mỏi mệt toàn thân. Xét nghiệm máu cho thấy tôi thiếu hồng cầu nghiêm trọng, lượng muối thì cao mà kiềm thì thâp. Cơ thể tôi bị đọng dịch, hai chân phù ghê gớm. Trông tôi như một anh bị ghép đôi chân voi vậy. Nước giải khát thì **c, vàng sẫm gần như nâu. Thế mà sau đó độ một tuần, tôi đã có thể đi lại bình thường, và có thể đi giấy nếu không buộc dây. Da dẻ tôi lành trở lại, mặc dù có sẹo ở vai và lưng.

Lần đầu tiên tôi vặn được vòi máy nước, dòng nước phụt ra thật ầm ĩ, phí phạm và xả láng đến nỗi tôi bị choáng, ngã ngất vào tay một người hộ lý.

Lần đầu tôi đến một quán ăn Ấn Độ ở Canada, tôi bốc thức ăn bằng tay. Người hầu bàn nhìn tôi một cách nghiêm nghị và nói: “Vừa dưới tầu lên phải không?” Tôi tái người. Những ngón tay tôi, một giây trước đó còn như những búp vị giác đang thưởng thức món ăn trước khi đưa chúng vào miệng, đột nhiên thành ra thật bẩn thỉu dưới ánh mắt của anh ta. Chúng cứng đơ lại như những kẻ phạm tội bị bắt quả tang. Tôi không dám liếm chúng. Tôi lau chúng bằng giấy ăn như một kẻ có lỗi. Anh hầu bàn không thể biết câu nói của anh ta đã cứa những vết thương vào lòng tôi sâu đến mức nào. Chúng như những cái đanh nhọn đóng ngập vào thịt tôi. Tôi nhặt condao và cái dĩa. Tôi thực không nhớ mình đã từng dùng những thứ đó bao giờ chưa. Hai bàn tay tôi run bắn. Dịch vị tôi khô kiệt.

Cốm
13-03-2008, 02:18 PM
Chương 2

Anh sống ở Scarborough. Một người nhỏ nhắn, mảnh mai, cao không quá một thước sáu. Tóc đen, mắt đen. Bắt đầu hoa râm hai bên thái dương. Trông không thể quá bốn mươi. Nước da màu cà phê dễ chịu. Mới vào tiết thu mà đã khoác áo choàng mùa đông có mũ chùm lót lông để đi ăn tối. Giương mặt biểu cảm. Nói nhanh, hai tay huơ theo lời. Không chuyện vặt. Đã vào chuyện là kể liền liền.

Chương 3


Tên tôi là tên một cái bể bơi. Cũng là chuyện lạ vì cha mẹ tôi chẳng bơi lội bao giờ. Một trong những người có công chuyện sớm nhất với cha tôi là ông Francis Adirubasamy. Ông trở thành người bạn tốt của gia đình. Tôi gọi ông là Mamaji. Tiếng Tamil, mama nghĩa là bác, còn ji là vĩ tự hay dùng ở Ấn Độ để biểu lộ lòng yêu mến và kính trọng. Khi ông còn trẻ, nghĩa là rất lâu trước khi tôi ra đời, Mamaji là quán quân bơi lội của toàn vùng Nam Ấn. Cả đời trông ông lúc nào cũng ra một nhà quán quân. Anh Ravi của tôi có lần bảo rằng khi Mamaji lọt lòng mẹ, ông ấy vẫn đòi được tiếp tục thở trong nước đến nỗi bác sỹ, để cứu sống ông, đã phải túm lấy hai chân thằng bé rồi quay tròn trên đầu mình một lúc.

“Như thế này này!” Ravi nói, tay quay tít trên đầu. “Thằng bé ho sặc hết nước ra và bắt đầu thở không khí, nhưng máu thịt nó bị quay dồn hết lên phần trên của cơ thể, nên ngực nó mới dầy như thế và chân nó mới khẳng khiu như thế.”

Tôi tin Ravi. (Anh Ravi là một tên trêu ngươi lưỡi nhọn. Lần anh gọi Mamaji là “Ông Cá” ngay vào mặt tôi, tôi đã vứt vỏ chuối vào giường anh.) Ngay ở tuổi sáu mươi, khi Mamaji đã hơi còng và thịt ông đã hơi bị trọng lực kéo xuống phía dưới, ông vẫn hàng sáng bơi đủ ba mươi lần chiều dài của bể bơi trong Aurobindo Ashram*.

Ông cố dạy cha mẹ tôi bơi, nhưng chẳng bao giờ cha mẹ tiến bộ quá mức lội xuống nước đến đầu gối ở bãi biển và đứng làm các động tác tay khoát tròn. Nếu cha mẹ tôi đang tập bơi ếch chẳng hạn, thì trông họ như đang đi trong rừng, vừa đi vừa lấy tay vạch cỏ trước mặt. Còn nếu cha mẹ tập bơi sải thì trông như họ đang chạy từ trên đồi xuống và cứ phải vung tay cho khỏi ngã. Anh Ravi thì cũng kém hăng hái chẳng thua gì thế.

Mamaji phải đợi cho đến khi tôi xuất hiện để có được một môn đệ hăng hái. Ngày tôi đến tuổi bơi lội, tức là lên bẩy, theo tuyên bố của Mamaji và khiến mẹ tôi phát phiền, ông đem tôi xuống bãi biển, khoát tay về phía chân trời và nói: “Đây là món quà của ta cho con.”

“Rồi ông ấy suýt để con chết đuối”, mẹ tôi bảo vậy.

Tôi vẫn trung thành với thủy sư phụ của mình. Dưới con mắt canh chừng của ông, tôi nằm trên bãi biển, quẫy chân, quạt tay trên cát, đầu quay bên này bên kia để thở theo mỗi động tác. Chắc hẳn trông tôi như một thằng nhóc đang làm mình làm mẩy một cách chậm chạm rất lạ. Dưới nước, ông giữ cho tôi nổi và tôi hết sức bơi. Khó hơn nhiều so với tập trên cạn. Nhưng Mamaji kiên trì và đầy khích lệ.

Khi ông thấy tôi đã tiến bộ rồi, chúng tôi bắt đầu chấm dứt những cuộc chạy nhảy nô rỡn với những làn sóng xanh biếc sủi bọt của bờ biển và bắt đầu việc luyện tập quy củ (và phải trả tiền) trong cái phẳng phiu nghiêm túc của hồ bơi cư xá.

Mỗi tuần ba lần, vào thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu, trong suốt những năm thơ ấu, tôi đi với ông đến bể bơi vào sáng sớm và thực hiện một thứ nghi lễ chính xác và đều đặn như một cỗ máy đồng hồ của bài luyện tập bơi sải. Tôi còn nhớ như in hình ảnh sinh động của ông già đáng kính đang bắt đầu khỏa thân ngay cạnh tôi, cơ thể ông lộ ra dần, và cuối cùng chỉ hơi quay đi để giữ thể diện với một bộ quần bơi vận động viên chính cống nhập khẩu đẹp tuyệt. Ông đứng thẳng người trong tư thế sẵn sàng. Hình ảnh ấy thật giản dị và hùng tráng. Học bơi, rồi tập bơi, thật cực nhọc, nhưng có một niềm khoái lạc sâu xa khi cảm thấy mỗi động tác của ta ngày càng nhẹ nhàng và đưa ta lướt tới nhanh ***ng hơn, nhanh hơn nữa, cho tới lúc như mê đi, và khối nước nặng như chì trở thành một chất lỏng nhẹ bỗng.

--------

* Ashram là danh từ chỉ một khu trường trại của những người theo cùng một tín ngưỡng hoặc giáo phái. Aurobindo (1872-1950) là một học giả và lãnh tụ tôn giáo nổi tiếng của Ấn Độ.

Món quà tôi tặng Mamaji một dịp sinh nhật, lúc đó chắc tôi mười ba mười bốn tuổi gì đó, là hai vòng bơi bướm hoàn chỉnh. Tôi đến đích mệt đến nỗi không giơ nổi tay để chào vẫy ông nữa.

Bên cạnh việc bơi lội thực sự, còn có việc nói về nó nữa. Cha tôi rất thích nói đến bơi. Cha càng không chịu tập bơi bao nhiêu thì càng thích bơi bấy nhiêu. Bơi lội là chuyện xả hơi của cha mỗi khi không nói chuyện công việc hàng ngày của ông tại vườn thú. Nước không có hà mã có vẻ dễ cai quản hơn nhiều so với nước có hà mã.

Mamaji du học Paris hai năm, nhờ có chính quyền thực dân. Đó là thời kỳ đáng nhớ nhất của ông. Dạo ấy là đầu những năm 1930, lúc người Pháp vẫn còn cố đồng hóa Pondicherry, cũng như người Anh đang cố đồng hóa những vùng còn lại của Ấn Độ. Tôi không nhớ rõ Mamaji học gì. Hình như có dính dáng đến thương mại. Ông là người kể chuyện tuyệt vời, nhưng lại quên sạch các câu chuyện học hành của mình, cũng chẳng nhớ gì đến tháp Eiffel, cung điện Lourve, hoặc các quán cà phê dọc đại lộ Champs Elysees. Tất cả các câu chuyện của ông kể đều là về các hồ bơi và các cuộc thi bơi. Ví dụ, có Piscine Deligny*, bể bơi cổ nhất của kinh thành, có từ năm 1796, là một cái xà lan neo tại bến tàu Orsay và là nơi diễn ra các cuộc tranh tài bơi lội trong thế vận hội Olympics năm 1900. Nhưng không có kỷ lục nào trong bể bơi này được Liên đoàn Bơi lội Quốc tế công nhận vì hồ này dài hơn kích thước tiêu chuẩn sáu mét. Nước trong bể lấy thẳng từ sông Seine, chẳng lọc mà cũng chẳng sưởi. “Vừa lạnh vừa bẩn”, Mamaji kể, “nước ấy đã chảy qua khắp thành phố thành ra rất bẩn. Rồi đám người xuống bơi lại làm cho nó bẩn đến phát khiếp lên được”. Với giọng thì thầm đầy âm mưu và đưa ra những chi tiết kinh khủng để chứng minh, ông đảm bảo với chúng tôi là người Pháp có những tiêu chuẩn vệ sinh cá nhân rất thấp. “Deligny đã bẩn thế rồi, mà bể bơi Royal, một cái nhà tiêu trên sông Seine, còn bẩn hơn. Dù sao thì ở Deligny người ta cũng còn chịu khó vớt những con cá chết vứt ra ngoài”. Nhưng gì thì gì, một bể bơi Olympic cũng vẫn cứ là một bể bơi Olympic, đã từng được vinh quang bất hủ. Cho nên có bẩn như một cái bể phốt đi nữa thì Mamaji cũng vẫn nhắc đến Deligny với một nụ cười âu yếm.

Dễ chịu hơn là các bể bơi ở Chateau-Landon, Rouvet, hoặc ở đại lộ Nhà ga. Đó là các bể bơi trong nhà có mái, xây trên đất liền, và mở cửa quanh năm. Nước bể lấy từ nguồn ngưng đọng trong các động cơ hơi nước của các nhà máy quanh đó, sạch hơn và ấm hơn. Nhưng chúng vẫn là những bể bơi tối tăm và thường quá đông đúc. “Nước ở đấy lềnh phềnh rất nhiều đờm dãi”, Mamaji chặc lưỡi, “cứ như bơi giữa đám sứa.”

Các bể bơi Hebert, Ledru-Rollin và Butteaux-Caillé thì sáng sủa, hiện đại, rộng rãi, và dùng nước từ những giếng khoan sâu. Chúng là tiêu chuẩn cho các bể bơi đô thị. Tất nhiên, còn có Piscine des Tourelles, một bể bơi Olympic nữa của thành phố, khai trương trong thế vận hội Paris năm 1924. Và còn nhiều bể khác nữa, rất nhiều.

Nhưng trong mắt Mamaji, không có bể bơi nào sánh được với vẻ huy hoàng của Piscine Molitor. Đó là vương miện cho những vinh quang bơi lội của kinh thành Paris, và quả thật, của toàn thể nhân loại văn minh.

“Đến các đấng thần linh cũng phải sung sướng khi được bơi ở đấy. Molitor có câu lạc bộ thi đấu bơi lội xuất sắc nhất Paris. Có hai bể, một trong nhà, một ngoài trời. Cả hai đều mênh mông như các tiểu đại dương. Bể trong nhà luôn luôn có hai làn dành riêng cho những người luyện tập bơi đường dài. Nước bể sạch và trong đến độ ta có thể lấy nó pha cà phê buổi sáng. Các phòng thay đồ bằng gỗ, sơn xanh nước biển và trắng, nằm xung quanh bể bơi thành hai tầng. Ta có thể nhìn xuống và thấy toàn cảnh bể bơi, chẳng sót vật gì. Những người phục vụ cùng phấn đánh dấu phòng thay đồ để mọi người biết ta đang ngự trong đó. Họ là các ông già chân đi khập khiễng, thân thiện với một vẻ dễ cáu bẳn. Họ phớt lờ những người la hét và hành vi ngốc nghếchcủa mọi người. Nước tắm từ các vòi hương sen nóng hổi và dễ chịu vô cùng. Có cả phòng tắm hơi và phòng thể dục. Bể ngoài trời thì mùa đông trở thành sân trượt băng. Có một quầy rượu, một quán cà phê, một hiên nằm phơi nắng, thậm chí có cả hai bãi tắm nhỏ trải cát tự nhiên. Tất cả các viên gạch men, đồ đồng và đồ gỗ đều bóng loáng. Đó là… đó là…”

Đó là bể bơi duy nhất khiến cho Mamaji rơi vào im lặng, kí ức ông phải bơi quá xa để có thể kể hết về nó.

Mamaji nhớ nó. Cha tôi mơ về nó.

Vì vậy mà cuối cùng, khi tôi ra đời, ba năm sau anh Ravi, một thành viên nữa được cả nhà mong mỏi, tôi đã được đặt tên là Piscine Molitor Patel.

Cốm
13-03-2008, 02:20 PM
Chương 4

Dân tộc già nua và tốt đẹp của chúng tôi được tròn bảy tuổi trong thể chế cộng hòa thì lớn thêm ra với một lãnh thổ nhỏ. Pondicherry gia nhập Liên minh Ấn Độ ngày 1 tháng 11 năm 1954. Thành tựu dân sự này dẫn đến một thành tựu dân sự khác. Một phần đất của vườn bách thảo Pondicherry được chính quyền khoanh riêng ra, tạo một cơ hội làm ăn mới, lại không phải trả thuế thổ trạch, và thế là, như một phép lạ, Ấn Độ có một vườn bách thú mới toanh, thiết kế và quản lý theo những nguyên tắc sinh học lành mạnh và hiện đại nhất.

Đó là một vườn bách thú khổng lồ không biết là bao nhiêu diện tích đất, đến nỗi phải có hẳn một đường tầu hỏa để cho người xem đi cho hết, mặc dù khi lớn lên tôi cũng thấy nó cứ nhỏ dần, kể cả đoàn tàu. Hãy mường tượng một vùng đất nóng ẩm tràn ngập ánh nắng và rực rỡ màu sắc. Hoa nở liên miên, ào ạt. Cây cao, bụi thấp, và cây leo xoắn xuýt đủ các loại, nếu không có các bảng tên rõ ràng gắn dưới gốc chúng thì chẳng ai có thể biết được cây gì với cây gì. Có những chiếc ghế dài. Trên những ghế dài ấy ta thấy những người nằm ngủ duỗi dài, hoặc những cặp trai gái, những đôi trẻ măng vẫn còn thẹn thò đầu mày cuối mắt và giật mình khi tay chạm phải tay. Bất thình lình, trong đám cây cao mảnh dẻ trước mắt, ta nhận ra một cặp hươu cao cổ đang nhìn ta chăm chú. Nhưng chưa hết, chỉ ngay sau đấy thôi, ta giật nẩy mình vì những tiếng kêu váng óc của một đàn khỉ bất thần ở đâu ào tới, quện lẫn với những âm thanh lảnh lót đinh tai của các loài chim gì nữa chẳng biết. Ta đến chỗ sóat vé, lơ đãng trả một món tiền nhỏ, rồi đi tiếp. Ta thấy một bức tường thấp. Có thể thấy gì sau dẫy tường thấp tè ấy? Chẳng nhẽ lại là chuồng tê giác? Ấy thế mà đúng là chuồng tê giác thật, hai con tê giác Ấn Độ hùng vĩ trong một hố đất nông. Khi ta quay sang bên thì thấy ngay một con voi, đã lù lù ở đó từ bao giờ nhưng vì to quá mà ta không nhìn ra. Rồi thì ta nhận ra những con hà mã đang bập bềnh ngay dưới ao. Càng nhìn càng thấy. Hết cảnh này đến cảnh khác. Ta thực đang ở vườn bách thú có cái tên Zootown.

---------

* Piscine, tiếng Pháp, nghĩa là bể bơi (nhân tạo), độc giả cứ đọc tiếp sẽ hiểu tại sao chúng tôi không dịch từ này ra tiếng Việt. (ND)

Trước khi dọn nhà đến Ponidicherry, cha tôi quản lý một khác sạn lớn ở Madras . Lòng ưa thích động vật khiến ông chuyển sang nghề vườn thú. một bước quá độ tự nhiên, ta có thể nghĩ vậy. Nhưng cũng không hẳn thế. Về nhiều phương diện, cai quản một vườn thú là cơn ác mộng của một người quản lí khác sạn. Này nhé: khách trọ không bao giờ rời phòng đi đâu cả; chúng đòi hỏi không phải chỉ là một nơi trú chân, mà thực sự là một ăn chốn ở hẳn hoi; chúng lại luôn luôn có khách đến thăm, lắm bọn rất ồn ào và bừa bãi. Muốn dọn buồng cho chúng, ta phải chờ lúc chúng quá bộ ra đứng ngoài bao lơn, rồi phải chờ cho đến khi chúng chán cảnh ngoài bao lơn, quay vào buồng rồi thì mới quét dọn bao lơn cho chúng đựơc . Phải dọn dẹp liên miên, vì khách trọ đứa nào cũng bẩn thỉu như bọn nghiện rượu cả. Khách nào cũng đòi hỏi một chế độ ăn uống riêng, suốt ngày kêu ca phục vụ chậm, và tuyệt đối không bao giờ cho tiền hoa. Nói thật tình, nhiều khách trọ còn là bọn bệnh hoạn tình dục, hoặc bị nhịn quá mà thỉnh thoảng lại lên những cơn động cỡn điên cuồng, hoặc công khai bậy bạ, khiến cho ban quản lý luôn phải chứng kiến những cuộc mây mưa đá lở đất long không khuôn phép gì hết và cả những vụ loạn luân công khai ầm ĩ. Có ai làm khách sạn mà muốn có những loại khách như thế không chứ? Vườn bách thú Pondicherry là nguồn vui thú và cũng là nguồn đâu đầu cảu ông Santosh Patel, người sáng lập , chủ sở hữu, giám đốc, ông chủ của năm mươi ba người làm công, và là cha tôi.

Với tôi, nó là chốn địa đàng,. Tôi chỉ có những kí ức đáng yêu nhất của quãng đời lớn lên trong vườn bách thú đó. Tôi sống cuộc sống của một ông hoàng. Có đứa con trai của một vị vương giả nào có được một sân chơi mênh mông và sum sê đến thế? Lâu đài nào mà có được một bầy thú nuôi trong nhà như thế? Suốt thời gian thiếu niên, bầy sư tử đã là chiếc đồng hồ báo thức của tôi. chẳng cần đến những chiếc đồng hồ Thụy Sỹ làm gì. Sáng nào cũng thế, khi bầy sư tử cất tiếng gầm vang dội của chúng, ấy là đã đến 5 rưỡi 6 giờ rồi. Bữa điểm tâm diễn ra trong những tiếng kêu lảnh lót và kéo dài của bầy khỉ to mồm, các loài yểng, sáo , lũ vẹt Moluccan. Tiễn tôi đi học không phải chỉ có ánh mắt dịu hiền của mẹ, mà còn có cả những cái nhìn lưu luyến của bọn dái cá mắt sáng như sao,con bò rừng châu Mỹ khổng lồ, và đám khỉ độc đang vươn vai duỗi chân ngáp ngắn ngáp dài. Tôi phải trông chừng khi chạy qua dưới đám cây của bầy chim công vì chúng rất thích phóng uế xuống người tôi. Tốt nhất là chạy qua dưới rặng cây của bọn dơi rừng vì vào giờ đó sẽ chỉ có tiếng chí ***e ***i tai của chúng mà thôi. trên đường ra, tôi có thể dừng lại chỗ nuôi các lào trên cạn để ngắm những con ếch như được tráng men xanh biếc, hoặc vàng với xanh nước biển sẫm, hoặc nâu với xanh lá cây nhạt. Cũng có khi bọn chim ở đó khiến tôi phải để mắt đến chúng: những con hồng hạc mầu hồng rực, đàn thiên nga đen, bầy dad điểu một mào, hoặc những con chim nhỏ hơn như bọn bồ câu lông bạc, những con tình điểu có bộ mặt giống như trái đào tơ, hoặc đàn vẹt to mồm có những đám lông mầu da cam trước ngực.

Rất ít khi thấy đám voi, hổ báo, gấu hoặc hải cẩu dậy vào giờ sáng sớm đó, nhưng bọn khỉ đầu ***, vượn bạc má, vượn đít đỏ, hươu nai, hươu cao cổ, và các con lama(1) là những bọn dậy sớm. Sáng nào cũng vậy, tôi bước ra khỏi cổng chính với một ấn tượng cuối cùng vừa bình dị vừa không thể nào quên. Đó có thể là hình ảnh bầy rùa xếp lên nhau thành một kim tự tháp; cái mõm óng ánh của một con khỉ đầu ***; dáng im lìm oai vệ của một con hươu cao cổ; cái miệng béo mỡ và vàng óng đang há ra của một con hà mã; một con vẹt macaw đang dùng mỏ và chân để từng bước leo lên hàng rào; tiếng chép miệng lanh lảnh của một con cò mỏ giầy; vẻ nhìn già nua và xảo quyệt của một con lạc đà. Tất cả những hình ảnh và ấn tượng ấy kéo qua tâm trí tôi thật nhanh ***ng. Chỉ lúc từ trường về, tôi mới có thời gian khám phá từ từ những cảm giác khi được một chú voi hít ngửi khắp người một cách thân thiện như thể muốn xin một vài củ lạc có thể có trong túi tôi, hoặc khi một chú khỉ độc vần vò tìm chấy trên đầu tôi, kết thúc bằng một tiếng thở dài khi chẳng thấy món gì chén được. Giá mà tôi có thể truyền đạt được cái hoàn hảo của một con hải cẩu trườn mình xuống nước hoặc của một con khỉ nhện tung người từ chỗ này sang chỗ kia, hoặc chỉ đơn thuần là cái vẻ quay đầu của một con sư tử. Ngôn ngữ không thể truyền đạt nổi những cái đó. Tốt hơn cả là khi nào ta muốn cảm lại được sự hoàn hảo ấy, ta hãy tưởng tượng lại đúng những cảnh đó ở trong đầu.

Trong vườn thú cũng như ngoài thiên nhiên, thời gian tốt đẹp nhất để thăm viếng là bình minh và chiều tà. Đó là lúc hầu hết các loài vật trở nên sinh động nhất. Chúng động cựa và rời nơi ẩn nấp của mình để rón rén đến những mép nước. Chúng khoe lông khoe cánh. Chúng hát những khúc hát riêng của mình. Chúng tìm đến nhau và cử hành các nghi lễ của giống loài. Phần thưởng cho những ai biết ngắm nhìn và lắng nghe thật lớn lao. Tôii có những giờ phút triền miên không thể đếm được chỉ để im lặng chứng kiến những biểu hiện phong phú và đẹp đẽ cực kỳ của sự sống đã đem phúc lành cho hành tinh của chúng ta. Đó là một cái gì thật tươi sáng, vang dội, kỳ bí và tinh tế khiến cho các giác quan của ta tê dại.
------------------------------------
(1) Lama: Tên một loài lừa có lông giống như lông cừu, cổ dài, đầu nhỏ, gốc gác ở vùng núi cao Peru, Nam Mỹ.

Tôi đã nghe nhiều chuyện phi lý về các vườn thú, cũng nhiều như các chuyện phi lý về Thượng Đế và các tôn giáo.Những người có thiện chí nhưng bị thông tin sai lầm tưởng rằng các loài vật hoang dã ngoài thiên nhiên sống rất “hạnh phúc” bởi vì chúng được “tự do”. Khi nói vậy, họ thường nghĩ đến một con thú lớn và đẹp, ví dụ như sư tử hoặc loài báo cheetah (đời sống của một con sơn dương hoặc một con thú ăn kiến mõm dài thì ít có ai mường tượng làm gì). Họ tưởng tượng cảnh con thú hoang dã đó đang thả bộ trên đồng cỏ mênh mông như đi bách bộ sau khi đã ăn hết con mồi vừa ngoan ngoãn chấp nhận số phận bị ăn thịt của mình, hoặc đang chạy nhịp nhàng trong tư thế luyện tập để giữ cho cơ thể thon thả sau một bữa ăn quá đà. Họ tưởng tượng con thú ấy coi sóc bầy con của nó một cách dịu dàng và đầy tự hào, cả gia đình đang cùng nằm trên những cành cây và thoả mãn ngắm nhìn cảnh mặt trời đang lặn. Cuộc sống của loài vật hoang dã thật giản dị, cao thượng và đầy ý nghĩa, họ tưởng tượng như vậy. Thế rồi những con vật ấy bị bọn người xấu bắt nhốt vào những chuồng ***g nhỏ xíu. “Hạnh phúc” của chúng bị tiêu tan. Chúng khao khát “tự do” và tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Bị chối bỏ “tự do” quá lâu, chúng trở thành như những cái bóng của chính mình, tinh thần chúng bị bẻ gẫy. Một số người đã tưởng tượng như thế.

Thực tế không phải vậy.

Các loài thú hoang dã có một đời sống khắc nghiệt để sinh tồn trong một kỉ cương xã hội không khoan nhượng và một môi trường trong đó nguồn sợ hãi thì nhiều mà nguồn thức ăn thì ít, và chúng phải luôn luôn bảo vệ lãnh địa của mình, suốt đời chịu cảnh rỉa rói của các loài ký sinh. Tự do có nghĩa gì trong hoàn cảnh ấy? Thực tế các loài thú hoang dã không hề được tự do trong không gian, thời gian và trong cả trong các quan hệ giữa chúng với nhau. Lý thuyết mà nói, một con vật có thể bỏ bầy đàn mà đi, phớt lờ tất cả những lề thói xã hội và những cương toả vốn có của giống loài. Nhưng chuyện đó hiếm hơn cả khi ta so với chính chúng ta, ví dụ như chuyện một người chủ tiệm chẳng hạn, với tất cả những ràng buộc bình thường - với gia đình, bạn bè, xã hội - tự nhiên bỏ tất cả để ra đi với vài đồng bạc lẻ trong túi và bộ quần áo trên người. Nếu một con người, là loài vật thông minh và mạnh dạn nhất, còn không muốn lang thang lữ thứ, làm kẻ lạ mặt trong thiên hạ để chẳng có ai mong ai đợi, thì một con thú hoang dã muốn thế làm gì, nhất là khi ta nghĩ rằng loài vật bao giờ cũng bào thủ hơn nhiều so với loài người. Quả thật loài vật bảo thủ, có thể nói là phản động nữa. Chỉ một thay đổi nhỏ xíu thôi cũng khiến chúng lo sợ rồi. Chúng chỉ mong mọi thứ cứ nguyên như thế, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Những điều ngạc nhiên là chúng vô cùng khó chịu. Ta thấy điều này trong các quan hệ về không gian của chúng. Một con vật chiếm cái chỗ ở của nó, cho dù trong vườn thú hay ngoài hoang dã, cũng giống như một quân cờ chiếm cái chỗ của mình trên bàn cờ, nghĩa là rất trọng đại. Vị trí của con tướng trên bàn cờ ra sao, thì chỗ ở của một con thằn lằn, một con gấu hoặc một con hươu cũng như vậy, không hề có tí tự do lựa chọn nào trong việc này. Cả quân cờ và con vật đều bị ràng buộc bởi tình thế và mục đích. Trong hoang dã, các con vật đi theo những con đường nhất định vì những lý do bắt buộc, mùa này qua mùa khác. Trong vườn thú, nếu một con vật không ở chỗ bình thường của nó, với dáng điệu mà nó vẫn có vào giờ đó, thì tức là đã có chuyện. Có thể chỉ là phản ứng của con vật đối với một thay đổi rất nhỏ trong môi trường. Một đoạn ống nước cuộn tròn bị bỏ quên ở ngoài kia khiến cho con vật lo sợ. Một vũng nước vừa đọng làm cho nó không yên. Cái bóng của một cái thang. Nhưng cũng có thể là một nguyên nhân gì khác nghiêm trọng hơn. mà sợ nhất đối với một chủ vườn thú đó có thể thực sự là một “triệu chứng”, phải kiểm tra phân con vật ngay, phải hỏi kỹ người chăm sóc con vật đó về mọi chi tiết, phải mời bác sĩ thú y. Tất cả những cái này chỉ vì một con cò không thấy đứng ở chỗ nó vẫn đứng!
Nhưng gượm đã, hãy cho phép tôi tiếp tục đề cập đến chỉ một khía cạnh của vấn đề mà ta đang bàn bạc

Nếu như ta vào một nhà nọ, phá cửa trước, rồi đuổi mọi người trong nhà ra ngoài phố và nói " Đi đi! Các người đuợc tự do! Tự do như chim trời! Đi! Đi!" - Liệu họ có nhảy nhót vui mừng hay ko? Làm gì mà có chuyện đó. Chim chóc đâu có tự do. Những người mà ta vừa giải phóng ấy sẽ cự lại " Các người có quyền gì mà đuổi chúng ta? Đây là nhà ta. Ta sỡ hữu nó. Ta đã sống ở đây bao nhiêu năm rồi. Ta sẽ gọi cảnh sát. Chúng mày là đồ lưu manh!"
---------------------------------------------------------------------------------
(1) Lama: ten một loài lừa có lông giống như lông cừu, cổ dài, đầu nhỏ, gốc gác ở vùng núi cao Peru, Nam Mỹ.

Chúng ta chẳng có câu, ''Chẳng đâu bằng ở nhà mình'' đấy ư? Đó cũng chính là cảm thức của loài vật. Chúng có ý thức sâu sắc về lãnh thổ. Lãnh thổ là chìa khóa để hiểu các hành vi của chúng. Chỉ có một lãnh thổ quen thuộc mới cho phép chúng đáp ứng được hai đòi hỏi thường trực của cuộc đời hoang dã: né tránh kẻ thù và kiếm được thức ăn nước uống. Một khuôn viên vườn thú lành mãnh về sinh học - cho dù đó là một cái chuồng, một cái hố, một hòn đảo nhân tạo, một bãi thả, một hồ nước - cũng là một lãnh thổ, chỉ khác về kích thước và sự gần cận với lãnh thổ của loài người. Việc nó rất nhỏ so với hoang dã cũng chẳng có ý nghĩa gì. Các lãnh thổ trong hoang dã rộng lớn không fải do thị hiếu mà là vì bắt buộc. Trong một vườn thú, ta làm cho các con vật điều mà ta làm cho chính chúng ta ở nhà: ta đem vào trong một không gian nhỏ hẹp những thứ nằm rải rác ở khắp thế giới hoang dã. Ngày xưa với chúng ta chẳng hạn, cái hang thì ở đây, dòng sông thì ở đàng kia, chỗ săn bắn thì fải đi hàng dặm, nơi rình mồi ở gần đó, rừng dâu thì lại ở một nơi khác - mà nơi nào cũng đầy rẫy sư tử, rắn rết, kiến, đỉa và lá độc - còn bây giờ thì con sông chảy luôn qua vòi nước có thể với ta là đến và ta có thể tắm rửa ngay cạnh chỗ nằm ngủ, ăn ngay nơi nấu nướng, có thể rào kín tất cả bằng một bức tường bảo vệ, giữ lãnh thổ của ta sạch sẽ và ấm áp. Mỗi ngôi nhà là một lãnh thổ thu nhỏ trong đó các nhu cầu cơ bản của ta được thỏa mãn an toàn và gần gụi. Một khuôn viên trong vườn thú lành mạnh cũng là một ngôi nhà như thế đối với con vật ở trong đó (nhưng ko có những thứ như là lò sưởi chẳng hạn). Tìm thấy trong đấy tất cả những gì nó cần - một nơi để canh chừng, một chỗ để nghỉ, để ăn, uống, tắm, chải chuốt... - và thấy ko còn cần fải săn mồi nữa vì thức ăn ngày nào cũng có, con vật sẽ chiếm lĩnh một không gian mới trong hoang dã, thăm dò và đánh dấu không gian ấy theo cách thường làm của giống loài mình, chẳng hạn như đánh dấu bằng nước giải. Một khi cái nghi lễ dọn vào đó đã xong và con vật đã ở yên, nó sẽ ko cảm thấy như một kẻ thuê nhà hồi hộp, càng ko như một tù nhân, mà như một chủ nhà hẳn hoi, và nó sẽ hành xử như hệt khi nó ở ngoài hoang dã, nghĩa là sẽ bảo vệ cái lãnh thổ ấy của nó cho đến cùng nếu bị xâm phạm. Chủ quan mà nói, một khuôn viên như thế ko tốt hơn mà cũng chẳng tồi hơn so với một lãnh thổ của con vật ngoài hoang dã. Chừng nào còn đáp ứng được các nhu cầu của con vật, thì một lãnh thổ, hoang dã hay nhân tạo, chỉ đơn thuần là một thực tế, ko fải đánh giá gì hết, cũng như những chấm đen trên da con báo mà thôi. Ta cũng có thể lí luận rằng nếu một con vật có thể ựa chọn bằng trí khôn, nó nhất định sẽ chọn cuộc sống trong vườn thú, vì cái khác biệt chính giữa một vườn thú và thế giới hoang dã là vườn thú thì vừa ko có kí sinh và kẻ thù lại vừa thừa thãi thức ăn, còn ngoài hoang dã thì ngược lại. Cứ thử nghĩ mà xem,. thà ở khách sạn Ritz với các dịch vụ ko mất tiền và tha hồ gọi bác sỹ còn hơn lang thang ko nhà và chẳng có ma nào để mắt đến mình. Nhưng các con vật thì không có khả năng fân biệt được như thế. Trong những hạn chế của bản chất mình, chúng thỏa mãn với những gì chúng có mà thôi.

Một vườn thú tốt là một chung cư được tổ chức chu đáo: nơi mà con vật bảo chúng ta ''Đừng có vào!'' bằng dấu hiệu nuớc giải hoặc bài tiết khác, thì chúng ta cũng bào ''Đừng có ra!'' bằng các loại rào chắn của chúng ta. trong điều kiện như vậy của một nền ngoại giao hoà bình, tất cả các con vật đều hài lòng và chúng ta có thể yên tâm nhìn ngắm lẫn nhau.

Có rất nhiều những câu chuyện trong sách vở về các con vật có thể trốn chạy khỏi vườn thú mà lại ko trốn, hoặc trốn rồi lại quay trở về. Có trường hợp một con khỉ độc, cửa chuồng của nó người ta quên ko khóa và để mở toang. Con khỉ lo lắng đến nỗi kêu gào thảm thiết và bắt đầu lấy tay dập cánh cửa ầm ầm, cho đến khi người coi chuồng, được 1 khách thăm gọi, vội chạy đến khóa cửa chuồng lại cho nó. Một đàn hươu sao trong 1 vườn thú châu Âu kéo nhau ra khỏi khi trại vì cửa rào ko đóng. Những người khách làm cho chíng hoảng sợ chạy vào 1 khu rừng gần đó. Trong khu rừng cũng có hươu sao sống và có thể nuôi dưỡng được đàn hươu này. Thế mà đàn hươu vườn thú lại nhanh chóng tìm đường về trại của mình. Trong một vườn thú khác, một người làm công đang đi đến chỗ làm của mình vào lúc sáng sớm, vác theo các tấm gỗ, thì thình lình thấy 1 con gấu từ đám sương mù buổi sớm bước ra và đi thẳng về fía anh ta. Người ấy vất các tấm gỗ xuống và ù té chạy trốn. Lập tức người ta bổ đi tìm con gấu xổng chuồng. Ho thấy nó đã lại ở trong chuồng, thì ra nó leo ra leo vào nhờ một cành cây mới gẫy. Chắc là tiếng các tấm gỗ rơi xuống đất đã làm con gấu sợ và vội quay lại chỗ ở của nó.

Nhưng tôi ko dám khăng khăng đâu. Tôi ko định bảo vệ các vườn thú đâu. Nếu muốn thì ta cứ việc đóng cửa tất tật chúng lại (và hy vọng là các loài vật hoang dã có thể sống sót trong những gì còn lại của thiên nhiên ngày nay).Tôi biết rằng các vườn thú ko còn là niềm vui của con người nữa. Tôn giáo cũng đang đối mặt với vấn đề này. Có những ảo tưởng nhất định về tự do đang giết chết cả hai.

Vườn thú Pondicherry ko còn nữa. Người ta đã lấp hết các hố nuôi, tháo dỡ hết các chuồng trại. Giờ đây, tôi chỉ thám hiểm nó tại một nơi duy nhất còn lại là kí ức của tôi mà thôi.

Cốm
13-03-2008, 02:24 PM
CHƯƠNG 5

Cái tên tôi chưa phải là kết cục của câu chuyện về cái tên tôi. Khi tên ta là Bob, ko ai fải hỏi cái tên ấy viết thế nào. Nhưng với cái tên Piscine Molitor Patel thì là chuyện khác.

Nhiều người tưởng đó là P. Singh (1) và nghĩ tôi là người Sikh, và họ lấy làm lạ sao tôi ko đội khăn cuốn lên đầu.

Khi còn học Đại học tôi có đến Montreal 1 lần với mấy người bạn. Có 1 đêm đến lượt tôi fải đặt mua pizza. Tôi đã fát chán mỗi lần nghe giọng Pháp trên dây nói quát hỏi tên tôi là gì, nên khi người bán hàng hỏi: ''Thưa ông cho biết tính danh'', tôi nói ''I am who I am.'' (2) Nửa tiếng sau người ta mang hai cái pizza đến cho ong ''Ian Hoolihan''.

Sự thực là những người ta gặp có thể thay đổi cuộc đời ta, nhiều khi sâu sắc đến mức ta trở thành 1 người khác hẳn, kể cả chính cái tên của ta. Cứ xem thì thấy: Simon trở thành thánh Peter, ông thánh Matthew thì còn có tên là Levi, Nathaniel cũng là Bartholomew, Judas, ko fải Iscariot, sau này còn lấy tên là Thaddeus, Simeon thì đội tên Niger, Saul thì thành ra Paul. (3)

Tên lính La Mã của tôi đứng trong sân trường một sáng nọ khi tôi 12 tuổi (4). Tôi vừa mới đến. Hắn thấy tôi và một tia sáng thiên tài ma quỉ chợt lóe lên trong cái trí não đần độn của hắn. hắn giơ tay chỉ vào tôi và hét lên: ''Này là thằng Pissing Patel!'' (5)

Trong giây láy mọi người đều cười váng lên. người ta chỉ thôi cười khi đã xếp hàng vào lớp. Tôi đi cuối hàng, vòng gai nhọn thít trên đầu. (6)
Chẳng ai lạ gì tính tàn ác của trẻ con. Nào tôi có trêu chọc gì chúng, có làm cái gì khiến chúng fải để ý đến tôi đâu, mà sao khắp sân trường chỗ nào tôi cũng nghe thấy chúng hò hét, nào là ''Thằng Pissing đây rồi, tao fải đi đây'', rồi ''Mày đang đứng úp mặt vào tường thế kia, có fải mày là thằng Pissing ko hở?'', đại loại thế. Tôi chỉ biết rùm người một chỗ, hoặc fải tảng lờ như ko nghe thấy gì. Những tiếng hò hét ấy rồi cũng qua đi, nhưng nỗi đau đọng lại, như mùi khai của bãi nước đái đã khô.
Rồi đến lượt các thầy giáo. Chắc tại trời nóng quá. Càng về chiều, bài địa lí buổi sáng còn chắc gọn như ốc đảo bắt đầu nhão dài ra như sa mạc Thar; bài lịch sử, sinh động là thế lúc mở đầu nay cũng thành khô nẻ và bốc bụi; bài học toán, lúc đầu chính xác là thế, nay thành be bét lầy lội. trong cơn mệt mỏi buổi chiều, khi họ mãi dùng khăn tay lau mồ hôi trán và gát, các thầy quên cả cái âm hưởng đầy nước mắt trong cái tên của tôi, và bắt đầu vô tình xuyên tạc nó thậm tệ. Tôi có thể nghe thấy sự thay đổi trong cách fát âm có những uốn éo hầu như ko nghe thấy đc của họ. Tưởng chừng như lưỡi các thầy là các chiến binh đang fải cầm cương các cỗ chiến xa do bầy ngựa hoang kéo. Họ có thể fát âm rõ cái âm tiết đầu, âm ''Pit'', nhưng rồi vì nóng nực gia tăng, họ ko kiểm soát đc lũ ngựa sùi bọt mép kia và ko thể kiềm cương để chúng leo lên cái âm tiết thứ 2, âm ''Xin''. Thế là họ đâm nhào xuống âm ''Xinh'', và thế là hết. Mỗi lần tôi giơ tay xin fát biểu, họ sẽ bảo ''Nào, mời em Pit-xinh.'' Phần lớn họ cũng chẳng biết vừa gọi tôi là gì nữa. Sau 1 lúc ko thấy tôi nói năng gì, họ sẽ ném vào tọi 1 cái nhìn mệt mỏi. Và nhiều khi, như thể kiệt sức vì nóng nực, cả lớp cũng chẳng có phản ứng gì. Ko ai cười, chẳng ai thì thào trêu ngươi gì hết. Thế mà tôi vẫn luôn luôn nghe thấy 1 cái gì đó như 1 lời miệt thị.

Năm cuối cùng ở trường Saint Joseph, tôi cảm thấy như mình là nhà tiên tri Mohammad đang bị hành hạ ở thành Mecca, cầu cho Ngài đc yên nghỉ. Nhưng cũng giống như việc Ngài chuẩn bị trốn về vùng Medina, chuyến du hành sẽ trở thành sự khởi đầu của thời đại Hồi giáo, tôi cũng chuẩn bị cho cuộc trốn chạy của mình và khởi đầu 1 giai đọan mới cho cuộc đời tôi.
============
Chú thích:
(1) piscine nghĩa là bể bơi trong tiếng Pháp, và fát âm là ''pít-xin''. Nhưng nhiều người nghe thành ''pi-xinh'' (P. Singh), là tên 1 họ phổ biến của người Sikh tại Ấn Độ. Rắc rối nhất là khi người ta gôi nhân vật của chúng ta là ''pít-xinh'', âm của chữ pissing trong tiếng Anh, nghĩa là ''đang đi đái, đi tiểu tiện''
(2) ''I am who I am'' - ''Tôi là cái thằng tôi'', fát âm là ''ai-em-hu-ai-em'', và người bán hàng nghĩ đây là âm thanh của tên ''Ian Hoolihan'' cũng có âm thanh tương tự. Montreal là vùng dân cư Cananda nói tiếng Pháp, nên việc nghe nhầm các âm thanh trong tiếng Anh là rất dễ xảy ra.
(3) Tất cả những tên này là của các môn đồ của Chúa Jesus, lúc chưa đi theo Jesus thì có 1 tên, khi đã thành môn đồ thì đc đặt tên khác, rồi khi hiển thánh thì lại có tên khác nữa.
(4) Nhân vật của chúng ta có ý ví mình với Jesus một cách hài hước. Jesus bị lính La Mã bắt và đưa đi đóng đanh câu rút với 1 cái biển đề giễu cợt ''tên này là vua của dân Do Thái đây''
(5) Cũng như thể là ''Này là thằng Patel đái dầm'', hoặc ''Patel đang tè'', chữ pissing nghĩ là ''đang đái''
(6) Jesus bị lính La Mã đội lên đầu 1 vòng gai nhọn, riễu cợt là ''mũ triều thiên'' của ''Vua Do Thái''. Câu này ám chỉ Patel cảm thấy đau đớn cũng như đội vòng gai nhọn của Jesus.

Học xong ở trường Saint Joseph, tôi vào trường petit Seminaire, trường trung học tư thục dùng tiếng Anh tốt nhất ở Pondicherry. Ravi đang học ở đó, và như số fận của tất cả các đứa em trai khác, tôi fải chịu cực hình của việc noi theo dấu chân của 1 ông anh nổi tiếng. Ravi là 1 nhà thể thao của thế hệ anh tại Petit Seminaire, một tay bowler (1) đáng sợ và 1 tay bóng chày khiếp đảm, giữ chân thủ quân của đội tuyển bóng chày hay nhất thành phố. Việc tôi là 1 tay bơi cừ khôi chẳng gây được tiếng tăm gì hết. Hình như có 1 thứ quy luật là sống ở biển thì người ta nghi ngờ những ai biết bơi, cũng như sống ở núi thì người ta nghi ngờ những ai biết trèo. Nhưng tôi ko tính đến việc trốn chạy bằng một cái tên nào khác với ''Pit-xinh'', thậm chí đội tên ''Em thằng Ravi'' cũng xong. Tôi có 1 kế hoạch hay hơn thế.

Và tôi triển khai nó ngay ngày đầu ở trường, ngay trong tiết học đầu tiên. Ngồi quanh tôi là những học sinh khác cũng từ Saint Joseph đến. Tiết học bắt đầu như tất cả các tiết học mới khác, nghĩa là bằng việc điểm danh. Chúng tôi lần lượt xướng tên mình tại chỗ.

''Ganapathy Kumar,'' Ganapathy Kumar nói.
''Vi pin Nath'', Vipin Nath nói.
''Shamshool Hudha'', Shamshool Hudha nói.
''Peter Dharmaraj'', Peter Dharmaraj nói.
Mỗi cái tên xướng lên là 1 cái đánh dấu vào danh sách, kéo theo một cái nhìn chòng chọc của ông thầy. Tôi hồi hộp khủng khiếp.
''Ajith Giadson'', Ajith Giadson nói, cách tôi bốn bàn...
''Sampath Saroja'', Sampath Saroja nói, cách ba bàn...
''Stanley Kumar'', Stanley Kumar nói, còn có hai bàn...
''Sylvester Naveen'', Sylvester Naveen nói, ngay trước mặt tôi.
Rồi đến lượt tôi. Đã đến lúc giết quỷ Satan. Medina hỡi, ta đến đây rồi.
Tôi đứng dậy và bước vội lên bảng đen. Trước khi ông thầy kịp mở miệng, tôi đã nhặt cục phấn và vừa nói vừa viết:
Tên tôi là
Piscine Molitor Patel
Thường gọi là

tôi gạch đít 2 lần hai chữ đầu tiên của tên tôi
Pi Patel

Để cho chắc ăn, tôi viết thêm:
Pi = 3,14

rồi tôi vẽ 1 vòng tròn to tướng, chia 1 nhát thành 2 fần với 1 đường kính thẳng băng, để nhắc đến bài hình học cơ bản.

Cả lớp im phăng phắc. Ông thầy dán mắt lên bảng. Tôi nín thở. rồi ông nói: ''Được rồi, Pi, em ngồi xuống. Lần sau fải xin phép trước khi lên bảng.''
''Thưa thầy, vâng ạ.''
Ông đánh dấu tên tôi. Rồi đưa mắt đến thằng tiếp theo.
''Mansoor Ahamad'', Mansoor Ahamad nói.
Tôi thoát rồi.
''Gautham Selvaraj'', Gautham Selvaraj nói.
Tôi thở được rồi.
''Arun Annaji'', Arun Annaji nói.
Một sự khởi đầu mới đã đến.

Tôi làm lại cái trò ấy với tất cả các thầy giáo. Lặp đi lặp lại là điều wan trọng trong việc huấn luyện ko những với súc vật mà cả với con người. Xen giữa 2 thằg học sinh mang những cái tên tầm thường, tôi chạy ào lên bảng và bốc lửa, có khi còn nghe thấy cả tiếng phấn ken két trên bảng, với những chi tiết của cuộc tái sinh cho chính mình. Đến nỗi sau một vài lần như thế, bọn trẻ bắt đầu vào hùa như hát theo sự chỉ huy của tôi, và tiếng chúng vang lên cao trào khi tôi gạch đít cái nốt chính, và tên tôi đc hát lên đẹp đẽ chẳng kém gì niềm vinh hạnh cho bất kì 1 nhà chỉ huy đồng ca nào khác. Một vài thằng còn theo sát tôi, khẩn trương, ''Ba! Phẩy! Một! Bốn!'' trong lúc tôi viết con số ấy, và tôi kết thúc bài ca của mình bằng 1 nét chém chia đôi vòng tròn, mạnh mẽ đến nỗi vụn fấn bay ra tứ tung.

Ngày hôm đó, khi tôi giơ tay xin fát biểu, và tôi ko bỏ sót 1 cơ hội nào để làm việc đó, các thầy đã cho fép tôi đc nói với 1 âm tiết duy nhất vang lên như âm nhạc trong tai tôi. Kể cả lũ quỷ sứ từ Saint Joseph sang. Sự thực là, cái tên ấy sống rồi. Và hiện tượng này đã khích lệ các thành viên khác của dân tộc thông minh chúng tôi: chẳng mấy chốc, một thằng tên là Omprakash đã tự gọi mình là Omega, một thằng khác bắt đầu đội tên Upsilon, rồi tiếp theo đó là 1 thằng Gamma, 1Lambda và 1 Delta. Nhưng tôi đã là người đầu tiên và là người Hy Lạo kiên trì nhất ở Petit Seminaire. Thậm chí ông anh tôi, thủ quân đội bóng chày, ông thánh địa phương, cũng tán thưởng tôi. Ravi kéo tôi ra 1 chỗ:

''Này, tao nghe mày mới có tên hiệu gì đó hả?''
Tôi lặng im. Bởi vì hễ fải nghe 1 lời giễu cợt thì kiểu gì cũng chẳng ngăn chặn nó đc. Ko thể chạy đi đâu đc.
''Tao ko biết là mày thích màu vàng đến thế.''
Màu vàng? Tôi nhìn quanh. Lạy trời đừng ai nghe thấy, nhất là bọn tay sai của Ravi. ''Ravi, anh định nói gì cơ?'' Tôi thì thầm.

''Ko sao, chú em. Tên gì thì cũng hơn là Pit-xinh. Kể cả Lemon Pie''. (2)
Chậm rãi quay gót, Ravi mỉm cười và nói: ''Mày hơi đỏ mặt rồi đấy.''
Nhưng ko gậy sự gì khác.

Và thế là, trong cái con chữ Hy Lạp trông giống như 1 cái lều có mái tôn ấy, trong cái con số phi lí, ko nắm bắt đc, mà các nhà khoa học dùng để tìm hiểu vũ trụ ấy, tôi đã tìm thấy nơi ẩn nấp của mình.

Chú thích: (ở trên)
(1) Bowler: môn bóng lăn trong nhà rất fổ biến ở Âu Mỹ.
(2) Lemon Pie, có nghĩa là 1 món bánh nướng có chanh yên. Lemon là quả chanh có màu vàng. Chữ p trong tiếng Anh thường đọc là ''pai''. Ravi có lẽ nghe gà hóa cuốc và tưởng rằng em mình đã có biệt hiệu như vậy. Chương này có ý vị đặc biệt đvới người nói tiếng Anh, hy vọng cách dịch này ko để mất mát nhiều những ẩn ý tôn giáo và hài hước của nguyên tác.

Cốm
13-03-2008, 02:25 PM
CHƯƠNG 6:

Anh là 1 người nấu ăn giỏi. Căn nhà luôn sưởi ấm quá mức của anh lúc nào cũng sực nức mùi thức ăn hấp dẫn. Giá để gia vị của anh trông giống như tủ thuốc của 1 nhà bào chế. Khi anh mở tủ lạnh hoặc chạn thức ăn, có nhiều nhãn hiệu mà tôi ko hiểu gì cả, thậm chí ko biết chúng là tiếng nước nào. Anh nấu các món Âu Mỹ cũng thành thạo như các món Ấn Độ. Anh làm cho tôi món mỳ ống pho-mát ngon và tinh tế chưa từng thấy. Món bánh tráng kẹp nhân rau chay anh làm có thể là nỗi ghen tị của cả xứ Mexico.
Tôi còn để ý thấy 1 điều: chạn thức ăn của anh đầy oặp. Ngăn nào, khoang nào cũng chất hàng núi các loại hộp và gói giấy. Một kho lương thực có thể sống qua cuộc phong tỏa Leningrad.
CHƯƠNG 7

Tôi có cái may được học 1 số thầy giáo giỏi trong thủa thiếu thời, những người này, cả đàn ông và đàn bà, đã thâm nhập vào cái đầu tôi và đánh lên 1 que diêm. Một trong số họ là ông Satish Kumar, thầy dạy môn sinh học ở trường Petit Seminaire và là 1 người cộng sản tích cực luôn hy vọng Tamil Nadu sẽ thôi bầu các minh tinh màn bạc lên nắm chính quyền và theo gương xứ Kerala. Ông có bề ngoài rất đặc biệt. Đỉnh đầu ông hói và nhọn lại có những ngấn sệ dưới cằm rất kì, rồi đôi vai hẹp chạy xuôi xuống cái bụng khổng lồ như cái chân núi, chỉ tội là quả núi ấy lại lơ lửng trên ko, vì cái bụng fệ đột ngột biến mất theo chiều ngang vào hai cái ống quần. Điều bí ẩn đối với tôi là ko biết d8ôi chân khẳng khiu ấy chống đỡ cái khối nặng thân hình ông bằng cách gì, nhưng chúng đỡ được, mặc dù đôi lúc chúng chuyển động rất lạ, như thể 2 đầu gối ông cứ cong ra cong vào theo các hướng khác nhau. Cơ thể ông cấu tạo theo kỉ hà học: trông ông như 2 tam giác, cái nhỏ cái to, thăng bằng trên 2 đường kẻ song song.Nhưng sinh động, còn sần sùi là đằng khác, với những túm lông đen tua tủa đâm ra từ hai lỗ tai. Và thân thiện. Nụ cười ông dường như chiếm hết đáy của cái đầu hình tam giác.

Ông Kumar là người vơ thần nhiệt thành đầu tiên mà tôi từng biết. Tôi phát hiện điều này ko fải trong lớp học mà là ở vườn thú. Ông ta là vị khách thường xuyên, là người đọc kĩ hết các bảng mô tả và khâm fục tất cả các con vật mà ông đã thấy. Với ông, con vật nào cũng là một chiến thắng của logic và cơ giới, và thiên nhiên nói chung là 1 minh họa tuyệt hảo của khoa học. Trong tai ông, khi 1 con vật cảm thấy động lực giao phối, nó nói ''Gregor Mendel'', nhắc đến bị cha đẻ của ngành di truyền học, còn khi đến lúc khoe lông khoe sức của mình thì là ''Charle Darwin'', cha đẻ của thuyết chọn lọc tự nhiên, và những gì mà chúng ta coi là những tiếng hí, gầm, rú, rít, khịt, hót, hét... thì với ông là những âm hưởng của các ngoại ngữ thật sự. Khi ông Kumar đến thăm vườn thú, đó là để bắt mạch vũ trụ, và trí khôn thăm dò của ông luôn luôn khẳng định với ông rằng mọi vật có trật tự, rằng mọi vật là trật tự. Ông rồi vườn thú với cảm giác được tươi mới trở lại 1 cách khoa học.

Lần đầu tiên tôi thấy khuôn hình tam giác của ông đang thao thao bất tuyệt về vườn thú, tôi ko dám đến gần ông. Tôi ưa thích ông trong tư cách 1 thầy giáo bao nhiêu thì tôi cũng e dè ông như thần dân đối với quan phụ mẫu bấy nhiêu. Quả thật tôi có sợ ông chút ít. Tôi quan sát ông từ xa. Ông đã vừa đi đến chỗ hố nuôi tê giác. Hai con tê giác Ấn Độ là trung tâm thu hút khách đến xem nhờ có lũ dê. Tê giác là loài vật cần có giao tiếp xã hội. Khi chúng tôi có được Peak, 1 con tê giác đực còn non, nó có biểu hiện buồn chán vì bị cách ly và ngày càng bỏ ăn. Trong khi chưa tìm được 1 con tê giác cái, cha tôi muốn áp dụng 1 biện fáp tức thời và nghĩ đến việc thử xem Peak có chịu sống chung với 1 bầy dê hay ko. Nếu nó chịu, chúng tôi sẽ cứu được 1 con vật quý. Còn ko thì cũng chỉ mất 1 vài con dê. Thật tuyệt vời. Peak và bầy dê ko rời nhau nửa bước, ngay cả khi có Summit về sống cùng. Lúc bấy ngờ, khi cặp tê giác tắm dười nước thì bầy dê đứng xung quanh mép hồ, còn khi dê ăn ở góc của chúng, Peak và Summit đứng ngay cạnh như thể canh gác cho bạn. Dân chúng đi xem rất khoái cảnh chung sống này.

Ông Kumar ngẩng lên và thấy tôi. Ông mỉm cười, 1 tay vịn hàng rào, tay kia vẫy tôi lại gần.

'''' Chào Pi,'''' ông nói.
''''Chào thầy ạ. Thầy đến thăm vườn thú thế này thật tốt quá.''''
''''Tôi vẫn thường đến mà. Có thể nói đây là ngôi đền của tôi. Thật là thú vị kìa...'''' Ông đang nói về đám tê giác và dê. ''''Nếu chúng ta có các nhà chính trị như những con dê và tê giác kia, đất nước sẽ đỡ linh tinh lắm. Ko may là chúng ta lại có 1 ngài thủ tướng có đủ hết bộ giáp trụ của tê giác nhưng thiếu hết những ý thức tốt đẹp của nó.''''

Tôi có biết gì nhiều về chính trị đâu. Cha với mẹ tôi luôn luôn fàn nàn về bàn Gandhi, nhưng chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với tôi. Bà Gandhi sống mãi tận miền Bắc, đâu có ở trong vườn thú mà cũng chẳng ở Pondicherry. Dù sao tôi thấy mình cũng fải nói cái gì đó.

''''Tôn giáo sẽ cứu chúng ta,'''' tôi nói. Từ khi tôi có trí nhớ, tôn giáo đã rất gần gụi trong tôi.

''''Tôn giáo?'''' Ông Kumar cười ngoác miệng. ''''Tôi ko tin vào tôn giáo. Tôn giáo là tăm tối.''''

Tăm tối? Thật khó hiểu. Tôi nghĩ ko thể thế được. Tôn giáo là ánh sáng. Liệu ông ta có đang thử tôi ko đây? Liệu ông có đang nói ''''Tôn giáo là tăm tối'''' theo kiểu đôi khi ông nói ở trên lớp, ví dụ như ''''Các loài có vú đẻ trứng'''', chỉ cốt để xem có ai bẻ lại ko mà thôi.

''''Ko có lí do gì để đi quá cách giải thích của khoa học và ko có lí lẽ lành mạnh nào để tin vào bất kì cái gì ngoài những trải nghiệm giác quan của chúng ta. Chỉ cần 1 đầu óc sáng sủa 1 chút, 1 ý thức quan sát các chi tiết và 1 chút hiểu biết khoa họa cũng đủ lột trần tôn giáo như 1 thứ dị đoan vô bổ. Ko làm gì có Thượng đế.''''

Có đúng là ông ấy nói vậy ko? Hay là tôi đang nhớ lại những lời của các nhân vật vô thần khác về sau này? Dù sao những lời ấy cũng là 1 cái đó. Trước đấy, tôi chưa bao giờ nghe những thứ tương tự như thế.

''''Tai sạo fải chịu đựng tăm tối. Mọi vật đều ở ngay đây, rõ ràng, chỉ cần ta nhìn cho cẩn thận.''''

Ông chỉ con Peak. Ấy, dù tôi vẫn rất khâm phục Peak, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng 1 con tê giác cũng là 1 cái bóng đèn sáng.

Ông nói tiếp: ''''Có người nói Thương đế đã chết trong thời chia cắt đất nước ta hồi 1947. Ông ấy cũng có thể đã chết trong chiến tranh nằm 1971. Hoặc qua đời ngay hôm wa thôi trong 1 trại mồ côi ở Pondicherry này. Đấy là những gì người ta nói, Pi ạ. Khi tôi bằng tuổi em, tôi sống trên giường, mắc bệnh bại liệt. Ngày nào tôi cũng hỏi, ''''Thượng đế ở đâu? Thượng đế ở đâu? Thượng đế ở đâu?'''' Thượng đế chẳng bao giờ đến. Ko fải Thượng đế cứu sống tôi, mà là y học. Lí trí là nhà tiên tri của tôi và nó bảo tôi rằng khi chiếc đồng hồ ngừng chạy, là chúng ta chết. Là hết. Nếu chiếc đồng hồ ko chạy tốt, fải chữa nó ngay. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chiếm hữu được các công cụ sản xuất và sẽ có công lý trên trái đất này.''''

Điều đó hơi quá đối với tôi. Giọng nói thì vừa phải - có tình và can đảm - nhưng các chi tiết có vẻ nhợt nhạt. Tôi lặng thinh. Ko fải vì sợ fật lòng ông Kumar. Điều tôi sợ hơn là trong 1 vài lời thôi ơng có thể sẽ fá hủy hết những gì tôi đã yêu. Nhỡ những lời ông nói lại khiến cho tôi mắc bệnh bại liệt thì sao nào? Căn bệnh đó hẳn fải khủng khiếp lắm vì nó có thể giết chết cả Thượng đế trong lòng 1 con người.

Ông bước đi, khập khà khập khiễng trên mặt biển hoang dại vốn chỉ là mặt đất yên ổn dưới chân. ''''Đừng quên bài kiểm tra ngày thứ Ba nhé. học cho tốt, 3.14 nhé!''''
''''Vâng, thưa thầy Kumar.''''

Ông trở thành thầy giáo tôi ưa thích nhất ở Petit Semiraire và là lí do khiến tôi theo học ngành động vật học Toronto. Tôi cảm thấy có mối thân tình với ông. Đó là cái đầu mối tiên khởi cho tọi hiểu rằng những người vô thần là anh chị em có 1 niềm tin khác của tôi, rằng mỗi lời họ nó đều là những lời nói của niềm tin. Cũng như tôi, họ đi đến tận cùng trên đôi chân của lí trí - rồi cất bước nhảy theo lòng tin.

Tôi phải trung thực về chuyện này. Những người vô thần ko làm tôi khó chịu, mà là những kẻ hoài nghi. Tính hoài nghi cũng có công dụng, nhưng cho 1 lúc thôi. Chúng ta ai cũng fải qua chỗ Đồi Sọ (1). Nếu Đấng Christ còn fải chơi với hoài nghi, thì chúng ta tất cũng đều fải vậy. Nếu Đấng Christ đã fải qua 1 đêm cầu nguyện khẩn thiết trong đau khổ, nếu Người đã kêu lên trên thập giá: ''''Cha ơi, Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ con?'''', thì tất nhiên chúng ta ai cũng có quyền nghi hoặc. Nhưng chúng ta fải bước tới. Lấy hoài nghi làm triết lí sống ở đời thì cũng như lấy sự bất động làm phương tiện giao thông vậy.
====
Chú thích:
(1): Đồi Sọ, nguyên văn Gethsemane, (theo bản dịch Tân Ước của Phan Khôi) là tên quả đồi nơi Jesus ẩn trốn và cầu nguyện trước khi bị quân La Mã bắt.

Cốm
13-03-2008, 02:28 PM
CHƯƠNG 8

Trong nghề nghiệp chúng tôi thường nói rằng con vật nguy hiểm nhất trong 1 vườn thú là người. Theo nghĩa rộng, chúng tôi hàm ý rằng tính cách ăn thịt lẫn nhau quá đáng của giống loài chúng ta đã biến toàn thể hành tinh này thành 1 con mồi của loài người. Theo nghĩa cụ thể, chúng tôi muốn chỉ những người vẫn cho rái cá ăn lưỡi câu, cho gấu ăn dao cạo, cho voi ăn táo có đinh nhọn ở trong, và cho tất cả các con vật khác ăn đủ các loại đồ vật: bút bi, cặp giấy, đinh ghim, dây cao su, lược, thìa cà phê, móng ngựa, thuỷ tinh vụn, nhẫn, trâm cài đầu và các đồ trang sức khác (ko fải chỉ có các đồ nhựa rẻ tiền đâu, mà cả nhẫn cưới = vàng nữa kìa), rồi thì ống uống nước, dao đĩa nhựa, bóng ping-pong, bóng tennis, vân vân và vân vân. Danh sách khai tử các con vật trong vườn thú vì bị cho ăn các đồ vật như thế bao gồm khỉ độc, bò rừng, cò, vạc, đà điểu, hải cẩu, hải sư, hổ báo, gấu, lạc đà, voi, khỉ, và hầu hết các loài hươu nai, chuột bọ và chim chóc. Trong giới quản lí vườn thú, cái chết của Goliath là câu chuyện ai cũng biết. Đó là 1 con hải cẩu đực, 1 con vật lớn, đẹp, nặng hơn 2 tấn, minh tinh của 1 vườn thú châu Âu nơi nó trú ngụ, được tất cả khách thăm yêu mến. Nó chết vì bị chảy máu nội tạng sau khi có người cho nó ăn 1 chai bia vỡ.

Sự độc ác còn tích cực và trực tiếp hơn thế nữa. Có rất nhiều các tường trình về hiện tượng tra tấn hành hạ các con vật trong vườn thú: 1 con cò mỏ hình giầy chết vì choáng sau khi mỏ nó bị người ta dùng búa đập dập nát; 1 con hươu thuần lộc bị người ta dùng dao lột bộ râu, kéo theo cả 1 dẻo da thịt (con thuần lộc này 6 tháng sau thì bị đầu độc mà chết); 1 con khỉ thò tay ra nhận hột lạc người ta dử cho thì bị bẻ gẫy ngay cánh tay đó; 1 con hươu có sừng bị người ta dùng cưa mà cưa mất; 1 con ngựa vằn bị đâm = kiếm; và còn biết bao chuyện tấn công các con vật bằng ba-toong, cán ô, cặp tóc, kim đan, kéo và đủ thứ khác, thường với mục đích muốn móc mắt con vật hoặc làm bị thương bộ phận sinh dục của chúng. Súc vật thường xuyên bị đánh thuốc độc. Và còn những chuyện ghê tởm kì dị khác nữa: bọn dâm vật cưỡng hiếp khỉ, ngựa non, chim; một kẻ cuồn tín cắt đầu 1 con rắn; 1 kẻ điên tìm bằng được cơ hội đái vào mồm 1 con hươu Bắc cực.
Chúng tôi tương đối may mắn, ở Pondicherry. Chỗ chúng tôi ko có những người mắc chứng sadic (1) như bên châu Âu và châu Mỹ. Tuy nhiên con điêu thử lông vàng của chúng tôi biến mất tăm. Cha tôi nghi nó bị ai đó bắt ăn thịt. Nhiều chim trĩ, công, vẹt bị người ta vặt lông. Chúng tôi tóm được 1 người mang dao đang trèo vào trại nuôi hươu, người ấy nói ông ta muốn trừng fạt tên Ravana độc ác (là nhân vật trong trường ca Ramayana, biến thành 1 con hươu để bắt cóc Sita, nàng hầu của Rama). Một người khác thì bị bắt quả tang khi đang bắt trộm 1 con rắn hổ mang. Ông là người thổi kèn rắn vừa chết mất con hổ mang của mình. Cả 2 đều được cứu thoát: con hổ mang thì khỏi bị cuộc sống nô lệ và thứ nhạc tồi tệ kia, còn người ấy thì khỏi toi mạng vì hổ mang cắn. Chúng tôi còn fải đối phó với những người mém đá thường muốn khiêu khích cho súc vật fải động cựa lên. Và chúng tôi còn có 1 bà mệnh fụ fu nhân mà áo dài lụa bị 1 con sư tử ngoạm fải. Bà ta bị quay như 1 con quay yo-yo, thà thoát y còn hơn chết. Mà nào có fải tai nạn cho cam. Bà ấy đã thò cả cánh tay vào chuồng sư tử và vẫy vẫy tà áo dài trước mặt mãnh sư, không biết để làm gì. Bà ấy ko sao hết. Rất nhiều các ông lao đến giúp bà. Với cha tôi, bà ấy bảo: ''Ai đời sư tử mà lại thích ăn váy áo cơ chứ. Tôi cứ tưởng chúng chỉ là loài ăn thịt.'' Gây rắc rối tồi tệ nhất là đám khách hay thích cho súc vật thức ăn. Mặc dù sự cảnh giác của chúng tôi, bác sĩ thú y Atal của vườn, có thể dùng con số những con vật mắc chứng rối loạn tiêu hóa để minh họa cho những ngày bận rộn của ông ở vườn thú. Ông gọi chung tất cả các loại bệnh tiêu hóa này bằng 1 từ riêng của ông - ''tidbit-itis'' - mà fần lớn là do quá nhiều carbonhydrad và đường. Đôi khi chúng tôi ước gì họ chỉ dùng đường thôi thì còn đỡ. Người ta tưởng các con vật có thể ăn bất kỳ thứ gì cũng chẳng ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng. Đâu fải thế. Một con culi của chúng tôi bị ốm nặng với chứng viêm ruột chảy máu sau khi ăn 1 con cá thiu do 1 người nhét cho, mà người này nhất định tin rằng ông ta chỉ làm tốt cho con vật mà thôi.

Ngay sau quầy bén vé, cha tôi cho kẻ 1 dòng chữ sơn đỏ lên tường: ''Đố quí vị biết trong vườn thú con vật nào là nguy hiểm nhất?'' Một mũi tên chỉ về 1 tấm rèm nhỏ. Đã có biết bao nhiêu bàn tay tò mò háo hức kéo tấm rèm đó, đến nỗi chúng tôi thường xuyên phải thay cái mới. Đằng sau nó là 1 tấm gương.
Nhưng tôi đã fải vất vả mới biết được rằng cha tôi còn tin là có 1 con vật nữa nguy hiểm hơn cả chúng ta, 1 con vật cực kì phổ biến, lục địa nàoi cũng có, địa bàn nào cũng có: đó là loài Animalus anthropomorphicus (2), con vật mà chỉ có mắt người mới nhìn thấy. Chúng ta ai cũng gặp 1 con này, có khi còn sở hữu 1 con là đằng khác. Nó là con vật ''xinh xắn'', ''đáng yêu'', ''vui vẻ'', ''thân thiết''... Chúng rình rập trong tất cả các cửa hàng đồ chơi và vườn thú của trẻ con. Biết bao chuyện về chúng cơ chứ. Chúng là đồ trang sức lủng lẳng trên cổ các con vật ''đồi trụy'', ''xấu xa'', ''khát máu'' đã xui khiến nên các cơn khùng của lũ điên mà tôi vừa kể ở trên, lũ người muốn làm hài lòng chúng bằng ba-toong và cán ô. Trong cả hai trường hợp, chúng ta nhìn vào 1 con vật và thấy 1 tấm gương. Tâm lý bệnh hoạn luôn muốn đặt mình vào trung tâm của mọi vật là 1 ngón thuốc độc chết người ko những của các nhà thần học mà của cả những nhà động vật học nữa.
====
Chú thích:
(1): Chứng bệnh tâm lý tìm khoái cảm khi làm người khác đau
(2): Chữ Latinh, nghĩa là ''con vật mang hình người''

Tôi đã học được bài học rằng một con vật là một con vật, cơ bản và thực tế là khác hẳn chúng ta, những hai lần: một lần với cha tôi, và một lần với Richard Parker.

Đó là một buổi sáng Chủ Nhật. Tôi đang tha thẩn chơi một mình thì cha tôi gọi.

“Các con, hãy ra đây.”
Có chuyện gì rồi. Giọng nói của cha làm reo một cái chuông báo động tí tẹo trong đầu tôi. Tôi vội kiểm điểm lại lương tâm. Không có gì cả. Chắc hẳn phải là Ravi thôi. Không biết Ravi có chuyện gì đây. Tôi bước vào phòn gkhách. Mẹ ở đó. Không bình thường chút nào. Việc kỷ luật con cái, cũng giống như việc chăm sóc súc vật, thường chỉ là việc của cha. Ravi vào cuối cùng, mặt đầy vẻ tội lỗi.

“Ravi, Piscine, cho có một bài học rất quan trọng cho các con hôm nay.”
“Ôi, có thực cần thiết không mình?” Mẹ nói. Mặt mẹ ửng đỏ.

Tôi nuốt nước bọt. Nếu mẹ, thường bình tĩnh và thản nhiên là thế, mà bây giờ có vẻ lo lắng đến độ bực bội thế kia, thì có nghĩa là có chuyện gì nghiêm trọng thật rồi. Tôi và Ravi lén nhìn nhau.

“Có. Rất cần.” Cha nói, có vẻ khó chịu. “Bài học này có thể sẽ cứu mạng sống của chúng.”

Cứu mạng sống của chúng tôi! Cái chuông báo động trong đầu tôi không còn bé tí tẹo nữa, nó trở thành quả chuông khổng lồ, giống như quả chuông của ngôi nhà thơ Tâm Thiêng của Giáo hội Jesus mà chúng tôi vẫn nghe thấy, không xe vườn thú là mấy.

Mẹ vẫn chưa chịu: “Piscine? Nó mới lên tám.”
“Nó là đứa mà tôi lo lắng nhiều nhất.”
“Con vô tôi!” Tôi òa lên. “Lỗi ở anh Ravi hết, gì cũng là lỗi của anh ấy hết ạ!”
“Cái gì?” Ravi kêu. “Con có làm cái gì sai trái đâu cơ chứ.” Rồi anh nhìn tôi hằn học.
“Lặng im nào!” Cha tôi nói, giơ tay lên. Cha đang nhìn thẳng vào mẹ. “Gita, em đã thấy Piscine rồi đấy. Nó đang tuổi với bọn nhóc suốt ngày loăng quăng và thọc mũi vào khắp mọi nơi.“

Tôi ư? Một thằng loăng quăng? Một thằng thọc mũi vào khắp mọi nơi? Đâu có phải thế? Không phải thế! Mẹ ơi, hãy bảo vệ con đi mẹ, tôi khẩn khoản trong lòng. Nhưng mẹ chỉ thở dài và gật đầu, dấu hiệu cho thấy cái việc khủng khiếp kia sẽ được thi hành.
"Đi theo cha.“

Chúng tôi đi như một bọn tử tù ra pháp trường.
Chúng tôi ra khỏi nhà, bước qua cổng, vào vường thú. Hãy còn sớm và vườn thú còn chưa mở cửa cho công chúng vào.

Những người coi thú và làm vườn đang làm các công việc của họ. Tôi thấy Sitaram, người trông nom bọn khỉ độc, người tôi có cảm tình nhất. Anh đang dừng tay đưa mắt nhìn theo chúng tôi. Chúng tôi đi qua khu chuồng chim, gấu, khỉ độc, khỉ con, tê giác, voi, hươu cao cổ. Chúng tôi đến chỗ hổ, sư tử và báo hoa. Bubu, người chăm sóc chúng, đang chờ ở đó. Chúng tôi đi vòng xuống con đường quanh chuồng, và anh mở khóa cánh cửa dẫn vào chuồng, nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa hào nước. Chúng tôi bước vào. Đó là một cái hang xi-măng rộng và tối, hình tròn, nóng và ẩm, sặc mùi nước đái hổ. Khắp xung quanh là những chuồng lớn ngăn với nhau bởi những song sắt to vật sơn xanh lá cây. Một luồng ánh sáng vàng vọt lọt xuống từ những ổ cửa trên trần. Qua các lối ra của chuồng, chúng tôi có thể nhìn thấy cây cối trên đảo, tràn ngập ánh mặt trời. Các ngăn chuồng rỗng không – trừ một ngăn: Mashisha, con hổ Bengal đầu đàn của chúng tôi, một con vật dài rộng và to lớn, nặng gần hai tạ rưỡi, đang bị nhốt trong chuồng. Đúng lúc chúng tôi bước vào, nó đứng dựa vào các chấn song và bắt đầu gầm gừ rất sâu trong cổ, cặp tai nó ép sát vào đầu và đôi mắt tròn xoe dán chặt vào Babu. Tiếng gầm gừ của nó to và vang đến nỗi tưởng như làm cả khu chuồng rung lên. Đầu gối tôi bắt đầu run. Tôi nép vào mẹ. Mẹ cũng run. Ngay cha tôi cũng có vẻ đang trấn tĩnh lại. Chỉ có Babu vẫn tỉnh bơ như không trước tiếng gầm và cái nhìn xoáy vào anh ta như lưỡi khoan. Anh đã được thử thách để tin tưởng vào các chấn song sắt. Mashisha bắt đầu đi đi lại lại trong giới hạn của chuồng.

Cha quay sang chúng tôi. "Con vật gì đây?” Cha quát để át được tiếng gầm gừ của Mashisha.
“Dạ, con hổ ạ,” Ravi và tôi đồng thanh, ngoan ngoãn chỉ ra điều hiển nhiên không thể nhầm lẫn.
“Hổ có nguy hiểm không?”
“Thưa cha có ạ, hổ nguy hiểm ạ.”
“Hổ rất nguy hiểm,” cha hét lên. “Cha muốn các con hiểu rằng không bao giờ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, được chạm đến một con hổ, vuốt ve một con hổ, thò tay qua song sắt chuồng hổ, và ngay cả đến gần một cái chuồng hổ. Đã rõ chưa? Ravi?”
Ravi gật đầu lia lịa.
“Piscine?”
Tôi gật đầu còn lia lịa hơn.
Cha nhìn tôi chằm chặp.

Tôi gật đầu mạnh đến nỗi lấy làm ngạc nhiên sao chưa bị gẫy cổ và rơi đầu xuống sàn lúc đó.

Tôi muốn có vài lời tự bạch rằng, mặc dù tôi có thể đã nhân cách hóa các con vật đến mức chúng có thể nói trôi chảy được tiếng Anh, với đám chim trĩ than phiền bằng giọng quý phái Anh chính hiệu rằng trà của chúng nguội quá, và bọn khỉ đầu chó bàn bạc kế hoạch chạy trốn sau khi cướp nhà băng bằng giọng găng-tơ Mỹ đặc sệt, nhưng tôi lúc nào cũng tỉnh táo và ý thức được rằng đó chỉ là những huyễn hoặc mà thôi. Tôi hoàn toàn cố tình khoác cho những con vật hoang dã những bộ cánh hiền lành của trí tưởng tượng. Song tôi không bao giờ mụ mị đến hoang tưởng về bản chất thực của chúng. Cái mũi thọc mạch của tôi tỉnh táo hơn thế. Không hiểu sao mà cha tôi lại nghĩ rằng đứa con út của ông lại có thể ngứa ngáy đến mức bước chân vào chuồng một con thú dữ ăn thịt được kia chứ. Nhưng cho dù nỗi lo lạ lùng ấy của cha có nguồn gốc ở đâu đi nữa – mà cha là người cả lo – rõ ràng là ông đã quyết tâm phải trừ bỏ mối này trong buổi sáng hôm đó.

“Để cha cho các con thấy loài hổ nguy hiểm đến mức nào,” cha tiếp tục nói. “Cha muốn các con ghi nhớ bài học này suốt đời.”

Cha quay sang gật đầu với Babu. Babu đi ra. Mashisha đưa mắt nhìn theo anh ta và không chịu rời khỏi đầu của mà Babu vừa đi qua. Vài giây sau, Babu trở lại, vác theo một con dê đã trói hết chân vào với nhau. Mẹ ôm lấy tôi từ phía sau. Tiếng gầm gừ của Mashisha biến thành một tiếng tru ầm ào sâu tít bên trong cổ.

Babu mở khoá, mở cửa, bứơc vào, khép và khóa cửa một ngăn chuồng ngay cạnh chuồng Mashisha. Hai ngăn cách nhau bằng các sập cửa và các chấn song. Mashisha lập tức bám vào hàng chấn song đó, cào cấu chúng. Nó bắt đầu thêm vào tiếng gầm gừ kéo dài những tiếng hộc mạnh mẽ như có thuốc nổ. Babu đặt con bê xuống sàn; hai bên sườn con vật phập phồng dữ dội, lưỡi nó thè lè khỏi mỗi, và mắt nó trợn ngược. Babu cởi trói cho con dê. Nó đứng lên. Babu ra khỏi chuồng cũng thận trọng như khi vào. Ngăn chuồng đó có hai mức sàn, một mức ngang với chỗ chúng tôi đang đứng, một mức nữa ở phía sau, coa hơn độ một thước, dẫn ra phía ngoài đảo. Con dê lập cập trèo lên sàn trên. Mashisha, không để ý gì đến Babu nữa, chuyển động trong căn chuồng của nó theo bước đi của con dê trong một dáng điệu uyển chuyển như nước chảy. Nó phủ phục và nằm im, cái đuôi đung đưa chậm rãi là dấu hiệu căng thẳng duy nhất.

Babu bước lên chỗ cái cửa sập ngăn giữa hai căn chuồng và bắt đầu kéo nó lên. Biết là sắp được thỏa mãn, Mashisha im phăng phắc. Tôi nghe thấy hai thứ vào giây phút đó: cha nói: “Đừng bao giờ quên bài học này” trong khi ông nhìn lên một cách nghiêm nghị; và tiếng kêu be be của con dê. Chắc nó đã kêu lảnh lót như vậy ngay từ đầu, chỉ có điều đến lúc ấy tôi mới nghe thấy.
Tôi thấy bàn tay mẹ áp chặt lên chỗ tim tôi đang đập thình thịch.

Cái cửa sập kêu rít lên mấy tiếng. Mashisha không tự chủ được nữa – trông có vẻ như sắp nổ tung qua các chấn song sắt. Nó có vẻ lưỡng lự, không biết nên ở nguyên tại chỗ, gần chỗ con mồi nhất nhưng lại không thể với được tới, hay là chuyển xuống sàn dưới, xa con mồi hơn nhưng lại gần cái cửa sập hơn. Nó vươn người lại và bắt đầu gầm gừ.

Con dê bắt đầu nhảy. Nó nhảy cao lạ lùng. Tôi không ngờ dê lại có thể nhảy cao đến thế. Song phía sau căn chuồng là một bức tường xi măng cao và nhẵn nhụi.

Thình lình, cánh cửa sập nhẹ nhàng trượt lên. Rồi yên lặng trở lại, chỉ nghe tiếng con dê kêu và tiếng móng chân nó gõ liên hồi xuống sàn.
Một dòng thác màu đen và da cam chảy ào từ căn chuồng nay sang căn chuồng kia.

Bình thường, người ta không cho hổ báo ăn một ngày mỗi tuần, để mô phỏng theo điểu kiện sống của chúng ngoài hoang dã. Về sau chúng tôi được biết là cha đã ra lệnh bỏ đói Mashisha trong 3 ngày liền.

Không biết là tôi có nhìn thấy máu trước khi nhào vào lòng mẹ hay là tôi đã vẽ ra máu trong kí ức mình sau này bằng những nét bút lông to bè. Nhưng mà tôi nghe thấy. Đủ hãi hùng để thổi tắt ngấm những tia sáng của sự sống chỉ biết ăn chay ra khỏi linh hồn tôi. Mẹ lập cập ôm lùa chúng tôi ra khỏi đó. Chúng tôi sợ phát cuồng. Mẹ tức giận thật sự.


“Sao anh có thể thế được, anh Santosh? Chúng nó chỉ là trẻ con! Anh đã làm chúng sợ hãi đến hết đời!”
Giọng mẹ nóng giận và run rẩy. Tôi thấy cả nước mắt đọng trong mắt mẹ. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn.
“Gita, con chim nhỏ của anh, cũng là vì chúng mà thôi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Piscine thò tay qua chấn song chuồng hồ một ngày nào đó để vuốt ve bộ lông da cam đẹp đẽ kia? Thà mất con dê còn hơn, phải không nào?”
Giọng cha êm, gần như thì thầm. Trông cha rất căng thẳng. Cha chưa khi nào gọi mẹ là “con chim nhỏ của anh” trước mặt chúng tôi.

Anh em tôi quấn chặt lấy mẹ. Cha ôm lấy chúng tôi. Nhưng bài học chưa hết, mặc dù phần sau có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Cha dẫn chúng tôi tới chỗ sư tử và báo.

“Có một người mất trí ở Australia có võ karate đến hắc đai. Hắc ta muốn chứng tỏ sức mạnh của mình với sư tử. Hắn thua. Thậm tệ. Người ta chỉ tìm thấy một nửa thi thể của hắn vào sáng hôm sau.”
“Vâng, thưa cha.”
Đến bọn gấu Hymalaya và gấu culi.
“Chỉ một nhát cào của các con vật củ mỉ cù mì kia cũng đủ ruột gan các con lòi đầy mặt đất.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn hà mã.
“Với cá mõm mềm mại và mỡ màng kia, chúng sẽ nghiền nát thân thể các con thành một đống bầy nhầy. Lên cạn, chúng chạy còn nhanh hơn các con.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn linh cẩu.

“Những bộ hàm khoẻ nhất trong thiên nhiên. Đừng tưởng chúng hèn nhát hoặc chỉ biết ăn thịt chim chóc. Chúng không nhát và không ăn thịt chim! Chúng sẽ ăn ngay các con khi các con vẫn còn sống hẳn hoi.”
“Vâng, thưa cha.”

Bọn khỉ độc.
“Khỏe bằng mười người. Chúng bẻ xương các con như bẻ que. Cha biết vài con đã từng được nuôi chơi trong nhà và các con đã từng đùa rỡn với chúng khi chúng còn bé. Nhưng bây giờ chúng đã lớn, hoang dại và khó lường.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn đà điểu.

“Trông xơ xác và ngốc nghếch, phải không nào? Hãy nghe đây: chúng là một trong những loài vậy nguy hiểm nhất trong vườn thú. Chỉ một cú đá của chúng thôi là đủ bẻ gẫy xương sống xương sườn của con rồi.”
“Vâng, thưa cha.”
Bon hươu sao.

“Thật xinh đẹp, phải không nào? Nếu các đực cảm thấy cần thiết, nó sẽ tấn công các con và những nhánh sừng ngắn ngủi kia sẽ xuyên thủng các con như dao găm vậy.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn lạc đà Arập.

“Một miếng đớp của nó thôi là các con đi toi mảng thịt xương rồi.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn thiên nga đen.

“Với những cái mỏ kia, chúng sẽ bổ vỡ sọ các con. Và sẽ bẻ chân tay các con bằng những đôi cánh của chúng.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn chim lau nhau.
“Chúng sẽ cắt đứt ngón tay của các con bằng mỏ nhọn như thể tay các con là bơ vậy.”
“Vâng, thưa cha.”
Lũ voi.

“Con vật nguy hiểm nhất tất cả. Trong vườn thú voi là con vật đã giết chết nhiều người làm và khách tham quan nhất. Một con voi non sẽ có thể xé rời chân tay và giày xéo thân thể các con thành bẹp gí. Đó là số phận của một người là trong một vườn thú bên châu Âu, đã dám trèo vào chuồng voi qua một cửa sổ. Một con voi chín chắn hơn, bình tĩnh hơn, sẽ nghiền nát các con vào tường hoặc ngồi lên các con. Nghe thì buồn cười đấy - những hãy nghĩ mà xem!”
“Vâng, thưa cha.”

“Còn nhiều các con chúng ta không thể đến được. Đừng tưởng chúng vô hại. Sinh vật nào cũng biết tự vệ, không kể to nhỏ. Con vật nào cũng dữ tợn và nguy hiểm cả. Nó có thể không giết chết các con, nhưng chắc chắn sẽ làm các con thương tổn. Nó sẽ cào cấu, cắn xé và các con chỉ việc đợi đó để bị nhiểm trùng, sưng tấy và đầy mủ, rồi thì sốt cao và mười ngày trong bệnh viện.
“Vâng, thưa cha.”

Chúng tôi đến chỗ bọn chuột khoang, loài vật duy nhất bị cha tôi ra lệnh bỏ đói cùng với Mashisha. Chúng không được ăn bữa tối hôm trước. Cha mở khoá chuồng. Ông lấy ra một túi đồ ăn trong túi quần và dốc hết xuống sàn.
“Các con thấy những con chuột khoang này chứ?”
“Vâng, thưa cha.”

Các chú chuột run rẩy vì mệt khi chúng hối hả gậm nhấm những hạt ngô.
“Này, này… cha cuối xuống bế một con lên tay. Chúng không nguy hiểm đâu.” Đám chuột chảy tản ra ngay lập tức.

Cha cười. Ông đưa cho tôi con chuột khoang đang còn kêu lí nhí. Ông đã chuẩn bị cho bài học kết thúc một cách nhẹ nhàng.

Con chuột khoang căng thẳng nép mình trong cánh tay tôi. Một con còn non. Tôi bước đến chuồng và thận trọng đặt nó xuống sàn. Nó chạy vụt đến bên mẹ nó. Lí do duy nhất khiến những con chuột khoang này không gây nguy hiểm – nghĩa là không gây đổ máu bằng răng và móng của chúng – là chúng thực sự đã đựơc thuần hóa. Nếu không, túm một con chuột khoang hoang dã bằng đôi bàn tay trần sẽ giống như túm một con dao đằng lưỡi.

Bài học kết thúc. Ravi và tôi nín lặng và né tránh cha suốt một tuần. Mẹ cũng lờ cha đi. Khi tôi đi qua chỗ bọn tê giác, tôi tưởng tượng rằng chúng đang cúi đầu buồn bã vì đã mất một trong số những bạn bè thân thiết của chúng.

Nhưng biết làm sao được khi ta yêu quý cha? Cuộc sống cứ tiếp tục và ta đừng có mà chạm đến hổ. Chỉ trừ có chuyện là tôi đã trót đổ tội vu vơ cho anh Ravi sáng hôm đó và bây giờ thì coi như đã chết rồi. Trong nhiều năm sau, khi Ravi muốn khủng bố tôi, anh sẽ rít lên khe khẽ vào tận tai tôi, “Hãy cứ đợi cho đến khi chỉ còn mày với tao. Mày sẽ là con dê tiếp theo đấy!”

Cốm
13-03-2008, 02:30 PM
CHƯƠNG 9

Cốt lõi của nghệ thuật và khoa học coi sóc vườn thú là làm sao cho động vật quen với sự có mặt của người. Mục đích chính là rút ngắn khoảng cách bỏ chạy của con vật, cái cự li tối thiểu mà nó dám để cho đối tượng có thể là kẻ thù đến gần. Một con hồng hạc ngoài hoang dã sẽ không để ý đến ta nếu ta ở cách xa nó ba trăm mét. Vượt quá giới hạn đó là nó sẽ căng thẳng ngay. Lại gần nó một chút là nó sẽ bay khỏi chỗ đó cho đến khi khoảng cách ba trăm mét kia lại được lặp lại hoặc bay thẳng cho đến lúc kiệt sức. Mỗi loài vật có khoảng cách bỏ chạy khác nhau và chúng ước lượng khoảng cách đó theo các cách khác nhau. Hổ báo thì nhìn, hươu nai thì nghe, gấu ngửi. Hươu cao cổ sẽ cho phép ta đến gần chúng khoảng ba mươi mét nếu ta đi bằng ôtô, nhưng nếu ta đi bộ thì khoảng một trăm năm mươi mét là chúng bắt đầu bỏ chạy. Những con cua một càng chỉ để ta đến gần chúng khoảng mười mét; khỉ bạc má sẽ nháo nhác trên cành khi có ai ở cách chúng hai mươi mét; loài trâu nước Châu Phi phản ứng ở cự li bảy mươi mét.

Phương tiện để ta rút ngắn khoảng cách bỏ chạy là những hiểu biết của ta về con vật, là thức ăn và nơi ẩn nấp mà ta cho nó, và những biện pháp bảo vệ khác mà ta có thể áp dụng. Khi thành công, kết quả là ta có một con vật hoang yên tâm và thoải mái không những sẽ ở yên mà còn khoẻ mạnh, sống lâu, ăn uống ngoan ngoãn, hành xử và giao đãi một cách tự nhiên và hay nhất nữa là bắt đầu sinh con đẻ cái. Tôi không dám so sánh vườn thú của chúng tôi với vườn thú ở San Diego hoặc Toronto hoặc Berlin hay Singapore nhưng cũng không thể không tự hào về một vườn thú như thế. Cha tôi đã vào nghề một cách tự nhiên, như thể ông sinh ra để làm việc đó. Thiếu đào tạo chính quy, nhưng bù lại, cha có năng khiếu bẩm sinh và mắt nhìn sắc sảo. Cha có tài chỉ cần nhìn một con vật là có thể đoán được nó đang nghĩ gì. Cha chăm sóc chúng tận tình, và đáp lại, chúng sinh con đẻ cái, có con hơi nhiều quá là đằng khác.

CHƯƠNG 10

Ấy thế mà vẫn có những con vật tìm đường tẩu thoát. Những con bị nhốt trong các chuồng trại không thích hợp với chúng là những ví dụ rõ hơn cả. Con vật nào cũng có những nhu cầu ăn ở phải được đáp ứng đúng. Nếu chuồng nuôi quá nắng hoặc quá ẩm ướt hoặc quá trống trải, nếu cành đậu quá cao hoặc quá lộ liễu, nếu nền sàn quá nhiều cát, nếu quá ít cành để có thể làm tổ, nếu máng ăn quá thấp, nếu có quá ít bùn để đầm mình – và còn biết bao nhiêu những cái nếu như thế nữa – con vật sẽ không ở yên được. Vấn đề không phải là xây dựng một bản sao cho tất cả các điều kiện tự nhiên ngoài hoang dã, mà là có được cái cốt lõi của điều kiện đó. Mọi thứ trong một khu chuồng phải vừa vặn mà thôi, nghĩa là trong vòng khả năng có thể thích ứng được của con vật. Khốn nạn cho những vườn thú nào mà chuồng trại không tốt! Chúng gây biết bao tai tiếng cho nghề này rồi.

Những con thú hoang bị bắt lúc đã trưởng thành là một ví dụ khác của các con thú có tâm lí bỏ trốn; thường thì chúng đã quá quen với những nếp riêng trong cuộc sống hoang và không còn khả năng thích ứng với môi trường mới.
Nhưng ngay cả các con vật sinh ra và lớn lên trong vườn thú, chưa bao giờ biết thế giới hoang dã, thích nghi hoàn toàn với chuồng trại của mình và không hề căng thẳng với sự có mặt của người, cũng sẽ có những giây phút phấn khích thúc giục chúng tìm cách đào thoát. Hết thảy các loài sống đều mang trong mình một phần tâm lí điên rồ khiến chúng hành xử lạ lùng và đôi khi không thể giải thích nổi. Nhưng cái phần điên rồ này cũng là cứu cánh; nó chính cũng là một phần không thể thiếu của khả năng thích ứng. Không có nó, chắng có giống loài nào có thề sinh tồn.

Cho dù có lí do muốn trốn là gì đi nữa, điên hay là không điên, những ai vốn chê bai vườn thú nên hiểu rằng thú vật không bỏ chạy đến một nơi nào đó, mà chỉ bỏ chạy khỏi cái gì đó. Có cái gì đấy trong lãnh thổ của chúng đã khiến chúng hoảng sợ - sự đột nhập của kẻ thù, sự tấn công của một con thú đầu đàn, một tiếng động lạ - và gây nên phản ứng trốn chạy. Con vật chạy trốn, hoặc cố chạy trốn. Tôi đã kinh ngạc đọc thấy ở vườn thú Toronto - một vườn thú rất tốt, phải nói ngay thế - những con báo hoa có thể nhảy dựng lên cao tới sáu thước. Chuồng báo hoa của chúng tôi ở Pondicherry có tường ngăn phía sau cao hơn năm thước; tôi đồ rằng Rosie và Copycat đã không nhảy qua tường không phải vì chúng không thể mà vì chúng không muốn mà thôi. Thú vật bỏ trốn từ chỗ quen thuộc ra chỗ lạ - và nếu có một thứ mà loài vật ghét nhất, thì đó là cái lạ lẫm. Những con thú bỏ trốn thường ẩn náu ngay ở chỗ đầu tiên mà nó cảm thấy an toàn, và chúng chỉ nguy hiểm đối với những ai tình cờ xen vào giữa chúng và nơi chúng nghĩ là an toàn đó.

CHƯƠNG 11

Hãy xem trường hợp hai con báo đen cái đã trốn khỏi vườn thú Zurich hồi mùa đông 1933. Nó là con báo mới ở vườn và dường như đã quấn quýt với con báo đực ở đó. Nhưng các vết thương do bị cào cấu đã cho thấy có sự bất hoà trong gia đình. Trước khi người ta quyết định nên phải làm gì thì con báo đã chui tọt qua một kẽ hở trên trần rào và biến mất trong đêm. Dân chúng Zurich hoảng hốt khi nghe tin một con thú dữ dang lẩn quất trong thành phố. Người ta đặt bẫy, thả chó săn. Và chỉ bắt được vài chú chó lạc. Con báo biệt tăm trong mười tuần lễ liền. Cuối cùng, một người lao công tình cờ bắt gặp nó trong một nhà chứa thóc cách thành phố hai mươi lăm dặm và dùng súng bắn chết nó. Người ta thấy xương xẩu của con hươu sao gần chỗ con báo nấp. Hiện tượng một con báo đen nhiệt đới như vậy có thể sống sót trong hơn hai tháng trời giữa mùa băng tuyết Thụy Sỹ mà không ai nhìn thấy, chứ đừng nói đến chuyện nó tấn công ai, đã cho thấy rõ ràng một sự thật là thú vật trốn khỏi các vườn thú không phải là các con vật nguy hiểm có đầu óc tội phạm mà chỉ đơn giản là những sinh linh hoang dã muốn tìm kiếm một nơi thích ứng mà thôi.

Đó chỉ là một trong muôn vàn vụ việc tương tự. Nếu ta đốc ngược thành phố Tokyo và lắc nó như đổ rác, ta sẽ phải kinh ngạc vì số lượng các thú vật sẽ rơi ra. Nó sẽ dốc ra không phải chỉ có chó với mèo đâu, tôi cam đoan thế. Trăn, rồng Komodo, cá sấu, cá răng hổ, đà điểu, chó sói, cáo, gấu cây, nhím, khỉ độc, lợn lòi… sẽ rơi như mưa xuống đầu ta. Thế mà họ lại mong tìm thấy. Ha! Giữa rừng rậm nhiệt đới Mexico, thử tưởng tượng xem! Ôi chao! Ha! Ha! Buồn cười thật! Buồn cười quá! Họ nghĩ gì cơ chứ?

CHƯƠNG 12

Đôi khi anh đột nhiên phấn khích. Không phải vì tôi đã nói gì (tôi nói rất ít). Chính câu chuyện của anh khiến anh phấn khích như vậy. Kí ức là một đại dương và anh bập bềnh trên mặt nước. Tôi lo có thể anh sẽ không muốn kể nữa. Nhưng anh muốn tôi nghe hết câu chuyện của anh. Anh tiếp tục. Sau bao nhiêu năm rồi, Richard Parker vẫn còn ám ảnh tâm trí anh.
Anh là người ngọt ngào. Lần nào tôi đến, anh cũng sửa soạn một bữa tiệc chay kiểu miền Nam. Tôi bảo anh tôi thích các món ăn cay. Không hiểu tại sao tôi lại nói một câu ngu ngốc đến thế. Mà đó thật sự là một câu nói dối. Tôi phải thêm sữa chua hết muỗng này đến muỗn khác, mà chẳng hết cay. Lần nào cũng vậy: dịch vị tôi khô kiệt, da lựng lên như củ cải đỏ, nước mắt tôi giàn giụa, đầu quay như thể một con trăn vừa nuốt chửng phải một cái máy cắt cỏ.

CHƯƠNG 13

Ta thấy đấy, nếu ta ngã vào một chuồng nhốt sư tử, cái lí do để một con sư tử sẽ xé xác ta không phải là vì nó đói - vườn thú luôn cho chúng ăn thừa mứa – cũng không phải vì nó là đồ khát máu, mà chỉ vì ta đã xâm phạm lãnh thổ của nó.

Cũng chính vì thế mà người dạy hổ trong rạp xiếc luôn luôn phải vào trong vòng diễn trước, và phải để cho bầy sư tử nhìn thấy hẳn hoi. Làm như vậy, anh ta khẳng định rằng cái vòng diễn ấy là lãnh thổ của anh ta, không phải của chúng, một sự khẳng định được củng cố liên tục bằng những tiếng quát tháo, dậm chân, và quất roi đen đét. Bọn sư tử bị ấn tượng mạnh. Thế yếu đè nặng lên chúng. Cứ để ý mà xem, khi chúng vào vòng diễn, đường đường là “vua của muôn loài”, sức dài vai rộng là thế, mà len lét cụp đuôi bò vào vòng diễn mà cứ dúi và mép vòng, không nơi ẩn náu. Chúng đang phải trình diện trước một con đực đầy thế áp đảo, một con đực siêu quần, và chúng phải phục tòng những nghi thức của con đực ấy. Thế là chúng há miệng cho to, ngồi cho thẳng, nhảy cho lọt vào các vòng tròn phất giấy, bò cho qua những ống, đi giật lùi cho khéo, lăn dưới sàn cho giỏi. “Thật là một tay kỳ lạ,” chúng lờ mờ suy nghĩ. “Chưa thấy một sư tử đầu đàn nào như tay này. Nhưng hắn thật kỳ vĩ. Túi thức ăn bao giờ cũng đầy và - cứ nói thật đi các cậu – các trò tinh quái của hắn cũng khiến chúng ta bận rộn đấy chứ. Chí ít thì chúng ta cũng không phải đi xe đạp như bọn gấu dở hơi hoặc đón bắt những cái đĩa bay như bọn khỉ độc.”

Chỉ có điều người dạy hổ lúc nào cũng phải duy trì địa vị độc tôn của mình. Giá phải trả sẽ rất đắt nếu anh ta vô tình để mình tụt xuống hàng thứ hai. Nhiều hành vi thù địch và hung dữ của thú vật chỉ là biểu hiện của tâm lý xã hội không an toàn. Con thú trước mặt ta phải biết rõ nó đứng ở đâu, bên trên hay bên dưới ta. Địa vị xã hội là trung tâm điều khiển cuộc sống của nó. Chỗ đứng quyết định nó có thể giao tiếp với ai và như thế nào, lúc nào và chỗ nào có thể uống nước, vân vân và vân vân. Khi nó chưa biết rõ địa vị xã hội của mình, con thú sống một cuộc đời vô chính phủ không thể chịu nổi. Nó lo lắng, sợ sệt, cáu bẳn và nguy hiểm. Ngay cho người dạy thú ở một điểm là đối với các loài thú bậc cao, địa vị xã hội không phải lúc nào cũng được xác định bởi sức mạnh hung dữ của chúng. Tác giả Hegiger (1950) viết, “Khi hai con thú gặp nhau, con nào có thể đe dọa được đối thủ sẽ được gặp nhau, con nào có thể đe dọa được đối thủ sẽ được công nhận có địa vị cao hơn, và điều này không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào một cuộc đánh nhau; có nhiều khi chỉ cần một cuộc đối mặt là đủ.” Thật là những lời của người nghiên cứu thú vật, thông thái. Ông Hediger làm giám đốc vườn thú tron gnhiều năm, đầu tiên là vườn thú Basel rồi sau đó là vườn thú Zurich. Ông là một người thông thạo lối sống của thú vật.

Đó là vấn đề đầu óc cao hơn bắp thịt. Bản chất ưu thế của người dạy thú là ở tâm lý. Khung cảnh lạ lẫm, dáng dấp thẳng thắn của anh ta, thái độ bình thản, cái nhìn thẳng thắn và tập trung, những bước chân quả quyết, những tiếng thét kỳ lạ (ví dụ tiếng roi quất và tiếng còi thổi) – đó là những yếu tố ào ạt tác động vào tâm lý con thú khiến cho nó phải nghi ngại, sợ hãi, khiến cho nó thấy rõ nó đứng ở đâu, là điều mà nó khao khát muốn biết nhất. Biết thế rồi, số Hai sẽ lùi bước và số Một sẽ quay ra phía khán giả và lên tiếng, “Chúng tôi xin bắt đầu buổi diễn! Và bây giờ, thưa quý ông quý bà, qua những vòng lửa thật kia…”

Cốm
13-03-2008, 02:32 PM
CHƯƠNG 14

Một điều thú vị là con sư tử dễ bảo nhất trong vòng diễn là con có địa vị xã hội thấp nhất trong bầy, là con hạng bég, xếp vào hàng cuối, omega (1). Chỉ có nó là được lợi nhiều nhất trong việc cung cúc thân thiện với người dạy thống soái. Không phải chỉ những phần thưởng thêm nếm. Một quan hệ thân cận còn mang lại cho nó sự bênh vực chống lại các thành viên khác trong bầy. Chính cái con thú thứ bét ngoan ngoãn này, trong mắt công chúng, cũng to lớn và hung dữ như các con khác trong bầy, sẽ là ngôi sao của buổi diễn, trong khi người dạy thú để mặc các con thú thứ nhì và thứ ba trong bầy ngồi chầu rìa xung quanh.

Điều đó cũng đúng với tất cả các loài thú làm xiếc và cũng đúng với tình trạng trong các vườn thú. Những con thú thấp hèn nhất về mặt xã hội là những con cố gắng chịu khó nhất để làm thân với những người coi sóc nó. Chúng đã chứng tỏ là những con thú trung thành nhất, cần đến họ nhất, ít thách thức nhất và ít lằng nhằng nhất. Hiện tượng này đã được người ta ghi nhận đối với những loài hổ báo, bò rừng, hươu, cừu hoang, khỉ vượn và nhiều loài khác nữa. Đó là một thực tế ai cũng biết trong nghề vườn thú.
==================================================
(1) Omega (Ω, ω) - chữ cái thứ 24 và là cuối cùng trong bảng chữ cái Hy Lạp; cũng có nghĩa là "kết thúc", "cuối cùng". Alpha - (α) - là chữ cái đầu tiên và hay được dùng với nghĩa "khởi đầu", "đứng đầu". (ND)

CHƯƠNG 15

Nhà anh là một ngôi đền. Trong lối vào nhà treo một bức hình Ganesha, người đàn ông đầu voi đóng khung. Ồng thần ngồi ngoảnh mặt ra, màu sắc hồng hào, bụng phệ, đội mũ miện và mỉm cười, ba bàn tay cầm các vật khác nhau, bàn tay thứ tư mở lòng ra trong dáng điệu ban phước và chào mừng. Ông là vị thần khắc phục các trở ngại, mang lại may mắn, trí tuệ, và coi sóc việc học hành. Thân thiện và dễ gần vào bật nhất. Ông thần khiến tôi mỉm cười. Một con chuột ngồi chầu dưới chân ông. Cái xe của ông đấy. Vì khi thần Ganesha đi đâu, ông cưỡi chuột. Trên bức tường đối diện với bức hình này có treo một cây thánh giá bằng gỗ giản dị.

Trong phòng khách, trên bàn cạnh cái sôpha, có một khung nhỏ ***g ảnh Đức mẹ Đồng trinh Mary vùng Guadalupe, hoa lá tràn ra từ tà áo mở của người. Bên cạnh là một khung khác ***g ảnh thánh Kaaba choàng áo chùng đen, trang phục thiêng liêng nhất của đạo Hồi, với hàng ngàn tín đồ vây quanh như những vòng nước xoáy. Trên mặt cái tivi là một bức tượng đồng vàng thần Shiva trong hóa thân của Nataraja, chúa tể của các vũ điệu, người điều khiển mọi dịch chuyển của vũ trụ và dòng chảy của thời gian. Vị thần đang nhảy múa trên lưng con quỷ ngu dốt, bốn cánh tay đưa ra theo tư thế múa, một bàn chân trên lưng con quỷ, chân kia giơ lên trong không trung. Người ta nói khi Nataraja đặt cái chân ấy xuống, thời gian sẽ ngừng trôi.

Trong bếp có một cái miếu đặt bên trong một cái chạn. Cửa của cái chạn này đã được thay bằng một cái khung vòm chạm trổ. Cái khung vòm có giấu một bóng đèn vàng cứ đến tối thì thắp lên để soi sáng cái miếu. Hai bức hình ở đàng sau một cái ban thờ nhỏ: một bên lại là Ganesha, còn ở giữa, trong cái khung lớn hơn, là hình thầh Krishma, mỉm cười, da mầu xanh trời, đang thổi sáo. Cải hai bức hình đều có những vệt màu bột đỏ và vàng bôi trên mặt kính, chỗ trán của hai vị thần. Trong cái đĩa đồng nhỏ trên ban thờ là ba hình tượng bằng bạc nhỏ xíu. Anh lấy ngón tay chỉ cho tôi biết mỗi hình tượng này là đại diện cho ai: thần Lakshmi này, Shakti, nữ thần sinh ra các thần, trong hoá thân của Parvati; và Krisma, lần này trong hóa thân của một đứa bé nghịch ngợm đang bò lổm ngổm. Lẫn trong các vị thần ấy là một hình tượng dương vật Shiva bằng đá, trông như nữa trái vú sữa với một mầm dương vật lồi lên ở chính giữa, biểu tượng Hindu của sức sống đực cái trong vũ trụ. Cạnh cái đĩa, phía bên này là một vỏ ốc gắn trên một cái đế, phía bên kia là một cái chuông lắc tay nhỏ bằng bạc. Rơi vãi xung quanh đầy những hạt gạo, và một đóa hoa vừa bắt đầu tàn. Những đồ vật này phần lớn được xức dầu thơm và có các dầu chấm màu vàng và đỏ.

Trên cái đợt ở phía dưới là nhiều đồ cúng khác nhau: một bình thuỷ đầy nước, một cái thìa đồng đỏ, cái đèn có bấc cuộn ngâm trong dầu, các bó nhang, và những cái bát nhỏ đựng đầy bột đọ, bột vàng, gạo và đường cục.
Có một Đức Mẹ Đồng trinh Mary nữa torng phòng ăn.

Trên gác, trong phòng làm việc, có một Ganesha nữa bằng đồng vàng ngồi xếp bằng cạnh máy vi tính, một đấng Christ trên thập tự giá bằng gỗ từ Brazil mang về treo trên tường, và một cái thảm để ngồi cầu nguyện màu xanh lá cây ở góc phòng. Đấng Christ trông rất sinh động. Người đang chịu đau khổ. Cái thảm cầu nguyện nằm ở chỗ của nó rất rõ ràng riêng biệt. Bên cạnh nó, trên một giá sách thấp, là một cuốn sáhc có phủ vải. Chính giữa tấm vải ấy là một từ Arập duy nhất, thêu rất tinh tế, gồm bốn chữ: một chữ alif, hai chữ lams và một chữ ha. Đó là từ Thượng Đế trong ngôn ngữ Arập.
Cuốn sách trên cái bàn cạnh giường là một cuốn Thánh kinh Cơ đốc.
CHƯƠNG 16

Tất cả chúng ta sinh ra đều là những người Thiên Chúa giáo cả, có phải không nhỉ? Nghĩa là đều còn trong cõi mờ mịt không tín ngưỡng, cho tới khi một nhân vật nào đó dẫn dắt chúng ta đến với Thượng đế. Sau cuộc gặp gỡ đó, phần lớn chúng ta không còn thắc mắc về Thượng đế nữa. Nếu có thay đổi, thì thường xảy ra với những người ít thắc mắc về chuyện đó mà thôi. Cuốn theo dòng đời, càng ít nghĩ càng dễ quên mất Thượng đế. Nhưng tôi không rơi vào trường hợp này. Nhân vật đưa tôi đến với thượng đế lần đầu tiên trong đời là người chị em của mẹ tôi, người đã mang tôi đến một ngôi đền khi tôi còn bé tí. Bác Rohini rất sung sướng được gặp gỡ đứa cháu mới ra đời và bác nghĩ rằng Đức Thánh mẫu cũng phải đựơc chia sẻ nỗi sung sướng ấy. “Sẽ là chuyến du hành tượng trưng đầu tiên của nó,” bác nói. Quả thật vậy! Chúng tôi lúc ấy đang ở vùng Madurai. Chuyến xe lửa kéo dài bảy tiếng đồng hồ đầu tiên trong đời tôi. Có xá gì. Đó là nghi lễ vào đời theo tín ngưỡng Hinđu của tôi. Mẹ bế tôi trên tay. Bác Rohini dìu mẹ đi. Kí ức tôi không thể ghi nhớ rõ chuyến đi vòng quanh trong ngôi đền đó, nhưng một chút hương nhang, một vài tia sáng và bóng tối, một vài ánh lửa, những vệt màu vụt lóe lên, một cái gì đò thâm trầm và bí ẩn của ngôi đền chắn chắn đã đọng lại trong tôi. Một hạt giống của niềm hoan lạc tín ngưỡng, chưa bằng một hạt cải, đã được gieo vào và nẩy mầm trong tôi. Nó đã không ngừng lớn lên từ ngày ấy.

Tôi là một tin đồ Hinđu bởi những thỏi nhang hình côn nặn bằng bột kumkum màu đỏ và những giỏ trầm vàng, bởi những vòng hoa kết và những mẩu cùi dừa, bởi tiếng chuông ngân dài dọn bước hcân người đến với Thượng đế, bởi những dâm thanh khác khoải của cây sáo sậy nadaswaram và tiếng trống đổ dồn, bởi tiếng chân trần bước trên sàn đá những hành lang tối có những tia sáng mặt trời xuyên nghiêng huyền ảo, bởi hương thơm của nhang, bởi lưỡi lửa của các cây đèn arati chập chờn trong bóng tôi, bởi những khúc ca bhajan cất lên ngọt ngào làm vậy, bởi bầy voi đứng chầu quanh đền đợi ban phước lành, bởi những bức tranh tường kể bao câu chuyện lung linh, bởi những vầng trán mang trên chúng những ký hiệu khác nhau của chỉ một từ - niềm tin. Tôi trở nên trung thành với những ấn tượng cảm xúc đó trước cả khi hiểu lí do và ý nghĩa của chúng. Chính là cõi lòng tôi đã xui khiến tôi như thế. Tôi cảm thấy như ở tại nhà mình trong một ngôi đền Hinđu. Tôi ý thức đựoc sự Hiện diện, không phải như khi ta cảm thấy có ai bên cạnh, mà một cái gì đó lớn lao hơn nhiều. Cho đến nay, tim tôi vẫn thót lại mỗi khi tôi bắt gặp dấu hiện hiện diện của Thượng đế trong nội cung thiêng liêng của một ngôi đền. Sự thực là tôi đang ở trong bào thai của vũ trụ linh diệu, nơi sinh ra muôn vật, và đang ân hưởng cái may mắn được ngắm nhìn bản thể sinh động của chúng. Hai tay tôi tự nhiên tìm đến nhau trong tư thế nguyện cầu thành tín. Tôi khao khát lộc thánh prasad, món cúng dường ngọt ngào lên Thượng đế và được hóa lộc cho chúng ta như một món ân hưởng thánh thiện. Lòng bàn tay tôi cần được cảm thấy sức nóng của ngọn lửa thiêng liêng, ân sủng của nó tôi xin đem lên cặp mắt và vầng tráng của mình.

Nhưng tôn giáo lớn lao hơn nhiều các nghi lễ đó. Nó là cái mà nghi lễ muốn biểu đạt. Trong chuyện này tôi cũng là một người Hinđu. Vũ trụ có nghĩa lí trong cách nhìn Hinđu của tôi. Có Brahman, linh hồn của thế giới, cái khung muôn đời trên đó giải lụa sinh tồn được dệt nên muôn hình vạn trạng, với tất cả những điểm trang không gian và thời gian của nó. Rồi có Brahman nirguna, vô tính chất, nằm ngoài tầm biết, không thể mô tả, không thể với tới; với những con chữ nghèo nàn chúng ta đành chỉ biết khâu một bộ quần áo cho nó gọi là Thái cực, là Chân lý, là Cõi một, là Ý niệm tuyệt đối, là Thực tế cuối cùng… Và cố mặc vừa cho nó, nhưng Brahman nirgura luôn luôn làm bục chỉ những bộ quần áo đó của chúng ta. Chúng ta chẳng biết nói gì nữa. Nhưng rồi lại còn có Brahman saguna, có tính chất, và mặc vừa bộ quần áo. Thế là chúng ta gọi là Shiva, Krishna, Shaki, Ganesha; ta có thể tiếp cận nó với chút hiểu biết; ta có thể phân biệt những thuộc tính của nó – yêu thương, xót xa, sợ hãi – và ta cảm thấy được sức hút dịu dàng của quan hệ. Brahman saguna là Brahman được hiển hiện ra cho những giác quan hạn hẹp của ta, là Brahman đựơc biểu hiện không phải qua thần linh mà là qua người, thú vật, cây cỏ, thậm chí qua cả một dúm đất, vì bất kỳ cái gì cũng có một vệt thánh ở trong nó. Sự thực là Brahman chẳng khác gì Atman, cái sức mạnh tinh thần bên trong ta, cái mà ta có thể gọi là linh hồn. Linh hồn cá thể chạm tới linh hồn thế giới cũng như một cái giếng thông mạch với tầng nước ngầm của nó. Cái có thể duy trì vũ trụ bên ngoài ý nghĩ và lời nói, và cái nằm bên trong cốt lõi của chúng ta và luôn gắng gỏi để tự biểu hiện, chỉ là một mà thôi. Cái nhất định bên trong cái vô cùng, cái vô cùng bên trong cái nhất định. Nếu hỏi ta Brahman và Atman quan hệ với nhau chính xác là như thế nào, ta sẽ nói rằng cũng như cách mà ngôi Cha, Con và Thánh thần quan hệ với nhau, nghĩa là một cách thần bí. Những có một điều rõ rệt: Atman tìm cách để thực hiện Brahman, để được nhập một với cái Tuyệt đối, và nó du hành trong đời sống như một cuộc hành hương trong đó nó sinh ra rồi chết đi, lại sinh ra rồi chết đi nữa, cứ như thế, như thế mãi, cho đến khi nó trút bỏ được các các lớp vỏ bọc đã cầm tù nó. Con đường đi đến giải phóng của mỗi chúng ta được giàu thêm hoặc nghèo đi bằng chính những hành động của chúng ta.

Đó, một cách ngắn gọn, là tư tưởng Hinđu, và tôi đã là một người Hinđu suốt cả cuộc đời. Với những ý niệm xác tín Hinđu tôi nhận biết được chỗ của mình trong vũ trụ.

Nhưng chúng ta chẳng nên bám chặt lấy bất cứ thứ một thứ gì! Khốn nạn thay cho những kẻ cực đoan và những ai kệ kinh nhãng nghĩa! Tôi chợt nhớ đến một câu chuyện về thần Krishna khi ngài còn là một chàng trai chăn bò. Đêm nào chàng cũng mời các cô gái đến nhảy múa với mình ở trong rừng. Họ đến và họ nhảy múa. Đêm tối, ngọn lửa ở giữa họ bùng lên dữ dội, nhạc đệm ngày một nhanh – các cô gái múa và múa và múa với vị chúa tể ngọt ngào của họ, người đã phân thân không mệt mỏi để có thể nằm trong vòng tay tất cả các cô gái. Nhưng khi các cô bắt đầu trở nên ghen tuông, khi mà ai cũng tưởng rằng Krishna là bạn nhảy chỉ của riêng mình, chàng liền biến đi. Cho nên ta không nên đem lòng ghen tị với Thượng đế.

Tôi có quen một người đàn bà ở Toronto này, rất thân thiết với tôi. Bà là mẹ nuôi của tôi. Tôi gọi bà là Auntieji(1) và bà thích thế. Bà là người vùng Quebec. Mặc dù đã sống ở Toronto hơn ba mươi năm, tâm trí nói tiếng Pháp của bà thỉnh thoảng vẫn xen vào cách bà nghe và nhận biết các âm thanh tiếng Anh. Cho nên, khi lần đầu nghe cái danh hiệu Hare Krishnas, bà nghe không ra. Bà nghe thành “Hairless Christians”, và cứ đinh ninh như thế trong nhiều năm(2). Khi tôi cải chính điều đó, tôi nói với bà rằng thực ra bà cũng chẳng nhầm lẫn gì nhiều; rằng những người Hinđu, với khả năng yêu thương của họ, thực tế cũng là những người Cơ đốc giáo không có lông thật, cũng như những người Hồi giáo trong cái cách họ thấy Thượng đế trong mọi vật, chỉ là những người Hinđu có râu rậm, còn những người Cơ đốc giáo, trong tinh thần hiến dâng mình cho Thượng đế của họ thì cũng là những người Hồi giáo có thói quen đội mũ mà thôi.

Ghi chú:
(1) Auntieji: nghĩ là cô/ bác thân yêu
(2) Hare Krishna: một giáo phái dựa trên kinh Vệ Đà ở Mỹ năm 1966. Tín đồ giáo phái này có tập quán ca ngợi thần Krishna. Bà cụ nghe thành Hairless Chirstian, nghĩa là người Cơ đốc giáo không có lông. Đoạn văn này giới thiệu quan điểm tôn giáo rất tự do của Pi Patel, chuẩn bị cho các câu chuyện tiếp theo.

Cốm
13-03-2008, 02:35 PM
CHƯƠNG 17

Điều kỳ diệu đầu tiên khắc vào lòng ta sâu sắc nhất: những điều kỳ diệu đến sau chỉ vừa khít vào cái ấn tượng của buổi ban đầu. Chính do những tín ngưỡng Hinđu mà tôi có được bức phong cảnh nguyên bản của trí tưởng tượng tôn giáo của minh, với những thành phố, sông suối, những bãi chiến truờng, rừng rú, những ngọn núi thiêng và biển sâu nơi thánh thần, đạo tặc và người thường chen vai thích cánh nhau, và nhờ thế mà định ra được chúng ta là ai và tại sao chúng ta lại tồn tại. Chính trên mảnh đất Hinđu ấy là lần đầu tiên trong đời tôi đã nghe được về sức mạnh vô biên của lòng nhân từ. Chính là thần Krishna đã nói về điều đó. Tôi nghe thấy, và đi theo ngài, thần Krishna đã đưa tôi đến với một người.

Khi tôi mười bốn tuổi - một tín đồ Hinđu đang thực sự hạnh phúc trong niềm tin của mình – thì vào một ngày lễ nọ, tôi gặp Jesus Christ.

Không phải thường xuyên cha có ngày nghỉ lễ rời vườn thú đi chơi đây đó, nhưng một lần như thế, cả nhà đi Munnar, ngay trên mạn Kerala. Munnar là một trại đồi nhỏ nằm giữa một số đồn điền trồng chè cao nhất thế giới. Đó là vào đầu tháng Năm, chưa vào mùa mưa. Bình nguyên Tamil Nadu nóng nực dễ sợ. Chúng tôi lên tới Munnar sau năm giờ lái xe trên con đường lên núi ngoằn ngèo. Khí lạnh trên cao dễ chịu như thể ta có bạc hà trong miệng. Chúng tôi làm những thứ mà người đi du lịch vẫn làm. Đi thăm nhà máy chè Tata. Đi thuyền trên hồ. Xem một trung tâm lai giống gia súc. Chúng tôi cho những con Nilgiri tahrs - một loài dê hoang – ăn muối trong khu vườn quốc gia. (Cha nói với mấy người du lịch Thụy Sỹ ở đó: “Chúng tôi cũng có mấy con này ở vườn thú của chúng tôi. Quý vị nên đến chơi Pondicerry.”) Ravi với tôi đi loanh quanh trong các trại chè gần thị trấn, tất cả chỉ là cái cớ để giữ cho chúng tôi khỏi uể oải trì trệ mà thôi. Về chiều, cha với mẹ cũng yên vị trong phòng trà của khách sạn đầy đủ tiện nghi như hai con mèo phơi nắng bên cửa sổ. Mẹ đọc sách trong khi cha tán gẫu với khách cùng ở trọ tại đó.
Có ba quả đồi ở Munnar. Chúng không thể sánh với những quả đồi cao – có thể gọi là núi được - ở xung quanh thị trấn, nhưng ngay buổi sáng đầu tiên khi đang ăn điểm tâm, tôi đã để ý thấy chúng đều có một điểm nổi bật là mỗi quả đồi có một ngôi nhà cho Thượng đế. Quả đồi phía bên phải, ngay bên kia sông, có một đền thờ Hinđu bên sườn dốc; quả đồi ở giữa xa hơn một chút, thì có một đền thờ Hồi giáo; còn quả đồi phía bên trái thì trên đỉnh là một nhà thờ Cơ đốc.

Ngày thứ tư ở Munnar, khi đã về chiều, tôi đứng trên quả đồi phía bên trái đó. Mặc dù đã có học qua một trường mang danh Cơ đốc giáo, tôi chưa bao giờ vào đến bên trong của một nhà thờ - và lúc đó tôi định sẽ phải liều làm cái việc ấy. Tôi biết rất ít về đạo Cơ đốc. Nó nổi tiếng là có ít thánh thần và đầy rẫy bạo lực. Nhưng nó có nhiều trường học tốt. Tôi đi vòng quanh ngôi nhà thờ. Nó đựơc xây dựng cốt bưng bít cho thật kỹ những gì nó chứa đựng bên trong. Những bức tường dày không có đặc điểm gì, mầu xanh da trời nhạt và rất cao. Những cửa sổ hẹp không thể nhìn qua được. Một pháo đài.

Tôi đến chỗ chái nhà ở của thầy cả. Cửa mở. Tôi nấp ở một góc và nhìn xem quang cảnh ra sao. Bên trái cánh cửa là một cái bảng nhỏ có dòng chữ Thầy cả Xứ đạo và Giúp việc Thầy cả. Bên cạnh mỗi cái tên ấy là một cái hộp nhỏ có cửa trượt. Cả hai thầy đều đang có mặt trong nhà thờ. Cửa trượt trên hai cái hộp đều đang ở về một phía, để lộ chữ “Có nhà” kẻ bằng sơn vàng. Một thầy đang làm việc ở văn phòng của mình, lưng quay ra phía cửa có bệ ngồi chơi, còn thầy kia ngồi trên một cái ghế dài cạnh một cái bàn tròn kê trong quãng lối đi từ ngoài vào gian trong, rõ ràng là nơi để tiếp khách. Ông ta ngồi ngoảnh mặt ra phía cửa ra vào và cửa sổ, tay cầm một cuốn sách, chắc là cuốn Thánh kinh. Ông đọc một lúc, ngẩng lên, lại đọc một lúc nữa, rồi lại ngẩng lên, dáng điệu vừa nhàn tản vừa tỉnh táo và tự tin. Mấy phút sau, ông gập cuốn sách lại và đặt sang bên. Ông để hai bàn tay vào nhau lên mặt bàn và ngồi đó, vẻ mặt bình thản, không chờ đợi và cũng không thoái lui.

Lối vào ấy sạch, những bức tường trắng; cái bàn và những chiếc ghế dài bằng gỗ sẫm màu; còn vị tu sĩ ấy thì mặc tấm áo choàng trắng tinh – mọi thứ đều xâm chiếm tôi. Không phải chỉ vì cái quang cảnh ấy, mà vì một cảm thức tự nhiên rằng ông ở đó - rộng mở và bình tĩnh - sẵn sàng cho bất kì ai muốn đến nói chuyện với mình; một khúc mắc trong tâm hồn, một gánh nặng trong lòng; một vùng tăm tối trong lương tâm, ông sẽ lắng nghe bằng tình yêu thương, và ông sẽ cho ta niềm an ủi, dẫn dắt ta tận tình.

Tôi xúc động. Những gì trước mặt đã đi thẳng vào lòng tôi và khiến tôi rung động.

Ông đứng lên. Tôi tưởng ông sẽ gạt cái cửa dưới của mình sang phía khác, nhưng không phải. Ông lui vào phía trong, có vậy thôi, để ngỏ cánh cửa từ tiền sảnh vào căn phòng bên trong. Tôi vẫn nhớ rõ mình đã để ý đến điều ấy: cả hai cánh cửa, ngoài và trong, đều mở. Rõ ràng, ông và đồng sự của ông đều sẵn sàng ở đó.

Tôi ra khỏi chỗ nấp và đánh liều. Tôi bước vào nhà thờ. Bụng thót hết cả lại. Chỉ sợ sẽ có một người Cơ đốc ra chặn tôi lại và quát. “Mày làm gì ở đây? Sao mày dám vào nơi thánh thất, đồ dơ bẩn? Cút ra ngay!”

Nhưng không có ai cả. Và cũng chẳng có gì nhiều để phải tìm hiểu. Tôi bước tiếp và quan sát bên trong nhà thờ. Có một bức họa. Có phải tranh thờ của họ không nhỉ? Cái gì đó như là cảnh lấy người làm con sinh hiến tế. Một thượng đế phải được chiều lòng bằng máu. Những người đàn bà ngây dại ngẩng mặt lên trời và những đứa trẻ béo tốt có cánh bay lượn xung quanh. Một thứ chim thần. Ai là thượng đế ở trong đó? Một bên nội sảnh có một bức tượng bằng gỗ sơn. Lại một nạn nhân nữa, sưng vù và đẫm máu với những sắc màu táo bạo. Tôi dán mắt vào hai đầu gối của bức tượng. Trầy tróc kinh khủng. Lớp da màu hồng bị lột ra trông như những đài hoa, để lộ hai xương bánh chè đỏ rực như xe cứu hỏa. Khó có thể liên hệ cảnh tra tấn cực hình này với người thầy tu trong kia.

Hôm sau, cũng khoảng giờ ấy, tôi lại dấn mình: Vào.
Người Cơ đốc có tiếng là khắc nghiệt và có nhiều hình phạt nặng nề. Kinh nghiệm của tôi với Cha Martin lại hoàn toàn khác. Ông thực tốt bụng. Ông mời tôi trà và bánh quy với một bộ ấm chén cứ kêu lanh ca lanh canh mỗi khi đụng vào chúng; ông xử với tôi như người lớn; và ông kể cho tôi nghe một câu chuyện. Nhưng có lẽ, vì người Cơ đốc hay thích dùng chữ viết hoa, tôi phải nói rằng đó là một Câu Chuyện.

Chuyện ơi là chuyện! Điều đầu tiên hấp dẫn tôi là sự không thể tin được. Cái gì thế không biết? Loài người phạm tội nhưng chính con trai Thượng đế lại phải trả giá? Tôi cố hình dung cha Martin nói với tôi: “Này Piscine, một con sư tử lẻn vào chuồng lama hôm nay và giết chết mất hai con. Hôm qua, một con khác giết mất một con hươu đen. Tuần trước chính hai con này đã ăn thịt mất một con lạc đà. Tuần trước nữa thì chúng ăn bọn cò vạc vô tôi vạ. Chắc chắn chúng cũng là thủ phạm đã làm đi tiêu con điêu thử lông vàng của chúng ta. Tình hình không thể chịu được nữa. Phải có biện pháp. Cha đã quyết định. Cách duy nhất để bọn sự tử có thể ăn năn chuộc tội của chúng là thế này: cha sẽ cho chúng ăn thịt con.”

“Vâng, thưa cha, đó là điều chính đáng và hợp logic cần phải làm. Xin cho con một phút để tắm rửa.”
“Hãy vui hưởng ân Chúa, hỡi con trai của ta!”
“Sáng danh chúa đời đời, Cha ơi!”

Chuyện lạ đời đến thế là cùng. Sao lại có thứ tâm lí như vậy được?
Tôi xin nghe một câu chuyện khác, may ra thỏa đáng hơn chăng. Chắc hẳn tôn giáo này cũng phải có hơn một câu chuyện trong bị - tôn giáo là nhiều chuyện để kể lắm. Nhưng cha Martin làm tôi phải hiểu rằng những câu chuyện có trước Câu Chuyện – mà chẳng thiếu gì thật - chỉ đơn thuần là dạo đầu mà thôi. Tín ngưỡng của người Cơ đốc chỉ có một Câu Chuyện, và họ trở lại với nó, chỉ với nó, mãi mãi. Với họ thế là đủ.

Tôi bần thần im lặng suốt đêm hôm đó ở khách sạn.

Việc một vị thần phải chịu đựng gian truân, tôi có thể hiểu đựơc. Các vị thần Hinđu đều phải đương đầu với trộm cắp, nạt nộ, bắt cóc, tiếm đoạt trong số phận của họ. Ramayana là gì nếu không phải chỉ là chuyện một ngày xui xẻo của thần Rama? Gian truân, đồng ý. Hoạn nạn, cũng được. Kể cả phản bội nữa. Nhưng nhục nhã? Chết? Tôi không thể tưởng tượng được thần Krishna chịu để bị lột trần truồng, quất bằng roi, giễu cợt, lôi xềnh xệch ngoài phố, và nhất nữa là bị đóng đanh câu rút – mà khổ nhất là tất cả những cái đó lại chỉ do bàn tay của bọn người trần mắt thịt. Tôi không nghe thấy có vị thần Hinđu nào chết. Brahman Hiển lộ không có chịu chết. Quỷ sứ và quái vật thì phải chết, các loài khác cũng thế. Chết hàng nghìn hàng triệu – vì thẩy chúng sinh ra đời chỉ là để chết. Vật chất cũng thế, cũng tan biến đi. Nhưng thần linh không thể héo tàn mà mất dạng vì cái chết. Thế là sai. Linh hồn thế giới không thể chết, ngay cả khi nó ngụ trong một bình chứa hữu hạn. Điều sai lầm của đấng tối cao Cơ đốc giáo là để cho con ruột của chính Ngài phải chết. Bởi lẽ nếu ngôi Con mà phải chết, điều đó không thể làm giả được. Nếu Thượng đế trên thập tự giá là Thượng đế giả vờ chịu trận cho tấn bi kịch của loài người nó sẽ biến Tình yêu của đấng Christ thành Màn kịch hề của đấng Christ. Cái chết của ngôi Con phải thực. Cha Martin khẳng định với tôi rằng đúng như thế. Nhưng một khi đã là một Thượng đế để chết, thì mãi mãi sẽ là một Thượng đế chết, có phục sinh cũng vậy thôi. Ngôi Con phải ngậm cái miếng chết ấy mãi mãi trong miệng mình. Thánh Ba ngôi sẽ phải ô uế vì thế; vì lẽ có mùi chết bên tay phải của ngôi Cha. Sự thực ấy sẽ khủng khiếp biết bao. Tại sao Thượng đế lại mong ước điều đó cho chính ngài? Tại sao không để mặc sự chết cho lũ có sinh có tử mà thôi? Tại sao phải bôi bẩn cái đẹp đẽ, phải làm hỏng sự hoàn hảo?
Tình yêu. Đó là câu trả lời của cha Martin.

Còn sự vâng lời của đứa chúa Con thì sao? Có câu chuyện thần Krishna hồi nhỏ, bị các bạn mách là đã ăn một cục đất. Bà mẹ nuôi của ngài, Yashoda, đến bên ngài với một ngón tay trách móc. “Không được phép ăn đất, thế là hư đấy,” bà mắng. “Nhưng con có ăn đâu,” vị thần vô địch trả lời, vị chúa tể của mọi vật lúc đấy vẫn trá hình làm một thằng bé con sợ hãi. “Chậc! Chậc! Há mồm ra!” Yashoda ra lệnh. Krishna làm theo lời bà. Ngài mở rộng miệng. Yashoda nín thở. Bà nhìn thấy trong miệng Krishna toàn bộ, hoàn chỉnh vũ trụ ngoài thời gian, tất cả tinh tú và khoảng không giữa chúng; bà thấy tất cả những ngày của hôm qua và của ngày mai; bà thấy tất cả các ý tưởng và tình cảm, tất cả thương xót và hy vọng, và ba sợi tao dệt nên vật chất; không thiếu một hòn sỏi, một cây nến, một sinh linh, một ngôi làng hoặc một dải ngân hà nào, kể cả chính bà và tất cả những cục đất ở chỗ chính đáng của chúng. “Thưa Đức ông”, bà nói một cách thành kính, “xin người ngậm miệng lại”.

Có chuyện Vishinu đầu thai làm người lùn Vamana. Anh ta xin vua quỷ Bali chỉ ba bước đất. Bali cười phá lên trước hình dạng nhỏ bé như con vật củ kẻ đến cầu hôn con gái mình, cũng như điểu cầu xin kì quặc nọ. Vua quỷ đồng ý. Lập tức, Vishnu hiện nguyên hình trong vóc dáng vũ trụ của mình. Với một bước đầu tiên, ngài thâu tóm hết trái đất, bước thứ hai lấy hết các cõi trời, và với bước thứ ba ngày đá Bali văng vào nơi vô định.

Ngay cả Rama, ngôi Con nhiều tính người nhất, thậm chí đã có lúc quên cả bản chất thần linh của mình khi mải đánh nhau với vua quỷ Lanka để cướp lại nàng Sita, cũng không bao giò chịu lép một bề. Không thể có cây thập tự nào đè bẹp được ngài. Khi đã hăng lên, ngài vươn khỏi cái tầm cỡ người hữu hạn của mình với mộ sức mạnh không ai có được và với những vũ khí mà loài người không thể sử dụng được.

Đó mới thật sự là Thượng đế. Chói sáng, hùng mạnh, đầy quyền năng. Thừa sức để giải thoát, cứu rỗi và trừng trị quỷ dữ.


Còn đức chúa Con này, thì nào là phải đói, phải khát, phải mệt nhọc, buồn rầu, lo lắng, phải bị bắt nạt và quấy nhiễu, phải chịu đựng những kẻ theo mình mà chẳng hiểu gì, và phải chịu sự khinh miệt của những kẻ thù địch - kiểu thần thánh gì thế không biết? Là thần thánh nhưng lại nhỏ nhoi bằng người, đúng là vậy. Thì cũng có phép lạ, đúng thế, phần lớn là phép thuốc thang, một ít khác giúp người khỏi đói bụng, hay nhất cũng chỉ là phép ngưng được bão táp, đi được vài bước trên mặt nước mà thôi. Nếu đó là phép lạ, thì chúng chỉ là những pháp thuật nhỏ, tương tự như những mẹo chơi bài, bất kì vị thần Hinđu nào cũng có thể làm hơn thế gấp trăm lấn. Vị chúa Con này là một ông thần chủ yếu dùng thì giờ của mình để kể chuyện, để nói. Vị chúa Con này đi bộ, một vị thần của đám bộ hành, mà lại đi trong một nơi nóng nực, với những bước chân hệt như người, đôi dép cũng chỉ bước qua được những hòn đá trên mặt đường; còn đến khi cần phải vi hành cho nhanh thì ngài cưỡi một con lừa bình thường. Vị chúa Con này là một vị thần đã chết trong ba tiếng đồng hồ, với những tiếng rên rỉ, thở dốc và những lời than khóc. Đó là kiểu thần thánh gì vậy? Cái gì đã là nguồn cảm hứng cho vị chúa Con ấy?
Tình yêu, cha Martin nói.

Ngôi Con này chỉ xuất hiện có một lần, rất lâu rồi, và thật xa xôi như vậy sao? Trong một bộ lạc không ai biết đến ở một xó Tây Á, quanh quẩn trong mảnh đất của một vương quốc đã suy tàn từ lâu như vậy sao? Bị kết thúc khi trên đầu chưa một sợi tóc hoa râm? Không con cháu, chỉ còn lại những mẩu chuyện tẻ mẻ không đầy đủ, công đức của ngài tiêu tan cùng cát bụi như vậy sao? Gượm đã nào. Thế này thì không phải chỉ là trường hợp Brahman bị run quá mức khi phải bước lên sân khấu nữa. Đây là Brahman ích kỷ. Đây là Brahman không có lòng quảng đại và không công bằng. Đây là Brahman chưa hiển lộ thực sự. Nếu Brahman sẽ chỉ có một con trai, ngài sẽ phải phì nhiêu như Krishna với bầy thôn nữ kia chứ, phải không nào? Cái gì có thể biện hộ cho chuyện thần linh mà lại keo kiệt đến mức như vậy?
Tình yêu. Cha Martin nhắc lại.

Thôi, xin vái tạ các vị, tôi sẽ đi với Krishna của tôi. Chất thần thánh của người đã chinh phục và cuốn hút tôi đến tận cùng. Các vị cứ việc mà giữ lấy ngôi Chúa Con lắm mồm và mồ hôi mồ kê nhễ nhại ấy.

Đầy, tôi đã gặp gỡ vị thầy cả đã gây ra lắm chuyện rắc rối tận xửa xưa như thế đấy: nghĩa là với cảm giác phiền muộn và bất tín ở trong lòng.

Trong ba ngày liền, ngày nào tôi cũng đến uống trà với cha Martin. Mỗi lần, khi tách trà lanh canh vào cái đĩa nhỏ và cái thìa lanh canh vào mép nó, tôi lại đưa ra những câu thắc mắc như thế.

Mà câu trả lời thì luôn giống hệt nhau.

Ông ta khiến tôi không yên được, vị chúa Con ấy. Ngày lại ngày, nỗi sân hận đối với ngày cứ bùng lên ngày một lớn, và tôi lại tìm ra thêm những khiếm khuyết của ngài.

Ông ta lại còn có tính hay thình lình nổi trận lôi đình nữa chứ! Đấy, cái buổi sáng ấy ở chỗ Bethany, Thượng đế thấy đói, Thượng đế muốn ăn điểm tâm. Ngài tới cạnh một cây vả. Không phải mùa, nên cây vả chưa ra quả. Thượng đế nổi cáu. Con trai ngài liền lẩm bẩm: “Mày sẽ không bao giờ đơm hoa kết trái nữa.” Và tức thời, cây vả khô héo đi. Đấy là lời kể lại của Matthew, được cả Mark nhắc lại(1).

Tôi xin hỏi, cây vả thì có tội gì nếu lúc đó chưa phải đến mùa nó ra quả? Cái kiểu gì mà lại làm một việc như thế với cái cây vô tội, bắt nó phải khô héo đi ngay tức thời?

Tôi không thể xua ngài ra khỏi đầu mình. Đến giờ cũng vậy. Tôi mất ba ngày liền chỉ có suy nghĩ về ngài. Ngài càng gây phiền muộn cho tôi bao nhiêu, tôi lại càng khó quên ngài bấy nhiêu. Và tôi càng biết thêm về ngài bao nhiêu, càng không muốn rời ngài bầy nhiêu.

Ngày cuối cùng của chúng tôi ở Munnar, chỉ còn vài tiếng trước khi chúng tôi ra đi, tôi chạy quáng quàng lên trái đồi phía bên trái ấy. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy nó như một cảnh trí Cơ đốc điển hình. Cơ đốc giáo là một tín ngưỡng vội vàng. Cứ xem việc thế giới được tạo nên chỉ trong có bảy ngày thì thấy. Ngay cả chỉ là biểu tượng thôi, sự tạo tác ấy vẫn cứ là quá gấp gáp. Với một người sinh ra trong một tín ngưỡng mà một trận chiến vì một linh hồn duy nhất thôi cũng là một cuộc chạy tiếp sức qua nhiều thế kỷ, với vô vàn thế hệ nối tiếp nhau, thì cách giải quyết chóng vánh của Cơ đốc giáo có hiệu quả chóng cả mặt. Nếu tín ngưỡng Hinđu êm đềm trôi như dòng sông Hằng, thì Cơ đốc giáo sôi sùng sục như thành phố Toronto vào giờ cao điểm. Đó là một tín ngưỡng nhanh như chim cắt và hối vả như một cái ô tô cấp cứu. Nó quay tít thò lò, hiển lộ trong tức khắc. Ta mất hay còn chỉ trong cái tức khắc ấy. Cơ đốc giáo trải mãi qua bao thời đại, những cốt lõi nó chỉ tồn tại ở một thời: ngay bây giờ.

Tôi chạy thoăn thoắt lên trái đồi ấy. Mặt dù cha Martin không “có nhà” – cha mẹ ơi, cái cửa trượt của cha đầy qua phía khác – thế mà đội ơn Chúa, cha lại vẫn ở đó.

Tôi hổn hển, “Cha ơi, con muốn làm một người Cơ đốc, xin cha giúp con.”
Ông mỉm cười. “Piscine, con đã là vậy rồi đấy - tận đáy lòng con mà. Ai đã gặp đấng Christ với tấm lòng thành đến là người Cơ đốc cả. Con đã gặp ngài ở Munnar này rồi.”
Ông vỗ lên đầu tôi. Không phải những người ta vỗ về nhẹ nhàng đâu. Trên đầu tôi, tay ông như đang vang lên BUM BUM BUM.
Tôi tưởng mình sắp nổ tung vì sung sướng.
“Khi nào trở lại, cha con mình lại uống trà với nhau nhé.”
“Vâng, thưa cha.”
Nụ cười của ông thật tốt lành. Nụ cười của đấng Christ.

Tôi bước vào nhà thờ, lần này không còn sợ hãi gì nữa, vì bấy giờ nó đã là nhà của tôi nữa rồi. Tôi nói lời cầu nguyện dâng lên đấng Christ, là người đang sống. Rồi tôi chạy xúông trái đồi bên trái ấy để leo lên trái đồi bên phải để cảm tạ vị chúa tê Krishna đã đem Jesus người Nazareth, người có lòng nhân ái mãnh liệt đến thế, vào đời tôi.

Ghi chú:
(1) Matthew và Mark là hai tông đồ của Jesus, mỗi người chép lại những việc làm của Jesus trong một cuốn sách riêng, về sau thành hai tập trong kinh Tân Ước, còn gọi là Phúc Âm – Phúc Âm của thánh Matthew và Phúc Âm của thánh Mark. (ND)

Cốm
13-03-2008, 02:36 PM
CHƯƠNG 18

Rồi đến lượt đạo Hồi, chưa đầy một năm sau đó. Tôi đã mười lăm tuổi và đang thời thám hiểm chính ngay thành phố quê hương của mình. Khu phố của người Hồi giáo không xa vườn thú là mấy. Một khu cư dân nhỏ, yên tĩnh với những dòng chữ Arập và hình trăng lưỡi liềm sơn trên mặt tiền các ngôi nhà.

Tôi đến phố Mullah. Tôi thử ngó một cái vào Jamia Masjid, ngôi Đền Lớn của người Hồi giáo ở đó, tất nhiên vẫn thận trọng không dám vào hẳn bên trong. Hồi giáo có nhiều tai tiếng và tồi tệ hơn cả Cơ đốc giáo – ít thần thánh hơn, nhiều bạo lực hơn, và chưa thấy ai nói điều gì tốt về trường học Hồi giáo bao giờ - cho nên tôi không định bước vào đó làm gì, mặc dù lúc đó chẳng có ai. Ngôi đền sạch sẽ và trắng trẻo trừ một số cạnh sơn xanh lá cây, là một cấu trúc mở chạy quanh một gian phòng trống ở giữa. Chỗ nào cũng thấy trải những tấm chiếu dài bện bằng rơm. Phía trên, hai ngọn tháp mảnh dẻ vươn lên trời bên cạnh những tầu cọ sum suê. Không có vẻ tín ngưỡng gì rõ rệt, và do vậy có thể khiến cho ngôi đền thú vị hơn, những là một nơi yên tĩnh và thanh thản.

Tôi đi tiếp. Ngay sau ngôi đền là một dãy nhà ở liền vách nhau với những lối vào có hiên che. Những ngôi nhà sập sệ và nghèo nàn, vữa trát tường xanh là cây đã phai màu hết cả. Một cái nhà trong dãy đó là một cửa hàng nhỏ. Tôi thấy một cái giá bầy những chai nước Thums Up bụi bặm với bốn cái bình nhựa trong đựng kẹo lỏng chỏng bên trong. Những món hành chính là thứ khác, một thứ gì bèn bẹt, tròn tròn và trăng trắng. Tôi đến gần. Hình như là một thứ bánh bột mì không có men. Tôi chọc thử ngón tay vào một cái. Cứng như mo. Giống như đã để ba ngày không có ai ăn. Ai có thể mua thứ bánh này nhỉ? Tôi nhặt hẳn một cái lên tay và lắc lắc xem nó có gẫy ra không.

Một giọng người cất lên, “Cậu có muốn nếm một cái không?”
Tôi hết hồn. Ai cũng biết lúc ấy nó ra sao rồi: mắt hoa chỉ thấy các đốm sáng tối và các mảng màu sắc hình thù khác nhau nhảy loạn xạ, còn tâm trí thì đi đâu mất - chẳng còn thấy gì trước mặt cả.

Cách đó độ hơn một thước, ngồi xếp chân bằng tròn đàng sau những cái bánh kia, là một người đàn ông. Tôi giật mình khiếp đến nỗi tay vung lên và cái bánh bay vèo ra giữa phố. Nó rơi tọet ngay xuống một bãi phân bò.

“Thôi chết! Xin ông tha lỗi cho! Cháu không nhìn thấy ông!” Tôi lính quýnh. Định sửa soạn chạy ù đi chỗ khác.”
“Không sao,” ông nói bình thản. “Rồi một con bò sẽ được ăn cái đó. Cậu thử cái khác này.”

Ông xé cái bánh ra làm đôi. Chúng tôi cùng ăn. Nó cứng và dai như cao su, mỏi cả răng, nhưng mà dễ no. Tôi bình tĩnh lại.
“Bác làm chúng đấy ạ?” Tôi nói, cốt cho có chuyện.

“Vâng. Vào đây, để tôi chỉ cho cậu xem.” Ông đứng dậy rồi vẫy tôi vào nhà.
Một túp nhà tuềnh toàng có hai phòng. Phòng rộng hơn bị choán gần hết bởi một cái lò nướng, là xưởng bánh, và phòng kia, chỉ ngăn cách bằng một cái rèm tòm tem, là nơi ngủ của ông chủ. Đáy lò rải một lớp sỏi nhẵn. Ông đang giảng giải cho tôi cách nướng bánh trên những hòn sỏi hun nóng kia thì nghe thấy tiếng người xướng kinh cất lên từ phía đền thờ, giọng mũi ngân nga như một dòng chảy uốn lượn trên không trung. Tôi biết đó là tiếng gọi đến giờ cầu nguyện, nhưng chưa biết kết quả của nó là gì. Tôi tưởng tượng nó sẽ gọi tín đồ Hồi giáo đến thánh đường của họ, cũng như những hồi chuông gọi người Cơ đốc chúng tôi đến nhà thờ. Nhưng không phải vậy. Ông làm bánh đột ngột dừng lời. “Xin cậu cảm phiền,” ông nói, chui vào căn phòng bên cạnh độ một phút rồi trở ra với một tấm thảm cuộn tròn. Ông trải tấm thảm xuống sàn xưởng làm bánh, làm bụi bột mì bốc lên mù mịt. Rổi ở đó, ngay trước mắt tôi, giữa nơi ông làm việc, ông cầu kinh. Nó có vẻ chẳng ra sao, nhưng cảm giác ấy chỉ là của tôi mà thôi. May quá ông nhắm mắt lúc đọc kinh.

Ông đứng thẳng. Ông lẩm nhẩm bẳng tiếng Arập. Ông đưa tay lên hai bên tai, ngón cái chạm vào dái tai, trông như đang cố lắng nghe lời đáp của Allah. Ông cúi về phía trước. Ông đứng thẳng trở lại. Ông quỳ xuống úp trán và tay xuống sàn nhà. Ông ngồi lên. Ông phủ phục xuống nữa. Ông đứng. Ông lại làm lại tất cả những động tác ấy.

Sao thế nhỉ? Hồi giáo chỉ là một thứ thể dục đơn giản như vậy ư? Một thứ yoga cho những người du mục Bedouin ở xứ nóng. Các tư thế dễ thực hiện, thiên đường mà không cần phải mất sức gì nhiều.

Ông làm cả thảy bốn vòng các động tác giống nhau, miệng lầm rầm liên hồi. Khi đã xong- kết thúc bằng một động tác quay đầu từ trái sang phải, và một hồi mặc tưởng ngắn ngủi – ông mở mắt, mỉm cười, bước ra khỏi tấm thảm và cuộn nó lại chỉ bằng một cái phẩy tay chứng tỏ ông đã quen lắm với việc đó. Ông cất tấm thảm vào chỗ cũ trong căn phòng bên cạnh. Ông trở lại với tôi. “Lúc nãy tôi đang nói đến đâu rồi nhỉ?” Ông hỏi.

Lần đầu tiên tôi thấy một người Hồi giáo cầu nguyện đã diễn ra như vậy – chóng vánh, nhất thiết, thực thể, thầm lặng, mạnh mẽ. Trong lần cầu nguyện sau đó của tôi trong nhà thờ - quỳ gối, im lìm, lặng lẽ trước đấng Christ trên thập tự giá – cái hình ảnh của cuộc hội ngộ bằng xương bằng thịt với Thượng đế giữa những bao bột mì kia cứ hiện về liên tục trong óc tôi.

CHƯƠNG 19

Tôi trở lại thăm ông ta.
“Tín ngưỡng của bác là về cái gì vậy ạ?” Tôi hỏi.
Mắt ông vụt sáng. “Về chuyện Được Yêu Thương,” ông trả lời.
Đố ai đã hiểu được đạo Hồi, hiểu được cái tinh thần của nó, mà lại không yêu nó. Đó là một tín ngưỡng đẹp đẽ của tình anh em và tinh thần dâng hiến.

Đền thờ Hồi giáo quả thực là một cấu trúc mở, về phía Thượng đế và gió trời. Ta ngồi xếp bằng lắng nghe vị thầy cả cho đến giờ cầu nguyện. Lúc ấy, ta không còn ngồi thành nhóm ngẫu nhiên với nhau nữa mà cùng đứng dậy xếp hàng vai kề vai, cho tới lúc mỗi hàng người trở thành đặc lại quánh với nhau và tất cả thành một khối cầu nguyện lớn. Cảm giác thật tốt lành khi vầng trán ta chạm xuống mặt đất. Ngay lập tức, nó như một tiếp xúc tín ngưỡng sâu thẳm.

CHƯƠNG 20

Ông ta là một sufi, một nhà thần bí học Hồi giáo. Ông tìm kiếm fana, sự đoàn tụ với Thượng đế, và có một quan hệ riêng tư đầy yêu thương với Thượng đế. “Nếu ta bước hai bước về phía Thượng đế,” ông thường bảo tôi, “Ngài sẽ chạy đến với ta.”

Ông là người không có nét gì đặc biệt, vẻ ngoài và áo quần ông chẳng có gì khiến ta chú ý và ghi nhớ. Cũng chẳng lạ khi lần đầu gặp nhau tôi đã không nhận ra ông. Cả khi đã rất quen với ông rồi, đã gặp nhau hết lần này đến lần khác rồi, tôi vẫn thấy khó khăn để nhìn được ra ông trong đám đông. Tên ông là Satish Kumar. Một cái tên rất phổ biến ở Tamil Nadu, nên việc trùng lặp đó cũng chẳng có gì đặc biệt. Tuy nhiên, tôi thấy rất hay là người làm bánh ngoan đạo ấy, sơ sài như một cái bóng đen và rất khỏe mạnh, và cái người cộng sản nhiệt thành với khoa học và là thầy dạy sinh học của tôi kia, cái quả núi treo trên cọc, từ thủa nhỏ đã từng bị bại liệt kia, lại trùng tên nhau. Ông Kumar ấy và ông Kumar ấy đã dạy tôi môn sinh học và đạo Hồi. Ông ấy và ông ấy đã dẫn dắt tôi vào môn động vật học và nghiên cứu tôn giáo tại đại học Toronto. Hai ông Kumar này đã là những nhà tiên tri của tôi thuở thiếu thời.


Chúng tôi cầu nguyện cùng với nhau và tập các bài dhikr, nghĩa là xướng lên chín mươi chín cái tên đã được tiết lộ của Thượng đế. Ông là một hafiz, người thuộc lòng kinh Koran, và ông tụng bằng một giọng hát trầm. Tiếng Ảrập của tôi chưa bao giờ khá cả nhưng tôi yêu cái âm thanh của nó. Những âm bật từ sâu trong thanh quản và những nguyên âm chảy trôi quay tròn ngay bên dưới tri giác của tôi như một dòng suối đẹp đẽ. Nó không rộng, chỉ vừa một giọng người, nhưng nó sâu thẳm như vũ trụ.

Tôi đã mô tả chỗ ở của ông Kumar như một túp nhà tuềnh toàng. Vậy mà không có một thánh đường, nhà thờ, đền miếu nào đã từng khiến tôi cảm thấy linh thiêng đến thế. Đôi khi tôi bước ra khỏi xưởng bánh ấy với một cảm giác tràn đầy vinh hiển. Tôi nhảy lên xe đạp và đạp sự vinh hiển ấy qua không trung.
Có một bận như thế tôi đã đạp tuốt ra khỏi thành phố, và khi quay trở về, ở một chỗ đất cao có thể nhìn thấy mặt biển ở phía trái con đường tít tắp ở phía dưới, tôi đột nhiên cảm thấy như mình đang ở trên thiên đường. Tôi đã đi qua chỗ ấy nhiền lần và nó vẫn hệt như thế, nhưng tôi đã nhìn nó bằng một con mắt khác. Cảm giác lúc ấy, một sự lẫn lộn rất nghịch lý của năng lượng đang đập dồn dập và trạng thái bình yên sâu thẳm, là một cảm giác thật mãnh liệt và sung sướng. Trước đó, con đường, biển cả, cây cối, không khí và mặt trời, mỗi thứ nói với tôi bằng một ngôn ngữ riêng. Còn bấy giờ tất cả chúng nói với tôi bằng cùng một ngôn ngữ hòa đồng. Cây cối để mắt đến con đường; con đường biết rõ sự có mặt của không khí, và không khí thì tràn ngập những suy tưởng về biển cả, mênh mang một niềm tin chia sẻ với mặt trời. Mỗi nguyên tố trong mối quan hệ hài hòa với các hàng xóm của chúng, và tất cả đều là anh em ruột thịt. Lúc quỳ xuống tôi còn là một kẻ phải chết; lúc đứng dậy tôi đã thành bất tử. Tôi thấy mình như tâm điểm của một vòng tròn nhỏ đồng tâm với một vòng tròn lớn hơn nhiều. Atman đã gặp được Allah(1).
Có một lần khác tôi cũng cảm thấy Thượng đế rất gần gụi với mình. Đó là ở Canada, rất lâu về sau này. Tôi đang đến thăm các bạn ở nông thôn, khi ấy là mùa đông. Tôi đã đi đạo một mình trong khu điền sản rộng lớn của họ và đang trên đường về nhà. Đêm hôm trước đã có tuyết rơi và trời hôm đó thật trong trẻo, sáng sủa. Thiên nhiên đắp chăn trắng. Khi đang bước lên ngôi nhà, tôi quay lại nhìn. Có một khu rừng và trong khu rừng đó có một quãng cây thưa. Một làn gió mà cũng có thể là một con vật, đã làm lay động một cành cây. Những hạt tuyết mịn đang rơi xuống trong không khí, lấp lánh trong ánh nắng mặt trời. Trong đám bụi vàng đang rơi trong quãng rừng thưa đầy nắng ấy, tôi nhìn thấy Mary Đồng trinh. Tại sao lại là bà, tôi cũng không biết nữa. Lòng ngưỡng mộ Mary chỉ là thứ yếu trong tôi. Nhưng chính là bà. Da bà tái xanh. Bà vận một bộ váy trắng và một áo choàng xanh da trời; tôi vẫn nhớ ấn tượng rất mạnh của mình lúc đó về những nếp váy áo của bà. Khi tôi nói tôi đã nhìn thấy bà, tôi không có ý nói theo nghĩa đen mặc dầu quả thực bà có thân thể và màu sắc hẳn hoi. Tôi cảm thấy đã nhìn thấy bà, một nhỡn ảnh bên kia nhỡn ảnh. Tôi sững người, nheo mắt. Bà thật đẹp và có một dáng vẻ vương giả cao quý cực kì. Bà mỉm cười với tôi, đầy vẻ phúc hậu. Vài giây sau, bà biến mất. Lòng tôi tràn ngập sợ hãi và vui sướng.

Sự hiện diện của Thượng đế là phần thưởng đẹp đẽ nhất.

Ghi chú:
(1) Atman: tiểu vũ trụ, linh hồn thế giới ngự trong từng cá nhân, một quan niệm Hinđu. Allah: Thượng đế trong đạo Hồi. Atman gặp Allah cũng có nghĩa là một người Hinđu đã giác ngộ được chân lí của đạo Hồi. (ND)

Cốm
13-03-2008, 02:39 PM
CHƯƠNG 21

Tôi đang ngồi trong một quán cà phê nội thành, ngay sau đó, và suy nghĩ. Tôi vừa qua gần trọn buổi chiều với anh. Sau những lần tiếp chuyện anh, lúc nào tôi cũng thấy ngán ngẩm với ý thức bằng lòng ỉu xìu vốn đã thành đặc trưng của đời mình. Những từ gì anh dùng đã khiến tôi giật mình ấy nhỉ? A, đây rồi: “những thực tế khô khan và không có men nở,” “câu chuyện hay hơn,” Tôi lấy giấy bút ra và viết:

Những lời đầy ý thức thần thánh: niềm vui trong đạo đức, cảm giác được nâng cao kéo dài, nỗi sướng, niềm vui; một cuộc thức tỉnh của ý thức đạo đức, làm cho ta đột nhiên thấy rằng đó là điều quan trọng hơn nhiều so với việc hiểu biết được mọi vật; một cuộc xếp đặt lại vũ trụ theo những nguyên lý đạo đức chứ không phải tri thức; một giác ngộ rằng cái nguyên tắc nền tảng của sinh tồn là cái mà ta gọi là tình yêu, nó hoạt động và hiển lộ có đôi khi không rõ ràng, rành mạch, cũng không lập tức, chứ đừng nói gì đến việc không thể tránh khỏi.

Tôi ngừng viết, còn sự im lặng của Thượng đế thì sao? Tôi suy đi nghĩ lại. Rồi viết tiếp:
Một trí tuệ nhưng phải được thấm nhuần với một cảm thức đáng tin về sự hiện diện và về một mục đích tối hậu.

CHƯƠNG 22

Tôi có thể hoàn toàn tưởng tượng được những lời cuối cùng của một người vô thần: “Trắng quá! Trắng lắm! Ôi… tình yêu! Thượng đế của tôi!” Và sau đó là bước nhảy theo lòng tin vào cõi chết. Trong khi đó với một người hoài nghi, nếu người đó vẫn còn trung thực với bản chất hoài nghi của mình, nếu anh ta vẫn bám chặt lấy cái thực tế khô ran và không có men nở kia, sẽ có giải thích về quầng sáng đang bao bọc mình lúc đó như sau: “Có khả năng đây là hiện tượng thiếu hụt oxy trong não bộ,” và thế là cho đến chết vẫn thiếu trí tưởng tượng và lỡ mất câu chuyện hay hơn.

CHƯƠNG 23

Than ôi, cái ý thức cộng đồng do có cùng một lòng tin mang lại cho con người đã gây rắc rối cho cho tôi. Chẳng chóng thì chầy, những việc tín ngưỡng của tôi đã bị người ta chú ý. Đầu tiên là người người không lấy đó làm điều mà chỉ thấy buồn cười vô hại. Nhưng sau thì đến những người coi đó là hệ trọng và chẳng thấy buồn cười chút nào.

Thầy cả Cơ đốc hỏi: “Con trai ông bà làm gì ở đền thơ Hinđu vậy?”
Thầy cả Hồi giáo hỏi: “Người ta thấy con trai ông bà làm dấu thánh giá trong nhà thờ đấy.”

Thầy cả Hinđu nói: “Con trai ông bà đã theo Hồi giáo rồi.”
Đúng vậy, cha mẹ tôi đã bắt buộc phải biết tất cả những điều đó, với một chút ngạc nhiên buồn cười. Trước đấy cha mẹ có biết gì đâu. Không biết là tôi đã đang thực hành cả đạo Hinđu, Cơ đốc, và đạo Hồi. Bọn choai choai đứa nào chả giấu bố mẹ một vài điều bí mật, có phải không nào? Bọn mười sáu tuổi đứa nào cũng có bí mật hết, tất cả, chẳng chừa đứa nào. Nhưng số phận đã quyết định là cha mẹ tôi, tôi, với ba nhà thông thái kia, như tôi gọi họ từ đó về sau, một ngày nào đấy sẽ phải gặp nhau tại hành lang ngoài trời Goubert Salai bên bờ biển và điều bí mật của tôi sẽ phải bị phanh phui. Đó là một chiều Chủ nhật nóng bức nhưng hây hẩy gió và tuyệt đẹp, vịnh Bengal lấp lánh dưới bầu trời xanh biếc, đám thị dân đua nhau đi tản bộ. Trẻ con la hét và cười nói ẫm ĩ. Bóng bay sặc sỡ lơ lửng trong không trung. Các hàng kem bán chạy như tôm tươi. Tại sao lại nói chuyện công việc vào một ngày như vậy, tôi tự hỏi. Sao mọi người không cứ chỉ đi dạo, gật đầu chào nhau và mỉm cười. Nhưng không kịp nữa rồi. Chúng tôi sắp phải gặp không phải chỉ một nhà thông thái mà là cả ba, mà không phải lần lượt từng ông mà cùng một lúc, và người nào cũng đã nghĩ rằng đó là cơ hội gặp được nhân vật nổi tiếng của Pondicherry, vị giám đốc vườn thú, cha đẻ của đứa con nhiệt thành mẫu mực. Lúc tôi thấy vị thứ nhất, tôi mỉm cười. Đến khi thấy vị thứ ba, nụ cười của tôi đông cứng lại thành cái mặt nạ hãi hùng. Khi đã rõ là cả ba vị sẽ cùng xúm lại vì chúng tôi, tim tôi nhảy thót lên một cái và bắt đầu chìm xuống rất thấp.

Các vị thông thái có vẻ khó chịu khi nhận ra rằng tất cả họ đều đã chỉ được một đối tượng mời đến gặp mà thôi. Chắc hẳn mỗi vị đã tưởng rằng chỉ có mình mới là người được mời đến về việc giáo hội, cón những người khác thì chắc chỉ tình cờ có mặt và đã xen vào chuyện này một cách không có ý từ gì cả. Những cái liếc khó chịu đan nhau chan chát.

Cha mẹ tôi có vẻ lúng túng vì cảm thấy không còn được thoải mái theo ý họ trứoc sự có mặt của ba giáo đồ lạ hoắc đang mỉm cười ngượng ngịu. Phải nói ngay rằng gia đình tôi không có tí tinh thần chính giáo nào. Cha coi mình là một phần của nước Ấn Độ Mới - giầu có, hiện đại và thông tục như một cái kem que. Cha không có tí tín ngưỡng nào trong xương cả. Cha là một người làm ăn, businessman, mà phải viết là busynessman mới đúng với ông, vì ông là một nhà chuyên môn thực tế và cần mẫn, lo chuyện giao phối cho nội bộ cho sư tử nhiều hơn bất cứ một vấn đề hiện sinh hoặc đạo đức cao vời nào. Đúng là cha có mời giao sỹ đến ban phước cho tất cả những thú vật mới đem về vườn thú và có hai cái miếu nhỏ trong vườn, một thờ thần Ganesha và cái kia thờ thần Hanuman, những vị thần có chiều hướng có thể ban phước cho một ông giám đốc vườn thú, vì một thần thì có đầu voi còn thần kia thì mang đầu khỉ, nhưng cha tính đó là vị lợi ích của công việc kinh doanh chứ không phải vì linh hồn mình, là việc lấy lòng người xem chứ không phải để cứu rỗi bản ngã của ông. Nỗi khắc khoải tâm linh là hoàn toàn xa lạ với cha; chỉ có những khắc khoải tài chính mới làm rung động được con người cha. “Một vụ dịch bệnh thôi,” cha thường nói, “là chúng ta sẽ chỉ có đi đập đá rải đường mà kiếm miếng ăn.” Mẹ thì giữ mồm giữ miệng, ngán ngẩm và trung lập trong vấn đề này. Một nền giáo dưỡng Hinđu và một nhà trường Cơ đốc dòng Baptist đã chính xác triệt tiêu nhau trong vấn đề tín ngưỡng và biến mẹ thành người không ngoan đạo một cách bình thản. Tôi ngờ rằng mẹ đã đoán thấy tôi có khuynh hướng khác trong việc này, và mẹ không bao giờ nói gì khi hồi nhỏ tôi say mê ngốn ngấu cả cuốn truỵên tranh Ramayana và Mahabharata(1) cũng như những cuốn Thánh kinh có minh họa cho trẻ em và các sách thần thánh khác. Bản thân mẹ là người đọc rộng. Mẹ vui lòng thấy tôi gí mũi vào sách, bất kỳ là sách gì, miễn không bậy bạ. Còn với anh Ravi, nếu thần Krishna đã cầm một cái chày bóng chứ không phải cây sáo, nếu đấng Christ trông giản dị và giống một anh trọng tài, nếu nhà tiên tri Mohammad, xin ngài yên nghỉ, đã cho thấy có chút năng khiếu về môn bóng lăn, có thể anh đã ngước một mắt của mình lên, và cũng vì thế anh đã suốt đời mê ngủ.


Sau những tiếng chào xã giao là một sự im lặng ngượng ngịu. Thầy cả Cơ đốc phá vỡ sự im lặng đó khi ông lên tiếng, giọng tự hào, “Piscine là một cậu bé Cơ đốc ngoan ngoãn. Tôi hy vọng sắp tới cậu sẽ tham gia giàn đồng ca của chúng tôi.”

Cha mẹ tôi, thầy cả Hinđu và thầy cả đạo Hồi có vẻ ngạc nhiên.
“Chắc là ông nhầm rồi, cậu ấy là một tín đồ Hồi giáo tốt lành. Thứ Sáu nào cậu cũng đến cầu nguyện và kiến thức về kinh Koran của cậu đang tấn tới rõ rệt.” Đó là lời thầy cả đạo Hồi.

Thầy cả Hinđu lên tiếng. “Cả hai vị đều nhầm cả rồi. Cậu ấy là một người Hinđu tốt. Lần nào tôi cũng thấy cậu ấy trong đền thờ để chịu lễ lộc thánh và làm lễ puja.”
Cha mẹ tôi, thầy cả Cơ đốc và thầy cả đạo Hồi có vẻ thất thần.
“Không có nhầm lẫn gì cả,” thầy cả Cơ đốc nói, “tôi biết cậu bé này mà. Cậu ấy là Piscine Molitor Patel và cậu ấy là tín đồ Cơ đốc.”

“Tôi cũng biết cậu ấy, và tôi xin nói rằng cậu là một người Hồi giáo,” thầy cả đạo Hồi khăng khăng.
“Vô lý! Thầy cả Hinđu kêu lên. “Piscine sinh ra là người Hinđu, sống như một người Hinđu và sẽ chết là một người Hinđu!”

Bà nhà thông thái nhìn chòng chọc vào nhau, nín thở và kinh ngạc.
Lạy Chúa tôi, xin đừng để họ nhìn sang con, tôi thì thầm trong linh hồn mình.
Mọi cặp mắt đổ dồn vào tôi.

“Này Piscine, điều đó có thể là sự thực chăng?” Thầy cả đạo Hồi khẩn thiết. “Hinđu và Cơ đốc giáo là những người thờ thần tượng. Họ có nhiều thần thánh.”

“Còn người Hồi giáo thì có nhiều vợ.” Thầy cả Hinđu đốp lại.
Thầy cả Cơ đốc nhìn cả hai một cách dò hỏi. “Piscine,” thầy gần như thì thầm, “sự cứu rỗi chỉ có ở Jesus mà thôi.”

“Nói xạo! Người Cơ đốc không biết gì về tôn giáo cả,” thầy cả Hinđu nói.
“Thế Thượng đế của tôn giáo các vị thì ở đâu?” Thầy cả Cơ đốc vặc lại. “Các vị không có đến một phép lạ để cho người ta thấy. Tôn giáo gì lạ vậy, không có đến cả phép lạ nữa?”

“Nó không phải là một rạp xiếc với những người chết lúc nào cũng nhảy ra khỏi mồ, thế đấy! Người Hồi giáo chúng tôi gắn bó với phép lạ nguyên thuỷ của sinh tồn. Chim bay, mưa rơi, mùa màng tươi tốt – đó cũng đủ là những phép lạ của chúng tôi rồi.”

“Lông chim và mưa móc đều hay cả đấy, nhưng chúng tôi muốn biết chắc rằng Thượng đế thực sự ở bên chúng tôi.”

“Có phải vậy chăng? Có phải các vị thực lòng mong Thượng đế ở bên mình chăng? Quý vị đã tìm cách giết chết ngài! Quý vị đóng đanh ngài lên cây thập tự bằng những cái đinh to gộc. Đãi một nhà tiên tri như thế có phải là văn minh chăng? Tiên tri Mohammad – xin ngài được yên nghỉ - đã đem cho chúng tôi lời Thượng đế mà không cần đến tất cả những cái phi lý nhục nhã kia và đã qua đời khi trọn vẹn tuổi đời.”

“Lời Thượng đế ư? Cho cái anh buôn mù chữ ấy của quý vị ở giữa sa mạc hoang vu ấy ư? Đó chỉ là những lắp bắp trong cơn động kinh do lạc đà lắc lư nhiều quá mà thôi, nào phải những phát lộ thần thánh gì. Hoặc nếu không thì cũng chỉ vì mặt trời đã rán chín bộ óc của ông ta!”

“Nếu nhà tiên tri – “pi-bi-yu-ết-trờ(2) – còn sống, ngài sẽ có những lời được dành riêng cho ông, thầy cả đạo Hồi đáp lời, cặp mắt nhíu lại một cách đe dọa.
“Ô hô, ông ta chết rồi! Đấng Christ thì còn sống, còn ngài “pi-bi-yu-ết-trờ” của quý vị thì chết rồi, chết rồi, chết rồi!”

Thầy cả Hinđu ngắt lời hai vị kia một cách im ắng. Dùng tiếng Tamil, ông nói, “Vấn đền thực sự ở đây là, tại sao Piscine lại phải mất thì giờ chơi bời với những tôn giáo ngoại lai chứ?”
Mắt của hai thầy cả Cơ đốc và Hồi giáo như đang nhảy bật ra khỏi tròng. Cả hai vị đều là người Tamil bản địa.
“Thượng đế chỉ là một cho tất cả,” thầy cả Cơ đốc lắp bắp.
Thầy cả đạo Hồi hối hả gật đầu. “Chỉ có một Thượng đế mà thôi.”

“Và với Thượng đế của họ, người Hồi giáo không lúc nào ngớt gây chuyện rắc rối và bạo loạn. Đạo Hồi tồi tệ đến thế nào thì đã được chứng tỏ ở sự thiếu văn minh của người Hồi giáo,” thầy cả Hinđu tuyên bố.

“Thế còn chế độ đẳng cấp và nô lệ thì sao,” thầy cả đạo Hồi không chịu lép. “Người Hinđu bắt người làm nô lệ và thờ phụng những con búp bê áo quần sặc sỡ.”
“Họ là nhân tình của những con bê vàng. Họ quỳ lạy những con bò cái,” thầy cả Cơ đốc hùa theo.

“Còn người Cơ đốc thì quỳ mọp trước một người da trắng! Họ là tay sai của một Thượng đế ngoại lai. Là cơn ác mộng của tất cả những ai không phải da trắng!”

“Và họ ăn thịt lợn và cả ăn thịt người,” thầy cả đạo Hồi nói thêm vào cho nặng cân hơn.

“Điều quan trọng ở đây là,” thầy cả Cơ đốc lên tiếng với một vẻ giận dữ lạnh lùng, “cậu Piscine có muốn theo đuổi tín ngưỡng thật sự hay không – hay là những huyền thoại trong những tập truyện tranh biếm họa.”

“Thượng đế hay - là tượng gỗ,” thầy cả đạo Hồi đế theo, giọng nghiêm trang.
“Những vị thần của chúng ta – hay đám thánh thần thuộc địa,” thầy cả Hinđu rít giọng.

Khó phân biệt được lúc ấy mặt ai bừng bừng sát khí hơn. Trông họ có vẻ như sắp nổ tung lên cả.

Cha giơ hai tay lên trời. “Thưa quý vị, thưa quý vị, xin quý vị làm ơn! Cha nói xen vào. “Tôi mong quý vị nhớ đến quyền tự do hành đạo của nước chúng ta.”

Ba gương mặt tông đồ quay sang cả cha.

“Vâng! Hành một đạo thôi - động từ số ít ạ(3)!” Ba vị thông thái đồng thanh kêu lớn. Ba ngón tay trỏ, như những dấu chính tả, bật dậy đứng nghiêm trong không trung để chứng tỏ quan điểm ấy.

Họ không hài lòng với hiệu qủa đồng thanh không chủ đích ấy hoặc với những dáng điệu nhất trí không gìm lại được của mình. Họ vội vàng bỏ tay xuống, và mỗi người thở dài rền rĩ theo cách riêng của mình. Cha với mẹ chỉ biết nhìn, chẳng biết nói gì.

Thầy cả Hinđu nói trước. “Thưa ông Patel, lòng ngoan đạo của cậu Piscine thật đáng khâm phục. Trong thời buổi nhiễu nhưng này, thậ may có một cậu thiếu niên tha thiết đến Thượng đế đến vậy. Tất cả chúng tôi đều nhất trí về điểm này.” Thầy cả đạo Hồi và thầy cả Cơ đốc gật đầu. “Nhưng cậu ấy không thể là một người Hinđu, một người Cơ đốc, và một người Hồi giáo. Không thể thế được. Cậu ấy phải lựa chọn.”

“Tôi nghĩ đó không phải là một tội lỗi, nhưng có lẽ quý vị có lý.” Cha đáp lời.

Cả ba vị thì thầm đồng tình và cùng ngước nhìn lên trời, cũng giống như cha lúc đó, chắc vì họ cảm thấy nhất định sẽ có một quyết định. Mẹ nhìn sang tôi.

Một sự im ắng đè nặng lên hai vai tôi.

“Này, Piscine?” Mẹ huých nhẹ vào tôi. “Con cảm thấy thế nào về việc này?”
“Bác Gandhi có dạy rằng mọi tín ngưỡng đến là chân lí. Con chỉ mong được yêu thương Thượng đế mà thôi,” tôi nói ngập ngừng, cúi gằm, đỏ hết cả mặt.
Sự lúng túng của tôi lây sang mọi người. Chẳng ai nói gì. Ngẫu nhiên chúng tôi ngồi không xa bức tượng Gandhi trong đoạn hành lang đó. Cây gậy chống trong tay, nụ cười dí dỏm trên môi, một ánh lấp lánh trong đôi mắt, vị Mahatma ấy bước đi. Tôi tưởng tượng viễn vông rằng ông đã nghe hết cuộc đối thoại của chúng tôi, nhưng ôngquan tâm hơn cả đến những gì đang diễn ra trong lòng tôi. Cha dặng hắng rồi nói nhỏ như chỉ mình ông nghe, “Có lẽ đó là điều tất cả chúng ta đều đang cố gắng thực hiện – yêu thương Thượng đế.”
Tôi nghĩ thật là buồn cười là ông đã nói thế, cha tôi, người chưa từng đặt chân vào một ngôi đền nào vơi ý định nghiêm chỉnh kể từ thủa tôi bắt đầu biết nhớ. Nhưng có vẻ câu nói ấy đã giải quyết được mọi chuyện. Không thể trách mắng một thằng bé chỉ muốn yêu thương Thượng đế. Ba vị thông thái rút lui với những nụ cười cứng đơ đầy vẻ hờn dỗi.

Cha nhìn tôi một giây, như thể định nói gì, song rồi nghĩ lại và hỏi, “Có ai muốn ăn kem không nào?” Rồi cha đi luôn ra chỗ quầy kem trước khi chúng tôi kịp trả lời. Mẹ nhìn tôi chăm chú một lúc lâu hơn, vẻ mặt mẹ vừa dịu dàng, vừa bối rối.

Đó là bước nhập môn của tôi vào cuộc đối thoại liên tín ngưỡng. Cha mua ba cái kem có nhân kẹp. Chúng tôi ăn những cái kem ấy trong một sự im lặng bất thường khi tiếp tục cuộc dạo chơi Chủ nhật của mình.

Ghi chú:
(1) Ramayana và Mahabharata là hai trường ca vĩ đại của tín ngưỡng Hinđu. (ND)
(2) Nguyên bản là p.b.u.h, những âm tắt của câu cửa miệng của người Hồi giáo mỗi khi nhắc đến Mohammand: peace be upon him, nghĩa là “Xin ngài được yên nghỉ”. Chúng tôi nghĩ cách dịch tốt nhất là dùng các âm chữ cái như khi nhân vật nói ra bốn chữ này, là “pi-bi-yu-ết-trờ”, để giữ được phần nào cái hài của câu chuyện. (ND)

Cốm
13-03-2008, 02:40 PM
CHƯƠNG 24

Ravi có một ngày náo loạn khi anh phát hiện ra việc đó.

“Thế nào, thưa đức chúa Jesus theo đạo Hinđu, năm nay ngài có hành hương về thành Jesusalem không hử?” Anh nói, chắp hai tay trước mặt như muốn lễ sống tôi. “Thành Mecca có vẫy gọi ngày không ạ?” Anh làm dấu thánh giá. “Hay là ngài sẽ đi Lamã thụ lễ tấn phong lên thay giáo hoàng Pius?” Anh vẽ lên không khí một chữ Hylạp, cố làm rõ cách đánh vần cái chữ bêu rếu của mình. “Ngài đã có thì giờ cắt cái đầu của con chim ngài để thành ra một người Do thái chưa hử? Với cái đà này, nếu ngài đến đền thờ ngày thứ Năm, đến thánh đường ngày thứ Sáu và nhà thờ ngày Chủ nhật, ngài chỉ cần cải thêm ba đạo nữa là ngài đã có bảy ngày lễ một tuần đến hết đời.”

CHƯƠNG 25

Chưa phải thế là hết. Luôn có những người tự cho mình có nhiệm vụ bảo vệ Thượng đế, cứ như thể cái thực tại tối thượng ấy, cái khung chống đỡ sinh tồn ấy, là cái gì yếu ớt và đang lâm nguy không bằng. Những người này đi qua một quả phụ đã biến dạng vì bệnh phong đang xin bố thí, qua lũ trẻ rách rưới lang thang ngoài phố, và họ nghĩ, ”Còn lạ gì lối ăn xin chuyện nghiệp này.” Nhưng nếu họ tưởng đang có một hành vi chống lại Thượng đế, dù chỉ là nhỏ nhặt, thì lại là chuyện khác. Mặt họ đỏ bừng lên, ngực họ phập phồng dữ dội, họ phun ra những lời giận dữ. Mức độ bất bình của họ thật đáng kinh ngạc. Quyết tâm của họ thật đáng sợ.

Những người này không chịu nhận ra rằng Thượng đế phải được bảo vệ bên trong lòng chúng ta, không phải ở bên ngoài. Họ nên hướng cơn giận của họ vào chính bản thân. Bởi lẽ cái ác ở ngoài kia chỉ là cái ác ở bên trong đã được sổng ra ngoài. Bãi chiến trường để dành giật cái thiện không phải là quảng trường công cộng kia mà là khoảng rừng thưa nhỏ bé trong trái tim ta. Trong khi đó, số phận của những người quả phụ và những em bé vô gia cư thật đã phũ phàng làm sao, và chính là để bảo vệ họ, chứ không phải là Thượng đế, mà những người công chính phải khẩn trương lên.

Một buổi nọ, có một kẻ ngu ngốc to mồm đã đánh đuổi tôi ra khỏi thánh đường lớn Hồi giáo. Khi tôi đến nhà thờ, thầy cả Cơ đốc đã trợn mắt nhìn tôi đến nỗi tôi không thể nào cảm thấy được cõi yên bình của đấng Christ. Đôi khi một tăng lữ Brahman còn đuổi tôi không cho dự lễ hóa lộc. Người ta đã mách với cha mẹ tôi những hành vi tín ngưỡng của tôi với một giọng thì thào vội và như thể đang tiết lộ tội phản quốc vậy.

Cứ như thể Thượng đế sẽ được lợi lộc vì đầu óc của những hành vi nhỏ mọn ấy.
Với tôi, tôn giáo là nơi giúp chúng ta giữ được nhân phẩm của mình chứ không phải để hạ nhục nó.

Tôi không đến dự lễ Misa của nhà thơ Đức Mẹ Đồng trinh nữa, mà sang bên nhà thờ Đức mẹ của các Thiên thần. Tôi không còn ở lại lâu hơn sau buổi cầu nguyện ngày thứ Sáu với những đồng đạo của mình tôi chỉ vào đền thờ những lúc đông người để đám giáo sỹ Brahmin không để ý và xen vào giữa tôi và Thượng đế.

CHƯƠNG 26

Vài ngày sau cuộc gặp mặt ở con đường đi dạo ngoài bờ biển, tôi thu hết can đảm và đến gặp cha tại văn phòng của người.
“Thưa cha.”
“Có chuyện gì đấy, Piscine?”

“Con muốn thụ lễ đặt tên thánh và con muốn có một tấm thảm cầu nguyện.”
Lời tôi nói chậm chạp lọt vào tai cha. Sau vài giây, cho bỏ đống giấy tờ đang đọc và ngẩng lên.

“Một cái gì cơ? Cái gì?”
“Con muốn cầu nguyện ngoài trời mà không bị bẩn quần. Con đang học trường Cơ đốc mà chưa được chính thức mang tên thánh.”

“Tại sao con muốn cầu nguyện ngoài trời? Mà thực ra, tại sao con lại muốn cầu nguyện mới được chứ?”
“Vì con yêu Thượng đế.”

“A ha.” Cha có vẻ ngỡ ngàng vì câu trả lời của tôi, gần như bối rối. Một lúc im lặng. Tôi nghĩ có khi cha lại cho tôi ăn kem chưa chừng. “Thế này này, trường Petit Seminaire chỉ có cái tên là Cơ đốc thôi. Nhiều trẻ Hinđu học ở đó không phải tín đồ Cơ đốc giáo. Không có tên thánh thì con vẫn học hành tử tế bình thường. Cầu nguyện thánh Allah thì chẳng có gì khác đâu.”

“Nhưng con muốn cầu nguyện thánh Allah. Con muốn là một người Cơ đốc.”
“Con không thể là cả hai, con chỉ có thể theo một đạo mà thôi.”
“Sao con lại không thể là cả hai?”

“Đó là hai tôn giáo khác nhau! Chúng chẳng có gì chung cả.”
“Đâu phải thế. Cả hai đều nhận Abrahman là của mình. Người Hồi giáo nói Thượng đế của người Do thái giáo và Cơ đốc giáo cũng chính là Thượng đế của người Hồi giáo. Họ đều công nhận David, Moses và Jesus là những tiên tri của mình.”

“Nhưng mà những chuyện ấy thì có liên quan gì đến mình hả Piscine? Chúng ta là người Ấn Độ cơ mà.”

“Vẫn có người Cơ đốc và Hồi giáo ở Ấn Độ hằng bao nhiêu thế kỷ nay rồi! Có người còn nói Jesus được mai táng ở Kashmir.”
Cha không nói gì, chỉ nhìn tôi, chau mày. Đột nhiên có người gọi cha vì công việc.

“Con hãy thưa chuyện này với mẹ.”
Mẹ đang đọc sách.

“Mẹ ơi.”
“Có chuyện gì thế con yêu?”

“Con muốn được mang tên thánh và con muốn có một tấm thảm cầu nguyện.”
“Con hãy thưa chuyện với cha.”

“Thưa đã. Cha bảo con thưa chuyện này với mẹ.”
“Thật thế à?” Mẹ đặt cuốn sách xuống và nhìn về phía vườn thú. Tôi chắc lúc ấy cha phải cảm thấy một luồng khí lạnh toát thổi vào gáy mình. Mẹ quay sang phía tủ sách. “Mẹ có cuốn sách này chắc con sẽ thích.” Mẹ đã đưa tay ra lấy một cuốn sách dày của Robert Louis Stavenson. Đó là chiến thuật quen thuộc của mẹ.

“Con đọc cuốn đó rồi mẹ ạ. Ba lần rồi.”
“Ô, thế à?” Tay mẹ đưa sang phía bên trái.

“Cả Conan Doyle cũng vậy ạ.” Tôi nói.
Cánh tay mẹ vung sang phải. “Còn R. K. Narayan thì sao? Con chưa thể nào đã đọc hết các sách của Narayan.”

“Mẹ ơi, những việc này rất hệ trọng đối với con.”
“Con đọc Robin Crusoe nhé.”

“Mẹ!”
“Piscine ơi!” Mẹ nói. Mẹ ngồi xuống ghế, vẻ mặt biểu lộ một thái độ phản đối yếu ớt nhất, có nghĩ là tôi phải tấn công vào những điểm xác đáng nhất. Mẹ sửa lại một cái gối kê. “Cha mẹ đều thấy là lòng nhiệt thành tín ngưỡng củc con là một cái gì đó hơi thần bí.”

“Nó là một thần bí thật sự mẹ ạ.”

“Hừmm… Mẹ không định nói điều đó. Con hãy nghe mẹ đây, nếu con quả thật muốn theo một tín ngưỡng, con chỉ có thể là một tín đồ Hinđu, một người theo Cơ đốc giáo hoặc một người theo đạo Hồi. Con đã nghe họ nói ở chỗ đi dạo ngoài biển rồi đấy.”

“Con vẫn không hiểu tại sao con lại không thể là cả ba. Mamaji có hai hộ chiếu. Bác ấy vừa là Ấn Độ vừa là Pháp. Sao con lại không thể là Hinđu, Cơ đốc và Hồi giáo?”

“Chuyện ấy khác. Pháp và Ấn Độ là các dân tộc trên trái đất.”
“Thế có bao nhiêu các dân tộc ở trên trời.”
“Một. Đúng thế. Một dân tộc. Một hộ chiếu.”
“Một dân tộc ở trên trời.”

“Đúng thế. Hoặc chẳng có gì cả. Còn có cả trường hợp ấy nữa con ạ. Con đang bập vào những chuyện thật sự là lỗi thời đấy.”
“Nếu chỉ có một dân tộc ở trên trời, có phải tất cả các hộ chiếu đều có giá trị phải không mẹ?”

Một đám mây phân vân bao phủ gương mặt mẹ.
“Bác Gandhi đã nói…”

“Thôi được rồi, mẹ biết bác Gandhi nói gì rồi.” Mẹ đưa tay lên trán. Lúc ấy, mẹ có một vẻ rất mệt nhọc, quả thực vậy. Mẹ nói, “Sao mà đến nông nỗi này.”

Cốm
13-03-2008, 02:42 PM
CHƯƠNG 27

Tối hôm đó, tôi nghe lỏm được cha mẹ nói chuyện với nhau.
“Em đồng ý rồi à?” Cha hỏi.
“Em biết nó đã hỏi anh. Anh đã đùn nó sang cho em,” mẹ trả lời.
“Anh ấy à?”
“Đúng rồi.”
“Anh bận suốt cả ngày.”

“Bây giờ anh hết bận rồi, nhìn anh em biết là anh hoàn toàn đang rỗi và thoải mái. Nếu anh muốn xung phòng vào buồng nó, rút cái thảm cầu nguyện dưới chân nó và thảo luận về vấn đề thụ lễ phong tên thánh với nó, thì anh cứ đi đi. Em không phản đối.”

“Không, không.” Qua giọng cha tôi có thể hình dung ông đang ngồi sâu hơn vào chiếc ghết của ông. Một lúc im lặng.

“Nó có vẻ thu hút các tôn giáo như kiểu chó thu hút rận,” cha nói. “Anh không hiểu được. Mình là một gia đình Ấn Độ hiện đại; mình sống theo lối sống mới; Ấn Độ đang ở đỉnh điểm của quá trình trở thành một dân tộc thực sự tiên tiến và hiện đại - thế mà đúng lúc này mình lại sinh ra một thằng con trai đinh ninh nó là hậu thân của thần Ramasrishna.”

“Nếu bà Grandhi là đại diện của cái hiện đại và tiên tiến mà anh vừa nói đến, em cũng chẳng biết mình có ưa được những cái đó không đây,” mẹ nói.
“Bà Grandhi rồi sẽ qua đi chứ! Nhưng sự tiến bộ thì không thể dừng lại được. Nó là hồi trống mà tất cả chúng ta đềuphải bước theo. Khoa học kỹ thuật là có ích và các ý tưởng hay sẽ truyền bá – đó là hai qui luật của tự nhiên. Nếu ta không để cho khoa học kỹ thuật giúp ích cho cuộc sống, nếu ta cưỡng lại các ý tưởng hay, ta sẽ tự kết án mình vào vòng mông muội với các loài khủng long mà thôi! Anh tuyệt đối tin tưởng vào điều này. Bà Grandhi và những cái ngớ ngẩn của bà sẽ qua đi. Một nước Ấn Độ mới sẽ đến.”
(Quả thực bà ấy sẽ qua đi. Và nước Ấn Độ Mới ấy, hoặc một gia đình của nó, sẽ quyết định di cư sang Canada.)

Cha nói tiếp: “Em có nghe lúc nó nói ‘Bác Gandhi từng dạy rằng hết thẩy các tôn giáo đều là chân lý’ không?”
“Có.”

“Bác Gandhi? Thằng bé này đang ngày một thân thích với Gandhi đến thế kia à? Sau bác với cha Gandhi sẽ còn là cái gì đây? Bác Jesus chắc? Mà lại còn cái rất phi lý nữa – có đúng là nó đã thành một tín đồ Hồi giáo không?”
“Có vẻ thế.”

“Một kể Hồi giáo! Nói thực, là một tín đồ Hinđu mê muộithì anh cũng còn hiểu được. Kể cả là một người Cơ đốc nữa, mặc dù có hơi lạ nhưng cũng vẫn còn có thể hiểu được. Người Cơ đốc đã ở đây từ lâu – Thánh Thomas, Thánh Francis Xavier, những nhà truyền giáo và vân vân. Nhờ họ mà ta có các trường tử tế.”
“Vâng.”

“Cho nên tất cả những cái đại loại thế anh có thể chấp nhận được. Nhưng mà Hồi giáo! Cái đó hoàn toàn ngoại lai với truyền thống của chúng ta. Tín đồ Hồi giáo là những kẻ xa lạ bên ngoài.”

“Họ cũng đã ở đây từ rất lâu rồi đấychứ. Họ còn đông hơn dân Cơ đốc hàng trăm lần.”

“Cũng thế thôi. Họ là người ngoài.”
“Có thể thằng Piscine nhà mình đang bước đều theo một nhịp trống tiến bộ khác.”
“Em bênh nó hả, em cứ mặc cho nó tự huyễn mình thành một thằng Hồi giáo đấy hả?”

“Thì làm gì được bây giờ, hả anh Santosh? Nó đã ghi lòng rồi, mà rồi thì có hại gì đến ai đâu. Có thể cũng chỉ là một giai đoạn thôi. Cả cái đó nữa rồi cũng qua đi – như bà Gandhi vậy.”

“Sao nó không thể có những vui thú bình thường như bọn trẻ cùng lứa được nhỉ? Như thằng Ravi đấy. Nó chỉ biết nghĩ đến bóng chày, xinê và âm nhạc.”
“Anh nghĩ như vậy tốt hơn à?”

“Không, không. Ôi chao, anh cũng chẳng biết nên nghĩ thế nào nữa. Suốt cả ngày rồi.” Cha thở dài. “Chẳng biết rồi nó sẽ đi đến đâu với những cái đam mê ấy.”

Mẹ tặc lưỡi. “Tuần trước nó vừa đọc xong một cuốn nhan đề bắt chước Đấng Christ.”

“Bắt chước Đấng Christ! Còn nói gì được nữa! Chẳng biết rồi nó sẽ đi đến đâu với những đam mê ấy!” Cha kêu to.
Và cả hai đều cười.

CHƯƠNG 28

Tôi yêu tấm thảm cầu nguyện của mình. Cho dù chất lượng nó vào loại thường, nhưng nó thật ngời ngời đẹp đẽ trong mắt tôi. Rất tiếc là nó không còn nữa. Bất cứ tôi trải nó xuống đâu, mảnh đất bên dưới và ngay xung quanh nó cũng trờ thành đặc biệt thân thiết với tôi. Điều đó chúng tỏ nó là một thấm thảm cầu nguyện tốt vì nó biết nhắc nhở tôi rằng đất này chính là sáng tạo của Thượng đế và nơi nào cũng thiêng liêng như nhau. Hoa văn thảm, những đường nét như vàng ròng trên nền đỏ, có kiểu cách giản dị; một hình chữ nhật dài với một tam giác ở một đầu để chỉ hướng cầu nguyện, có những nét phẩy nho nhỏ rải rác xung quanh, như những vệt khói hoặc nét nhấn nhá của một ngôn ngữ xa lạ. Mặt thảm êm. Khi cầu nguyện, hàng rua ngắn không thắt nút ở hai bên mép đầu và cuối của nó chỉ cách đỉnh trán và các ngón chân tôi dăm bảy phân, vừa vặn ấm cúng khiến tôi cảm thấy an toàn như ở nhà mình bất kì nơi nào tôi cầu nguyện.

Tôi cầu nguyện ngoài trời bởi vì tôi thích thế. Tôi thường trải tấm thảm của tôi ở một góc sân đằng sau nhà. Đó là một chỗ kín đáo dưới bóng mát một cây bạch phụ tử, sát cạnh bức tường có giàn hoa giấy leo kín. Dọc chân tường có hàng chậu trồng cây trang nguyên. Những dây hoa giấy cũng cả cây bạch phụ tử. Những dây leo no tim tím của có tương phản với những đóa hoa đỏ của cái cây trông thật vui mắt. Khi cây ấy vào mùa ra hoa, nó là nơi lui tới thường xuyên của quạ, sáo sậu, chích choè, chào mào và vẹt. Bức tường thì ở phía tay trái tôi, theo một góc rộng. Trước mặt và về phía bên trái, qua khỏi dải bóng râm lung linh của cái cây, là khoảng sân lộ thiên đầy nắng. Cảnh vật không phải lúc nào cũng vậy, tất nhiên rồi, mà có thay đổi tuỳ thời tiết, tuỳ ngày và tuỳ giờ. Nhưng tất cả những gì tôi vừa tả ghi dấu thật rõ ràng trong ký ức tôi, như thể chúng chẳng bao giờ thay đổi. Để hướng về phía Mecca cho đúng, tôi vạch một đường đánh dấu xuống mặt đất vàng nhạt và cẩn thận duy trì nó.

Có nhiều lần, khi cầu nguyện xong, hễ quay lại là tôi thấy cha hoặc mẹ hoặc Ravi đang quan sát mình. Rồi thì mọi người cũng quen đi.

Lễ đặt tên thánh cho tôi thì hơi lúng túng một chút. Mẹ chịu làm theo các nghi thức một cách êm thấm, cha chỉ đứng nhìn nghiêm nghị lạnh lùng, còn Ravi thì thường tình vắng mặt nhờ có trận bóng chày, nhưng không phải vì thế mà không lải nhải bình phẩm suốt về sau này. Dòng nước chảy xuống mặt xuống cổ tôi; chỉ một bình nước nhỏ thôi, nhưng tác dụng của nó tươi mới như một trận mưa mùa.

CHƯƠNG 29

Tại sao người ta di cư? Cái gì khiến họ nhổ rễ và rời bỏ tất cả những gì quen thuộc để đến một nơi xa tận bên kia chân trời? Tại sao phải trèo qua dãy thái sơn của các thủ tục giấy tờ khiến ta cảm thấy mình như một kẻ ăn mày? Tại sao phải dấn bước vào khu rừng ngoại lai nơi tất cả mọi thứ đều lạ lẫm, khó khăn và chưa từng thấy?

Chỉ có một câu trả lời: người ta di cư vì hy vọng có một cuộc đời tốt đẹp hơn.

Giữa thập kỷ 1970 là một thời kỳ khó khăn của Ấn Độ. Tôi đoán biết điều đó từ những nếp nhăn trên trán cha mỗi khi cha đọc báo. Hoặc từ những mẩu đối thoại tôi nghe được giữa cha, mẹ, Mamaji và những người khác. Không phải là tôi không hiểu nổi những chuyển biến trong những vấn đề họ nói với nhau. Nhưng tôi không mấy quan tâm đến chúng. Bầy khỉ độc vẫn hau hau chờ món chapattis của chúng hằng ngày; lũ khỉ chẳng bao giờ hỏi tin tức New Dehli; tê giác và dê vẫn tiếp tục chung sống yên ổn; chim chóc vẫn hót líu lo; mây vẫn mang mưa, mặt trời vẫn nóng; trái đất vẫn thở đều; Thượng đế vẫn… chẳng có gì cấp cứu trong thế giới của tôi.

Cuối cùng thì bà Gandhi đã làm cho cha hết chịu đựng nổi. Tháng Hai 1976, Dehli giải tán chính quyền vùng Tamil Nadu. Chính quyền từng to mồm chỉ trích bà nhiều nhất. Vịêc chuyển giao chính quyền diễn ra êm thấm – chính phủ địa phương của thủ tướng Karunanidhi im lặng biến mất qua các vụ “từ chức” và quản thúc tại gia. Thực ra, việc một chính quyền địa phương bị giải tán thì có là cái gì so với việc bản Hiến pháp của cả quốc dân đã bị phế từ cả tám tháng trước đó? Nhưng với cha, đó là dấu hiệu cuối cùng của việc bà Gandhi đã lên ngôi độc tài và tiếm đoạt quốc gia. Con lạc đà trong vườn thú chẳng hề hấn gì, nhưng cái sợi rơm ấy đã bẻ gãy lưng cha.

Cha kêu lên, “Chẳng mấy chốc mụ sẽ đến vườn thú của chúng ta và bảo rằng các nhà tù của mụ đều đã chật ních cả, rằng mụ cần thêm chỗ, rằng liệu chúng ta có giam được ông Desai vào cùng một chuồng với sư tử được chăng?”

Morarji Desai là một chính khách đối lập. Không phải bạn với bà Ganhdi. Tôi thấy buồn vì nỗi lo không dứt của cha. Bà Gandhi có thể tự tay bỏ bom vườn thú, chuyện đó cũng chẳng có sao đối với tôi nếu cha cũng vui vẻ coi đó là việc bình thường. Giá mà cha đừng khổ sở dằn vặt đến thế. Thật khổ cho một đứa con trai phải thấy cha nó phát ốm vì lo lắng.

Cha lo lắm. Việc làm ăn nào cũng có rủi ro cả, nhưng không có rủi ro nào bằng một công việc làm ăn nhỏ, khi đã mất là mất cả chì lẫn chài. Vườn thú là một thiết chế văn hóa. Cũng như một thư viện công cộng, một nhà bảo tàng, nó phục vụ công chúng trong lĩnh vực giáo dục và khoa học. Trong quan điểm đó, nó không phải là một việc làm ăn vì mục đích kiếm tiền, vì Điều Thiện Lớn và Lời Lãi Lớn là những mục tiêu không tương thích nhau. Cha đã rất cáu vì thế. Sự thật là, chúng tôi không phải là một gia đình giàu có, nhất là theo tiêu chuẩn Canada. Chúng tôi là một gia đình nghèo tình cờ sở hữu một lũ thú vật, mặc dù không sở hữu được cái mái nhà trên đầu chúng, và cả trên đầu chúng tôi nữa, nhân tiện phải nói luôn thế. Cuộc sống của một vườn thú, cũng như cuộc sống của các cư dân trong hoang dã, là bấp bênh khôn lường. Nó không phải một doanh nghiệp đủ lớn để có thể đứng trên luật pháp, mà cũng không đủ nhỏ để sống sót được sau những mất mát. Để phồn thịnh, vườn thú cần đến quốc vụ viện, các cuộc bầu cử dân chủ, tự do ngôn luận, tư do báo chí, tự do hội họp, luật lệ pháp chế rõ ràng và đủ mọi thứ khác nữa mà người ta đã cam kết thiêng liêng là phải có trong bản Hiến Pháp Ấn Độ. Không thế thì không tài gì mà lo cho vườn thú được. Lâu dài mà nói, chính trị tồi là có hại cho doanh nghiệp.

Người ta di cư vì mệt mỏi quá rồi trong tình trạng lo âu. Vì cái cảm giác cắn rứt rằng dù mình có cố mấy đi nữa thì cũng chẳng ăn thua gì, rằng công sức cả năm rồi cũng bị người khác cướp mất chỉ trong một ngày. Vì cái ấn tượng rằng, tương lai thế là hết, rằng mình thì thế nào cũng xong nhưng con cháu mình thế là hết đường rồi. Vì cái cảm giác rằng chẳng có gì thay đổi nữa, rằng hạnh phúc và phồn vinh chỉ có thể có được ở một nơi nào khàc mà thôi.

Nước Ấn Độ Mới đã bị đập vỡ tan tành và sụp đổ trong ý nghĩa của cha. Mẹ nhượng bộ. Chúng tôi sẽ bùng đi nơi khác thôi.

Quyết định ấy được tuyên cáo trong một bữa ăn tối. Ravi và tôi ngồi chết lặng! Canada! Nếu như Andhra Pradesh, ngay phía bắc chúng tôi, đã là một viễn xứ; nếu Sri Lanka, chỉ cách chúng tôi một eo biển hẹp khỉ có thể nhảy qua, đã là cái phía tối của mặt trăng, thử tưởng tượng xem Canada sẽ là cái gì. Canada không là gì đối với chúng tôi cả. Nó giống như Timkubu(1), theo định nghĩa là một nơi mãi mãi xa vời.

Ghi chú:
(1) Timkubu, một thị trấn ở trung bộ Mali, Tây Phi, một nơi nổi tiếng hẻo lánh, nên cái tên Timkubu đã đồng nghĩa với một nơi rất xa vời.

Cốm
13-03-2008, 02:43 PM
CHƯƠNG 30

Anh đã có vợ. Tôi đang lúi cởi giầy thì nghe anh nói: Xin giới thiệu đây là nhà tôi. Tôi ngẩng lên và ngay ở đó, bên cạnh anh… là bà Patel. Xin chào, chị lên tiếng, giơ tay ra cho tôi bắt và mỉm cười. Piscine đã nói với tôi rất nhiều về anh. Tôi thì không thể nói với chị điều tương tự. Tôi đã chưa biết tí gì về chị. Chị đang sắp phải đi nên chúng tôi chỉ chuyện trò được đôi câu. Chị cũng là người Ấn Độ nhưng nói giọng Canada điển hình hơn. Chắc là thế hệ thứ hai. Chị trẻ hơn anh một chút, da hơn đen hơn một chút, tóc dài đen tết thành một bím nặng. Cặp mắt đen láy và sáng và hàm răng trắng thật đáng yêu. Chị mang trên tay một cái áo choàng phòng thí nghiệm trắng tinh vừa giặt khô vẫn còn để trong bao ni lông, chị làm nghề bào chế thuốc. Khi tôi chào: rất được hân hạnh, thưa bà Patell, chị đáp: Xin anh cứ gọi tôi là Meena. Vợ chồng hôn nhẹ nhau một cái, rồi chị ra khỏi nhà vì một phiên làm ngày thứ Bảy.

Căn nhà này không phải chỉ là cái hộp đầy các tượng thờ nữa. Tôi bắt đầu để ý thấy các dấu hiệu nho nhỏ của một cuộc sống lứa đôi. Chúng vẫn ở đó cả thôi, nhưng trước đây tôi đã không tìm kiếm chúng.

Anh là một người nhút nhát. Cuộc đời đã dạy anh chớ có khoe khoang những gì quý giá nhất của mình.

Chẳng nhẽ chị đã là thủ phạm của những vụ bụng da tôi ậm ạch sau những lần ăn uống tại nhà anh?

Tôi vừa làm món sốt chua ngọt đãi anh đấy, anh nói, miệng mỉm cười.
Thì ra không phải chị, mà chính là anh.

CHƯƠNG 31

Họ gặp nhau một lần, ông Kumar với ông Kumar, ông làm bánh với ông thầy giáo. Ông Kumar thứ nhất nói ông muốn đến thăm vườn thú. “Ngần ấy năm sống ở đây mà tôi chưa lần nào được xem. Mà thật là ngay gần đây. Cậu sẽ hướng dẫn tôi chứ?” Ông hỏi.

“Vâng, tất nhiên rồi,” tôi đáp. “Thật là một vinh dự cho cháu.”
Chúng tôi hẹn gặp nhau ở cổng chính sau giờ tan trường ngày hôm sau.
Tôi lo lắng suốt ngày hôm đó, bụng bảo dạ, “Mày thật ngốc nghếch! Sao lại hẹn ở cổng chính? Lúc nào chỗ đó cũng đông người. Mày quên là ông ấy chẳng có đặc điểm gì rồi à? Mày sẽ không khi nào nhận được ra ông ấy cho mà xem!” Nếu tôi đi ngay qua cạnh ông mà không nhận ra ông thì ông chắc sẽ tự ái lắm. Ông sẽ nghĩ tôi đã thay lòng đổi dạ và không còn muốn cặp kè với một người làm bánh Hồi giáo nghèo khổ nữa. Ông sẽ bỏ đi không thém nói một lời. Ông sẽ không giận dữ - ông sẽ chấp nhận lời biện bạch của tôi là tôi bị chói mắt không nhìn thấy ông – nhưng ông sẽ không còn muốn đến thăm vườn thú làm gì nữa. Tôi có thể thấy sự việc sẽ diễn ra như thế. Tôi bắt buộc phải nhận ra ông. Tôi sẽ nấp và đợi đến khi nào chắc chắn đó là ông, nhất định sẽ phải làm như vậy. Nhưng tôi đã từng nhận thấy rằng cứ khi nào tôi cố hết sứcđể nhận dạng ông thì lại là lúc khó khăn nhận ra ông nhất. Hình như càng cố thì càng khó là đằng khác.

Đến giờ hẹn, tôi đứng trực ngay trước cổng chính của vườn thú và bắt đầu dụi mắt bằng cả hai tay.

“Mày làm cái gì thế?”
Đó là Raj, một thằng bạn.
“Tao đang bận.”
“Mày bận dụi mắt à?”
“Cút đi.”
“Mình đi ra bờ biển đi.”
“Tao đang đợi một người.”
“Thế thì mày sẽ lỡ hẹn nếu cứ dụi mắt lia lịa như thế kia.”
“Cảm ơn mày đã nhắc. Mày đi chơi bờ biển cho vui nhé.”
“Hay là đi Vườn Nhà nước đi mày.”
“Tao không đi được, tao bảo rồi mà.”
“Thôi đi.”
“Tao xin mày, Raj, mày đi đi.”
Nó bỏ đi. Tôi lại dụi mắt.

“Mày giúp tao làm bài tập toán được không, Pi?”
Đó là Ajith, một thằng bạn khác.
“Để sau, mày đi chỗ khác đi.”
“Chào Piscine”

Đó là bà Radhakrishna, một người bạn của mẹ. Tôi xua được bà đi chỗ khác sau một vài câu nhẹ nhàng.
“Xin lỗi, đến phố Laporte đi lối nào?”
Một người lạ.
“Lối kia.”
“Vé vào vườn thú bao nhiêu tiền?”
Một người lạ khác.

“Năm rupi. Quầy bán vé ở ngay kia.”
“Câu bị chlorine vào mắt hay sao?”
Đó là Mamaji.
“Chào bác Mamaji, không phải đâu ạ.”
“Bố cháu có đây không?”
“Chắc có ạ.”
“Gặp cháu sáng mai nhé.”

“Thưa bác vâng ạ.”
“Tôi đây, cậu Piscine.”
Tôi đông cứng lại trước mắt mình. Cái giọng nói đó. Vừa lạ vừa quen. Tôi cảm thấy như trong lòng mở một nụ cười.

“Salaam alaykum, bác Kumar! Gặp bác cháu rất mừng.”
“Wa alaykum as-salaam(1). Mắt cậu làm sao thế?”
“Không, không sao đâu ạ. Chắc chỉ là một hạt bụi.”
“Đỏ hết cả rồi.”
“Không sao đâu ạ.”

Ông đi về phía quầy vé nhưng tôi gọi ông lại.
“Không, không. Thầy(2) không phải mua vé đâu ạ.”
Thật là vinh hạnh khi tôi xua tay về phía quầy vé và mở đường cho ông Kumar bước vào vườn thú.

Ông kinh ngạc trước tất cả mọi thứ, nào là vì cây cao mà sinh ra hươu cao cổ, rồi chuyện các loài ăn thịt thì được cấp thức ăn là loài ăn cỏ, rồi loài ăn cỏ thì có cỏ mà ăn, rồi thì chuyện có các loài ăn đêm và các loài ăn ngày, con nào cần có mỏ sắc thì có mỏ sắc, con nào cần có chân tay nhanh nhẹn thì có chân tay nhanh nhẹn. Tôi sung suớng thấy ông kinh ngạc đến như vậy.

Ông dẫn lời kinh Koran: “Có thông điệp của Thượng đế cho những ai biết dùng trí xét đoán của mình trong tất cả những điều này.”

Chúng tôi đến chỗ bọn ngựa vằn. Ông Kumar chưa từng nghe về những con vật này chứ đừng nói đến chuyện đã từng nhìn thấy một con. Ông đứng ngây người.
“Ngựa vằn đấy ạ.” Tôi bảo.
“Người ta sơn vẽ chúng bằng bút lông à?”
“Không, không. Trông thế thôi chứ là tự nhiên đấy ạ.”
“Trời mưa thì sao?”
“Chẳng sao ạ.”
“Những cái vạch lông kia không nhòe nhoẹt đi à?”
“Không ạ.”

Tôi có mang theo ít cà-rốt. Còn một củ to và cứng. Tôi lấy nó ra khỏi túi. Đúng lúc ấy tôi nghe thấy tiếng sỏi lạo xạo ở phía bên phải. Đó là ông Kumar, đang bước về phía hàng rào trong dáng điệu lắc lư khập khiễng quen thuộc.
“Chào thầy ạ.”

“Chào Pi.”
Ông làm bánh, bẽn lẽn nhưng đàng hoàng, gật đầu chào ông thầy giáo. Ông này lại gật đầu chào lại.

Một chú ngựa vằn tinh ý đã thấy củ cà-rốt của tôi và đã bước đến chỗ rào thấp. Nó vẫy tai và giậm chân nhè nhẹ. Tôi bẻ củ cà-rốt làm đôi, đưa cho mỗi ông Kumar một nửa. “Cám ơn Piscine,” một ông nói. “Cám ơn Pi” ông kia bảo. Ông Kumar làm trước, thò tay qua hàng rào. Cặp môi dày đen bóng và khoẻ mạnh của con ngựa vằn ngoạm ngay lấy củ cà-rốt. Ông Kumar không bỏ ra, con ngựa vằn đớp ngập răng vào mẩu cà-rốt và cắn nó ra làm hai. Nó nhai rau ráu trong vài giây, rồi ngoạm nốt nửa kia, môi nó phủ kín các đầu ngón tay ông Kumar. Ông buông miếng ca-rốt và vuốt ve cái mũi mềm mại của con ngựa vằn.
Đến lượt ông Kumar. Ông không làm khó cho con ngựa vằn như ông kia. Khi môi con ngựa đã ngoạm nửa miếng cà-rốt, ông buông tay. Cặp môi ấy vội vàng lùa miếng cà-rốt vào trong miệng.

Ông Kumar với ông Kumar có vẻ sung suớng.
“Cậu bảo gì nhỉ, ngựa vằn à?” Ông Kumar nói.
“Đúng thế ạ,” tôi trả lời. “Nó thuộc cùng một họ với lừa và ngựa.”
“Xe Rolls-Royce của các nhà kỵ sỹ” ông Kumar nói.
“Con này là một con ngựa vằn giống Grant,” tôi nói.
Ông Kumar nói, “Equus burchelli beohmi(3).”
Ông Kumar nói, “Allahu akbar(4).”
Tôi nói, “Nó rất đẹp.”
Chúng tôi tiếp tục nhìn.

Ghi chú:
(1). Salaam alaykum là câu chào nhau của người Hồi giáo, có nghĩa tương tự như xin Thượng đế ở cùng bạn và Wa alaykum as-salaam là câu đáp lại, cũng có nghĩa đó (ND).
(2). Pi phải gọi ông Kumar này là “Bác” mới đúng, vì ông thầy Kumar dạy sinh vật lát sau mới đến. (namphuong)
(3) Tiếng Latin, có nghĩa: con ngựa rất đẹp. (ND)
(4) Nghĩa là: Vinh danh thánh Allah. (ND)

†3N†
13-03-2008, 08:06 PM
truyện này quá hay luôn, giọng văn thì hài hước, còn cốt truyện thì cực kì hấp dẫn, nhiều đoạn thót tim luôn, mà cũng bất ngờ nữa, không thể tưởng tượng thằng bé đó lại có thể sống 1 thời gian dài giữa những giằng co của sự sinh tồn, của sự đấu trí ,... khi phải ở trên 1 con thuyền với 1 con hổ khổng lồ.
@kis:ban thik truyện này lắm í, thax kis

Hei
13-03-2008, 08:40 PM
:crisp:Hùi ra HN 1 tuần, đã đc pà chị wăng cho đọc cuốn này => ngốn hết trong 3 ngày :crisp::crisp:

Cốm
14-03-2008, 02:14 PM
Rất vui là mọi người đã thích truyện này :D. Kishi cũng không có ý định post đủ cả 100 chương của truyện, vì muốn mọi người đi mua về đọc :D. Gọi là quảng cáo mấy chục chương để bà kon đọc thử ^^.

Mizu.K
23-03-2008, 07:15 PM
Sjs đã đọc truyện này hơn 3 năm trước, nhớ lúc đó toàn mò lên phòng thờ của bác sjs (có tượng Phật rất lớn), ánh sáng hơi thiếu nhưng đọc thấy rất thoải mái + thấm cái nội dung.... Rất thjx Pi ... nằm trong Fav Book list của sjs ... Thank em :D

Cốm
24-03-2008, 02:28 PM
oai thế ạ? Em mới đọc nó cách đây mấy tháng ^^. Hóa ra nó đã tái bản nhiều lần.

Đây là tác phẩm đầu tiên đề cập tới vấn đề tôn giáo mà em lại thấy rất dễ hiểu ^^ (còn bình thường đọc hầu như chả hiểu gì luôn '_____')

hanakimi
01-07-2008, 09:45 AM
uhm, cái gì ngẫm tự dưng thành dễ hiểu thôi hehe
tớ cũng đọc truyện này lâu rồi,giờ thỉnh thoảng vẫn lôi ra coi lại,