Ren Shuyamaru
08-09-2008, 02:38 PM
Thế kỷ 20 đi qua để lại những kí ức bị lãng quên, những câu chuyện còn bỏ ngỏ. Những bí ẩn của thế kỷ 20 vẫn còn là điều hấp dẫn, lôi cuốn theo thời gian. Đã đến lúc những tư liệu lịch sử chưa từng được công bố lên tiếng, hé mở những sự thật bị lãng quên, bị che giấu...
Thread [Hồ sơ mật] là Dự án thu thập và tổng hợp những tin tức, sự kiện, câu chuyện về tình báo, quân sự, chính trị Nhật Bản thế kỷ 20 chưa từng được biết đến, lần đầu tiên xuất hiện trên các diễn đàn về Nhật Bản tại Việt Nam. Xin cảm ơn những đóng góp và ủng hộ!
------
Hồ sơ mã số JPN01
Âm mưu ám sát Stalin của Cơ quan Tình báo Nhật Bản năm 1938
Năm 1938, sau khi thất bại trong cuộc chiến với Liên Xô ở gần khu vực Khankhingon, một số tướng lĩnh Nhật Bản đã tiến hành âm mưu ám sát Stalin. Kẻ vạch ra và chỉ huy thực hiện kế hoạch mang tên “Săn Gấu” này tại Sochi là Genrikh Samoilevich Lyushkov – nguyên là một chỉ huy cao cấp của Bộ dân ủy nội vụ Liên Xô (NKVD) đã đào tẩu sang Nhật Bản trước đó...
http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/maiphuong/18_ghep19-783.jpg
Josif V.Stalin và Lyushkov.
Genrikh Lyushkov (tên đầy đủ là Genrikh Samoilevich Lyushkov) sinh tại Odessa năm 1900 và là con của một thợ may. Lyushkov tham gia các hoạt động của Cheka (Ủy ban đặc biệt toàn quốc về đấu tranh chống phản cách mạng, tung tin đồn nhảm và phá hoại) và GPU (tiền thân của NKVD - Bộ Dân ủy Nội vụ, cơ quan trung ương phụ trách nội vụ và an ninh quốc gia ở Liên Xô) tại Odessa từ năm 1920 sau đó đã phục vụ cơ quan này tại nhiều vùng của Liên Xô. Năm 1937, Lyushkov được phong chức vụ Cục trưởng Cục Viễn Đông của NKVD.
Ngay sau khi nhận chức Cục trưởng, cùng với những biến động lớn trong bộ máy chính quyền Liên Xô lúc đó, Lyushkov biết được ông ta sắp bị điều chuyển về Moskva.
Ngày 13/7/1938, Lyushkov đã bỏ trốn, vượt biên giới sang Mãn Châu mang theo rất nhiều tài liệu bí mật có giá trị về tình hình quân sự của Liên Xô tại vùng Viễn Đông. Lyushkov là sĩ quan cao cấp nhất của Cơ quan Tình báo Liên Xô đào tẩu sang Nhật Bản trong lịch sử của cơ quan này.
Trong thời gian hai năm từ 1937 đến 1938, cùng với những hoạt động “Đại thanh trừng” trong nội bộ chính quyền Liên Xô, rất nhiều quân nhân và thường dân Liên Xô vượt biên sang Trung Quốc. Cơ quan Đặc vụ Nhật Bản tại Cáp Nhĩ Tân phụ trách việc thẩm vấn những người đó và quyết định xử lý từng trường hợp như thế nào.
Trong đó có trường hợp Lyushkov đã được Cơ quan Đặc vụ Nhật Bản đặc biệt quan tâm. Trên thực tế chức vụ của Lyushkov là Cục trưởng Cục Viễn Đông thuộc Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô và mang quân hàm Trung tướng. Chính vì vậy cuộc đào tẩu của Lyushkov đã khiến cho tầng lớp lãnh đạo cao cấp Liên Xô lo ngại và phủ nhận việc Lyushkov đào tẩu.
Tuy nhiên, đây thực sự là một cơ hội lớn đối với Nhật Bản bởi khi đào tẩu Lyushkov đã mang theo những thông tin tình báo rất quý giá về tình hình quân sự của Liên Xô tại khu vực Viễn Đông trong đó quan trọng nhất là thông tin cho biết Liên Xô đã tập trung một lực lượng lên đến hàng chục vạn Hồng quân và hơn 1.000 máy bay quân sự tại khu vực này.
Trong khi đó tính đến cuối tháng 6/1938, lực lượng quân Nhật đối phó với Hồng quân Liên Xô ở Triều Tiên, Mãn Châu chỉ bao gồm có 9 sư đoàn. Ngoài ra quân Nhật chỉ còn có 2 sư đoàn ở trong nước và còn lại 23 sư đoàn bố trí trên chiến trường Trung Quốc. Trong thời điểm đó nếu phải đối đầu với Hồng quân Liên Xô thì người Nhật sẽ cầm chắc thảm bại.
Theo thông tin Lyushkov cung cấp thì người Liên Xô sẽ đợi cho binh lực của Nhật Bản bị hao tổn trong chiến tranh Trung Quốc thì sẽ tấn công Nhật Bản. Vì vậy Nhật Bản đã tranh thủ ký Hiệp ước ba bên với Đức và Italia cùng chống lại phía Cộng sản để khiến Liên Xô phải dè chừng.
Chỉ huy tình báo của Lục quân Nhật Bản khi đó là Trung tướng Sadaaki Kagesa sau khi Lyushkov đào tẩu 8 ngày tức ngày 21/6 đã có một bản báo cáo mang nhan đề “Cương yếu xử lý sự biến Trung Quốc” trình cho Tư lệnh Lục quân Nhật Bản khi đó là Đại tướng Itagaki Seishir. Bản báo cáo này có nội dung chiến lược nhằm kết thúc sự biến Trung - Nhật ngay trong năm để tránh khả năng phải đối phó với chiến sự ở cả hai mặt trận.
Ngày 29/7/1938, Nhật Bản tấn công và chiếm lĩnh hai vị trí quan trọng ở gần Vladivostok. Liên Xô đã phản công và buộc quân Nhật phải rút lui. Giới ngoại giao Nhật Bản muốn giải quyết sự việc bằng thương lượng nhưng các tướng lĩnh quân sự đã chọn một giải pháp khác: đó là ám sát lãnh tụ Liên Xô Stalin.
Và người được lựa chọn để lên kế hoạch và tham gia hành động này chính là Lyushkov. Tham gia vạch kế hoạch nhằm ám sát Stalin mang mật danh “Săn gấu”, ngoài Lyushkov còn có Shiba Yukio, chuyên gia về Liên Xô thuộc Phòng 2, Bộ chỉ huy Lục quân Nhật Bản và Thiếu tướng Utagawa Hagishima, chỉ huy Cơ quan Tình báo của Bộ Tư lệnh quân Quan Đông. Phụ trách thực hiện kế hoạch “Săn gấu” là Utagawa Hagishima.
Cơ quan Tình báo Nhật Bản đã tuyển chọn được 7 người Liên Xô từ Cáp Nhĩ Tân trong đó có Lyushkov, ngoài ra còn có 1 chỉ huy cao cấp khác của Liên Xô cũng đào tẩu sang Nhật Bản là Aleksei Valsky. 5 người còn lại được lựa chọn từ tổ chức chống chính quyền Xôviết và Stalin mang tên “Liên minh những người theo chủ nghĩa yêu nước Nga”.
Theo hiểu biết của Lyushkov, vốn là lãnh đạo Ủy ban Dân ủy Nội vụ khu vực Hắc Hải trước khi chuyển đến Viễn Đông, thì cha đẻ của Stalin đã qua đời ngày 25/1/1890 và được chôn cất tại Gori (Gruzia). Bắt đầu từ năm 1930, cứ 3 năm một lần, Stalin đều đi tảo mộ tại Gori vào đúng ngày mất của cha mình.
Và ngày 25/1/1939 chắc chắn ông sẽ có mặt tại Gori. Mỗi lần sau khi thăm mộ xong, Stalin đều đến ở Sochi vài ngày do vào thời điểm đó ở Moskva đang là mùa đông lạnh giá còn khí hậu ở khu vực duyên hải này lại ấm áp.
Đây đã trở thành một thông lệ và trong thời gian ở Sochi, hàng ngày vào lúc từ 14h đến 17h Stalin thường đi tắm ở suối nước nóng tại khu điều dưỡng dành cho các nhà lãnh đạo Liên Xô nằm cách khu biệt thự nơi ông ở khoảng 4km.
Từng là nhân vật có quyền lực trong NKVD nên Lyushkov nắm rõ những thói quen của Stalin cũng như công tác bảo vệ ông. Thông thường Stalin sẽ sử dụng một phòng tắm riêng đặc biệt, khi Stalin tắm bên trong thì bên ngoài cửa vào duy nhất luôn có hai nhân viên bảo vệ vũ trang đứng gác.
Trong khi Stalin có mặt tại đó thì toàn bộ khu vực bị phong tỏa và không ai được phép ra vào. Tuy nhiên công tác bảo vệ nghiêm ngặt mấy cũng có chỗ sơ hở. Theo hiểu biết của Lyushkov thì nước ở khu vực này sau khi sử dụng sẽ được chảy ra một con sông gần đó theo một đường cống ngầm.
Vào buổi tối, khi lượng nước thải từ khu suối nước nóng ít đi thì mực nước trong đường cống ngầm chỉ đến đầu gối và có thể theo con đường đó bò vào trong khu nhà tắm. Chỗ lên nằm ngay ở nơi thoát nước của nhà bếp chảy vào đường cống. Và nhà bếp lại nằm ngay gần với phòng tắm đặc biệt của Stalin.
Lyushkov và Shiba Yukio, Utagawa Hagishima cùng vạch ra một kế hoạch chi tiết theo đó trong buổi đêm, nhóm ám sát sẽ bò qua đường cống ngầm đột nhập vào bên trong khu nhà tắm, sau đó trốn trong phòng lò hơi ngay cạnh phòng tắm của Stalin.
Căn phòng lò hơi nằm giáp với vách tường phía trong phòng tắm của Stalin và bình thường chỉ có 2 công nhân vận hành lò hơi ở đó. Khi nhóm công nhân này đến làm việc vào buổi sáng, nhóm ám sát sẽ bắt trói họ lại. Chỉ cần có đầy đủ nước nóng và không khí nóng thì sẽ không có ai biết chuyện gì xảy ra bên trong phòng lò hơi.
Theo thói quen, 14h Stalin sẽ vào phòng tắm vì vậy kế hoạch của Lyushkov là đến 15 giờ, 2 người thuộc nhóm ám sát sẽ thay trang phục của công nhân lò hơi và tiếp cận hạ thủ những nhân viên bảo vệ bên ngoài còn 5 người còn lại sẽ xông thẳng vào khu vực phòng tắm của Stalin.
Nhóm ám sát đã diễn tập nhiều lần với hiện trường mô phỏng tại Tân Kinh (Hsinking). Khu vực phòng nghỉ tập trung một nhóm bảo vệ, lối ra vào có 2 nhân viên bảo vệ và trước cửa phòng tắm của Stalin có 2 nhân viên bảo vệ.
Trong khi 2 thành viên nhóm ám sát đóng giả công nhân xử lý nhóm bảo vệ tại phòng nghỉ thì 5 thành viên còn lại của nhóm ám sát phải nhanh chóng hạ được 2 nhân viên bảo vệ bên ngoài phòng tắm của Stalin. Sau đó họ để lại 3 người đối phó với bên ngoài còn bản thân Lyushkov và Aleksei Valsky sẽ xông vào phòng tắm để hạ sát Stalin.
Tháng 12/1938, nhóm ám sát rời khỏi cảng Đại Liên với hộ chiếu và giấy tờ nhập cảnh vào Italia. Ngày 14/1/1939, nhóm ám sát đến cảng Naples của Italia. Tại đây nhóm ám sát được làm thủ tục để nhập cảnh vào Thổ Nhĩ Kỳ qua Lãnh sự quán Thổ Nhĩ Kỳ tại Naples.
Ngày 19/1/1939, nhóm ám sát đến thành phố Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ. Theo kế hoạch, từ Thổ Nhĩ Kỳ, nhóm ám sát sẽ vượt qua biên giới để xâm nhập Gruzia và tìm đường đến thành phố Sochi. Do trong nhóm ám sát có Lyushkov và Aleksei Valsky nên họ không thể vào Liên Xô theo đường công khai mà sẽ phải vượt biên.
Nhóm ám sát lên kế hoạch thuê một chiếc thuyền ở Stanbul để lén lút đổ bộ lên bờ biển gần Sochi trong đêm. Tuy nhiên, hành động này có thể bị lộ với thủy thủ đoàn của chiếc thuyền đi thuê và cũng dễ bị lực lượng biên phòng hai nước phát hiện nên kế hoạch xâm nhập Sochi bằng đường biển đã phải hủy bỏ.
Trước khi xâm nhập vào Liên Xô, những người tham gia kế hoạch “Săn gấu” được hứa hẹn nếu thành công sẽ được Cơ quan Tình báo Nhật Bản thưởng mỗi người một căn biệt thự và 1 triệu USD.
Gruzia và Thổ Nhĩ Kỳ chia cách nhau bằng dãy núi Caucasus nhưng công việc canh gác ở khu vực núi này lại lơi lỏng do địa hình hiểm trở. Từ Istanbul đi tàu đến cảng Alharby và đi ôtô là có thể đến thị trấn miền núi Bolga nằm cách biên giới với Liên Xô khoảng 20km.
Một con sông mang tên Kiulu chảy qua thị trấn này và chảy vào Liên Xô rồi từ phía nam của Batumi chảy vào Hắc Hải. Hai bên bờ sông là vách đá dựng đứng và lòng sông toàn những tảng đá lớn.
Tuy nhiên, theo những người dân địa phương thì chỉ có khoảng 5km đầu là khó đi còn sau đó càng gần đến biên giới với Gruzia sông chảy êm đềm dần. Men theo bờ sông đi bộ đến biên giới mất khoảng 8 tiếng đồng hồ. Qua biên giới là Batumi cách Sochi 300km và có thể đến đó bằng đường bộ hoặc đường sắt.
Tuy nhiên, ngay khi nhóm ám sát vừa qua được biên giới đã liền gặp phải sự tấn công của lực lượng biên phòng Gruzia mặc dù theo thông tin tình báo mà Trạm tình báo của Nhật Bản ở Istanbul thu thập được thì khu vực đó không có trạm gác và cũng ít khi có lực lượng biên phòng tuần tra.
Hai bên nổ súng và 3 người thuộc nhóm ám sát đã bị tiêu diệt. 4 người còn lại trong đó có Lyushkov đã vội vàng chạy ngược lại biên giới Thổ Nhĩ Kỳ.
Sau khi kế hoạch “Săn gấu” kết thúc thất bại, Cơ quan Tình báo Nhật Bản cho rằng có một điệp viên của Liên Xô mang mật danh Leo nằm ngay trong nhóm ám sát và đã thông báo mọi thông tin liên quan đến kế hoạch “Săn gấu” cho Cơ quan Tình báo Liên Xô.
Tuy nhiên, tình báo Nhật Bản đã không xác định được điệp viên mang mật danh Leo đó thuộc trong số 3 người đã bị bắn chết trong khi nổ súng với lực lượng biên phòng Gruzia hay thuộc nhóm 4 người trở về an toàn.
Ngày 29/1/1939, tờ News Chronicle của Anh (tờ Daily Mail ngày nay) đã đưa tin: Theo Thông tấn xã TASS, lực lượng biên phòng của nước Cộng hòa Gruzia tuyên bố họ đã bắn chết 3 người có ý định vượt biên từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Trên thi thể của những người đó đã tìm thấy vũ khí, bản đồ và sơ đồ thiết kế một trung tâm điều dưỡng dành cho các nhà lãnh đạo Liên Xô ở Sochi mà Stalin vẫn thường lui tới. Mục đích vượt biên của nhóm người này là nhằm ám sát Stalin khi đó đang ở Sochi. Tuy nhiên, lực lượng biên phòng đã được biết trước về kế hoạch đó.
Sau khi trốn thoát khỏi cuộc phục kích của lực lượng biên phòng, Lyushkov đã quay trở lại được Nhật Bản. Lyushkov tiếp tục làm việc cho Cơ quan Tình báo quân sự Nhật Bản và sống tại Tokyo đến năm 1945.
Sau đó Lyushkov được phái đến Mãn Châu để làm cố vấn cho quân đội Nhật Bản thời gian đó đang phải đối phó với hàng loạt các vụ ám sát từ phía Liên Xô vào tháng 8/1945. Tại đó Lyushkov đã bị bắn bởi một sĩ quan tình báo Nhật Bản tên là Takeoka để tránh việc Lyushkov bị rơi vào tay quân đội Liên Xô. Tuy nhiên thi thể của Lyushkov đã không bao giờ được tìm thấy.
Trong thời gian ở tại Tokyo, Lyushkov đã viết hồi ký và bình luận về Liên Xô với nội dung chống Stalin. Tuy nhiên Cơ quan Tình báo Nhật Bản đã thiêu hủy tất cả những tài liệu đó ngay trước khi Thế chiến thứ II kết thúchttp://antg.cand.com.vn/Images/reddot.gif
Theo CAND
Hồ sơ mã số JPN02
Hành trình trở về cố quốc của một nữ điệp viên Nhật Bản
Hãng tin Kyodo của Nhật Bản cho biết ngày 2/11/2005, một người phụ nữ Nhật Bản chạy sang CHDCND Triều Tiên tị nạn vào tháng 8/2003 đã trở về sau hơn 2 năm xa cách Tổ quốc. Sự việc được dư luận Nhật Bản quan tâm bởi người phụ nữ này trước đây từng là điệp viên của Cơ quan An ninh Nhật Bản. Chính vì vậy, các phương tiện thông tin đại chúng của Nhật Bản đã tìm mọi cách để vén bức màn bí mật...
http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/18_katzumi512.jpg
Kazumi Kitagawa.
Theo nguồn tin của một tờ thời báo Nhật có sự liên hệ từ lâu với người phụ nữ này thì tên của chị là Kazumi Kitagawa, 31 tuổi. Kitagawa có chồng là người Trung Quốc. Công việc của chị là vừa làm nội trợ vừa đảm nhiệm việc quản lý tại một nhà hàng ăn uống do bố mẹ là chủ kinh doanh.
Việc chạy sang CHDCND Triều Tiên (viết tắt là Triều Tiên) của Kitagawa được bắt nguồn từ năm 2000, sau khi quen biết với một số người bạn Triều Tiên làm việc tại Hiệp hội Liên hợp dân cư có trụ sở tại Nhật. Kitagawa đã bày tỏ với những người này về ý tưởng muốn đến định cư tại Triều Tiên. Vào ngày 24/8/2003, Kitagawa đã đi du lịch trên biển bằng tàu du lịch và khi con tàu này chạy đến gần khu vực giáp ranh với Triều Tiên, bất ngờ Kitagawa nhảy từ trên tàu xuống nước, rồi nhanh chóng bơi vào vùng biển thuộc lãnh thổ Triều Tiên. Lên bờ, cô ghi vào một tờ giấy dòng chữ bày tỏ mong muốn đến Triều Tiên sinh sống và xin Chính phủ Triều Tiên cho phép tị nạn.
Việc sau hơn 2 năm Kitagawa trở về đất nước đã làm cho người ta phải đặt ra câu hỏi vì sao cô ta lại trốn chạy như vậy?
Nguồn tin từ Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên đã trả lời cho câu hỏi này. Theo đó, trước khi chạy đến Triều Tiên, Kitagawa đã từng làm điệp viên cho Cơ quan An ninh tại Tokyo và nhiệm vụ chủ yếu của cô ta là giám sát những người Triều Tiên đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản cũng như các thành viên của giáo phái Aum của Nhật Bản. Trong thời gian hợp tác với Cơ quan An ninh, Kitagawa cũng đã cung cấp được một số tin tức quan trọng về các đối tượng mà cảnh sát Nhật Bản quan tâm. Chính vì vậy, bắt đầu từ năm 2000, các quan chức tình báo và an ninh Nhật Bản đã ép buộc Kitagawa phải tăng cường giám sát hoạt động của các thành viên giáo phái Aum. Hành động này làm Kitagawa rất lo lắng và mệt mỏi vì cô luôn cảm thấy Cơ quan An ninh Nhật Bản thường xuyên gây phiền phức cho mình. Cuối cùng, Kitagawa đã quyết định chạy đến Triều Tiên để tránh sự truy bức của Cơ quan An ninh Nhật Bản cũng như giáo phái Aum.
Vì sao lại chọn Triều Tiên?
Ngay sau khi đặt chân xuống sân bay Nhật Bản, Kitagawa đã có cuộc trả lời phỏng vấn với các phóng viên về nguyên nhân vì sao cô ra đi. Cô cho biết do nhiều nguyên nhân, và để tránh gặp phải những sự phiền phức cho bản thân. Tuy vậy, Kitagawa không giải thích cụ thể vì sao cô ta lại chọn Triều Tiên là nơi đến của mình.
Nhưng từ những thông tin mà Kitagawa cung cấp về cuộc sống của cô tại Triều Tiên cho thấy phía Triều Tiên đã đối xử rất tốt với cô. Mặc dù Kitagawa đã xâm nhập vào lãnh thổ Triều Tiên một cách phi pháp nhưng vẫn được các cơ quan hữu quan của Triều Tiên bố trí cho ăn ở rất chu đáo, lịch sự. Trong thời gian 2 năm, cô sống tại một khách sạn ở Bình Nhưỡng và luôn được người Triều Tiên giúp đỡ, động viên.
Dư luận xung quanh chuyến trở về
Kitagawa trở về Nhật Bản đúng vào dịp giữa Nhật Bản và Triều Tiên tổ chức cuộc gặp song phương tại Bắc Kinh, nên có người nghi ngờ rằng đây có thể là do phía Triều Tiên chỉ thị cho Kitagawa làm như vậy nhằm tạo hòa khí giữa hai nước và thúc đẩy kết quả đàm phán có lợi cho phía Triều Tiên. Trước những nghi ngại này, Kitagawa đã thẳng thắn trả lời báo giới rằng, việc cô trở về Nhật Bản là do cô rất nhớ nhung đất nước này và trong cô luôn có khát vọng trở về.
Còn Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên cho biết, Chính phủ Triều Tiên cho phép Kitagawa trở về Nhật Bản lần này là xuất phát từ “chủ nghĩa nhân đạo”. Phía Triều Tiên còn cho biết, trong thời gian ở Triều Tiên do cảm thấy không muốn gây phiền phức thêm cho phía Triều Tiên, nên Kitagawa đã từ bỏ ý định xin tị nạn chính trị tại đây và cô ta muốn trở về Nhật Bản.
Hãng tin Kyodo cũng dẫn lời một quan chức ngoại giao Nhật Bản cho biết, đây là lần đầu tiên một người dân Nhật Bản chạy trốn sang Triều Tiên quay trở về. Trước đó, vào năm 1970, cũng có một số người Nhật cướp một máy bay chạy trốn sang Triều Tiên, nhưng không trở lại. Phía Nhật cho biết họ cũng rất hoan nghênh sự trở về này của Kitagawa, còn việc xử lý cô sẽ được xem xét trên tinh thần khoan hồng và cao thượnghttp://antg.cand.com.vn/Images/reddot.gif
Theo CAND
Hồ sơ mã số JPN03
Về tổ chức tình báo của Nhật Bản tại Trung Quốc trong Thế chiến II
Mai, Trúc, Lan, Cúc và Tùng là 5 loài thực vật biểu tượng cho những cái đẹp từ xưa đến nay, nhưng nó lại là tên gọi của 5 mạng lưới tình báo, gián điệp nổi tiếng của cơ quan tình báo Nhật Bản tại Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II. Tại thời điểm đó, Nhật Bản rất coi trọng hoạt động tình báo, gián điệp và công tác này khi đó là linh hồn của cuộc chiến.
Năm 1939, Nhật Bản thành lập Bộ Tổng tư lệnh “Trung Quốc phái khiển quân” tại thành phố Nam Kinh. Tổng tư lệnh quân đội Nhật Bản khi đó đã ra lệnh thành lập ngay 4 cơ quan tình báo và gián điệp.
http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=11036
Kawashima Yoshiko
Theo đó cơ quan tình báo Mai chuyên theo dõi hoạt động của Chính phủ bù nhìn của Uông Tinh Vệ. Cơ quan tình báo Trúc chuyên lo phần thuyết giáo. Cơ quan tình báo Lan chuyên đảm nhiệm phần theo dõi công tác của các tướng lĩnh khu vực Tây Nam. Cơ quan tình báo Cúc đặc trách theo dõi hoạt động của tỉnh Phúc Kiến và công tác Hoa kiều. Về sau Nhật Bản còn thành lập thêm cơ quan tình báo Tùng, do vậy mới có cụm từ “Mai-Trúc-Lan-Cúc-Tùng”.
Trong 5 cơ quan trên, cơ quan tình báo Mai là nổi tiếng nhất. Tổ chức tình báo này được chính thức thành lập ngày 23-8-1939 tại thành phố Nam Kinh với quân số tương đối ít (khoảng 30 người), nhưng các nhân viên ở đây đều được chọn lọc kỹ càng từ Lục quân, Hải quân, Ngoại vụ, phóng viên, thậm chí cả thành viên trong Quốc hội nên hiệu quả công việc rất cao và được tín nhiệm cả trong chính quyền Uông Tinh Vệ lẫn trong Bộ tư lệnh quân đội Nhật Bản.
Vai trò và ảnh hưởng của cơ quan tình báo Mai đã được khẳng định ngay từ khi chính quyền bù nhìn của Uông Tinh Vệ mới trong thời kỳ “thai nghén” tại Thượng Hải.
Nhiệm vụ chính của 5 cơ quan tình báo kể trên là giúp bọn Hán gian hoành hành gây tội ác, tiến hành các hoạt động do thám, làm xáo trộn cuộc sống yên lành của người dân lương thiện. Ngoài ra, lính đặc nhiệm của Nhật Bản còn rất có sở trường trong việc huấn luyện, sử dụng số tù binh tại các vùng Tế Nam, Thái Nguyên, Từ Châu để đánh bọn này vào các cơ quan Chính phủ hoặc quân đội Trung Quốc.
Bên cạnh đó là việc sử dụng “Mỹ nhân kế” như dùng Kawashima Yoshiko, Lý Minh Thanh... trong công tác thu thập tin tức tình báo tại khu vực Nam Kinh, Vũ Hán. Kawashima Yoshiko đã bị Chính phủ Quốc Dân đảng bắt năm 1948 và bị tử hình vì tội làm gián điệp. Ngoài ra tình báo Nhật Bản còn lợi dụng bọn thổ phỉ, các tổ chức tôn giáo để tung tin đồn nhảm, kích động, chia rẽ quần chúng nhân dân, tạo ra các phong trào “hòa bình” hòng làm giảm ý chí chiến đấu của quân dân Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống lại quân đội Nhật.
Bọn chúng còn mua chuộc, khống chế một số nhân vật quan trọng làm việc cho quân đội Nhật như Hoàng Thu Nhạc và người này đã cung cấp kế hoạch tuyệt mật “Phong tỏa Trường Giang” khiến Chính phủ Quốc Dân đảng bị thiệt hại nặng nề trong trận chiến quan trọng đó.
http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=11037
Không phải tới năm 1939 Nhật Bản mới tiến hành thành lập các cơ quan tình báo “Mai-Trúc-Lan-Cúc-Tùng” để tiến hành thu thập tin tức tình báo tại Trung Quốc, mà ngay từ khi họ giành được quyền kiểm soát phần phía Nam tuyến đường sắt Đông Thanh từ tay Sa Hoàng (năm 1905) hoạt động này đã được tiến hành.
Năm 1906, Nhật Bản thành lập Công ty đường sắt Nam Mãn, một trạm tình báo trá hình tại đất Trung Quốc. Ngoài ra họ còn tham gia vào các công việc kinh doanh khác như khai thác quặng, phát điện, vận tải hàng không, nông trường... Sau sự kiện “18-9-1931”, Công ty đường sắt Nam Mãn đã kiểm soát được toàn bộ tuyến đường sắt tại khu vực Đông Bắc Trung Quốc.
Tiếp đến là việc đặt văn phòng đại diện tại Bắc Kinh, Thượng Hải để có thể tiến hành thu thập tin tức tình báo một cách đầy đủ trên các mặt chính trị, xã hội, quân sự, kinh tế... Nhắc tới tình báo Nhật Bản không thể không nhắc tới “Hắc Long đảng”. “Hắc Long đảng” được thành lập từ năm 1891 và là tổ chức tình báo lớn nhất ngoài biên chế của Chính phủ Nhật Bản thời bấy giờ. Thành phần “Hắc Long đảng” rất đa dạng, phức tạp, từ tướng quân, cán bộ cao cấp trong ngành ngoại giao đến người không nghề nghiệp, bọn đâm thuê chém mướn, phần tử phạm pháp...
Theo thống kê, ban đầu “Hắc Long đảng” chỉ có khoảng 200 thành viên, nhưng sau này đã phát triển lên hơn 10.000 người và tổ chức này đã giúp Chính phủ Nhật Bản được nhiều việc. Nhưng về sau “Hắc Long đảng” đã bị biến tướng theo một chiều hướng khác khiến Chính phủ Nhật Bản phải ra tay dẹp bỏ.
Theo An ninh thủ đô.
Hồ sơ mã số JPN04
Mỹ và chiến dịch tình báo thất bại tại Nhật Bản
Các tài liệu được công bố mới đây cho thấy Mỹ đã tốn công vô ích khi bí mật tuyển mộ tội phạm chiến tranh và những kẻ theo chủ nghĩa quân phiệt Nhật để làm gián điệp chống Liên Xô thời đầu Chiến tranh lạnh.
http://images.timnhanh.com/tintuc/20070313/big/tinhbao.jpg
Chỉ huy G-2, tướng Charles Willoughby (Ảnh: Spartacus Schoolnet)
Đại tá M.Tsuji là một kẻ theo đuổi chủ nghĩa quân phiệt Nhật cuồng tín, một quân nhân tàn bạo. Bị quân Đồng minh săn đuổi sau Thế chiến thứ 2 vì đã giết hại thường dân Trung Quốc và dính líu đến Chiến dịch Tử thần tháng 3 tại Bataan (Philippines) vào năm 1942, sau đó tay này đã trở thành nhân viên tình báo cho Mỹ tại G-2 - cơ quan tình báo chống Cộng hoạt động riêng biệt với Cơ quan tình báo trung ương (CIA).
Theo các báo cáo của CIA được Cục lưu trữ Mỹ công bố mới đây, Washington đã thu nạp vào cơ quan tình báo các tội phạm chiến tranh Nhật và những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong những ngày đầu của Chiến tranh lạnh. Bên cạnh Tsuji, những tên tuổi tội phạm khác trong danh sách nhân viên tình báo của G-2 còn có trùm mafia trục lợi trong chiến tranh Y.Kodama và T.Hattori, cựu thư ký riêng cho H.Tojo - thủ tướng thời Thế chiến 2 của Nhật.
Nhiều nhân viên của G-2, từng bị bắt giữ sau khi Tokyo đầu hàng và dần dần được trả tự do sau đó, hoạt động dưới sự chỉ huy của tướng C.Willoughby. Thậm chí bên công tố viên của Đồng minh còn liệt một số nhân vật trong G-2 vào dạng tội phạm chủ chốt trong các phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh. Mục đích thành lập cơ quan tình báo G-2 tương tự như hoạt động của Mỹ tại Đức, dựa vào các cựu sĩ quan Đức Quốc xã để khai thác thông tin tình báo của Liên Xô. Có nghĩa là Mỹ muốn đưa gián điệp xâm nhập Liên Xô - CHDCND Triều Tiên và sử dụng tay sai Nhật để bảo vệ Đài Loan chống lực lượng Cộng sản đang thắng thế ở Trung Quốc.
Như vậy, thay vì hướng quốc gia từng là đế quốc này vào con đường dân chủ, Mỹ đã hướng Nhật tập trung sang mục đích kiềm chế Liên Xô. Tướng Willoughby cho rằng những kẻ từng phạm tội ác chiến tranh là chìa khóa chủ chốt để biến Nhật Bản thành bức tường thành chống Cộng hiệu quả tại châu Á và bảo đảm rằng Tokyo sẽ nhanh chóng trở thành đồng minh của Mỹ. Từ lâu, các sử gia kết luận rằng quân Đồng minh đã che mắt bịt tai, làm ngơ những tay tội phạm chiến tranh người Nhật, đặc biệt những kẻ nợ máu tại các nước châu Á, vì chống Cộng đã trở thành ưu tiên hàng đầu của phương Tây lúc đó.
Theo tài liệu do Hãng tin AP thu thập được, các hoạt động tình báo dạng trên đã thất bại nặng nề. Thực tế cho thấy các gián điệp Nhật quá quan tâm đến các hoạt động của cánh hữu và cố gắng kiếm chác tiền bạc hơn là phục vụ cho mục đích của Mỹ. CIA đưa các chứng cứ cho thấy nhân viên tình báo Nhật thường qua mặt các sếp Mỹ cả tin. Họ chuyển các thông tin tình báo vô dụng cho Mỹ và sử dụng mối quan hệ với Mỹ để buôn lậu và nỗ lực hồi sinh một Nhật Bản theo chủ nghĩa quân phiệt. Ví dụ, người Mỹ rót tiền mua một chiếc tàu để đưa lậu điệp viên Nhật sang đảo Sakhalin của Liên Xô, nhưng cuối cùng cả tiền lẫn tàu và điệp viên đã "bốc hơi". Theo CIA, một số gián điệp đã bán cùng một tin tức cho các bên khác nhau tại Mỹ để tăng thu nhập cũng như chuyển thông tin từ quân đội Mỹ cho những tên theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Thậm chí, điệp viên Hattori còn cầm đầu âm mưu đảo chính với mục tiêu lật đổ chính phủ thân Mỹ của Thủ tướng S.Yoshida vào năm 1952. Tuy nhiên, kế hoạch trên bất thành. Theo tài liệu CIA và giới sử gia, chính sự thiếu hiểu biết của Mỹ về Nhật Bản, sự quan tâm đến các đối tượng tội phạm chiến tranh và sự tự tin vào các kỹ năng tình báo của các sĩ quan Mỹ đã khiến họ "dễ dàng bị xỏ mũi trong một thời gian".
Theo TNO
Hồ sơ mã số JPN05
Mất bốn tàu sân bay do… lộ thông tin
Ngày 7-12-1941, Nhật Bản tiến hành đợt tập kích bí mật vào Trân Châu Cảng khiến hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ bị tê liệt. Sau “quả đắng” này Mỹ đã tăng cường cảnh giác với Nhật Bản. Mọi thông tin đã được mã hóa của Nhật Bản trong khu vực Thái Bình Dương đều bị Mỹ bí mật kiểm soát.
http://www.axisofinfo.com/wp-content/uploads/2008/05/b-25-japanese-ship.jpg
Hải quân, niềm tự hào lớn nhất của Quân đội phát xít Nhật.
Vào một ngày kia, tổ dịch mật mã của Mỹ bỗng phát hiện ra trong các bức điện đi, đến của Nhật Bản luôn xuất hiện hai từ “AF”. Người Mỹ bắt đầu nghi ngờ Nhật Bản có một âm mưu quân sự ở mục tiêu “AF” và họ cho rằng hai chữ “AF” là để chỉ hòn đảo có tên Mít-wây, một căn cứ không quân đặc biệt quan trọng của Mỹ nằm ở phía đông bắc đảo Ha-oai. Để xác thực thông tin này, Tư lệnh Hải quân Mỹ được lệnh đánh một bức điện nhử bằng tiếng Anh phổ thông nói rằng “Tình hình cung cấp nước ngọt cho Mít-wây bị trục trặc…”. Ngay sau bức điện này, tổ dịch mật mã của Mỹ “bắt” ngay được một bức điện của hải quân Nhật Bản điện báo cáo trên nói rằng “AF có thể thiếu nước ngọt”. Đây là bằng chứng tin cậy để người Mỹ khẳng định: Nhật Bản đang chuẩn bị tiến công Mít-wây và người Mỹ đã “tương kế, tựu kế”.
Quả nhiên sáng 4-6-1942, lực lượng hải quân Nhật Bản tiến công Mít-wây gồm 4 tàu sân bay và hàng chục tàu khu trục đã có mặt ở vị trí xuất phát tiến công. Sau mệnh lệnh ngắn gọn của tướng Nagumo, hàng chục máy bay ném bom của Nhật Bản bay vút về phía đảo Mít-wây. Người Mỹ đã đề phòng, nên máy bay của Nhật Bản chỉ có thể ném trúng sân bay, bởi các máy bay đã được sơ tán hết. Trong vịnh, các tàu sân bay của Mỹ cũng đã “đi làm nhiệm vụ”. Khi các máy bay của Nhật Bản đang mải miết đi ném bom sân bay của Mỹ thì các tàu sân bay của họ lúc này gần như không có lực lượng hộ tống và trở thành mục tiêu của máy bay tiêm kích Mỹ. Chỉ sau vài loạt bom, lần lượt các tàu sân bay Akanobu, Kaga, Sotatu đã bị đánh chìm.
Tướng Yamamoto lúc này chỉ còn lại tàu sân bay Tobitasu. Ông ta đã dốc toàn lực tấn công tàu sân bay Yooctao của Mỹ và chiếc tàu này cũng bị đánh chìm. Thế nhưng chiếc tàu sân bay cuối cùng của Nhật Bản cũng bị đánh chìm ngay sau đó. Trận tiến công Mít-wây bị thất bại hoàn toàn, tổng cộng Nhật Bản bị mất 4 tàu sân bay, một tàu tuần dương, 330 máy bay bị bắn rơi, bắn hỏng, mấy trăm phi công và hàng nghìn thủy thủ dày dạn kinh nghiệm tử trận.
Sau trận chiến này phía Nhật Bản hoàn toàn mất khả năng kiểm soát trên không và trên biển, đây cũng là một bước ngoặt dẫn đến sự diệt vong của phát xít Nhật.
( Theo QĐND )
Hồ sơ mã số JPN06
Quân đội Nhật sử dụng chiến tranh vi trùng trong Thế Chiến 2
Một bác sĩ từng phục vụ lực lượng hải quân Nhật Bản trong Thế chiến 2 đã thừa nhận rằng ông đã bị yêu cầu tiến hành các thí nghiệm khủng khiếp trên cơ thể các tù nhân người Philippin trước khi đem họ đi hành quyết.
http://images7.dantri.com.vn/Uploaded/lanlt/japannavy-271106.jpg
Rất ít cựu chiến binh Nhật Bản dũng cảm thừa nhận tội ác chiến tranh.
Trả lời hãng thông tấn Kyodo của Nhật Bản, ông Akira Makino, 84 tuổi, cho biết ông đã từng tiến hành các thí nghiệm y khoa trên cơ thể tù nhân chiến tranh, trong đó có cả phụ nữ và trẻ em.
Vẫn có nhiều cáo buộc về việc quân đội Nhật Bản thực hiện các thí nghiệm y học đối với các tù nhân bắt được ở Trung Quốc. Tuy nhiên, chỉ có rất ít cựu chiến binh dũng cảm lên tiếng thừa nhận, vì hầu hết họ đều không muốn nhắc lại quá khứ. Thêm vào đó, giới lãnh đạo cũng không khuyến khích việc này.
Sự thừa nhận của ông Makino được coi như lời thú tội đầu tiên của một cựu chiến binh Nhật Bản về hành động lạm dụng tù nhân trong cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á.
Nỗi khiếp sợ
Ông Makino đã đóng quân ở đảo Mindanao của Philippin trong Chiến tranh Thế giới lần thứ 2. Ông đã tiến hành thí nghiệm trên tổng cộng 30 tù binh trong suốt thời gian từ tháng 12/1944 đến tháng 2/1945, và đây được coi như một phần trong chương trình huấn luyện về y khoa.
“Có lẽ tôi sẽ bị giết nếu không tuân lệnh. Đó là tình thế bắt buộc khi đó”, ông nói.
Ông còn cho biết ông đã vô cùng phẫn nộ khi nhận được lệnh thực hành phẫu thuật trên cơ thể 2 tù binh người Philippin bị bất tỉnh sau khi bị bắt do nghi làm gián điệp cho Mỹ.
Chiến tranh vi trùng
Ông Mikano vẫn luôn bị ám ảnh bởi hồi ức về những tội ác mà ông đã tham gia trong cuộc chiến ở Philippin.
“Chúng ta không nên khơi lại nỗi đau, nhưng tôi muốn nói lên sự thật”, ông nói.
Một đơn vị quân đội Nhật Bản chuyên về chiến tranh vi trùng đã bị cáo buộc tiến hành các thí nghiệm y khoa trên cơ thể tù nhân trong suốt thời gian chiến tranh ở đông bắc Trung Quốc. Người ta tin rằng đơn vị này đã giết hại ít nhất 3.000 tù nhân.
Nhật Bản đã thừa nhận sự tồn tại của đơn vị này nhưng không quy trách nhiệm cho bất kỳ ai về những hành động tội ác này.
Theo BBC
Hồ sơ mã số JPN07
Tình báo viên Nhật làm gì ở bán đảo Triều Tiên
Với một mạng lưới dày đặc như vậy nhưng trong suốt mấy chục năm qua, tình báo Nhật hầu như chưa thu được một kết quả nào gọi là đáng kể. Rất nhiều kế hoạch ám sát Kim Nhật Thành, rồi Kim Jong Il đã không thành. Các vụ thử tên lửa, thử hạt nhân vẫn cứ diễn ra mà không hề gặp phải trở ngại gì, cũng như nước Mỹ, Nhật Bản cũng không thể biết chính xác cụ thể những gì Triều Tiên đang hoặc sẽ làm.
http://www.sbtn.net/images/upload/news/022407/JAPAN-SPY-SATELLITE.jpg
Phóng vệ tinh do thám (Nhật Bản)
Thu thập tin tức qua đường công khai
Có lẽ vì quá lo lắng cho an ninh quốc gia mà Nhật Bản là một trong số các nước triển khai hoạt động tình báo rầm rộ nhất tại bán đảo Triều Tiên. Nước Nhật xác định bán đảo Triều Tiên là khu vực quan trọng nhất liên quan đến an ninh quốc gia và chiến lược tại khu vực châu Á.
Phòng Điều tra nội các là cơ quan chỉ huy hoạt động tình báo. Cơ quan này chịu sự lãnh đạo trực tiếp của thủ tướng, cung cấp tin tình báo cho thủ tướng nhằm trợ giúp chính phủ trong hoạch định chính sách ngoại giao và quốc phòng. Nhưng do vai trò của cơ quan này không mấy nổi bật, năm 1997, Cục Phòng vệ Nhật Bản đã thành lập Văn phòng Tình báo tổng hợp nằm ngoài cơ cấu chính phủ, độc lập tiến hành thu thập, phân tích và xử lý các tin tức tình báo. Nhật Bản đặc biệt quan tâm tới việc sử dụng những nhân viên ngoại giao, các tổ chức phi chính phủ vào mục đích hoạt động tình báo. Đặc trưng lớn nhất trong hoạt động thu thập tin tức tình báo của Đại sứ quán Nhật là mềm dẻo, linh hoạt trong sử dụng đội ngũ phóng viên nước mình tại nước ngoài.
Hiện tại có 17 cơ quan thông tấn, báo chí Nhật có phóng viên thường trú tại Hàn Quốc, chiếm khoảng 30% tổng số phóng viên nước ngoài tại đây. Rất khó có thể phân biệt đâu là phóng viên thật và đâu là nhân viên tình báo. Giữa họ với Đại sứ quán Nhật luôn có mối liên hệ vô cùng chặt chẽ. Trước khi được cử đi Hàn Quốc, hầu hết phóng viên đều tham dự khóa đào tạo chuyên ngành tại cơ quan tình báo trong nước. Sau khi đến Hàn Quốc tác nghiệp, họ luôn giữ liên hệ và chia sẻ thông tin “mật” với Chính phủ Nhật.
Ngoài phóng viên Nhật, nhân viên trong các doanh nghiệp, hội thương mại của Nhật tại Hàn Quốc cũng thường xuyên tham dự các hội nghị thương mại, các sàn giao dịch chứng khoán qua đó thu thập thông tin tình báo, sàng lọc, phân tích và gửi tới Sứ quán Nhật. “Hội người Nhật tại Hàn Quốc” được tổ chức tại tầng 8 của Trung tâm thông tin gần Tòa Thị chính thành phố Seoul vào ngày thứ tư của tuần thứ hai hàng tháng, Đại sứ Nhật tại Hàn Quốc với tư cách là hội trưởng danh dự sẽ tham dự và cùng nhau chia sẻ thông tin.
Theo ANTG
Thread [Hồ sơ mật] là Dự án thu thập và tổng hợp những tin tức, sự kiện, câu chuyện về tình báo, quân sự, chính trị Nhật Bản thế kỷ 20 chưa từng được biết đến, lần đầu tiên xuất hiện trên các diễn đàn về Nhật Bản tại Việt Nam. Xin cảm ơn những đóng góp và ủng hộ!
------
Hồ sơ mã số JPN01
Âm mưu ám sát Stalin của Cơ quan Tình báo Nhật Bản năm 1938
Năm 1938, sau khi thất bại trong cuộc chiến với Liên Xô ở gần khu vực Khankhingon, một số tướng lĩnh Nhật Bản đã tiến hành âm mưu ám sát Stalin. Kẻ vạch ra và chỉ huy thực hiện kế hoạch mang tên “Săn Gấu” này tại Sochi là Genrikh Samoilevich Lyushkov – nguyên là một chỉ huy cao cấp của Bộ dân ủy nội vụ Liên Xô (NKVD) đã đào tẩu sang Nhật Bản trước đó...
http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/maiphuong/18_ghep19-783.jpg
Josif V.Stalin và Lyushkov.
Genrikh Lyushkov (tên đầy đủ là Genrikh Samoilevich Lyushkov) sinh tại Odessa năm 1900 và là con của một thợ may. Lyushkov tham gia các hoạt động của Cheka (Ủy ban đặc biệt toàn quốc về đấu tranh chống phản cách mạng, tung tin đồn nhảm và phá hoại) và GPU (tiền thân của NKVD - Bộ Dân ủy Nội vụ, cơ quan trung ương phụ trách nội vụ và an ninh quốc gia ở Liên Xô) tại Odessa từ năm 1920 sau đó đã phục vụ cơ quan này tại nhiều vùng của Liên Xô. Năm 1937, Lyushkov được phong chức vụ Cục trưởng Cục Viễn Đông của NKVD.
Ngay sau khi nhận chức Cục trưởng, cùng với những biến động lớn trong bộ máy chính quyền Liên Xô lúc đó, Lyushkov biết được ông ta sắp bị điều chuyển về Moskva.
Ngày 13/7/1938, Lyushkov đã bỏ trốn, vượt biên giới sang Mãn Châu mang theo rất nhiều tài liệu bí mật có giá trị về tình hình quân sự của Liên Xô tại vùng Viễn Đông. Lyushkov là sĩ quan cao cấp nhất của Cơ quan Tình báo Liên Xô đào tẩu sang Nhật Bản trong lịch sử của cơ quan này.
Trong thời gian hai năm từ 1937 đến 1938, cùng với những hoạt động “Đại thanh trừng” trong nội bộ chính quyền Liên Xô, rất nhiều quân nhân và thường dân Liên Xô vượt biên sang Trung Quốc. Cơ quan Đặc vụ Nhật Bản tại Cáp Nhĩ Tân phụ trách việc thẩm vấn những người đó và quyết định xử lý từng trường hợp như thế nào.
Trong đó có trường hợp Lyushkov đã được Cơ quan Đặc vụ Nhật Bản đặc biệt quan tâm. Trên thực tế chức vụ của Lyushkov là Cục trưởng Cục Viễn Đông thuộc Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô và mang quân hàm Trung tướng. Chính vì vậy cuộc đào tẩu của Lyushkov đã khiến cho tầng lớp lãnh đạo cao cấp Liên Xô lo ngại và phủ nhận việc Lyushkov đào tẩu.
Tuy nhiên, đây thực sự là một cơ hội lớn đối với Nhật Bản bởi khi đào tẩu Lyushkov đã mang theo những thông tin tình báo rất quý giá về tình hình quân sự của Liên Xô tại khu vực Viễn Đông trong đó quan trọng nhất là thông tin cho biết Liên Xô đã tập trung một lực lượng lên đến hàng chục vạn Hồng quân và hơn 1.000 máy bay quân sự tại khu vực này.
Trong khi đó tính đến cuối tháng 6/1938, lực lượng quân Nhật đối phó với Hồng quân Liên Xô ở Triều Tiên, Mãn Châu chỉ bao gồm có 9 sư đoàn. Ngoài ra quân Nhật chỉ còn có 2 sư đoàn ở trong nước và còn lại 23 sư đoàn bố trí trên chiến trường Trung Quốc. Trong thời điểm đó nếu phải đối đầu với Hồng quân Liên Xô thì người Nhật sẽ cầm chắc thảm bại.
Theo thông tin Lyushkov cung cấp thì người Liên Xô sẽ đợi cho binh lực của Nhật Bản bị hao tổn trong chiến tranh Trung Quốc thì sẽ tấn công Nhật Bản. Vì vậy Nhật Bản đã tranh thủ ký Hiệp ước ba bên với Đức và Italia cùng chống lại phía Cộng sản để khiến Liên Xô phải dè chừng.
Chỉ huy tình báo của Lục quân Nhật Bản khi đó là Trung tướng Sadaaki Kagesa sau khi Lyushkov đào tẩu 8 ngày tức ngày 21/6 đã có một bản báo cáo mang nhan đề “Cương yếu xử lý sự biến Trung Quốc” trình cho Tư lệnh Lục quân Nhật Bản khi đó là Đại tướng Itagaki Seishir. Bản báo cáo này có nội dung chiến lược nhằm kết thúc sự biến Trung - Nhật ngay trong năm để tránh khả năng phải đối phó với chiến sự ở cả hai mặt trận.
Ngày 29/7/1938, Nhật Bản tấn công và chiếm lĩnh hai vị trí quan trọng ở gần Vladivostok. Liên Xô đã phản công và buộc quân Nhật phải rút lui. Giới ngoại giao Nhật Bản muốn giải quyết sự việc bằng thương lượng nhưng các tướng lĩnh quân sự đã chọn một giải pháp khác: đó là ám sát lãnh tụ Liên Xô Stalin.
Và người được lựa chọn để lên kế hoạch và tham gia hành động này chính là Lyushkov. Tham gia vạch kế hoạch nhằm ám sát Stalin mang mật danh “Săn gấu”, ngoài Lyushkov còn có Shiba Yukio, chuyên gia về Liên Xô thuộc Phòng 2, Bộ chỉ huy Lục quân Nhật Bản và Thiếu tướng Utagawa Hagishima, chỉ huy Cơ quan Tình báo của Bộ Tư lệnh quân Quan Đông. Phụ trách thực hiện kế hoạch “Săn gấu” là Utagawa Hagishima.
Cơ quan Tình báo Nhật Bản đã tuyển chọn được 7 người Liên Xô từ Cáp Nhĩ Tân trong đó có Lyushkov, ngoài ra còn có 1 chỉ huy cao cấp khác của Liên Xô cũng đào tẩu sang Nhật Bản là Aleksei Valsky. 5 người còn lại được lựa chọn từ tổ chức chống chính quyền Xôviết và Stalin mang tên “Liên minh những người theo chủ nghĩa yêu nước Nga”.
Theo hiểu biết của Lyushkov, vốn là lãnh đạo Ủy ban Dân ủy Nội vụ khu vực Hắc Hải trước khi chuyển đến Viễn Đông, thì cha đẻ của Stalin đã qua đời ngày 25/1/1890 và được chôn cất tại Gori (Gruzia). Bắt đầu từ năm 1930, cứ 3 năm một lần, Stalin đều đi tảo mộ tại Gori vào đúng ngày mất của cha mình.
Và ngày 25/1/1939 chắc chắn ông sẽ có mặt tại Gori. Mỗi lần sau khi thăm mộ xong, Stalin đều đến ở Sochi vài ngày do vào thời điểm đó ở Moskva đang là mùa đông lạnh giá còn khí hậu ở khu vực duyên hải này lại ấm áp.
Đây đã trở thành một thông lệ và trong thời gian ở Sochi, hàng ngày vào lúc từ 14h đến 17h Stalin thường đi tắm ở suối nước nóng tại khu điều dưỡng dành cho các nhà lãnh đạo Liên Xô nằm cách khu biệt thự nơi ông ở khoảng 4km.
Từng là nhân vật có quyền lực trong NKVD nên Lyushkov nắm rõ những thói quen của Stalin cũng như công tác bảo vệ ông. Thông thường Stalin sẽ sử dụng một phòng tắm riêng đặc biệt, khi Stalin tắm bên trong thì bên ngoài cửa vào duy nhất luôn có hai nhân viên bảo vệ vũ trang đứng gác.
Trong khi Stalin có mặt tại đó thì toàn bộ khu vực bị phong tỏa và không ai được phép ra vào. Tuy nhiên công tác bảo vệ nghiêm ngặt mấy cũng có chỗ sơ hở. Theo hiểu biết của Lyushkov thì nước ở khu vực này sau khi sử dụng sẽ được chảy ra một con sông gần đó theo một đường cống ngầm.
Vào buổi tối, khi lượng nước thải từ khu suối nước nóng ít đi thì mực nước trong đường cống ngầm chỉ đến đầu gối và có thể theo con đường đó bò vào trong khu nhà tắm. Chỗ lên nằm ngay ở nơi thoát nước của nhà bếp chảy vào đường cống. Và nhà bếp lại nằm ngay gần với phòng tắm đặc biệt của Stalin.
Lyushkov và Shiba Yukio, Utagawa Hagishima cùng vạch ra một kế hoạch chi tiết theo đó trong buổi đêm, nhóm ám sát sẽ bò qua đường cống ngầm đột nhập vào bên trong khu nhà tắm, sau đó trốn trong phòng lò hơi ngay cạnh phòng tắm của Stalin.
Căn phòng lò hơi nằm giáp với vách tường phía trong phòng tắm của Stalin và bình thường chỉ có 2 công nhân vận hành lò hơi ở đó. Khi nhóm công nhân này đến làm việc vào buổi sáng, nhóm ám sát sẽ bắt trói họ lại. Chỉ cần có đầy đủ nước nóng và không khí nóng thì sẽ không có ai biết chuyện gì xảy ra bên trong phòng lò hơi.
Theo thói quen, 14h Stalin sẽ vào phòng tắm vì vậy kế hoạch của Lyushkov là đến 15 giờ, 2 người thuộc nhóm ám sát sẽ thay trang phục của công nhân lò hơi và tiếp cận hạ thủ những nhân viên bảo vệ bên ngoài còn 5 người còn lại sẽ xông thẳng vào khu vực phòng tắm của Stalin.
Nhóm ám sát đã diễn tập nhiều lần với hiện trường mô phỏng tại Tân Kinh (Hsinking). Khu vực phòng nghỉ tập trung một nhóm bảo vệ, lối ra vào có 2 nhân viên bảo vệ và trước cửa phòng tắm của Stalin có 2 nhân viên bảo vệ.
Trong khi 2 thành viên nhóm ám sát đóng giả công nhân xử lý nhóm bảo vệ tại phòng nghỉ thì 5 thành viên còn lại của nhóm ám sát phải nhanh chóng hạ được 2 nhân viên bảo vệ bên ngoài phòng tắm của Stalin. Sau đó họ để lại 3 người đối phó với bên ngoài còn bản thân Lyushkov và Aleksei Valsky sẽ xông vào phòng tắm để hạ sát Stalin.
Tháng 12/1938, nhóm ám sát rời khỏi cảng Đại Liên với hộ chiếu và giấy tờ nhập cảnh vào Italia. Ngày 14/1/1939, nhóm ám sát đến cảng Naples của Italia. Tại đây nhóm ám sát được làm thủ tục để nhập cảnh vào Thổ Nhĩ Kỳ qua Lãnh sự quán Thổ Nhĩ Kỳ tại Naples.
Ngày 19/1/1939, nhóm ám sát đến thành phố Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ. Theo kế hoạch, từ Thổ Nhĩ Kỳ, nhóm ám sát sẽ vượt qua biên giới để xâm nhập Gruzia và tìm đường đến thành phố Sochi. Do trong nhóm ám sát có Lyushkov và Aleksei Valsky nên họ không thể vào Liên Xô theo đường công khai mà sẽ phải vượt biên.
Nhóm ám sát lên kế hoạch thuê một chiếc thuyền ở Stanbul để lén lút đổ bộ lên bờ biển gần Sochi trong đêm. Tuy nhiên, hành động này có thể bị lộ với thủy thủ đoàn của chiếc thuyền đi thuê và cũng dễ bị lực lượng biên phòng hai nước phát hiện nên kế hoạch xâm nhập Sochi bằng đường biển đã phải hủy bỏ.
Trước khi xâm nhập vào Liên Xô, những người tham gia kế hoạch “Săn gấu” được hứa hẹn nếu thành công sẽ được Cơ quan Tình báo Nhật Bản thưởng mỗi người một căn biệt thự và 1 triệu USD.
Gruzia và Thổ Nhĩ Kỳ chia cách nhau bằng dãy núi Caucasus nhưng công việc canh gác ở khu vực núi này lại lơi lỏng do địa hình hiểm trở. Từ Istanbul đi tàu đến cảng Alharby và đi ôtô là có thể đến thị trấn miền núi Bolga nằm cách biên giới với Liên Xô khoảng 20km.
Một con sông mang tên Kiulu chảy qua thị trấn này và chảy vào Liên Xô rồi từ phía nam của Batumi chảy vào Hắc Hải. Hai bên bờ sông là vách đá dựng đứng và lòng sông toàn những tảng đá lớn.
Tuy nhiên, theo những người dân địa phương thì chỉ có khoảng 5km đầu là khó đi còn sau đó càng gần đến biên giới với Gruzia sông chảy êm đềm dần. Men theo bờ sông đi bộ đến biên giới mất khoảng 8 tiếng đồng hồ. Qua biên giới là Batumi cách Sochi 300km và có thể đến đó bằng đường bộ hoặc đường sắt.
Tuy nhiên, ngay khi nhóm ám sát vừa qua được biên giới đã liền gặp phải sự tấn công của lực lượng biên phòng Gruzia mặc dù theo thông tin tình báo mà Trạm tình báo của Nhật Bản ở Istanbul thu thập được thì khu vực đó không có trạm gác và cũng ít khi có lực lượng biên phòng tuần tra.
Hai bên nổ súng và 3 người thuộc nhóm ám sát đã bị tiêu diệt. 4 người còn lại trong đó có Lyushkov đã vội vàng chạy ngược lại biên giới Thổ Nhĩ Kỳ.
Sau khi kế hoạch “Săn gấu” kết thúc thất bại, Cơ quan Tình báo Nhật Bản cho rằng có một điệp viên của Liên Xô mang mật danh Leo nằm ngay trong nhóm ám sát và đã thông báo mọi thông tin liên quan đến kế hoạch “Săn gấu” cho Cơ quan Tình báo Liên Xô.
Tuy nhiên, tình báo Nhật Bản đã không xác định được điệp viên mang mật danh Leo đó thuộc trong số 3 người đã bị bắn chết trong khi nổ súng với lực lượng biên phòng Gruzia hay thuộc nhóm 4 người trở về an toàn.
Ngày 29/1/1939, tờ News Chronicle của Anh (tờ Daily Mail ngày nay) đã đưa tin: Theo Thông tấn xã TASS, lực lượng biên phòng của nước Cộng hòa Gruzia tuyên bố họ đã bắn chết 3 người có ý định vượt biên từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Trên thi thể của những người đó đã tìm thấy vũ khí, bản đồ và sơ đồ thiết kế một trung tâm điều dưỡng dành cho các nhà lãnh đạo Liên Xô ở Sochi mà Stalin vẫn thường lui tới. Mục đích vượt biên của nhóm người này là nhằm ám sát Stalin khi đó đang ở Sochi. Tuy nhiên, lực lượng biên phòng đã được biết trước về kế hoạch đó.
Sau khi trốn thoát khỏi cuộc phục kích của lực lượng biên phòng, Lyushkov đã quay trở lại được Nhật Bản. Lyushkov tiếp tục làm việc cho Cơ quan Tình báo quân sự Nhật Bản và sống tại Tokyo đến năm 1945.
Sau đó Lyushkov được phái đến Mãn Châu để làm cố vấn cho quân đội Nhật Bản thời gian đó đang phải đối phó với hàng loạt các vụ ám sát từ phía Liên Xô vào tháng 8/1945. Tại đó Lyushkov đã bị bắn bởi một sĩ quan tình báo Nhật Bản tên là Takeoka để tránh việc Lyushkov bị rơi vào tay quân đội Liên Xô. Tuy nhiên thi thể của Lyushkov đã không bao giờ được tìm thấy.
Trong thời gian ở tại Tokyo, Lyushkov đã viết hồi ký và bình luận về Liên Xô với nội dung chống Stalin. Tuy nhiên Cơ quan Tình báo Nhật Bản đã thiêu hủy tất cả những tài liệu đó ngay trước khi Thế chiến thứ II kết thúchttp://antg.cand.com.vn/Images/reddot.gif
Theo CAND
Hồ sơ mã số JPN02
Hành trình trở về cố quốc của một nữ điệp viên Nhật Bản
Hãng tin Kyodo của Nhật Bản cho biết ngày 2/11/2005, một người phụ nữ Nhật Bản chạy sang CHDCND Triều Tiên tị nạn vào tháng 8/2003 đã trở về sau hơn 2 năm xa cách Tổ quốc. Sự việc được dư luận Nhật Bản quan tâm bởi người phụ nữ này trước đây từng là điệp viên của Cơ quan An ninh Nhật Bản. Chính vì vậy, các phương tiện thông tin đại chúng của Nhật Bản đã tìm mọi cách để vén bức màn bí mật...
http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/18_katzumi512.jpg
Kazumi Kitagawa.
Theo nguồn tin của một tờ thời báo Nhật có sự liên hệ từ lâu với người phụ nữ này thì tên của chị là Kazumi Kitagawa, 31 tuổi. Kitagawa có chồng là người Trung Quốc. Công việc của chị là vừa làm nội trợ vừa đảm nhiệm việc quản lý tại một nhà hàng ăn uống do bố mẹ là chủ kinh doanh.
Việc chạy sang CHDCND Triều Tiên (viết tắt là Triều Tiên) của Kitagawa được bắt nguồn từ năm 2000, sau khi quen biết với một số người bạn Triều Tiên làm việc tại Hiệp hội Liên hợp dân cư có trụ sở tại Nhật. Kitagawa đã bày tỏ với những người này về ý tưởng muốn đến định cư tại Triều Tiên. Vào ngày 24/8/2003, Kitagawa đã đi du lịch trên biển bằng tàu du lịch và khi con tàu này chạy đến gần khu vực giáp ranh với Triều Tiên, bất ngờ Kitagawa nhảy từ trên tàu xuống nước, rồi nhanh chóng bơi vào vùng biển thuộc lãnh thổ Triều Tiên. Lên bờ, cô ghi vào một tờ giấy dòng chữ bày tỏ mong muốn đến Triều Tiên sinh sống và xin Chính phủ Triều Tiên cho phép tị nạn.
Việc sau hơn 2 năm Kitagawa trở về đất nước đã làm cho người ta phải đặt ra câu hỏi vì sao cô ta lại trốn chạy như vậy?
Nguồn tin từ Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên đã trả lời cho câu hỏi này. Theo đó, trước khi chạy đến Triều Tiên, Kitagawa đã từng làm điệp viên cho Cơ quan An ninh tại Tokyo và nhiệm vụ chủ yếu của cô ta là giám sát những người Triều Tiên đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản cũng như các thành viên của giáo phái Aum của Nhật Bản. Trong thời gian hợp tác với Cơ quan An ninh, Kitagawa cũng đã cung cấp được một số tin tức quan trọng về các đối tượng mà cảnh sát Nhật Bản quan tâm. Chính vì vậy, bắt đầu từ năm 2000, các quan chức tình báo và an ninh Nhật Bản đã ép buộc Kitagawa phải tăng cường giám sát hoạt động của các thành viên giáo phái Aum. Hành động này làm Kitagawa rất lo lắng và mệt mỏi vì cô luôn cảm thấy Cơ quan An ninh Nhật Bản thường xuyên gây phiền phức cho mình. Cuối cùng, Kitagawa đã quyết định chạy đến Triều Tiên để tránh sự truy bức của Cơ quan An ninh Nhật Bản cũng như giáo phái Aum.
Vì sao lại chọn Triều Tiên?
Ngay sau khi đặt chân xuống sân bay Nhật Bản, Kitagawa đã có cuộc trả lời phỏng vấn với các phóng viên về nguyên nhân vì sao cô ra đi. Cô cho biết do nhiều nguyên nhân, và để tránh gặp phải những sự phiền phức cho bản thân. Tuy vậy, Kitagawa không giải thích cụ thể vì sao cô ta lại chọn Triều Tiên là nơi đến của mình.
Nhưng từ những thông tin mà Kitagawa cung cấp về cuộc sống của cô tại Triều Tiên cho thấy phía Triều Tiên đã đối xử rất tốt với cô. Mặc dù Kitagawa đã xâm nhập vào lãnh thổ Triều Tiên một cách phi pháp nhưng vẫn được các cơ quan hữu quan của Triều Tiên bố trí cho ăn ở rất chu đáo, lịch sự. Trong thời gian 2 năm, cô sống tại một khách sạn ở Bình Nhưỡng và luôn được người Triều Tiên giúp đỡ, động viên.
Dư luận xung quanh chuyến trở về
Kitagawa trở về Nhật Bản đúng vào dịp giữa Nhật Bản và Triều Tiên tổ chức cuộc gặp song phương tại Bắc Kinh, nên có người nghi ngờ rằng đây có thể là do phía Triều Tiên chỉ thị cho Kitagawa làm như vậy nhằm tạo hòa khí giữa hai nước và thúc đẩy kết quả đàm phán có lợi cho phía Triều Tiên. Trước những nghi ngại này, Kitagawa đã thẳng thắn trả lời báo giới rằng, việc cô trở về Nhật Bản là do cô rất nhớ nhung đất nước này và trong cô luôn có khát vọng trở về.
Còn Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên cho biết, Chính phủ Triều Tiên cho phép Kitagawa trở về Nhật Bản lần này là xuất phát từ “chủ nghĩa nhân đạo”. Phía Triều Tiên còn cho biết, trong thời gian ở Triều Tiên do cảm thấy không muốn gây phiền phức thêm cho phía Triều Tiên, nên Kitagawa đã từ bỏ ý định xin tị nạn chính trị tại đây và cô ta muốn trở về Nhật Bản.
Hãng tin Kyodo cũng dẫn lời một quan chức ngoại giao Nhật Bản cho biết, đây là lần đầu tiên một người dân Nhật Bản chạy trốn sang Triều Tiên quay trở về. Trước đó, vào năm 1970, cũng có một số người Nhật cướp một máy bay chạy trốn sang Triều Tiên, nhưng không trở lại. Phía Nhật cho biết họ cũng rất hoan nghênh sự trở về này của Kitagawa, còn việc xử lý cô sẽ được xem xét trên tinh thần khoan hồng và cao thượnghttp://antg.cand.com.vn/Images/reddot.gif
Theo CAND
Hồ sơ mã số JPN03
Về tổ chức tình báo của Nhật Bản tại Trung Quốc trong Thế chiến II
Mai, Trúc, Lan, Cúc và Tùng là 5 loài thực vật biểu tượng cho những cái đẹp từ xưa đến nay, nhưng nó lại là tên gọi của 5 mạng lưới tình báo, gián điệp nổi tiếng của cơ quan tình báo Nhật Bản tại Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II. Tại thời điểm đó, Nhật Bản rất coi trọng hoạt động tình báo, gián điệp và công tác này khi đó là linh hồn của cuộc chiến.
Năm 1939, Nhật Bản thành lập Bộ Tổng tư lệnh “Trung Quốc phái khiển quân” tại thành phố Nam Kinh. Tổng tư lệnh quân đội Nhật Bản khi đó đã ra lệnh thành lập ngay 4 cơ quan tình báo và gián điệp.
http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=11036
Kawashima Yoshiko
Theo đó cơ quan tình báo Mai chuyên theo dõi hoạt động của Chính phủ bù nhìn của Uông Tinh Vệ. Cơ quan tình báo Trúc chuyên lo phần thuyết giáo. Cơ quan tình báo Lan chuyên đảm nhiệm phần theo dõi công tác của các tướng lĩnh khu vực Tây Nam. Cơ quan tình báo Cúc đặc trách theo dõi hoạt động của tỉnh Phúc Kiến và công tác Hoa kiều. Về sau Nhật Bản còn thành lập thêm cơ quan tình báo Tùng, do vậy mới có cụm từ “Mai-Trúc-Lan-Cúc-Tùng”.
Trong 5 cơ quan trên, cơ quan tình báo Mai là nổi tiếng nhất. Tổ chức tình báo này được chính thức thành lập ngày 23-8-1939 tại thành phố Nam Kinh với quân số tương đối ít (khoảng 30 người), nhưng các nhân viên ở đây đều được chọn lọc kỹ càng từ Lục quân, Hải quân, Ngoại vụ, phóng viên, thậm chí cả thành viên trong Quốc hội nên hiệu quả công việc rất cao và được tín nhiệm cả trong chính quyền Uông Tinh Vệ lẫn trong Bộ tư lệnh quân đội Nhật Bản.
Vai trò và ảnh hưởng của cơ quan tình báo Mai đã được khẳng định ngay từ khi chính quyền bù nhìn của Uông Tinh Vệ mới trong thời kỳ “thai nghén” tại Thượng Hải.
Nhiệm vụ chính của 5 cơ quan tình báo kể trên là giúp bọn Hán gian hoành hành gây tội ác, tiến hành các hoạt động do thám, làm xáo trộn cuộc sống yên lành của người dân lương thiện. Ngoài ra, lính đặc nhiệm của Nhật Bản còn rất có sở trường trong việc huấn luyện, sử dụng số tù binh tại các vùng Tế Nam, Thái Nguyên, Từ Châu để đánh bọn này vào các cơ quan Chính phủ hoặc quân đội Trung Quốc.
Bên cạnh đó là việc sử dụng “Mỹ nhân kế” như dùng Kawashima Yoshiko, Lý Minh Thanh... trong công tác thu thập tin tức tình báo tại khu vực Nam Kinh, Vũ Hán. Kawashima Yoshiko đã bị Chính phủ Quốc Dân đảng bắt năm 1948 và bị tử hình vì tội làm gián điệp. Ngoài ra tình báo Nhật Bản còn lợi dụng bọn thổ phỉ, các tổ chức tôn giáo để tung tin đồn nhảm, kích động, chia rẽ quần chúng nhân dân, tạo ra các phong trào “hòa bình” hòng làm giảm ý chí chiến đấu của quân dân Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống lại quân đội Nhật.
Bọn chúng còn mua chuộc, khống chế một số nhân vật quan trọng làm việc cho quân đội Nhật như Hoàng Thu Nhạc và người này đã cung cấp kế hoạch tuyệt mật “Phong tỏa Trường Giang” khiến Chính phủ Quốc Dân đảng bị thiệt hại nặng nề trong trận chiến quan trọng đó.
http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=11037
Không phải tới năm 1939 Nhật Bản mới tiến hành thành lập các cơ quan tình báo “Mai-Trúc-Lan-Cúc-Tùng” để tiến hành thu thập tin tức tình báo tại Trung Quốc, mà ngay từ khi họ giành được quyền kiểm soát phần phía Nam tuyến đường sắt Đông Thanh từ tay Sa Hoàng (năm 1905) hoạt động này đã được tiến hành.
Năm 1906, Nhật Bản thành lập Công ty đường sắt Nam Mãn, một trạm tình báo trá hình tại đất Trung Quốc. Ngoài ra họ còn tham gia vào các công việc kinh doanh khác như khai thác quặng, phát điện, vận tải hàng không, nông trường... Sau sự kiện “18-9-1931”, Công ty đường sắt Nam Mãn đã kiểm soát được toàn bộ tuyến đường sắt tại khu vực Đông Bắc Trung Quốc.
Tiếp đến là việc đặt văn phòng đại diện tại Bắc Kinh, Thượng Hải để có thể tiến hành thu thập tin tức tình báo một cách đầy đủ trên các mặt chính trị, xã hội, quân sự, kinh tế... Nhắc tới tình báo Nhật Bản không thể không nhắc tới “Hắc Long đảng”. “Hắc Long đảng” được thành lập từ năm 1891 và là tổ chức tình báo lớn nhất ngoài biên chế của Chính phủ Nhật Bản thời bấy giờ. Thành phần “Hắc Long đảng” rất đa dạng, phức tạp, từ tướng quân, cán bộ cao cấp trong ngành ngoại giao đến người không nghề nghiệp, bọn đâm thuê chém mướn, phần tử phạm pháp...
Theo thống kê, ban đầu “Hắc Long đảng” chỉ có khoảng 200 thành viên, nhưng sau này đã phát triển lên hơn 10.000 người và tổ chức này đã giúp Chính phủ Nhật Bản được nhiều việc. Nhưng về sau “Hắc Long đảng” đã bị biến tướng theo một chiều hướng khác khiến Chính phủ Nhật Bản phải ra tay dẹp bỏ.
Theo An ninh thủ đô.
Hồ sơ mã số JPN04
Mỹ và chiến dịch tình báo thất bại tại Nhật Bản
Các tài liệu được công bố mới đây cho thấy Mỹ đã tốn công vô ích khi bí mật tuyển mộ tội phạm chiến tranh và những kẻ theo chủ nghĩa quân phiệt Nhật để làm gián điệp chống Liên Xô thời đầu Chiến tranh lạnh.
http://images.timnhanh.com/tintuc/20070313/big/tinhbao.jpg
Chỉ huy G-2, tướng Charles Willoughby (Ảnh: Spartacus Schoolnet)
Đại tá M.Tsuji là một kẻ theo đuổi chủ nghĩa quân phiệt Nhật cuồng tín, một quân nhân tàn bạo. Bị quân Đồng minh săn đuổi sau Thế chiến thứ 2 vì đã giết hại thường dân Trung Quốc và dính líu đến Chiến dịch Tử thần tháng 3 tại Bataan (Philippines) vào năm 1942, sau đó tay này đã trở thành nhân viên tình báo cho Mỹ tại G-2 - cơ quan tình báo chống Cộng hoạt động riêng biệt với Cơ quan tình báo trung ương (CIA).
Theo các báo cáo của CIA được Cục lưu trữ Mỹ công bố mới đây, Washington đã thu nạp vào cơ quan tình báo các tội phạm chiến tranh Nhật và những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong những ngày đầu của Chiến tranh lạnh. Bên cạnh Tsuji, những tên tuổi tội phạm khác trong danh sách nhân viên tình báo của G-2 còn có trùm mafia trục lợi trong chiến tranh Y.Kodama và T.Hattori, cựu thư ký riêng cho H.Tojo - thủ tướng thời Thế chiến 2 của Nhật.
Nhiều nhân viên của G-2, từng bị bắt giữ sau khi Tokyo đầu hàng và dần dần được trả tự do sau đó, hoạt động dưới sự chỉ huy của tướng C.Willoughby. Thậm chí bên công tố viên của Đồng minh còn liệt một số nhân vật trong G-2 vào dạng tội phạm chủ chốt trong các phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh. Mục đích thành lập cơ quan tình báo G-2 tương tự như hoạt động của Mỹ tại Đức, dựa vào các cựu sĩ quan Đức Quốc xã để khai thác thông tin tình báo của Liên Xô. Có nghĩa là Mỹ muốn đưa gián điệp xâm nhập Liên Xô - CHDCND Triều Tiên và sử dụng tay sai Nhật để bảo vệ Đài Loan chống lực lượng Cộng sản đang thắng thế ở Trung Quốc.
Như vậy, thay vì hướng quốc gia từng là đế quốc này vào con đường dân chủ, Mỹ đã hướng Nhật tập trung sang mục đích kiềm chế Liên Xô. Tướng Willoughby cho rằng những kẻ từng phạm tội ác chiến tranh là chìa khóa chủ chốt để biến Nhật Bản thành bức tường thành chống Cộng hiệu quả tại châu Á và bảo đảm rằng Tokyo sẽ nhanh chóng trở thành đồng minh của Mỹ. Từ lâu, các sử gia kết luận rằng quân Đồng minh đã che mắt bịt tai, làm ngơ những tay tội phạm chiến tranh người Nhật, đặc biệt những kẻ nợ máu tại các nước châu Á, vì chống Cộng đã trở thành ưu tiên hàng đầu của phương Tây lúc đó.
Theo tài liệu do Hãng tin AP thu thập được, các hoạt động tình báo dạng trên đã thất bại nặng nề. Thực tế cho thấy các gián điệp Nhật quá quan tâm đến các hoạt động của cánh hữu và cố gắng kiếm chác tiền bạc hơn là phục vụ cho mục đích của Mỹ. CIA đưa các chứng cứ cho thấy nhân viên tình báo Nhật thường qua mặt các sếp Mỹ cả tin. Họ chuyển các thông tin tình báo vô dụng cho Mỹ và sử dụng mối quan hệ với Mỹ để buôn lậu và nỗ lực hồi sinh một Nhật Bản theo chủ nghĩa quân phiệt. Ví dụ, người Mỹ rót tiền mua một chiếc tàu để đưa lậu điệp viên Nhật sang đảo Sakhalin của Liên Xô, nhưng cuối cùng cả tiền lẫn tàu và điệp viên đã "bốc hơi". Theo CIA, một số gián điệp đã bán cùng một tin tức cho các bên khác nhau tại Mỹ để tăng thu nhập cũng như chuyển thông tin từ quân đội Mỹ cho những tên theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Thậm chí, điệp viên Hattori còn cầm đầu âm mưu đảo chính với mục tiêu lật đổ chính phủ thân Mỹ của Thủ tướng S.Yoshida vào năm 1952. Tuy nhiên, kế hoạch trên bất thành. Theo tài liệu CIA và giới sử gia, chính sự thiếu hiểu biết của Mỹ về Nhật Bản, sự quan tâm đến các đối tượng tội phạm chiến tranh và sự tự tin vào các kỹ năng tình báo của các sĩ quan Mỹ đã khiến họ "dễ dàng bị xỏ mũi trong một thời gian".
Theo TNO
Hồ sơ mã số JPN05
Mất bốn tàu sân bay do… lộ thông tin
Ngày 7-12-1941, Nhật Bản tiến hành đợt tập kích bí mật vào Trân Châu Cảng khiến hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ bị tê liệt. Sau “quả đắng” này Mỹ đã tăng cường cảnh giác với Nhật Bản. Mọi thông tin đã được mã hóa của Nhật Bản trong khu vực Thái Bình Dương đều bị Mỹ bí mật kiểm soát.
http://www.axisofinfo.com/wp-content/uploads/2008/05/b-25-japanese-ship.jpg
Hải quân, niềm tự hào lớn nhất của Quân đội phát xít Nhật.
Vào một ngày kia, tổ dịch mật mã của Mỹ bỗng phát hiện ra trong các bức điện đi, đến của Nhật Bản luôn xuất hiện hai từ “AF”. Người Mỹ bắt đầu nghi ngờ Nhật Bản có một âm mưu quân sự ở mục tiêu “AF” và họ cho rằng hai chữ “AF” là để chỉ hòn đảo có tên Mít-wây, một căn cứ không quân đặc biệt quan trọng của Mỹ nằm ở phía đông bắc đảo Ha-oai. Để xác thực thông tin này, Tư lệnh Hải quân Mỹ được lệnh đánh một bức điện nhử bằng tiếng Anh phổ thông nói rằng “Tình hình cung cấp nước ngọt cho Mít-wây bị trục trặc…”. Ngay sau bức điện này, tổ dịch mật mã của Mỹ “bắt” ngay được một bức điện của hải quân Nhật Bản điện báo cáo trên nói rằng “AF có thể thiếu nước ngọt”. Đây là bằng chứng tin cậy để người Mỹ khẳng định: Nhật Bản đang chuẩn bị tiến công Mít-wây và người Mỹ đã “tương kế, tựu kế”.
Quả nhiên sáng 4-6-1942, lực lượng hải quân Nhật Bản tiến công Mít-wây gồm 4 tàu sân bay và hàng chục tàu khu trục đã có mặt ở vị trí xuất phát tiến công. Sau mệnh lệnh ngắn gọn của tướng Nagumo, hàng chục máy bay ném bom của Nhật Bản bay vút về phía đảo Mít-wây. Người Mỹ đã đề phòng, nên máy bay của Nhật Bản chỉ có thể ném trúng sân bay, bởi các máy bay đã được sơ tán hết. Trong vịnh, các tàu sân bay của Mỹ cũng đã “đi làm nhiệm vụ”. Khi các máy bay của Nhật Bản đang mải miết đi ném bom sân bay của Mỹ thì các tàu sân bay của họ lúc này gần như không có lực lượng hộ tống và trở thành mục tiêu của máy bay tiêm kích Mỹ. Chỉ sau vài loạt bom, lần lượt các tàu sân bay Akanobu, Kaga, Sotatu đã bị đánh chìm.
Tướng Yamamoto lúc này chỉ còn lại tàu sân bay Tobitasu. Ông ta đã dốc toàn lực tấn công tàu sân bay Yooctao của Mỹ và chiếc tàu này cũng bị đánh chìm. Thế nhưng chiếc tàu sân bay cuối cùng của Nhật Bản cũng bị đánh chìm ngay sau đó. Trận tiến công Mít-wây bị thất bại hoàn toàn, tổng cộng Nhật Bản bị mất 4 tàu sân bay, một tàu tuần dương, 330 máy bay bị bắn rơi, bắn hỏng, mấy trăm phi công và hàng nghìn thủy thủ dày dạn kinh nghiệm tử trận.
Sau trận chiến này phía Nhật Bản hoàn toàn mất khả năng kiểm soát trên không và trên biển, đây cũng là một bước ngoặt dẫn đến sự diệt vong của phát xít Nhật.
( Theo QĐND )
Hồ sơ mã số JPN06
Quân đội Nhật sử dụng chiến tranh vi trùng trong Thế Chiến 2
Một bác sĩ từng phục vụ lực lượng hải quân Nhật Bản trong Thế chiến 2 đã thừa nhận rằng ông đã bị yêu cầu tiến hành các thí nghiệm khủng khiếp trên cơ thể các tù nhân người Philippin trước khi đem họ đi hành quyết.
http://images7.dantri.com.vn/Uploaded/lanlt/japannavy-271106.jpg
Rất ít cựu chiến binh Nhật Bản dũng cảm thừa nhận tội ác chiến tranh.
Trả lời hãng thông tấn Kyodo của Nhật Bản, ông Akira Makino, 84 tuổi, cho biết ông đã từng tiến hành các thí nghiệm y khoa trên cơ thể tù nhân chiến tranh, trong đó có cả phụ nữ và trẻ em.
Vẫn có nhiều cáo buộc về việc quân đội Nhật Bản thực hiện các thí nghiệm y học đối với các tù nhân bắt được ở Trung Quốc. Tuy nhiên, chỉ có rất ít cựu chiến binh dũng cảm lên tiếng thừa nhận, vì hầu hết họ đều không muốn nhắc lại quá khứ. Thêm vào đó, giới lãnh đạo cũng không khuyến khích việc này.
Sự thừa nhận của ông Makino được coi như lời thú tội đầu tiên của một cựu chiến binh Nhật Bản về hành động lạm dụng tù nhân trong cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á.
Nỗi khiếp sợ
Ông Makino đã đóng quân ở đảo Mindanao của Philippin trong Chiến tranh Thế giới lần thứ 2. Ông đã tiến hành thí nghiệm trên tổng cộng 30 tù binh trong suốt thời gian từ tháng 12/1944 đến tháng 2/1945, và đây được coi như một phần trong chương trình huấn luyện về y khoa.
“Có lẽ tôi sẽ bị giết nếu không tuân lệnh. Đó là tình thế bắt buộc khi đó”, ông nói.
Ông còn cho biết ông đã vô cùng phẫn nộ khi nhận được lệnh thực hành phẫu thuật trên cơ thể 2 tù binh người Philippin bị bất tỉnh sau khi bị bắt do nghi làm gián điệp cho Mỹ.
Chiến tranh vi trùng
Ông Mikano vẫn luôn bị ám ảnh bởi hồi ức về những tội ác mà ông đã tham gia trong cuộc chiến ở Philippin.
“Chúng ta không nên khơi lại nỗi đau, nhưng tôi muốn nói lên sự thật”, ông nói.
Một đơn vị quân đội Nhật Bản chuyên về chiến tranh vi trùng đã bị cáo buộc tiến hành các thí nghiệm y khoa trên cơ thể tù nhân trong suốt thời gian chiến tranh ở đông bắc Trung Quốc. Người ta tin rằng đơn vị này đã giết hại ít nhất 3.000 tù nhân.
Nhật Bản đã thừa nhận sự tồn tại của đơn vị này nhưng không quy trách nhiệm cho bất kỳ ai về những hành động tội ác này.
Theo BBC
Hồ sơ mã số JPN07
Tình báo viên Nhật làm gì ở bán đảo Triều Tiên
Với một mạng lưới dày đặc như vậy nhưng trong suốt mấy chục năm qua, tình báo Nhật hầu như chưa thu được một kết quả nào gọi là đáng kể. Rất nhiều kế hoạch ám sát Kim Nhật Thành, rồi Kim Jong Il đã không thành. Các vụ thử tên lửa, thử hạt nhân vẫn cứ diễn ra mà không hề gặp phải trở ngại gì, cũng như nước Mỹ, Nhật Bản cũng không thể biết chính xác cụ thể những gì Triều Tiên đang hoặc sẽ làm.
http://www.sbtn.net/images/upload/news/022407/JAPAN-SPY-SATELLITE.jpg
Phóng vệ tinh do thám (Nhật Bản)
Thu thập tin tức qua đường công khai
Có lẽ vì quá lo lắng cho an ninh quốc gia mà Nhật Bản là một trong số các nước triển khai hoạt động tình báo rầm rộ nhất tại bán đảo Triều Tiên. Nước Nhật xác định bán đảo Triều Tiên là khu vực quan trọng nhất liên quan đến an ninh quốc gia và chiến lược tại khu vực châu Á.
Phòng Điều tra nội các là cơ quan chỉ huy hoạt động tình báo. Cơ quan này chịu sự lãnh đạo trực tiếp của thủ tướng, cung cấp tin tình báo cho thủ tướng nhằm trợ giúp chính phủ trong hoạch định chính sách ngoại giao và quốc phòng. Nhưng do vai trò của cơ quan này không mấy nổi bật, năm 1997, Cục Phòng vệ Nhật Bản đã thành lập Văn phòng Tình báo tổng hợp nằm ngoài cơ cấu chính phủ, độc lập tiến hành thu thập, phân tích và xử lý các tin tức tình báo. Nhật Bản đặc biệt quan tâm tới việc sử dụng những nhân viên ngoại giao, các tổ chức phi chính phủ vào mục đích hoạt động tình báo. Đặc trưng lớn nhất trong hoạt động thu thập tin tức tình báo của Đại sứ quán Nhật là mềm dẻo, linh hoạt trong sử dụng đội ngũ phóng viên nước mình tại nước ngoài.
Hiện tại có 17 cơ quan thông tấn, báo chí Nhật có phóng viên thường trú tại Hàn Quốc, chiếm khoảng 30% tổng số phóng viên nước ngoài tại đây. Rất khó có thể phân biệt đâu là phóng viên thật và đâu là nhân viên tình báo. Giữa họ với Đại sứ quán Nhật luôn có mối liên hệ vô cùng chặt chẽ. Trước khi được cử đi Hàn Quốc, hầu hết phóng viên đều tham dự khóa đào tạo chuyên ngành tại cơ quan tình báo trong nước. Sau khi đến Hàn Quốc tác nghiệp, họ luôn giữ liên hệ và chia sẻ thông tin “mật” với Chính phủ Nhật.
Ngoài phóng viên Nhật, nhân viên trong các doanh nghiệp, hội thương mại của Nhật tại Hàn Quốc cũng thường xuyên tham dự các hội nghị thương mại, các sàn giao dịch chứng khoán qua đó thu thập thông tin tình báo, sàng lọc, phân tích và gửi tới Sứ quán Nhật. “Hội người Nhật tại Hàn Quốc” được tổ chức tại tầng 8 của Trung tâm thông tin gần Tòa Thị chính thành phố Seoul vào ngày thứ tư của tuần thứ hai hàng tháng, Đại sứ Nhật tại Hàn Quốc với tư cách là hội trưởng danh dự sẽ tham dự và cùng nhau chia sẻ thông tin.
Theo ANTG