PDA

View Full Version : [Truyện dài] Kỳ án ánh trăng_Quỷ cổ nữ



†3N†
18-03-2008, 08:56 PM
Đây là tiểu thuyết kinh dị ban mới đọc xong, thật sự thấy rất ấn tượng nên post lên cho mọi người cùng tham khảo, đọc mà thấy chán thì cho ban xin lỗi hen

-------------------------------
PHẦN DẪN 1

Mùa xuân năm 1977.
Ánh trăng lạnh lẽo soi trên đôi vai gầy guộc của Tưởng Dục Hồng, cô thấy lành lạnh. Lẽ ra đêm xuân không nên có cảm giác này mới phải. Cô cười thầm và trách mình thật chẳng ra sao: những ngày tháng ở Quý Châu làm một thanh niên học sinh đi thực tế cơ sở, khi thấy chán ngán. nửa đêm cô vẫn đi dạo một mình trong thôn là chuyện bình thường; lúc này đang ở trong vườn trường của trường đại học rất yên tĩnh, sao mình lại sợ hãi gì? Có đúng là tại cái nơi mình định đến lúc này không?
Ánh trăng sáng trong bao phủ khu nhà nhỏ hai tầng cách chỗ cô đứng không xa. Đó là khu nhà kiểu châu Âu được xây dựng vào những năm 30 của thế kỷ này, nghe nói đó là khu nhà cổ nhất trong Đại học Y, nay được dùng làm phòng thực nghiệm giải phẫu học. Phía bắc là cửa ra vào duy nhất, đó là một vòm cuốn khá dày, như kiểu hang đá; nóc của nó là ban công của tầng hai nhô ra. Lúc này nhìn vào, thấy vách cửa xám được ánh trăng soi trắng nhợt, bóng của mái vòm và ban công in xuống nền, làm cho phía trong cửa vòm tối om khác thường, hình như trong đó đang chứa đựng những thứ gì đó rất đáng sợ.
Nếu ngày mai không phải làm bài thi giữa học kỳ của môn giải phẩu thì cô đã chẳng phải nửa đêm một mình đi vào khu nhà mà bên trong đâu đâu cũng bày các xác chết đủ loại cùng các đoạn chân tay dài ngắn và nồng nặc mùi phooc-môn. Dục Hồng là một sinh viên công nông binh đợt cuối cùng về học ở đây, trải qua bao nhiều dày vò và khắc khoải chờ đợi trong suốt bảy năm trời "đi thực tế" ấy, rồi cũng đến ngày cô được thực hiện ước mơ của mình. Tuy nhiên, năm tháng trôi đi, nay cô đã ở tuổi 26, kiến thức cơ bản bị rỗng, dù cố đến mấy cũng không thể đọ trí nhớ và độ nhanh nhạy với cánh sinh viên 17-18 tuổi. Nhưng Hồng lại vốn có cá tính mạnh mẽ, cô luôn muốn nổi trội trong học tập, cho nên đêm nay cô đến phòng thực nghiệm giải phẫu hoàn toàn không vì nước đến chân mới nhảy, mà là muốn nâng cao kiến thức đã có, muốn làm rõ từng chi tiết cuối cùng mà cô còn mơ hồ. Then chốt của môn giải phẫu học là phải chịu khó nghiên cứu các tiêu bản thực thể để cảm nhận đa chiều và cụ thể, vì vậy phòng thực nghiệm giải phẫu là nơi ôn tập lý tưởng nhất.
Trong trường Đại học Y số hai Giang Kinh này, lâu nay vẫn đồn đại một chuyện bí ẩn kỳ dị về phòng thực nghiệm giải phẫu. Chuyện thường xảy ra về đêm khuya, nhân vật chính có thể là một quái nhân thích ăn thịt các xác chết, có thể là một con ma hung ác, hoặc một cô hồn đầy oán hận; các nạn nhân phải hứng chịu đều là các sinh viên y khoa vô tội. Với các sinh viên y khoa, sau khi kết thúc giờ tự học lúc 11 giờ mỗi đêm, thì nơi đây trở thành vùng cấm địa. Tối nay Dục Hồng đã cùng các bạn đến đây ôn bài, rồi tắt đèn trước lúc chuông báo hết giờ, sau đó họ cùng trở về ký túc xa. Đến nơi rồi, Dục Hồng vẫn trăn trở mãi, cô cảm thấy mình ôn tập chưa được chu đáo, bèn quay trở lại đây.
Đang suy nghĩ miên man, thế rồi cô đã đứng trước cửa vòm cuốn. Các mẩu chuyện đồn đại về ma quỷ, liệu có thật không? Tim cô đập dần nhanh hơn.
Tất nhiên không phải là thật. Cô đã từng trải qua bao thăng trầm của quãng đời học sinh đi thực tế, đương nhiên cô không như các sinh viên trẻ nhẹ dạ cả tin vào các chuyện khiếp hãi này. Có lẽ vì sinh viên Y bài vở quá nặng nên đã bịa ra các mẩu chuyện cho chính mình được vui đó thôi.
Nhưng tại sao mình lại chợt rùng mình?
Tim cô đập càng nhanh hơn, nghe rõ mồn một.
Để tự trấn tĩnh, Hồng đành nhè nhẹ nhắm mắt và thầm nhẩm lại mấy câu vè về cấu tạo quả tim và hướng lưu thông của máu do cô tự soạn cho mình: "Lên tâm nhĩ, xuống tâm thất, trái van hai lá, phải van ba lá, tĩnh mạch phổi tâm nhĩ phải, tâm thất trái động mạch chính, tĩnh mạch trong tâm nhĩ phải, tâm thất trái động mạch phổi..."
Cô dường như nhìn thấy dòng máu đang chảy mạnh trong tim mình, cuồn cuộn chảy, không ngớt chảy qua chảy lại giữa tâm nhĩ và tâm thất. Tuy nhiên, cô vẫn bước qua bậu cửa xi măng khá cao để vào khu nhà thực nghiệm giải phẫu.
Bậu cửa này cao tới một thước, cũng là một đề tài luôn được sinh viên các khoá hay bàn tán. Nghe nói nhiều năm trước, có lần một bể lớn chứa đầy phooc-môn của phòng thực nghiệm giải phẫu bị vỡ tràn ra lênh láng một nửa sân trường, nồng nặc mùi phooc-môn nhức mũi. Để phòng lặp lại sự cố tương tự gây ô nhiễm, nhà trường bèn cho xây cao bậc cửa này lên, coi như một con đập chắn phooc-môn. Nhưng cũng có cách nói khác - cách giải thích phổ biến của dân gian: bậu cửa cao một thước có thể nhốt ma quỷ ở trong nhà, và phòng ngừa các xác chết nhảy ra ngoài.
Sau bậu cửa là năm bậc thềm khá cao, rồi đến cánh cửa gỗ. Dục Hồng nắm vào tay nắm cửa bằng đồng, nghĩ bụng: "Lúc này mình quay ra vẫn chưa muộn."
Nhưng chẳng lẽ chỉ vì sợ hãi chốc lát mà bỏ lỡ dịp ôn bài thuận lợi như thế này?
Bỗng nghe thấy một điệu nhạc du dương từ phía trong vọng ra. Dục Hồng chững lại, chăm chú lắng nghe. Hình như có tiếng người thì thầm, để ý nghe kỹ hơn, còn thấy các âm thanh lách cách do đồ thủy tinh va chạm nhẹ phát ra.
Thì ra là một bữa liên hoan.
Tổ chức liên hoan trong phòng thực nghiệm giải phẫu ư?
có lẽ là một nhóm sinh viên năm cuối sắp tố tnghiệp không có bài vở gì nữa, đã đến đây để thư giãn. Nhưng cách đây hơn một giờ, nơi này rõ ràng vẫn có một đám đông sinh viên miệt mài ngồi học chuẩn bị thi giữa năm kia mà, sao chỉ sau chốc lát đã tràn đầy những âm thanh cốc chén bát đũa va chạm nhau? "Bè lũ bốn tên" đã bị đánh đổ, cách mạng văn hoá đã kết thúc, không khí xã hội đã thoáng hơn nhiều, và hiếm khi thấy các sinh hoạt có màu sắc tiểu tư sản kiểu này.
Dục Hồng hít một hơi thật sâu, rồi mở rộng cánh cửa lớn của phòng thực nghiệm giải phẫu.


Một tháng sau.
Giảng viên phụ đạo năm thứ ba y khoa là Lục Bỉnh Thành bước vào khu ký túc xá nữ sinh. Lòng anh đang bộn bề, nặng trĩu rất nhiều điều nghĩ ngợi nên đã quên làm thủ tục xuất trình thẻ công tác và ký tên. Cũng may, bà già gác cửa thường ngày vẫn gặp anh, biết anh là thầy giáo phụ đạo, đến đây tất cá công tác cần thiết đối với sinh viên nên bà đã không chặn hỏi, để anh khỏi phải gián đoạn suy nghĩ.
Bỉnh Thành lên gác, rồi dừng lại trước cửa phòng 405. Trời đã gần tối mà hành lang vẫn chưa bật đèn. Cửa đang đóng im ỉm, anh thoáng đứng yên một lát rồi nhè nhẹ gõ cửa. Sau khe cửa hé mở là khuôn mặt của Tiểu Tĩnh.
"Chào thầy Thành!"
"Bạn ấy thế nào rồi?" Thành chưa bước vào vội, chỉ khẽ hỏi.
"Lúc ổn lúc không, có lúc vẫn rất tỉnh táo như ngày trước, và hiểu mọi việc rõ ràng hơn ai hết. Nhưng bất chợt lại bắt đầu nói những câu kỳ cục." Tiểu Tĩnh cũng cố hạ giọng nói cho thật khẽ.
"Thầy Thành đến phải không? Sao Tiểu Tĩnh không mời thầy vào trong này nói chuyện?" Một giọng nữ trong trẻo từ trong phòng vọng ra.
Dục Hồng mặc chiếc áo ngủ kẻ ca-rô màu lá cây nhạt, đang uể oải ngồi bên cửa sổ nhìn ra bên ngoài, cô chậm rãi chải mớ tóc đen nhánh đã dài sắp chấm vai, đôi bàn tay nhợt nhạt nổi lên những đường gân xnah. Thành hơi lim dim mắt, trong đầu anh hiện lên hình ảnh cô gái Dục Hồng cách đây không bao lâu với mái tóc cắt ngắn sát mang tai và khuôn mặt hồng hào đầy sức sống. Thế mà chỉ sau chưa đầy một tháng đã như biến thành một người khác hăn. Đã xảy ra chuyện gì vậy?
Hồng vẫn chăm chú nhìn ra cửa sổ, không ngoảnh người lại vì sự có mặt của Thành. Cô chải tóc mỗi lúc một chậm hơn, dường như cô muốn mái tóc ức vạn sợi mảnh mai này được chải thật kỹ đến từng sợi. Thành chợt nghĩ: "Kể từ ngày vào trường cô ấy tư tưởng tiến bộ, lại cần cù giản dị, chứ đâu có cái gu tiểu tư sản thế này?"
"Thưa thầy, nghe nói thầy cũng tốt nghiệp ở trường này, thây tốt nghiệp khoa nào khoá nào ạ?" Câu hỏi của Hồng hoàn toàn không mảy may gợn màu sắc bệnh lý nào.
Thành không cần suy nghĩ, trả lời ngay: "Tôi vào đại học năm 1961.
Dục Hồng hơi rung rung tấm thân mảnh khảnh, quay người lại với khuôn mặt tái nhợt: "Thế thì, chắc thầy đã nghe nói về ánh trăng?"
Đôi lông mày rậm và đen của Bỉnh Thành càng nhíu lại, anh nghĩ: "Đây là vấn đề gì? Cô ấy nói rồ dại mất rồi."
Nhưng anh lại trả lời: "Ánh trăng? Tôi không chỉ nghe nói mà còn thường xuyên nhìn thấy. Mấy hôm nay trời nhiều mây nên tất nhiên không thấy nhưng những hôm trời nắng thì đêm đêm đều có ánh trăng rất đẹp."
Dục Hồng ngừng chải mớ tóc dài, thả tay xuống và ngạc nhiên hỏi: "Thầy không biết thật à? Em cứ tưởng sinh viên thời ấy ai cũng từng nghe nói về ánh trăng? Thầy Thành ạ, hồi đó cuộc sống sinh viên của các thầy thế nào? Em rất muốn biết, và nếu có thể được trải nghiệm ít nhiều thì hay quá."
Nói rồ dại, rồ dại rồi. Thành thấy lòng nặng trĩu, có cảm giác đã để mất cô sinh viên này. Ánh mắt anh bỗng dừng lại ở bàn tay của Hồng vừa chải tóc, cô đang cầm chiếc lược cuốn có nhiều hàng răng - thứ lược vừa để chải tóc vừa có thể cài lên tóc làm đồ trang sức. Bắt mắt nhất là vài chục viên đá quý được gắn ở mặt lưng cái lược, có viên đen nhánh, có viên màu huyết dụ. Trong căn phòng hơi tối, ánh đèn trắng rọi vào vẫn khiến nó phản chiếu muôn tia sáng chói mắt.
Du Tĩnh đứng bên nhìn thấy Bỉnh Thành có vẻ hơi khác thường, nghĩ bụng: "Kể cũng phải thôi, thầy Thành sao có thể ngờ được rằng Dục Hồng lại có thể dùng chiếc lược quý giá đến như vậy. Tuần trước lần đầu nhìn thấy, mình cũng phải ngạc nhiên nữa là."
"Chiếc lược của em..." Bỗng nhiên Thành không biết nên nói tiếp thế nào nữa.
"Rất đẹp, phải không ạ? Những tia sáng sặc sỡ đan xen hắt ra từ những hạt đá quý màu đỏ màu đen chen nhau, khiến em thường xuyên ngắm nhìn mãi, rồi không hiểu sao càng ngắm lại càng thấy lòng rung động xốn xang... Đúng là đồ quý giá thật nhưng không đến nỗi bị coi là tha hoá trong sinh hoạt chứ ạ?" Dục Hồng nhìn thẳng vào mắt Bỉnh Thành.
"Không sao, em nghỉ ngơi nhé, đừng nên nghĩ ngợi gì nhiều." Thành vội chào rồi ra về.
Du Tĩnh bước ra theo, lặng lẽ tiễn Bỉnh Thành đến tận đầu cầu thang, Thành bỗng nói luôn: "Các em hãy giúp Dục Hồng thay quần áo giặt giũ... sáng nay tổ chuyên gia hội chẩn cho bạn ấy đã quyết định bạn ấy cần được điều trị chu đáo, cần phải nằm viện. Tôi hoàn toàn không muốn điều này nhưng áp lực từ Phòng quản lý sinh viên rất lớn, tôi chỉ còn biết phục tùng, cũng đã đánh điện cho gia đình bạn Hồng. Nếu họ không có ý kiến gì khác thì bạn Hồng sẽ bắt đầu nằm viện."
Du Tĩnh lập tức tròn xoe mắt: "Nằm viện tâm thần? Thật đáng sợ! Chẳng lẽ không còn cách nào khác ư mà phải thế này ạ?"
"Tất cả đều vì bạn ấy thôi mà!" Thành thở dài.

†3N†
18-03-2008, 08:56 PM
"Thầy Thành, tại sao lại bảo em ở đây?"
Có lẽ vì mặc bộ đồ trắng nên trông Dục Hồng càng nhợt nhạt hơn cách đây một tháng. Mái tóc cô cũng dài thêm, môt chòm tóc rủ xuống má khiến khuôn mặt xương xương của cô càng thêm ủ rũ.
Ở đây tất cả đều là màu trắng. Nghe nói màu trắng là màu của thiên đường, dãy hành lang khá dài và vắng lặng cho ta một cảm giác yên ắng.
Du Tĩnh rơm rớm nước mắt đưa Dục Hồng vào nằm viện, cô cũng trải qua một tháng trời buồn bã, thấy chán chường đối với mọi việc cứ như thể chính cô mới là người nằm viện. Hôm nay, thầy giáo phụ đạo Bỉnh Thành gọi cô, lớp trưởng và bí thư chi đoàn của lớp, cả bốn thầy trò đi xe đạp vào viện thăm Dục Hồng. Dục Hồng lúc này suýt nữa khiến Du Tĩnh oà khóc, và mọi người có mặt cũng đều thấy có phần xót xa. Bỉnh Thành nhìn Từ Hải Đình là bác sĩ điều trị chính cho Hồng, Hải Đình cũng nhìn anh, ánh mắt giao nhau nhưng vị bác sĩ im lặng, hình như muốn nói: "Tôi không biết nên nói gì với cô ấy, tôi rất muốn giúp nhưng bất lực." Bỉnh Thành đành nói: "Đây là đề nghị của các chuyên gia, cha mẹ em cũng đã chấp thuận. Nhà trường và khoa đều rất coi trọng và hy vọng việc sớm điều trị sẽ giúp em khắc phục những vướng mắc về tư tưởng. Bác sĩ Đình đã cho tôi biết Hồng đã có tiến bộ, theo dõi thêm thời gian nữa là có thể ra viện."
Dục Hồng đưa mắt nhìn xuống, khẽ nói: "Em biết khoa và nhà trường đều quan tâm yêu mến em, em sẽ chịu khó chữa bệnh, và nghe lời bác sĩ Đình, gỡ bỏ những vướng mắc trong suy nghĩ, để có thể sớm trở về học tập cùng các bạn."
Bình thản quan sát, thì mấy câu nói này của Hồng hoàn toàn không có vẻ tâm thần gì cả. Du Tĩnh nhỏ nhẹ nài xin: "Thưa thầy, chúng ta nên đón Dục Hồng về sớm. Bác sĩ Đình có thấy Dục Hồng đã rất tỉnh táo không? Phải tiếp tục ở lại đây làm gì nữa ạ?"
Bác sĩ Đình nói: "Ngày mai khoa chúng tôi có cuộc họp đánh giá, tôi sẽ nhanh chóng thông báo kết quả đến nhà trường."
"Xin phiền các bác sĩ cố gắng giúp cho." Bỉnh Thành nói.
Nhưng đúng lúc Du Tĩnh chợt thấy lòng nhẹ nhõm thì Dục Hồng bỗng nói pha chút lạnh lùng: "Tôi có một thắc mắc rất lớn, xin hỏi thầy Thành: thầy chưa từng nghe nói về ánh trăng thật à?"
Bỉnh Thành vốn nghĩ bệnh trạng của Hồng đã có chuyển biến rõ rệt, lúc này anh thất vọng nhìn sang bác sĩ Đình, hình như muốn nói: "Tại sao lại vẫn thế này? Đã tiến bộ ở chỗ nào?"
Bác sĩ Đình nhìn thẳng vào Dục Hồng ôn tồn hỏi: "Dục Hồng hãy nói cho tôi biết, ánh trăng là cái gì? Là ánh trăng ban đêm thường thấy, hay là một ai đó, một việc gì đó liên quan đến ánh trăng?"
Dục Hồng đưa mắt nhìn ra xa, hơi nhíu mày: "Nếu em đã biết thì em cần gì cứ phải hỏi khắp lượt!"
Bỉnh Thành khẽ thở dài: "Hồng hãy chịu khó nghỉ ngơi, đừng nghĩ ngợi nhiều quá. Các bạn đều rất mong Hồng sớm mạnh khoẻ trở lại."
Người thất vọng hơn cả là Du Tĩnh. Chẳng biết bao nhiêu lâu nữa mới lại được nghe tiếng Hồng nói cười vui vẻ trong ký túc xá? Tĩnh cố nén nỗi thương cảm đang dâng trào, dịu dàng nói: "Hồng ơi, mình đã đến hiệu Ngũ Phường Cư mua cho cậu món mề vịt ngũ hương và món óc đậu mà cậu vẫn thích. Mình gửi ở chỗ cô y tá, cậu nhớ đến cầm về mà ăn. Chờ khi cậu về, chúng ta sẽ khôi phục lệ cũ: cuối tuần sẽ đi dạo phố Bắc Kinh, được không?"
Khuôn mặt xanh xao nhợt nhạt của Dục Hồng bỗng nở nụ cười: "Sao lại không được? Mình không chờ nổi nữa đâu!"
Hồng tươi cười khiến mọi người đều nghi hoặc: cô ấy đâu có bệnh tật gì? Hồng lại hỏi: "Nhắc đến đường phố Bắc Kinh w? Mình ở đây ngày cũng như đêm, hôm nay ngày bao nhiêu rồi? Nếu mình ra viện, liệu có còn kịp đón ngày 1-7 đi diễu hành trên đường phố Bắc Kinh không?"
Du Tĩnh cười trả lời: "Hôm nay mới là 16 tháng 4, cậu hãy phối hợp điều trị với bác sĩ Đình cho tốt, chắc chắn sẽ kịp chung vui chào mừng sinh nhật Đảng ngày 1 tháng 7."
Dục Hồng chợt biến sắc: "Hôm nay là ngày 14 tháng 6 thật à? Cảm ơn trời đất đã để cho mọi người đến đây, nếu không thì gay rồi." Đôi mắt cô ánh lên nỗi kinh hãi cực độ hiếm thấy, hơi thở hình như cũng gấp hơn.
Bác sĩ Đình nhận ra tình huống không hay, anh tranh thủ hỏi luôn: "Hồng ơi, cái gì gay? Cô cho tôi biết được không?"
"Không!" Hồng khẳng định, như là không thể nào khác.
Bỉnh Thành lại nhìn bác sĩ Đình, như muốn nói: "Có lẽ bệnh cô ấy càng nặng hơn thì phải, đừng nói đến ra viện trước ngày 1 tháng 7, mà phải nằm lại qua mùa hè cũng nên."
Dục Hồng lại tỉnh bơ nói: "Thầy Thành, bác sĩ Đình và các bạn có thể tạm lui ra ngoài được không? Em có việc cần nói riêng với Du Tĩnh."
Bí thư chi đoàn đứng bên đánh liều nói xen luôn: "Nếu Dục Hồng có vấn đề tư tưởng gì thì tổ chức cũng có thể giúp đỡ, chứ đừng nên bàn bạc kiểu nhóm đơn lẻ."
Hồng cười khẩy: "Việc hệ trọng liên quan đến tính mạng, mà có thể tuỳ tiện nói cho cậu biết à?"
Bác sĩ Đình và Bỉnh Thành đưa mắt cho nhau rất nhanh, rồi ra hiệu cho lớp trưởng và bí thư chi đoàn cùng theo họ ra ngoài buồng bệnh, rồi khép luôn cửa lại. Nhìn qua cửa kính chỉ thấy Dục Hồng nắm chặt tay Du Tĩnh rất căng thẳng và xúc động nói gì gì đó, mặt Hồng đẫm nước mắt. Du Tĩnh thì hết sức hoang mang và không ngớt gật đầu.
Một lát sau Du Tĩnh đờ đẫn bước ra khỏi căn buồng, thầy Thành và bí thư chi đoàn vội vã hỏi ngay: "Hồng đã nói với em những gì?"
Du Tĩnh miệng há hốc không nói nên lời, bỗng nhiên mọi người nghe thấy một loạt tiếng động rầm rầm, tất cả ngoái lại nhìn thì thấy Dục Hồng lao tới cửa sổ và đập liên hồi vào cửa kính. Hai cô y tá vội chạy đến ghì chặt Hồng từ hai bên, bên trong cửa sổ Hồng vẫn gào thét.
Du Tĩnh buồn rầu nhìn vào, Hồng cũng đã thôi vùng vẫy, khuôn mặt cô đẫm lệ. Hai cô nhìn nhau một lát, Hồng chậm rãi lắc đầu, Tĩnh cũng thong thả gật đầu.
Sau khi Hồng bị đưa đi, bác sĩ Đình nói: "Cô Tĩnh ạ, để cô Hồng có thể mau bình phục, tôi mong cô đừng giấu tôi điều gì, có chuyện gì cô cứ cho tôi biết. Nếu cần tôi có thể hứa sẽ giữ kín đối với nhà trường. Thầy giáo Thành có thể thông cảm cho tôi."
Sau một lát im lặng, Tĩnh nói nhỏ nhẹ: "Thực ra chẳng có gì đáng để giấu cả. Bạn ấy nói ... cháu là bạn tốt nhất của bạn ấy, bạn ấy mong sẽ được gặp lại cháu."


Sau tiếng còi báo tắt đèn, Du Tĩnh vẫn trằn trọc mãi. Những lời của Hồng nói trong tiếng khóc và nước mắt ngày hôm qua vẫn vẳng bên tai cô rõ rệt. Đến nay cô vẫn nửa tin nửa ngờ. Ngày mai, "bộ tam" bệnh viên tâm thần, Đảng ủy khoa và Hội sinh viên sẽ tổ chức "hội thẩm" mình, nhưng mình đã thề với Dục Hồng rằng nhất định sẽ không tiết lộ cho người thứ ba biết chuyện... Có phải mình đã quá ngây thơ? Lẽ ra mình nên "linh hoạt" một chút và đừng quá coi trọng lời thề như thế?
Ngoài cửa sổ ánh trăng sáng trắng như tuyết. Du Tĩnh mất ngủ, lúc này đầu óc cô càng rối bời: ánh trăng mà Dục Hồng nói, thực ra là cái gì? Ánh trăng ngoài kia đẹp là thế, sao lại làm cho Dục Hồng vốn cởi mở hoạt bát trở thành một con người như vậy?
"Reng reng reng ..." chiếc đồng hồ báo thức đặt ở đầu giường bỗng reo vang. Du Tĩnh kinh ngạc ấn nút đèn, kim đồng hồ đang chỉ đúng 12 giờ. Cô thấy trong lòng ớn lạnh: sao lại thế này nhỉ? Mình đã đặt chuông báo thức lúc nửa đêm bao giờ nhỉ?
Nỗi tuyệt vọng chầm chậm lan toả trong cô: chẳng lẽ ... chẳng lẽ những điều Dục Hồng nói đều là thật hay sao?
Một cơn gió chợt thổi vào, cửa sổ phòng kí túc xác vẫn mở kêu kèn kẹt. Gió thốc vào trong màn, toàn thân Du Tĩnh râm ran nổi da gà. Gió đêm mùa hạ sao lại lạnh thế này?
Cô khoác áo ngồi dậy, xuống giường rồi ra dóng cửa sổ. Nhưng khi đến gần cửa sổ, chân cô bỗng như bị chôn chặt xuống đất.
Tiếng đàn vi-ô-lông chậm rãi dịu êm từ ngoài cửa sổ vọng đến, bồng bềnh trong ánh trăng. Du Tĩnh bỗng như rũ hết mọi mệt mỏi, mọi thứ xung quanh cô trở nên trong trẻo tinh khôi, những phiền muộn hôm qua, những nỗi bất an ngày mai đều tiêu tan theo khúc nhạc. Vĩnh viễn níu giữ được cái cảm giác tuyệt vời thế này thì tốt biết mấy.
Vĩnh viễn tốt đẹp, chẳng phải là cái đích mà ai cũng luôn khắc khoải mưu cầu hay sao?
Hình như ở ngoài kia bên dưới cửa sổ chính là cái vĩnh viễn tốt đẹp ấy.
Trong khoảng khắc Du Tĩnh nhảy ra khỏi cửa sổ, cô mới nhớ ra lời dặn dò của Dục Hồng, nhưng tất cả đã muộn. Cô thét lên thê thảm, nhưng tuổi xanh đã ra đi không bao giờ trở lại nữa.

†3N†
18-03-2008, 08:57 PM
PHẦN DẪN 2

Mùa xuân năm 1982.
Hạ Tiểu Nhã không ngờ mình lại đứng trước cửa khu nhà giải phẫu vào lúc nửa đêm, bầu trời đang phủ kín mây đen. Còn nhớ buổi tối đầu tiên mới vào học, Tỉeu Nhã và các bạn nữ cùng ký túc xá đã nói tường tận những câu chuyện ma quái liên quan đến phòng thực nghiệm giải phẫu: nghe nói trong đó mỗi xác chết, mỗi khúc cánh tay cẳng chân đều gắn liền với một câu chuyện rùng rợn, và đều dính dáng đến một hồn ma bơ vơ. Những câu chuyện ấy đã khiến cô ngủ không yên mấy đêm liền, cô hối hận vì mình đã chọn nhầm ngành học.
Nhưng đêm nay thì khác. Sau những đợt thực nghiệm giải phẫu cơ thể động vật sống, và gần một nửa học kỳ vừa rồi học tập giải phẫu cơ thể người, cô đã gạt bỏ được nỗi khiếp hãi đối với cơ thể sinh vật, và hoàn toàn không tin vào những truyền thuyết ma quỷ này nọ. Chủ nghĩa duy vật là nền tảng của y học hiện đại, nếu đến giờ mà vẫn mê tín những chuyện thần thánh ma quỷ nhố nhăng thì đúng là mình đã chọn nhầm ngành nghề rồi.
Nhưng tại sao lúc này đứng trước cửa vòm cuốn của khu nhà giải phẫu, mình là hơi run run? Có điều gì đáng để sợ như thế chứ?
Hiện nay là thời đại mà con người vô cùng khao khát tri thức. Tiểu Nhã xuất thân trong một gia đình công nhân bình thường, vì thế cô càng nâng niu cơ họi được tiếp thu nền giáo dục ở bậc đại học. Mai là ngày thi giữa học kỳ về môn giải phẫu học, cô đã ôn tập khá đầy đủ, tuy nhiên mục tiêu của cô là phải giành được điểm tuyệt dối. Đúng thế, vì cô là con người luôn theo đuổi sự hoàn thiện trong tất cả mọi việc. Cô hiểu rằng nếu có thể nghiên cứu tiêu bản cơ thể nhiều hơn các bạn khác một lần, thì khả năng giành điểm tuyệt đối, được xếp thứ nhất, được học bổng sẽ càng lớn hơn. Cho nên đêm nay Tiểu Nhã không về ký túc xá, sau khi tiếng chuông báo tắt đèn vang lên, cô bèn đi một mình đến đây để ôn tập các tiêu bản.
Tại sao bậu cửa vào khu nhà giải phẫu lại cao đến một thước nhỉ?
Cô nghĩ ngợi lan man, cô muốn xua tan nỗi sợ hãi.
Đúng thế, chắc là ngày xưa người ta mê tín kiểu phong kiến: các xác chết không thể co đầu gối, nên chỉ cần xây cao bậu cửa thì chúng không thể chạy ra ngoài. Quá ư là hão huyền!
Gió nhè nhẹ thổi, Tiểu Nhã thấy hơi lạnh.
Hay là quay về vậy?
Thế thì hèn, hèn quá. Tiểu Nhã rất ghét mình đôi khi bất chợt giở tính khí trẻ con. Cũng như các nữ sinh viên cùng lứa tuổi, thần tượng của cô là bà Ma-ri Quy-ri. Nhưng với ý nghĩ vừa rồi, có lẽ muốn làm người hầu cho Ma-ri Quy-ri cũng không xong.
Tiểu Nhã bước vào màn tối đen kịt rồi đấy cánh cửa phòng thực nghiệm giải phẫu. Trước mắt cô bỗng le lói ánh sáng, cô vội rụt tay lại, suýt nữa thì ngã.
Thì ra là vừa lúc ánh trăng lọt qua áng mây dày rồi tỏa sáng xuống mặt đất.
Nhát thế này thì sau này chẳng làm nên cái gì ra hồn. Tiểu Nhã ngán ngẩm nghĩ như vậy. Để chiến thắng bản thân, cô đã lấy hết can đảm mở toang cánh cửa phòng thực nghiệm giải phẫu.


Thấy phó văn phòng phụ trách sinh viên Y khoa Lục Bỉnh Thành ngồi chiếc xe Jeep của trường đi đến bệnh viện tâm thần. Gặp bác sĩ Từ Hải Đình, câu đầu tiên ông hỏi ngay: " Lần này chắc anh đã xác định cô ấy đã hoàn tòan bình phục rồi chứ?"
Hải Đình chưa thể hiện ngay sự không vui, ông nhớ lại chuyện cũ, thấy răng cũng không thể trách thầy giáo Bỉnh Thành đa nghi, bèn nói: "Thầy Thành cứ xem xét đi. Chẳng phải mình tôi quyết định cho cô ấy ra viện, mà hai vị chủ nhiệm kỳ cựu hội chẩn cũng đã gật đầu."
"Cô ấy không nhắc đến ''ánh trăng'' gì gì nữa chứ?"
Bác sĩ Đình lắc đầu.
Hạ Tiểu Nhã đã gầy đi nhiều, nhưng đôi mắt vẫ rất có sức sống, thấy Bỉnh Thành, được biết là mình sẽ được về trường nên cô vui mừng khôn tả, hòan toàn không có vẻ bệnh tật gì hết, tươi cười hỏi luôn: "Thầy Thành, các bạn vẫn khỏe chứ ạ? Em vẫn đang tự học, tuy em bị thiếu rất nhiều bài vở nhưng em vẫn muốn được thi kết thúc học kỳ."
Bỉnh Thành thở phào, cười và nói: "Mọi người đều khỏe, đều ổn cả. Em vẫn cần chú ý nghỉ ngơi, có dự thi học kỳ không, không quan trọng. Em có kiến thức cơ bản vững vàng, khoa sẽ bố trí cho em thi lại vào dịp hè, chắc chắn em sẽ đuổi kịp tiến độ của các bạn."
Anh lái xe họ Bành giúp Bỉnh Thành xách hành lý của Tiểu Nhã lên ký túc xá. Hành lang thì tối, khi sắp đi đến phòng 405, một nữ sinh mải vui chạy lại xô thẳng và anh lái xe, chiếc chậu rửa mặt rơi xuống đất, các thứ lược và bàn chải của Tiểu Nhã văng tứ tung.
Tiểu Nhã đi phía trước, bỗng ngoảnh lại kêu "ối", rồi thả ngay hành lý đang cầm xuống đất, chạy lại nhặt các vật dụng của mình. Dưới ánh sáng mờ mờ của đèn hành lang, Bỉnh Thành thấy thấp thóang vài tia sáng rất mảnh. Anh chăm chú nhìn, thấy Tiểu Nhã đang cầm một cái lược có phần gáy rộng, những tia sáng kia phát ra từ lưng cái lược. Anh sải chân bước tới, nhìn cái lược thật kỹ. Nó cũng là cái lược kiêm chức năng cặp tóc, mặt lưng của nó đính vài chục hạt đá quý, có viên màu huyết dụ, có viên màu đen, rất đáng để làm đồ trang sức.
Chuyện cũ mấy năm về trước lại hiện lên trong óc, anh nhớ đến cô sinh viên bị bệnh tâm thần, trở về trường sau một năm thì nhảy lầu tự tử - tên là Tưởng Dục Hồng - cũng dùng cái lược như thế này.
Bỉnh Thành hạ thấp giọng khẽ hỏi: "Tiểu Nhã, cái lược này ở đâu ra?"
Tiểu Nhã nói: "Khi nằm viện, có một bác là mẹ của một bệnh nhân đã cho em, mới đầu em ngại vì nó rất đắt tiền nên không dám nhận. Nhưng bác ấy cứ ép phải nhận, em không cưỡng lại được."
"Bệnh nhân ấy tên là gì?"
''Em chỉ biết người ấy họ Uông, là bệnh nhân lâu năm, nhưng tuần trước đã ra viện rồi."
Tiểu Nhã vội vã bước ngay vào phòng, các bạn đang sốt ruột đợi cô, thấy cô đã hoàn tòan tươi tỉnh như xưa, nỗi lo lắng của mọi người đều vợi đi quá nửa, căn phòng nhỏ bỗng tràn ngập tiếng nói cười vui vẻ.
Ngồi lái xe quay về, anh Bành vẫn không nén được bèn hỏi Bỉnh Thành: "Thầy Thành ạ, anh em ở phòng bảo vệ vẫn nhắc đến ''vụ mưu sát 405'', có phải nó là căn phòng 405 ở đúng ký túc xá ấy không?" ''Vụ mưu sát 405'' đúng là một bộ phim phá án đáng sợ mà thời kỳ đó ai ai cũng biết.
Bỉnh Thành nói không mấy mặn mà: "Họ toàn nói vớ vẩn, đúng là ký túc xá đã từng xảy ra vài vụ chết người nhưng đều là tự tử. Gần đến kỳ thi cuối học kỳ, do áp lực trong học tập quá lớn nên dẫn đến mà thôi."


Một tháng sau, khi anh Bành đang trong phòng trực ban lái xe thì một hồi còi hú thê thảm của xe cấp cứu làm anh bừng tỉnh. Chỉ nghe thấy những bước chân vội vã ở phòng bảo vệ kề bên, mọi người chạy đi chạy lại tíu tít. Anh mặc áo chạy ra, thấy có người gọi: "Anh Bành hãy trực ở vị trí của mình, kí túc xá có một nữ sinh khoa Y nhảy lầu, anh ở đó mà trực điện thoại, nhất định sẽ có lãnh đạo khoa xuống hiện trường."
"Ở phòng nào thế?" Bành hỏi lại.
"405."
Bành chợt thấy gáy mình lạnh toát.

†3N†
18-03-2008, 08:58 PM
CHƯƠNG I: “VỤ ÁN MƯU SÁT 405”

“Có phải cô thấy số phòng này rất đặc biệt không?”
Diệp Hinh đang chăm chú nhìn tấm biển căn phòng 405, chợt giật mình bởi giọng nói lành lạnh này.
Một bóng người gầy mảnh lướt vào căn buồng, có mái tóc dài và chiếc váy ngắn buông gần chấm đất. Nếu không phải đang giữa ban ngày ban mặt thì chắc người ta phải nghĩ đến một “U hồn sảnh nữ”(chỉ mỹ nhân thất tình chết oan nghiệp – ND).
“Bạn còn nhớ bộ phim ‘Vụ án mưu sát 405’ hồi nhỏ chúng ta đã từng xem hay không? Nghe nói vì bộ phim ấy tình tiết rất đáng sợ và ly kỳ nên đã vang dội một thời, nó tác động mạnh đến tâm lý mọi người. Vì ấn tượng rùng rợn về bộ phim ấy quá sâu, nên người ta đã không dám đến ở những căn buồng ký túc xá, phòng khách sạn mang số 405. Thậm chí khu chung cư mới xây cũng không có căn hộ đánh số 405.
Thế mà căn phòng ký túc xá 405 này kể từ năm 1977 đến nay đã có 12 nữ sinh đều chết cùng một kiểu là nhảy lầu tự tử, lại cùng rơi vào một ngày 16 tháng 6. Liệu có phải là rất kỳ cục hay không?”
Diệp Hinh và các bạn nữ khác cùng phòng đều từ các vùng xa hàng nghìn cây số về đây học đại học, ai cũng mang một lô va-li hòm xiểng. Nhưng cô nữ sinh vừa đến thì lại khác, cô chỉ hai vai khoác túi nhỏ, không có thứ cồng kềnh gì khác. Cô nhìn phía trên của chiếc giường tầng kê bên trái cửa sổ, cười và nói: “Chỗ của mình đây rồi.”
Tầng dưới chính là giường của Diệp Hinh.
Diệp Hinh vốn không có tính cả tin, nhưng cô vẫn thấy lời nói của “Sảnh nữ áo trắng” này có phần rờn rợn, Hinh cảm thấy hơi gai người, bèn hỏi: “16 năm có 12 người chết, gần như mỗi năm chết mỗi người. Nếu là 16 năm chết 16 người thật, thì mới là đáng sợ chứ!”
Cô gái quay người lại, khuôn mặt dài ít được dãi nắng nên hơi nhợt nhạt, cặp môi mỏng cùng đôi mắt nhỏ và dài hơi chảy xuôi xuống duối. Cô nói rành rọt: “Ai bảo không phải mỗi năm một người? Có bốn năm yên ổn là vì nhà trường cũng thấy nghi hoặc, nên đã bốn lần cho đóng cửa phòng này để điều tra cho rõ ngọn ngành, nhưng chẳng có kết quả gì. Nhưng trong bốn năm ấy, các phòng khác cũng vẫn xảy ra các vụ nữ sinh nhảy lầu, xem chừng đề phòng cũng không lại được. Mấy thế hệ lãnh đạo trường đều sợ sẽ bị chỉ trích là mê tín nếu cứ cho đóng cửa phòng, cho nên họ đành phải cho mở lại phòng 405. Và chẳng sai tí nào, bốn năm trước là lần cuối cùng đóng cửa, sau khi mở cửa trở lại ba năm, thì mỗi năm lại có một nữ sinh từ phòng này nhảy lầu bỏ mạng.”
Diệp Hinh thoạt đầu im lặng, sau lại thấy cô gái nọ nói năng đâu ra đấy, và không có vẻ gì là vu vơ vô căn cứ, Hinh tặc lưỡi hỏi đượm chút châm biếm: “Nói vậy tức là, trong sáu người chúng ta ở gian phòng này, nhất định sẽ có một người nhảy lầu chết vào ngày 16 tháng 6 sang năm? Thế thì mọi người nên viết sẵn di chúc đi, chưa biết sẽ đến lượt ai đây.”
U hồn sảnh nữ nhận ra ý châm biếm trong lời nói của Hinh, bèn nói lạnh tanh: “Điều này chưa hẳn đã là ý kiến dở đâu! Tôi dám nói chắc rằng, phải có một người trong số chúng ta chết vào ngày 16 tháng 6 sang năm.”
Một tiếng “choang” khá to vang lên. Thì ra là cái chậu rửa mặt bằng sắt tráng men bị rơi xuống đất, đứng bên cạnh nó là một cô gái vóc người nhỏ nhắn. Đó là Tần Lôi Lôi, cô bạn cùng phòng mà Diệp Hinh mới quen. Lôi Lôi vừa tắm gội và từ buồng tắm quay trở về phòng, cô giật bắn mình khi nghe thấy câu nói chắc nịch của Sảnh nữ.
Sảnh nữ bật cười khi khì, rảo bước đi đến nhặt hộ Lôi Lôi cái chậu men: “Đã thành công! Mình đã dọa được một người! Mình là Âu Dương Sảnh, cứ gọi mình là Sảnh cũng được!”
Diệp Hinh nghĩ thầm “Đúng là quá phù hợp, nếu lại có anh bạn trai trên là Ninh Thái Thần nữa thì càng giống như câu chuyện cổ xưa.” Hinh định cười song lại cảm thấy bất lịch sự, nhưng có vẫn không kìm được hai mép cứ động đậy. Nhưng Sảnh vẫn nhận ra điều này:
“Để mình đóan xem nào: chắc chắn cậu là Diệp Hinh!”
Dường như Sảnh không nghĩ ngợi gì, đôi mắt cô nhìn xoáy vào Hinh khiến Hinh có phần bối rối đành nhìn ra chỗ khác và hỏi: “Sao cậu biết?”
Sảnh không giấu được vẻ đắc ý, cười và nói: “Đầu tiên là, danh sách sinh viên trong phòng, có thể tra ở phòng tiếp nhận sinh viên mới, cho nên đại danh của Diệp Hinh phải ở đó. Mình chưa hề gặp Diệp Hinh nhưng mình đã nghe nói Hinh là cán bộ học sinh ưu tú, là nòng cốt văn nghệ nổi tiếng của tỉnh; và vì đã trải qua tập huấn diễn giảng lại có phong độ chững chạc, đã nhiều lần hướng dẫn chương trình các hoạt động văn nghệ cấp tỉnh. Hôm nay mình thấy cậu nói chuyện bằng tiếng Ngô Nông Nhuyễn với mấy bạn từ Giang Nam đến, rồi lại nói tiếng phổ thông rất chuẩn, cậu ăn mặc giản dị, lại kiên quyết không tin chuyện ma quỷ mình nói, cậu rất có chất làm cán bộ học sinh, rất khớp với sự hình dung của mình về Diệp Hinh. Ngoài ra, trông cậu còn có khuôn mặt sáng và đẹp. Nếu nói là “tên sao người vậy”, thì mình đoán là phải trúng luôn.”
Diệp Hinh đang ngán vì Sảnh ghép cô vào diện “cán bộ học sinh”, nhưng sau khi nghe câu cuối cùng thì cô vừa ưng ý lại vừa ngượng nghịu, tan biến ác cảm với Sảnh. Cô mỉm cười: “Mình đúng là Diệp Hinh. Khá thật, mình không coi cậu là Âu Dương Sảnh nữa mà là quái nhân!”
Sảnh cũng cười vui:
“Đừng tâng mình lên như thế, chẳng qua chỉ là kết quả gian khổ nghiên cứu Agatha đó thôi.”
“Agatha là ai?” Lôi Lôi đứng bên cạnh hỏi.
“Agatha Kristi là nữ văn sĩ Anh nổi tiếng về viết truyện trinh thám.” Sảnh trả lời “Mình có toàn tập của bà ấy bằng tiếng Anh, các cậu hãy chịu khó dùi mài đi! Nó chẳng những làm cho sinh hoạt ngoài giờ của những con mọt sách như chúng ta thêm đa dạng, mà còn có thể giúp cho nghề bác sĩ của chúng ta sau này nữa. Các cậu nên biết: bác sĩ khám bệnh và việc trinh sát phá án đều là chung mục đích, đều cần vận dụng lô-gích.”
Lôi Lôi vẫn chưa hết bàng hoàng, cô thận trọng hỏi: “Nhưng cậu vừa nói ngày 16 tháng 6 gì đó ... liệu có thật không? Sao cậu nói cứ như là tận mắt nhìn thấy vậy?”
“Mẹ mình là học sinh cũ của trường này, và là bác sĩ bệnh viện số 2 trực thuộc trường ta. Bà thuộc hết các loại sự tích ở đây. Về ‘vụ mưu sát 405’, mình đã moi dần từng mẩu chuyện từ bà mẹ mình.”
Diệp Hinh thầm kinh hãi: “Bác ấy biết cậu được xếp vào đây ở, mà không lo lắng à?”
Sảnh cười ranh mãnh: “Các cậu đừng có kể lại với ai. Đúng là mẹ sợ mình bị xếp vào phòng 405 Hôm qua đưa mình đến trường, nhìn thấy phòng mình là 403, mẹ mình mới yên tâm ra về. Mẹ mình vừa đi xong, mình vội đến đổi chỗ ngay cho Dương Yến vốn được xếp vào ở phòng này. Mình vừa kể xong câu chuyện, Yến nghe sợ quá nên đồng ý đổi phòng ngay.”
Lôi Lôi kêu lên: “Liệu ai có thể đổi phòng cho mình không nhỉ? Mình cũng muốn rời khỏi phòng 405 này!”
Diệp Hinh lại nhìn Âu Dương Sảnh bằng ánh mắt hết sức kinh ngạc.
Sảnh cười tỉnh bơ: “Cô em Lôi Lôi hãy chấp nhận đi ... cô nên bạo dạn hơn. Đó chỉ là chuyện kháo nhau, là vụ án chưa có lời giải, cho nên mình mới bằng mọi cách để được vào ở phòng này. Nói là để bắt ma hay để phá án cũng được, nếu có thể làm rõ sự thật thì lòng hiếu kỳ mãnh liệt đến đâu cũng sẽ được thỏa mãn, như thế lại chẳng hay à?”
Lôi Lôi nói: “Tớ chẳng cần thỏa mãn lòng hiếu kỳ, tớ nhát gan nên chỉ muốn lẩn tránh. Trừ phi cậu cho tớ biết những lời cậu vừa nói toàn là chuyện bịa đặt.”
“Được, được. Tớ dọa cậu cho vui đó thôi. Thực ra các chuyện ma trong trường ta nhiều vô kể, tối mai tớ sẽ lần lượt kể cho các cậu nghe.” Sảnh đã nhìn thấy ánh mắt của Diệp Hinh, cô cười và nói tiếp: “Chắc cậu đang nghĩ rằng mình như Âu Dương Sảnh mắc bệnh tâm thần, đúng không? Tớ xin nói rõ luôn: từ bé tớ đã rất mê các chuyện thần thánh ma quỷ. Cậu nhìn tớ trông như thế này, liệu có nói lên vài điều gì đó không?”
Diệp Hinh mạnh dạn quan sát Sảnh thật kỹ một lượt, mỉm cười: “Trông cậu như thế nào à? Lông mày thanh mảnh, đôi mắt dài, cái mũi thon thon, cái miệng nho nhỏ. Rất xinh.”
Sảnh nói: “Cậu vờ vịt gì thế? Tớ luôn cảm thấy mình rất phù hợp để sắm vai ‘U hồn Sảnh nữ’. Cũng là tại mẹ tớ cả thôi. Khi bà mang thai tớ, là thời kỳ cách mạng văn hóa đang rất dữ dội. Mẹ tớ thường bị động viên đi xem đấu tố, và đã tận mắt chứng kiến những người phải chết đứng vì bị đấu. Cho nên có lẽ tớ bị ma ám từ khi còn nằm trong bụng mẹ.”
“Càng nói càng cảm thấy ly kỳ!”
Người vừa nói là một cô gái dong dỏng cao, tay ôm chăn màn, miệng hơi mỉm cười bước vào phòng. Sảnh hơi kinh ngạc:
“Chu Mẫn ... cậu được xếp vào phòng 403 kia mà?”
Chu Mẫn được chỉ định làm lớp trưởng tạm thời, sáng nay Diệp Hinh đã nghe Lôi Lôi nhắc đến, Mẫn là nhân vật nòng cốt của học sinh cấp ba thành phố Giang Kinh, đã nhiều lần được có mặt trong các buổi lễ long trọng của lãnh đạo thành phố. Cha của Mẫn từng được sang Đức tu nghiệp mấy năm, hiện đang là chủ nhiệm khoa Tim mạch của Phân viện 1 trực thuộc bệnh viện số 2 Giang Kinh.
“Tớ được xếp vào phòng 403. Cũng vì nghe nói về chuyện ma ‘Vụ án mưu sát 405’ nên tớ đã xin với thầy giáo phụ đạo cho đổi sang phòng này. Tớ muốn xóa bỏ cái chuyện mê tín này. Nếu nói tớ không sợ tí gì thì không đúng, nhưng Đảng ủy trường và các thầy ở phòng quản lý sinh viên đều rất ủng hô. Cũng vì tớ là ‘cán bộ học sinh’.” Chu Mẫn đặt đám chăn màn lên chiếc giường còn bỏ không, sau đó bỗng ngoái lại nhìn Diệp Hinh rồi nói tiếp: “Cậu là Diệp Hinh chứ gì? Thấy giáo phụ đạo – thầy Lý bảo tớ chọn một bí thư chi đoàn. Tớ biết cậu và Phương Trọng Triết đều là cán bộ học sinh trung học ưu tú cấp thành phố, cấp tỉnh, nhưng vì tớ rất cần một người có thể thuận tiện công tác ở chỗ các bạn nam, nên bước đầu định để cậu Triết làm bí thư chi đoàn, mong cậu đừng nghĩ ngợi gì.”
Đúng là Diệp Hinh hơi có phần không thoải mái, nhưng thấy Chu Mẫn nói không phải là không có lý, và thấy Mẫn rất thẳng thắn, cũng là hiếm có, nên Hinh cười nói: “Không đâu. Mình nghe nói ở Đại học Y bài vở rất nặng, mình đang lo sẽ không kham nổi đây này! Có thêm chút thời gian để học tập thì cũng tốt.”
Chu Mẫn đang định nói: “Dù không làm cán bộ nữa thì cũng không được từ chối các công tác của lớp”, nhưng nhìn thấy Sảnh đang đứng đó lạnh lùng quan sát nên cô kìm lại.
Sau khi Mẫn đi ra ngoài, Sảnh nhăn mặt lè lưỡi. Lôi Lôi đang kinh hãi, nhưng từ sau lúc Mẫn vào, Lôi Lôi gần như đã bình thản trở lại, cô mỉm cười “Sảnh thật là ... tại sao vừa gặp lớp trưởng của chúng ta cậu lại sợ cứ như chuột nhìn thấy mèo thế?”
Sảnh trả lời: “Tớ có sợ cậu ấy đâu. Nhưng trong các câu chuyện ma thì lũ cô hồn quỷ đói đều rất sợ các đạo sĩ bày trò phù phép. Số phận của tớ là bị đạo sĩ Chu Mẫn trấn lại. Chúng tớ là bạn cùng lớp hi học ở trường trung học trực thuộc bệnh viện Giang Kinh. Tớ từng bị Chu Mẫn chỉnh cho không biết bao nhiêu lần, nào ngờ khi lên đại học, âm hồn cậu ấy vẫn chẳng chịu tan cho!”
Diệp Hinh mỉm cười: “Cậu nói thế, rốt cuộc cậu là Sảnh, hay cậu ấy là âm hồn?”
Sảnh nghiêm chỉnh nói: “Thì có gì khác nhau? Cậu, tớ và cậu ấy chẳng qua chỉ là hạt bụi nhẹ tâng giữa trời đất này, hễ gió thổi là biến mất luôn.”

†3N†
18-03-2008, 08:58 PM
CHƯƠNG 2: NHỮNG TIẾNG BƯỚC CHÂN TRONG PHÒNG GIẢI PHẪU

Mùa thu, gió mát trăng thanh. Đã quá giờ quy định tắt đèn từ lâu, Diệp Hinh trở mình mãi, rồi cuối cùng cũng ngủ được, cô nghĩ: liệu cô ta có đến nữa không nhỉ?
Từ không trung xa vắng vọng đến một làn điệu âm thanh thiên nhiên, mơ hồ khó bề cảm nhận là phát ra từ nhạc cụ nào, khúc nhạc lọt qua khe cửa sổ hé mở, Diệp Hinh thấy thực sự rất dễ chịu.
Bỗng một làn ánh sáng trắng chợt lóe lên, một cô gái mặc áo dài trắng chậm rãi bước ra từ giữa vầng sáng chói mắt ấy. Diệp Hinh cố nhìn cho thật rõ khuôn mặt của cô gái ấy, bèn tiến sát đến phía trước. Một khuôn mặt nát bươm, máu me đầm đìa. Ngươi lại đến ư? Ngươi muốn gì? Từng giọt máu tươi rỏ xuống mặt Diệp Hinh, cô kinh hoàng kêu lên một cách bất lực.
Vẫn lại là giấc mơ ấy.
Hai tháng tập quân sự đã nhanh chóng trôi qua, ngay sau đó là chương trình bài vở bộn bề khiến Hinh thấy thật sự mệt mỏi. Thêm vào đó là, gần đây cô trở thành nòng cốt của trạm phát thanh nhà trường, dường như cô phải bao trọn gói từ phỏng vấn, biên tập, cho đến đọc bản tin. Nhưng không hẳn vì quá mỏi mệt mà cô luôn luôn trằn trọc không yên, mà là, đã nhiều đêm liền cô toàn ngủ mê thấy cảnh tượng này.
Sau mỗi lần hoảng hốt tỉnh giấc, cô hồi tưởng lại và oán trách Âu Dương Sảnh đã kể câu chuyện ‘vụ mưu sất 405’. Chắc vì mình quá căng thẳng thần kinh, nên đã bị nỗi sợ hãi xâm nhập đầu óc.
Nhưng Hinh vẫn thấy sợ ngủ, sợ lại ngủ mê thấy cảnh tượng ấy.
Chính con người nắm giữ số phận của mình kia mà? Hinh nghĩ đến cha cô vốn là trưởng phòng của một nhà máy lớn, sau khi nghỉ việc ông chỉ suốt ngày ngồi bên bàn mạt chược, chìm đắm chẳng thể làm gì khá hơn. Trái lại, mẹ cô từ một công nhân dệt rất bình thường, đã chịu khó tự học hỏi vươn lên trở thành một nhà thiết kế thời trang nổi tiếng hiện nay. Hôm nọ Âu Dương Sảnh nói vậy không đúng: con người ta không phải là hạt bụi nhỏ bé hễ bị gió thổi là mất phương hướng. Con người là động vật cao cấp có khả năng chiến thắng bản ngã, không thần thánh ma quỷ nào có thể xâm phạm.
Càng nghĩ Hinh càng thấy nỗi sợ hãi rời bỏ cô thêm xa hơn, dần dần cô ngủ thiếp đi.
Tiếc rằng cô lại không phải là người làm chủ giấc mơ.
Tiếng nhạc du dương chơi với bồng bềnh, hình như đang nâng cô lên tận tầng mây trôi. Làn mây không ngớt co lại rồi giãn ra, rồi một vệt sáng trăng lại xuất hiện trước mặt Hinh.
Cô là ai? Hinh dường như có thể nghe thấy âm thanh dội lại từ bốn phía xung quanh. Cô gái đặt ngón tay lên môi và “xuỵt” ... rồi chìa bàn tay về phía Hinh.
Hồi còn bé mình vẫn nghe bà nội dặn không được đi ra bờ sông, quỷ chết đuối sẽ thò tay lên tóm chân người ta lôi xuống dìm chết. Cô gái này nếu như là hồn ma ngày trước nhảy lầu, liệu có lôi mình nhảy lầu hay không?
Hinh cảm thấy mình không thể tự chủ được, cô cứ từ từ đưa tay ra. Cuối cùng cũng chạm vào tay cô gái áo trắng. Lạnh buốt.
Hinh mở to mắt, muốn trước khi chia tay phải nhìn thật rõ mặt cô ta, nhưng Hinh cũgn sợ lại nhìn thấy khuôn mặt máu me đầm đìa ấy.
Nhưng lần này thì khác, vầng sáng chói mắt dần dần nhạt đi, mặt cô gái trông mỗi lúc một rõ, một khuôn mặt trắng nhợt và toàn vẹn.
Là khuôn mặt của Âu Dương Sảnh!
“A!” Hinh hoảng hốt kêu to, nhưng cô bị Sảnh giơ tay bịt ngay miệng.
“Nhóc con ạ, ta đây mà! Đừng kêu lên kẻo làm mọi người tỉnh giấc!”
Hinh sợ hãi bừng tỉnh cơn mê, cố nhìn rõ trong bóng tối. Sảnh vốn nằm giường trên nhưng lúc này rõ ràng đang ngồi bên cô. Khuôn mặt trắng nhợt đang ở ngay trước mắt cô.
“Cậu làm gì vậy? Cậu làm tớ sợ hết hồn!” Diệp Hinh còn chưa hết sợ, cô thấy Sảnh vẫn mặc bộ áo ngủ dài, màu trắng, bàn tay lạnh giá đang nắm chặt tay cô.
“Tớ đoán nhé: có phải cậu tưởng mình là cô gái mặc áo trắng, đầu và mặt nát bươm trong giấc mơ của cậu hay không? Cậu nhát như cáy, gan của cậu bé tí tẹo!” Sảnh cười đắc ý, khiến Hinh rất ngán ngẩm:
“Tớ mà nhát gan? Cậu thử sang ngồi bên giường Lôi Lôi mà xem, nó lại không kêu ầm lên, làm cả khu nhà này tỉnh giấc ấy chứ?” Mồm nói cứng vậy thôi, thực ra Hinh đang cười thầm mình quá yếu bóng vía.
Sảnh khẽ chép miệng: “Chẳng hiểu tại sao đêm nay tớ không thể ngủ được. Nằm giường trên thấy cậu cứ trở mình liên tục, đoán rằng cậu cũng không ngủ nên tớ định rủ cậu ra ngoài đi dạo, nào ngờ cậu đã đang nằm mơ rồi!”
“Đúng thế. Tớ lại bị cậu làm thức giấc. Cậu đã đạt được mục đích rồi chứ? Nửa đêm khuya khoắt, tớ không thể đi ra ngoài với cậu, tớ đâu thuộc nhóm U hồn Sảnh nữ các cậu!”
“Hinh ơi, tớ xin cậu đấy!” Sảnh khẩn khoản, cô đóan rằng Diệp Hinh dễ tính nhất định sẽ chiều ý cô. Hinh vừa tỉnh cơn mê, quá sợ hãi nên khó mà ngủ lại được, cô bằng lòng.
“Nhưng cửa ra vào khu nhà đã bị khóa rồi, thì ra sao được?”
Sảnh hạ thấp giọng: “Từ lâu tớ đã trinh sát rồi: chỗ ngoặt giữa cầu thang tầng một lên tầng hai có một ô cửa sổ to, chấn song sắt bị mất một thanh, đó là “cống hiến” của các anh chị sinh viên hay thức đêm học bài. Người hơi béo thì không chui lọt qua nhưng gầy như cậu và tớ thì chắc chắn không có vấn đề gì. Bên ngoài cửa sổ là ô-văng khá rộng, nó cũng là mái che lối vào cầu thang; chúng ta sẽ bò từ ô-văng sang cửa sổ bên ngoài khu bể nước tầng một, cửa sổ này chỉ cách mặt đất chừng một mét rưỡi ...”
Sảnh đứng dậy tiến lại gần giường Chu Mẫn, đứng đó giây lát, rồi quay lại nói tiếp: “Đạo sĩ Chu Mẫn đã ngủ say, chúng ta có thể xuất phát!”


Dưới ánh trăng soi, Sảnh và Hinh đi mấy vòng quanh sân vận động, nói với nhau các chuyện về lớp mình, bình luận về vài bạn nam, và cùng cười vui. Sảnh bỗng chỉ tay về phía trước: “Chúng ta đến đằng kia xem sao, sau đó sẽ quay về, có được không?”
Nếu Sảnh nói rõ là đến khu nhà giải phẫu thì chắc chắn Hinh sẽ không đồng ý. Lúc Hinh từ chối thì đã muộn, hai người đã đứng trước khu nhà gác nho nhỏ cũ kỹ xây theo kiểu châu Âu, họ đứng nghệt ra chăm chú nhìn những bức tường xám nhợt nhạt bị ánh trăng hắt vào.
Không hiểu tại sao Hinh thật sự cảm thấy ớn lạnh: “Có lẽ mình mặc phong phanh quá, nên thấy hơi rét, chúng ta quay về thôi!”
“Đây là thánh địa sản sinh ra rất nhiều chuyện ma ở trường ta!’ Sảnh nói tỉnh bơ, coi như không nghe thấy Hinh nói gì; cô ngây người nhìn khu nhà bằng ánh mắt đượm vẻ thành kính, khiến Hinh thấy kinh hãi.
“Cậu tệ quá, lừa tớ đến đây hành hương à? Rồi tớ sẽ phải nói chuyện nghiêm chỉnh với mẹ cậu rằng cô con gái của bà rất đồng bóng!” Nói rồi Hinh quay người định ra về.
Sảnh túm ngay Hinh níu lại: “Người ta vẫn nói các chuyện ma quỷ ở phòng giải phẫu này đều xảy ra sau lúc nửa đêm, mấy khi chúng ta có dịp đến đây vào lúc khuya khoắt thế này, cậu không muốn vào tận nơi xem xem thực hư thế nào à? Đừng sợ, đừng sợ! Trong ngần ấy chuyện ma, nào có ai chết trong phòng thực nghiệm giải phẫu này đâu? Đêm nay chúng ta phải khám phá cái bí ẩn ma quỷ này! Chắc sẽ không xảy ra chuyện gì cả, và chúng ta cũng tiện bẩm báo với đạo sĩ Chu Mẫn rằng chỉ trong một đêm đã quét sạch những chuyện mê tín kiểu phong kiến ám ảnh trường ta suốt mấy chục năm, tư tưởng của chúng tôi đã đủ tiến bộ chưa?”
Hinh vẫn không quay đầu lại: “Cậu thấy hứng thú thì cứ vào, rồi thì công lao quét sạch mê tín sẽ thuộc về cậu tất! Tớ không ăn theo cậu đâu!”
“Nhưng ... nhưng mà ...” Sảnh không biết nên nói gì nữa, nhưng cô vẫn túm chặt tay áo của Hinh.
Hinh bỗng hiểu ra: “Thì ra cậu cũng chỉ tỏ ra đam mê tìm hiểu vậy thôi, thực chất cậu cũng thấy sợ, đúng không?”
Sảnh giận dỗi nói: “Tớ sợ cóc gì! Bạn bè gì mà như cậu? Tớ đã hoài công đêm hôm khuya khoắt đi dạo với cậu suốt! Một mình tớ vào vậy, cậu đừng cản tớ!”
Thấy Sảnh vẫn túm chặt tay mình không buông, Hinh nghĩ cô bạn tốt song rất trái khoáy và ngoan cố này vừa lỳ lợm lại vừa đáng mến. Hinh đành nhượng bộ:
“Thôi được rồi! Chẳng biết kiếp trước tớ đã tích đức ra sao mà kiếp này lại gặp phẩi cô gái tinh quái như cậu. Nào, vào xem một lát rồi ra ngay!”
Hai người kề bên nhau cùng dò dẫm bước lên, nhẹ nhàng rón rén như rất sợ sẽ làm kinh động ... nhưng khu nhà này làm gì có ai mà phải lo sẽ làm kinh động đến họ?
Cuối cùng cũng đã bước đến sát cửa, Hinh khẽ nói: “ Tại sao lại phải xây cái bậu cửa cao thế này?”
Sảnh đáp: “Có nhiều cách giải thích: để phòng khi mưa to, nước tràn vào. Để phòng rò rỉ phooc-môn ... Nhưng nói là để đề phòng ma quỷ chạy ra ngoài, là đáng tin hơn cả.”
Hinh chép miệng: “Còn tiếp tục nói vớ vẩn, thì từ nay tớ sẽ không bao giờ tin lời cậu nữa!”
“Cậu đi trước đi!” Sảnh dừng bước.
Hinh chỉ còn biết lắc lắc đầu, rồi bước lên bậc thềm. Cả hai chăm chú nhìn tay nắm cửa bằng đồng rồi đứng đờ ra.
“Cậu mở cửa đi!” tòan thân Sảnh hơi run run.
Hinh lại đành lắc lắc đầu, nắm vào tay nắm rồi mở cửa.
Trước mặt là một vùng tối om. Sảnh bật đèn pin mà cô đã chuẩn bị từ trước, nhưng ánh sáng đèn pin không đủ mạnh, chỉ thấy lờ mờ hiện ra một hành lang. Cả hai lại đứng nghệt ra ở cửa. Sảnh vừa mở miệng: “Cậu ...” thì Hinh tiếp lời luôn: “Cậu đi trước đi chứ!” Hinh bước lên một bước, miệng lầu bầu: “Sảnh thật là ... tớ thừa biết cậu không dám đi trước!”
Hinh vừa dứt lời thì Sảnh đã tưng tưng nhảy vào, hoàn toàn không có vẻ sợ sệt như vừa nãy, cô lia đèn pin khắp các phía, gọi to: “Các người đâu rồi? Có tiểu muội tôi đến thăm, đừng để cho tôi phải thất vọng!”
Lúc này Hinh mới biết mình đã mắc lừa con bé Sảnh quái dị tinh ma, Hinh lầu bầu than thở, hậm hực nói: “Cậu gọi tướng lên như thế, dù có đồng loại của cậu ở quanh đây thì họ cũng sợ chết khiếp mà trốn biệt!”
Sảnh cười: “Được, thế thì tớ nhã nhặn một chút vậy!”
Đèn pin vụt tắt, xung quanh bỗng tối đen như mực, Sảnh cũng im lặng.
Một luồng gió lạnh xối xả bỗng bao phủ Diệp Hinh, khiến cô rét run cầm cập. Thì ra bóng tối có thể làm cho người ta khiếp hãi đến như vậy. Hinh hít sâu một hơi, nhưng cái lạnh vẫn không tan. Sảnh cũng tuyệt đối không nói một lời. Sau một lúc im lặng, Hinh bí quá đành phải lên tiếng: “Này Sảnh, đừng làm trò nữa, bật đèn lên đi!”
Sảnh không đáp. Xung quanh lặng ngắt như tờ.
“Sảnh đang ở đâu thế? Đừng làm trò khỉ nữa!” Giọng Hinh có phần run run.
Lại vẫn im lặng. Hinh bị cảm giác cô độc và nỗi sợ hãi hành hạ, mỗi giây trôi đi dường như dài vô tận.
Cô đang định kêu lên, thì một giọng nói nhỏ nhẹ vẳng đến: “Chớ nói to!”
Tạ ơn trời đất, chính là tiếng Sảnh.
“Cậu đừng vội mắng mỏ tớ! Tớ vẫn đang nghe kỹ xem ... hình như tớ nghe thấy tiếng bước chân.” Sảnh nói nhỏ, nhưng Hinh nghe cứ như là sấm vang bên tai.
Gì cơ? Tiếng bước chân?
Hinh nín thở lắng nghe, đúng thế, những tiếng bước chân nặng nề hình như còn đang đi bên ngoài khu nhà, nhưng đang tiến lại gần hơn. Nó đang tiến về phía hai cô.
“Tớ cũng nghe thấy.” Hinh khẽ nói, và cũng không biết mình còn có thể đứng nổi ở đây bao lâu nữa.
Tiếng bước chân mỗi lúc một gần, mỗi lúc một nặng nề hơn, cứ như là đang đi trên đường lầy từng bước đều để lại dấu chân lún sâu xuống bùn. Tim Hinh đập liên hồi. Người bình thường đâu có bước chân nặng trịch như thế? Nếu không phải người bình thường thì có thể là gì?
Chẳng lẽ cứ đứng ngây thế này mãi?
“Mau chạy đến gian cuối cùng nấp đi thôi!”
Sảnh kéo Hinh, cả hai cùng chạy đến hết hành lang. Sảnh lại bật đèn pin, ở hai bên phải và trái cuối hành lang có hai căn buồng nhỏ, cửa chỉ khép hờ. Vào lúc này mà Sảnh vẫn còn chớt nhả được: “Chúng ta có nên gieo một đồng xu, để quyết định xem nên nấp vào gian nào không?”
Hinh mặc kệ Sảnh đang nói rườm rà, cô kéo luôn Sảnh nấp vào gian bên phải. Sảnh vẫn chưa chịu thôi: “Này Hinh ạ, tuy chỉ là một quyết định đơn giản hai chọn lấy một, nhưng cũng vẫn có thể có hậu quả sai một bước ôm hận ngàn thu đấy!”
Căn phòng nồng nặc một thứ khí cực khó ngửi, nhức cả mũi. Nhưng lúc này Hinh hoàn toàn bị ức chế bởi tiếng bước chân kỳ dị ngoài cửa nên cô không để ý gì khác nữa. Sau khi bước vào buồng , Sảnh lập tức cài cửa.
Tiếng bước chân bỗng dừng lại ở cửa vào khu nhà. Hình như nó đắn đo xem có nên bước vào hay không.
Nguy rồi! Hinh chợt nhớ ra rằng khi bước vào hành lang, hai cô đã không đóng cửa ra vào khu nhà. Như thế khác nào ngầm ra hiệu cho người ta biết rằng bên trong này đang có người?
Thảo nào mà hắn đang do dự, chắc chắn đã rất thông thuộc khu nhà này, nên khi thấy cửa mở vào lúc nửa đêm thì hắn cho là chuyện khác thường. Ai có thể thông thuộc nơi này mà lại có bước chân nặng nề kỳ quái ấy? Lẽ nào các chuyện ma vẫn lưu truyền trong trường bao năm qua là có thật? Chẳng lẽ khu nhà nhỏ này là thánh địa của lũ ma quỷ quái dị?
Càng nghĩ lại càng sợ. Hinh lùi lại theo bản năng, bỗng nhiên có một bàn tay cứng đơ lạnh buốt áp lên má cô. Không, nó không có hơi người, nó là một bộ móng vuốt!
“Có phải là Sảnh không?” Hinh khẽ hỏi một cách tuyệt vọng. Tất nhiên không thể là Sảnh đang bỡn cợt. Rõ ràng là Sảnh đang đứng trước cô.
Sảnh quay lại kinh ngạc nhìn, rồi bấm đèn pin. Hinh thấy mặt Sảnh biến đổi rất nhanh, cô vội đưa tay bịt miệng mình để khỏi phải kêu to lên. Nhưng Sảnh lập tức cười rất tếu, lúc này Hinh mới biết mình lại bị mắc lừa Sảnh. Khi quay đầu nhìn thì cô lại vẫn sợ hết hồn hết vía!
Một bộ xương hoàn chỉnh đang áp sát ngay sau lưng cô!
Đó là tiêu bản bộ xương người dùng để dạy học, được treo vào một cái giá sắt. Khi mới vào trường, cô đã nhìn thấy nó một lần khi vào tham quan khu nhà giải phẫu. Không ngờ đêm nay lại gặp nó ở đây.
Tiếng bước chân lại vang lên, lần này là ở ngoài hành lang.
Hinh chỉ còn cách thầm cầu khấn không ngớt, mong bước chân ấy sẽ dừng lại trước khi đi hết hành lang.
Nhưng tiếng bước chân lại mỗi lúc một gần, nền nhà rung rung theo từng bước chân ấy, con tim của Hinh cũng rung theo.
Cuối cùng, tiếng bước chân dừng lại ở cuối hành lang.
Sảnh bỗng kéo Hinh lại gần, thì thầm bên tai cô: “Chắc hắn sẽ gieo đồng xu để quyết định rẽ vào gian nào. Chúng ta hãy trốn vào phía trong!”
Hai người dò dẫm bước vào trong cùng. Thì ra khi nãy Sảnh đã bật đèn pin nhìn thấy góc căn phòng có một tủ lớn, cô mở cửa tủ và nhanh tay lia đèn quét một lượt. trong tủ có treo vài thứ gì đó, vì gấp vội nên nhìn không rõ. Nhưng cái tủ vẫn còn rộng chán. Hai cô vội chui ngay vào.
Tiếng bước chân tiến vào căn phòng!
Hắn dừng lại, một khoảng khắc chết lặng, rồi bỗng “rầm” một tiếng động mạnh.

†3N†
18-03-2008, 08:59 PM
Trong tủ tối om, cả hai cô đều không ngớt cân nhắc xem, có nên hé cửa tủ để nhìn xem hắn là ai? Nhưng sự sợ hãi đã chiến thắng trí tò mò, cả hai cô đều cố thở thật khẽ chứ đâu dám dại dột manh động?
Cả hai đều lấy làm may mắn bởi quyết định khôn ngoan của họ, vì tiếng bước chân lại vang lên!
Lần này tiếng bước chân không nặng nề như trước, mà là lệt sệt lê bước rin rít trên sàn bê tông.
Nhưng tiếng rin rít ấy đang tiến đến gần cái tủ mà hai cô đang nấp.
Trong bóng tối, Sảnh đưa tay về phía Hinh, Hinh cũng cảm nhận được bèn nắm lấy, Hinh thấy như mình đang nắm một tảng đá nho nhỏ. Thì ra là, những tưởng Sảnh vốn không biết sợ là gì, nhưng Sảnh cũng như mình – khi bước chân tiến lại gần, cũng có cảm giác tuyệt vọng!
Tiếng bước chân dừng lại ngay trước cái tủ, hai cô cực kỳ tuyệt vọng khi cánh cửa tủ đang từ từ mở ra. Không có một tia sáng, căn phòng vẫn không sáng đèn. Ai đã vào căn phòng tối om mà lại không bật đèn?
Hai cô co rúm người trong góc tủ, sau khi cửa tủ bị mở ra thì vẫn không thấy động tĩnh gì. Hình như người kia đang đứng đờ ra đó. Thế rồi một loạt tiếng “sột soạt”, hình như có một bàn tay thò vào sờ sệt mò mẫm, lấy ra một thứ gì đó. Rồi đóng chặt cánh cửa tủ lại.
Tiếng bước chân lại rin rít rời xa cái tủ, hai cô áp tai vào vách tủ nghe ngóng, chỉ mong hắn đi cho xa. Nhưng các tiếng động vẫn quẩn quanh trong căn phòng.
Bỗng một tiếng thở dài nhè nhẹ vọng vào, hai cô không ai bảo ai đều rùng mình.
Một khoảnh khắc sau đó, xung quanh bất ngờ im ắng. Vào lúc yên lặng này Hinh mới cảm nhận ra cái mùi hắc nhức mũi trong căn phòng chính là mùi phooc-môn vẫn dùng để ướp các tiêu bản giải phẫu. Thực ra là mùi phooc-môn cay cay lúc nào cũng lan tỏa khắp khu nhà giải phẫu, hễ đặt chân vào khu nhà là ngửi thấy ngay. Chỉ khác là thứ mùi ấy ở căn phòng này nồng nặc khác thường. Hình như ngoài mùi phooc-môn còn có mùi thuốc gì đó cực kỳ khó ngửi. Không nghi ngờ gì nữa, có lẽ đây là nơi chứa một lượng lớn phooc-môn, và rất có thể còn chứa rất nhiều tử thi.
Lại một tiếng thở dài nhè nhẹ, nhưng đối với Diệp Hinh thần kinh đang căng thẳng như sắp đứt thì lại chẳng khác gì sấm nổ. Tiếp đó là một tiếng “két”, hình như mở cửa sổ.
Rồi một tiếng “xẹt” nhẹ vang lên, sau đó Hinh ngửi thấy mùi hương thắp.
Người này rốt cuộc đang làm gì nhỉ? Đêm khuya, ai lại vào khu nhà giải phẫu để thắp hương?
Chỉ lát sau, một đợt âm thanh quái dị cực kỳ chói tai, ngắt ngứ rên rỉ não nề đã hoàn toàn phá tan sự yên tĩnh ở đây. Âm thanh quái dị vây bám vào gáy Hinh khiến cô rùng mình kinh hãi.
Thấy bên tai hơi ngứa, thì ra Sảnh đang ghé sát miệng vào tai cô thì thầm: “Chắc chắn là người này ... hoặc con ma này đã nhận ra chúng ta ở quanh đây, hắn bèn đốt hương tẩm thuốc mê làm chúng ta ngất xỉu, có lẽ hắn gây ra các tiếng động kỳ quái để tra tấn chúng ta đến chết, chúng ta không thể ngồi đây chờ chết ... ít ra, tớ muốn xem xem hắn đang làm trò gì, hoặc con ma đó đang định hại người như thế nào.”
Kể cũng lạ, sau cơn sợ hãi cực độ, thì Hinh lại muốn biết rõ sự thật. Dù điều này có nghĩa là phải chịu rủi ro cực lớn hoặc phải bị khếp hãi nhiều hơn nữa. Hinh bèn gật đầu.
Cửa tủ được hé ra một khe hẹp, hai người ghé mắt nhìn ra, họ sợ ngây người bởi cảnh tượng trước mắt.
Căn phòng nhỏ không tối om như trước đó, cửa sổ hướng tây đã mở toang, ánh trăng sáng trong chiếu vào căn phòng, rọi vào một cái lưng còng. Trên cái lưng còng ấy là một cái đầu nhẵn trơn to tướng đang cúi xuống, phía trước hắn là một cái giường, trên giường có một người – có lẽ là một cái xác – đang nằm. Trên tay ông đang cầm cái cưa điện, đang định phân chia thi thể trên giường.
Hinh và Sảnh dường như cùng bám chặt lấy cánh cửa tủ, nên mới không ngã nhào ra người vì quá sợ hãi. Sau khi hết cơn thở dốc, họ bỗng thấy tay mình dính nhơm nhớp. Đưa lên mũi ngửi, thì sặc một mùi máu tanh. Đúng là máu tươi! Phòng tuyến mà hai cô thiết lập để ngăn chặn sự kinh hãi đã vỡ tung, họ cùng kêu thét lên.
Người lưng gù kia chậm rãi quay lại. Tuy đang cực kỳ hoảng sợ nhưng Sảnh vẫn nhớ ra phải bật đèn pin, cô chiếu vào mặt người ấy. Đó là một nam giới tuổi ngòai 50 có khuôn mặt dữ tợn và đang lộ vẻ hơi ngạc nhiên. Ông ta nói nghèn nghẹn: “Thật không ngờ lại là hai cô gái! Dám vào tận đây, rất can đảm đấy!”
Quan sát kỹ, thấy ông già choàng quanh người một chiếc “váy” bằng cao su, tay đeo găng cao su, đủ thấy chẳng qua ông chỉ là một kỹ thuật viên của phòng thực nghiệm giải phẫu.
“Thôi nào, đừng sợ. Tôi chỉ là một kỹ thuật viên, đang chia thi thể này thành các tiêu bản. Hai cô cũng thật là... nửa đêm khuya khoắt lại đến đấy nấp trong cái tủ đựng dụng cụ lần mò này nọ, có hay ho gì đâu! Thôi được, tôi cũng chẳng hỏi han hai cô học lớp nào, đòi xem thẻ sinh viên hoặc báo cáo phòng bảo vệ làm gì. Mau về mà đi ngủ đi!”
Ông già gù sợ sẽ làm cho hai cô thêm sợ hãi, nên thọat đầu ông dịu giọng nói chuyện với hai cô, nhưng đến mấy câu sau thì lời nói và vẻ mặt đều rất gay gắt, tỏ rõ ý không hcấp nhận hai vị khách không mời mà đến này.
Sảnh thận trọng nói: “Thảo nào chúng cháu nghe thấy tiếng bước chân nặng nề như thế, thì ra là bác phải vác cái xác này vào đây! Cái xác này ở đâu ra thế ạ?”
“Còn phải hỏi à? Tất nhiên là lấy từ nhà xác, của bệnh viện trực thuộc số 1. Đoạn đường cũng ngắn thôi, và chỉ một cái xác, nên tôi mới cõng đến đây. Nếu chuyển nhiều hơn, tôi phải dùng xe ba bánh để chở. Các cô hỏi gì mà lắm thế? Mau đi về đi cho!”
“Bác ạ, có phải ... bác đã biết là chúng cháu đang ở trong khu nhà này, và đoán rằng chúng cháu đang nấp trong tủ dụng cụ của bác không? Bác là con người làm việc rất ngăn nắp phải không ạ?”
Ông già gù vốn tưởng hai cô gái sẽ mau lủi đi thật nhanh, không ngờ Sảnh lại hỏi hết câu này đến câu khác như vậy, ông vừa bực mình vừa thấy buồn cười: “Tất nhiên là thế ... nhưng sao cô biết?”
Sảnh đáp: “Vì cháu đoán rằng mọi ngày bác thường khép kín cửa ra vào, nhưng đêm nay cửa lại không khép thì sẽ đoán biết trong nhà có người. Và lại đoán rằng bọn cháu sẽ nấp ở đây. Bác đến nhìn cửa phòng, vốn chỉ khép hờ, nhưng khi vào đây rồi cháu đã quên nên mới khép chặt cửa lại, vì thế bác sẽ càng nghi ngờ hơn. Đúng thế không ạ? Khi vào tủ để nấp, bọn cháu rất lúng túng và đã làm lộn xộn áo quần và các thứ dụng cụ vốn được bác xếp ngăn nắp, nên bác đưa tay huơ vào là biết ngay bọn cháu đang nấp trong tủ. Bác cũng đóan rằng chắc chắn bọn cháu sẽ lén nhìn ra, nên mới bôi máu tươi vào cánh cửa, để dọa bọn cháu!”
Ông già gù cười nhạt: “Không ngờ cô bé này cũgn khôn thật, cô đã đoán rất đúng. Có điều, lúc đầu tôi tưởng là mấy cậu con trai nghịch ngợm, nào ngờ lại là hai cô sinh viên. Thập kỷ 90 có khác, thời thế đã thay đổi, các cô gái thực là to gan!”
“Bác đã quá khen rồi! Chỉ là chúng cháu được cô giáo Agatha Kristi dạy bảo đó thôi! Bác có thể cho cháu biết tại sao bác lại làm việc về đêm không ạ? Phòng thì tối, sao bác không bật đèn, và tại sao còn phải thắp hương nữa? Khu nhà này ...”
Ông già gù ngắt lời: “Cô có thôi đi không? Vừa mới được khen là khôn, sao cô không chịu nghĩ xem: khu nhà này hay có người ra vào, lại không có tầng hầm, nếu ban ngày tôi mở xác ở đây thì đẹp mắt lắm hay sao? Đang yên đang lành, tội gì tôi lại muốn làm việc ban đêm? Tôi đã nhiều lần xin nhà trường bố trí cho một nơi tương đối kín đáo yên tĩnh để làm việc, nhưng nhà trường còn thiếu phòng thiếu kinh phí. Cơ sở vật chất ở đây toàn là các thứ từ bốn chục năm về trước. Còn về ... tại sao tôi không ưa thắp đèn để làm việc ... chỉ là vì sở thích cá nhân mà thôi. Các cô khỏi phải dài dòng nữa, còn không mau về đi!”
“Dù bác không nói thì cũng coi như đã nói rồi: bác sợ rằng nếu có đèn sáng thì các xác chết sẽ nhận ra bác, rồi các âm hồn sẽ bám theo bác mãi. Bác thắp hương cũng vì có ý xua đuổi tà ma. Cháu đã lại đoán đúng, phải không ạ?” Âu Dương Sảnh được đằng chân lân đằng đầu, cô nói một chập dồn ép đối phương.
“Nói vớ vẩn!” Ông già gù bỗng đứng lên, ánh mắt hơi dữ tợn, bàn tay cầm chiếc cưa điện hình như hơi run lên vì tức giận. “Hôm nay tôi không chấp các cô làm gì. Các cô đi đi, chớ ăn nói linh tinh kiểu này nữa, rõ chưa? Tôi chỉ muốn điều tốt cho các cô mà thôi, đi đi!”
Hinh cũng cảm thấy Sảnh có phần hơi quá, bèn kéo tay Sảnh: “Về thôi!”
Đã gần bước ra khỏi phòng nhưng Sảnh lại ngoảnh lại: “Bác ơi, cháu muốn hỏi một câu cuối cùng: nghe nói trong khu nhà này có ma, thật thế không ạ?”
Ông già gù bỗng bấm nút máy cưa điện, ông quát to dường như còn át cả tiếng máy cưa: “Hoàn toàn đúng như vậy! Đúng là đêm nay tôi gặp ma, nên mới chạm trán cô bé con lắm mồm thế này! Xéo ngay!”
Cả hai cô chạy chầm chậm, lúc sắp ra đến cửa khu nhà, Hinh bỗng vấp ngã. Ngay lúc đang ngã ra, cô thấy phía trước lóe lên một làn ánh sáng trắng, bóng cô gái áo dài trắng vẫn thấy trong giấc mơ lướt qua rất nhanh, và hai chữ “Ánh trăng” nhỏ nhẹ thoảng bên tai cô.
Sảnh vội đỡ Hinh dậy, Hinh bỗng nắm chặt Sảnh, mơ hồ hỏi: “Ánh trăng là gì?” Sảnh cũng mơ hồ: “Cậu nói gì thế?”
Tiếng bước chân lệt sệt kia lại vang lên phía sau họ, đèn ở hành lang bỗng sáng lên, ông già gù đang rảo bước tiến lại, đôi mắt như muốn bật ra khỏi hốc mắt. Đi đến trước mặt Hinh, cô đặt hai tay lên vai cô và hỏi: “Này, cô bé đang lẩm bẩm gì vậy?”
Hinh dường như chợt tỉnh cơn mê, cô lắc đầu: “Gì ạ? Cháu có nói gì đâu!”
Sảnh nói: “Cậu vừa nói là ...” thì một bàn tay thô nháp bịt ngay miệng Sảnh. Cô nhìn thấy khuôn mặt già nua chằng chịt những nếp nhăn của ông già gù đang đầy vẻ nghiêm khắc, cô bèn nín lặng.
Ông nói rành rẽ từng tiếng một: “Bất kể là hôm nào, sau lúc nửa đểm cô tuyệt đối không được đến đây, nhớ chưa?”
Hinh gật đầu. Sảnh nói: “Ý bác là Hinh không được đến, nhưng cháu có thể thường xuyên đến phải không ạ?”
“Vớ vẩn quá! Cô cũng không được!” Ông già gù mạnh tay đẩy, dồn hai cô ra tận cửa. Sảnh lại gợi hỏi: “Cháu nghe nói có cái bậu cửa cao thế này thì ma quỷ không thể bước ra khỏi khu nhà. Chúng cháu đã ra cửa, thì được an toàn rồi phải không ạ?”
Ông già không buồn trả lời nữa, chờ khi hai cô gái đã đi chừng vài ba chục bước, ông mới lạnh lùng nói với theo: “Xưa nay kẻ gây lắm tội nhất là người, chứ không phải là ma!”

†3N†
18-03-2008, 08:59 PM
CHƯƠNG 3: BÍ ẨN XÁC CHẾT

Năm nào cũng vậy, mùa xuân không hẹn vẫn cứ trở về. Bởi lẽ trái tim mọi người đều luôn khát vọng về nó. Mùa xuân năm nay, hoa lá ngát hương nơi sân trường đã về với Diệp Hinh, cô còn có được những đêm dài êm đềm không gặp ác mộng. Nhưng điều không mong đợi thì lại đến với Âu Dương Sảnh: vào tháng tư, cô mắc chứng viêm gan A, xét bệnh trạng của Sảnh thì cô cần phải nghỉ hjc từ một đến hai tháng. Lúc này Hinh đang ở trong phòng thực nghiệm giải phẫu, loay hoay với một cánh tay đang ngâm trong phooc-môn màu nâu đỏ và lại nhớ đế cô bạn thân tinh nghịch của mình.
Kể từ sau lần mạo hiểm đến khu nhà giải phẫu lúc đêm khuya, đến nay hai cô đã dần dần không để ý gì đến các chuyện ma quỷ nữa. Họ cũng thường cùng nhau nghiên cứu nguyên do bí ẩn của ‘Vụ án mưu sát 405’, nhưng vì bài vở bộn bề, các hoạt động của trường cũng nhiều, mặt khác, lại thiếu các tư liệu, nên hai cô không biết nên bắt đầu từ đâu. Thêm nữa, cả hai lại sống giữa khu trường xanh tươi cây lá, chỉ thấy quanh mình rực rỡ ánh mặt trời, nên dần dần cả hai cũng giống như mọi người: chấp nhận coi những chuyện kinh dị hết sức hão huyền ấy chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, nên không cần nhớ đến làm gì nữa.
Sảnh vừa mới nghỉ dưỡng bệnh được ba ngày, thì Diệp Hinh – vốn luôn tự coi mình là con người độc lập tự cường – đã có phần ngơ ngác. Cũng không có gì là lạ, từ khi bước chân vào trường, hai người hầu như luôn bên nhau như hình với bóng. Kể từ sau cái đêm thu năm ngoái cùng mạo hiểm vào phòng thực nghiệm giải phẫu, cả hai lại càng ăn ý với nhau hơn. Nay Hinh bỗng cô đơn vì tạm thời vắng bóng Sảnh – bông hoa thổ lộ tâm tình, thì Hinh khó tránh khỏi có phần hẫng hụt. Tuy nhiên, Hinh vẫn thầm tự trách và giận chính mình đã quá kém cỏi, vì một cô bạn mà đã phải lúng túng rối trí. Hinh nhớ về kỳ nghỉ đông, mẹ cô đang làm thủ tục ly hôn, bà khóc và dặn dò cô: “Không bao giờ được gắn quá chặt tình cảm của mình với một ai đó.” Bà nói vậy là vì đã bao năm bà bế tắc, giận chồng không có chí vươn lên. Và đó cũng là nỗi ngậm ngùi về một cuộc hôn nhân thất bại.
Nhưng rồi cô lại nghĩ liệu có phải mình đã quá lan man về chuyện này không? Tình bạn giữa mình và Sảnh rất trong sáng, một chút bất ổn hiện nay rồi sẽ nhanh chóng trở lại bình thường cùng với thời gian. Khi mới biết tin cha mẹ ly hôn, tâm trạng mình chẳng phải cũng đã từng rất nặng nề hay sao? Mình đã khóc, đã oán trách, thậm chí bỏ nhà ra đi ... nhưng nay chẳng phải đã phẳng lặng nhiều rồi hay sao? Khi mẹ hoặc cha nói chuyện điện thoại với mình, vẫn rất tình cảm đấy thôi!
Hinh không muốn chìm đắm trong khoảng chân không mà Sảnh đã để lại, cô vùi đầu vào vùng trời nho nhỏ của mình – trạm phát thanh của trường. Chị trưởng trạm phát thanh sắp tốt nghiệp đến nơi, thấy kỹ thuật đọc của Hinh ngày càng thuần thục bèn đề cử cô kế nhiệm chị làm trưởng trạm. Đang là mùa xuân, nên các hoạt động văn nghệ của trường rất phong phú, trưởng ban văn nghệ của hội sinh viên nhà trường đang bận tối mắt tối mũi, bèn kết nạp thêm Hinh làm một cán sự để chuẩn bị cho một số bủoi trình diễn văn nghệ và thi đấu.
Hinh đã làm khá nhiều việc cho hội sinh viên, khi đứng trong phòng thực nghiệm giải phẫu im ắng này, cô lại nhớ đến Sảnh.
“Hinh ơi, cậu đang thất tình đấy à?” Tần Lôi Lôi hỏi khẽ Diệp Hinh đang có phần lơ đễnh. Trong học kỳ này, từ sau khi bắt đầu học môn giải phẫu, Lôi Lôi đã mạnh dạn hơn nhiều nhưng vẫn chưa có gan đi một mình vào phòng thực nghiệm giải phẫu để ôn bài, nên mới nài nỉ Hinh đi cùng. Tuy ban ngày đã được nghe giảng về các tiêu bản này, nhưng vì đông người ồn ào nên khó có thể yên tâm chăm chú nhìn cho rõ. Cho nên đến tối thườn gcó sinh viên cùng khóa đến đây để nghiên cứu các phần của tứ chi bày la liệt trên bàn. Chúng đều là một phần của các tử thi cũ, chẳng rõ đã ngâm trong phooc-môn bao lâu. Một số sợi cơ thịt đã bị tuột ra, thêm vào đó là mùi phooc-môn nồng cay nhức mũi ...Không thể nói là lý thú gì, nhưng ít ra cũng còn hơn là xem các xác mới chết đầm đìa máu me.
Hinh bỗng cầm một tiêu bản cánh tay giơ lên, làm động tác như định đánh Lôi Lôi: “Cậu nói nhí nhố quá, ngay cả người chết cũng phải chồm dậy đánh cậu đây này!”
Lôi Lôi giật bắn người: “Diệp Hinh, nhà người vốn là thục nữ miền Giang Nam, đi theo Âu Dương Sảnh nên cũgn học được thói quậy phá rồi đây!’
Lại là Sảnh, Hinh thầm than vãn: cô bé rồ dại ấy đã reo rắc thật không ít!
Chu Mẫn đang ngồi bên, khẽ cười: “Hinh lại đang nhớ đến Sảnh. Tớ cứ tưởng vì quá bận việc ở phòng phát thanh nên cậu quên nó rồi! Thì ra là không thể quên!”
Trần Hy thường hay đi với Chu Mẫn, đang khẽ hát “Không thể quên ... nước mắt của em, không thể quên ... nét yêu kiều của em” trong bài hát “Không thể quên” của Đồng An Cách.
Những câu nói tếu như thế, Hinh đã nghe nhiều rồi nên cô không mấy để tâm. Chu Mẫn lại nói: “Gần đây lớp ta phải tham gia khá nhiều hoạt động, nên tớ chẳng còn thì giờ mà học. Hinh thật là tệ, chẳng giúp đỡ tớ gì cả!”
Hinh biết rõ Mẫn đang ỡm ờ “trấn” cô, cô định nói “Đâu phải tớ không muốn giúp cậu, nhưng hễ tớ định hăng hái một chút thì cậu lại ‘từ chối khéo’, chắc cậu sợ tó có ‘dã tâm’ gì đó, thì tớ còn biết làm gì nữa”, nhưng Hinh lại e sẽ làm mất vui, nên đành nói: “Thế thì lần sau cậu nhớ gọi tớ, tớ xin răm rắp nghe theo!”
“Không dám đâu! Đừng nói vậy! Cậu là quan to của hội sinh viên nhà trường, tớ chỉ là một lớp trưởng còm, đâu có vai vế gì để chỉ huy ai!”
Trần Hy cười khanh khách.
Hinh cũng cười. Cô chăm chú quan sát tiêu bản, bất giác lại nghĩ: nếu Sảnh có mặt ở đây thì nó sẽ nói những câu gì kỳ quặc để đối phó nhỉ? Bỗng nghe thấy những tiếng bước chân lệt sệt, Hinh chột dạ, nhớ đến ông già gù đầu hói đã gặp trong đêm hôm nào, cô bỗng mất tự chủ, rảo bước bước ra khỏi phòng thực nghiệm.
Phòng thực nghiệm giải phẫu đồng thời cũng là phòng học, ở tầng trệt của khu nhà giải phẫu gồm hai phòng thực nghiệm ở hai hướng bắc, nam; đều rất gần cửa ra vào khu nhà này. Đi tiếp vào trong, là phòng lưu trữ, phòng chuẩn bị và một gian nho nhỏ chẳng rõ dùng vào việc gì. Tận cùng hành lang là phòng xử lý tử thi mà hồi nọ hai cô gái đã gặp ông già gù. Hinh rảo bước lên mấy bước, rồi bỗng dừng lại và tự hỏi “tại sao mình lại đi gặp ông già gù ấy? Chẳng lẽ chỉ để chào một câu thôi ư? Vẻ mặt dữ tợn của ông ta hôi nọ, rõ ràng là ông ta chẳng thiết gì gặp lại mình, tội gì mình phải mua chuyện không vui?”
Cứ đến hỏi thăm một câu vậy! Lúc này đang là giờ tự học, ông ta chẳng có cớ gì mà nổi nóng. Hinh biết rõ mình đang nổi máu tò mò, muốn xem xem có phải ông già gù lại đang “dỡ hàng người chết” không? Nhưng ông ta đã nói: khi có người khác, thì ông ta không làm việc, và cũng không bao giờ thắp đèn để lảm việc. Nhưng tại sao trong phòng lại sáng đèn?
Đèn đang sáng, nhưng không thấy bóng ông già đâu. Trên chiếc giường sắt trong căn phòng nhỏ cũng không có tử thi chờ phân tách. Nghe Sảnh nói là vài năm nay ngày càng có ít người hiến xác cho y học, coi như lần trước mình đã có cơ may được xem một màn trình diễn.
Hinh quay người định đi thì bỗng liếc thấy căn phòng khép hờ cánh cửa cũng có ánh đèn sáng lọt ra. Có lẽ ông ta đang ở đó. Hinh không hiểu tại sao mình cứ muốn gặp ông già gù đó, nhưung cô vẫn đi tới rồi đẩy cửa bước vào.
Cảnh tượng hiện ra trước mắt khiến cô nhìn mà hoa mắt.
Cô không buồn nhìn các thứ bày quanh căn phòng, cô chỉ để mắt đến một tủ kính rất to kê ở chính giữa, trong đó lại có một tử thi hẳn hoi.
Nhìn kỹ, thì nên gọi nó là một tiêu bản cơ thể con người cực kỳ tinh xảo chứ không phải một tử thi bình thường. Trong đó, mỗi một cơ quan phủ tạng, mỗi một khúc xương, từng cơ thịt, từng mạch máu, từng sợi dây thần kinh dường như đều phát ra ánh hùynh quang. Chúng hiển hiện rất hoàn chỉnh, các tầng thứ đều rõ ràng, khiến cho người xem tưởng như mình có khả năng nhìn xuyên thấu, và có thể nhanh chóng nắm bắt toàn bộ kết cấu phức tạp của cơ thể con người. Một điều khiến Hinh thấy rất tuyệt nữa là: tất cả các cơ, các mạch máu, sợi dây thần kinh đều được đeo biển ghi rõ tên họ bằng các chữ Hán và chữ Latinh rất nhỏ.
Sau khi tấm tắc một hồi, Hinh lại thấy hơi gai người; tác phẩm diệu kỳ đỉnh cao này dường như đã ngược với nguyên lý thông thường của giới tự nhiên. Ví dụ, xương, cơ, mạch máu, dây thần kinh vốn đan xen nhau nhưng tiêu bản này đã thể hiện chúng đồng thời xuất hiện, miễn là chính xác về góc độ. Các cơ quan dường như bị treo lơ lửng, tạo cảm giác lập thể rất rõ. Đôi mắt mình có khả năng nhìn xuyên thấu từ khi nào vậy, mà có thể nhìn rõ tất cả các mạch máu, các nội tạng nằm dưới các màng mỏng dưới cơ thịt? Và các bộ phận của cơ thể người cứ như là tiêu bản sống chứ không như các mô hình bằng chất dẻo mà giảng viên vẫn dùng để dạy học. Và các bộ phận của cơ thể người cứ như là tiêu bản sống chứ không như các mô hình bằng chất dẻo mà giảng viên vẫn dùng để dạy học. Thông thường, phải dùng phooc-môn và các thức thuốc để ướp thì mới có thể chống phân hủy – cũng tức là tiêu bản sẽ mất đi màu sắc tươi nguyên vốn có, biến thành màu nâu đỏ như các mảnh chân tay trong phòng thực nghiệm. Nhưng tiêu bản này thì sống động như còn tươi mới cùng màu sắc nguyên thủy của nó. Thứ thuốc gì có thể bảo quản chống phân hủy với hiệu quả thần kỳ đến thế này? Trong tủ kính không có đèn chiếu, tại sao các bộ phận của cơ thể người lại có thể phát ra ánh sáng?
Có lẽ đây là phát minh mới của khoa học công nghệ cao. Hinh tin chăsc, có được tiêu bản giàu tính lập thể này thì học tập môn giải phẫu học sẽ có hiệu quả cao khác thường, hứng thú mà nó tạo nên sẽ thay thế cho việc xem các loại sơ đồ và tiêu bản khô khan tẻ nhạt.
Tại sao khi lên lớp các thầy giáo lại không dùng thứ công cụ giảng dạy kỳ diệu này, mà lại cứ bắt chúng mình sờ nắn các tiêu bản cũ rích và mơ hồ lẫn lộn như vậy?
Cảm giác mới lạ và lòng ham học không cho phép Hinh nghĩ nhiều, cô quan sát tỉ mỉ các bộ phận cơ thể mà cô đã được học, nhận thức của cô về cấu tạo cơ thể người càng thêm sáng tỏ.
Tiếng chuông gấp gáp bỗng vang lên, thì ra không ngờ đã đến giờ chuẩn bị tắt đèn, và cũng là nhắc nhửo kết thúc giờ tự học buổi tối. Tiếng bước chân rộn lên ngoài hành lang, các sinh viên đang ra về. Hinh đang ngẩn người, thì nghe thấy tiếng Lôi Lôi gọi tên mình.
Hinh tiếc nuối bước ra khỏi căn phòng nhỏ. Lôi Lôi đứng ngoài hành lang trông thấy, cô sửng sốt: “Hinh ơi, cậu dang làm gì ở trong đó?”
Chu Mẫn và Trần Hy đi bên nhau bước ra khỏi phòng học, cũng mỉm cười ngạc nhiên, Hy nói luôn: “Cậu bạo thật đấy, dám vào trong phòng với cái xác lâu đến thế!”
Thì ra không chỉ riêng mình đã nhìn thấy cái tiêu bản này. Hinh nghĩ vậy, rồi cười: “Thì ra cậu cũng biết rồi, tớ chẳng thấy có gì đáng sợ cả!”
Trần Hy đáp: “Sao lại không đáng sợ? Lúc ban ngày, mình và Mẫn đi loanh quanh ngẫu nhiên nhìn thấy, sợ giật nảy mình, kêu lên rồi ù té chạy ra. Bây giờ nhớ lại vẫn còn thấy sợ!”
Hinh cảm thấy có điều uẩn khúc ở đâu đó: ‘Các cậu đã nhìn thấy gì? Cái xác ấy đáng sợ ở chỗ nào? Mình cho rằng đó là một tiêu bản rất hoàn hảo, mình đã nghiên cứu nó rất lâu. Các cậu cũng nên xem đi, sẽ rất bổ ích cho môn giải phẫu.”.
Mẫn và Hy nhìn nhau, cứ như đang nghe chuyện hão huyền. Mẫn nói: “Tớ muốn hỏi cậu xem đã nhìn thấy gì? Chẳng qua chỉ là cái xác rữa nát, thịt da tơi tả, mặt mũi nát bươm, đã hỏng đến độ không thể quan sát được gì, cũng chẳng rõ là nam hay nữ nữa. Mình nghĩ có muốn xẻ ra làm tiêu bản cho phòng thực nghiệm cũng không xong! Thế mà cậu còn nghiên cứu nó!”
Hinh rất ngạc nhiên, nhưng cô chợt hiểu ra ngay: “Chúng mình nhìn thấy không phải cùng chung một cái xác. Cái xác xấu xí mà các cậu nhìn thấy lúc ban ngày, chắc chắn đã xử lý rồi. Mình nhìn thấy một cái xác rất đẹp mắt, cơ thịt và mạch máu đều rất rõ ràng, mỗi bộ phận đều gắn biển chú thích bằng chữ Hán và chữ Latinh. Mình cho rằng trên đời này không thể tìm thấy một công cụ học giải phẫu tốt hơn nó!’
Cả ba cô gái kia đều sửng sốt: “Thật thế không?”
Hinh dẫn ba cô bạn trở lại căn phòng nhỏ vừa nãy, cô lại phải kinh ngạc thêm lần nữa: giữa căn phòng không hề có tủ kính nào cả, mà là một chiếc giường sắt, trên giường là một cái xác cũ giống như Chu Mẫn vừa nói, cơ thịt của nó hầu như không còn chỗ nào lành lặn, lại còn đang bốc mùi thum thủm.
“Này Hinh, có phải cậu đã bị sốc khá mạnh vì căn bệnh của Sảnh không? Viêm gan A đâu phải căn bệnh vô phương cứu chữa, chỉ nghỉ ngơi vài tháng là ổn. Cậu đừng nghĩ ngợi quá nhiều kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe.” Chu Mẫn ôn tồn khuyên Hinh.
Hinh quá kinh ngạc, vẫn chưa hoàn hồn, ngập ngừng một lúc rồi mới nói được: “Ý cậu là ... cái đầu mình thiếu tỉnh táo, nên đã có ảo giác à? Cậu đừng nói bừa! Mình rất tin ở đôi mắt, trí nhớ và cả tinh thần trí tuệ của mình nữa!”
Thấy Hinh có vẻ bực dọc, Trần Hy vội nói: “Không phải Mẫn nói cậu ... có bệnh, mà ý là vì cậu quá mệt mỏi ... vào lúc khuya thế này, dễ bị giống như ngủ mê nhìn thấy các thứ kỳ dị. Hoặc có thể nói là tại cậu đã quá miệt mài học môn giải phẫu ...”
Hinh ngắt lời: “Khỏi phải nói nhiều nữa, ừ thì mình lẩm cẩm, ngủ mê ... muốn nói là gì cũng được! Sắp tắt đèn rồi đấy, nếu về muộn thì ký túc xá sẽ khóa cửa mất! Về thôi!”

†3N†
18-03-2008, 09:00 PM
Hinh nằm trên giường, mãi vẫn không ngủ được. Cô ngủ sao nổi? Một tiêu bản cơ thể rất bắt mắt và một cái xác rữa nát chết khiếp đang chập chờn hiện lên trong óc cô. Cô dường như lại nhìn thấy Mẫn và Hy đang cười nhạt - khi nhận thức của một con người đang rối loạn thì người đó đương nhiên trở thành đối tượng chế nhạo của mọi người.
Cách duy nhất để làm rõ sự thật, là lại đi xem một lần nữa. Có lẽ, chụp ảnh ghi lại sẽ là một thứ chứng cứ tốt nhất.
Bỗng một hồi chuông reo dồn dập, thì ra là tiếng chuông đồng hồ báo thức của cô. Cô ngờ ngợ ấn nút dừng chuông rồi nhấn nút đèn soi mặt chiếc đồng hồ điện tử: đồng hồ chỉ rõ ràng là 12 giờ. Mình thường đặt chuông báo thức lúc 6 giờ sáng kia mà, sao chuông lại reo vào lúc này nhỉ?
Nhưng cô lại nghĩ ngây rằng: đến khu nàh giải phẫu vào lúc này, chính là điều tối kỵ. Lần trước mình bị Sảnh lừa đi đến, tuy chẳng có ma quỷ gì nhưng rốt cuộc chỉ là chuốc lấy sự kinh hãi vô tận. Vả lại, cô vẫn còn nhớ lời dặn dò của ông già gù hôm đó: sau nửa đêm, cấm cô bước vào khu nhà giải phẫu...
Tại sao lại chỉ cấm mình?
Sảnh ơi là Sảnh ... đúng lúc mình đang cần cậu, thì cậu lại ở tận đâu?
Nỗi bức xúc muốn tìm hiểu rõ sự thật để chứng minh cho mình dần dần lấn át bao nỗi ngại ngần, Hinh nhẹ nhàng ra khỏi giường, mở ngăn kéo lấy chiếc đèn pin và chiếc máy ảnh mẹ cô mua cho. Hinh bắt chước Sảnh: trước lúc đi, cô đứng bên đầu giường Chu Mẫn một lất, nghe thấy tiếng thở đều đều ... sau đó cô mới ra khỏi phòng.
Cả khu trường lúc nửa đêm cũng đang ngủ say, bốn bề im lặng như tờ. Những đợt gió cát đầu mùa xuân đã hết, hương thơm mát trong của cây cỏ được dịp lan tỏa khắp bầu không khí, thực hết sức dễ chịu. Con đường rộng dẫn ra khỏi khu ký túc xá, ban ngày nườm nượp người qua lại, lúc này chỉ có Hinh một mình một bóng. Đi một quãng xa mới bất chợt gặp một vài đôi tình nhân sau hồi âu yếm đang ngẩn ngơ quên cả lối về.
Đứng ngoài bậu cửa cao trước khu nhà giải phẫu, Hinh mới cảm thấy có phần hối hận: hay là mình đã có ảo giác, đã nhìn nhầm, thì việc gì mà phải ngượng ngùng, để rồi phải đối mặt với rủi ro như thế này thì mới bõ tức?
Nhưng có gì mà nói là rủi ro mạo hiểm? Là các chuyện đồn đại về ma quỷ ư? Lần trước đánh liều đi cùng Sảnh, cuối cùng cũng chỉ là gặp một vị kỹ thuật viên mà thôi!
Hinh chẳng muốn mệt óc đắn đo gì nữa, cô bước qua bậu cửa, bước lên bậc thềm rồi đẩy mạnh cánh cửa.
Một màn tối đen chờ đón cô.
Kể cũng hay: ít ra là ông già gù kia đang không có ở đây, thì sẽ không có ai quát tháo nổi nóng với mình.
Nhưng cũng lại là dở: vì đúng là ở đây chỉ có mỗi một mình mình.
Sảnh ơi, lúc mình cần đến cậu nhất, thì cậu lại đang ở đâu?
Hinh không quên khép cửa lại, rồi bật đèn pin, từ từ bước vào. Trong này còn im ắng hơn ngoài sân trường, cô chỉ nghe thấy tiếng bước chân, hơi thở của mình, và cả tiếng nhịp tim của cô đập nữa.
Mình đang làm chuyện ngu ngốc gì thế này?
Phía sau, cách năm mét là cửa ra. Mình có thể chạy vụt ra ngay.
Nhưng cô vẫn chậm rãi và kiên quyết tiến bước. Cô biết phải như thế này thì mới đúng là Diệp Hinh.
Căn phòng nhỏ cuối hành lang vẫn khép hờ cửa, ánh sáng yếu ớt bên trong lách qua khe cửa. Hinh đẩy cửa, thì bên trong bỗng sáng lên.
Chiếc tủ kính cùng với tiêu bản cơ thể con người cực kỳ hoàn hảo - chính nó là cảnh tượng cô đã nhìn thấy lần trước. Cô dụi mắt thật mạnh, không có hình ảnh bồng bềnh, không có làn ánh sáng mờ ảo nào cả, cô đã nhìn thấy hoàn toàn rõ ràng, đó là một sản phẩm của khoa học công nghệ cao, là người bạn đồng hành tuyệt vời nhất để học môn giải phẫu học.
Đèn flash lóe lên, cô chụp vài kiểu từ các góc độ khác nhau. Cô tin chắc ống kính máy ảnh không bị đóng, cô tắt đèn flash rồi lại chụp thêm vài kiểu nữa. Cô mường tượng ngày mai sau khi đến buồng tối của câu lạc bộ nhiếp ảnh tráng phim in ảnh xong, rồi nhìn thấy vẻ mặt kinh ngạc của Chu Mẫn và Trần Hy thì mình sẽ hơi hơi đắc chí đây!
Đã hoàn thành sứ mệnh, cô rất thỏa mãn và đang định đi ra, nhưng lại không nén được phải nán lại ngắm thêm cái thi thể ấy, càng ngắm càng thấy tuyệt vời không thể tả được, cô bất giác đứng lại. Dùng kỹ thuật gì để có thể đồng thời xử lý toàn thể và từng chi tiết đến mức không chút sơ suất, để mọi người có thể vừa nhìn trõ cấu tạo cơ thể và các cơ quan chủ yếu của cơ thể người, lại vừa có thể làm nổi bật rành rành các mạch máu và dây thần kinh nhỏ như sợi tóc thế này?
Các chi tiết đã hòa nhập toàn thể theo phương thức này: trong con mắt của Diệp Hinh, các mạch máu và dây thần kinh độc lập dần dần nhập vào vị trí trong cơ và các nội tạng, cơ và các nội tạng dần dần được da và các màng mỏng bao bọc. Và da thì rất "thật", cứ như là người đang sống.
Như người đang sống? Hay thực sự đúng là người đang sống!
Hinh nhìn, rồi thấy các bộ phận của tiêu bản đã hòa nhập với nhau rất hoàn chỉnh, cái thi thể ấy còn đạt tới đỉnh cao hoàn mỹ nữa: làn da, bộ tóc, thậm chí cả quần áo nữa!
Nằm trong tủ kính lúc này là một cô gái mặc đồ trắng, vì đầu và mặt dập nát nên khó nhìn rõ, cô ta đang chầm chậm giơ tay về phía Hinh!
Hinh cảm thấy tiếng kêu kinh hoàng của mình bị nghẹn lại ở cổ họng, dường như ngạt thở. Cô quay người chạy ra cửa.
Chạy một quãng ở hành lang, bỗng đầu bị va rất mạnh, rồi cô ngã xuống. Thì ra là chạy trong bóng tối cô đã đập đầu vào cửa ra khu nhà. Hinh thấy chóng mặt, cô khẽ lẩm nhẩm: "Ánh trăng ... ánh trăng là gì?"
Không gnhĩ nhiều nữa, Hinh đứng dậy chạy ào ra ngoài khu nhà.
Ánh trăng ... ánh trăng là gì, ánh trăng ở đâu?
Hinh chạy một mạch về ký túc xá, hình như có một câu hỏi cứ nhắc đi nhắc lại mãi trong đầu cô. Cô lên giường nằm, nhưng không thể ngủ được. Cô nhắm mắt, nửa tỉnh nửa mê ... và cái âm điệu thiên nhiên kia lại văng vẳng bên tai cô, trong làn ánh sáng trắng nhợt, cô gái mặc áo dài trắng lại xuất hiện. Máu tươi trên mặt còn sẫm đỏ hơn trước, cô ta vừa từng bước tiến gần vừa lẩm bẩm: "Ánh trăng, ánh trăng..."
Ngoài cửa sổ là ánh trăng. Hinh ra khỏi giường, mở cửa sổ, tắm mình trong làn hơi thở trong lành của đêm xuân, thực là dễ chịu.
Bên ngoài là từng mảnh từng khối ánh trăng.
Một làn gió đưa, se lạnh. Có lẽ, tại quá đắm đuối nên ta mới thế này chăng?

Hãy ra khỏi cái phòng ngủ bé như cái chuồng chim và những cơn ác mộng đeo bám ta, bên ngoài cửa sổ là ánh trăng và hương hoa tha hồ tận hưởng đến vô cùng.
Lại có cả Âu Dương Sảnh nữa.
Hinh chợt thấy bóng Sảnh ở dưới sân, đang ngẩng đầu nhìn thẳng vào Hinh. Hinh kinh ngạc kêu lên: "Sảnh ơi!" nhưng lại thấy Sảnh với vẻ mặt đờ đẫn, đứng đó bất động không nói một lời, chỉ thấy Sảnh khẽ lắc đầu chầm chậm.
Giống như thoắt ra khỏi bến mê, Hinh bỗng nhiên tỉnh hẳn, thấy mình đang đứng trên gờ tường mép ngoài cửa sổ.

†3N†
18-03-2008, 09:02 PM
post tạm 2 dẫn+3 chap đã, mọi người có hứng thú thì ban post tiếp
source: ttvnol.com

kieuly2oh
28-08-2008, 01:32 PM
hay wá á á ...
bạn ơi, muốn đọc tiếp thì fải vào trang nào? bạn đưa link trích dẫn cụ thể dc k? thx nhá,

quan_calvin
01-12-2008, 06:02 PM
Truyện này rất hay , mình xin post tiếp cho các bạn đọc :try:


Chương 4
Thực và ảo

Làm đủ thứ việc ở hội sinh viên nhà trường, Diệp Hinh rất bận rộn nhưng cũng thấy rất vui. Lâu nay cô trở thành trợ thủ đắc lực của trưởng ban văn nghệ, đang chuẩn bị cho cuộc thi ca khúc do sáu trường đại học cao đẳng thuộc khu Tây Bắc thành phố cùng phối hợp tổ chức. Các vị trưởng ban văn nghệ vốn dự kiến chỉ tổ chức thi hát Karaoke, nhưng Hinh đã đề nghị nhân khi dư âm của đợt vận động sáng tác bài hát trong trường ta vẫn chưa lắng xuống, thì nên có thêm nội dung thi ca khúc tự sáng tác của các trường xen vào chương trình thi ca khúc lần này. Đề nghị này khiến các trưởng ban rất hứng thú nên tán thành ngay. Diệp Hinh trở thành nhân vật tiên phong chủ chốt.
Điều khiến cô lo nhất là sẽ không đủ số các ca sĩ hát bài hát mà mình tự sáng tác, nào ngờ khi báo tường vừa mới công bố thì cánh cửa phòng của ban văn nghệ Đại học Y suýt nữa bị xô vỡ: chỉ vài ba hôm đã có hơn chục ca sĩ của các trường cùng các ban nhạc kéo đến ghi tên đăng ký. Đêm qua xáo trộn đủ bề nên mất ngủ. Lúc này Hinh đang ngồi trong văn phòng của hội sinh viên, ánh nắng ấm buổi trưa lọt qua cửa sổ chiếu vào, Hinh ngà ngà buồn ngủ. Cô uống liền hai cốc côcacôla, mà hai bên thái dương vẫn thấy hơi căng căng.
“Xin hỏi, ghi tên thi hát ở phòng này phải không ạ?” Một giọng nam đầy sức lôi cuốn đã xua tan cơn buồn ngủ của Hinh - nhưng cô không bị thu hút bởi giọng nói hấp dẫn ấy, mà cô giật mình vì chàng sinh viên ấy đã bước vào phòng mà không gây một tiếng động. “Anh vào đây từ lúc nào?” Hinh vẫn chưa hoàn hồn.
“Chị đang ngủ gật. Nhưng không sao, xuân ngủ nhiều thu ngủ ít, lại vừa sau giữa trưa, ai không buồn ngủ thì mới là lạ!” Chàng trai tươi cười hồ hởi nhìn Hinh, đôi mắt anh ta cũng ánh lên nụ cười.
Hinh thấy anh ta đi đứng nói năng đều rất bỗ bã, Hinh nghĩ thầm anh ta cũng giống mình - chẳng qua chỉ là sinh viên năm thứ nhất, nên cô trêu luôn:
“Anh vừa nói gì? Thi hát? Hình như là danh từ mà cánh học sinh tiểu học hay nói. Ở đây đâu phải hát bình thường mà là cuộc thi ca khúc tự sáng tác, người hát phải tự soạn cả nhạc lẫn lời!”
“Tôi biết rồi!” Anh ta vẫn tươi cười.
Hinh lấy ra một tờ khai: “Anh cho biết họ tên, học trường nào lớp nào, và cả tên bài hát nữa. Vì đã có khá nhiều người ghi tên rồi, nên chỉ hạn chế mỗi người đăng ký dự thi hai bài. Ngày thi là 22 tháng 4, trùng vào ngày Toàn thế giới vì địa cầu. Chúng tôi mong một trong hai bài sẽ xoay quanh chủ đề này”.
“Chị nói đây là một đề tập làm văn à? Vậy nên đổi tên cuộc thi ca khúc này thành cuộc thi ca khúc bát cổ thì hơn!”
Khi nói tếu, anh ta vẫn mỉm cười, và nhìn chằm chằm vào Diệp Hinh. Thực ra Hinh cũng tán thành, vì khoanh vùng chủ đề thì sẽ làm hạn chế cảm xúc sáng tác. Nhưng chủ đề này là do Ban chấp hành Đoàn trường đề ra, cô chỉ là một cán sự còm, nếu phủ quyết thì khác gì châu chấu đá xe.
“Anh cho rằng anh đang sống ở thời đại nào? Thi vào đại học, chẳng phải vẫn làm văn hạn chế chủ đề là gì? Chúng tôi chỉ nói là “có liên quan đến Ngày vì địa cầu”, chứ không phải là đóng đinh chốt chặt, vẫn còn dư đất để tung hoành! Huống chi, Ngày vì địa cầu, chủ yếu là bảo vệ môi trường, thì không quan trọng hay sao? Đợt gió cát tháng trước, chắc anh vẫn chưa quên chứ?”
“Tôi thấy chị rất ưa dùng câu hỏi phản vấn, chứng tỏ chị có ý kiến rất độc lập, nhưng ngoại hình của chị thì khác, tạm gọi chị là ngoại nhu nội cương cũng được. Nhưng, là nữ sinh viên thì thế này vẫn còn hơn là ngoại cương nội cương”. Anh ta gãi gãi lên mái tóc bù xù, thấy Hinh có vẻ bực mình, bèn vội nói: “Ta trở lại việc chính vậy: tôi là Tạ Tốn, học khoa Y học của trường ta, cùng một khóa với bạn, lớp C. Mọi ngày lên học chung giảng đường, tôi thường nhìn thấy bạn”.
Thảo nào mà anh ta có cái ánh mắt nhìn chẳng khiêm tốn chút nào. Hinh thấy rất buồn cười, nhưng anh ta cũng lại nhận ra:
“Bạn cười tôi à? Có gì đáng cười nhỉ?”
“Có gì đâu! Tên bạn trùng với tên một nhân vật trong truyện võ hiệp của Kim Dung”.
“Thế à?” Anh ta thoáng chút thẫn thờ.
“Kim Mao sư vương Tạ Tốn trong Ỷ thiên Đồ long ký, không nhớ ra? Hay là bạn chưa hề đọc? Thôi được, không tán gẫu nữa, bạn cho tôi biết tên bài hát. Tôi phải lên lớp bây giờ đây!”
“Chờ đợi”. Anh ta bỗng trở nên nghiêm túc.
“Chờ gì nữa, tôi phải lên lớp thật mà”.
“Chờ đợi. Tên bài hát là “Chờ đợi, đợi chờ”. Vẻ mặt Tạ Tốn hơi ngơ ngác.
Diệp Hinh “ơ” một tiếng, cô thấy thái độ của mình vừa rồi có phần bất nhã, và thầm ai oán Âu Dương Sảnh. Cô tỏ ra áy náy: “Lúc đầu tôi chưa hiểu, xin lỗi bạn nhé! Tôi đã nhớ rồi. Còn bài thứ hai thì phải có đầu đề miễn là có chút liên quan đến thiên nhiên, môi trường... là ổn!”
“Tôi cần một cây đàn pianô”. Tạ Tốn bỗng nói.
“Gì cơ?” Hinh không dám tin ở tai mình nữa.
“Tôi cần một cây đàn pianô. Chẳng lẽ ca khúc tự biên tự diễn thì không cần nhạc cụ để đệm hát à? Nhưng, đúng là đã quá lâu tôi không động đến pianô”.
Diệp Hinh định hỏi: “Tại sao bạn không dùng ghi-ta hoặc đàn ooc-gan, có phải là tiện không?” nhưng cô sợ Tốn sẽ lại nói cô “hỏi phản vấn”, nên cô gật đầu: “Tuy hơi khó đấy, nhưng hội sinh viên sẽ gắng hết sức để bố trí”.
Sau khi tan lớp, Hinh đi vội đến căn nhà nhỏ lợp tôn là phòng hoạt động của Hiệp hội nhiếp ảnh, tìm Du Thư Lượng - một anh đồng hương và là Chủ tịch Hiệp hội nhiếp ảnh của trường. Lượng mặt mũi nhỏ nhắn, đeo cặp kính gọng to tướng che gần hết cả khuôn mặt, lại vừa ở trong buồng tối bước ra, nên đôi mắt nhỏ nheo lại dường như chỉ còn là hai cái khe bé tẹo. Lúc Hinh mới xuất hiện, Lượng mở choàng mở to mắt rồi lại lim dim ngay lập tức.
“Hinh ạ, dù sao em cũng là hội viên cấp hai của Hội nhiếp ảnh, dù ảnh chụp chưa đạt trình độ chuyên nghiệp như ảnh thì cũng nên có chuẩn cơ bản chứ!” Nghe nói ngay từ lúc mới biết bò lê, Lượng đã nghịch máy ảnh rồi. Anh ta hiểu biết rất rộng rất sâu về nhiếp ảnh, vì thế mà cũng rất hay khoác lác về kỹ thuật của mình.
Hinh kinh ngạc nói: “Sao em lại không có cơ bản chứ? Anh nói là mấy tấm ảnh em chụp tối hôm qua không được rõ à?”
“Đâu chỉ là không rõ! Em hãy xem đi!” Lượng mở ngăn kéo lấy ra mấy tấm ảnh đặt xuống trước mặt Hinh. “Có năm bức chụp bằng đèn flash, đều mờ đục cả lũ, không rõ là tại ánh sáng hay là tại em đã chĩa ống kính vào một miếng vải trắng rồi bấm máy? Còn ba tấm ảnh không dùng đèn flash thì đen kịt, chẳng rõ tại em quên mở ống kính hay là... em chĩa nó vào một tấm vải đen rồi bấm máy?” Lượng chưa kịp nghĩ ra cách ví von nào hay hơn. Hinh không dám tin vào những gì mình đang nhìn thấy, và quên cả trả đũa Lượng đã nói kháy, cô ngây nhìn mấy tấm ảnh. Sao lại có thể thế này? Nếu đưa mấy tấm ảnh trống trơn này cho Chu Mẫn xem để chứng minh là mình đúng, thì chẳng khác nào tự chuốc lấy nỗi nhục? Lượng là anh chàng “ghiền máy ảnh” thứ thiệt, anh không buồn nhìn vẻ mặt đối phương, cũng chẳng biết thương hoa tiếc ngọc gì cả, anh chỉ thấy một hội viên nhiếp ảnh như Hinh chỉ tổ làm bẽ mặt hội trưởng! Lượng cười nhạt: “Thế mà tôi lại còn cố mà in ra nữa, tôi cho rằng đây không thể gọi là ảnh gì hết, chỉ có thể coi chúng là... những mảnh giấy ảnh đã bị chà đạp!”
“Liệu có phải anh đã sơ suất gì trong khi rửa phim không?” Hinh bắt đầu phản kích.
“Phim của em... không đúng, có lẽ nên nói là những mảnh nhựa sau khi bị giày vò đã được anh đồng thời rửa trong cùng một khay thuốc, nếu có sai sót thì các tấm phim em chụp - dù dùng đèn flash hay không - sẽ có chung kết quả là đen hoặc trắng, chứ không thể trái khoáy như thế này! Vẫn còn vài... tác phẩm của hội trưởng còm này được rửa đồng thời với phim của em, không hề có sơ sảy!”
Hinh cũng biết kỹ thuật in tráng của Lượng rất siêu, mình chỉ cố cãi thêm đó thôi. Nếu tiếp tục nói với anh ta thì cũng không thể lần ra nguyên nhân tại sao, chi bằng lại đến căn phòng thực nghiệm giải phẫu để tìm hiểu cho rõ, cô bèn quay ra. Lượng gọi với theo: “Em có cần đến mấy tác phẩm này nữa không? Đem về ký túc xá mà treo, sẽ rất ấn tượng đấy!” Thấy Hinh phớt lờ, Lượng đành lẩm bẩm: “Mình giữ lại cũng tốt, sẽ dùng nó làm giáo trình “phản diện” để huấn luyện các đệ tử mới nhập môn!”
Ban ngày ở khu nhà giải phẫu, mùi thuốc vẫn nồng nặc như cũ, nhưng không thấy nghẹn thở như sau lúc nửa đêm. Hinh tiến thẳng đến cuối hành lang. Cánh cửa căn phòng nhỏ vẫn khép hờ, cô nhẹ nhàng đẩy cửa và cô lại ngạc nhiên. Căn phòng bỏ trống, không có tủ kính nào, cũng không thấy chiếc giường sắt. Cô lờ mờ cảm thấy mình đang bị bỡn cợt, mà kẻ bỡn cợt ấy lại chính là đôi mắt của cô. Hơi có phần hậm hực, cô quay trở ra, và nghĩ rằng ông già gù kia phải là người biết rõ tất cả. Cô nhìn thấy cánh cửa gian phòng xử lý thi thể đang đóng chặt, cô gõ cửa. Bên trong hoàn toàn im ắng.
Đêm đến, Hinh lại vào khu nhà giải phẫu rồi đẩy cánh cửa khép hờ của căn phòng nhỏ. Hình như bộ tiêu bản cơ thể cực kỳ tinh xảo ấy đang chờ cô đến. Ánh huỳnh quang của toàn thân nó chiếu sáng đôi mắt Hinh. Có lẽ ban ngày họ mang nó đi làm công cụ giảng dạy, đến tối lại đưa về. Dù sao, lại có thể tranh thủ học hỏi thêm một chút cũng tốt, tuần sau mình lại phải thi giữa học kỳ rồi. Chẳng rõ đã quan sát học hỏi bao lâu, lúc này Hinh thấy hơi mệt. Cô thấy tiếc vì không mang theo máy cát-sét mini để nghe nhạc cho nhẹ nhõm một chút. Cô vừa nghĩ vậy thì bỗng nghe thấy một điệu nhạc êm dịu vẳng đến bên tai. Hình như là tiếng khèn, nhưng lại có vẻ như tiếng phong cầm. Nó như dòng nước khoáng chảy vào cổ họng đang khát cháy, lan tỏa khắp cơ thể. Hinh từ từ nhắm mắt, thả hồn trong tiếng nhạc.
Bỗng một làn ánh sáng trắng rất mạnh chiếu rọi khiến Hinh vội nhắm mắt lại. Rồi liều mở to mắt, cô thót tim: các bộ phận của tiêu bản cơ thể bắt đầu tập hợp vào vị trí, trong chớp mắt đã biến thành thi thể cô gái mặc áo trắng.
Hinh có phần tuyệt vọng, nghẹn giọng nói: “Tại sao ngươi không chịu buông tha ta?”
Cô dường như nghe thấy một tiếng cười nhạt, sau đó là tiếng thở dài. Hinh phát hoảng, quay người đi ra khỏi căn phòng, nhưng hình như tiếng cười nhạt và tiếng thở dài ấy vẫn bám theo cô. Cô chạy nhanh, toát mồ hôi, lớn tiếng kêu cứu. Cô chợt tỉnh cơn mê.

Lại là một đêm ngủ chập chờn. Hinh dậy muộn, chẳng thiết ăn sáng, và suýt nữa thì đến muộn giờ học môn sinh hóa vào lúc 8 giờ. May mà Tần Lôi Lôi đã mang hộ Hinh giáo trình, đặt lên ghế để giữ chỗ hộ, Hinh mới được ngồi hàng ghế đầu.
Môn sinh hóa, bốn lớp học chung giảng đường rộng nhất trường với những hàng ghế “bậc thang”. Nếu không nhanh chân đến sớm để ngồi bàn đầu thì rất khó nhìn rõ chữ thầy giáo viết trên bảng, cho nên các sinh viên - nhất là các nữ sinh coi trọng thành tích học tập - thường đến sớm để chiếm chỗ phía trên. Hinh đến chậm nhưng lại được ngồi chỗ tốt ở bàn đầu, nên một bạn nữ ngồi bên cạnh Hinh thoáng tỏ ý không bằng lòng. Hinh nhận ra điều ấy, cô bèn lấy trong túi ra một chiếc máy ghi âm kiểu “phóng viên” và nói: “Xin lỗi, vì mình phải ghi âm hộ một bạn nghỉ ốm, nên phải ngồi bàn đầu thì mới ghi được. Đúng là hôm nay mình cũng có hơi lười một chút...”
Bạn nữ này tuy không học cùng lớp với Hinh, nhưng cũng có biết Hinh và Sảnh luôn gắn với nhau như hình với bóng, nên cũng cười vui vẻ, không nói gì nữa.
Hinh nhớ ra hình như bạn này học lớp C, bèn khẽ hỏi: “Có phải lớp bạn có một bạn nam tên là Tạ Tốn không?”
Cô ta trêu luôn: “Đúng! Một anh chàng ngồ ngộ. Sao thế? Cậu có cảm tình với anh ta à? Tôi sẽ nhắn tin hộ cho...”
Hinh vội nói: “Cậu nói gì lạ thế? Anh ta đến Hội sinh viên ghi tên dự thi hát bài tự biên tự diễn, và nói là cần chiếc đàn pi-a-nô để đệm nhạc”.
“Cậu không nhận ra là nói khoác à? Anh ta rất hay khoác lác, bọn tớ thường gọi anh ta là Kim Mao Sư Vương!”
Hinh hơi bực mình: “Thì ra anh ta biết Tạ Tốn là một nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung, hôm đó mình đã nói thế nhưng anh ta cứ giả vờ ngớ ra!”
Cô bạn cười: “Đừng tức làm gì! Điều đó chứng tỏ anh ta có cảm tình với cậu. Khi nam giới cứ giả vờ với nữ giới, thì chắc chắn là như vậy! Để sau khi tan học mình sẽ nói hộ cậu, bảo anh ta mời cậu đi khiêu vũ vào ngày nghỉ cuối tuần”.
Nói rồi cô ta ngoảnh đầu lại, chắc là ngoái nhìn Tạ Tốn.
“Đừng làm thế!” Hinh cũng ngoảnh đầu, nhìn thấy Tạ Tốn đang “khuỳnh khuỳnh” ngồi hàng cuối cùng, đang cười nói với một bạn nam ngồi cạnh. Người ấy mày đen mắt sáng, nhưng da mặt hơi nhợt nhạt, hai quầng mắt khá to. Có lẽ cũng như Hinh, đêm qua thiếu ngủ. Khi nhận ra Hinh và bạn nữ này đang ngoái lại nhìn Tạ Tốn, anh ta lạnh lùng nhìn lại hai cô. Hinh còn định dò hỏi thêm về anh chàng lạnh lùng ấy thì thầy giáo đã bắt đầu giảng bài. Hinh cũng ngại nếu tiếp tục hỏi nữa, thì chưa biết cô bạn này có thể sẽ dựng nên những chuyện gì, sẽ liên tưởng đến những gì gì nữa, nên Hinh bèn thôi.
Môn giải phẫu học năm nay do giáo sư Dương Đỉnh Minh và một giảng viên trẻ thay nhau lên lớp. Sau khi kết thúc kỳ thi giữa học kỳ, và sau khi vị giảng viên trẻ kia nghỉ công tác để đi làm luận văn tiến sĩ tại một trung tâm y học của Mỹ, thì phần công tác giảng dạy của ông được chuyển giao cho một giảng viên đang học nghiên cứu sinh. Xem chừng vị giảng này cũng chỉ mới tốt nghiệp đại học ít lâu, dáng người dong dỏng, có khuôn mặt gầy gầy mang cặp kính cận nặng, mái tóc đen nhánh luôn bóng mượt rẽ đường ngôi thẳng tắp, chân đi giày đen bóng lộn. Anh tự giới thiệu tên là Chương Vân Côn, rồi nói: “Đã có điểm thi giữa học kỳ, các bạn sinh viên có thể đến văn phòng mà xem. Đương nhiên tôi có thể công bố kết quả thi của một bạn, chắc bạn ấy sẽ không phật ý...”
Anh bỗng nhìn khắp cả lớp một lượt, rồi chậm rãi nói: “Bạn nào là Diệp Hinh?”
Hinh giơ tay, cô thấy mình hồi hộp thấp thỏm, vì từ sau khi lại tiếp tục bắt đầu một đợt những cơn ác mộng, cô luôn mất ngủ, đầu óc luôn ong ong nặng nề. Hay là khi làm bài thì mình đã đãng trí rồi làm sai một cách hết sức ngớ ngẩn? Thầy giáo Côn nói gọn lỏn: “Bạn Hinh được điểm tối đa”.
Tất cả đều nhìn Hinh, trầm trồ tấm tắc và khao khát được như cô.
Hinh thầm bực mình, cô nghĩ mình đã qua cái tuổi hám giành được điểm cao, mà các sinh viên nữ thì đang có tiếng là ngấm ngầm cạnh tranh điểm số - điều này Hinh đã thấy rõ trong học kỳ một - tình thế này rõ ràng giống như cơn ác mộng, vì mình đâu muốn trở thành tiêu điểm để mọi người chỉ trích? Đúng là thầy giáo trẻ này chưa có kinh nghiệm, dù muốn tuyên dương sinh viên, thì cũng chẳng cần phải làm trịnh trọng đến như thế! Hinh chỉ còn cách ngồi ngay ngắn, đôi mắt nhìn thẳng.
Nào ngờ giảng viên Côn lại cười nhạt: “Về một ý nghĩa nào đó thì, được điểm tối đa là một kết quả học tập vừa đáng vui lại vừa đáng buồn”.
Câu này nói ra khiến mọi người đều kinh ngạc, cả hội trường rì rầm bàn tán.
Hinh vẫn ngồi bất động, nhưng cô ngẩng đầu lên. Vẻ mặt không có biểu hiện gì rõ rệt nhưng ánh mắt cô đầy vẻ bất mãn và hoài nghi.
“Học y học, ví dụ cụ thể như học môn giải phẫu này chẳng hạn, đào sâu tỉ mỉ đúng là một đức tính tốt đẹp. Có điều, nhìn vào cái điểm tối đa này tôi nhận ra tinh thần học tập cần cù không biết mệt mỏi, nhưng tôi cũng phát hiện thấy cái lối học vẹt rất máy móc - là một điều tối kỵ. Môn giải phẫu có lắm nội dung chi tiết là thế, liệu có thể chỉ trong hai tháng mà nhớ hết không sai một ly không? Không thể! Sở dĩ được điểm tối đa, thì đó là vì đã rất cố gắng để học thuộc lòng một cách cứng nhắc. Liệu sau nửa năm nữa có còn nhớ được gì nữa không? Không thể! Thế thì phải chăng việc học vẹt lúc này chỉ là nhằm giành được điểm cao? Tôi e đúng là như vậy! Cho nên, nếu tiêu tốn nhiều thì giờ để học vẹt, thì chi bằng hãy chịu khó quan sát các tiêu bản, mở rộng tầm hiểu biết, xây dựng nền móng vững chắc để sau này có thể thích ứng với nền y học luôn phát triển từng ngày từng giờ. Tôi xin hỏi, có bạn nào đã đến thư viện đọc cuốn Tạp chí giải phẫu học viết bằng tiếng Anh số ra gần đây chưa?”
Tất cả đều im lặng.
Dường như Diệp Hinh đã hơi hiểu ra. Cô nhớ rằng đúng là mình đã dùng nhiều thời gian tự học để học thuộc lòng các danh từ giải phẫu học, chứ không bỏ công sức quan sát nhiều tiêu bản. Nỗi bực tức lúc nãy đã tiêu tan đi nhiều, nhưng cô vẫn cảm thấy mình bị xúc phạm. Có lẽ thầy giáo Côn thấy đoạn thuyết giảng của mình đã có sức tác động, nên anh đi vào vấn đề chính: “Chúng ta vào bài học!” Anh mở giáo trình, nhưng bỗng dừng lại - hình như có một nội dung nào đó của giáo trình đã khiến anh chú ý. Anh chăm chú nhìn kỹ, rồi gấp nó lại, lắc lắc đầu: “Học xong cuốn sách này, dù các bạn có được điểm tối đa thì sau kỳ nghỉ hè sẽ lại quên đến 80%. Các sơ đồ minh họa với những đường nét trắng đen này, càng nhìn sẽ càng rối mắt, các bạn đã mua bộ sơ đồ in màu chưa?”
Một nam sinh viên cười đáp: “Chắc thầy mới ở nước ngoài về phải không ạ? Sơ đồ in màu giá rất đắt, trường cũng không quy định sinh viên bắt buộc phải có. Em được “thừa kế” của cha em, nhưng cũng chỉ là bản dịch lại của Mỹ thôi ạ!”
Thầy Côn đành gượng cười: “Thôi được! Vậy thì chúng ta bắt đầu từ chỗ nào nhỉ?”
Chuông báo tan lớp vang lên, Hinh tắt máy ghi âm. Cô ngồi nguyên tại chỗ thêm một lát, hình như vẫn đang nghĩ ngợi lan man chưa dứt. Chương Vân Côn tuy hay thích phát ngôn lạ lùng kỳ cục nhưng anh đúng là con người rất tài ba. Giải phẫu học có lẽ là môn học rất khô khan, nhưng anh đã lên lớp hết sức sinh động. Anh thường viện dẫn các cứ liệu kinh điển, ***g các câu chuyện đông tây kim cổ vào bài giảng về các cơ quan của cơ thể hết sức thú vị. Mình nhất định phải cho Âu Dương Sảnh nghe bài giảng của ông thầy này mới được, chắc cậu ấy sẽ rất mê cho mà xem.
Vân Côn lau sạch bảng đen, anh quay người lại thấy Hinh đang cúi đầu đi ra khỏi giảng đường, bèn nói to: “Tôi rất khâm phục bạn Diệp Hinh có tài xử thế, tôi biết mình đã nói rất khó chịu mà bạn vẫn không nổi nóng”.
Hinh định không nói gì nhưng rồi cô vẫn không nén được: “Có lẽ bạn nam kia đã nói đúng: thầy cứ như mới từ Mỹ trở về. Ở trường ta làm gì có chuyện sinh viên dám nổi nóng với giáo viên trước đám đông!”
Vân Côn cười: “Lúc này không còn đám đông nữa, bạn có gì bực bội thì cứ thể hiện ra đi!”
Hinh hơi phấn chấn, cũng cười: “Thực ra thầy Côn phê bình không phải không có lý: đúng là em đã học vẹt, và cũng mong được điểm cao. Em không ai oán gì cả. Nhưng nên nói là sở dĩ em được điểm cao là vì em đã phát hiện ra một điều bí ẩn. Có điều, nó lại rất vu vơ hão huyền, đến giờ em vẫn chưa thể tin là nó có thật hay không. Em mong thầy sẽ chỉ bảo cho...”
“Không dám!”
Hinh kể lại việc mình nhìn thấy tiêu bản cơ thể trong mấy ngày qua, thầy Côn càng nghe càng thấy kinh ngạc, một mực lắc đầu, suýt rơi cả cặp kính xuống đất! Nhất là khi nghe chuyện các bộ phận của tiêu bản tập hợp lại biến thành thi thể một cô gái áo trắng, anh ngắt lời: “Bạn càng kể càng lan man, rõ ràng đây chỉ là một cơn mê mà thôi. Tôi đã làm việc ở phòng giải phẫu hai năm qua, chưa từng nghe nói về báu vật này!”
“Nhưng cái tiêu bản ấy rõ ràng đến như vậy, và, nên giải thích ra sao về việc em đã thực sự nâng cao hiệu quả học tập môn giải phẫu học ạ?”
“Liệu có phải vì bạn quá say mê học môn giải phẫu, đã nghiên cứu rất kỹ rất sâu giáo trình và các tiêu bản, cho nên trong óc bạn đã hình thành một tiêu bản hoàn hảo? Nói cách khác tức là chính kiến thức của bạn đã tạo ra cái tiêu bản ấy trong ý thức của mình”.
Hinh một mực lắc đầu: “Không ạ! Chúng em mới chỉ học đến một nửa giáo trình giải phẫu, thì trong đầu sao có thể hình thành tiêu bản hoàn hảo được ạ?”
Thầy Côn gấp tài liệu và giáo trình lại: “Trăm nghe không bằng một thấy. Chúng ta sẽ đi xem xem sao”.
Hai người bước vào căn phòng nhỏ ấy, hoàn toàn trống không. Hinh nói: “Đã mấy hôm nay em không nhìn thấy nó. Hình như nó đã biến mất tăm”. Cô đứng ngây người, cố nhớ lại tất cả những cảnh mình đã nhìn thấy. Càng nghĩ càng thấy không sao hiểu nổi, càng nghĩ càng thấy đầu đau như muốn nổ tung. Có lẽ vì đứng quá lâu, nghĩ ngợi quá căng, Hinh lảo đảo như muốn ngã...
Thầy Côn vội đỡ Hinh, và khẽ gọi: “Bạn Hinh! Bạn không sao chứ?”
Lúc này Hinh thấy mình đang đứng giữa đám sóng nước bạc đầu, gió mạnh đang rít lên bên tai. Cô như con thuyền nhỏ bị sóng xô chấp chới. Sóng gió bỗng ngừng hẳn, bốn bề lặng ngắt như tờ, vô số những âm thanh lao xao rì rầm như phát ra từ mặt đất cùng những tiếng vọng âm âm, như kim châm vào màng nhĩ, và châm vào từng mảnh da thớ thịt cô. Trong cơn mơ màng, cô lại nghe thấy cái âm thanh kỳ quái: “Ánh trăng...”. Cô muốn hỏi lại: “Ánh trăng là gì?” nhưng cảnh trước mắt dần dần mờ xám, Hinh dường như đã mất hết sức sống, người mềm nhũn và gục xuống.
“Diệp Hinh, bạn vẫn ổn chứ?”
Hinh mở to mắt, bắt gặp ánh mắt quan tâm thân thiết của Chương Vân Côn. Cô tỉnh táo trở lại: “Đây là đâu?”
“Bạn bỗng dưng ngất xỉu ở phòng giải phẫu, đây là ở phòng y tế, họ đã truyền dung dịch muối cho bạn. Bạn đã khá lên nhiều rồi, họ nói bạn bị hạ đường huyết, chắc là vì mấy ngày qua bạn kém ăn hoặc kém ngủ. Nhưng không vấn đề gì lớn, nghỉ ngơi vài hôm sẽ khỏe ngay thôi”.
Hinh khẽ thở dài: “Chắc là tại em ngủ không ngon giấc”.
Cô cảm ơn thầy Côn, rồi ra khỏi phòng y tế, cô thấy đôi chân nhẹ nhõm, hầu như đã trở lại bình thường.
“Mình thấy sắc mặt cậu không ổn lắm”. Gặp Hinh, Sảnh vừa mừng lại vừa thương.
“Đừng nói nữa, gần đây mình ngủ không ngon giấc. Giấc mơ kỳ quái ấy lại ập đến”. Ở bên Sảnh, Hinh mới có cảm giác nhẹ nhõm và yên ổn, tuy Sảnh chỉ nằm ở nhà dưỡng bệnh, chẳng giúp được gì cho cô”.
Nghe Hinh kể hết toàn bộ câu chuyện ly kỳ gần đây cô gặp phải, Sảnh chỉ tiếc mình không thể vùng dậy đi ngay đến khu nhà giải phẫu để tìm hiểu xem sao, đành ngồi nhìn vẻ mặt thiểu não của Hinh và chưa biết nên làm gì để san sẻ nỗi lo cho bạn.
“Hay là cậu thử dùng thuốc an thần vậy, tuy chẳng hay ho gì nhưng còn hơn là cứ mất ngủ cả đêm!” Sảnh nhớ đến lọ thuốc của mẹ cô để trong tủ phấn.
“Cũng chưa phải là chuyện gì chết người, cậu đừng nghĩ ngợi nhiều. Mình cũng có tin vui báo cho cậu biết: vị giảng viên hồi nọ dạy môn giải phẫu đã đi nước ngoài, người vừa nãy đưa mình đến phòng y tế là một giảng viên trẻ - khá ngông nghênh tự đắc - nhưng giảng bài rất hay. Mình đã ghi âm lại, cậu có thể tha hồ mà thưởng thức”.
Sảnh thấy khi đang nói ánh mắt Hinh đầy vẻ hứng khởi bèn bám riết luôn: “Tớ hiểu ra rồi: tình yêu thầy trò vừa chớm nở! Hai người vừa mới biết nhau có một hôm! Vậy là chỉ ít hôm tớ không quản lý cậu, cậu đã tự buông thả mình để bước vào vận đào hoa!”
Hinh vội liến thoắng mắng Sảnh vô duyên: “Tuy nhiên nếu nói về nam giới thì tớ lại phát hiện một anh chàng. Cậu đã nghe nói về Tạ Tốn chưa?”


Chương 5
Giữa sống và chết



Cuộc thi biểu diễn bài hát tự biên tự diễn sẽ khai mạc đúng 6 giờ 30 tối thứ năm. Vì buổi học ngày thứ sáu thường khá nhẹ nhàng, sinh viên các trường có cảm giá như ngày nghỉ cuối tuần, nên họ kéo đến hội trường chật ních. Diệp Hinh là người phụ trách chính và cũng là một trong mấy người dẫn chương trình, cô rất phấn khởi trước khung cảnh này. Để phù hợp với khung cảnh, cô mặc một bộ váy dạ hội nền xanh in hoa do mẹ cô thiết kế may cho, theo kiểu vừa là váy dạ hội vừa là áo dài. Màu sắc được phối vừa trẻ trung vừa lịch sự trang trọng, cũng rất mềm mại điệu đà nữa.

Một bạn nam dẫn chương trình là Tiết Lập Dương cũng ăn vận chỉnh tề sáng sủa như Hinh, cùng Hinh ra sân khấu, được mọi người hò reo nhiệt liệt tán thưởng. Cả hai đã tập dượt trước những lời thoại cơ bản, cũng đã dự kiến thứ tự các tiết mục, cho nên cuộc thi hát diễn ra rất thuận lợi. Phần lớn các bạn dự thi đều đã làm quen với sàn diễn, và đều túc trực ở hậu trường để sửa soạn. Nhưng khi người thứ năm đang hát thì Tiết Lập Dương sốt ruột nói với Diệp Hinh: không thấy số sáu Tạ Tốn đâu cả.

Hinh rất ngạc nhiên. Trước khi mở màn, chính Hinh đã đăng ký cho Tốn, để Tốn rút thăm số thứ tự ra hát. Tốn cũng rất tự tin, còn cười cười nói nói... sao anh ta lại bỏ chạy vào phút chót? Khi ban giám khảo cho điểm ca sĩ số 5, thì Hinh đành gọi loa: “Xin mời ca sĩ Tạ Tốn đến ngay hậu trường”. Đã thông báo liền vài lần, đã có một số khán giả bắt đầu huýt sáo. Dương đề nghị đừng chờ nữa, cứ gọi người tiếp theo ra hát. Hinh thấy có lý, nhưng không hiểu sao cô không muốn thế: “Ta cứ chờ thêm vài phút đã...”

Đang nói dở, thì thấy Tạ Tốn cầm cây đàn ghi-ta chạy vào hậu trường. Thế là Hinh tạm yên tâm. Anh chàng trẻ con này làm việc không chắc chắn gì cả. Cô định hỏi: “Anh đi đâu vậy?” nhưng nhìn thấy cây đàn, cô bèn dằn giọng: “Thì ra anh biết chơi ghi-ta, tại sao lại bảo tôi đi mượn đàn pianô, chẳng phải hoài công tốn sức là gì?”

Thế mà Tạ Tốn vẫn còn nói: “Tôi bắt quả tang: bạn lại hỏi kiểu phản vấn rồi! Tôi cũng hỏi phản vấn một câu: chẳng lẽ tính năng của mỗi nhạc cụ đều như nhau hay sao? Có phải tôi đăng ký hát hai bài không nhỉ?”

Hinh thở dài, cô thấy Tốn hỏi ngược lại không phải là không có lý.

Tốn bước ra trước sân khấu. Mọi người vì đã phải đợi quá sốt ruột nên khi thấy một anh chàng đi ra “nhâng nhâng nháo nháo” không có chất “ngôi sao” tí nào, họ bèn nhất loạt huýt sáo ầm ĩ. Tốn dường như không hề nao núng, chủ động nói: “Bài thứ nhất viết về Ngày thế giới vì địa cầu, nhan đề là Tuyệt Tình Cốc”.

Tuyệt Tình Cốc xuất phát từ truyện võ hiệp Thần Điêu Đại Hiệp của Kim Dung, nhân vật chính là đôi nam nữ Dương Quá và Tiểu Long Nữ trải qua mười sáu năm sinh ly tử biệt không hề gặp mặt, họ hẹn thề sẽ tái ngộ ở Tuyệt Tình Cốc. Họ đã gặp lại nhau và sống hạnh phúc đến già.

Đúng là anh ta đã đọc truyện Kim Dung. Hinh vẫn thấy tức anh ta giả vờ không biết “Kim Mao Sư Vương” là gì, cô nghĩ bụng sẽ nhớ chuyện này để mai kia hỏi “phản vấn” anh ta mới được!

Trong giới sinh viên, có đến chín phần mười đã đọc truyện Kim Dung. Tên bài hát tung ra rất được lòng người, nên sự phản ứng đã lắng dịu đi nhiều. Tiếng đàn ghi-ta dạo chầm chậm đượm buồn vang lên đã thu hút mọi người, cả hội trường im không một tiếng động. Tiếng hát trong trẻo bay xa, từng chữ từng âm thanh thấm vào đôi tai Diệp Hinh.

Trên đỉnh non cao, anh đăm đăm nhìn xuống
Muốn xuyên suốt sương mù nhận rõ nẻo đường em
Anh còn nhớ đêm thu ngày ấy gió trong lành
Em như làn khói bay đi, anh tha hương làm người lữ khách

Nhìn bầu trời xám, anh đau đáu nghĩ suy
Liệu em còn nhớ lời đã thề cùng trời đất?
Sao thung lũng kia xanh um tùm rậm rạp
Nay chỉ là dải đất vàng khô, chứa bao nỗi tang thương

Người vô tình ơi, tôi đếm nỗi đau thương của đất
Người còn nhớ miền đất núi đồi mơn mởn xanh bất tận?
Lẽ nào Người mãi phiêu linh trong gió bụi mênh mông?
Chẳng rõ tôi còn có thể trở lại bên nàng?

Người dứt tình ơi, tôi xoa dịu nỗi đau của đất
Tôi vỗ cánh tung bay, cùng vô biên khát vọng
Biết bao năm tháng ngẩn ngơ, tử sinh đôi ngả mịt mờ
Mà chỉ có thể gặp nàng trong những giấc mơ....

Tiếng vỗ tay vang lên như sấm, lại tiếng huýt sáo inh ỏi, nhưng lần này là vì tán thưởng. Hinh bị hút hồn, dường như quên mình đang là người dẫn chương trình. Cô nhìn xuống khán giả, ai ai cũng đang rất chăm chú, không xì xào nói chuyện riêng, không di chuyển lộn xộn. Bỗng Hinh cảm thấy có một ánh mắt lạnh như băng đang hướng vào cô. Anh chàng sinh viên vẻ mặt lạnh lùng mà hôm nọ cô nhìn thấy trên giảng đường đang đứng một mình ở một góc phía trên gần sân khấu, khuôn mặt được ánh đèn sân khấu chiếu vào nhưng trông vẫn nhợt nhạt, đôi mắt anh ta nhìn thẳng vào Tạ Tốn, rồi bỗng đưa mắt sang nhìn Diệp Hinh. Cái nhìn ấy khiến Hinh rùng mình.

Trong tích tắc, Tạ Tốn đã ngồi vào ghế trước cây đàn pianô đã được bố trí, anh bắt đầu dạo nhạc. Trên nền nhạc khoan thai chậm rãi, một giọng trầm trầm vang lên: “Bài thứ hai là “Chờ đợi, đợi chờ”, kể về một câu chuyện có thật, một chàng trai và một cô gái, chàng và nàng. Sự sống đang rời xa chàng, hy vọng duy nhất của chàng là muốn gặp lại nàng, biết đâu kỳ tích sẽ xuất hiện: tình yêu của nàng sẽ cứu được chàng. Những năm trước đó hễ chàng đang đợi, thì nàng sẽ đến như hẹn ước. Nhưng lần này thì nàng đã không đến.

Chờ đợi
Đã quá nửa đêm
Đôi mắt khao khát chờ mong đã dần dần ngơ ngác
Trong đêm thâu, ánh mắt muốn giã biệt anh đi xa
Nẻo đường trước mặt anh còn tối hơn cả bóng đêm mờ mịt

Đợi chờ
Đã quá nửa đêm
Con tim cháy bỏng đã dần dần giá lạnh
Khác nào giữa đông đang mong chút dịu dàng đầm ấm
Nhưng bất ngờ lạc bước đến cửa giá như băng

Chẳng đợi thấy em
Đã thề thốt không xa nhau không ruồng bỏ
Nếu anh được thấy em một lần nữa
Là đủ cho anh dũng khí để tiếp tục sinh tồn
Thế mà nay
Chờ đợi trong vô vọng khôn cùng
Hồn anh lạc bơ vơ trong đêm tối
Đã hỏi tin em khắp chốn phong trần muôn cõi
Mà em chẳng bao giờ nghe thấy tiếng hơi thở của anh...”

Thoạt đầu, tiếng hát gượng gạo nặng nề, khi đến phần chính của giai điệu thì lời hát cao vút não nề đau xót đến cùng cực. Tiếng đàn piano đệm hát, lúc đầu như nức nở khóc than cùng người hát, nhưng đến câu hát “chẳng đợi thấy em” như một tiếng thét vang, thì tiếng đàn pianô vang dội tiếng gõ trầm buồn, như tiếng chuông đồng cổ kính bỗng được rung lên đầy phẫn nộ. Ca sĩ Tạ Tốn giống như một con sư tử nổi giận đang ngẩng đầu thét vang. Diệp Hinh không nhớ mình đã nghe hết bài hát này trong trạng thái nào, cũng không nhớ khán giả đã hưởng ứng ra sao, cô chỉ thấy sống mũi mình cay cay, rơm rớm nước mắt. Lúc bước trở lại trước sân khấu, giọng Hinh nghẹn ngào.

“Đúng là một trò cười quá lớn: trong cả ba cấp giải thưởng được trao đều không có tên Tạ Tốn!” Hinh thật sự không thể tin ở con mắt lỗ tai của ban giám khảo!

“Chẳng lẽ anh ta đáng được nhận giải à?” Trưởng ban văn nghệ kinh ngạc nhìn Hinh từ đầu đến chân. “Cô Hinh không sao chứ?”

Hinh lúc này mới thấy hình như mình có phần quá khích động: “Không sao. Tôi chỉ thấy hơi không công bằng, tất nhiên không phải là quá bất công, vì âm nhạc là vấn đề mang màu sắc cá nhân...”.

“Nhưng...” Trưởng ban văn nghệ còn định giải thích thêm, nhưng đã không thấy Hinh đâu nữa. Thì ra Hinh đứng từ xa đã thấy Tạ Tốn ra khỏi hội trường, dáng điệu có phần ủ rũ, bèn đuổi theo định an ủi anh mấy câu.

“Không sao, cái chính là được tham gia, tôi vốn chỉ định tham gia cho vui, tiện thể...” Tốn cười rất thật, không gợn chút băn khoăn vì không được giải.

“Tiện thể làm sao?” Hinh thấy Tốn chăm chú nhìn vào khuôn mặt cô, ánh mắt đượm buồn và cũng hơi xúc động.

“Nhất thiết phải bắt nói ra à? Tiện thể, muốn bạn phải chú ý đến mình!” Lúc nói câu này, Tốn cũng lại rất thật. Hinh định chỉnh anh ta vài câu nhưng lại nghĩ rằng tính cách anh ta là như thế, hôm nay thi hát đã không được đánh giá công bằng rồi thì mình đừng nên kê kích thêm gì nữa... Cô bèn nói: “Lần sau anh đừng nói linh tinh nữa, nếu không chúng ta khó mà nói chuyện được với nhau!”

“Được, hiểu rồi! Mình nên biết điều, mình chỉ là anh chàng non choẹt, một đôi đũa mốc ngước lên nhìn mâm son vời vợi cao sang!”

“Đúng là nh nên tự biết mình là ai, anh là một ca sĩ giàu tiềm năng”. Hinh cảm thấy chẳng thể tiếp tục huyên thuyên với anh chàng này nhưng cô lại có phần thiếu tự chủ. Chẳng biết lúc này Sảnh đang ở đâu? Sao không đến cứu mình với?
“Bạn cũng nên tự biết mình: bạn rất xinh, nhất là diện bộ này vào thì càng đẹp tuyệt vời khiến mình nhớ đến cô gái trong câu chuyện”. Khi Tạ Tốn tỏ ra nghiêm chỉnh, anh khiến người ta có thể cảm nhận anh rất có chiều sâu.

Hinh chợt nghĩ ngợi, và không thể không hỏi: “Anh nói về cô gái liên quan đến bài hát “Chờ đợi, đợi chờ” à? Có vẻ như là rất bi ai. Tôi rất muốn biết câu chuyện cụ thể ra sao”. Nói xong, Hinh lại thầm hối hận.

Quả nhiên Tốn cười ranh mãnh, rồi “hiện nguyên hình” : “Thế là bạn mắc lừa rồi! Tôi sẽ kể câu chuyện đó cho bạn nghe nhưng không phải hôm nay, mà phải chờ lần sau! Tùy thuộc bạn có cho tôi cơ hội hay không”.

Hinh biết rằng nếu lúc này Tốn mời cô đi nhảy hoặc đi xem phim, thì chắc cô sẽ đồng ý ngay. Nhưng cô lại không mong anh ta nói ra lời mời. Nếu thế thì anh ta chẳng phải đã trở thành một anh chàng tầm tầm hay sao? Sảnh đã từng nói mình vẫn còn quá lãng mạn!

Hinh lại cảm thấy một ánh mắt lành lạnh hướng vào cô. Ngước lên nhìn, thì ra chính là anh chàng sinh viên kia đang đứng cách cô không xa, vai khoác cây đàn ghi-ta vừa nãy Tạ Tốn đã chơi. Anh ta đang lạnh lùng nhìn Tạ Tốn và cô.

Hình như Tốn cũng cảm nhận được, anh có vẻ không yên tâm: “Chúng ta vẫn sẽ gặp nhau ở giảng đường, đúng không? Sẽ nói chuyện sau vậy!” Tốn quay người, đi đến chỗ anh chàng mặt lạnh kia, rồi cả hai cùng đi thẳng.

Dù rằng rất không nên, nhưng Hinh vẫn thấy hơi bất bình và đứng đó một lát, cho đến khi phía sau có người gọi “Hinh ơi!”
“Con chào bố!”

Cha Hinh - ông Diệp Chấn Vũ - tươi cười giơ đôi tay. Hinh ôm choàng đôi vai bố, ngắm kỹ các nếp nhăn trên mặt ông: “Sao bố lại đến đây? Tại sao bố không nói với con trước, con sẽ đặt phòng tại nhà nghỉ cho bố?”

“Bố đã vào ở nhà khách của bệnh viện trực thuộc trường của con, một phế nhân như bố thì rất sẵn thì giờ”. Mấy năm nay ông Vũ thường tự chế nhạo về mình như thế. Ông nhìn kỹ cô con gái rồi ngậm ngùi: “Nghe nói hôm nay con có tổ chức một hoạt động, nên bố phải đi tàu hỏa đến đây xem. Từ khi con vào đại học, bố chưa đến thăm lần nào. Bộ áo này do mẹ con may cho thì phải? Con mặc trông rực rỡ hẳn lên! Mẹ con là người tài giỏi, tiếc rằng bố không có duyên ở cùng bà ấy nữa!”

Hinh thấy lòng xót xa, cô khoác tay cha đi dạo trong khu vườn đang dần yên tĩnh: “Bố không trách mẹ con à?” TỪ sau khi cha mẹ ly hôn, Hinh và mẹ trò chuyện với nhau càng nhiều hơn, nhưng hôm nay là lần đầu tiên cô nói chuyện với cha.
“Bố sao có thể trách gì mẹ con? Những năm qua tuy bố sống chẳng ra sao nhưng ít ra bố cũng ít nhiều hiểu ra rằng tại bố không chịu vươn lên. Dù bà ấy làm việc gì, thì cũng chỉ là vì gia đình mình mà thôi. Nay con cũng đã học đại học, cha mẹ đã tách ra, thì bà ấy cũng có thể chuyên tâm cho sự nghiệp của mình... Người phụ nữ có được sự nghiệp đâu phải dễ! Đời nào bố lại cản trở bà ấy!”

Hinh cảm thấy mình có phần không nhận ra ông nữa. Ngày nay ông đã thông hiểu vấn đề, không giống như những năm trước chỉ toàn vùi đầu bên bàn mạt chược, và uống rượu hút thuốc... đôi mắt lúc nào cũng lờ đờ ngái ngủ, nói năng ậm ừ. Có lẽ cuộc ly hôn đã tác động mạnh đến ông, khiến ông nhận rõ phải trái đúng sai. Hinh nói:

“Bố cũng chưa phải gọi là già, lại có bộ óc thông minh, vẫn có thể phấn chấn trở lại, tìm ra điểm xuất phát để đi đến một sự nghiệp mới. Và có lẽ vẫn có cơ hội để trở lại với mẹ con”.
Ông Vũ thở dài: “Nói vậy thôi chứ đâu có dễ! Bố biết mình đã làm cho mẹ con rất đau lòng. Tuy nhiên, khi nghĩ rằng mình có được cô con gái như con thì bố đã hạnh phúc lắm rồi! Nhất là khi con có đức tính lạc quan cầu tiến, rất giống mẹ con hồi trước! Thực tình, bố cũng không hiểu tại sao về sau bố lại xuống dốc nhanh thế! Có lẽ bố đã không gắng vượt qua sự uy hiếp của tuổi trung niên, thế rồi xuống dốc không phanh!”

Hai cha con vừa đi vừa nói chuyện, Hinh đang mặc ít áo, nên càng đi càng thấy lạnh. Ông Vũ thấy con gái đang run run bèn khoác cho cô chiếc áo jacket của mình. Hinh ngẩng đầu nhìn, cô khẽ kêu lên: “Thảo nào mà...”
Thì ra họ đã bước đến bên khu nhà giải phẫu.

“Sao lại đi đến đây?” Hinh vừa trách vừa giới thiệu với cha: “Đây là khu nhà giải phẫu, nghe nói có nhiều chuyện ma quỷ xảy ra ở đây”.

Hai người bước vào, ông Vũ “ơ” một tiếng hình như có phần kinh ngạc. Hinh đoán trừng: “Có phải bố cho rằng cái bậu cửa xi-măng này rất kỳ cục không? Con nghe nói là để phòng phooc-môn tràn ra, ô nhiễm môi trường”.

Ông Vũ kêu lên: “Không đúng”. Ông định thôi nhưng rồi lại nói: “Vớ vẩn! Chẳng lẽ thuốc cứ nhằm cửa mà tràn ra à? Dung dịch đã rò rỉ thì sẽ luồn lách khắp nơi! Một cái bậu cửa thì ngăn sao nổi? Xây bậu cửa cao nhất định là để trấn quỷ!”
Hinh chưng hửng: “Ngay bố cũng nghe nói thế à?”

“Chắc là chuyện mê tín, chốn thôn quê thường cho rằng xác chết và ma quỷ không thể nhấc cao chân, bậu cửa có thể đề phòng ma quỷ bước ra khỏi nhà. Vậy thì chắc chắn có người trước kia đã ngờ rằng khu nhà này có ma nên mới xây cái bậu cửa này. Chỉ cần con đừng vào đây lúc đêm khuya thì chúng chẳng thể quấy nhiễu được!”

Hinh thầm nghĩ: “Chúng con đã từng vào đây...” nhưng lại sợ nói ra khiến cha lo lắng. Ông Vũ càng nghĩ ngợi lại càng thấy sự việc nghiêm trọng, ông dừng lại, đặt tay lên đôi vai Hinh hạ thấp giọng: “Con hãy hứa với bố đừng bao giờ đi một mình đến đây vào ban đêm”. Hinh thấy vẻ mặt ông đăm chiêu, cô gật đầu.

Lúc quay về ký túc xá nữ sinh, đã đến giờ phải tắt đèn. Hai cha con bịn rịn từ biệt nhau, Hinh cởi chiếc áo jacket vi ni-lông ra, nhưng ông Vũ ngăn lại: “Con cứ mặc đi, để mặc... vào những buổi tự học cũng tiện”. Ánh mắt cha vô cùng hiền từ khiến Hinh không nỡ từ chối. Cô quay người bước vào cửa, ông Vũ đứng ngoài gọi to, cô lại quay trở ra, ông nắm tay cô và ngắm nhìn khuôn mặt cô rất lâu, dặn dò: “Con hãy chịu khó nghe lời mẹ con, nếu có dịp hãy nói với bà ấy rằng bố rất có lỗi với gia đình ta”. Hai hàng nước mắt đọng ở những nếp nhăn trên mặt, rơi xuống mu bàn tay Hinh vẫn âm ấm như xưa.
Những tiếng gõ cửa gấp gáp đã đưa Hinh ra khỏi giấc nồng. Suốt bao nhiêu ngày qua, đây là lần đầu tiên Hinh có thể ngủ ngon giấc, “Cô Hinh có điện thoại khẩn!” Bác gái gác cổng gọi.

Mới 6 giờ sáng, ai lại gọi điện sớm thế này?

Hinh choàng ngay chiếc áo jacket của cha để lại tối hômqua, đi xuống cầu thang để nghe điện thoại. Đầu dây bên kia là mẹ cô - bà Kiều Doanh - giọng nghẹn ngào: “Hinh ơi, bố con... đã qua đời...”

Hinh còn chưa kịp hiểu rõ, cô hỏi lại: “Mẹ ơi, mẹ nói gì cơ ạ? Tối qua con vừa gặp bố con mà! Bố đến tận đây thăm con mà!”
Bà Kiều Doanh thút thít: “Mẹ biết con lúc này không thể tin nhưng đây là sự thật, bố con bị ung thư não giai đoạn cuối, vừa qua đã nằm viện một tháng; cách đây một tuần, não đã liệt rồi. Vì sợ ảnh hưởng đến kỳ thi giữa học kỳ của con nên mẹ không dám báo cho con biết. Sáng sớm hôm nay tim bố con đã ngừng đập”.

Hinh cầm ống nghe mà tay run run: “Không thể! Vì đúng là tối qua con đã gặp bố, hai bố con còn đi dạo với nhau, bố...còn để lại cho con chiếc áo jacket...” Hinh bỗng cảm thấy một vài hành động hơi kỳ lạ của cha tối hôm qua bỗng trở nên hợp lí hợp tình, điều này lại rất không giống như mọi ngày.

Bà Kiều Doanh đang rất lo Hinh sau khi nghe tin dữ sẽ rối loạn tâm trí, nên bà kìm nén không khóc nữa, dịu dàng khuyên nhủ: “Con hãy nên bình tĩnh, mẹ sẽ liên lạc với thầy giáo phụ trách quản lý sinh viên của khoa, xin cho con nghỉ học vài hôm, con về nhà nhìn mặt bố con lần cuối... Ba hôm nữa sẽ làm lễ hỏa táng cho bố con, bây giờ mẹ bắt đầu lên đuờng để đến đón con”.
Tuy đầu óc Hinh đang rối loạn khác thường nhưng cô vẫn gắng tự trấn tĩnh: “Mẹ ạ, ở nhà chắc có nhiều việc cần giải quyết, mẹ không phải đến đón con. Giờ con sẽ ra mua vé tàu hoả, mai con sẽ về đến nhà!”
Thấy Hinh điềm tĩnh như vậy, bà Kiều Doanh cũng yên tâm hơn. Bà lại thở dài: “Nhất định con phải về nhà, và còn phải trò chuyện với mẹ nữa. Giờ đây mẹ thấy mình rất có lỗi với bố con. Con biết không: vừa mới bị nghỉ việc thì bố con đi khám phát hiện bị ung thư não, cứ giấu hai mẹ con ta và cũng không đi điều trị - nói là sợ sẽ làm hai mẹ con thêm vướng víu, vì điều trị ung thư não mà không có bảo hiểm y tế gánh cho thì sẽ khuynh gia bại sản, nhất là vào lúc điều kiện kinh tế gia đình ta không khấm khá gì. Mẹ đã phê bình ông ấy, nhưng tất cả đã muộn...” Nói đến đây, bà Doanh khóc không thành tiếng.
Hinh cầm ống nghe, ngồi đờ đẫn, mặc cho nước mắt tuôn trào, hồi lâu cô mới nói: “Mẹ ơi, bây giờ con đi ra ga!”

Nói rồi cô đặt mạnh ống nghe xuống lao ra khỏi cửa, cô chạy rất nhanh trên sân trường đang buổi sớm tinh mơ.

Từ tuần trước cha cô đã liệt não, vậy tối qua mình đã gặp ai? Rõ ràng mình đang mặc chiếc áo jacket của cha, chiếc áo còn vương mùi thuốc lá mọi ngày. Chẳng lẽ, trước khi ra đi, cha còn muốn gặp mình lần cuối, và tặng cho mình chiếc áo này làm kỷ niệm?
Hinh nhớ lại, ông nói mình đang ở nhà nghỉ của bệnh viện số một trực thuộc trường Y, bèn chạy ngay đến đó. Hinh xin tra sổ đăng ký của nhà khách, thì đưọc trả lời là không có ông Diệp Chấn Vũ nào đến ở đây cả!
Thế thì người tối qua đến là ai?
Nếu cô không tin vào đôi mắt đôi tai của mình nữa, thì còn có thể tin ở cái gì?
Thoắt liên tưởng đến một loạt các sự việc kỳ quái mà cô gặp phải trong thời gian gần đây, cô không nén nổi toàn thân run rẩy trong cái lạnh của làn gió sớm mai.
“Hình như bạn có vẻ không được bình thường?” Một giọng nói quen thuộc vang lên.
Hinh ngẩng đầu. Một đôi mắt đầy quan tâm. Đó là thầy Chương Vân Côn. Lúc này Hinh mới nhận ra, chẳng rõ mình đã đến khu nhà giải phẫu từ lúc nào. Thầy Côn mặc một bộ đồ thể thao, chắc là đang tập thể dục buổi sáng.
“Có cần tôi đưa bạn đến phòng y tế không? Có lẽ tôi có thể mong mình trở thành chuyên gia về phương diện này”. Giọng nói nhẹ nhàng của thầy Côn khiến Hinh thấy dễ chịu hơn một chút. Cô nhận ra mình đang đầu tóc tả tơi, khuôn mặt đẫm lệ. Cô cúi đầu.
“Bạn làm sao thế?”
Hinh thấy lúc này mình rất cần có một người lắng nghe mình thổ lộ, vừa mới cầm được nước mắt thì nó lại trào ra.
Nghe xong câu chuyện Hinh kể, đôi mắt thầy Côn cũng đỏ hoa. Anh nhè nhẹ xoa đôi vai Hinh và nói: “Bạn đừng quá đau buồn, hãy gắng nghĩ cho thoáng ra. Thực ra bạn đã có một gia đình rất tốt, cha mẹ tuy đã ly dị nhưng họ đều rất thương yêu bạn. Bạn cũng hiểu rất đúng, tất cả không phải là những yếu tố bi kịch. Bạn hãy mau trở về nhà, hai mẹ con sẽ cùng an ủi lẫn nhau, cùng vượt qua nỗi đau này. Còn về chuyện người tối qua có phải linh hồn cha bạn hay không thì cũng có sao. Người đã chết thì không thế sống lại được”.
Hinh lắp bắp: “Nói như vậy là thầy không tin có hồn ma hay sao?”
Thầy Côn thở dài, chỉ tay vào đầu mình: “Tôi cho rằng tất cả đều ở đây mà ra cả! Mọi điều tai nghe mắt thấy của người ta có lúc là khách quan, đôi lúc lại bị ý thức chủ quan khống chế. Ai đã tin thì dù là chuyện hão huyền đến mấy họ cũng cứ tin. Ai đã không tin thì dù là chuyện hợp lý đến đâu họ cũng xua tay! Tóm lại là chẳng nên nhẹ dạ cả tin, mình hãy làm chủ bản thân. Tôi nói có phần quá mơ hồ, mong bạn đừng khó chịu, cứ về ký túc xá nghỉ ngơi, thu xếp các thứ. Sáng nay tôi không phải lên lớp tôi sẽ thu xếp đưa bạn ra ga”.

“Em đâu dám phiền thầy ạ”.

“Đừng nói thế. Bạn tuy là người rất cứng cỏi, nhưng lúc này bạn đang rất cần giúp đỡ. Ý tôi vẫn thế: vượt qua thời kỳ này bạn sẽ ổn thôi. Đi đi, và nhớ báo cáo với thầy chủ nhiệm lớp bạn”. Ánh mặt hiền hậu của thày Côn đã sưởi ấm cho Hinh.

quan_calvin
01-12-2008, 06:04 PM
Chương 6
Xác chết biết nói



Tàu hỏa đã chuyển bánh, Hinh nhìn qua cửa sổ thấy thày Côn vẫn đứng đó nhìn theo đoàn tàu đi xa dần. Hinh cảm thấy thực ra mình vẫn rất hạnh phúc, vì được cha mẹ yêu thương, được thày giáo và các bạn quan tâm.

Và đương nhiên, mình phải cứng rắn lên, giống như mẹ mình, không đưọc phép dựa dẫm vào bất cứ cái gì.

Nhưng chính lúc này mẹ cô cũng đang mong gặp cô, hai mẹ con nương tựa lẫn nhau đấy thôi? Thì ra mẹ cũng có lúc mềm yếu. Hinh chợt nhớ ra rằng trước lúc đi, cô đã quên không nói cho Âu Dương Sảnh biết. Hinh hiểu tính Sảnh, nếu không vì đang phải nghỉ ốm thì có lẽ Sảnh sẽ đi cùng cô về nhà cũng nên.

Vào ngày này, khách đi đường dài không đông, vẫn là khoảng thời gian “im lặng trước cơn bão tố” đỉnh cao của đợt vận chuyển khách nhân ngày Quốc tế lao động 1-5, chỗ ngồi đối diện với Hinh còn bỏ trống. Sau khi nhân viên soát vé đi rồi, Hinh ngồi dựa người vào thành cửa sổ, lim dim mắt. Khuôn mặt đầy nếp nhăn của cha cô tối qua lại hiện lên, cô bất giác hai hàng nước mắt rơi lã chã.

Cô bỗng thấy có bàn tay quệt nước mắt cho mình, cô mở to mắt và rất hoảng sợ. Chỉ nhìn thấy một chàng thanh niên vội rụt tay lại và nói: “Thì ra là cô vẫn thức!”

Chính là Tạ Tốn!

Hinh sẵng giọng: “Nếu anh còn táy máy nữa tôi sẽ báo công an trên tàu!”

Mấy hành khách xung quanh hiếu kỳ nghoảnh nhìn sang, Tốn ngượng nghịu cười: “Có gì đâu, chúng tôi là bạn học, cô ấy bực mình với tôi...”

“Sao anh lại lên tàu?”

Tốn thở phào ngồi xuống ghế đối diện Hinh, rồi thở dài cứ như là chịu ấm ức: “Cô hỏi hay thật đấy! Điều này có phải còn quan trọng hơn gọi công an?”

Hinh hỏi không mấy thiện cảm: “Câu hỏi phản vấn là độc quyền của tôi thì phải, tôi khuyên anh nên thận trọng. Thực ra tôi chẳng bận tâm tại sao anh lại lên tàu! Chỉ thoáng nhìn thừa biết anh là dân hay trốn học!”

“Hôm nay lên giảng đường lớn, nghe các bạn nữ lớp cô nói là gia đình cô có chuyện, tôi cũng thấy buồn, nghĩ cô đi về nhà một mình buồn vừa không an toàn, nên tôi tức tốc chạy ra ga ngay. Nhưng cũng vẫn hơi muộn, vào đến sân ga thì nghe tàu hú còi. Tôi vội chạy đến và nhảy tót lên đúng lúc tàu chuyển bánh, hệt như cảnh trong phim!” Tạ Tốn nói rành rọt đâu ra đấy, hình như anh ta cho rằng Hinh sẽ tin là thật.

Hinh tin chắc anh ta đã có ý theo mình, và không hề giấu diếm. Cô thấy bực tức nhưng không thể không có phần cảm động: “Anh thật hay làm bừa, vô duyên vô cớ lại bỏ học vài ngày, coi chừng sẽ bị khoa thi hành kỷ luật!”

“Mấy lớp chúng ta có hai trăm sinh viên, cả khoa có hàng nghìn người, vắng một mình tôi khác nào sa mạc thiếu đi một hạt cát, ai mà biết được! Và cũng sắp đến ngày 1-5, coi như mình đi du xuân một chuyến! Vả lại, cô hỏi đã phản vấn tôi vài lần rồi, chúng ta tạm coi nhau là bạn được chưa? Là bạn, thì phải xuất hiện đúng lúc cần thiết, giả sử Âu Dương Sảnh không bị ốm, cô nói xem liêụ cô ấy có đi cùng với cô hay không?”. Tốn tỏ ra có đầy đủ lý lẽ.

“Tại sao anh lại biết Âu Dương Sảnh?”

“Hai người cứ như là hình với bóng, như là một cặp tình nhân, thì chỉ có thằng ngố mới không chú ý đến! Nếu Sảnh không bị ốm thì tôi chen ngang sao được?”

Hinh thấy Tốn càng nói càng bỗ bã, cô đá vào chân anh ta: “Nếu anh còn nói nữa, tôi cũng sẽ báo công an!”

“Ai ai cũng nói thế cả, tôi chỉ học theo để nói cho cô nghe mà thôi! Cô cũng biết, vào lứa tuổi chúng ta, nam nữ tiếp cận nồng nàn với nhau là điều khỏi phải bàn. Nhưng nam với nam hoặc nữ với nữ cặp kè với nhau thì mới là chuyện không bình thường chứ? Cô có thể phớt lờ, nhưng miệng lưỡi thế gian vẫn rất là đáng sợ!”

Hinh chợt nhớ đến anh chàng sinh viên vẻ mặt lạnh lùng bèn nói: “Chắc anh đã thể nghiệm rồi? Anh bạn kia thì sao? Anh ta trông khá đấy, chỉ hiềm là...hơi lạnh!”

“Khỏi phải bàn! Anh ấy là bạn thân của tôi từ bé!”

“Ý anh nói là thanh mai trúc mã?” Hinh từ phòng thủ chuyển sang phản công.

“Cô thích nói sao thì tùy. Bọn tôi còn hơn thế nữa kia, tôi và anh ấy không thể dứt và cũng không thể gỡ! Thế nào, đã đủ say đắm như Quỳnh Dao chưa?”

Hinh đành phải thật sự bỏ cuộc: “Anh đúng là con lợn, chọc tiết rồi chẳng sợ nước sôi”. (ND: câu ngạn ngữ ý nói “bí quá đâm liều”) Hinh dùng câu ví von rất thô khiến cô cũng phải bật cười.

“Hôm nay là lần đầu tiên cô cười thì phải?” Tốn bỗng hỏi nghiêm túc.

“Thì có can gì đến anh?” Hinh lại thấy ỉu xìu. Nhìn ra cửa sổ, thấy cảnh vạn ngoài kia đang trôi đi, nhưng mắt cô thì ngây ra.
“Các bạn nữ ở lớp cô nói rằng tối qua cô gặp cha cô, rõ ràng là chuyện hư cấu!”

“Anh tin hay không thì cũng chẳng can gì đến họ!” Hinh nói lạnh lùng.

“Tôi nói thật, trong toàn bộ sinh viên ở giảng đường chỉ có mình tôi tin là tối qua cô gặp bác ấy!”

“Tôi hiểu rồi, vì ở đây chỉ có mình anh đang muốn lấy lòng tôi. Tôi nói gì anh cũng tin. Anh có biết là cha tôi đã bị liệt não từ cách đây một tuần không? Anh nghe đây: đến lúc này, chính tôi cũng không tin là tối hôm qua tôi đã gặp cha”. Hinh nghĩ đến lời của thầy Côn, càng nghĩ càng thấy có lý.

“Cô muốn nói kháy tôi thế nào cũng được. Tôi vẫn thật sự tin lời cô nói. Có điều người cô đã gặp không phải là cha cô, mà là linh hồn bác ấy. Một tuần, tức là bảy ngày, sau bảy ngày thường là lúc người chết thật sự từ biệt người thân. Cô lại vắng nhà cho nên cha cô mới đến tận trường gặp cô lần cuối - rất hợp lý hợp tình! Và nhất định bác ấy phải để lại cho cô một vật kỉ niệm, điều này không phải là hư cấu chứ?”. Tốn phân tích đâu ra đấy.

Nghe Tốn nói có lý, tâm trạng Hinh thấy nhẹ nhõm đi nhiều. Vậy là đã có người tin mình! Mới vừa rồi, chính cô cũng bắt đầu nghi ngờ mọi điều mình đã nhìn thấy. Nhưng, thế này nghĩa là hãy tin theo chuyện mê tín rằng có ma và có linh hồn?

“Theo tôi, ranh giới giữa các mặt đối lập: sự thật và hư cấu, duy vật và mê tín thường không rõ ràng”. Tốn tiếp tục nói, dường như anh đọc được tâm tư của Hinh. “Trong lịch sử, có rất nhiều dẫn chứng thuộc loại này. Ví dụ: con người là hiện thực, thần thánh là mê tín. Nhưng cô có nghe nói về thần “nhân tạo” không? Ví dụ, Hítle... Thôi vậy, phái nữ các cô thường không hứng thú về lịch sử, tôi nói sẽ là đàn gảy tai trâu mất thôi!”

Hinh cau mày: “Ngạo mạn, thành kiến! Toàn nói vớ vẩn! Tôi nghĩ anh chỉ hiểu biết rất nông cạn, nhưng lại cố làm ra vẻ rất bí hiểm. Đã nhắc đến sự thật và hư cấu, thế thì nên kể câu chuyện bài hát của anh đi. Tôi xin lắng nghe và bảo đảm rằng không phải đàn gảy tai trâu!”

Nhưng Tốn dứt khoát lắc đầu: “Đây không phải là chỗ kể chuyện, chúng ta sẽ chờ dịp khác”.

Hinh nghĩ bụng, anh ta đang định “thả dây câu dài” đây mà, nhưng đáng tiếc mình đâu phải “con cá sộp” muốn cắn câu. Cô cười nhạt: “Không kể thì thôi, ai thiết gì! Anh cũng khỏi cần đi cùng tôi về nhà. Tàu dừng ở ga sau thì anh đi về đi. Vẫn chưa đi quá xa đâu!”

“Có những việc, dấn một buớc rồi thì thật khó quay lại, không tồn tại vấn đề xa gần gì hết!”

“Tôi chưa hiểu mấy, anh ví dụ xem?”

“Tình yêu chẳng hạn, các ca khúc thời thượng đã ví von cường điệu “đã yêu rồi, anh bước lên nẻo đường không lối về, đã trao trái tim, thì không đòi về nữa, đã yêu rồi thì chẳng hề đổi ý, đã yêu thì đừng nói câu xin lỗi”...vân vân và vân vân”.
“Anh thử nêu một ví dụ “không cường điệu” xem?”

Tốn nhíu mày nghĩ một lúc: “Thôi không nói làm gì, tôi sợ cô không chịu đựng nổi!”

“Cứ nói đi, tôi chuẩn bị sẵn sàng tinh thần - miễn là không nói tục, thì tôi sẽ không trách cứ gì hết!”

Tốn nói rành rọt từng chữ một: “Ví dụ, người nhảy lầu tự tử, đã nhảy rồi thì lùi lại sao được nữa?”

Hinh bỗng bật dậy, sắc mặt tái nhợt “Anh nói thế là ý gì? Không được nói bừa!” Nhiều hành khách ngoái nhìn sang, lúc này Hinh mới thấy mình thật là bất nhã, cô mỉm cười, tỏ ý xin lỗi mọi người rồi lại ngồi xuống. Cô nhìn Tốn đang ngồi đối diện bằng cặp mắt căm giận và lạnh lùng. Cô nhớ rằng mình vừa nói sẽ không trách cứ gì... cô có cảm giác mình đã mắc bẫy anh chàng.

“Có phải cô liên tưởng đến vụ mưu sát 405 không?”

“Thì ra anh cũng nghe về nó?”. Hinh nhận thấy Tạ Tốn lúc này có phần tàn nhẫn.

“Là một vụ việc kinh điển của trường ta, sao lại không nghe nói đến? Tôi thấy cô tương đối nhạy cảm với đề tài này”.
Hinh thoáng nghĩ ngợi, rồi nói: “Nếu anh đã tin là có ma thì hãy nói xem tại sao khu ký túc xá của chúng ta gần như năm nào cũng có người chết mà không ai tìm ta được nguyên nhân?”

Tốn tủm tỉm cười: “Tôi muốn hỏi cô trước đã, cô Sảnh cho là thế nào? Cô ấy là nhà nghề, tôi chẳng muốn múa rìu qua mắt thợ, à, tôi chẳng muốn làm phép ma trước cửa nhà Sảnh!”

“Sảnh nói rằng có vài khả năng, có hai khả năng lớn nhất: một là khu nhà có yêu quái gì đó khiến người ta hoang mang, cứ đến ngày 16 tháng 6 nó lại hiển linh một lần, nữ sinh viên nào gặp phải thì thật là thê thảm! Hai là, trong khu nhà đó có ma ẩn náu không tan, nó cần nói ra và cần trút oán hờn, nhưng những người trần mắt thịt như chúng ta thì nghe thấy sao được? Cho nên, con ma chết oan ấy mỗi năm lại làm chết một người để buộc mọi ngưòi phải chú ý”.

“Cũng chưa gọi là giàu trí tưởng tượng cho lắm!”

Hinh “xùy” một tiếng: “Anh lại còn dám châm biếm kia đấy! Hiện đang là tháng 4, còn cách ngày 16 tháng 6 kia chẳng mấy hôm nữa đâu! Tôi định đến đêm 16 tháng 6 ra tạm trú tại nhà khách đấy”.

“Cô có thể cùng tôi đi xem phim cho hết đêm đó, nếu buồn ngủ thì ngả đầu trên vai tôi! Yên tâm, tôi sẽ giữ vững tư thế quân tử!”

Hinh đáp: “Anh đã sẵn sàng tư thế tiểu nhân, tiểu hài nhi, mon men đến tầm cao quân tử sao được? Nếu đi xem phim thì cũng được, nhưng phải rủ cả Sảnh và Lôi Lôi cùng đi”.

Tốn lại đổi giọng lành lạnh: “Cô có nghe nói hai nữ sinh nhảy lầu trong hai năm qua, vốn cũng đã thu xếp ra ngoài trường hoặc sang ký túc xá khác để tạm trú không? Nhưng rồi ma đưa lối quỷ dẫn đường thế nào không biết, lúc sáng sớm quay về phòng cũ, vẫn không thoát khỏi thảm cảnh...”.

Hinh chột dạ “Thật à? Tức là... đề phòng cũng chẳng ăn thua?”

“Nhưng, nếu cô có một ngưòi bạn trai thân thiết, hai người ôm riết lấy nhau, thì cô ta sẽ chẳng đi lại lung tung như thế”.
Hinh mặt đỏ bừng đạp mạnh vào chân Tốn, rồi không thèm nói chuyện với anh ta nữa.


Bà Kiều Doanh nhìn qua cửa tiền sảnh khu văn phòng đã nhìn thấy con gái từ xa, vội rảo bước ra đón. Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau không nói nên lời.

“Mẹ à, con muốn đến gặp bố!” Hinh cầm nước mắt, khẽ nài nỉ.

Bà Doanh cũng biết từ ngày Hinh vào học trường Y, cô đã bạo dạn lên rất nhiều. Bà biết con gái vừa đi suốt 20 tiếng đồng hồ, đang mệt mỏi, nhưng bà vẫn gật đầu đồng ý. Bà trở lên gác cùng các đồng nghiệp bàn bạc sắp xếp công việc, rồi trở xuống. Bà thót tim: vì trông thấy cô con gái ngồi nghiêng trong ghế dành cho khách đợi trong tiền sảnh, đang thiu thiu ngủ, chiếc áo jackét vi-ni-lông phủ trên người cô - chính là chiếc áo khoác ngoài ông Diệp Trấn Vũ vẫn mặc trước đây.
“Cái áo jackét này... ở đâu ra?” Bà Doanh vội lay Hinh dậy.

Hinh cũng kinh ngạc: “Con đã cất nó trong cái vali du lịch kia mà, tại sao nó lại ở đây?... mẹ ơi mẹ có tin hay không thì tùy: tối hôm kia con thực sự đã gặp bố! Bố đã để lại cho con chiếc áo này, và nói rằng bố rất có lỗi với mẹ, với gia đình ta...”
Bà Doanh thấy lòng xốn xang, nhìn đôi mắt con gái hơi có quầng thâm, bà thầm nghĩ: có lẽ lần trước nó về nhà rồi trở lại trường, ông Vũ đã linh cảm về tình trạng sức khỏe của mình nên lẳng lặng nhét cái áo khoác này vào hành lý của nó để làm kỉ niệm. Nó nói chẳng đâu vào đâu thế này, chắc là vì nó quá đau buồn nên mới suy nghĩ lung tung.

Thi thể của ông Vũ đang được gửi tại nhà xác của bệnh viện Nhân dân số 3. Bà Kiều Doanh nói với người quen đang làm ở bệnh viện bố trí nhân viên mở cửa nhà xác cho hai mẹ con vào. Họ di chuyển thi thể ông Vũ từ kho lạnh ra, rồi ý tứ lui ra ngoài để hai mẹ con bà cùng người thân nán lại. Bà không đủ can đảm nhìn lại khuôn mặt người chồng cũ, bà nói với Hinh: “Hễ nhìn thi thể bố con, thì mẹ không sao cầm lòng được, con nhìn đi. Con có sợ không?”

Hinh lắc đầu: “Mẹ cứ ra ngoài kia chờ con, con ở đây một lát”.

Bà Doanh nhẹ nhàng khép cửa nhà xác, đợi ở bên ngoài. Hinh chậm rãi bước đến tận nơi giơ tay định lật tấm vải trắng đang phủ bên trên, cô thấy hoang mang. Mình đang sợ hãi gì nhỉ?

Và cô đã lật tấm vải ra, nhìn thấy đôi mắt tròn đang mở trừng trừng!

Hinh định kêu thét lên, thì một bàn tay từ dưới tấm vải trắng thò ra bịt lấy miệng cô. Chính là ông Diệp Trấn Vũ!
“Không được... về... trường!” Mặt ông Vũ vẫn nhợt như mặt người chết, tay vẫn lạnh toát như tay người chết, giọng nói nghèn ngẹn như thoát ra từ cổ họng bị rách nát.

“Tại sao...” môi Hinh mấp máy mà không thành tiếng.

“Ánh trăng...”

“Gì cơ ạ? Ánh trăng là gì cơ ạ?” Đây không phải là lần đầu tiên Hinh nghe thấy cái từ này. Cô thấy choáng váng quay cuồng, chơi vơi vô định...

Bỗng cánh cửa nhà xác mở toang, tiếng bà mẹ vang lên: “Kìa, con nói là chỉ đứng nhìn một lát, sao lâu thế?”

Hinh chợt bừng tỉnh, ông Vũ vẫn nằm yên trên bàn, đôi mắt khép chặt. Tất cả dường như mới vừa xảy ra.

Hinh ngồi trên tàu hỏa trở về trường, nhớ lại chuyến đi cùng Tạ Tốn cách đây hai tuần, cảm thấy cô quạnh vô cùng.

Hai tuần lễ trôi đi quá nhanh trong những giọt nước mắt. Nhưng cô hiểu rằng sau những ngày hai mẹ con nương tựa động viên lẫn nhau, cô đã trở nên càng cứng cỏi hơn.

Nhưng tại sao cô vẫn thấy buồn phiền vì một nỗi sợ hãi nửa thực nửa hư?

Mình có nên tin ở đôi mắt và đôi tai mình không? Nếu khẳng định là phải tin thì có nên tin ở lời dặn dò cuối cùng của cha không? Ánh trăng là gi? Tại sao nó lại không chỉ một lần vang lên trong óc mình?

Rõ ràng là cha đã linh cảm rằng, mình trở lại đại học Y Giang Kinh tức là đi vào con đuờng nguy hiểm.

Có còn cái gì tiếp cận mình hơn là “vụ mưu sát 405”?

Có lẽ là dấu hiệu báo trước đã thật sự đến lúc giải mã “vụ án mưu sát 405”! Chỉ một mình mình, liệu có được không? Cũng vì xưa này cô đâu dễ gì nản lòng, cô tự cho mình là một cô gái có tính độc lập rất cao.

Nhưng tại sao mình vẫn cảm thấy cô đơn?

“Chúng ta hãy tiếp tục nói về đề tài lần trước, có được không?” Chẳng biết Tạ Tốn đã ngồi đối diện với Hinh từ lúc nào.
“Lại là anh à?” Cô nhớ rằng Tốn đưa cô về đến nhà, không rẽ vào rồi nói là quay về trường ngay, không muốn làm phiền Hinh và mẹ cô, vì dù sao cũng là “tang gia bối rối” phải lo đủ thứ việc, không cần thiết phải bận tâm tiếp đãi một người lạ là anh. Vậy anh ta đã ở đâu chui ra?

“Thực ra tôi không về trường, mấy khi đã có việc xuôi Giang Nam, nên tôi muốn du ngoạn mấy thành phố ở quanh đây. Giang Nam quê hương sông nước, phong cảnh đẹp nhất của tạo hoá, thảo nào đã sinh ra một thiếu nữ như Hinh!” Tạ Tốn cứ hay nói toạc những suy nghĩ của mình, khiến Hinh chỉ muốn giơ tay khóa miệng anh ta lại.

“Thôi đủ rồi đấy! Đây là chốn đông người, anh hãy nói năng cẩn thận một chút!”

“Tôi chỉ nói lên những điều tôi nhìn thấy, nào có nói sai gì đâu? Trông thần sắc cô đã khá lên rồi đấy!”

“Một lần nữa tôi lại thấm thía rằng có được người mẹ giàu tình cảm, thực quan trọng. Nếu người mẹ ấy cũng giàu trí tuệ nữa thì lại càng là phúc lớn cho mình”.

“Tôi rất mong được như Hinh”. Ánh mắt của Tốn có vẻ hơi khô cứng.

“Chẳng lẽ mẹ anh...”

“Tôi chưa từng gặp mẹ tôi bao giờ”.

“Lần trước chúng ta đang nói đến đâu nhỉ?” Hinh cảm thấy có lẽ gia cảnh Tạ Tốn có không ít những chuyện đau buồn, cô vội lảng sang chuyện khác.

“Đang nói đến “vụ mưu sát 405”.”

“Tôi nhớ ra rồi, anh hỏi về ý kiến của Sảnh, còn tôi thì chưa kịp trả lời”.

Tốn trở lại trầm ngâm: “Tôi vẫn đang suy ngẫm rằng bên trong chắc phải có quá trình lịch sử gì đó”.

Hinh than vãn: “Tôi ngỡ anh có ý tưởng gì cao siêu, hóa ra chỉ là độc một câu dông dài! Tất nhiên là có quá trình lịch sử: từ năm 1977 bắt đầu có chuyện, đến nay đã 15-16 năm trời. Sảnh cũng đã hỏi kỹ: trước đó không có chuyện kỳ quái gì hết”.
“Hỏi, thì ăn thua gì? Những tin đồn đại ngoài vỉa hè có bao giờ trở thành lịch sử chân chính được? Đương nhiên cũng có những sử gia còn nhầm lẫn nghiêm trọng hơn. Tôi đoán rằng chuỗi lịch sử kia đang bị vùi lấp rất sâu, nếu không đi khai quật nó thì bóng đêm chết chóc của “vụ án mưu sát 405” sẽ bao trùm mãi mãi!”.

“Anh đừng nên hù dọa nhau nữa! Nhưng, phải đến đâu để khai quật cái mà anh gọi là lịch sử ấy?”

Tốn nhún vai: “Tôi chỉ là một gã đần độn, xin chịu không thể thưa. Chỉ có thế dựa vào chính cô mà thôi!” Tốn bỗng đưa người ra phía trước, chỉ tay vào đầu: “Thực ra, tất cả đều là ở đây. Cô là người thông minh thì hãy nghĩ kỹ đi! Nếu cho rằng tự nghĩ không ra thì phải dựa vào ý chí, phải kiên nhẫn suy nghĩ không ngừng nghỉ!”.

Hinh bỗng nhớ đến thầy Chương Vân Côn: “Cái dáng chỉ tay vào đầu để nói của anh vừa rồi, rất giống thầy giáo trẻ dạy môn giải phẫu học. Chính thầy ấy đã nói: những chuyện quái dị của tôi đều từ cái đầu tôi mà ra!”.

Tốn ngả đầu trên cánh tay, nghiêng người tựa vào lưng ghế, nói: “Nếu cô còn không tin cả chính mình, thì tôi chỉ còn cách tặng cô hai chữ: tuyệt vọng!” Anh bỗng đứng lên, vươn người ra phía trước, đôi mắt sáng rực nhìn thẳng vào Hinh: “Sắp đến ga Vô Tích, ở đó có thắng cảnh Thái Hồ, chúng ta sẽ xuống tàu đi chơi một ngày, được không?”

Hinh nhìn đôi mắt Tạ Tốn đầy vẻ chân thành và nhiệt tình của tuổi trẻ. Lời mời tuy có phần bất ngờ, song cô dường có ý nhận lời. Nhưng cô lại nhớ đến lời dặn dò của cha lúc nằm trên giường đặt xác chết... Bây giờ chưa phải lúc vui chơi.

“Có lẽ không được. Lâu nay có nhiều chuyện kỳ lạ xảy ra với tôi, tôi thấy mình nên làm một cái gì đó - giống như lời anh vừa nói - đi khám phá bí mật “vụ án mưu sát 405” chẳng hạn, là điều mà tôi và Sảnh từ khi vào trường đến nay vẫn băn khoăn mà không tìm ra manh mối. Tôi vẫn nghĩ đến cuộc viếng thăm của cha tôi có lẽ là một điềm dự báo. Cho nên từ lúc này tôi phải gấp rút tìm ra lời giải, không thể để cho các nữ sinh vô tội phải lần lượt ra đi”.

“Cứu vớt chúng sinh, rất vinh quang vĩ đại đấy chứ!” Tốn nói đượm vẻ chế nhạo.

“Người phải chết rất có thể là tôi!”.


Chương 7
Chuyện ly kỳ



Ánh trăng, ánh trăng là gì?

Trong đầu Hinh vẫn thấp thoáng ẩn hiện cái từ ánh trăng này. Nó bắt đầu đến từ đâu, cô nhớ không rõ nữa, hình như từ trong giấc mơ, từ miệng cô gái áo trắng nói ra. Và rõ ràng là lại được thi thể cha cô nói đến.

“Lần đầu tiên mình nghe thấy, là cái đêm khi đang đi trong hành lang nhà giải phẫu cậu bị ngã, rồi nói ra cái từ này”. Sảnh nói lời an ủi với Hinh vừa có tang người cha, cô lại nghe nói Hinh muốn xuất phát từ hai chữ ánh trăng để đi tìm sự thật về “vụ án mưu sát 405”, Sảnh tiếc rằng mình không thể thoát thân, nhưng cô rất vui vì được làm một “tham mưu cao cấp”.

“Lúc đó dường như cậu lại quên ngay hai chữ này, mình định tiếp tục hỏi thì ông già gù đưa tay ra hiệu mình hãy im đi. Sau này mình hỏi lại, thì ông ta nói: Tôi sợ cô bạn cô sẽ nhớ mãi cái cảnh tôi cưa cắt tử thi dưới ánh trăng, nên mới muốn cô đừng khơi lại với cô ta làm gì, kẻo sẽ có tác động bất lợi cho tâm lý cô ta”. Sảnh vội giải thích ngay.

“Thì ra cậu đã bí mật đến gặp ông già gù ấy!” Hinh cầm cuốn giáo trình giải phẫu đập bốp lên đầu Sảnh.

“Cậu đã quên rằng ông ta đã gằn giọng cấm cậu đến nhà giải phẫu à? Muốn gặp ông ta, thì phải đến vào lúc nửa đêm. Vì thế mà mình còn bị ông ta quạt cho một trận rất ác, cậu không có mặt lần đó là quá may cho cậu rồi!”

“Thế thì lạ thật! Nếu nói là đêm hôm đó mình bị “ánh trăng” hù dọa, thì tại sao mình vẫn mơ hồ nhớ là cô gái áo trắng trong mơ cũng nói đến hai chữ này? Ngay trước mắt mình, cái tiêu bản cơ thể rất tuyệt kia đã tập hợp lại thành cô gái áo trắng. Liệu cô gái đó, ánh trăng, vụ mưu sát 405 và các chuyện ma ở khu nhà giải phẫu có liên quan gì với nhau không?” Càng nghĩ Hinh càng cảm nhận rằng bắt đầu từ ánh trăng là phương án duy nhất.

Sảnh nói: “Điều kỳ lạ là, nếu cô gái áo trắng là một hồn ma trong khu nhà giải phẫu thì cô ta không thể đến quấy nhiễu cậu trong mơ mới đúng, vậy thì cái bậu cửa cao chỉ là để trưng bày thôi sao?”

“Sảnh, con lại nói lung tung gì thế?”. Một phụ nữ trung niên ăn vận cầu kỳ bước vào phòng, đó là bà Lương Chỉ Quân, mẹ của Sảnh. Trông thấy Diệp Hinh, bà thôi cau mày cười nói: “Cháu Hinh đừng nên tin cái Sảnh nhà này nói vớ nói vẩn. Nó nói toàn những chuyện thần thánh ma quỷ hão huyền chứ chả chịu khó học hành gì cả! May nhờ có cháu ghi âm chép bài giúp cho, nếu không chắc chắn nó sẽ bị lưu ban!”

Sảnh không bỏ lỡ dịp, nói luôn: “Mẹ ơi, không nên để cho một cô gái tốt như Hinh cứ phải nơm nớp sợ hãi. Hinh đang băn khoăn về “vụ mưu sát 405”, mẹ có thể cung cấp thêm vài đầu mối được không?”

Bà Quân mặt hơi biến sắc: “Hinh ạ, cháu không được tiếp tục ở căn buồng đó nữa. Còn về đầu mối thì bác... có biết gì đâu!”. Rõ ràng là bà Quân chưa biết là Sảnh đã giấu bà việc chuyển chỗ ở, bà nghĩ ngợi... “Về chuyện gian ký túc xá ấy hay có người chết, mẹ cho rằng có chín phần chỉ là ngẫu nhiên. Các nữ sinh phải chịu áp lực học tập rất lớn, mà chưa biết cách giải toả. Mười lăm năm qua còn chưa thể giải thích nổi, hai cô băn khoăn vớ vẩn cũng có ích gì đâu! Thế này vậy, tối ngày 15 tháng 6, cháu Hinh hãy đến ngủ ở nhà bác. Bác sẽ dùng sợi dây xích to xích hai chị em trên giường, như thế đã đủ an toàn chưa?”. Hinh và Sảnh đều không nhịn được cùng cười phá lên. Lúc này Hinh mới được biết Sảnh đã được thừa hưởng những “gen tốt đẹp” từ ai.

Bà Quân vừa đi khỏi, Sảnh lại nói: “Nhưng “ánh trăng” là một từ rất quen thuộc, thì cậu bắt tay vào từ chỗ nào?”
Hinh thoáng suy nghĩ rồi nói: “Mình cho rằng ta cứ nhằm vào một việc cụ thể đã, cứ điều tra từ “vụ mưu sát 405”, nhưng lần này thì mình cần phải chuyên nghiệp hơn!”

Sảnh thừa dịp trêu luôn: “Nếu cần trợ thủ thì cậu cứ gọi anh chàng Kim Mao Sư Vương! Mình thấy anh ta luôn theo sát như thế, rất dễ sai bảo!”

Văn phòng của ông Lục Bỉnh Thành phó Bí thư Đảng uỷ Viện Y học Lâm sàng đặt ở tầng 15 của khu nhà được quyên tặng mới xây dựng; nhìn qua cửa sổ, có thể thấy Đại học Y Giang Kinh rợp bóng cây xanh um tùm, xa hơn nữa là trung tâm thành phố náo nhiệt sầm uất - thậm chí ngày càng xa hoa. Ông Thành rất thích khung cảnh nơi này, mỗi khi làm việc căng thẳng, phải suy nghĩ nhiều, ra đứng ngắm cảnh sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhõm và hưng phấn trở lại ngay.
“Em chào thầy Thành!”. Cửa vốn mở rộng, một nữ sinh đang gõ cửa cho “phải phép”. Là Phó bí thư Đảng uỷ chuyên trách công tác sinh viên, từ khi nhậm chức, ông Thành thực hiện chế độ “mở cửa làm việc”, bất cứ sinh viên nào, hễ có điều khúc mắc tư tưởng thì đều có thể đến thổ lộ với ông.

“Bạn Mẫn vào đây ngồi nào!” Ông nhận ra đó là Chu Mẫn - lớp trưởng lớp B khóa 93. Ông Thành pha trà mời cô rồi vào đề ngay: “Thầy Lý chủ nhiệm lớp đã nói chuyện với tôi về tình hình của em Diệp Hinh, hôm nay tôi hi vọng em có thể nói thật cụ thể, nhất là các diễn biến ít hôm gần đây”.

Mẫn hơi ngập ngừng, ông Thành hiểu ý bèn ra khép cửa lại. Lúc này cô mới nói: “Khoảng một tuần trước thi giữa học kỳ, chúng em bắt đầu thấy Hinh có một số biểu hiện khác lạ”. Mẫn lại ngập ngừng, ngước nhìn đôi mắt rất thẳng thắn chân thành của thầy, cô động viên mình tiếp tục nói. “Có một lần đang ở trong phòng thực nghiệm giải phẫu, Hinh quả quyết nói rằng đã nhìn thấy ở một căn phòng nhỏ có một tiêu bản cơ thể hoàn chỉnh, tinh xảo. Nhưng khi chúng em đến xem thì ở đó chỉ có một tử thi rữa nát. Lại có lần vào lúc nửa đêm Hinh ra khỏi ký túc xá, không rõ đi đâu rất lâu mới trở về. Có một đêm bạn ấy đứng ngay sát mép cửa sổ, hình như đang định nhảy xuống...”

“Sau đó thì sao?” Ông Thành bỗng ngắt lời. Một chuỗi các sự kiện đau lòng trước kia đang hiện lại trong óc ông.
“Lúc đó em không dám lên tiếng, vì em nghe nói người mộng du nếu bất ngờ nghe tiếng quát dừng lại, sẽ có những phản ứng bất thường. Cũng may bạn ấy đã nhìn xuống sân và bỗng nhiên tỉnh lại, rồi bò trở lại giường nằm ngủ. Và, khi ngủ bạn ấy thường hay kêu thét lên, hình như đang gặp cơn ác mộng vô cùng kinh hãi”.

“Bạn ấy rối loạn bất thường như thế, chắc kết quả học tập cũng bị ảnh hưởng chứ?”. Ông Thành trầm ngâm suy nghĩ.
“Nhưng rất lạ là không bị ảnh hưởng lắm. Mấy môn thi đều được điểm xuất sắc. Môn giải phẫu còn được điểm tối đa”.

“Nghe nói bạn Hinh là hạt nhân tích cực của hội sinh viên trường, rất có năng khiếu văn nghệ, là người dẫn chương trình có trình độ rất chuyên nghiệp, cách đây không lâu đã tổ chức thành công cuộc thi hát tự biên tự diễn của trường. Nếu để cho một sinh viên xuất sắc như thế bị sa sút thì quả là thật đáng tiếc!” Nhớ đến những nữ sinh viên đã chết một cách kỳ lạ trong hơn chục năm qua, ông Thành bỗng thở dài.

Chu Mẫn chợt nhớ đến một sự việc quan trọng: “Ngay buổi tối hôm bạn ấy tổ chức xong cuộc thi hát, bạn Hinh nói là cha mình đến thăm, hai cha con đã đi dạo với nhau. Nhưng sáng sớm hôm sau, nghe nói, thực ra cha bạn Hinh đã bị liệt não từ trước đó một tuần, đang nằm ở bệnh viện cách trường rất xa”.

Ông Thành cảm thấy sự việc nghiêm trọng hơn ông tưởng tượng rất nhiều: “Một bạn học như thế này, chúng ta cần phải quan tâm sát sao. Bạn ấy thường quan hệ với những ai trong trường ta?”

“Hinh có một cô bạn chí thân luôn gắn với nhau như hình với bóng, tên là Âu Dương Sảnh, cũng ở ngay trong ký túc xá, nhưng gần đây Sảnh bị viêm gan A cho nên Hinh thường chỉ có một mình, và... chúng em đoán rằng gần đây Hinh đã có bạn trai”.
Ông Thành định hỏi xem tại sao Chu Mẫn lại có thể “đoán ra”, nhưng ông đã nhiều năm làm công tác sinh viên, ông hiểu rằng các nữ sinh đều có “giác quan thứ sáu” đối với các chuyện lãng mạn, khó mà hỏi cho rõ “tại sao”, nếu có hỏi sẽ là vô duyên và lạc đề. Ông suy nghĩ một lát rồi ôn tồn nói: “Các bạn trong lớp - nhất là các bạn ở chung ký túc xá - xuất hiện tình trạng như thế, gánh nặng trên vai một lớp trưởng như em bỗng nhiên sẽ càng nặng, càng vất vả hơn. Tiếp theo đây, tôi mong em và các bạn có tư tưởng tiến bộ sẽ cùng chú ý quan sát mọi hành động và quan hệ của bạn Hinh. Nhưng tuyệt đối không trực tiếp can thiệp vào đời sống riêng tư, kẻo bạn ấy sẽ có phản cảm đối với sự nhiệt tình giúp đỡ của mọi người. Nếu thấy có hiện tượng bất thường, thì lập tức thông báo với thầy Lý hoặc trực tiếp tới gặp tôi. Cánh cửa phòng tôi luôn luôn rộng mở”.

Chu Mẫn gật đầu, xin phép ra về. Sắp rời khỏi phòng, cô lại hỏi: “Nếu tình hình ngày càng xấu đi thì nhà trường sẽ có biện pháp gì ạ?”

“Sẽ mời các chuyên gia khoa thần kinh hội chẩn, và nếu được phụ huynh đồng ý, thì đưa vào nằm viện tâm thần”. Ông Thành có phần không vui trước câu hỏi này của Mẫn, nhưng - ông đành nói ra cái kết quả đáng buồn này một cách khó nhọc.

Chu Mẫn chợt thấy người gai lạnh.

Phó phòng bảo vệ trường Vu Tự Dũng nhìn cô gái có vẻ bẽn lẽn đang đứng trước mặt, hình như ông nghe chưa rõ yêu cầu của cô: “Gì cơ? Cô cần xem cái gì?”

“Bác có thể cho cháu xem hồ sơ và các bản tường trình về “vụ án mưu sát 405” không? Cháu nói là... hồ sơ và báo cáo về các vụ án nhảy lầu tại phong 405 khu nhà 13. Cháu ở trạm phát thanh của trường ta, đang thực hiện một phỏng vấn vì muốn làm rõ sự thật về vụ việc mê tín vẫn đồn đại bấy lâu. Bác cũng biết rồi: ngày 16 tháng 6 lại sắp đến, thì nghi án này cũng trở thành tiêu điểm mà các sinh viên rất quan tâm”. Diệp Hinh khéo léo trình bày những lời mà cô đã chuẩn bị tỉ mỉ từ trước.

Ông Dũng cười nhạt: “Một nhân vật truyền kỳ của đội trinh sát hình sự công an thành phố là Đường Nhất Quân từng đặc trách điều tra vụ này, đã kết luận chỉ là tự sát do áp lực học tập quá căng thẳng, chứ không có điều bí hiểm gì khác! Tôi chưa rõ các cô định làm rõ sự thật nào nữa?”
“Nhưng, mọi sinh viên đều phải chịu áp lực hoc tập như nhau, thì tại sao riêng ký túc xá ấy gần như năm nào cũng có người nhảy lầu?”

“Ai nói là chỉ riêng ký túc xá ấy? Tôi có thể đưa ngay ra vài ví dụ! Chẳng hạn: năm 1987 phòng 610 khu nhà 5; năm 1989 phòng 48 khu nhà 11; năm ngoái, phòng 516 khu nhà 8 đều có sinh viên tự tử! Có người là vì áp lực trong học tập, có người là chuyện yêu đương. Chắc cô có thể hiểu: trường ta là đơn vị trọng điểm của Bộ Y tế, năm nào cũng có một lô sinh viên bị đào thải vì kết quả học tập không đạt, áp lực trong học tập luôn luôn rất căng!”

“Nhưng căn phòng ấy hiện đang có 6 nữ sinh ở, chúng ta cũng nên nghĩ đến sự an toàn của họ. Chắc bác cũng hiểu tâm trạng của họ lúc này ra sao”.

“Phòng bảo vệ sẽ nghĩ cách... Thực ra năm nào chúng tôi cũng bàn cách, nhưng không cần thiết phải tuyên truyền phô trương làm gì. Các cô ở trạm phát thanh lẽ nào không có các tư liệu lành mạnh sáng sủa để làm tiết mục! Sao cứ phải học theo các tờ báo lá cải bày vỉa hè truy tìm vu vơ các sự việc cũ rích mốc meo?” Ông Dũng là người rất từng trải, dư sức để đối phó với một cô sinh viên!

“Nhưng...”

“Thôi cô đừng làm phiền chúng tôi đang công tác nữa... Cô đang học lớp nào khoa nào? Cho tôi xem thẻ sinh viên!” Ông Dũng biết rõ cái chiêu này rất được việc.

Diệp Hinh tiu nghỉu bước ra khỏi phòng bảo vệ, bỗng nhìn thấy một nam giới trạc ngoài 30 tuổi đang đứng xa xa vẫy tay gọi cô, anh ta đồng thời nghoảnh nhìn các phía, có vẻ rất hoang mang. Hinh nghĩ bụng: anh ta định làm gì? Liệu có phải kẻ xấu chăng? Nhưng cô lại nghĩ đây là chốn cơ quan trưòng sở, lại kề bên phòng bảo vệ, ai dám làm càn, cho nên cô bước tới.
“Vừa nãy tôi đi qua cửa phòng bảo vệ, đúng lúc nghe thấy cô đang hỏi về chuyện “vụ án mưu sát 405”, vì sao vậy?” Anh ta vừa nói vừa nhớn nhác nhìn quanh, cứ như là làm một việc gì mờ ám.

“Tôi ở trạm phát thanh của trường, ngày 16 tháng 6 sắp đến gần, tôi muốn làm một chuyên đề, anh có tư liệu gì không?” Hinh vẫn ứng phó bằng nội dung theo lối công việc mà cô đã nghĩ sẵn.

“Xin lỗi, tôi không thể công bố”. Anh ta thở dài rồi quay đi.

Thật đáng ngán. Hinh bực bội bước đi. Lúc đi đến cầu thang, cô liếc nhìn thấy anh ta vẫn quanh quẩn ở chỗ cũ và nhìn theo cô. Cô chợt nảy ra một ý định, bèn rảo bước quay lại tiến sát anh ta và nói: “Anh ạ, chằng giấu gì anh, tôi đang ở căn phòng 405 khu nhà 13 cùng với năm cô gái nữa. Nếu chuyện vẫn đồn đại là có thật, thì vận đen có thể sẽ ập xuống đầu một người bất kỳ trong số chúng tôi. Mong rằng nếu anh biết một manh mối nào có thể giúp chúng tôi tránh nạn, thì hãy cho tôi biết!”
“Tránh nạn à?” Anh ta cười nhạt, rồi ra hiệu cho Hinh đi theo anh ta vào một căn phòng làm việc ở bên phải hành lang. Hinh ngẩng đầu nhìn thấy tấm biển treo: “phòng trực ban lái xe”.

“Cô nghĩ rằng nhà trường và phòng bảo vệ không hề để tâm đến việc này à? Từ sau khi gian phòng ấy liên tiếp xảy ra các vụ nhảy lầu, thì phòng bảo vệ đã tường trình lên sở công an, cứ đến ngày 15 tháng 6 đều phải quan tâm sắp đặt chu đáo cho sinh viên trong khu ký túc xá. Có một năm sở công an đã cử hai nữ chiến sĩ công an canh gác khu đó, tuy họ đã được nhắc nhở rất kỹ phải thức thâu đêm nhưng rồi họ vẫn ngủ mất! Hậu quả là lại có nữ sinh nhảy lầu. Lại có năm, phòng bảo vệ đã cho sơ tán toàn bộ người trong khu ký túc xá, thế mà - chẳng rõ ma xui quỷ khiến ra sao - vẫn có một cô mò về rồi nhảy lầu! Năm sau, lại cho sơ tán toàn bộ người đã đành, lại còn khóa cả cửa lại nữa. Cô thử đoán xem? Có một cô quay lại phòng 405, nhưng vì không vào được, cô ta bèn lần qua những cái sào phơi quần áo để bò về phòng 405, chờ đến sáng sớm ngày 16 tháng 6 rồi nhảy lầu! Đến năm tiếp theo, cho lưới sắt che các lan can, những tưởng thế là hết chuyện rồi - nhưng có một sinh viên chẳng rõ tha ở đâu về một khẩu súng điện gia nhiệt cao cấp, xì chảy lưới thép rất ngon lành, kết quả thế nào thì cô đã đoán ra! Tóm lại là những sinh viên nhảy lầu ấycứ như là bị ma ám, quyết chí tìm đến cái chết! Những năm gần đây nhà trường đã bốn lần cho đóng cửa gian phòng ấy, nhưng trong bốn năm đó vẫn có sinh viên tự tử, có điều, xảy ra ở khu ký túc xá khác mà thôi. Đại khái là tại bài vở trường ta đúng là quá nặng năm nào cũng có sinh viên không chịu nổi áp lực ấy. Cho nên nhà trường lại cho mở cửa lại gian phòng đó, chỉ khác là năm nào cũng bố trí sinh viên mới vào ở. Theo tôi, làm thế là rất không công bằng”. Phòng trực ban lái xe đang không có ai khác, anh ta nói liền một mạch, chắc đây là những điều bức xúc tích tụ trong lòng anh đã lâu, hôm nay mới có dịp trút ra.
Hinh ngây người ngồi nghe anh ta nói, một hồi lâu sau cô mới hỏi: “Xin anh cho biết quý danh được không ạ?”

“Tôi họ Bành, vì mới tham gia công tác, nên các anh ấy hay gọi tôi là Tiểu Bành.Tôi chỉ là một anh lái xe bình thường, chứ chẳng phải thám tử tư gì cả. Sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1982, cô sinh viên tên Hạ Tiểu Nhã đã chết vì nhảy từ phòng 405 xuống. Đêm 15 tôi trực ban. Tôi còn nhớ mình đã lái xe chở cô ấy từ bệnh viện tâm thần về trường, rồi xách hộ hành lý lên gác. Một cô gái ngây thơ xinh đẹp thế mà phải ra đi như vậy! Từ đấy tôi bắt đầu chú ý đến “vụ án mưu sát 405”. Ở gần kề phòng bảo vệ, và dựa vào các đồng nghiệp quen biết, tôi đã thu thập được không ít tư liệu, nhưng cũng chẳng biết bao giờ mới có dịp để dùng nó vào việc...” Tiểu Bành như vừa trở lại từ trong ký ức, vẻ mặt anh còn phảng phất nét thương cảm.

“Hạ Tiểu Nhã đã từng phải đi bệnh viện tâm thần à? Liệu có phải mỗi cô gái bỏ mạng ở phòng 405 đều có tiền sử bệnh tâm thần?” Hinh mong nhận được câu trả lời khẳng định, vì ít ra đến lúc này mọi người đang ở phòng đó vẫn rất khỏe mạnh.

“Không phải thế. Tuy nhiên, trong số 12 nữ sinh đã chết, có 5 cô từng đi nằm viện tâm thần - một tỷ lệ rất cao”.
Hinh chỉ cảm thấy càng biết nhiều thông tin càng mơ hồ.

Dường như Tiểu Bành hiểu rằng Hinh đang nghi hoặc, anh bèn mở khóa ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc lấy ra một cuốn sổ công tác, nhìn một lượt rồi nói: “Có thể nói rằng những cái chết của 12 nữ sinh là có quy luật, chắc cô sẽ chú ý điều này. Vụ thứ nhất vào năm 1977, nạn nhân là Du Tĩnh, quê ở Tô Châu tỉnh Giang Tô; người nhảy lầu năm 1978 là Tưởng Dục Hồng - bạn thân của Tĩnh - đã từng nằm viện tâm thần, vốn là người Thượng Hải, một thanh niên học sinh đi “thực tế” trở về. Năm 1979 phòng 405 đóng cửa. Người chết năm 1980 là Lý Thục Nham quê ở Dư Diêu tỉnh Chiết Giang, người chết năm 1982 là Hạ Tiểu Nhã, người thành phố Thường Châu tỉnh Giang Tô. Cô có nhìn ra điều gì chưa?”
Hinh thấy hơi nghẹn thở: “Họ đều đến từ miền Giang Nam”.

“Đúng thế! Cũng có thể là ngẫu nhiên, họ đều đến từ vùng Giang - Chiết. Cô nói tiếng phổ thông rất chuẩn, nghe biết ngay cô là người miền Bắc nên cô sẽ được an toàn. Cần phải quan tâm đến các cô cùng phòng đến từ vùng Giang - Chiết”.
Hinh không nói gì thêm, nhưng cô biết trong gian ký túc xá chỉ mình cô là đến từ Giang Nam.

Bành thấy tâm trạng của Hinh dường như là càng nặng nề, anh định nói... nhưng rồi lại đắn đo. Bành quan sát kỹ Hinh, Hinh có đôi mắt và cặp lông mày đẹp như tranh vẽ, toàn bộ khuôn mặt cân đối ưa nhìn, hình như thấp thoáng những nét của Tiểu Nhã năm xưa. Anh thấy hơi xa xót nhưng rồi cũng lại nói: “Còn một bí mật nữa tôi vẫn giữ kín từ lâu, tôi cho cô biết, mong rằng nó có thể giúp cô giải đáp điều bí ẩn này: thực ra, trong 12 nữ sinh đã nhảy lầu vẫn có một người sống sót”.

quan_calvin
01-12-2008, 06:05 PM
Chương 8
Phỏng vấn người chết



“Nếu sớm biết sẽ có chuyến đi này, thì ngay hồi trước khi rời khỏi nhà cô, cô nghe lời tôi xuống ga Vô Tích thì hay biết mấy!”. Tạ Tốn và Diệp Hinh sánh vai nhau đi ra khỏi nhà ga. Bầu trời đầy mây xám. Thời tiết cuối xuân ở Giang Nam thuờng vẫn thế này.

“Anh giúp tôi xem bản đồ đi, và làm ơn nói in ít thôi!”. Lần này về Giang Nam, Hinh gọi Tốn, Tốn đương nhiên chỉ mong được như thế.
Anh lái xe họ Bành đã cho Hinh biết 16 năm qua, trong 12 nữ sinh ở phòng 405 nhảy lầu, có cô Thẩm Vệ Thanh gặp nạn năm 1977 nhưng đã được cấp cứu kịp thời nên thoát chết. Có điều, sau khi phải cưa bỏ chân thì cuộc sống của Thanh gắn liền với chiếc xe lăn đặc chế, tinh thần cũng bị sốc nặng. Thanh đành bỏ học trở về nhà. Năm đó Bành lái xe đưa Thanh về nhà cha mẹ cô ở Nghi Hưng, anh có ghi lại địa chỉ của cô. Hinh nài nỉ, Bành do dự mãi rồi cũng cho cô biết. Hinh cho rằng mình sẽ có nhiều thu hoạch trong chuyến viếng thăm Thanh lần này, vì Bành cho biết Thanh cũng chính là một trong các nữ sinh từng phải nằm viện tâm thần.

Hinh và Tốn đi ô tô từ ga Vô Tích đến thị trấn Tân Ngụy huyện Nghi Hưng. Sau nhiều lần hỏi thăm, họ cũng đã đặt chân đến đường phố mà nhà họ Thẩm cư trú. Nhưng lạ thay, họ tìm khắp các phố phường mà không thấy số nhà cần tìm. Hinh hỏi thăm một bác gái mở tiệm tạp hóa, thì ra là khu này đã được cải tạo, nơi ở cũ của nhà họ Thẩm thuộc dãy nhà cấp 4, nay đã được bố trí ở nhà chung cư. Bác chủ hiệu chỉ khu nhà bảy tầng nằm chênh chếch phía trước thở dài: “Họ bị xếp ở tầng 6, may mà có thang máy, nếu không cô Thanh lên xuống sẽ rất bất tiện”.

Ra mở cửa phòng 601 là một cô gái trẻ nom rất thanh tú. Cô ngồi trên xe lăn, hai ống quần lép kẹp buông thõng xuống. Ánh mắt thoáng nét cảnh giác, cô nhìn hai người khách lạ. Khỏi cần nói, đây chắc chắn là Thẩm Vệ Thanh.
“Xin hỏi, chị là Thẩm Vệ Thanh phải không ạ?”. Thanh nhìn thẳng vào Hinh, khẽ gật đầu. Hinh nói tiếp: “Em là Diệp Hinh, sinh viên Đại học Y số 2 Giang Kinh”. Rõ ràng là Thanh thở gấp hơn, lạnh lùng hỏi: “Có việc gì không?” rồi im lặng, không tỏ ý mời hai người vào nhà. Hinh bỗng lúng túng không biết nên nói thế nào, ngần ngừ giây lát rồi nhìn Tạ Tốn. Tốn vẫn giữ cái vẻ ngồ ngộ như trước, thế thì anh ta đừng nói gì còn hơn!
“Em chưa biết nên nói thế nào cho phải... Em muốn biết về cảnh ngộ chị đã gặp phải ở đại học y Giang Kinh ngày trước, nhưng cũng rất lo sẽ gợi lại những hồi ức không vui... thậm chí đau khổ của chị”. Hinh đành gượng nói ra.

“Cô đừng lo, tôi đã không còn nhớ được gì nữa, nên sẽ không đau khổ, cũng như đôi chân này không còn nữa thì cũng mất hết cảm giác”. Thanh nói cứ như là đang đọc thuộc lòng, ánh mắt cô chuyển sang Tạ Tốn, và vẫn nhìn thẳng như vậy.
“Em cũng hiểu, năm xưa chị đã phải chịu nhiều nỗi khổ, không hề muốn nhắc lại chuyện cũ, nhưng... em và năm bạn nữ khác đang cần chị giúp đỡ... Chúng em đang ở phòng 405 nhà 13”. Hinh nói thẳng mục đích chuyến đi.

Thanh hơi run run, ánh mắt vẫn dừng lại trên khuôn mặt của Tạ Tốn. Một lát sau, chiếc xe lăn lùi lại: “Xin mời vào đây”.
Căn hộ đơn sơ nhưng ngăn nắp, chỉ hơi thiếu ánh sáng. Cửa mở từ phòng khách ra ban công đã được đóng chặt, ô cửa hai bên ban công thì nhỏ hơn so với các căn hộ bình thường khác. “Tôi biết chắc mọi người nhất định cho rằng tôi là người may mắn, các nữ sinh nhảy lầu, trước và sau tôi đều bị chết, chỉ mình tôi sống sót. Nhưng đôi khi còn sống chắc gì đã là may mắn hơn. Một người tàn tật như tôi khó mà tìm được việc làm chính thức, cha mẹ tôi sinh tôi rất muộn, nay cả hai người đã quá tuổi nghĩ hưu, nhưng vì nuôi tôi nên cả hai vẫn phải sớm đi tối về, đi làm ở xưởng gốm mỹ nghệ Tử Sa ngoài thị trấn. Ngoài ra, suốt mấy năm sau khi nghỉ học về nhà, tôi còn là khách thuờng xuyên của đủ loại bệnh viện, kể cả bệnh viện tâm thần. Tôi đã phải dùng không rõ bao nhiêu cân thuốc, đến nỗi cả hỏng cả thận, thế là lại càng phải dùng nhiều thuốc hơn nữa! Một ví dụ quá hay về vòng tuần hoàn ác tính, đúng không?” Vệ Thanh chậm rãi thổ lộ nỗi lòng: “Tôi mong rằng mình đã nói không quá dài dòng. Những điều này tôi đã muốn nói ra từ lâu, nhưng không dám nói với cha mẹ, tôi sợ sẽ làm họ đau lòng. Cả hai người đã quá vất vả rồi!”

“Cứ nói đi, chỉ cần chị thấy mình nhẹ nhõm hơn là được rồi”. Hinh thấy Vệ Thanh than thở không có gì là quá đáng cả. Hinh cũng thấy buồn thay cho chị.
“Cô đến đây vì muốn biết về điều gì?”
“Vào dịp cuối xuân đầu hạ năm ấy, cuộc sống của chị đã có điều gì khác thuờng không? Tại sao chị lại lựa chọn con đường tuyệt vọng như thế?”

Thanh thở dài, ngẩng đầu nhìn ra khoảng trời ngoài cửa sổ, vẫn một giọng chậm rãi: “Tôi thật sự không nhớ được nữa, nếu không, bên công an đã chẳng phải gác vụ án lại, mãi vẫn chưa phá nổi! Ngay tôi cũng tin ở kết luận của họ là áp lực trong học tập quá lớn. Kể ra thì, khi ở trường, đúng tôi rất coi trọng điểm số, rất muốn bứt phá. Hôm bị ngã, vì trên những sào tre bắc chĩa ra từ giữa cửa sổ tầng ba và tầng hai vẫn có chăn và quần áo phơi chưa cất, nên tôi bị vướng vào đó rồi mới ngã xuống sân. Thoát chết, nhưng tôi bị chấn thương sọ não rất nặng, vì thế đã quên nhiều chuyện cũ. Cho đến giờ tôi vẫn chưa bình phục, tôi cũng hay quên cả những việc vừa mới xảy ra hôm trước...”
Nghe Vệ Thanh phủ định tuyệt đối như thế, Hinh thấy hơi thất vọng nhưng cô vẫn mong nắm được cơ hội cuối cùng. “Chị có thể cho em biết, ánh trăng là gì không?”

Toàn thân Vệ Thanh rung mạnh, cô lùi mạnh chiếc xe lăn, đôi mắt lại nhìn thẳng vào Diệp Hinh: “Cô nói gì? Cô nói lại xem?”
“Ánh trăng, ánh trăng là gì?”

Im lặng hồi lâu, rồi khuôn mặt thanh tú của Vệ Thanh dần méo xệch, nước mắt tuôn trào. Cô ôm ngực, nhịp thở rất mạnh, đôi mắt lộ rõ vẻ kinh hoàng và tuyệt vọng. Diệp Hinh và Tạ Tốn nhìn nhau không biết mình nên nói gì, làm gì nữa.
Cuối cùng Thanh đã bình tĩnh trở lại, ánh mắt trở nên sắc lạnh, cô chỉ nhìn thoáng hai người rồi xoay bánh xe lăn, quay lưng lại với họ, nói giọng tẻ nhạt “Câu hỏi của cô thật là lạ, tôi không hiểu. Tôi mệt rồi, mong cô đừng làm phiền tôi nữa. Tôi xin lỗi, đã để cô phải tốn công đến đây. Thực ra cô nên chuẩn bị sẵn những tư tưởng rồi...”

Hinh không cam tâm nhưng nghĩ đến phản ứng vừa rồi của Vệ Thanh, Hinh cũng không thể tiếp tục hỏi thêm nữa, huống chi chủ nhà đã có ý “đuổi khách”... Hinh chờ đợi thêm nhưng thấy Thanh vẫn lặng yên nên cô đành nói: “Chúng em đã làm phiền chị. Cảm ơn chị đã thẳng thắn... nếu... nếu chị còn muốn nói chuyện với em, em xin để lại đây số điện thoại phòng thuờng trực ở ký túc xá, chị cứ gọi điện cho em, coi như chúng ta trò chuyện, muốn nói gì cũng được”
Lúc hai người quay ra, Vệ Thanh vẫn thẫn thờ nhìn ra cửa sổ, chỉ lạnh lùng nói một câu: “Khép cửa hộ tôi”.
Hinh chán nản buồn rầu bước xuống sân. Tốn gắng cách nghĩ để cho Hinh phấn chấn lên, anh nói luôn: “Thôi nào, đừng ủ ê tiu nghỉu thế kia, ít ra là cũng đã gặp được người ta, đúng không? Tiếp theo nên làm gì? Chúng ta ra mua vài cái ấm pha trà gốm Tử Sa, hay đi thăm động Thiên Quyển, đến chơi Thái Hồ?”

Hinh bực minh nói: “Sao anh lại vô tâm đến thế nhỉ? Chuyến đi này mất công toi, sắp đến 16 tháng 6 rồi, mà anh vẫn còn tâm trí đi ngao du sơn thủy? Ngay sau đây còn phải ra ga lên tàu trở về Giang Kinh, làm gì còn thời gian nữa?”
Tốn nhếch mép cười, không mảy may có ý phản bác.Lúc này Hinh mới nhận ra rằng anh ta cố ý trêu ngươi để cho cô mắng, mắng để giải tỏa bức xúc. Cô lại thấy một cảm giác dịu ngọt. So với Vệ Thanh thì mình còn hạnh phúc hơn rất nhiều. Hinh trách anh chàng: “Hiếm thấy một gã chỉ mong được ăn mắng như anh!”
“Miễn là Hinh thấy vui thì dù tôi bị Hinh đá bay xuống Thái Hồ cũng chẳng có vấn đề gì!”
Hinh tủm tỉm cười, khiến đôi mắt Tốn vụt sáng lên như mặt trời vừa lách qua đám mây, nhưng trông anh chàng hơi đờ đẫn.
“Thôi nào! Đang đi trên phố đấy!” Thấy Tốn nhìn mình như thế, Hinh phát cáu, bèn đẩy cho anh chàng một cái.
Cả hai đang cười đùa, bỗng nghe có người gọi từ xa: “Diệp Hinh! Có điện thoại!”

Sao ở đây lại có người gọi điện thoại cho mình? Hinh chột dạ nhìn theo hướng có tiếng gọi: chính là bác chủ hiệu tạp hóa.
Trước cửa hàng của bác đúng là có dịch vụ điện thoại công cộng.

“Diệp Hinh phải không? Tôi Thẩm Vệ Thanh đây!”. Giọng Thanh gấp gáp. Khác hẳn cô gái ngồi xe lăn nói năng từ tốn lúc nãy.
“Sao thế?” Hinh thấy máu trong người như bắt đầu chảy nhanh, Vệ Thanh vội vã gọi mình, chắc là vì có chuyện quan trọng cần nói.
“Về vấn đề của cô lúc nãy...”
“Được! Em sẽ lên nhà chị ngay!”
“Không cần! Cứ nói qua điện thoại là được rồi! Bởi vì... tôi có cảm giác...”. Hơi thở của Vệ Thanh vừa gấp vừa nặng nhọc.
“Cảm giác gì?”
“Đừng hỏi nữa! Chính là câu hỏi của cô, ánh trăng...”. Thanh nói càng gấp hơn,
“Sao thế?” Bàn tay Hinh cầm ống nghe run run, cô chợt linh cảm về một chuyện chẳng lành...
“Hồ sơ... Nguyệt Quang xã...” (ND: Nguyệt Quang = ánh trăng; xã - một tổ chức, ví dụ Thông tấn xã). Tiếng của Vệ Thanh bỗng nhiên đứt đoạn, tiếp theo là một tiếng rên bị ngẹt. Hinh thầm nghĩ “nguy rồi”, tai cô áp chặt vào ống nghe, chỉ thấy các tạp âm hỗn loạn.
Hinh quẳng ống nghe xuống, chạy như bay về hướng nhà cao tầng, vừa chạy vừa gọi: “Vệ Thanh!”
Một tiếng kêu thảm thiết xé tan cảnh yên tĩnh lúc giữa trưa. Tốn chạy vụt lên theo Hinh, anh bỗng kéo giật Hinh, giọng run run: “Nhìn kìa!”. Hinh nhìn theo hướng đó. Một cảnh tượng mà nhiều đêm về sau này nó lại hiện lên trong cơn ác mộng của cô: một cô gái đang rơi từ tầng cao xuống đất, hai tay huơ huơ trên không trung, một tiếng thét xé lòng. Chính là Thẩm Vệ Thanh.

Lại một tiếng khóc thất thanh từ phía sau lưng cô, đó là bác chủ hiệu tạp hóa.
Nước mắt Hinh tuôn trào, lòng đau như cắt. Nhưng cô chỉ chững lại giây lát rồi lại chạy như bay. Qua những âm thanh trong điện thoại, thì không thể là Thanh tự sát, chắc chắn có kẻ đã hãm hại.
Lúc Hinh chạy đến khu nhà thì đã thấy một đám đông vây quang. Hinh không thể chờ thang máy nên cô chạy lên cầu thang, nhưng cầu thang cũng đông người, phần lớn là phụ nữ và người già đang tràn xuống. Chật vật mãi mới lên được đến tầng 6, thì thấy cửa phòng 601 đang khép chặt, hệt như lúc cô và Tốn ra khỏi phòng. Hinh hơi do dự nhưng rồi vẫn vặn tay nắm mở cửa ra. Phía trước rất sáng, thì ra cửa trước ra ban công đã mở toang, chiếc xe lăn trống không trơ trọi dừng ở ngay ban công. Người Hinh bỗng nhũn ra, hai chân từ từ khuỵ xuống, cô gục đầu khóc nức nở.
“Trước đây cô và Thẩm Vệ Thanh có quen biết nhau không?” Hinh lắc đầu.
“Cô từ Gianh Kinh xa lắc đến tận đây tìm Vệ Thanh có việc gì hệ trọng?”. Anh Cố đội trưởng công an hình sự của sở công an biết Hinh là ngưòi cuối cùng gặp Vệ Thanh, nên anh đích thân điều tra việc này.
“Tôi là phóng viên của trạm phát thanh đại học Y số 2 Giang Kinh, hiện đang thực hiện một chuyên đề. Thẩm Vệ Thanh là sinh viên của trường, là nhân vật có liên quan đến chuyên đề này”. Đôi mất Hinh đỏ sưng tấy nhưng cô tư duy vẫn rất mạch lạc.

“Cô có thể nói cụ thể hơn không?” Thấy Hinh đã khóc đến nỗi như vậy, anh Cố cũng không nỡ nói gay gắt với cô.
“Trường chúng tôi có một gian ký túc xá hầu như mỗi năm lại có một nữ sinh nhảy lầu tự tự. Trong hơn chục năm qua, chỉ có Vệ Thanh là người may mắn sống sót. Anh xem lẽ nào cô ấy không đáng để tôi phỏng vấn hay sao?”
Đội trưởng Cố nghĩ bụng: cô gái này chỉ thích hỏi phản vấn. Anh nghiêm giọng: “Tại sao sau khi thấy Vệ Thanh chết, cô lại chạy lên gác phá hủy hiện trường?”

“Lúc nghe điện thoại tôi thấy có nhiều âm thanh hỗn loạn, đoán chắc phải có kẻ mưu sát Vệ Thanh, nên tôi hi vọng sẽ bắt gặp hung thủ - dù chỉ nhìn thấy bóng của hắn thôi cũng được - để cung cấp đầu mối cho các anh”.
“Nhưng lúc đó khu nhà rất hỗn loạn, mọi người đều đổ xô xuống, thì cô đâu có thể biết kẻ nào là hung thủ? Lên đến nơi rồi, cô đã nhìn thấy điều gì?”
“Đúng là tôi không phát hiện thấy điều gì cả, chỉ thấy cửa ngoài vẫn đóng, nhưng không khóa, đúng y như khi chúng tôi rời khỏi đó”.
“Cô đã đi cùng với ai?”
“Một bạn nam cùng học, tên là Tạ Tốn”.
“Lúc Vệ Thanh rơi xuống thì anh ta đang ở đâu?” Đôi lông mày dài của anh hơi nhíu lại.
“Đứng ngay cạnh tôi, sau đó tôi chạy lên gác, tôi chẳng rõ anh ấy chạy đi đâu. Trước đó anh ấy luôn đi cạnh tôi”.
“Anh ấy là bạn trai của cô à?”
Hinh bỗng không biết trả lời ra sao, đành nói: “Kể cũng khó nói... Coi như là bạn thôi! Xin hỏi, điều này có liên quan đến vụ việc hay sao?”
“Cho rằng có liên quan hay không, là do ý cô hay là ý chúng tôi?” Anh Cố đã có dịp để vặn lại. “Lúc này chúng tôi chưa thể hỏi anh ta, nhưng nếu cô gặp thì hãy nhắn anh ta rằng, nếu cần thiết, chúng tôi sẽ đến trường gặp anh ta nói chuyện”.
“Có thể châm chước cho tôi hỏi một câu, điều tra hiện trường, kết quả sơ bộ là thế nào không? Bị giết hay là tự tử?” Câu hỏi của Hinh làm anh Cố thấy hơi bất ngờ.
“Còn chưa thể kết luận...” Anh nhìn vẻ mặt có phần tiều tuỵ của Hinh, rốt cuộc anh vẫn dịu giọng: “Bước đầu nhận định là tự sát, ở hiện trường chúng tôi không thấy dấu vết vật lộn chống trả, cũng không thấy dấu vân tay hay dấu chân khả nghi nào cả”.
“Không thể như vậy”. Hinh khăng khăng. “Vì đúng là tôi đã nghe thấy qua điện thoại một loạt tiếng động...”
“Đây mới là điều tôi cần hỏi: phút cuối cùng cô Thanh có nói với cô những gì?”
“Anh đã chạy đi đâu thế?”. Hinh ra khỏi cơ quan công an gặp ngay Tạ Tốn.
“Mình Hinh vào nói là đủ rồi, tôi chẳng biết về vụ việc này nhiều hơn cô, tội gì phải vào để người ta thẩm vấn, có vui vẻ gì cho cam!”
Hinh thấy buồn bực: “Loay hoay thế này, chúng ta đã nhỡ tàu rồi, đành đợi chuyến sau chạy qua đây, có lẽ phải đợi đến khuya”.
“Cho nên Hinh gọi tôi đi cùng là rất sáng suốt. Ngồi chờ tàu sẽ rất lâu, chúng ta cũng có thể trò chuyện...”
Hinh đâu còn bụng dạ nào nói chuyện với anh ta, cô ngao ngán thậm chí chẳng muốn quay về trường nữa, cô lầm lũi bước đi. Thấy vậy, Tốn cũng không nói gì nữa, lặng lẽ bước theo.
Tạm ăn quấy quá vài thứ, rồi Hinh ngồi trên ghế trong phòng đợi của ga tàu, cô ngủ gật. Vừa chợp mắt, bỗng thấy ánh mắt lành lạnh của Thẩm Vệ Thanh, tiếp theo là cảnh tượng Thanh bị rơi xuống đất, và khuôn mặt dập nát - Hinh không thể nhìn thi thể của Thanh nhưng khuôn mặt dập nát ấy vẫn hiện lên trong óc cô. Hình như đúng là Vệ Thanh, nhưng lại giống cô gái áo trắng vẫn thấy trong giấc mơ.
Sau hơn một tháng nữa, khuôn mặt ấy sẽ thuộc về ai?
Hinh bỗng thấy nghẹt thở, ngực cô như bị đè nén bởi một khối chì nặng, dạ dày cuộn lên, rồi “oẹ” một tiếng, nôn thốc nôn tháo cả đám thức ăn vừa ăn hồi nãy.
Hinh mở mắt nhìn cái đám ghê sợ ấy ở trước mắt, nhớ đến khuôn mặt rách nát bươm trong giấc mơ. Cô lấy khăn giấy bịt miệng, khóc không thành tiếng.
Tốn cảm thấy lúng túng, anh đặt tay lên vai Hinh nói: “Không sao, chỉ là bị nôn. Xung quanh dù sao cũng chẳng có ai, Hinh đừng khóc...”.
“Chính vì tôi đến nên Vệ Thanh mới bị chết. Người duy nhất may mắn sống sót trong “vụ án mưu sát 405” không còn nữa, là tại tôi”. Hinh bỗng thấy mình rất trơ trọi, cảm giác thật sự sợ hãi tràn đến với cô từng đợt, từng đợt như những con mãnh thú vốn ẩn náu trong đêm bỗng chốc có thể xông ra nuốt chửng cô. Cô dựa đầu vào cánh tay Tốn, khóc nấc lên.
“Đừng nói những lời ngốc nghếch thế nữa. Đã trót xảy ra bi kịch ấy, thì Hinh càng nên tận dụng cái đầu mối hiếm hoi mới có được, tức là “hồ sơ Nguyệt Quang xã”, tiếp tục điều tra cái lịch sử kỳ lạ này. Nếu có thể tìm ra sự thật để đánh dấu chấm hết cho “vụ án mưu sát 405”, đề phòng bi kịch lại xảy ra sau này, thì việc làm của cô chẳng phải là rất có ý nghĩa hay sao?”
“Nhưng tôi cảm thấy hình như bóng đen của sự chết chóc rất nặng nề, khó mà thoát được. Vệ Thanh là một ví dụ quá rõ ràng đấy thôi!”
“Hinh hãy tin ở chính mình, tin rằng sau khi mình đã gắng hết sức thì sẽ có được những điều hoàn toàn mới mẻ. Bi quan vào lúc này sẽ chỉ là hủy hoại chính mình mà thôi”.
Hinh bỗng thấy Tốn chẳng hề trẻ con như những biểu hiện bề ngoài mọi ngày, nét mặt cô giãn ra, thôi không khóc nữa, nói nhỏ nhẹ: “Anh nói mấy câu này mới gọi là nghe được, rất giống cách nói của mẹ tôi”. Lúc này Hinh mới chợt nhận ra rằng mình đang ngả người áp vào Tốn, cô chợt đỏ mặt.
“Có phải Hinh muốn nghe nói những câu không ra gì không? Đừng tưởng là tôi không nói ra được nhé!” Tốn lại trở lại cái giọng cũ.
“Hãy nghiêm chỉnh một chút đi! Tôi rất sợ, thật đấy!” Hinh lại gục đầu vào ngực Tốn.
“Sợ gì! Tôi còn chưa nói cho mà biết: đến hôm đó tôi sẽ ôm chặt Hinh như thế này này, không cho Hinh quay về phòng 405 thế là ổn!” Tốn ghì chặt, Hinh muốn cưỡng lại nhưng cô bỗng thấy mình không còn chút sức lực nào, hoặc có lẽ là cô vốn không muốn cưỡng lại.
“Nếu tôi bị ma ám, trong lúc rồ dại sức lực sẽ mạnh phi thường, tôi sẽ giãy thoát khỏi anh, sẽ cắn tay anh, rồi xông vào phòng 405, nhao ra cửa sổ...” Hinh thấy mình hơi có vẻ “gần mực thì đen” - vì Tốn cũng như Sảnh đều hay nói nhăng nói cuội, nay cô cũng chẳng khác gì họ!
“Tôi sẽ đuổi theo, và lại ôm chặt lấy Hinh!”
“Sức mạnh tôi vô biên, cứ quyết nhảy xuống thì anh sẽ làm gì?”
“Thế thì tôi sẽ nhảy cùng với Hinh!”
“Đừng nói bừa nữa đi!”
Im lặng rất lâu, hai người vẫn cứ ngồi yên như thế, không nói, không nhúc nhích. Vào lúc này Hinh cuối cùng đã học được cách không nghĩ ngợi gì nữa, chỉ thản nhiên phó mặc thời gian lặng lẽ trôi đi. Bên ngoài phòng dành cho khách chờ tàu, thỉnh thoảng thấy có tàu dừng bánh rồi lại đi, mọi việc vẫn tuần tự diễn ra. Hành khách rảo bước, lên tàu xuống tàu, vẫn đâu ra đấy, tất cả vẫn yên bình thì sự ấm áp dường như giảm xuống ngưỡng tối thiểu.
Có điều, Hinh chẳng thể hưởng thụ lâu sự yên ổn này. Cô mơ hồ cảm thấy ngoài kia cách cô không xa có vô số những điều chưa biết đang lạnh lùng nhìn cô.
“Sao anh im tiếng thế? Hãy kể về mẹ anh đi? Anh nói là mình chưa từng gặp mẹ bao giờ...?”
Tốn hỏi: “Hinh không lo nghe tôi kể thì sẽ khó chịu à?”
“Không nói thì thôi vậy!” Hinh cố ý nhoai người ra để ngồi thẳng dậy.
Tốn càng ghì chặt hơn: “Tôi đã nói rồi mà: cô tuyệt đối đừng nên chối từ!” Hinh không nói nữa,ngước nhìn đôi mắt Tốn đầm ấm nồng nàn khát vọng vô biên, suýt nữa thì cô đã ừ với anh.
“Thực ra tôi nào có quyền gì để đòi hỏi Hinh!” Tốn thở dài “Chuyện của tôi rất đơn giản: sinh tôi ra ít lâu, mẹ tôi đã bỏ đi, và không bao giờ trở lại nữa”. Rõ ràng Tốn cố ý nói quấy quá cho qua chuyện.
“Nhưng anh vẫn có được những điều kiện rất tốt, trong đám sinh viên chúng ta, mấy ai được học đàn pi-a-nô!”
Biết Tốn vẫn cố sức lảng tránh đề tài này, Hinh bèn lái câu chuyện sang hướng khác.
“Điều kiện tốt, không có nghĩa là vui sướng. Và, nhắc đến để làm gì đây? Dù sao tôi cũng đã sống đến giờ, lại được ôm trong lòng cô gái mà tôi thích, tôi còn cầu mong gì nữa đây?”
“Tôi thấy anh vẫn cứ trơ trẽn vậy thôi! Chớ quên nhắc đến là còn có một người bạn từ thời thơ ấu cực kỳ thân thiết! Tôi thấy anh rất hạnh phúc thì có! Anh ấy tên gì vậy?”
“Lệ Chí Dương. Đó là cô chưa nhìn thấy lúc bọn tôi choảng nhau...”
“Vợ chồng còn có lúc to tiếng nữa là! Có đánh có mắng, mới là thương yêu thật!” Trong nửa năm qua, Hinh và Sảnh luôn là đối tượng để các bạn trêu trọc, lúc này Hinh vận dụng cái điều mình ngán ngẩm ấy sang Tốn, cô không hề thấy áy náy chút nào.
“Có lẽ vì cảnh gia đình như thế, nên tôi từ nhỏ đã hay đa sầu đa cảm. May mà đã quen Chí Dương, cùng chơi với nhau cùng trưởng thành, nên cuộc sống cũng phong phú đa dạng lên nhiều. Rồi lại cùng thi đỗ vào một trường đại học, vào học cùng một lớp. Phải nói là trăm năm khó gặp được người bạn như thế!”

“Có lẽ hai anh chẳng những có tình cảm mà còn có duyên phận... Tuy cùng là hai chàng trai trẻ - nói thế này thì cũng có phần kỳ cục - nhưng thực tế chẳng phải thế là gì?” Hinh tấm tắc khen ngợi, cô trở nên nghiêm chỉnh.
“Chẳng thể nói đến hai chữ duyên phận. Ví dụ, nếu hai người cùng cố gắng học tập, cùng thi đỗ một trường đại học, thì đã gọi là rất ly kỳ hay sao? Chưa chắc đâu! Huống chi có khi vì đã thân nhau đến một mức nào đó, thì tình cảm lại trở thành một gánh nặng”. Tốn lại thở dài.

Nghe Tốn nói thế Hinh chợt nảy ra một ý, cô lập tức ngồi thẳng người, thản nhiên nói: “Anh nói đúng, có mới nới cũ là bản tính của con người. Cho nên lúc đầu nên giữ một khoảng cách mới phải!” Cô đồng thời thầm trách mình đã nghĩ nhầm về người ta.

Tốn nhận ra rằng Hinh đã có một suy luận lô-gích, anh nhất thời chẳng biết nói sao nữa, đành im lặng. Cho đến lúc thấy Hinh hai quầng mắt lại đỏ hoe, anh mới nói: “Nhưng với em thì khác, anh... anh thật lòng yêu em!”


Chương 9
Ánh trăng, ánh trăng là gì?



Hàng ngày đến làm việc, Lục Bỉnh Thành thường đi cầu thang lên tận tầng 15 chứ không đi thang máy. Ông có ý muốn rèn luyện thể lực. Tuy đã gần năm mươi nhưng năm nào ông cũng dự thi rèn luyện thân thể, ông là quán quân chạy đường trường của cán bộ viên chức tuổi trung niên trong giáo giới.

Từ xa ông đã nhìn thấy một nữ sinh đang đứng đợi ông ở cửa phòng làm việc, đó là Chu Mẫn. Trông vẻ lo âu của cô, ông biết ngay là có chuyện không hay. Ông rảo bước đến nơi bảo Chu Mẫn vào phòng.

“Em phải thưa với thầy Thành một việc này: Diệp Hinh đi biệt tăm hai hôm, chiều qua mới về. Chúng em hỏi đi đâu, thì Hinh nhất quyết không nói. Em định sớm đến báo cáo với thầy, nhưng lại nghe nói thầy đang đi công tác ở Nam Kinh”.
Ông Thành gật đầu: “Đúng thế. Mấy hôm trước tôi và thầy Nghê hiệu trưởng đi Nam Kinh dự hội nghị của Bộ Y Tế về vấn đề cải tiến giáo trình trường Y. Nhưng tôi cũng đã biết việc này, thầy Lý chủ nhiệm lớp các em nghe em báo cáo xong, đã gọi điện đến Nam Kinh báo ngay cho tôi biết. Sự việc khá nghiêm trọng, nên tôi đành bỏ dở hội nghị quay về để giải quyết. Em hãy nói cụ thể đi!”

Mẫn rất cảm kích đón lấy tách trà thầy Thành bưng cho cô, cô ngồi xuống ghế sô pha dành để tiếp khách: “Chuyện là thế này ạ, buổi sang cách đây ba hôm, Hinh đến phòng bảo vệ của trường, và chiều hôm đó chúng em thấy Hinh chuẩn bị balô hành lý, rồi vội vã rời ký túc xá. Em bèn đi theo. Ra khỏi cổng trường, Hinh lên tắc xi đi luôn. Bí quá em cũng gọi tắc xi bám theo, đi đến tận ga tàu hỏa. Em thấy Hinh xếp hang mua vé đi tuyến Thượng Hải - Hàng Châu, đoán rằng bạn ấy đi về nhà. Em định đến can ngăn nhưng lại nhớ đến lời thầy dặn “chớ nên đánh động”; em định lên tàu bám theo, nhưng lại e sẽ rất bất nhã. Sau khi thấy Hinh lên tàu rồi, em vội trở về báo cáo với thầy Lý”

Bỉnh Thành cảm kích nhìn Chu Mẫn: “Em là một cán bộ lớp tốt, biết quan tâm đến các bạn, đã hỗ trợ rất nhiều cho công tác giáo viên của chúng tôi. Tôi nhờ thầy Lý liên lạc với mẹ của Hinh, và biết rằng bạn ấy không về nhà. Tôi gọi điện hỏi phòng bảo vệ, họ nói đúng là hôm nọ bạn Hinh có vào gặp họ, muốn hỏi các sự việc về “vụ án mưu sát 405” nhưng họ không tiếp. Tối qua phòng bảo vệ còn gọi điện báo cáo tôi rằng phòng trinh sát hình sự công an huyện Nghi Hưng đã gọi điện đến trường, còn nói là không rõ vì nguyên nhân gì, họ đã tiếp xúc với Diệp Hinh!”

Mẫn hết sức kinh ngạc, trầm trồ rất chân thành: “Hiệu suất công tác của thầy thật kỳ diệu! Thầy nắm vững sự việc từng chi tiết ở xa ngàn dặm!”

Vẻ mặt thầy Thành thoáng nét ưu tư: “Thì còn cách nào khác? Bao năm nay phụ trách công tác sinh viên, hằng năm cứ đến dịp này tôi lại thấp thỏm không yên. Tuy nói “vụ án mưu sát 405” không phải là vụ mưu sát thật sự, và tất nhiên không ly kỳ như vẫn đồn đại, nhưng tôi đã chứng kiến vài cô sinh viên có vấn đề tâm thần đã chọn cách ra đi như thế lòng tôi không thể không trĩu nặng. Mấy năm gần đây, hễ chớm thấy một vài dấu hiệu nảy sinh, tôi đều gắng tìm cách phòng ngừa tai họa. Nhưng các giáo viên chúng tôi đâu phải thần thông quảng đại ba đầu sáu tay gì cho cam! Chúng tôi rất cần sự hợp tác của các nòng cốt sinh viên như các em!”

“Giúp đỡ bạn cũng là bổn phận của chúng em ạ”.
Bỉnh Thành chợt nhớ đến một chi tiết: “Hôm nọ em thấy Diệp Hinh đi một mình hay là đi với ai?”
“Đi một mình ạ!”
“Em nhìn đúng thế chứ?”
“Em có thể khẳng định là chỉ có một mình Hinh xuống tắc xi rồi vào mua vé tàu, qua cửa soát vé. Nhưng có ai chờ gặp Hinh ở sân ga không thì em không rõ!”
“Tôi nhớ lần trước bạn Mẫn nói: các bạn nghĩ hình như bạn Hinh đang yêu đương. Có biết anh bạn kia là ai không?”. Ông Thành tin rằng sau ngần ấy hôm, chắc Chu Mẫn đã biết nhiều thông tin hơn.
“Không biết ạ! Có điều, chiều qua sau khi trở về, thấy bạn Hinh tỏ ra rất uể oải, buồn bã âu sầu. Chúng em lại đoán là bạn Hinh thất tình!”. Mẫn cảm thấy câu trả lời của cô đúng là chẳng đâu vào đâu: còn chưa “đoán” được người yêu của bạn là ai, mà đã đoán rằng “thất tình”! Chi tiết này rõ ràng là vô giá trị.

“Thế thì lạ thật. Công an Nghi Xuân nói rằng còn có một cậu thanh niên đi cùng Diệp Hinh, cậu ta đang học ở trường này. Chúng tôi sẽ điều tra cho rõ”.

Chu Mẫn rất muốn biết anh chàng kia là ai, cô muốn hỏi nhưng lại nghĩ: rõ ràng là thầy Thành không có ý định nói cho cô biết, nên cô kìm lại không hỏi nữa.

Dọc đường trở về trường. Hinh nghĩ đến câu Tốn nói là “gánh nặng tình cảm”, cô muốn thôi quan hệ với Tốn nên cô chẳng thiết nghĩ đến anh ta nữa, đồng thời cũng lấy làm may mắn vì mình vẫn chưa “sa đà” vào quá sâu. Nhưng khi về đến trường, thấy Tốn im lìm chia tay với cô, thì chỉ sau vài tiếng đồng hồ cô lại thấy nhớ nhung mãnh liệt.

Mới có mấy hôm mà mình đã khó tự chủ đến thế này ư?

Thì ra, những tính cách bỗ bã bất kham, gàn dở, cũng như tài hoa của Tốn đã “đóng cọc” trong trái tim Hinh; nếu không có một cuộc “đại chiến” thì e rằng chẳng thể xua đuổi được.

Mình hãy từ từ mà quên đi vậy, nhưng mỗi khi lên lớp học chung lại vẫn cứ phải gặp mặt.

Khi Chu Mẫn và Trần Hy hỏi Hinh, ánh mắt của hai cô còn sắc hơn ánh mắt của đội trưởng trinh sát hình sự huyện Nghi Hưng. Hinh thản nhiên nhìn lại, ngầm tỏ ý bất hợp tác. Thầy Lý chủ nhiệm lớp cũng hỏi cô vừa qua đi đâu, cô đành nói là nhớ nhà nên về thăm....

Hinh thầm nhắc nhở mình phải bình tĩnh, khéo lựa mà ứng phó cho qua chuyện, để còn chuẩn bị cho các hành động tiếp theo.

Tức là phải tra cho được bí mật về “hồ sơ Nguyệt Quang xã”. Nhưng nên điều tra thế nào đây? Lúc ngồi trên tàu hỏa Hinh đã ngẫm nghĩ, cũng muốn bàn bạc vớii Tạ Tốn. Nhưng lúc đó cô đang bực anh ta, nên chính cô cũng chưa nghĩ ra, và tất nhiên chưa bàn bạc gì.

Tạ Tốn, anh đang ở đâu? Anh hãy đến giúp tôi với!

Nhưng, sang thứ hai tuần sau mới là buổi học tập trung, thậm chí cho đến nay cô vẫn chưa biết Tốn đang ở khu ký túc xá nào. Mà dù biết rồi, thì chẳng lẽ mình lại tự đến tìm gặp hay sao?

Thì giờ thì gấp, không cho phép Hinh nghĩ nhiều. Cô bèn đi gặp hội trưởng hội nhiếp ảnh Du Thư Lượng.

Lượng miễn cưỡng đi theo Hinh đến phòng quản lý hồ sơ của nhà trường, nằm trên tầng ba của khu nhà được quyên tặng mới xây dựng. Một bà tuổi trung niên là cán bộ ở đây, thấy khách là hai sinh viên, bà ngỡ ngàng, vì bao năm nay hiếm khi thấy cánh trẻ tự đến để tra hồ sơ. Hồ sơ sinh viên thuờng do văn phòng của từng phân viện quản lý, phòng này chủ yếu lưu trữ các văn bản có ý nghĩa lịch sử trong 70 năm kể từ khi thành lập trường. Các học sinh bình thường không được mượn đọc những hồ sơ này, các sinh viên còn đang học tại trường muốn đọc, cần xin các cán bộ phụ trách khoa, phòng ban các phân viên xem xét cụ thể và phê chuẩn.

“Hai anh chị muốn tìm hồ sơ gì? Sao phải mang theo máy ảnh nữa?” Vị nữ cán bộ hỏi có ý dè chừng.

“Chúng cháu muốn xem hồ sơ của phòng hồ sơ này. Nói thế có phần khó hiểu phải không ạ? Chuyện là thế này: trạm phát thanh chúng cháu muốn thực hiện một chuyên đề về phòng hồ sơ của trường. Các bác là những cán bộ cần cù thầm lặng làm việc, là những vị anh hùng không công khai xuất hiện, chúng cháu muốn đông đảo sinh viên có một nhận thức mới đối với công việc của các bác”. Hinh nói dõng dạc đường hoàng, còn Lượng thì khe khẽ lắc đầu, anh nghĩ, chỉ qua những câu nói nhăng nhít này, đủ thấy cô bạn đồng hương trông thanh tú trong sáng của anh có thể dư sức xông pha vào xã hội phức tạp.

Quả nhiên bác ta bớt cảnh giác ngay: “Các cô cậu đã nghĩ về chúng tôi như thế, thực quả hiếm thấy. Hai cô cậu định phỏng vấn như thế nào?”

“Trước tiên phiền bác giới thiệu cho chúng cháu biết về phòng hồ sơ của trường”. Hinh nói cứ như là thật.
“Để tôi nghĩ xem nên bắt đầu nói từ đâu. Phòng này được thành lập từ năm 1952, đã có lịch sử lâu đời. Hiện nay các vụ thấy nó chật chội như thế này, ngay cái cửa sổ cho thoáng khí cũng không có... bởi vì... chắc các vị cũng hiểu: phòng hồ sơ đâu phải đơn vị quan trọng như các đơn vị giảng dạy, nghiên cứu, các phòng ban hành chính, cho nên không được coi trọng cho lắm”. Rõ ràng bác ta có không ít bức xúc nhân dịp này bèn xả ra.

“Đúng thế, cháu cũng thấy lạ: một gian nhà bé thế này thì lưu trữ được mấy năm hồ sơ?”

“Tôi biết ngay là cô sẽ hỏi câu này! Các hồ sơ bình thường, ví dụ hồ sơ về cán bộ giảng viên và sinh viên đang học, đều do các phân viện và các khoa lưu trữ. Hồ sơ về sinh viên đã ra trường, cán bộ nghỉ hưu, do phòng quản lý học sinh và phòng tổ chức lưu trữ. Nếu không, toàn bộ hồ sơ sinh viên giảng viên bao nhiêu năm trời đều dồn về một nơi thì phải chất cao đến trần nhà!”

“Thế thì những tư liệu và hồ sơ thuộc loại nào do phòng lưu trữ bảo quản ạ?”

Bác cán bộ nói có vẻ tự hào: “Nói chung là tất cả các tư liệu quan trọng! Phòng này lưu trữ những tư liệu có ý nghĩa lịch sử và có giá trị tham khảo của bảy chục năm qua. Ví dụ, phòng lịch sử nhà trường, muốn viết bộ sử mới, thì trước hết cần hỏi ai? Rõ ràng là phải đến phòng chúng tôi trước! Kho tư liệu ở đây chưa dám nói là mênh mông vô tận nhưng nếu nói là tinh túy hàng đầu thì không ngoa chút nào!”

“Nói vậy tức là tư liệu phòng này lưu trữ rất phong phú, nhưng cháu vẫn không tin rằng căn phòng này có thể chứa nổi chúng!” Hinh bắt đầu tiến sâu vào vấn đề chính.

“Đương nhiên là không chứa nổi. Nơi này chỉ chứa một số rất ít những tư liệu mà người ta hay mượn đọc nhất, tuyệt đại đa số hồ sơ hiện nay vẫn chất đống trong tầng hầm của tòa nhà số 3 khu hành chính cũ, thật là gian khổ. Suốt ngày tối om, nhất là vào mùa đông - trời chưa sáng tôi đã phải đến làm, tối mịt mới tan tầm, cả ngày không trông thấy ánh mặt trời”. Bác lại đưa mắt nhìn chiếc máy ảnh mà Du Thư Lượng đang đeo: “Tôi còn nhớ các chú sinh viên ở hội nhiếp ảnh hồi ấy chưa tìm được buồng tối, nhà trường bèn bố trí cho họ chen vào chỗ chúng tôi để in tráng. Tầng hầm vốn đã thiếu không khí, có thêm họ vào, không khí càng nồng nặc chết khiếp!”

Lượng thấy bác ta cau mày, rõ ràng là vì nhớ lại cái cảnh không mấy tốt đẹp ngày xưa, anh vội nói: “Đó là các đàn anh “khai quốc công thần” của hội nhiếp ảnh chúng cháu hồi đó đã làm, nay đến lượt bọn cháu đã là chưởng môn đời thứ chín, chưa từng tham dự lối đánh du kích của họ!”

Hinh cười : “Thời kỳ lịch sử ấy thật là thú vị! Bác có thể dẫn chúng cháu đến tham quan cái tầng hầm ấy được không ạ? Chắc chắn nó sẽ là trọng điểm trong tiết mục của chúng cháu!”

Bác ta cũng cười : “Được, tôi sẽ làm hướng dẫn viên du lịch cho hai người!”

Khu nhà hành chính cũ nằm sát khu nhà giảng dạy y học cơ sở, đối xứng với hai tòa nhà giải phẫu và ghép phôi, xây gạch đỏ lốm đốm, là một trong những kiến trúc kiểu cũ của trường. Từ khi các phòng ban hành chính chuyển về khu nhà được quyên tặng mới xây, thì nơi này bỗng trở nên vắng tanh. Ngoài một vài đơn vị hậu cần vẫn còn ở lại chỗ cũ, thì các phòng khách đều tạm đóng cửa bỏ không, chờ để cho kinh tế ba đến thuê, hoặc là sẽ bị các bộ môn giảng dạy nghiên cứu của phân viện Y học cơ sở luôn luôn thiếu phòng thí nghiệm đến chiếm chỗ. Nói chung là khu này đã trở nên tẻ ngắt rất nhiều. Bác cán bộ dẫn hai sinh viên hiếu kỳ đi qua một quãng hành lang hơi tối, mở một cánh cửa xấu xí, bật đèn rồi bước xuống từng bậc. Đèn trên đầu hắt xuống còn tối hơn cả đèn hành lang trên kia, Hinh gần như phải dò dẫm từng bước một mới không bị ngã. Xuống hết cầu thang, phải đi chừng mươi mét trong bong tối nữa mới lờ mờ nhìn thấy hai cánh cửa lớn đang đóng im ỉm. Bác cán bộ lần tìm khắp người, rồi lấy ra một chum chìa khóa, nhìn mãi dưới ánh sang yếu ớt mới nhận ra chiếc chìa khóa đồng khá dài, rồi mở cửa.

Hinh bất giác hỏi: “Tại sao phòng hồ sơ lại đặt ở một nơi âm u thế này ạ?”

Bác ta thoáng nghĩ ngợi rồi đành nói: “Tôi chỉ muốn nói thế này - các cô cậu đừng nên đưa vào nội dung tiết mục. Tôi cho rằng, nói cho cùng, vẫn là vấn đề “không coi trọng”! Hiện nay các nơi đều gắng khai thách dịch vụ thu lợi, phòng hồ sơ chỉ là các đống giấy tờ cũ, không có đất để tổ chức dịch vụ gì. Nhà trường thì ưu ái kinh tế ba, chúng tôi đương nhiên rất muốn có phòng làm việc khang trang hơn nhưng kêu trời, trời không thấu, gọi đất, đất không hay!”

Phía trong cửa tối đen như mực, bác cán bộ bật đèn tầng hầm. Bên trong là hai hàng giá sách, có khoảng hai chục giá sách lớn, tư liệu sách vở chen nhau san sát, chất cao gần sát trần nhà. Nếu muốn tìm kiếm một thứ gì đó mà không có người hướng dẫn, thì chẳng khách nào mò kim đáy bể!

Hinh than vãn: “Lắm thứ thế này, muốn tìm cái gì đó thì gay lắm đây”

Bác ta nói : “Với người lạ thì đúng là khó, nhưng chúng tôi đã thuộc làu cách phân loại hồ sơ, thì sẽ tìm rất dễ, miễn là hồ sơ không xếp nhầm chỗ”.

“Các hồ sơ đựơc phân lọai theo trật tự gì ạ? Theo ABC hay theo số nét chữ Hán ạ?” Hinh đang rất muốn biết về hồ sơ “Nguyệt Quang xã”.

Bác cán bộ nghe viết ngay Hinh là dân “ngoại đạo”, bèn cười nói: “Việc phân loại và chỉ dẫn các thư mục cần có chuyên môn sâu, chúng tôi vốn đều học chuyên ngành hồ sơ học. Nói một cách đơn giản là, phòng chúng tôi áp dụng cách phân loại truyền thống trước kia: dựa vào niên đại và chuyên đề để phân loại. Ví dụ, trước hết xếp theo năm 91, 90... v.v... sau đó chia nhóm Đảng - chính quyền, dạy và học, nghiên cứu, đối ngọai, các trường bạn. v.v.... Đồng thời cũng có thể tra cứu theo nhiều cách, ví dụ tra theo thứ tự ABC và số nét chữ Hán. Chúng tôi đã rất tốn công sức để soạn phần giới thiệu chỉ dẫn, dám tin chắc là đã toàn diện rồi!”. Bà chỉ vào cuốn sổ dày cộp trên chiếc bàn nhỏ kê sát cửa: “Đó là phần chỉ dẫn, mỗi năm đều cải tiến một lần”.

Du Thư Lượng nghe có phần ngán ngẩm, anh chợt ngáp dài, Hinh vội lừ mắt ra hiệu anh phải nên phấn chấn lên.
“Nào là phân loại, nào là chỉ dẫn... ngán ơi là ngán! Em định tra cứu tài liệu gì thì hỏi luôn bà ấy là xong, bà ấy quá mong có người trò chuyện!” Lượng trách móc.

“Anh không thấy bác ấy nói à: muốn xem thứ gì, thì phải được trường phê duyệt đã! Em đang muốn xem một thứ có màu sắc cá nhân, thì đời nào nhà trường lại đồng ý!” Hinh nhận thấy mình đã đi vào ngõ cụt.


Chương 9
Ánh trăng, ánh trăng là gì? (tt)



“Định xem thứ gì? Thôi vậy, đã gọi là cá nhân, thì tôi có hỏi cũng vô ích thôi!”

Hinh thấy Lượng định nói gì đó nhưng lại thôi, cô nảy ra một ý: “Tất nhiên có thể nói với anh: vẫn là chuyện cũ liên quan đến “vụ mưu sát 405”; chắc anh cũng đã nghe nói ít nhiều? Em đang ở phòng 405, em không không lo sao được? Cho nên em muốn xem các tư liệu cũ, ít ra cũng có thể trang bị cho mình một chút tri thức. Có điều gì thì anh đừng nên giấu em”.

Lượng “à” lên một tiếng kinh ngạc nhìn Hinh một hồi rồi nói: “Tôi nói, mong em đừng giận: gần đây tôi nghe người ta nhắc đến em, nói rằng em có vẻ bí hiểm, kỳ cục... thì ra là vì chuyện này. Chuyện về “vụ mưu sát 405” đúng là hơi lạ lùng, nhưng em đừng nên cứ như người mất hồn vì nó, để rồi lại làm những việc quá trớn! Chưa biết chừng, trong số người chết đã có người như thế - tức là mắc chứng bệnh bức xúc cực đoan, cứ quyết dựa theo lịch sử hoặc tự nghĩ ra để thiết kế một kịch bản dẫn mình đến cái chết. Theo tôi thì Hemingway và tấn bi kịch hồi trước ở thành phố Ketchum đều có nhân tố đó. Em nên biết con người ta nếu quá đắm đuối theo một cách suy nghĩ thì hành vi sẽ tiến tới chỗ cực đoan”.

Hinh thấy hơi chột dạ, vì Lượng nói rất có lý. Trong 12 người nhảy lầu, ít nhất có 5 người đã từng đi viện tâm thần, liệu có phải lịch sử và những lời đồn đại đã gây nên hiệu ứng ám thị đối với những người chết này không? Cách thôi miên mà các bác sĩ tâm thần vẫn dùng, cũng là một loại hiệu ứng ám thị đấy thôi! Có phải chính mình đang sa vào chuyện này? Nhưng cô lại nghĩ, chính mình đã chứng kiến các hiện tượng kỳ dị lúc người cha qua đời và cái chết bột phát của Thẩm Vệ Thanh, thì mình sao có thể không có cảm giác về một mối nguy chứ.

“Anh nói rất có lý! Có phải gần đây anh đã lên lớp học môn bệnh học tâm thần không?”
Hinh rất cảm kích về sự thẳng thắn và quan tâm của Lượng.
Lượng đã có phần yên tâm, gật đầu nói: “Đúng, cứ cách một tuần tôi lại đến bệnh viện tâm thần kiến tập một lần, thấy mình được hiểu biết hơn, nhưng cũng thấy rất đáng buồn. Ta nên biết rằng, với các bệnh thông thường thì phòng bệnh là chính, chú ý giữ vệ sinh, tập luyện, chế độ dinh dưỡng, không thuốc lá rượu chè... nhưng đôi khi vẫn không lại được. Còn đối với bệnh tâm thần thì có khả năng phòng bệnh nhất, nhưng người ta lại dễ lơ là, có lẽ là bởi vì cần phải lưu tâm. Người bình thường, nhất là những người như tôi, lại rất kém nhẫn nại lưu tâm”.

“Hình như anh bỗng chín chắn lên rất nhiều, có phải anh đã “kết” một chị nào rồi phải không ạ?” Hinh suy đoán một cách hợp lý.
“Làm gì có chuyện đó.... Em đã nói lạc đề rồi. Vì em là người rất tinh tường, tôi sẽ đưa em đến phòng nhiếp ảnh của bọn tôi, cho em xem một thứ vô cùng quan trọng”.

Mặc kệ Hinh nài nỉ khai thác, Lượng vẫn không nói trước đó là thứ gì mà quan trọng đến thế. Về đến phòng làm việc của hội nhiếp ảnh, Lượng chúi đầu vào tủ sắt đựng tài liệu lục tìm một hồi lâu, rồi kêu lên: “Đây rồi!”. Anh quay ra tay cầm một chiếc chìa khóa dài ngoẵng bằng đồng: “Trông quen quen, đúng không?”
Hinh reo lên một tiếng. Chiếc chìa khóa này giống hệt chiếc chìa khóa của bác cán bộ quản lý hồ sơ đã dùng để mở cửa tầng hầm.

“Em còn nhớ bác ấy nói rằng trước kia hội nhiếp ảnh đã từng dung nơi đó làm buồng tối không? Tôi mới nhớ ra rằng, khi bàn giao công việc, anh hội trưởng tiền nhiệm đã đưa cho tôi một chùm chìa khóa, trong đó có một chiếc rất cũ kỹ - anh ta cũng không rõ có thể dùng vào đâu. Khi bác cán bộ kia nhắc lại chuyện cũ thì tôi liên tưởng ngay đến nó: chắc chắn các vị nguyên lão ấy đã từng có một chiếc chìa khóa để mở phòng hồ sơ, nhưng về sau đã có căn cứ địa riêng, họ đã quên không trả chìa khóa, bèn coi như “cổ vật” để làm kỉ niệm”. Khi nói đến chỗ đắc ý nhất, Lượng vẫn giữ cái dáng vẻ cũ!
Hinh thò tay cầm, nhưng Lượng rụt ngay lại khiến Hinh chưng hửng.

“Khoan đã nào! Tôi có thể đưa cho, nhưng em phải hứa với tôi một điều”. Thấy Hinh tỏ ý hơi bực, Lượng bèn ngừng lời. Anh nhìn chiếc chìa khóa vàng xỉn, lại nhớ đến lúc nãy mình nhấn mạnh là “phải lưu tâm....” Lượng nghiêm nét mặt: “Hinh ạ, chúng ta là đồng hương, lâu nay anh vẫn coi Hinh như cô em gái, cho nên hôm nay anh trịnh trọng nhắc nhở em: nếu tìm ra cái hồ sơ ấy, đọc xong, em cũng khỏi cần lo lắng gì, và đừng đắm chìm trong cái chuỗi lịch sử kia nữa. Hãy thoát hẳn ra khỏi nó! Có người nói gian nhà các em đang ở có ma, lẽ nào Hinh đã nhìn thấy thật ư? Chẳng rõ người khác - kể cả cô Âu Dương Sảnh vẫn được rao lên là “có duyên với ma quỷ” - có nhìn thấy thật không?. Hinh nhất thiết không được giả định mình là một “nạn nhân” tương lai, để rồi đi sắm cái vai ấy!”

Câu nói sau cùng của Lượng như một luồng điện cao thế phóng vào Diệp Hinh lâu nay nhớn nhác chạy quẩn quanh một cách vô định, tinh thần bất ổn. Có lẽ mình hãy nên lắng xuống, để suy nghĩ ngiêm chỉnh xem, có phải mình đã vô tình sắp đặt một cái thòng lọng cho mình không?

Thấy Hinh ngớ ra như đã tỉnh ngộ, Lượng thấy nhẹ nhõm: “Có lẽ là tôi nói hơi căng, Hinh thấy không mấy dễ chịu. Vậy thì, tôi sẽ giữ chìa khóa này, Hinh hãy suy nghĩ cho kỹ, bao giờ cần nó, tôi sẽ đưa!”

“Cứ đưa cho em ngay bây giờ!”. Hinh nói rất rắn rỏi, khiến Lượng thấy lòng mình nặng trĩu.

Đôi mắt Hinh mở to. Thế là đã đợi đến lúc ánh đèn của chiếc đồng hồ điện tử báo thức chớp chớp ánh sáng xanh, tức là đã 12h đêm. Hôm nay sau khi ăn xong bữa tối, Hinh cảm thấy Chu Mẫn và Trần Hy luôn có ý tiếp cận cô, cả hai luôn có mặt ở ký túc xá, ở phòng tự học, kể cả khu vệ sinh... khiến cô không thể đi đến phòng hồ sơ. Phòng ký túc xá lúc này rất tĩnh mịch, có thể nghe rõ tiếng thở đều đều của từng cô gái đang say giấc nồng.

Hinh mang theo đèn pin và máy ảnh, nhẹ nhàng xuống giường rồi ra khỏi phòng. Cô đứng trong bong tối chỗ đầu giường cầu thang một lúc, biết rõ không có ai bám theo, rồi mới xuống cầu thang. Đến chỗ ngoặt cầu thang giữa tầng một và tầng hai, Hinh bò ra ngoài cửa sổ.

Một mình đi trong sân trường vắng lặng, bóng tối vây quanh, Hinh không thể nén lòng mình nghĩ đến Tạ Tốn: anh ta thật hẹp hòi, hoặc, anh ta nghĩ mình là cô gái hẹp hòi. Cứ ngỡ anh chàng rất có nghị lực, thế mà mới chỉ vấp nhẹ sao đã hạ cờ thu quân? Được thôi, mình sẽ đi đến phòng hồ sơ giữa đêm khuya, cũng là một dịp để rèn luyện lòng can đảm.

Tuy nghĩ thế, nhưng chỉ riêng lúc đi qua hành lang khá dài của khu nhà hành chính cũ. Hinh đã thấy rờn rợn. Tuy nó không tối om như khu nhà giải phẫu, còn có lác đác vài vị nghiên cứu sinh đang miệt mài làm thí nghiệm, nhưng những tiếng động bất chợt phát ra vẫn khiến Hinh giật thót tim.

Lúc bước xuống cầu thang, đèn treo trên đầu dường như vĩnh viễn lờ mờ. Nhất là khi gió lùa thốc qua hành lang thì cánh cửa nhỏ phía sau lưng mơ ra hành lang lại cót két khe khẽ khiến Hinh nghĩ rằng chuyến đi này của mình có lẽ đã quá sai lầm.
Nhưng rồi cũng đã đến trước cửa phòng hồ sơ. Tay cầm chiếc chìa khóa bằng đồng, Hinh nhẩm thề rằng, lỡ mà chìa khóa này không mở được cửa thì cô sẽ nghe lời Lượng - không hoài công để ý đến “vụ án mưu sát 405” nữa.
Nhưng đến sang sớm 16 tháng 6 thì sao? Hay là sẽ để Tạ Tốn ôm chặt lấy mình?

Hinh cũng không hiểu sao mình lại nảy ra ý nghĩ này. Mặt cô chợt nóng bừng.
Tạ Tốn chết tiệt giờ này đang ở đâu nhỉ?

Hinh bình tĩnh trở lại, tay run run, từ từ tra chiếc chìa khóa dài ngoẵng vào ổ khóa. Rồi xịch một tiếng, hai cánh cửa phòng hồ sơ mở ra.

Tim Hinh bỗng đập nhanh: có lẽ đêm nay sẽ biết rõ sự thật về “vụ án mưu sát 405”.
Dưới ánh đèn pin yếu ớt. Hinh nhanh tay lật tìm cuốn sổ chỉ dẫn dày cộp. Tra theo ABC và số nét chữ Hán, đều không thấy từ ngữ nào liên quan đến “405”, hoặc “tự sát”, “nhảy lầu”...
Nguyệt Quang, Nguyệt Quang là gì?

Mắt Hinh sáng lên khi nhìn thấy ba chữ “Nguyệt Quang xã” trong sổ chỉ dẫn. Điều khiến cô ngạc nhiên là từ năm 1956 đến năm 1967 đều có cái từ “Nguyệt Quang xã”; và tất nhiên tất cả đều xếp vào nhóm “vụ án”. Cô chợt nghĩ: nếu đã xếp như thế này, có lẽ nó liên quan đến các chuyện quái dị ở phòng 405 cũng nên. Nhưng nghe nói “vụ án mưu sát 405” xảy ra sớm nhất cũng phải là năm 1977, cách xa ghi chép cuối cùng về “Nguyệt Quang xã” mười năm! Liệu hai điều này có mối liên hệ gì không? Hinh ghi lại vị trí hồ sơ “Nguyệt Quang xã” 1956 trên giá sách, rồi lật tìm bắt đầu từ nó. Tìm vã mồ hôi trong đám hồ sơ “vụ án” năm đó mới thấy một kẹp văn bản có tiêu đề

“Nguyệt Quang xã”, nhưng Hinh lại đờ người ra. Kẹp văn bản ấy còn dày hơn vài quyển bách khoa toàn thư, rất vất vả cô mới lôi được nó ra khỏi giá sách, cô soi đèn pin lật giở, thấy toàn là những cuốn sổ công tác, bên trong ghi đặc kín chứ viết bằng bút máy. Chẳng muốn mất bao lâu nếu muốn đọc hết chúng! Hinh chợt nảy ra một ý: chi bằng hãy đọc luôn hồ sơ năm 1967, vì nó là những ghi chép cuối cùng về “vụ án”, chắc chắn phải có phần kết luận hoặc là tổng kết... hiệu quả sẽ hơn hẳn đọc lần lượt ngần ấy năm ngần ấy tư liệu tạp nham kia. Cô tra lại sổ chỉ dẫn, tìm vị trí lưu trữ hồ sơ “Nguyệt Quang xã” năm 1967. Nào ngờ tìm đến vị trí đó trên giá sách thì không thấy kẹp văn bản ấy đâu. Đang cuống lên để tìm, cô bỗng bị vướng chân - cúi đầu nhìn, thì ra là một cái ghế đẩu dùng để đứng tìm.

Trừ phi đã có người vào đây lục tìm hồ sơ? Hinh tạm biết vậy đã, cô lia đèn khắp nơi và từ từ di chuyển trong căn phòng. Đi đến chỗ trong cùng, ánh đèn dừng trên chiếc bàn dài dung cho người đến đọc hồ sơ, trên bàn có một kẹp văn bản khá dày. Bước đến xem, thấy ngoài bìa viết rành rành “Nguyệt Quang xã”, ghi rõ năm 1967. Phải chăng gần đây đã có người đọc những văn bản này? Người này có thể là ai? Tay Hinh cầm đèn pin hơi run run, cô nghĩ ngay đến cái chết của Thẩm Vệ Thanh. Cảm giác bất ổn ám ảnh cô mấy hôm nay càng thêm nặng nề, hình như có một bóng đêm luôn bám theo cô, rất quỉ quyệt bí hiểm, hình như nó luôn hành động trước cô một bước, hoặc là nó đang ngăn cản cô thăm dò... Hay là, bóng đen chính là cái chết.

Ý nghĩ này chợt đến thì Hinh nghe thấy một tiếng động nhẹ, cô sợ hãi ngoảnh lại, trong bóng tối chỉ thóang thấy một cái bóng lướt trên giá sách. Hinh run run hỏi : “Ai đấy?”

Không có tiếng trả lời. Cô chĩa đèn pin vào các giá sách phía đó, vẫn chỉ là các giá sách. Như quên hết mọi sợ hãi, cô săm săm bước đến soi đèn thật kỹ, vẫn không thấy ai. Chắc mình đã thần hồ nát thần tính đó thôi! Cô lại thở sâu thở đều, xua tan cảm giác sợ hãi ập đến cô như song thủy triều, quay trở lại bàn chăm chú nhìn tập hồ sơ này.

Bên trong tập hồ sơ có rất nhiều loại văn bản, chắc chắn không thể nào đọc hết trong đêm nay. Hay là ôm về từ từ đọc vậy?
Nhưng lỡ bị lộ thì nhà trường sẽ thi hành kỷ luật nặng. Cô vội lội máy ảnh ra nhưng nhớ rằng phim chỉ còn chừng hơn hai chục kiểu, và cả cuốn fim sơ cua thì cũng chỉ được thêm 36 kiểu nữa thôi, mà số văn bản này có đến vài trăm trang, vậy thì những trang nào mới là quan trọng? Vả lại, chụp ở nơi này buộc phải dung đến đèn flash, và pin của đèn flash khó mà đủ sức để chụp cho hết mấy chục bức ảnh! Ta hãy chọn lọc rồi chụp một số trang quan trọng đã, để đem về nghiên cứu.

Nghĩ như vậy nên Hinh cúi xuống nghiên cứu tỉ mỉ các trang giấy đã mở ra trước mặt, trên cùng là vài trang viết bằng bút máy trên giấy viết thư, mép trên đóng dấu “Hội đồng cách mạng học viện y khoa số 2 Giang Kinh”; phía dưới: dòng thứ nhất viết khá ngay ngắn “Báo cáo nội bộ về tình hình họat động gần đây của Nguyệt Quang xã”; nhưng phần nội dung chính thì viết theo thể Hành thư rối rít mù vì cần viết cho nhanh, cực kỳ khó đọc. Xét cái tiêu đề, có thể đóan rằng đây là một báo cáo mang tính tổng kết, chắc sẽ hữu ích lắm đây. Hinh chụp năm trang này để đem về nghiên cứu kỹ. Phần cuối bản thảo có ghi chú hai chữ “Tinh Hỏa” - chắc là tên người viết báo cáo. Sau mấy trang này, là một cuốn sổ trong rất chững chạc, xem kỹ, thấy nó là một cuốn nhật ký bìa cứng được bọc lụa, cầm vào thấy nó rất ưng ý. Hinh mở ra, tim cô như bị chao đi, rồi lại dâng lên cao.

Cô thấy giữa bìa và tờ giấy lót phần ruột có kẹp một mẩu giấy - chính là mẩu giấy ít hôm trước cô đã ghi số máy điện thọai - nhắn tin và đưa cho Thẩm Vệ Thanh. Hinh thấy rùng mình và ớn lạnh, lẽ nào hung thủ giết Thẩm Vệ Thanh - dù nó là người hay ma - đang bám theo mình?

Cô khẽ lẩm bẩm: rốt cuộc ngươi muốn gì? Tại sao ngươi không có gan ló mặt ra?

Rồi lại nghĩ: hay đây là linh hồn của Vệ Thanh - cũng tự đi báo tin như cha cô? Hinh nghĩ càng thấy khả năng thứ hai là lớn nhất, nhưng, rõ ràng lại là một giả thuyết quá hão huyền! Nhưng nếu giả thiết ấy là đúng thì cuốn nhật ký này chắc chắn phải chứa đựng những thông tin quan trọng. Nhưng khi lật vội vài trang, Hinh lại thấy chưng hửng, nó dày đến trên trăm trang, chữ viết vô cùng bay bướm, nhưng tựa như lối chữ Thảo tuôn nhanh như nước chảy mây vần, đọc được nó sẽ rất tốn công sức. Hinh nghĩ ngợi rồi cô bắt đầu chụp nó từ trang cuối trở lên, dự định đêm nay sẽ đọc một ít, số còn lại sẽ phóng to rồi đọc sau. Rất nhanh, cô đã chụp hết một cuốn phim; đang sẵn trong bóng tối, cô lấy phim ra luôn rồi cất vào túi quần bò. Cô lắp cuộn phim thứ hai, chụp được nửa cuốn thì có tín hiệu báo đèn flash hết điện. Hinh không chụp nữa, cô giở trang đầu cuốn nhật ký, bắt đầu đọc thật nhanh.

quan_calvin
01-12-2008, 06:07 PM
Chương 10
Bạn tri âm hiếm có

Ngày 23 tháng 1 năm 1967.
Trời âm u, tuyết rơi nhiều


Gần đây tôi bỗng nảy ra ý tưởng viết nhật ký. Tôi vốn tính rất lười biếng, nếu không quá chán chường chẳng có việc gì làm thì không đời nào lại cầm bút viết về mình, để rồi sau này đọc lại bỗng dưng sẽ được dịp chế nhạo mình. Cầm bút, đại khái là để chứng minh rằng tôi đã ngán ngẩm buồn chán: Y Y đã đi thực tập ở bệnh viện tiền tuyến, hai chúng tôi bị ép phải tách nhau ra, nàng không dám cưỡng lệnh nên ấm ức, bèn viện cớ xin phép về quê, đến trước Tết chưa chắc đã trở lại. Nghe nói, trò này là do “Máy Kéo” đã bày ra để kéo Y Y đến bên cạnh hắn, nhưng quyết định vẫn là do khoa đưa ra, tôi không có chứng cứ để đấu lý với hắn, muốn đánh nhau với hắn cũng không có cớ gì, huống chi đám lâu la của hắn lại đông, dù tôi và Kình Tùng cũng xông vào thì cũng chỉ là “anh dũng hy sinh” mà thôi! Kình Tùng cũng đã xa tôi, nhiệt tình cách mạng trào dâng, anh ấy đã xuống miền Tây Nam để liên kết hành động, suýt nữa đã kéo cả tôi đi theo.
Vậy là thế giới rộng lớn chỉ còn lại mình tôi. Người trong bệnh viện rất đông. Gần đây các phe phái Hồng vệ binh ở thành phố liên tục đọ sức nhau, giở đủ “thập bát binh khí”, lại nghe nói đã có phe phái dùng đến cả súng trường bán tự động! Thế là các bệnh viện bất đắc dĩ trở thành “quân y viện”. Có điều, phần lớn các bác sĩ giàu kinh nghiệm của bệnh viện đều đã bị “đánh đổ” hoặc bị gọi đi xét hỏi, bị đày đi nơi xa, cũng có người chết vì bị đấu tố cho nên khắp bệnh viện chỉ có các bác sĩ “cách mạng”, nhưng tay nghề thì tầm tầm làm chủ! Vì thiếu người cho nên các sinh viên thực tập biến thành lũ kiến thợ, trong tổ sinh viên thực tập chúng tôi, những ai không tham gia tạo phản đều đã liên tục chạy như chong chóng liền ba hôm, hôm nay rốt cuộc cũng đến lượt tôi được nghỉ một ngày. Tôi dành cả ngày hôm nay để nhớ về Y Y, rất buồn và muốn hút thuốc, nhưng vì gần đây đọc thấy một nghiên cứu căn bệnh thịnh hành ở Anh, nói hút thuốc liên quan trực tiếp đến bệnh ung thư phổi, tôi đã quyết định bỏ thuốc lá. Để giải buồn tôi mở máy quay đĩa xếp xó đã lâu, mở đĩa nhạc “khúc song tấu violon cung rê trưởng” của Bach, điệu nhạc vang lên, nỗi cô quạnh và buồn chán trong tôi dần vơi đi rất nhiều. Nhưng trong ký túc xá đâu phải chỉ có mình tôi mà còn có hai người tạo phản, cộng với một người nhút nhát hùa theo - họ không để cho tôi nghe cái thứ âm nhạc của giai cấp tư sản ấy. Sau khi cãi nhau một chập, tôi nghĩ sẽ rất mạo hiểm nếu mình cứ khăng khăng vào lúc này, nhưng cũng không muốn khuất phục, từ bỏ thứ âm nhạc mà tôi yêu thích, tôi bàn bê máy ra chỗ khác để nghe. Đi đâu bây giờ? Có thể đến lớp học, việc dạy và học đã thất thường khá dài thời gian nhưng vẫn có những người hiếu học, nếu tôi đến đó mở nhạc, thì khác nào làm cho những mầm mống rường cột tương lai của nước nhà - một số ít hiếm hoi còn sót lại - sẽ phải buồn phiền?
Tôi bỗng nhớ đến một chỗ rất phù hợp là khu nhà dạy học giải phẫu.
Mùa đông thuờng không bố trí giờ học giải phẫu, nên ở đây thường rất vắng sinh viên.
Đã vài lần đi qua khu nhà ấy, đều thấy bên trong trống vắng lạnh lẽo như lòng tôi lúc này. Tối đến, tôi ôm chiếc máy hát ra khỏi ký túc xá. Từ xẩm tối những bông tuyết nhỏ đã rơi nhè nhẹ, đến lúc này khắp đất trời là những vệt trắng như lông thiên nga. Sau tiết đại hàn, trời lạnh khác thường, một mùa đông như thế này, lẽ ra tôi và Y Y phải kề sát bên nhau, cùng ngồi trong quán nhỏ ở cổng trường ăn sủi cảo thịt dê nóng hôi hổi. Thế mà lúc này ánh đèn đường chỉ soi thấy một cái bóng lẻ loi. Cửa khu nhà giải phẫu tối đen, tôi vấp vào cái bậu cửa cao đến một thước, suýt ngã. Chẳng rõ ai đã ngớ ngẩn cho xây cái bậu cửa cao thế này trước khu nhà dạy học? Nghe nói mấy năm trước đã có một bể lớn chứa phọoc môn bị vỡ, phoọc môn tràn ra ngoài nhà làm ô nhiễm khắp trường, xây bậu cửa này, để phòng các dung dịch lại có thể tràn ra như vụ việc đó, ai mà biết được có đúng thế không! Lúc mở cửa, tôi thấy hơi ngài ngại, chắc vẫn là vì từng nghe nói ở đây có ma. Nhưng lại nghĩ việc gì mà phải sợ đến thế! Tôi đang quá cô đơn, dẫu gặp ma, thì mình sẽ có bạn, vậy thì có gì là không hay? Ít ra lũ ma ấy vẫn không phải là phái tạo phản, chúng sẽ không đấu tố các vị giáo sư.
Tôi đặt máy hát trong căn phòng nhỏ hướng tây, mở đĩa “khúc dạo mục ca sau buổi trưa” của Đê-buy-xi. Vì muốn duy trì đựơc tâm trạng, tôi không bật đèn, ngồi xuống và gác chân lên cái bàn thuờng dùng để đặt tử thi, tôi nhắm mắt thả hồn vào suối nhạc tuôn chảy. Lúc này tôi thấy rất hài lòng, người khác đang tạo phản, đang làm cái gọi là đại cách mạng văn hóa, bỗng dưng phải đổ máu vô ích, còn tôi đang được thư thái nghe nhạc giao hưởng, tôi chẳng nên ai oán gì nữa. Đương nhiên nếu có Y Y ở bên thì cuộc sống của tôi se ngọt ngào hơn. Nghĩ đến Y Y, tôi chợt nghe thấy một tiếng thở dài khe khẽ, rất giống tiếng của nàng. Tôi đứng bật dậy nhìn quanh, tất nhiên chẳng thấy gì ngoài bóng tối. Có lẽ vì quá khát khao nhớ đến nàng nên tôi đã có cảm giác sai nên không tiếp tục nghĩ ngợi nữa. Lại ngồi xuống chuyên tâm lắng nghe. Âm nhạc tỏa lan trong bóng đêm, tôi thật sự cảm thấy khoan khoai dễ chịu, nhưng bỗng có những tiếng buớc chân vọng đến, rất nhẹ, như sợ khuấy động đến tâm hồn tôi đang du ngoạn trong đêm, hay là bọn đấu sĩ cách mạng tạo phản?
Nếu họ thấy tôi ngồi đây hưởng thụ sự nhàn nhã kiểu giai cấp tư sản, thì học sẽ cho tôi được thọ giáo nhiều hơn nữa! Trường này chưa từng “đấu” sinh viên, nhưng nghe nói học viện công nghệ và học viện kiến trúc đã từng có sinh viên bị “đánh đổ” vì xuất thân không tốt. Lúc này tôi nên dừng máy hát ngay.
Tôi chưa kịp đứng dậy thì máy hát bỗng dừng lại, tim tôi dường như ngừng đập.
“Ai đấy?”
Trong bóng tối tôi không nhìn thấy bóng ai cũng không có ai đáp lời tôi.
Nhưng những buớc chân vừa nãy, thì rõ ràng là không chỉ có một người.
Mồ hôi ra ướt đầm lòng bàn tay tôi, tôi đi lần ra cửa phòng thực nghiệm bật đèn điện lên.
Khắp trong ngoài căn phòng, không một bóng người.
Nhưng khi tôi vừa quay người trở lại, thì máy hát bỗng lại lên tiếng.
Nó mở lại từ đầu bản nhạc, hình như có một bàn tay vô hình, đã nhấc đầu kim máy hát lên rồi lại đặt xuống.
Tôi nhìn chiếc máy hát rất lâu và hít thở thật sâu, có lẽ phải làm thế này thì mới có thể trấn tĩnh lại một chút. Bỗng tôi lại thấy sau lưng hơi là lạ, bèn quay người lại, tôi kinh hoàng tiêu tan cả hồn vía. Một đám người đang ngồi kín căn phòng.
Tôi chớp chớp mắt, muốn nhìn rõ xem họ là ai. Nhưng trước mắt vẫn lại là căn phòng trống không và làn hơi nước mờ trắng từ miệng tôi phả ra do bên ngoài hơi lạnh. “Ai đã giở trò gì thế này?” Tôi bực tức kêu lên, phải nói là tôi không thiếu lòng can đảm, nếu không đã chẳng dám một mình ngồi ở phòng thực nghiệm này trong đêm tối. Nhưng lúc này tôi thấy mình đang bị một nỗi sợ hãi mơ hồ bao vây.
Một tiếng “xịt...” không rõ phát ra từ đâu hình như muốn ra hiệu cho tôi hãy im lặng. Còn trong óc tôi chỉ có một ý nghĩ “Chạy!”
Tôi tiến lại chỗ máy hát và nhấc cần kim sang một bên, nào ngờ nó như bị chốt chặt tại chỗ, không sao nhấc lên đựơc. Tôi bèn nhổ dây cắm điện nguồn, tia lửa lóe ra, giắc cắm rơi xuống đất.
Nhưng đĩa hát vẫn đang quay, suối nhạc vẫn tuôn chảy.
Máu trong người tôi như đông lại, nỗi sợ hãi tràn đến dồn dập, tôi thoáng nghĩ đêm nay mình sẽ mất toi cái máy hát thân yêu.
Tôi từ từ đưa tay ra phía trước, mạnh tay vồ lấy máy hát, chính khoảnh khắc tay vừa đụng vào thì nó lạnh lùng phóng một luồng điện cực mạnh vào người tôi, khiến tôi bật ngửa người ngã mạnh xuống đất. Nếu không mặc chiếc áo bông dày, chắc tôi phải bong gân dập xương vì cú ngã này. Tôi biết mình không lại được với những sức mạnh siêu nhiên, theo lời dạy của chủ tịch Mao “Địch tiến thì ta lui”, tôi chạy như bay ra khỏi khu nhà giải phẫu. Rốt cuộc ai đã bỡn cợt tôi như thế, tôi dám khẳng định họ chẳng phải người thường! Thế thì các chuyện kháo nhau là có mà, đều là thật hay sao? Tôi nghĩ nhức óc, lúc này đã quá khuya nên cũng có phần rối trí, tôi đành ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, để sau này thư thả sẽ nghiên cứu kỹ hơn.


Ngày 24/01/1967
Tuyết rơi vừa phải

Sáng sớm đã phải đến nhà giải phẫu, căn phòng thực nghiệm phía Tây trống trơn, thế thì chiếc máy hát của tôi đã biến vào cõi hư vô. Cả ngày đi hỗ trợ phòng cấp cứu, hễ thoáng ngơi tay là tôi lại thẫn thờ nhớ đến cái máy hát, tôi lại hỏi mình: Đây có phải một mảng đời mà ta buộc phải trải qua? Hoặc đây là một giai đoạn bị giam hãm, đêm đêm phải khắc khoải nhớ nhung người yêu mà không thể gặp, nhớ bạn mà cánh én không thể đưa tin, thậm chí ngay một thứ đồ dùng để tạo niềm vui cũng không thể giữ nổi.
Tôi không thể nuốt hận, không muốn cúi đầu trước số phận, đêm khuya tôi lại đến khu nhà giải phẫu với một tia hi vọng, biết đâu sẽ xảy ra chuyện kỳ lạ để có thể nhặt lại hoặc là đoạt lại chiếc máy hát của tôi về. Tôi không hề tin có thần thánh ma quỉ, điều này khỏi phải bàn, nhưng dù có ma thật thì tôi cũng phải đọ với nó một phen, quyết làm cho ra nhẽ! Bước qua bậu cửa cao, rồi buớc lên thềm, tôi bỗng đứng sững lại. Phía sau cánh cửa khép kín, tiếng nhạc văng vẳng đưa ra - chính là khúc dạo đầu bản nhạc “mục ca sau buổi trưa” - mà tối qua tôi đã mở máy hát để nghe. Tôi điên tiết đẩy cửa xông thẳng vào gian phòng thực nghiệm ở phía Tây định lớn tiếng chất vấn, nhưng lại mím môi... Vì thấy trong đó có hai ông già mà tôi đều biết họ. Một vị là Lưu Tồn Chức giáo sư hàng đầu môn dược lý học của trường, vị kia là Giang Mật cựu chủ nhiệm khoa phóng xạ của phân viện 1. Giáo sư Chức tuổi ngoài 60, nghe nói hồi trẻ từng sang Mỹ du học, sau năm 1949 trở về phục vụ Tổ quốc, hình như mình ông đã vực cả khoa Dược vươn lên. Giáo sư Mật có vị trí cao trong hàng ngũ học thuật phản động, lẽ ra cũng là đối tượng bị chuyên chính đấu tố, nhưng vì hai vị trung niên kia ở khoa phóng xạ đã lên làm cán sự trường, lớp trẻ còn lại thì chưa đủ học vấn, vẫn cần một sư phụ ở lại cầm chịch cho nên ông Mật mới được yên thân, sáng nay tôi vừa cùng ông đọc fim X-quang của một bệnh nhân gãy xương vì “đấu võ” khi đấu tố. Tôi còn nhớ cách đây không lâu đã có lần ngẫu nhiên ngồi cùng ông bình luận về âm nhạc cổ điển...
Ông Mật nhận ra tôi, hình như không hề ngạc nhiên vì tôi đến đây, ông cười nói: “Cậu Tiêu ạ, chiếc máy hát có dán chữ Tiêu ở bên cạnh, là của cậu à? Chúng tôi đang có một cuộc gặp mặt nho nhỏ ở đây, máy hát và toàn bộ đĩa hát của tôi thì đã bị họ khám nhà tịch thu mất rồi, tôi đang buồn vì không có nhạc để nghe. Tại sao máy hát của cậu lại ở đây?”
Tôi hậm hực: “Đêm qua em đến đây nghe nhạc, thế rồi cái máy hát bị người ta ai mà biết được, có lẽ, ma đã cướp đi! May sao chúng lại đem trả lại!”
Ông Chức và ông Mật ngớ ra, đưa mắt nhìn nhau, rõ ràng cả hai ông đều cho rằng nói có ma lấy đi là chuyện hão huyền, và đang nghĩ xem tôi có bị tâm thần hay không? Nhưng dù sao hai ông đến gặp nhau tại phòng thực nghiệm này cũng vẫn là đáng quí, và có lẽ, cũng như tôi, họ chẳng có chỗ nào tốt hơn để đến.
Vào thời buổi rối ren này, đâu có thể dễ dàng tìm được một chốn sạch sẽ! Có nhiều tiếng lao xao ở ngoài hành lang, một người nói giọng rất vang: “Chúng ta đã nghe bản “Mục ca sau buổi trưa” này không biết bao nhiêu lần, nhưng vẫn cảm thấy người thời trước nói “Đê-buy-xi cấu tứ theo trường phái ấn tượng”, là rất võ đoán. Tôi vẫn cảm nhận rằng về sắp xếp ý tưởng, tác giả vẫn giữ nguyên chuẩn mực và nghiêm cẩn của trường phái cổ điển hoặc trường phái lãng mạn”. Một giọng nữ cười nhạt: “Tôi thấy anh rất sính phát ngôn kỳ cục khác đời thì có! Khúc nhạc này rành rành là “phá vỡ truyền thống”! Tôi tạm nêu vài ví dụ: về khúc thức, Đê-buy-xi đã gỡ bỏ các công thức thông thường, không cho lặp lại cả đoạn và không tái hiện nét chủ đề; về tổ hợp câu, cũng không phân đoạn chính đoạn phụ, vận dụng rất nhiều chuỗi giai điệu, những điều này hoàn toàn xa lạ với trường phái cổ điển”.
Giọng rất vang kia lập tức chặn luôn: “Đó là về hình thức! Vẫn là bình mới rượu cũ! Không thể phủ nhận rằng khi đó Đê-buy-xi định bước ra khỏi trường phái cổ điển, nhưng nhiều nhất chỉ có thể nói bản nhạc này là bước quá độ tiên tiếng đến trường phái ấn tượng! Xét từ góc độ thẩm định, thì hoàn toàn có thể vận dụng trình tự thưởng thức nhạc giao hưởng để nghe bản nhạc này!”. Người phụ nữ vẫn cười nhạt: “Anh đúng là phái cổ điển! Nghe nhạc mà cũng dùng trình tự! Anh có biết Mô-ra-mê là ai không?”
“Thi sĩ trường phái ấn tượng rất nổi tiếng, tác giả trường ca “Mục đồng sau buổi trưa”, đã được phổ nhạc bằng khúc nhạc này!”
“Anh đã công nhận Mô-ra-mê là nhà thơ lừng danh thuộc trường phái ấn tượng, thơ trường phái ấn tượng đã được phổ nhạc. Chính Mô-ra-mê nghe trình diễn xong, ông nói tác phẩm này quá tuyệt vời, còn hay hơn cả nguyên tác thơ! Vậy nó chẳng phải trường phái ấn tượng là gì?” Giọng nam vang dội bỗng cười sằng sặc: “Phải đấy! Bám sát từng câu để mà phổ nhạc, và có thể phản ánh chính xác từng ý thơ nguyên tác-thì đâu phải là trường phái ấn tượng hay tượng trưng gì nữa? Nó sẽ là có sao nói vậy, nó là cách soạn nhạc của trường phái cổ điển rất chuẩn mực”.
Tôi ngây người nghe, thấy cả hai nói đều không phải là không có lý. Giáo sư Chức và giáo sư Mật thì lại cười tủm tỉm lắn đầu. Một nam và một nữ bước vào phòng. Người đàn ông tầm vóc cao lớn, trạc 45 tuổi, có bộ râu quai nón được tỉa xén rất chau chuốt. Người phụ nữ trạc khoảng ngoài 30 tuổi có mái tóc dài được uốn rất khéo, trông thật trang nhã.
Ông Chức nói: “Hai vị hễ gặp nhau là đôi co thế ư? Nghe nhạc cổ điển, điều đáng lưu tâm là cảm nhận chứ không phải là vận dụng trí não, nếu nghĩ ngợi nhiều quá thì lại là trói buộc trí tưởng tượng và sự cảm thụ của mình!”. Hai người dường như đồng thanh trả lời có phần áy náy : “Bác Chức nói có lý, chúng tôi có cái tật xấu là chẳng ai chịu phục ai”. Ông Mật cũng cười: “Nếu hai vị không có tật hay đôi co thì chắc đã về ở với nhau từ lâu rồi!” khiến đôi nam nữ kia càng ngượng ngịu đỏ chín cả mặt. Tôi chưa gặp hai vị này ở trường bao giờ, nên hơi tò mò quan sát. Người phụ nữ có khuôn mặt khá đẹp, rõ ràng đã được giữ gìn chăm sóc kỹ lưỡng, nhất là mái tóc dài khiến tôi phải ngạc nhiên: vì gần đây, dù ở trường hay các hang cùng ngõ hẻm bên ngoài, bất kỳ lúc nào cũng có thể thấy các hồng vệ binh hoặc bọn ác ôn cầm kéo để cắt các bộ tóc dài và quần áo theo mốt. Sao chị ta lại may mắn thoát được?
Và có lẽ ban đêm đến nhà giải phẫu cũng là một tuyệt chiêu! Ông Mật chỉ vào tôi và nói: “Giới thiệu với hai vị, đây là cậu Tiêu - một sinh viên giỏi, hiện đang thực tập ở bệnh viện trực thuộc số 1, cũng là một người hâm mộ nhạc cổ điển”. Ông lại chỉ hai vị vừa đến, nói tiếp: “Đây là tiến sĩ Lăng Hoành Tố, nhân vật hàng đầu của bộ môn chăm sóc y tế bà mẹ và trẻ em của khoa chăm sóc y tế trường ta, đây là cô Lạc Vĩnh Phong - bác sĩ mổ hạng nhất của khoa ngoại bệnh viện trực thuộc số 2”. Cả hai thân thiện gật đầu nhìn tôi, ông Tố hơi ngập ngừng, rồi hỏi: “Có phải hai bác định...”, ông ta lại nhìn tôi, không nói tiếp nữa.
Ông Chức hiểu ý, bèn nói: “Sự việc rất hệ trọng, e rằng hai chúng tôi không giải quyết nổi, chúng ta cùng nên bàn xem sao”.
Tôi rất muốn nán lại để cùng tìm hiểu về cách đánh giá nhạc cổ điển, nhưng nhìn họ đều có vẻ dè dặt kín đáo như thế, tôi thấy mất hứng bèn nói: “Cũng hơi muộn rồi, các vị lại có hẹn với nhau, tôi xin cáo lui. Về chiếc máy hát, nếu cần thì các vị cứ dùng đi, mai tôi sẽ đến chỗ thầy Mật cầm nó về. Chỉ hiềm... khu nhà này có phần kỳ dị... tạm coi như là ma - có thể sẽ cướp máy hát. Nhưng các vị đông người thì chắc sẽ ổn thôi!”.
Ông Mật nói: “Cậu Tiêu đừng vội đi, tôi có tiếng là dân học thuật phản động, hiện đang bị chụp mũ đeo biển để cải tạo tại chỗ, len lét như rắn mồng năm... đâu dám bê cái máy hát về khoa phóng xạ của tôi? Chúng tôi gọi nhau đến đây chỉ để cùng nghe nhạc cổ điển, nếu cậu cũng có hứng thì mời cậu ở lại cho vui.
Nói đúng ra là, không thể thiếu cậu. Vì máy đĩa hát của chúng tôi đều đã bị tịch thu, may mà họ chưa càn quét đến sinh viên các cậu nên có lẽ chúng tôi còn phải tiếp tục nhờ cậu cung cấp món ăn tinh thần cho!”. Tôi đã hiểu hơn: “Tức là các thầy thường gặp gỡ định kỳ phải không ạ?”. Ông Mật gật đầu: “Chuyện nói cho kỹ, e rằng dài dòng. Chúng tôi đã từng ấn định ngày gặp mặt nhưng mấy năm nay thế sự xoay vần quá dữ dội, nên không thể còn qui luật gì nữa!”
Tôi định hỏi thêm nhiều nữa, ví dụ có phải các vị thường gặp gỡ ở đây, và cũng từng gặp sự việc như tôi gặp đêm qua nhưng lại thấy tiếng bước chân, rồi có hai ba chục người nói cười lục tục tiến vào. Trông họ đều có dáng trí thức, tuổi từ ngoài 30 cho đến 60-70 tuổi, cả nam lẫn nữ, dường như họ đều dường như rất thân quen. Hình như ở trường tôi từng nhìn thấy vài người trong số họ... Ông Chức bỗng e hèm, rồi nói to: “Có lẽ mọi người đều đã tề tựu, ta bắt đầu nào! Dễ thường... đến hai tháng nay chúng ta không gặp nhau, trong khoảng thời gian này, bên ngoài... khắp trong ngoài trường, tình hình ngày càng tệ hại. Nói đúng ra là, đôi lúc tôi thấy chẳng còn bụng dạ nào mà nghe nhạc hoặc giải trí nữa! Nhưng rồi lại nghĩ, càng gặp thời buổi gian nan thì ta càng nên tìm cách để giải thoát. Âm nhạc có thể giúp ta xa lánh mọi ưu phiền, rất hữu ích cho cả thể xác lẫn tâm hồn!”
Mọi người đều gật đầu tán thưởng.
Ông Mật nói tiếp: “Ngẫu nhiên hôm nay được biết anh Tiêu - tuổi còn trẻ nhưng cũng là một người hâm mộ và hiểu biết khá sâu về âm nhạc cổ điển. Gần đây chúng ta đều đã bị mất hầu hết đĩa hát, anh Tiêu thì lại có đĩa hát. Cùng có chung sở thích cả, cho nên chúng tôi nghĩ, rất hoan nghênh anh Tiêu sẽ tham gia vào hội này. Các vị nghĩ sao ạ?”
Nhận thấy đám đông đều có vẻ do dự, tiến sĩ Tố nói: “Lại là một sinh viên à? Mấy tháng trước tiếp nhận một sinh viên vào hội, rốt cuộc ra sao, lẽ nào hai vị đã chóng quên thế?”
Không buồn để ý họ có chấp nhận tôi hay không, tôi thản nhiên nói: “Tôi thực sự không hiểu các vị đang nói là nhập hội gì gì thế? Tôi rất không thích mọi ràng buộc, tốt nhất không có tổ chức nào cả, sẽ tự do thoải mái hơn!”
Ông Mật vội nói : “Cậu Tiêu bỏ quá cho, tôi chưa giải thích rõ với cậu. Những điều tôi nói sau đây, mong cậu đừng nói với ai khác: chúng tôi tập hợp với nhau lập nên một nhóm nhỏ gọi là “Nguyệt Quang xã”. Gốc gác của cái tên gọi này là, hồi đầu mới thành lập, mấy vị nguyên lão đang cùng ngồi thưởng thức bản sô-nát Ánh Trăng của Bethoven do các dàn nhạc khác nhau diễn tấu dàn nhạc Snây-ben, Béc-hao-xơ, Hu-lao-den-đơ rồi chúng tôi lại so sánh Ánh trăng của Bethoven với các bản cùng tên của Đê-buy-xi và Phô-rê, rốt cuộc lấy “Ánh trăng” đặt tên cho hội của chúng tôi. Đó là chuyện xưa cũ... Từ năm 1952”.
“Nguyệt Quang xã” vốn là một đoàn thể hoạt động văn nghệ công khai, nào ngờ năm 1957 có phong trào chống hữu khuynh, nhiều thành viên của hội vì mang đậm cảm quan kiểu giai cấp tư sản cho nên “nghiễm nhiên” bị coi là phái hữu, hội của chúng tôi cũng bị coi là một “tổ chức phái hữu”, rồi bị cấm hoạt động. Nhưng đám chúng tôi lại không nghĩ thế: ngồi với nhau để nghe nhạc, mà là phái hữu ư?

kei_itsumo
04-01-2009, 11:39 AM
truyện này ra sách hết rồi.Nhiều truyện lắm. Hôm qua ra nhà sách thấy đầy. ^^

sarujun
29-01-2011, 01:40 AM
Chương 16
Ánh trăng, mặt nát, nhập vai



“Bà ấy cũng như tôi, sẽ không buông tha cô đâu” Diệp Hinh nghe câu này, cô lại rợn người, thì ra chị mặt sẹo đã đứng sau lưng cô tự lúc nào, khoái trá buông ra một câu. Hinh định nói mấy câu để tỏ ra cứng cỏi nhưng lại thấy làm như thế là dối mình và dối người. Cô mím chặt miệng, nước mắt trào ra. Chị mặt sẹo ngồi sà ngay vào ghế kê bên cạnh giường Hinh, lẩm bẩm nói: “Tôn Tĩnh Tĩnh, đã lâu không gặp cô ta! Cô biết không, đó chỉ là một trong vài chục vai của bà Uông Lan San . Hình như bà San luôn sắm vai Tĩnh Tĩnh để làm quen với các nữ sinh trường cô vào đây ngày trước… Đây là hiện tượng phân tách nhân cách điển hình, cô là sinh viên y khoa, chắc cô không thể không biết?”
Hinh ghét cay ghét đắng chị ta, cô định ấn chuông xin trợ giúp nhưng lại nghĩ chị ta cũng chưa làm điều gì quá đáng, thì mặc xác chị ta vậy. Hinh bèn bỏ ra ngoài phòng. Ra hít thở không khí trong lành có lẽ sẽ dễ chịu hơn.

Chị mặt sẹo bám theo luôn: “Tôi biết mà, cô không có bệnh gì hết”

Hinh đứng lại ngay. Suốt bao ngày qua, đây là người đầu tiên nói thẳng với Hinh rằng cô chẳng có bệnh gì cả. Nhưng đáng buồn thay, người ấy lại là một bệnh nhân tâm thần!

“Thực ra so với các loại bệnh ở cơ quan khác, tỷ lệ chẩn đoán sai bệnh thần kinh cao hơn nhiều” Câu nói này hoàn toàn không giống như của một bệnh nhân tâm thần. Hinh ngạc nhiên nhìn chị ta.

“Chị rốt cuộc là người thế nào? Tại sao chị biết tôi không có bệnh?” Hinh cuối cùng cũng mở miệng nói.

Chị mặt sẹo bình thản nói: “Tôi vốn là bác sĩ mà. Cô có cảm giác gì tôi là một bệnh nhân hay không?”

“Nhưng tối qua chị lại giống như một con dã thú!” Hinh hậm hực nói

“Sao lại có thể trách tôi gì được? Phòng này toàn là nữ, tôi có nhu cầu bản năng của tôi”

“Chị bảo rằng chị không có bệnh, vậy tại sao chị phải ở đây bao năm trời?”. Chẳng hiểu ai xui khiến, thế là Hinh bắt chuyện với chị ta. Hai người cùng ra khỏi phòng, đi dọc theo hành lang.

“Bởi vì xã hội chẳng chấp nhận tôi. Cô biết tại sao mặt tôi trở thành thế này không? Cô im lặng nhưng tôi biết lòng cô vẫn thầm hỏi, đúng không?”
Hinh gật đầu và càng cảm nhận ra rằng người phụ nữ này không như các bệnh nhân bình thường khác

“Sau khi tốt nghiệp đại học Y, tôi được cử đến làm việc ở một bệnh viện cấp thành phố. Ở khoa có một bác sĩ chính có chuyên môn rất cao, con người cũng rất phong độ, đám nữ y tá nữ bác sĩ trẻ đều rất say mê ông. Chỉ riêng tôi vì miệt mài với công việc nên ít khi cười đùa với ông. Nhưng ông ta hoàn toàn không như Liễu Hạ Huệ (tên thật là Triển Hoạch, người nước Lỗ thời Đông Chu, đức cao vọng trọng), tuy đã có vợ con nhưng lối sống vẫn rất tùy tiện, các nữ đồng nghiệp xán đến thì ông ấy “chiều” tất, lại vẫn thường xuyên “đánh tín hiệu” với tôi nữa. Tôi không muốn bị sa vào chốn rắc rối ấy, và cũng coi khinh nhân cách của ông ta nên tôi nhất quyết giữ một khoảng cách với ông ta.

Một hôm chúng tôi được sắp xếp vào cùng một ca trực, tôi đang ở trong phòng trực ban ngồi viết bệnh án thì ông ta vào, toàn nói những chuyện trời ơi đất hỡi và “đụng chạm” vào tôi. Tôi phản đối nhưng ông ta không chịu dừng lại, rồi ôm chặt… xoa người hôn hít. Khi tôi đang gắng chống cự thì cửa phòng bỗng mở toang. Thì ra là vợ ông ta vẫn nghe đồn đại biết chuyện trăng hoa của chồng, nên bất thình lình tìm đến bệnh viện và bắt gặp ngay cảnh tượng này. Chị ta cho rằng chúng tôi đang vụng trộm, nên giận dữ chửi rủa một hồi, rồi quay ra. Vài phút sau chị ta quay vào, cầm một lọ axit sun-phua-ric tạt vào người tôi”

Hai người bước vào vườn hoa trong sân bệnh viện. Đi dưới ánh nắng mà Hinh thấy rùng mình sởn gáy. Chị mặt sẹo nói mỗi lúc một gấp như là chị lại trải qua cái cảnh này.
“Vì thế mà khuôn mặt tôi thành ra như hiện nay. Sau chuyện đó tôi rất đau khổ, âu cũng là lẽ đương nhiên. Nhưng áng chừng họ sợ tôi sẽ có hành động trả thù gì đó, cho nên sau khi chữa lành vết thương cho tôi, họ tống tôi vào đây”. Chị mặt sẹo phẫn uất, tay bưng lấy mặt không dám nhớ lại thêm nữa.

Diệp Hinh bắt đầu thấy cảm thông với chị.

“Nhưng ít lâu sau các bác sĩ nhận ra rằng tôi không có vấn đề gì cả, bèn cho tôi ra viện, trở lại làm việc. Khi gặp lại người đàn ông kia, tôi không sao nén nổi, bèn xông vào bóp cổ hắn…”

Hinh định kêu lên nhưng không thành tiếng vì chị mặt sẹo đã bóp ngay cổ cô, gằn giọng:

“Tại sao, tại sao mặt ta thành ra thế này ngươi mới chịu nhìn ta?”. Thì ra chị ta nói năng toàn “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, nhưng Hinh không nghĩ gì khá, cô vung tay đấm vào người chị ta, nhưng vì cổ đang bị nghẹt thở nên nắm đấm cũng chẳng có chút sức lực nào.

Tuy gọi là vào giờ “tự do hoạt động” nhưng vẫn có các y tá theo dõi các khu vườn hoa, chỉ hiềm chị chị mặt sẹo đã cố ý dụ Hinh đến sau ngọn giả sơn để thoát khỏi tầm nhìn của các y tá. Cho đến lúc có vài bệnh nhân đi đến nhìn thấy cảnh bạo lực này, các y tá mới chạy đến kéo chị mặt sẹo ra.

“Cứ yên tâm, chúng tôi sẽ đưa chị ta sang khu bệnh nhân nặng… Chị ta rất hay lừa gạt người khác, cũng đã bình ổn được một thời gian dài, nhưng hễ trông thấy các cô gái xinh xắn thì chị ta lại giở chứng quái ác ra ngay… Chị ta mắc chứng hoang tưởng, trước kia đã từng yêu một anh có vợ, bị anh ta phớt lờ. Nhưng chị ta lại nghĩ trái khoáy, cho rằng vợ anh ta muốn hại mình! Thế là chị ta tự hủy hoại nhan sắc…” Chị y tá an ủi Diệp Hinh vẫn còn đang thấy sợ, nên đã kể cho cô nghe câu chuyện mà hầu hết các bệnh nhân ở đây đều đã biết.

Nhưng Hinh lại không nghe thấy gì cả, cô nằm ngay đơ trên giường của mình, nhìn lên trần nhà cao, một câu hỏi lặp đi lặp lại mãi trong đầu cô: chẳng lẽ cuộc sống của mình cứ tiếp diễn mãi như thế này ư? Có phải mấy cô sinh viên trước kia nằm viện tâm thần đều vì trải qua cảnh ngộ này nên mới mất hết niềm tin để tiếp tục sống?

Cơn đau đầu dữ dội bỗng lại ập đến.

Về khuya các phòng trực ban y tá xung quanh chỉ bật đèn lờ mờ, Hinh bất đắc dĩ chìm dần vào giấc ngủ. Biết đến bao giờ mới có một giấc mơ đẹp?

Dường như đêm nay cô có cảm giác rất tốt đẹp, vì nghe thấy tiếng piano dịu ngọt cùng một giọng nữ tuyệt hay:

Ánh trăng sáng trong, nỗi sầu não lòng
Tóc mai điểm bạc, em nhớ người thương
Ánh trăng lạnh lẽo, khó nhòa nỗi buồn
Lòng trống vắng, sao đêm mãi chưa tàn?
Bước đi trong cô quạnh, nỗi sầu bi xé lòng
Nhớ nhung da diết, tựa cửa sổ thư phòng
Mong đuổi theo trăng tà, cùng chàng đi muôn phương.

Giọng hát và tiếng đàn piano sao nghe quen quen, hình như từng nghe thấy trong những giấc mơ…

Hinh biết đó là giai điệu của bản nhạc “Ánh trăng” của Bet-tô-ven. Chẳng lẽ trong các cơn ác mộng trước kia mình nghe thấy cũng là nó? Nhưng tại sao mình lại không nhận ra? Có phải là tại vì đang ở trong giấc mơ? Nhưng lúc này chẳng phải đang mơ là gì? Sao lại nghe thấy rõ như thế này?

Tiếng hát và tiếng đàn này cũng thật lạ lùng, dường như nó đến từ nơi chân trời xa thẳm, nhưng lại như đang dìu dặt ở ngay căn buồng này. Hinh trở dậy, bước đi về phía có tiếng hát, đi đến bên cửa sổ ở một góc căn buồng. Dưới ánh sáng mờ mờ, thấy một bóng người mặc đồ trắng, tóc buông dài dưới vai đang tựa cửa sổ cất tiếng hát.

Chất giọng này như một thứ âm thanh của thiên nhiên.

Chắc là mình đang mơ? Nhưng Hinh không nghĩ gì nữa, tiếng hát tuyệt vời thế này dù đang là trong mơ thì vẫn khiến cô thấy rất dễ chịu – chỉ cần không nhìn thấy khuôn mặt nát bươm kia là được!

Tiếng hát bỗng im bặt. Người mặc đồ trắng vừa hát bỗng quay đầu lại, đập vào mắt Hinh sau bức rèm cửa sổ là một khuôn mặt nát bươm.

Tiếng kêu thét xen lẫn tiếng khóc vang khắp cả khu buồng bệnh nhân.

Người phụ nữ áo trắng khẽ cười, đưa tay lên bóc gỡ mặt mình, khuôn mặt rách nát bỗng biến mất, chỉ còn lại khuôn mặt của bà già Uông Lan San. Thì ra khuôn mặt nát bươm kia chỉ là chiếc mặt nạ được vẽ cực khéo giống y như thật. Thấy có tiếng ồn, hai y tá trực ban vội chạy đến, nhìn cảnh trước mắt một cô y tá mắng gay gắt: “Lại là bà San! Bà đừng quấy nhiễu cô Hinh nữa được không?”. Còn cô kia thì bước đến giật bộ tóc giả khá dài của bà San xuống: “Bà lại kiếm đâu ra mấy cái của nợ này? Trong buồng bệnh nhân cấm dùng các vật dụng nguy hiểm kia mà!”

Bà San lúc nãy đang có “eo thon”, bây giờ lại thẳng đơ đơ, vẻ mặt vô cảm: “Tôi hát là việc của tôi, tự cô ta ra nghe kia mà, sao lại nói là tôi quấy nhiễu?” Phát âm tròn trịa
mềm mại đầy đặn như giọng một cô gái.

Lúc này nỗi kinh hãi bất ngờ đến với Hinh đã bắt đầu chùng lại, cô nhìn thẳng vào mắt của bà San, đôi mắt ấy vừa có phần u uẩn vừa có vẻ phóng túng, hình như cô đã từng thấy ở đâu đó.

Vậy bà San là một bệnh nhân như thế nào? Dường như bà ta đã tái hiện giấc mơ của Hinh. Bà ta biết được bao nhiêu đầu mối liên quan đến “vụ mưu sát 405”?

Cô y tá đưa bà San về giường. Hinh bước theo hỏi: “bà là ai?”

Bà San ngoái lại, cười tươi rói nhưng trả lời “lạc đề”: “Tôi hát có hay không?”

Một nụ cười khiến người ta phải rung động, một bà lão ở tuổi thất thập sao có thể có nụ cười như thế này?

“Rất hay. Không ngờ bà lại luyện được giọng hát hay đến thế!”

“Vậy là tôi đã chẳng sống phí hoài hơn hai chục năm trời! Nhưng nói cho cùng tôi vẫn là một kẻ bỏ đi, chỉ biết chơi đàn, ca hát mà thôi. Bà San rầu rĩ thở dài.

“Này, thực ra bà là ai?”

Một cô y tá nói: “Thôi nào, cô Hinh vào ngủ đi! Cái vai mà bà ta sắm đêm nay, hình như… bà ta rất ít dùng. Tôi cũng không sao nhớ ra được nữa!”

Cô y tá tuổi trung niên cười nói: “Thế thì phải phê bình cô vì tội chưa chịu trau dồi nghiệp vụ mới được! Đây là vai Trang Ái Vân, bà ta ít khi dùng. Tôi là ở đây lâu, đã chứng kiến vài lần, hình như chỉ diễn trước các cô sinh viên mà thôi!”

Trang Ái Vân là ai? Tại sao lại giống cô gái áo trắng mà mình vẫn mơ thấy? Cô ta có liên quan gì đến khuôn mặt nát bươm? Bà San thực chất là người như thế nào? Các vai nhân cách khác nhau mà bà ta sắm, nảy sinh ra từ đâu? Nghe nói đa số người mắc bệnh nhân cách phân liệt thường chỉ sắm hai vai, nhưng tại sao bà San lại “biến tướng” nhiều như thế? Liệu có còn sắm thêm các vai quái dị khác nữa không?
Hinh trở về giường mình, lòng đầy nghi hoặc băn khoăn, trằn trọc mãi vẫn không ngủ được. Cái tên Trang Ái Vân này hoàn toàn xa lạ. Hinh lần lượt điểm lại tên các cô sinh viên trong vụ “405”: Tưởng Dục Hồng, Du Tĩnh, Lý Thục Nham, Hạ Tiểu Nhã, Nghê Na, Trương Thiên Lộ, Thẩm Vệ Thanh… không hề thấy có tên Trang Ái Vân. Phải chăng cô ta là nhân vật mở đầu trong sê-ri nạn nhân này?

Hinh phát triển hướng suy nghĩ của mình: lạ thật, nạn nhân đầu tiên là Du Tĩnh thì chưa hề đi viện tâm thần, Dục Hồng là bạn thân của Du Tĩnh. Theo điều tra của anh Bành thì lúc Du Tĩnh nhảy lầu thì Dục Hồng đang nằm viện – tức là vì nằm viện cho nên Dục Hồng mới tránh được cái chết thuộc về năm thứ nhất. Nhưng có cái âm khí lạnh lẽo đã bao phủ lên phòng 405 để đến nỗi năm sau Dục Hồng cũng lại nhảy lầu? Để rồi nhà trường không những phải đóng cửa căn phòng mà còn đưa ra quy định “luân lưu đến ở”. Tức là học xong năm thứ nhất thì các nữ sinh phải chuyển đến ký túc xá của các chị sinh viên năm cuối vừa tốt nghiệp, “đẩy” mối chết chóc cho sinh viên mới vào trường.

Suy luận từ sự việc của Dục Hồng, nếu ngày 16 tháng 6 sắp đến mình vẫn đang nằm viện, liệu mình có thể thoát nạn hay không?

“Tiếc rằng cô cũng như tôi, phải chết là cái chắc!” Lời một cô gái vẳng đến tai Hinh, đậm chất giọng miền Giang Nam nói tiếng phổ thông.

Hinh thót tim định kêu lên. Cô căng mắt nhìn trong bóng tối mờ mờ thấy một cô gái ngồi trên chiếc ghế đặt cạnh giường cô, mái tóc buông lửng phủ che kín mặt nên không thể nhìn rõ.

“Chị là ai?” Hinh thấy quá lạ lùng, cô bỗng trở nên can đảm, cô không bấm chuông xin gọi trợ giúp.

“Là Tưởng Dục Hồng”

Từng đợt giá lạnh đang dần bủa vây lấy cô, không phải vì Dục Hồng đã chết từ lâu mà là vì người con gái đang đứng bên đã nhìn thấu tư tưởng của cô. Cái khả năng này quá đủ để người ta cảm thấy nghẹt thở. Nhưng nỗi sợ hãi cũng tựa như thuốc phiện, có thể gây nghiện. Lúc này Hinh hoàn toàn có thể kêu lên hoặc bấm chuông cầu cứu, nhưng cô chỉ hơi thẳng người lên và quyết định phải hỏi xem sao, tuy thế nỗi sợ hãi vẫn xen trong giọng Hinh run run: “Tưởng Dục Hồng… đã chết 16 năm trước, vậy chị là người… hay là ma?”

“Cô tin rằng trên đời này có ma thật không?”

“Trước đây tôi không tin… nhưng bây giờ cũng không rõ nữa. Đã có quá nhiều sự việc không sao giải thích nổi xảy ra với tôi, tôi chẳng biết có nên tin ở đôi mắt đôi tai của mình nữa hay không…”

“Trước kia tôi đã về đội sản xuất ở vùng núi Quý Châu, bên ngoài bản là một vách núi hoang vu, trên đó có treo mấy cỗ quan tài (tập quán Phong Táng của một số dân tộc ít người ở TQ: không chôn mà chỉ đặt quan tài lên đó, thậm chí có nơi còn không đặt quan tài). Dân bản đều nói rằng trên vách núi và dưới vực sâu đều có ma, nhưng mấy thanh niên học sinh chúng tôi vì buồn tẻ, lại muốn xóa bỏ mê tín dị đoan nên rủ nhau ra đó vào lúc nửa đêm. Lại còn cá với nhau rằng ai thấy sợ phải bật đèn pin thì người đó phải khao cả bọn một chầu. Cứ thế chúng tôi ra đó vài đêm, chẳng thấy chuyện gì xảy ra cả. Sau này chúng tôi lần lượt trở về thành phố, ai cũng vẫn khỏe mạnh như bình thường”

“Các chuyện ấy toàn là mê tín, làm gì có ma, đúng không? Người khác nói với tôi điều này tôi còn tin, nữa là chị nói”

“Cô đang suy luận, chứ tôi chưa nói với cô điều gì cả”. Dục Hồng bỗng hơi dựa người ra phía trước, chỉ tay vào thái dương của mình và nói: “Tất cả, tất cả đều nằm ở đây! Có là ở đây, không có cũng là ở đây!”

“Vậy thì mùa xuân năm ấy đã xảy ra chuyện gì?”

“Bạn thân nhất của tôi là Du Tĩnh chết”

“Tại sao chị lại phải vào nằm viện này?”

“Họ bảo rằng tôi mắc phải chứng tâm thần phân liệt. Mùa xuân năm đó tôi bỗng nhiên nghe thấy những tiếng nói mà người khác không nghe thấy, nhìn thấy những thứ mà những người khác không nhìn thấy gì. Tôi thường nghe thấy có người nói bên tai tôi “Ánh trăng”, nhưng tôi chẳng hiểu là gì, thường mơ thấy các hình ảnh thời cách mạng văn hóa ở Đại học Y số 2 Giang Kinh. Nên tôi bèn hỏi khắp mọi người xung quanh “Ánh trăng là gì? Nó có liên quan gì đến Đại học Y Giang Kinh ” Nhưng chẳng ai trả lời tôi, trái lại họ đưa tôi vào viện này”

“Chị Du Tĩnh đã chết như thế nào? Có liên quan gì đến bệnh của chị không?”

“Không liên quan gì đến tôi. Nhưng cô ấy phải ra đi là cái chắc”. Từ bình tĩnh, Dục Hồng chuyển sang bất an

“Tại sao chị lại nói thế?”

“Cái tiếng nói kia, ngoài từ “ánh trăng” ra còn hay nhắc với tôi về ngày 16 tháng 6. Tôi còn một giấc mơ mà chưa dám kể với ai…”

“Đó là về một cô gái áo trắng, một thứ âm nhạc rất hay, và một khuôn mặt nát bươm, phải không ạ?”

“Đại loại là thế, nhưng còn có một bóng người nhảy lầu, một chiếc đồng hồ tây treo tường thường đổ chuông đúng 12h đêm”

“Thật khủng khiếp” Hình ảnh người nhảy lầu và chiếc đồng hồ tây không xuất hiện trong những giấc mơ của Hinh thì Hinh có nên thở phào không?

“Tôi đã có linh cảm, thấy rằng ngày 16 tháng 6 có thể xảy ra chuyện. Khi Du Tĩnh vào thăm hỏi, tôi đã dặn bạn ấy rằng đêm ấy không được ngủ ở phòng 405 mà phải tìm cách đi ngủ nhờ ở tầng 1. Tôi còn dặn bạn ấy đừng nói chuyện này với bất cứ ai, nếu không cơ hội ra viện của tôi sẽ càng xa vời. Ý nghĩ này thật hão huyền, nhất là với một bệnh nhân tâm thần! Nhưng tôi thật sự lo lắng cho Du Tĩnh, người bạn rất thân của tôi. Đúng là bạn ấy tuy đã giữ kín chuyện nhưng bạn ấy đã không chịu nghe lời khuyên của tôi”

“Chị đã có linh cảm, tại sao năm sau chị lại cũng đi vào ngõ cụt như thế? Chị tự sát hay sao?”

“Tôi chẳng biết nữa, có lẽ là thế cũng nên. Trước khi chết, tôi mắc chứng trầm cảm rất nặng nề, chắc là vì cái chết của Tĩnh đã khiến tôi suy sụp chán nản. Tôi đang đi tìm hiểu xuất xứ của “ánh trăng” nhưng vẫn không có chút tiến triển nào. Tôi cũng rất nản lòng. Tháng 4 tháng 5 năm đó tôi đã nằm viện, đến cuối tháng 5 thì ra viện. Các sự việc tiếp theo thì cô đã biết rồi”

“Tại sao lại có thể không biết về chuyện của mình? Tại sao chị lại kể với tôi những điều này?”

“Mọi chuyện mà số phận đã sắp đặt thì ta không thể nào làm thay đổi được”

“Uông Lan San tại sao tôi phải tin bà nhỉ?” Hinh bỗng đưa tay ra ấn nút chuông xin trợ giúp, nhưng tay cô cứ bất động giữa khoảng không và dừng lại ở đó. Cô thở dài: “Bà San hãy về mà ngủ đi, tôi thấy mệt rồi”

“Tôi là Tưởng Dục Hồng”

“Được! Dục Hồng, chị là người hiểu biết, tôi mệt, tôi muốn đi ngủ”. Thì ra là lúc Dục Hồng giơ tay chỉ vào đầu mình, Hinh đã nhận ra bàn tay khẳng khiu ấy không thể là tay của một cô gái trẻ, nên đoán ra là bà San đang giở trò quái dị. Chị mặt sẹo tuy ác độc nhưng cái câu kia chị đã nói không sai, dường như bà San nhất định không chịu buông tha Hinh. Tại sao bà ta cứ phải làm thế? Chẳng lẽ đó chỉ là các trò quái quỷ ngẫu hứng của một bệnh nhân tâm thần? Hinh chợt nảy ra ý nghĩ, mình không nên đánh động đến một người mắc chứng nhân cách phân liệt đang chìm đắm trong một vai khác, chưa biết chừng có thể thông qua bà ta để tìm hiểu rõ bối cảnh của “vụ án mưu sát 405” cũng nên.
Nhưng liệu có phải là “đùa với lửa tự thiêu mình”, để rồi sẽ bị rơi vào nguy hiểm còn dữ dội hơn không?

Bà San giơ tay che miệng ngáp dài, lúc này đã lộ rõ vẻ mệt mỏi, không quấy nhiễu thêm nữa đứng dậy rồi quay đi. Đi được mấy bước bỗng ngoảnh lại nói: “Tôi còn quên chưa nói với cô, mấy thanh niên học sinh chúng tôi năm xưa nghịch ngợm ở vực sâu bên vách núi, đến năm 1978 chỉ mình tôi còn sống”

Tiếng bước chân xa dần, Diệp Hinh mãi vẫn không sao ngủ được, hễ nhắm mắt là lại hiện ra bóng mấy cô thanh niên học sinh – như những hồn ma đang vật vờ ở vực sâu bên núi. Bà San nói là có ý gì vậy? Bà ta mắc chứng nhân cách phân liệt, có thể mô phỏng rất giống ngôn ngữ cử chỉ của một ai đó, điều này không có gì lạ, điều kỳ lạ là tại sao bà ta biết rõ mọi sự việc về Tưởng Dục Hồng, các bí ẩn sâu kín của Dục Hồng cũng được bà ta miêu tả rất thật?

Đương nhiên, tất cả có thể chỉ là những chuyện bịa đặt cực khéo!

Rất nhiều ý nghĩ vụt lướt qua trong óc Diệp Hinh, cô lại thấy râm ran nhức đầu. Đúng là
thân làm tội đời. Từ sáng đến tối ở bên những nhân vật như chị mặt sẹo và bà San, mình chưa phát điên đã là may rồi chứ còn có thể giải mã được điều bí hiểm gì nữa? Nên nhân lúc này nghỉ ngơi một chút thì hơn, đúng là vừa rồi thần kinh đã quá căng, cứ như là đang đi bên bờ vực thẳm, có thể sảy chân rơi xuống bất cứ lúc nào.



--hết chương--

sarujun
18-02-2011, 12:13 AM
Chương 17
KHẮC KHOẢI NHỚ NHUNG



Hinh lấy làm may mắn vì mình vẫn còn tỉnh táo – ít ra là cô tự cho mình như thế - nhưng cũng đủ để khiến cô dám ngẩng đầu đối mặt với cái hoàn cảnh kỳ quái hiện tại và tương lai mờ mịt chẳng rõ sẽ đi về đâu.

Đã không thể ngủ được thì chi bằng ra ngoài kia đi dạo, để cho mình nhanh chóng tĩnh tâm trở lại.

Hinh đi thật khéo léo nhẹ nhàng, cũng có phần hồi hộp vì sợ sẽ bị các bệnh nhân và y tá trực ban trông thấy. Chỉ đi một đoạn đã đến bên giường bà San.

Bà ta đã ngủ say, đang ngáy khe khẽ. Hinh liếc thấy trên mặt cái tủ con kê bên đầu giường có vài quyển sách, cô thấy tò mò bèn bước lại nhìn dưới làn ánh sáng lờ mờ. Xếp trên cùng là cuốn “Chuyên luận về nghệ thuật sân khấu”, và các cuốn khác: “Nghệ thuật đóng phim”, “Nhập vai”, “Lý luận về biểu diễn”, “Tân Kim Lăng thập nhị hoa – nữ ngôi sao điện ảnh Trung Quốc thập kỷ 40”.

Thảo nào mà bà già này rất mê sắm vai, thậm chí bà đã “nhập vai”; từ chỗ bắt chước người khác, rốt cuộc đã mắc bệnh sắm vai thể hiện nhân cách của đủ hạng người! Hinh có phần cảm thông với bà Uông Lan San.

Phía dưới mấy quyển sách là một quyển sổ khá to, cầm lên xem, thì ra nó là một tập phác thảo ký họa. Bà San là con người thật đa tài! Hinh tò mò mở ra xem, ngay trang đầu đã khiến cô giật mình suýt đánh rơi cuốn sổ: đó là bố cục của cảnh vừa nãy bà San sắm vai – một cô gái áo trắng, tóc dài đứng bên cửa sổ, phía sau trên gáy lại là một khuôn mặt rách nát!

Hinh vội đặt ngay cuốn sổ phác thảo xuống, cứ như là đã tránh thoát được một thứ đồ xúi quẩy. Cô rời khỏi chỗ bà San, rồi đi quanh khu buồng bệnh hai vòng, cảm thấy mình đã tĩnh tâm trở lại nhưng cơn mệt mỏi lại kéo đến. Khi trở lại giường của mình, cô thấy một người đang nằm trên đó!

Hinh cố định thần nhìn quanh, xác định rằng mình không đến nhầm chỗ, rồi mới nhìn kỹ người đang nằm trên giường – lại là bà San! Hinh thầm nguyền rủa bà ta thật là “khó nhằn”, rất không biết điều. Cô ấn nút chuông xin trợ giúp.

“Cô nỡ đuổi tôi đi thật ư?”

Hinh hít thật mạnh một hơi khí lạnh, suýt nữa thì ngã, cô vội bám lấy cái ghế bên giường. Vì cô nhận ra đây là giọng nói của Thẩm Vệ Thanh!

“Bà San, bà không chịu buông tha tôi thật ư? Thực ra bà muốn gì?”

“Tôi là Thẩm Vệ Thanh, sao cô phải sợ tôi? Tôi chỉ muốn nói chuyện với cô thôi.”

“Bà không phải Vệ Thanh, bà là Uông Lan San! Bà ra khỏi giường tôi đi, nếu không sẽ gọi y tá!” Lần đầu tiên Hinh gắt gỏng với bà ta.

Bà San trở dậy ngồi thẳng đơ trên giường, nhìn chằm chằm vào Hinh, dù ánh sáng rất yếu nhưng Hinh vẫn nhận ra đôi mắt đau khổ của một cô gái trẻ đã phải nếm trải bao nỗi gian truân – chính là đôi mắt của Thẩm Vệ Thanh!

Và Hinh đã hiểu: bà San sẽ không buông tha cô, cô sẽ không thể thoát.

“Vệ Thanh đã chết, bà đâu có phải là…” Hinh không tin và cũng không muốn tin người đàn bà đang ngồi trên giường là Thẩm Vệ Thanh.

“Cô có tư cách gì mà dám nói không phải? Năm 1986 tôi vào đại học y khoa số 2 Giang Kinh, hồi đó gọi là học viện y khoa số 2 Giang Kinh. Tôi là người Nghi Hưng, Hàng Châu. Tháng 4 năm 1987 tôi vào viện này, ông Từ Hải Điền là bác sĩ điều trị, bệnh của tôi đã chuyển biến rõ rệt… Sao cô lại nói là tôi đã chết?”

“Chị đã nghe nói đến “ánh trăng” bao giờ chưa?” Hinh không trả lời, cô hỏi lại đối phương.
Bà San bắt đầu thở gấp, rất giống phản ứng của Vệ Thanh hồi nọ: “Đương nhiên là có nghe nói, nhưng cô đừng hỏi làm gì, tôi sẽ không nói đâu!”

“Với tôi, điều này đã chẳng còn là bí mật nữa, chị quên rồi à: chính chị nói với tôi rằng
“ánh trăng” tức là nói về “Nguyệt Quang xã”. Tôi không hiểu tại sao lúc đầu chị không muốn nói, nhưng cuối cùng chị vẫn nói với tôi.”

“Nói, thì sợ cô sẽ đi đến cái chết; không nói, thì sợ rằng cô chết sẽ không thể nhắm mắt được.” Vệ Thanh lạnh lùng nói.

Đây là Uông Lan San hay là Thẩm Vệ Thanh? Cảm giác của Hinh lúc này dường như không
có ranh giới rõ ràng.

“Biết về ‘Nguyệt Quang xã’, chẳng phải là sẽ càng tiến gần đến sự thật hay sao?”

“Chưa chắc là sẽ tiến gần đến sự thật, nhưng có thể khẳng định rằng sẽ tiến rất gần đến sự đau khổ vô bờ bến! ‘Nguyệt Quang xã’ và ‘vụ án mưu sát 405’ có mối liên hệ gì, ai có thể nói cho rõ được đây?”

“Tại sao chị lại biết về ‘Nguyệt Quang xã’?”

“Chỉ là ngẫu nhiên thôi. Hồi đó tôi là một cô gái rất yêu đời, tôi và mấy người bạn có chung sở thích đã tổ chức ra một hội nhiếp ảnh. Nhà trường rất ủng hộ việc này nhưng lại không có điều kiện bố trí cho chúng tôi buồng tối. Chúng tôi đành mượn một tầng hầm dưới sàn nhà khu hành chính cũ để làm buồng tối, nơi đó đang là phòng hồ sơ. Hồi đó tôi cũng bị ‘ánh trăng’ ám ảnh, cố đi tìm lời giải đáp, thế rồi phát hiện ra hồ sơ về ‘Nguyệt Quang xã’ – nói về một tổ chức đặc vụ hoạt động trước và sau cách mạng văn hóa. Đọc nó, tôi thấy hầu như rất nhiều thành viên của nó đều nhảy lầu tự tử, nên đoán rằng chưa biết chừng ‘Nguyệt Quang xã’ có liên quan đến "vụ án mưu sát 405’ cũng nên.”

“Chị có nhìn thấy một cuốn nhật ký không?”

“Có thấy nó nằm trong hồ sơ năm 1967, tôi đoán rằng cuốn nhật ký chẳng thể đưa ra một kết luận gì nên không mấy quan tâm. Tôi chỉ đọc một số tài liệu trong tập hồ sơ, rồi bị đưa vào đây… Vậy là cô cũng đọc nó?”

Hinh gật đầu, hỏi: “Tại sao chị nói là đọc các hồ sơ ấy thì sẽ càng tiến gần đến cái chết?”
Vệ Thanh hơi run run: “Đó là cảm giác của tôi. Từ sau khi đọc hồ sơ ấy hình như tôi đã bước vào một đầm lầy và ngày càng lún sâu hơn. Lúc nào cũng có một nỗi sợ hãi rất khó hiểu và hết sức dữ dội bủa vây tôi, dẫn tôi đến bên vực thẳm. Nghe nói vậy có vẻ rất hão huyền phải không? Tất cả đều là cảm giác, mọi tư duy và hành động của tôi đều bị nỗi sợ hãi ấy khống chế ở khắp mọi nơi.”

Lúc này lại đến lượt Hinh run rẩy. Cô nhớ đến các sự việc xảy ra trong trạm phát thanh, và những hiện tượng sau đó khi vào nhà giải phẫu – chẳng phải là nỗi sợ hãi rất khó hiểu và hết sức dữ dội hay sao? Phải chăng mình đã đi vào con đường cũ của Thẩm Vệ Thanh?

“Nhưng, trong số các nữ sinh phòng 405 nhảy lầu, chị là người duy nhất may mắn sống sót. Chị có còn nhớ đã xảy ra chuyện gì, cái gì đã thôi thúc chị nhảy lầu, và chị đã được cứu sống như thế nào không?”

“Tôi không nhớ, cũng không muốn biết về những điều này. Tôi bằng lòng với điều cô nói lúc nãy: thực ra, tôi đã chết rồi mà!”

Hinh lập tức nhớ lại hình ảnh Vệ Thanh đang nhảy lầu rơi xuống, xót xa nghẹn ngào, cô trào nước mắt. Không thể ngồi thêm nữa, Hinh đứng lên: “Chị… hãy nghĩ vậy, tôi phải ra ngoài kia…”

“Cô đừng đi. Hãy nói xem tại sao cô biết tôi đã chết rồi? Lúc đó cô có mặt à?” Vệ Thanh xuống giường, bước đến gần Hinh.

“Tôi không biết nữa…” Hinh cố nén khóc, cô lùi lại.

“Hình như nước mắt của cô pha lẫn sự cắn rứt, chuyện là thế nào vậy? Tôi đã chết ra sao?” Giọng Vệ Thanh dần gay gắt hơn, ánh mắt sắc như dao đâm vào trái tim Diệp Hinh đau nhói.

“Chị đừng dồn ép tôi…” Hinh thấy sự yếu mềm của lòng cô đã bị nhìn thấu, cô biết lòng cô chôn sâu một nỗi cắn rứt – nếu không có chuyến đến thăm của cô thì Vệ Thanh sẽ không phải chết. Ý nghĩ này vẫn cắn rứt Hinh nay bị phơi ra thật lạnh lùng, đẩy Hinh đến chỗ nát tan một cách tuyệt vọng.

“Có phải là tại cô, có phải tại cô đã…” Vệ Thanh nghẹn giọng, truy hỏi bằng được, cô giơ hai tay, vừa như cầu khẩn, vừa như tỏ ý quyết không cho Hinh đang bước lùi lại có cơ hội được lẩn tránh.

Cuối cùng, Hinh nức nở òa khóc thảm thiết.

Ánh đèn mờ nhạt ở phòng y tá trực ban bỗng sáng lên.

Đã đến giờ giao ban khám phòng. Ông Đằng Lương Tuấn nghe bác sĩ nội trú trực đêm qua báo cáo: nữ bệnh nhân mới vào – cô sinh viên Diệp Hinh – đêm qua lại không ngủ ngon, ông Tuấn cau mày. Hỏi nguyên nhân, thì ra lại là bệnh nhân cũ Uông Lan San lên cơn, sắm ba vai bệnh nhân ngày trước để quấy rối Diệp Hinh.

Uông Lan San!

Ông Tuấn chỉ còn biết lắc đầu. Trong chuyên môn, ông vốn không bao giờ chịu lùi bước, nhưng đối với bệnh nhân San thì ông có cảm giác phải bó tay. Người này mắc chứng nhân cách phân liệt hiếm thấy. Thông thường là, bệnh nhân mang đặc trưng nhân cách của mình và có thêm một đặc trưng nhân cách của một người khác mà đương sự tưởng tượng ra. Hiện tượng “phân thân” thành ba loại nhân cách trở lên là cực kỳ hiếm thấy, mặc dù từng có thông tin nói về các trường hợp phân liệt thành hơn mười loại nhân cách, nhưng phần nhiều lại là chẩn đoán sai, chủ yếu là ở khâu phân tích của chuyên gia thần kinh. Nhưng bệnh nhân San đã trải qua nhiều lần chẩn đoán xác đáng, rằng bà ta có thể “sắm vai” 68 loại nhân cách khác nhau, con số này mỗi năm vẫn đang tăng lên. Vì thế bà ta trở thành bệnh nhân nổi tiếng kỳ lạ của giới y học, các chuyên gia bệnh học thần kinh khắp nơi đã đến nghiên cứu và điều trị - thậm chí các chuyên gia hàng đầu từ Âu – Mỹ đã lặn lội sang đây nghiên cứu tỉ mỉ nhưng vẫn không sao nắm bắt được thực chất. Điều lạ lùng là, ngoài vai nhân cách của mình, thì các vai nhân cách kia không hề là do tưởng tượng ra, mà đều là của những người mà đương sự đã từng tiếp xúc. Đương nhiên, phần lớn cuộc đời bà ta sống trong bệnh viện tâm thần, cho nên, xét về hiện tượng thì thấy rằng các vai nhân cách mà bà ta thể hiện đều là mô phỏng các bệnh nhân tâm thần đã từng nằm ở viện này.

Biên bản của trực ban cho thấy: đêm qua bệnh nhân San lên cơn, lần lượt sắm vai Trang Ái Vân, Tưởng Dục Hồng, Thẩm Vệ Thanh. Dục Hồng và Vệ Thanh đều là sinh viên đại học y Giang Kinh từng nằm viện này. Còn Trang Ái Vân là ai?

Mùa xuân là thời kỳ dễ mắc bệnh thần kinh, các yếu tố kích thích đặc thù nào đó sẽ làm bệnh nặng hơn và tăng số lần lên cơn. Ông Tuấn gần như có thể khẳng định rằng việc Diệp Hinh nhập viện đã khiến bà San trở nên bất an.

Ông Tuấn ghi y lệnh vào bệnh án của Uông Lan San, và nhấn mạnh với y tá: “Các vị đừng quên gọi điện đến phòng làm việc của tôi, nắm vững chương trình tôi bố trí, rồi sắp đặt điều trị theo hướng phân tích tinh thần cho bệnh nhân San, cần phải làm khẩn trương!”

Nhìn qua cửa kính của phòng y tá, ông Tuấn nhìn thấy bà San với cái lưng còng đang dờ dệt bước đi. Ông không sao hiểu nổi: “Bà ta cứ bám riết lấy Diệp Hinh để làm gì nhỉ?”

“Tại sao đêm qua bà San cứ theo dõi mình mãi?”

Hinh vừa tỉnh dậy đã nghĩ ngay đến câu hỏi này.

Hinh bị quấy nhiễu đến khuya, các y tá phải cho uống thuốc an thần, rồi cô mới ngủ được. Bây giờ tỉnh dậy thì trời đã sáng từ bao giờ, các bác sĩ khám phòng theo thông lệ cũng đã kết thúc.

Hinh thấy cô độc chỉ muốn òa khóc.

Mới hôm qua cô còn cho rằng mình cứng cỏi và có bộ não tỉnh táo, có thể thích nghi với môi trường để ráng chịu cho qua giai đoạn này, cô nên nghe lời các bác sĩ để tranh thủ sớm ra khỏi đây. Nhưng sau hai đêm liền phải sợ hãi như thế, cô không biết mình có thể chịu đựng được bao lâu?

Đáng sợ nhất là cảm giác cô độc.

Đã thấy rõ hậu quả của việc “giao lưu” với bà San và chị sẹo mặt là gì rồi. Hinh sẽ không tiếp xúc với bệnh nhân nào khác nữa, điều này trái với bản tính của cô nhưng cô không còn sự lựa chọn nào khác. Tại sao bọn họ lại làm thế? Khiến cho mình như kẻ bị bắt mất hồn vía, lại không cho mình được ngủ yên – rõ ràng là chẳng tử tế gì. Phải chăng – như
“Thẩm Vệ Thanh” nói đêm qua – đây là một “đầm lầy” mỗi lúc một lún sâu? Nhưng dù sao họ cũng đã có “gặt hái”, mình đã thật sự cô độc mất rồi.

Hinh ra khỏi giường, thấy bác sĩ Tuấn đang ngồi ở phòng y tá ghi biên bản khám phòng.

Cô rảo bước đi đến đứng bên ngoài cửa hỏi: “Cháu muốn làm phiền bác sĩ Tuấn một chút!”

Ông Tuấn quay ra nhìn, thấy Diệp Hinh, ông vội đứng lên hỏi thăm: “Đêm qua cô Hinh nghỉ ngơi có tốt không?”

“Cháu muốn hỏi bác sĩ, liệu cháu còn phải ở đây bao lâu nữa?”

Nhìn đôi mắt buồn rười rượi của Hinh, ông Tuấn thấy ái ngại, nhưng ông biết, với vai trò một bác sĩ thần kinh thì cần phải hiểu rằng lý trí phải đứng trên sự thông cảm, ông ôn tồn trả lời: “Kể cũng khó nói rõ, cũng có thể là một hai tháng chẳng hạn, còn tùy thuộc tình hình bình phục của cô.”

“Nhưng… bọn họ sẽ không chịu buông tha cháu.”

Ông Tuấn ngớ ra, nhưng chợt nhớ đến các sự việc xảy ra hai ngày qua đối với Hinh, ông nói: “Đừng lo, chúng tôi sẽ chuyển bệnh nhân đã xử tệ với cô sang buồng khác, bà San chưa có hành vi bạo lực đối với cô, thì tôi sẽ có cách, sẽ điều chỉnh thuốc và điều trị phân tích thần kinh, nhất định sẽ khống chế được bệnh tình của người này…”

“Nhưng cháu vẫn sợ, cháu cảm thấy họ có mục đích gì đó.”

Ông Tuấn quan sát kỹ Diệp Hinh, thấy cô đầu tóc rối tinh, sắc mặt nhợt nhạt. Một cô gái đang mơn mớn sắc xuân mà lại quên chải tóc soi gương, thì đúng là đã từ lâu bị ám ảnh bởi ý nghĩ vu vơ “mình là người bị hại” – khi ở trường, cô ta lo mình sẽ trở thành nạn nhân của “vụ án mưu sát 405”, nay lại cảm thấy có bệnh nhân chưa từng quen biết lăm le hãm hại mình! Cái cảm giác “bị bức hại” là một trong những đặc trưng điển hình của bệnh tâm thần phân liệt.

Việc điều trị cho cô gái này vẫn còn một chặng đường khá dài.

“Cô cứ yên tâm nghỉ ngơi. Giờ hoạt động tự do, hãy chịu khó đi bách bộ, tập thể dục, và gắng đừng nghĩ đến chuyện này. Tôi sẽ nhanh chóng thu xếp để nói chuyện với cô, xem xem nên giúp đỡ cô thế nào là tốt nhất.”

“Cháu mong bác sĩ sẽ cho cháu được sớm ra viện.” Đôi mắt Hinh đầy vẻ cầu xin, nhưng giọng cô rất kiên quyết.

“Sẽ cố gắng sớm nhất, nhưng tôi vẫn phải có trách nhiệm với cô.”

“Nếu có trách nhiệm với cháu thì hãy để cháu rời khỏi đây!” Hinh có phần không kiềm chế được, nói xong, cô có phần hơi hối hận.

“Rời khỏi đây, cô thấy sẽ an toàn hơn hay sao?” Ông Tuấn càng thêm tin chắc Hinh cần phải nằm viện lâu dài, nói câu này, ông cũng cảm thấy mình hơi thiếu kiềm chế.

Hinh đã bị câu này tác động: đúng thế, ở đâu có thể khiến mình cảm thấy an toàn đây?

“Cùng là phải lo lắng sợ hãi, cháu thà sống ở thế giới bên ngoài còn hơn!” Hinh biết khó có thể lay chuyển được sự sắp đặt của ông Tuấn, cô lạnh lùng buông một câu rồi quay ra.

Ngoài kia là ánh mặt trời tươi sáng.

Có lẽ ánh nắng có thể soi sáng lòng ta.

Hinh bước vào ánh nắng mặt trời.

Mấy ngày qua mưa nắng bất thường, lúc này mặt trời lên cao rực rỡ, không khí tươi mát mà mượt mà. Bước vào vườn hoa, Hinh có cảm giác được thư thái hơn. Nhưng từng tốp bệnh nhân đi ngang qua khiến cô lại thấy mình như một đóa hoa rừng cô độc lạc lõng. Lúc này cô dám đánh đổi tất cả để có được một người bạn tri âm mà trò chuyện. Cô thậm chí thấy bức xúc muốn được hét vang trời: hỡi những người mà tôi yêu, hỡi những người mến yêu tôi, mọi người đang ở đâu? Nhưng mẹ cô đã mải miết đi rồi (Hinh có phần ai oán – sự nghiệp, có thật là quan trọng đến thế không?), Âu Dương Sảnh thì nghỉ ở nhà, nhưng Tạ Tốn thì sao?

Anh chàng Tạ Tốn từng nói là yêu mình đâu rồi?

Có lẽ anh ta nghe nói mình phải nằm viện tâm thần, nên nhân đà này đã bỏ rơi mình luôn!

Ý nghĩ này chợt đến, khiến Hinh thấy sống mũi mình cay cay.

Diệp Hinh, thì ra nhà ngươi thật quá ư yếu mềm!

Hinh dường như chẳng còn can đảm để đi tiếp nữa, cô dừng chân bên một gốc cây du to, nhắm mắt lại để ngăn dòng nước mắt đang định trào ra. Hay là mình đã có bệnh thật?

Lòng cô nặng trĩu: lúc này chính cô cũng không nhận ra mình nữa, sự nhạy cảm, nỗi đa nghi này nọ còn dành để cho bao chuyện vặt vãnh bủa vây đè nén trong lòng nữa là, nói gì đến nhớ nhung một anh chàng gần như đã lặn biệt tăm!

Đúng! Đã đến lúc mình nên thật sự lãng quên anh ta!

Trừ phi anh ta bỗng dưng xuất hiện như có phép lạ, đem đến cho mình ánh dương tràn trề đầy ắp!

Khi con người ta cõi lòng gần như nguội lạnh, sắp phải đầu hàng nỗi tuyệt vọng thì mới hay ước mong phép lạ sẽ đến với ta.

Hinh biết mình thật đáng thương, nhưng cô bất lực, ngay nước mắt trào ra cô cũng không ngăn nổi.

Chính lúc hai hàng lệ thấm ướt mi, thì có một bàn tay đưa ra lau nước mắt cho Hinh.

Hệt như Tạ Tốn ngày nào.

Đúng là Tạ Tốn.

Ý nghĩ đầu tiên của Hinh là đi gặp bác sĩ Tuấn, ông ta nói không sai: mình bị ảo giác quá mạnh, cần được điều trị thần kinh một cách có bài bản. Nhưng Hinh nhìn kỹ, và đụng tay vào nữa, cô có được một kết luận “hão huyền”: đúng là phép lạ đã xuất hiện!

Hinh thấy hơi hoang mang không biết nên đón nhận vô số cảm giác bất ngờ này như thế nào. Cô không nói được một lời, đột ngột đứng dậy bước đi như một con nai vàng bất chợt bị giật mình. Có lẽ vì cảnh trùng phùng này đã được “tập dượt” trong đầu cô quá nhiều lần, đến khi lên sàn diễn thật thì lại “bị khê” vì hồi hộp trước khán giả đông đúc!
Với anh, vẻ mặt mình nên lạnh lùng? Hay là nên khóc than trách móc? Hay là hãy mặc anh ấy ôm choàng, mình sẽ kể với anh bao nỗi nhớ nhung?

Có lẽ mình chỉ nên hỏi một câu: tại sao anh không để cho em quên hẳn anh đi?

“Hinh em, anh đã đến với em rồi mà!”

“Em dường như cũng mong anh đến...” Hinh định nói thế, nhưng cô lại thôi.

“Mấy hôm nay anh không sao tìm được cơ hội để thoát thân, tìm em cũng rất khó, anh vẫn từng giây từng phút nhớ đến em, có lúc nghĩ mãi, nghĩ đến buốt cả óc!”

Đúng thế: nhà trường rất nghi hoặc về các hành động của mình – nhất là về chuyến đi Nghi Hưng – thì tất nhiên sẽ không buông tha anh. Anh biết không, lúc nhớ anh, em cũng nhớ đến buốt cả óc!

“Bây giờ thì anh đã được tự do. Anh đã nghĩ rồi, em coi anh là người thế nào thì tùy, nhưng anh sẽ ngày ngày vào thăm em, cùng ngồi với em ở vườn hoa này… Anh muốn được mãi mãi ở bên em!” Hinh biết khi Tốn nói những câu này không hề e ngại bộc lộ những cảm nghĩ xuất phát tự đáy lòng.

Cuối cùng Hinh cũng dừng những bước chân vội vã, quay trở lại ngắm Tạ Tốn từ đầu đến chân. Tốn mặc chiếc áo choàng dài trắng dài rộng, rõ ràng là anh đã “trà trộn” để vào đây với danh nghĩa một bác sĩ. Ánh mắt anh vẫn kiên định và trong sáng như xưa. Hinh thấy mình không còn ước mong gì khác nữa.

Nhưng nước mắt “đáng ghét” lại trào ra, Hinh thầm hạ quyết tâm: mình khóc lần này là lần cuối cùng. Thế này cũng hay, mình lại được người mình yêu lau nước mắt cho!

Tốn ủ hai bàn tay lên đôi má Hinh: “Em đã gầy đi!”

Liệu có giống hệt như mình đã “tập dượt” không? Quyết tâm của Hinh vừa đưa ra cách đây vài giây đồng hồ, giờ đã tan biến!

Hinh cầm tay Tốn áp lên môi như định hôn, nhưng Hinh lại khẽ cắn một cái vào tay anh.
Tốn vờ kêu tướng lên, nhìn vết răng hằn nhẹ trên tay, rồi lại nhìn Hinh: “Em không mở miệng thì thôi, hễ mở miệng là cắn người ta luôn!”

Rồi cũng đến lúc Hinh nói: “Em là một con bé điên, anh nên tránh xa một chút thì hơn!”

Tốn ôm choàng lấy Hinh: “Đừng nói vớ vẩn, em tỉnh táo hơn bất cứ ai! Và đáng nói hơn cả là mạnh mẽ hơn bất cứ ai, anh xấu hổ vì mình còn thua xa, vì thế anh càng nể trọng và mến yêu em!”

Hinh thấy một vài bệnh nhân xung quanh đang tò mò nhìn cô và Tốn, nhưng thôi, kệ họ!
Hinh ngả đầu vào vai anh khẽ nói: “Đừng cho em đi tàu bay giấy nữa! Em đang định nói với anh – nghe rồi, thì đừng có mà tự kiêu: vào lúc như thế này anh vẫn không bỏ rơi em, thì sẽ làm cho em càng thêm mạnh mẽ!”

“Mạnh mẽ, thể hiện bằng cách cắn người ta à? Anh thấy em chỉ “mạnh răng” thì có!”

“Anh hãy nghiêm chỉnh một chút đi! Em có rất nhiều điều muốn nói với anh.” Nhưng rốt cuộc Hinh không muốn giữa thanh thiên bạch nhật “bất nhã” với mọi người xung quanh lâu hơn nữa, Hinh vuốt lại mái tóc cho gọn, cùng Tốn lững thững bước trong vườn hoa.

“Có phải những ngày vừa qua nhà trường không ngớt căn vặn anh không?” Nói chuyện với Tốn, bao giờ Hinh cũng thấy rất nhẹ nhõm dễ chịu.

“Chứ còn gì nữa! Các bố ấy cứ hỏi anh đi với em khi nào?”

Cũng như Hinh, Tốn thích vận dụng lời bài hát “Không còn gì nữa” của Thôi Kiện. “Và, đi đến nơi nào, nhìn thấy những gì, vân vân! Anh nói thật nhé: ít hôm nay Diệp Hinh – Tạ Tốn trở thành “sao” của toàn trường, có thể gọi là “một cặp tình nhân hạng sao”, khiến vô số người vẩn vơ mơ tưởng!”

“Thế mà anh vẫn dám vào đây?”

“Vì anh muốn gặp em!”

“Có một chuyện rất lạ em vẫn muốn hỏi anh: hôm nhà trường muốn “tóm” em đi viện, em đã chạy trốn theo lối vườn ươm cây mà em và anh đi hồi nọ. Khi ra cổng, thì gặp ngay một chiếc tắc-xi đang đợi, lái xe nói là xe để chở em. Có phải là anh đã bố trí không?”

“Không! Vì lúc đó anh không hề biết tình hình em ra sao, thì bố trí gì được?”

“Thế thì lạ thật! Nhưng ngay nhân viên điều độ cũng nói là có một phụ nữ đã gọi xe, thì người ấy có thể là ai?”

“Những chuyện quái lạ đã xảy ra với em đâu phải là ít? Anh cho rằng chỉ là thêm một chuyện nữa mà thôi!” Tốn nhún vai.

“Nhưng chính anh cũng đã khích lệ em tìm hiểu cho rõ ngọn ngành kia ma, sao bây giờ lại tỏ ra khôn ngoan để cầu an à?”

“Nhưng phải tùy lúc! Hiện giờ em đang phờ phạc thế này, không phải lúc cần đau đầu suy nghĩ để làm Sê-lốc Hôm, mà cần phải nghỉ ngơi cho khỏe đã!”

“Nhưng ngày 16 tháng 6 sắp đến rồi còn gì!”

“Có lúc anh đã nghĩ rằng, đến hôm đó nếu em vẫn ở trong bệnh viện được canh gác nghiêm ngặt này, thì sẽ tránh được tai họa cũng nên!”

Thoạt đầu Hinh thấy Tốn nói thật có lý, nhưng ngẫm nghĩ một lát, Hinh lắc đầu: “Dù em tránh thoát, thì tai họa sẽ lại giáng xuống đầu người khác! Năm xưa, ngày 16 tháng 6 Tưởng Dục Hồng đang nằm viện, đúng là được an toàn. Nhưng bạn cùng phòng là Du Tĩnh phải chết. Và, năm sau chính Tưởng Dục Hồng cũng vẫn lại nhảy lầu. Mấy hôm nay em suy nghĩ rất nhiều, cảm thấy rằng mỗi năm lại có một người được ‘lựa chọn’, bị hành hạ đủ kiểu, cuối cùng vẫn cứ là chết! Hình như người được lựa chọn năm nay là em…”

Tốn bỗng dừng bước, nắm chặt hai vai Hinh, lớn tiếng: “Em đừng nói vớ vẩn! Em nghe đâu cái lập luận vô lý này thế? Em đang đặt bẫy cho chính mình, em có biết không? Em đang giả tưởng rằng mình là người bị hại, sau đó đi sắm vai nạn nhân, điều này còn đáng sợ hơn cả việc em bị hiểu lầm!”

Lời của Tốn như một trận mưa mát lạnh đã thức tỉnh Hinh: đúng, hồi nọ Du Thư Lượng cũng nói như thế. Rành rành là mình đang sắm vai nạn nhân. Và, người hiện đang hối thúc mình nhanh chóng nhập vai, là bà Uông Lan San. Bà ta đang tiếp cận mình bằng đặc trưng nhân cách của Dục Hồng và Vệ Thanh, chính là ngầm bảo mình rằng không thể chống lại số phận!

Lúc này Hinh càng thêm biết ơn Tạ Tốn.

Người ta thường bảo “phúc bất trùng lai” nhưng hôm nay Diệp Hinh không chỉ rạng rỡ sắc xuân vì Tạ Tốn vào thăm. Sau lúc Tạ Tốn ra về không lâu, thì Du Thư Lượng cũng vào, thấy Hinh tuy sắc mặt hơi nhợt nhạt nhưng ánh mắt lại rất vui, Lượng thầm băn khoăn, anh hỏi: “Hinh… có thích nghi được không?”

“Thế mà cũng phải hỏi? Anh cứ thử vào đây ở khắc biết!”

Lúc này Hinh mới cảm nhận được rằng có rất nhiều người đang quan tâm đến cô, cảm giác cô độc lúc trước rất không nên có!

“Hinh thật là cứng cỏi, tôi đã lo lắng vô ích rồi.”

“Cảm ơn anh đã báo cho em biết tin sẽ bị nằm viện, tiếc rằng em đã không trốn thoát. Nhất là hôm nay anh lại vào thăm em nữa! Em nảy ra một ý này: trở về, anh có thể nói để trạm phát thanh phỏng vấn anh. Anh cứ nói là anh có tư liệu giá trị về Diệp Hinh, cô ta đang vui vẻ nằm viện tâm thần, và nhớ khen em cứng cỏi kiên cường!”

Cô bé này còn vui vẻ nói đùa được, hay thật! Lượng không thể không khâm phục cô sinh viên đàn em này: “Chắc Hinh cũng đã nghe biết những tin đồn này nọ, em đừng bận tâm làm gì!”

“Nhưng em cũng thích nghe những tin đồn như kiểu… ‘một cặp tình nhân hạng sao’.”
Lượng đang đoán rằng Hinh sẽ nói kiểu “hỏi ngược”, anh cười ngượng nghịu: “Em thính tai thật đấy! Anh thì anh không tin những lời đồn đại ấy! Em và Tạ Tốn không hề có chuyện gì hết!”

“Có thì đã sao ạ? Anh ấy vừa mới vào thăm em! Hinh cười rất trong sáng và hồn nhiên, cô đang đắm mình trong men say nồng nàn – Tốn vừa ra về chưa đến nửa giờ Hinh đã lại thấy nhớ rồi!

“Gì cơ? Anh ấy vừa mới vào thăm em à?” Lượng rất ngạc nhiên, miệng anh đang định nói gì đó, nhưng anh ngừng lại…

Hinh thấy Lượng có vẻ khác lạ: “Sao ạ? Tai sao anh ấy lại không thể vào thăm em chứ?”

“Đương nhiên là có thể. Vậy tức là… đúng là hai người đã…”

“Rất kỳ lạ hay sao ạ? Nếu không phải thế thì họ đồn đại gì được? Anh ấy và em cùng đi Nghi Hưng, anh ấy vừa nói rằng nhà trường đã biết từ lâu rồi, công an Nghi Hưng cũng đã đến hỏi anh ấy.”

“Đúng. Em nói đúng. Chỉ tại… tại anh không ngờ mà thôi. Bây giờ anh phải đi, lần sau anh lại vào, em có cần anh mang cho thứ gì không? Ví dụ, các món ăn em thích…”

“Chắc em đoán không sai tý nào: anh đã mê một chị nào đó, cho nên anh đã trở nên rất chu đáo. Em cảm ơn anh, không cần đâu! Mẹ em mới đi có vài hôm, đã chuẩn bị cho em các thứ, dùng đến mấy năm cũng không hết!”

Lượng bỗng nghệt ra, nụ cười “bốn mùa thường trực” của anh bỗng chững lại, mắt anh chăm chú nhìn ra xa phía sau lưng Hinh.

Hinh quay lại nhìn, cũng thấy kinh ngạc, thấy bên ngoài ô kính cửa sổ phòng tiếp khách, có một người đang đứng nhìn họ không chớp mắt. Chính là bà Uông Lan San.


--hết chương--

sarujun
20-02-2011, 02:40 PM
Chương 18
Cuộc phân tích hãi hùng


“Trái tim cô đã bị anh ta chiếm mất một khoảng lớn!” Hinh về đến buồng bệnh nhân, bỗng nghe tiếng bà San nói ở phía sau. May mà Hinh có trí nhớ khá tốt, nếu không, mấy hôm nay bà ta đã sắm nhiều vai như thế - cô khó mà nhận ra đó là tiếng bà ta.

“Bà nói về anh ấy à? Anh ấy chỉ là một bạn đồng hương của cháu.” Hinh không muốn để ý nhiều đến bà ta, nhưng vì nể trọng người già và cũng không nỡ cau có lạnh nhạt nên cô chỉ đáp lại một câu cho phải phép.

“Tôi không nói anh ta, mà là nói anh ta!”

Thật không sao hiểu nổi nữa.

Hinh biết, ngay trong lúc bình thường không “sắm vai” gì, thì bà San đã là người rất “khó khăn”, cô bèn gật đầu, rồi đi về phía giường mình. Nhưng tiếng bước chân vẫn cứ ở phía sau cô, tiếng nói cũng bám theo: “Thật không sao hiểu nổi nữa!”

“Bà nói gì thế?” Hinh quay người lại nhìn bà San. Tại sao bà ta có thể biết cô đang nghĩ gì? Thực ra bà ta là một bệnh nhân như thế nào?

“Tôi là một bệnh nhân như thế nào, chẳng lẽ họ không nói với cô à? Tôi là một người đa nhân cách – một loại bệnh thần kinh khiến người ta cười nhạo nhất!” Hình như bà ta lại đọc được ý nghĩ của Hinh.

“Bà có thể đoán biết ý nghĩ của cháu à?” Đang giữa ban ngày thật, nhưng Hinh lại cảm thấy hơi sờ sợ.

“Cho nên vừa nãy tôi nói là anh ta, chứ không phải là anh ta!”

“Ai đã chiếm một khoảng lớn trong trái tim cháu? Bà có thể nói rõ là ai không?” Nếu bà San nói ra đúng tên Tạ Tốn, liệu có thể coi bà ta là “dị nhân” không đây?

“Cô chẳng nên biết thì vẫn hơn!”

“Thực là nực cười! Tất nhiên là cháu biết mình nhớ đến ai chứ!” Hinh bắt đầu cho rằng bà
San chỉ như các thầy tướng số giang hồ cố làm ra vẻ bí hiểm, cô bèn chớt nhả dùng cái câu nói kiểu nữ văn sĩ Quỳnh Dao, chắc sẽ làm cho bà ta phát ngán, để “cảnh tỉnh” bà ta.

“Nhớ nhung ai đó, là một việc nguy hiểm, đã dấn một bước rồi thì khó bề quay trở lại.”
Hinh như bị gai đâm, ngây người nhìn bà San, rồi thong thả hỏi: “Cháu nghe không hiểu mấy, bà thử ví dụ xem, một việc như thế nào gọi là đã dấn bước rồi khó bề quay trở lại?”

“Thôi không nói làm gì, kẻo nói ra, tôi e cô không chịu đựng nổi.” Tại sao … câu trả lời này nghe quen quen?

“Bà cứ nói đi, cháu đã chuẩn bị tinh thần rồi!” Cảm giác tuyệt vọng bắt đầu trỗi dậy trong Hinh.

“Ví dụ, người ta nhảy lầu tự tử. Đã nhảy ra rồi thì quay lại sao được nữa?”
Đây chính là câu đối thoại giữa Tạ Tốn và Hinh khi ngồi trên tàu hỏa hồi nọ.

“Thực ra bà muốn gì? Tại sao bà không chịu buông tha tôi?” Hinh gần như hét lên một cách rồ dại, không chờ bà San trả lời nữa, cô bước nhanh về giường của mình nằm vật xuống, toàn thân run rẩy. Cô định òa khóc, nhưng lại nhận ra rằng mình không có nước mắt.

Tạ Tốn, anh hãy mau đến với em, đưa em ra khỏi chốn này!

“Tiếc rằng anh chẳng phải siêu nhân, nếu không anh sẽ đưa em rời khỏi đây, sẽ đi thật xa, đi khỏi trường đại học, đi khỏi cái thành phố này!” Nghe Hinh kể xong mọi chuyện, Tốn nhíu đôi mày rậm, dằn giọng nói.

“Nếu thế thì biến thành một đôi rủ nhau đi trốn à? Mẹ em sẽ ghét, sẽ không thèm nhìn mặt em nữa! Em chỉ muốn mau được về trường học tập như bình thường.” Hôm nay lại là một buổi chiều xuân nắng vàng rực rỡ, hai bên con đường rải đá cuội trong khu vườn, dường như mọi bông hoa trong vườn đều đang nở rộ, lại có những cánh bướm đang rập rờn sánh đôi. Hinh ngả người trong vòng tay Tốn, lòng cô xốn xang. Có Tốn kề bên, Hinh cảm thấy cuộc sống lại êm đềm như trước. Chỉ tiếc rằng anh không thể suốt ngày sớm tối ở bên Hinh.

“Anh nói em đừng lấy làm lạ, anh cho rằng vào lúc nhạy cảm này, em ở lại đây không hẳn là nơi không an toàn đâu!”

“Sao anh lại có ý nghĩ này?” Hinh cảm thấy Tốn lại đang tuyên bố những ý tưởng kỳ cục, nhưng cũng không phải là không có lý. “Anh nói cứ như mình là bác sĩ chuyên trách của em, ông ấy cũng đã nói như thế. Có điều, đây chỉ là cách né tránh tiêu cực, chứ không phải là biện pháp để thật sự giải quyết vấn đề. Năm xưa Tưởng Dục Hồng đã nằm viện tâm thần, thoát chết năm đầu, nhưng vẫn không tránh được tai họa năm sau.”

“Cho nên em vẫn muốn điều tra rõ sự thật? Nhưng thời gian lại không ủng hộ em, anh đoán chắc em có cảm giác mỗi ngày dài như một năm.”

“Nhưng khi anh đến, thì mỗi ngày của em lại chỉ ngắn như một giây! Có lúc em thật sự lo mình sẽ lún vào quá sâu, nếu thế thì sẽ khó mà thoát ra được.” Hinh chợt thấy rùng mình, cô lại nhớ đến cuộc nói chuyện với bà San hôm qua.

Hinh biết, bà ta sẽ không buông tha cô.

Hinh thậm chí cảm thấy đôi mắt bà San đang nhìn chằm chằm vào cô, đến nỗi sống lưng cô lạnh toát, cô bất giác nhìn quanh bốn phía tìm kiếm. Tốn chào từ biệt, cô cũng không nghe thấy.

Dưới gốc cây sung, bà San đang ngồi trên chiếc ghế mây, tay phải cầm cây bút chì.

Thấy Hinh ngoái nhìn rồi bước đến, mép bà hơi động đậy – vừa giống như buồn bã vì thấy xót thương, lại vừa giống như cười khẩy nảy sinh từ nỗi oán hờn.

“Bà đang vẽ thật không đấy? Khi vẽ thì nên tập trung tâm trí mới đúng, nhưng bà thì lại cứ nhìn cháu, tại sao thế?” Hinh đến bên gốc cây, nhưng cô lại “cảnh giác” dừng bước.

“Cô rất xinh đẹp, con gái đẹp lại mặc áo bệnh nhân trắng tinh đã là một bức tranh tuyệt mỹ rồi, đâu cần tôi phải làm cái việc vẽ rắn thêm chân!”

“Thế thì bà cầm giấy vẽ bút vẽ, để giả vờ vẽ cái gì ạ?”

Bà San thở dài: “Thấy cảnh đẹp, thì quấy quá vẽ chơi, hành hạ mấy tờ giấy!”

“Nhưng nếu bà vẽ đẹp, thì không gọi là hành hạ gì được!” Hinh cảm thấy lời lẽ của bà San chứa đầy ẩn ý sâu xa.

“Cô thử nhìn xem, tôi vẽ ra sao?” Bà San đưa cho Hinh bức vẽ.

Hinh thoáng do dự, nhưng rồi cũng đón lấy, chỉ thoáng nhìn cô đã phải im bặt tiếng cười:

“Đây là cảnh gì vậy? Lúc này mặt trời lên cao nắng vàng rực rỡ, trăm hoa khoe sắc… nhưng bà lại vẽ gió táp mưa sa, hoa rơi lả tả, và người này thì … được, cháu công nhận là bà vẽ rất giống cháu, cháu không phải là rắn, bà cũng không vẽ thêm chân, nhưng vẽ cô gái toàn thân ướt sũng này thì không thể nào là cảnh thật trước mắt!”

Bà San rướn người cầm lại bức vẽ, mồm lẩm bẩm: “Tri âm hiếm thấy, đứt dây đàn nào còn ai nghe!”

Hinh định nói “chẳng ai hiểu nổi bà, mà bà còn đòi có tri âm!” nhưng chưa kịp nói thì Hinh ngớ ra “gay rồi!” Thì ra cô đứng dưới cây nên không để ý, chẳng biết mây đen bốn bề đang cuồn cuộn, tiếng sấm mùa xuân vang rền, chỉ trong nháy mắt, mưa to đổ ập xuống!
Hinh vẫn đứng đó, và thấy càng thêm khiếp sợ bà San: bà ta có khả năng tiên tri!
Gió mạnh đến cùng mưa rào, những đóa hoa đang nở rộ lập tức bị đập tả tơi, cánh hoa rơi quá nửa, tất cả bỗng tan hoang. Cây sung này tuy lá cành rậm rạp nhưng cũng không chịu nổi trận mưa như trút nước, toàn thân Hinh ướt đẫm. Tờ giấy trên tấm bảng vẽ tất nhiên cũng bị “hành hạ”!

“Bà nói đi, bà dõi nhìn cháu mãi, bà thấy những gì?” Hinh nói gần như cầu xin.

“Tôi biết lòng cô đang rất mâu thuẫn, cô sợ sẽ lún vào quá sâu. Cô vốn nghĩ mình rất cứng cỏi và tự chủ, nay lại mắc mớ với một con người thì cô khó tránh khỏi phải nghĩ ngợi.” Bà ta nói như một chuyên gia phân tích tâm lý siêu hạng.

“Bà còn chưa trả lời cháu: bà nói cháu đang nghĩ đến một người, người đó là ai? Tên là gì?”

“Tên, chỉ là một thứ tín hiệu mà thôi!”

“Thì ra là bà không biết!”

Bà San thở dài thườn thượt: “Giả sử tôi nói tên là ‘Tạ Tốn’, thì có thể nói lên điều gì? Cũng chỉ là một cái tên gọi mà thôi!”

“Nhưng trong lòng cháu, thì cái tên này nói lên tầm quan trọng của anh ta đối với cháu.” Hinh bắt đầu cảm thấy sự bí hiểm của bà San không chỉ là có “đa nhân cách”, cô bèn thổ lộ tâm tình.

“Thứ đang xâm chiếm lòng cô, không phải là một cái tên, mà là một bi kịch.”

Hinh hơi nao núng: “Bà lại nói hão huyền chẳng đâu vào đâu! Tại sao bà lại biết? Trừ phi bà thực sự có thể nhìn thấu tim gan người khác? Lẽ nào bà thực sự có khả năng tiên đoán tương lai?”

“Cô có biết tại sao tôi phải vào viện này bốn chục năm nay không?”

Hinh không hỏi dồn nữa, cô ngẫm nghĩ. Mấy câu nói của bà San đã tác động mạnh đến cô: nếu bà già này nói đúng (đã gọi ra tên Tạ Tốn, đã biết rõ tâm lý của cô, đã sắm vai Tưởng Dục Hồng và Thẩm Vệ Thanh rất chuẩn – điều đáng sợ là bà ta hầu như chưa nói sai một câu nào) thì cái bi kịch kia sẽ là gì? Chẳng lẽ mình không thoát khỏi kết cục của “vụ án mưu sát 405”? Hay là bà ta vẫn đang tiếp tục sắp đặt để đưa mình vào vai “nạn nhân”, cùng bà ta sắm vai cho thật giống?

Tại sao bà ta phải làm như vậy?

“Trang Ái Văn là ai?” Hih cảm thấy có lẽ mọi sự bí ẩn đều liên quan đến cái nhân cách bí hiểm của bà San: áo trắng, tóc dài, tiếng hát tuyệt vời, và … khuôn mặt nát bươm nữa!
Đôi mắt già nua của bà San thoáng ánh lên một tia sáng rạo rực của tuổi xuân, tuy chỉ thoáng ánh lên nhưng đã lắng đọng trong đôi mắt thẳm sâu của Hinh.

“Mưa mỗi lúc một to, tôi cũng mệt rồi. Các cô y tá cũng kém tận tình, chẳng thiết gọi chúng ta vào nhà. Bác sĩ Tuấn nói tôi đang ở giai đoạn lên cơn nguy hiểm, không nên để cho bị tác động nhiều. Tôi phải vào nghỉ đã.”

Bây giờ đến lượt cháu không buông tha bà.

“Bà hãy nói xem chị ta là ai? Nếu bà không nói, cháu sẽ đoán phứa lên. Cháu nghĩ, chắc chị ta phải là một nhân vật rất quan trọng trong cuộc đời của bà. Có lẽ là một người mà bà rất mến yêu. Bà mê điện ảnh, chắc vì hồi trẻ bà đã từng mong làm ngôi sao màn bạc, cho nên bà mới mô phỏng những con người bà đã từng tiếp xúc và gây ấn tượng mạnh cho bà. Trương Ái Văn là thần tượng của bà hồi trẻ, chắc chị ấy rất đẹp, trang nhã thanh cao, có giọng nói như của một thiên sứ. Chị ấy là cô gái rất tuyệt vời trong con mắt của bà. Nhưng tại sao chị ấy lại mang chiếc mặt nạ nát bươm? Hay là chị ấy có khuôn mặt nát bươm thật?” Nói đến câu cuối cùng, Hinh cũng như đang “u mê”.

Bà San bỗng đứng thẳng lên bước lại gần Hinh giật phắt lấy bức vẽ ném đi, nắm thật chặt hai cánh tay Hinh, khiến cô thấy đau tay: “Cô có muốn tôi cho cô biết thật không?

Tôi đã nhìn thấy…” Bỗng toàn thân bà San run lên bần bật, da thịt trên khuôn mặt già nua rúm ró biến dạng.

“Bà đã nhìn thấy cái gì?”

“Tôi đã nhìn thấy … cô ấy … ở ngay chính cô!” Nói xong, bà San như trút được một gánh nặng, rồi cười rất kinh dị.

Bà Kiều Doanh đã tổ chức xong đợt hoạt động thời trang, trong khi chờ một thách thức tiếp theo, bà muốn tranh thủ về Giang Kinh một tuần. Bấy lâu nay, cảm giác cắn rứt đang dày vò Kiều Doanh: vào lúc cô con gái rất cần được quan tâm thì bà lại đành phải bôn ba vì “sự nghiệp”. Cũng may, bà thấy Diệp Hinh tươi tỉnh hơn trước, hình như cô không mảy may tỏ ý oán trách bà, trái lại, cô nắm tay mẹ trò chuyện liến thoắng, lời lẽ cũng không gợn chút kỳ dị lạ lùng. Bà cho rằng trước đây mình đã quyết định đúng, đồng ý với nhà trường và bệnh viện đưa Hinh vào nằm viện tâm thần, nên mới có được chuyển biến tốt như hiện nay. Cảm giác cắn rứt trong bà cũng vơi đi ít nhiều.

Được gặp mẹ, Hinh rất đỗi vui mừng. Nhất là khi mẹ nói sẽ đến với cô những một tuần, cô càng vui sướng hơn.

Trong lúc trò chuyện việc nhà với mẹ, Hinh nghĩ ngợi “có nên giới thiệu Tạ Tốn với mẹ không nhỉ?”

Mẹ không thể không nghe nhắc đến cái tên Tạ Tốn, cái tên này cùng với tên mình đã trở thành “tiếng xấu” trong trường rồi cũng nên!

Hinh nghĩ đi nghĩ lại mãi, rồi kết luận phải chờ thời cơ chín muồi đã, rồi mới giới thiệu với mẹ về “người tình hạng sao” Tạ Tốn.

Hinh ngày nào cũng sống trong sự khắc khoải đợi chờ Tốn. Khi Tốn đến, là quãng thời gian rực sáng của một ngày. Chắc anh đã phải trốn học khá nhiều, có hôm anh vào thăm Hinh đến vài lần. Hinh lo Tốn sẽ học hành sa sút thì gay. Tốn cười: “Càng hay, anh sẽ chờ em ra viện để cùng nhau học bù!”

“Hôm nay mẹ em nói là đã gặp bác sĩ Điền để bàn về bệnh tình của em. Ngày mai ông Điền sẽ tổ chức buổi đánh giá về em, mong sao ông ấy sẽ cho em ra viện. Em có cảm giác rằng ông ấy ngày càng tin em hơn.”

“Thế thì quá hay, chúng ta sẽ luôn luôn được ở bên nhau. Nhưng chỉ sợ lúc đó em lại ngán anh mất thôi!”

Hinh biết là Tốn nói đùa, hoặc nên nói là Tốn đang “vờ lỏng tay để lại tóm cho chặt”, cô chỉ im lặng mỉm cười nhìn anh, và thầm nghĩ “anh chàng ngố ạ, anh có biết ít hôm nay em đợi chờ anh và anh đến với em, gộp cả lại đã đủ để em nặng lòng với anh cả đời rồi không?” Hinh bỗng nhớ lại cái bài hát ngày nào, bèn hỏi: “Anh chỉ chuyển nói úp mở nửa vời, anh còn chưa cho em biết câu chuyện ở phía sau bài hát ‘Chờ đợi, đợi chờ’ là như thế nào!”

“Cứ nên chờ em ra viện đã, rồi hãy hay. Kể các chuyện sinh tử biệt ly vào lúc này, thì chỉ bất lợi cho tâm trạng của em. Em ở đây đã khó mà nghỉ ngơi yên ổn rồi, không nên khuấy động gì thêm kẻo sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá của bác sĩ.”

“Nói lời phải giữ lấy lời, sau khi em ra viện, anh phải cho em biết đấy nhé!”

“Anh sẽ giữ lời, cũng như đã hứa là ngày nào cũng vào đây thăm em vậy.”

“Trước hết tôi phải nói rõ với cô Hinh rằng, hôm nay tôi gặp riêng cô để nói về vấn đề đánh giá là nằm trong khuôn khổ chuyên môn của tôi, nhưng cũng có phần gọi là “cầm đèn chạy trước ô tô”, vì cô là bệnh nhân của bác sĩ Tuấn, nên sau khi kết luận đánh giá rồi, tôi vẫn cần phải bàn với bác sĩ Tuấn. Ông ấy là thầy thuốc hàng đầu về chuyên ngành này, hai chúng tôi sẽ cùng đưa ra một kết luận hợp lý.” Bác sĩ Đình nói chậm rãi, ông rót một cốc nước khoáng mời Hinh. Cách nói của ông cũng nhạt nhẽo vô vị như cốc nước này, chứ không có sức lôi cuốn như cách nói của bác sĩ Tuấn.

“Có phải hiện nay cô vẫn hay nghĩ ngợi về ‘vụ án mưu sát 405’ không?”

“Xin nói thật, cháu không thể không hề nghĩ ngợi, nhưng cháu càng ngày càng cảm thấy rằng: trước kia cháu hay vương vấn về chuyện này, thực chất chỉ là hiện tượng tâm lý bị ám ảnh bởi các tình tiết lịch sử và các lời đồn đại ly kỳ. Cháu cũng có bị ảnh hưởng – ít ra là ảnh hưởng đến việc học tập, nhưng cháu không cho rằng đã đến mức gọi là tâm thần phân liệt!”

“Nếu ít hôm nữa để cô ra viện, thì cô không sợ rằng mình sẽ trở thành nạn nhân thứ 13 hay sao?” Ông Đình chợt thấy không biết mình nên hay không nên tin vào lời của Diệp Hinh. Mấy hôm nay hình như cô ta đã trải qua một chuyện gì đó.

“Tất nhiên là cháu sợ. Không dễ gì mà gỡ bỏ được nỗi ám ảnh tâm lý kia, nhưng cháu tin rằng nhà trường sẽ bố trí bảo vệ chu đáo căn phòng ký túc xá của chúng cháu.”

“Nghe nói trước đây nhà trường đã từng có biện pháp an toàn, nhưng vẫn không ngăn chặn được, đã khiến người ta có cảm giác rằng không sao tránh thoát!”

“Cháu thật sự không tin bất cứ điều gì gọi là số phận an bài, cháu chỉ tin rằng tuổi xuân phơi phới của mình cần được nâng niu gìn giữ.”

Cô sống ở đây có tạm gọi là thích nghi không?”

“Thoạt đầu thì cháu không hợp lắm, ban đêm luôn ồn ào không sao ngủ được, nhưng mấy hôm nay thì đã khá hơn. Các thầy các bạn cũng hay vào thăm, đem đến cho cháu tình cảm đầm ấm của tập thể…”

“Cô đã từng nhắc đến … tôi đang nghĩ xem cô nên nói là … một người bạn trai, một người bạn học tên là Tạ Tốn. Anh ấy có vào thăm cô không?”

Đang trả lời rất lưu loát trôi chảy, Hinh bỗng im bặt. Mình có nên nói thật không nhỉ? Mấy câu vừa nói, là cảm nhận rất chân thật của Hinh – tuy hơi thi vị hóa một chút. Trong trường đã đồn đại như thế, thì có lẽ các bác sĩ cũng đã biết cả, mình tội gì phải phụ họa củng cố thêm? Chưa biết chừng nhà trường lại còn cho rằng Tạ Tốn là nhân tố đáng kể khiến mình “có vấn đề thần kinh”! Nếu bây giờ mình khai rằng Tạ Tốn hằng ngày vào đây vài lần thì sợ rằng sẽ bất lợi cho anh ấy, và tình hình sẽ càng thêm rối. Anh ấy vào đây lần nào cũng đều là với tư thế của kiến thực tập sinh, cũng không có ai biết rỗ anh ấy là ai kia mà!

Hinh bèn gật đầu: “Nói anh ta là bạn trai của cháu thì không thật xác đáng, từ khi cháu nằm viện, anh ta chưa vào thăm cháu lần nào cả. Trước đây, cháu chỉ có một hình cảm mơ hồ không rõ rệt với anh ta, khi bị áp lực quá căng, cháu có hơi nghĩ quá lên về sự tồn tại của anh ta. Thực ra anh ta chỉ là một bạn học khác lớp, chúng cháu không có quan hệ gì thân thiết.”

Ông Đình thấy Hinh đang sôi nổi bỗng trở nên trầm lặng, nhưng nói năng vẫn rành rọt đâu ra đấy, ông hiểu cô khó tránh khỏi những thăng trầm về tình cảm, nhất là trong những ngày như thế này. Có thể tháo gỡ được, thực không dễ dàng gì, rõ ràng là cô ta đang rất cố gắng.

“Từ đầu đến cuối, mọi câu trả lời của cô ấy đều không có điểm nào mơ hồ né tránh, cũng không có điểm nào không phù hợp với thực tế. Nói cách khác, tức là cô Hinh không có bất cứ dấu hiệu nào tương tự như chứng bệnh ảo giác. Cô ấy rất chân thật, rất biết suy nghĩ, thậm chí còn biết phân tích tại sao mình lại có nhiều hành vi khiến cho người ta thấy khó hiểu như thế…”

“Ý bác sĩ Đình là … cô ấy có thể ra viện?” Bác sĩ Tuấn nhìn tập bệnh án của Diệp Hinh đặt ở trước mặt, nhưng ông không đọc. Ông Tuấn vẫn không thể hiểu nổi tại sao ông Đình cứ “lệch pha” với mình trong ca Diệp Hinh này.

“Tôi vẫn cho rằng lúc đầu cho nhập viện là không thật cần thiết! Đúng là cô ta có hiện tượng ảo giác, bản thân cũng không thể giải thích rõ được, nhưng chỉ cần được tư vấn tâm lý là đủ rồi. Bác sĩ Tuấn là chuyên gia ở lĩnh vực này, nhưng hình như anh chưa bắt đầu xúc tiến điều trị cho cô Hinh, mà mới chỉ cho dùng thuốc. Tuy nhiên, hiện nay cô ấy cũng không cần thiết phải được tăng cường điều trị nữa!”

Ông ta lại bắt đầu chỉ trích mình điều trị sai? Ông Tuấn bắt đầu thấy nóng mặt nhưng vẫn cố kiềm chế: “Cô Hinh mới chỉ nhập viện nửa tháng nay, hiệu quả dùng thuốc cũng đang rất ổn. Lịch trình công tác của tôi thì kín đặc, còn rất nhiều ca cần được điều trị sát sao hơn. Riêng ca Uông Lan San đã ngốn của tôi không ít thì giờ…”

“Vậy thì kết luận về Diệp Hinh là thế nào?”

“Mấy vị lãnh đạo công tác sinh viên của trường cô ta đã nói chuyện với tôi, chủ yếu nhắc đến hai chữ “thận trọng”. Phía nhà trường cũng đang phải chịu áp lực vì sắp đến ngày 16 tháng 6!”

“Cô Hinh rất cần được trở về với cuộc sống bên ngoài!”

“Anh Đình ạ, cô ta vẫn là bệnh nhân của tôi, lần đánh giá này của anh vốn không phải là thủ tục phải có. Tôi cho rằng, vì thận trọng, tôi cần phải giữ cô Hinh ở lại để quan sát thêm ít lâu. Nếu phải thế, thì cũng phải chờ sau ngày 16 tháng sáu sẽ cho cô ta ra viện.”

“Tôi đành nói thẳng vậy, xem ra, nhà trường và cả anh Tuấn nữa cũng tin rằng ngày 16 tháng 6 sẽ xảy ra chuyện không hay gì đó. Thế thì trước đây cô Hinh muốn tìm hiểu rõ sự thật – việc đó có quá nhiều điều đáng ngờ chăng?”

Ông Tuấn chợt ngớ ra, không biết nên đối đáp ra sao. Hiếm có lúc ông bí không thể trả lời đối phương, mặt ông đỏ bừng, thở gấp hồi lâu, rồi mới nói giọng đều đều: “Anh Đình đừng quên rằng mấy cô sinh viên mà anh đã từng điều trị - cuối cùng đã ra sao. Bao năm qua, anh có ngủ ngon giấc không?”

Buột miệng nói ra rồi, ông Tuấn mới thấy mình đã quá nặng lời. Đúng thế: ông Đình cảm thấy ngực ông đau nhói, đau thấm lên vai, xuyên sang lưng, một tay áp lên ngực, ngồi xuống, tay kia vội sục tìm khắp túi áo… Ông Tuấn lập tức nhận ra rằng bác sĩ Đình bất chợt bị nhồi máu cơ tim.

“Nếu không có anh, em chẳng biết mình sẽ ra sao.” Sau khi được Tốn khuyên giải an ủi, tâm trạng Hinh đã bình thản trở lại rất nhiều. Ông Tuấn đã cho cô biết cuối cùng khoa vẫn quyết định cô phải ở lại thêm một thời gian nữa. Hinh có cảm giác mình bị bỡn cợt, nhưng Tốn đã hết lòng an ủi cô, cô mới bằng lòng, sẽ tiếp tục vâng lời các bác sĩ.

Tốn ra về rồi, Hinh lại không nén nổi buồn phiền vì không được ra viện. Cô muốn nằm ngủ một lát, có lẽ vì nghĩ ngợi nhiều quá nên lại thấy hơi nhức đầu.

Bác sĩ nội trú đã kê đơn cho Hinh dùng thuốc giảm đau, nhưng uống thuốc rồi thì đầu lại nhức dữ dội hơn. Hinh thấy hình như trong đầu mình có một luồng khí ngỗ ngược đang xông xáo tung hoành, lại thấy hình như nó bị hút bởi một từ trường nào đó, nó chỉ chực phá tung đầu cô để chạy ra.

Hinh không sao nằm yên được nữa, bèn đứng dậy để đi lại trong phòng. Thoạt đầu, đôi chân cứ không chịu nghe lời… nhưng nào ngờ mới chỉ đi được ít bước, cô hình như đã mất tri giác, rồi chẳng biết mình đã bước đến cửa phòng từ lúc nào.

Một cô y tá sợ Hinh sẽ đi lại lung tung bèn chạy đến, thấy nét mặt Hinh như đang rất đau đớn, bèn hỏi cô định đi đâu. Hinh quá đau không sao nói được một câu, cô chỉ lắc đầu rất khó khăn, đôi chân tiếp tục bước đi. Biết Hinh đang rất đau đớn, cô y tá bèn dìu Hinh đi bách bộ, có lẽ đi lại, hít thở không khí trong lành sẽ làm dịu cơn nhức đầu.

Ra khỏi buồng bệnh nhân, Hinh không dừng lại ở lối vào vườn hoa, cô đi dọc theo hành lang. Cô y tá hỏi: “Diệp Hinh, em định đi đâu thế?”

Mặt Hinh đầy mồ hôi lạnh, hai tay ôm lấy đầu, nói một cách vất vả: “Em muốn đến … chỗ ấy.”

“Là chỗ nào?”

“Em cũng không biết nữa.”

Cô y tá nghĩ bụng: bác sĩ Tuấn đã thận trọng rất có lý! Cô này nào đã bình phục? Đâu có thể cho ra viện được! Nhưng cô cũng rất ngạc nhiên, vì từ khi vào đây, Hinh rất thuần, chưa bao giờ thấy khác thường như thế này. Cô quyết định không ngăn cản Hinh, cô muốn quan sát xem Hinh có hành vi gì bất ổn không, biết đâu có thể hữu ích cho bác sĩ Tuấn điều trị.

Hai người đi chừng già nửa quãng hành lang, đi qua cửa vào khu buồng bệnh có nhân viên bảo vệ gác, đi qua hai chốt nữa, đến tòa nhà khám bệnh và các phòng hành chính. Đây là tòa nhà bảy tầng, tầng một hai ba là các phòng khám, tầng bốn và năm là phòng điều trị và khôi phục thể lực, các tầng trên là các phòng ban hành chính và văn phòng của các thầy thuốc có thâm niên.

Hinh đứng trong đại sảnh của phòng khám, dường như không hề để ý đến mọi người đi lại xung quanh, cô ngẩng đầu nhìn, đôi mắt rực sáng, môi hơi mấp máy như đang lẩm bẩm gì đó. Cô y tá thấy hơi hoảng vì hình như mình đã quyết định sai lầm, cô vội hỏi: “Nếu cô
Hinh không nói rõ định đi đâu, thì chúng ta quay về nào!”

“Em biết… em phải đi đâu. Em cảm thấy… là ở trên gác.”

“Là ở tầng mấy?”

“Em… không biết. Cứ đi tìm... từng tầng một.” Hinh thở rất khó khăn.

Cô y tá nghĩ ngợi, nhưng rồi cũng gật đầu: “Được, ta đừng đi thang máy, cứ lên từng tầng xem sao. Nếu cảm thấy là đến rồi thì cho tôi biết!”

Đi hết tầng hai ba, rồi lên tầng bốn. Hinh thở mỗi lúc một nặng nhọc, chân bước cũng càng chật vật, chắc sẽ gục mất thôi. Khi lên đến tầng năm, Hinh bỗng mở to mắt, vừa thở vừa nói: “Là tầng này. Nhưng chúng ta phải … nhanh lên, em có … cảm giác … không hay.”

“Nào, đi đâu?”

Hinh chỉ tay về hành lang phía đông, cô y tá dìu Hinh, cả hai cùng rảo bước. Lúc này Hinh thấy đầu càng nhức dữ dội, cứ như chỉ chực vỡ tung, nhưng hình như cô bị một sức mạnh bí hiểm nào đó dẫn đi, kêu gọi cô đi lên tầng nhà này.

Họ dừng lại trước một phòng điều trị. Cửa phòng đang khép kín, Hinh gọi: “Nào mau vào đi, chắc vẫn còn kịp!”

“Vẫn còn kịp cái gì?” Nhìn biển số phòng điều trị này, cô y tá lập tức có một linh cảm không hay. Cô nhớ rằng giờ này có lẽ bác sĩ Tuấn đang ở đây điều trị phân tích thần kinh cho bà Uông Lan San.

Cô gõ cửa, một nữ y tá ra mở cửa. Phòng này ngăn thành gian ngoài gian trong, có một cửa thông sang nhau, gian trong là nơi bác sĩ điều trị phân tích thần kinh cho bệnh nhân, các y tá hỗ trợ điều trị thường ngồi ở gian ngoài. Cô y tá ở đây thấy Hinh mặc áo trắng bệnh nhân, thì rất ngạc nhiên: “Hai người đến đây làm gì? Đã được hẹn chưa? Bác sĩ Tuấn đang làm việc, không ai được làm phiền!”

“Mau ngừng lại! Ngưng điều trị ngay đi!” Hinh bỗng gọi to.

“Các cô không được làm bừa! Điều trị phân tích thần kinh nếu bị gián đoạn thì sẽ gây ra hậu quả rất xấu!” Cô y ta gay gắt nói. Và trách cô y tá đi kèm Diệp Hinh: “Cô thật là … ngay cả kiến thức thông thường mà cô cũng không hiểu? Sao cô lại để cho bệnh nhân điều khiển thế này? Mau đi về đi!”

Cô y tá đi kèm Hinh cũng biết là đuối lý, bèn kéo tay Hinh: “Nơi này đang rất yên ổn, tất cả đều bình thường, ta đi thôi!”

Hinh vùng vằng thoát khỏi tay cô y tá, chạy bổ vào gian trong, nhưng Hinh ra sức đập cửa hay xoay tay nắm cửa thật mạnh, cửa vẫn cứ đóng chặt.

Hai cô y tá xúm vào lôi Hinh ra, cô y tá ở đây gọi với vào gian trong: “Xin lỗi bác sĩ Tuấn, có một bệnh nhân bị lên cơn, chúng tôi đã khống chế được rồi. Anh cứ tiếp tục điều trị đi!” Nói xong, cô áp tai vào cửa nghe ngóng, mặt cô bỗng biến sắc, cô lẩm bẩm: “Chuyện gì thế nhỉ? Sao bên trong lại có một giọng đàn ông khác?”

Cô nghĩ ngay rằng sự việc đã trở nên nghiêm trọng, bèn lấy chìa khóa để mở cửa ngăn cách, nhưng hình như cửa lại bị khóa trái, không sao mở ra được. Hinh gọi luôn: “Khỏi cần chờ đợi nữa, ba chúng ta xô cửa vậy!” Hai cô y tá nhìn nhau, cảm thấy có lẽ không còn cách nào khác tốt hơn. Cả ba cùng hợp sức xô cánh cửa ấy.

Cửa bật tung, cả ba cùng ngây người trước cảnh tượng trước mắt.

Chỉ thấy cửa sổ lắp kính đã mở toang, một người đang đứng ở gờ ngoài mép cửa, chính là bác sĩ Đằng Lương Tuấn! Còn bà Uông Lan San thì đang ung dung ngồi trên ghế sô-pha của bác sĩ điều trị phân tích thần kinh, chân ghếch lên, tủm tỉm cười ông Tuấn đang đứng trên mép cửa.

“Bác sĩ Tuấn!”

Ông Tuấn dường như bừng tỉnh lại sau khi nghe thấy tiếng gọi và tiếng xô cửa vừa rồi, ông quay người lại, lưng hướng ra ngoài, nghi hoặc nhìn ba người vừa xông vào.
Bà San bỗng cất tiếng, nhưng lại là một giọng đàn ông: “Có phải ông lại không nỡ rũ bỏ danh lợi phù phiếm tầm thường không? Ông cho rằng đến bao giờ mới có thể dừng lại? Dù có làm chủ nhiệm khoa, hay bác sĩ chánh chủ nhiệm, sau đó là giám đốc bệnh viện, rồi sao nữa? Trên chặng đường đã đi qua, ông đã làm biết bao chuyện trái với lương tâm của mình? Nào là chữa bệnh án, nhận phong bì, sao chép luận văn … Nay lại vẫn muốn tiếp tục đi nữa ư?

Điều đó sẽ rất đáng buồn.

Bầu không khí ở thành phố này rất bẩn, nhưng vẫn còn sạch hơn tâm hồn của con người.
Tôi nên hòa tan vào không khí ở đây, ít ra cũng có tác dụng đóng góp một phần nguyên liệu cho mọi người hít thở.”

Ba người phụ nữ đều nhận ra tình thế đầy nguy hiểm. Hinh và cô y tá đi kèm mình cùng bước đến ghì chặt bà San, Hinh còn bịt miệng bà ta nữa. Cô y tá của phòng điều trị này từ từ bước đến bên cửa sổ, khẽ gọi: “Bác sĩ Tuấn bị lừa bịp đó thôi! Anh là một thầy thuốc chân chính, anh còn có tương lai rộng mở, anh hãy xuống đi…”

“Được, tôi sẽ xuống!”

Cô y tá rú lên một tiếng kinh hoàng, Hinh ngẩng đầu nhìn, trên bậu cửa không thấy bóng bác sĩ Tuấn đâu nữa.


--hết chương--