PDA

View Full Version : Tổng quan Final Fantasy X



Nelvil
12-02-2009, 09:27 PM
1>Giới thiệu về FF tư liệu tổng hợp và thành 1 bài hoàn chỉnh

Final Fantasy là một series game thuộc thể loại nhập vai tức RPG - Role Playing Game được sản xuất nhờ Square Company, Ltd. Trong mỗi phiên bản của Final Fantasy, luôn tồn tại những thế lực đen tối và những anh hùng. Xung quanh họ là những câu chuyện, hoàn cảnh khác nhau, và những điều đó làm nên một cốt truyện hoàn chỉnh cho Final Fantasy. Và hơn hết, như mong mỏi của nhà làm game, muốn truyền tới "Chính nghĩa tất thắng". Bên cạnh những nhiệm vụ cần thiết để phát triển cốt truyện, chúng ta còn có thể tham gia các mini-game hay thực hiện các nhiệm vụ nhỏ để có thể nâng cao sức mạnh và tạo sự thú vị của trò chơi.


Đến nay, Square còn cho phát hành lại một số phiên bản Final Fantasy là tổng hợp của những phiên bản khác. Chúng gồm có.

Final Fantasy Origins: gồm có Final Fantasy I + Final Fantasy II. Được phát hành ở Nhật ngày 31/10/02, sau đó đến Châu Âu ngày 14/03/03, và ở Mỹ là 08/04/03.

Final Fantasy Collection: gồm ba phiên bản Final Fantasy IV + Final Fantasy V + Final Fantasy VI. Được phát hành ở Nhật vào ngày 11/03/99.

Final Fantasy Anthology: về cơ bản giống Final Fantasy Collection. Ở Mỹ chúng gồm Final Fantasy V + Final Fantasy VI phát hành ngày 30/09/99. Sang Châu Âu, Final Fantasy Anthology lại bao gồm Final Fantasy IV + Final Fantasy V được phát hành sau Mỹ khá lâu vào ngày 17/05/02. Square không nâng cấp gì về phần đồ hoạ, âm thanh mà chủ yếu xen vào một số đoạn FMV mở đầu và kết thúc game.

Final Fantasy Chronicles: gồm có hai phiên bản Final Fantasy IV + Chrono Trigger. Đây có thể coi là hai RPG đỉnh cao của Square trên hệ máy Super NES. Được phát hành ở Mỹ vào ngày 29/06/01. Các bản Final Fantasy trên đều được dịch cho hệ máy PlayStation.

Để củng cố thêm nhiều cho Final Fantasy về mặt marketing, Square còn cho phát hành những bộ phim như Final Fantasy The Spirit Within, Final Fantasy X: Another Story và Final Fantasy VII: Advent Children.

2.các nhân vật chính trong FFX

Tên: Tidus
Tuổi: 17
Vũ khí: kiếm
Overdrive: Swordplay
Giới thiệu: Tidus là một ngôi sao của đội bóng Blitzball Zanarkand Abes, Tidus theo nghề của cha anh ta, nhưng Tidus lại rất ghét bố. Bố của Tidus – Jecht đã mất tích mười năm trước và từ đó, Tidus không còn gặp lại bố. Câu truyện của Tidus bắt đầu khi Sin đến và phá huỷ Zanarkand – nơi mà Tidus đang sinh sống và khi anh ta bị lạc đến một thế giới huyền bí



Tên: Yuna
Tuổi: 17
Vũ khí: Cây gậy phép thuật
Overdrive: Grand Summon
Giới thiệu: Yuna là con gái của Braska - một High Summoner, người đã đánh bại Sin mười năm trước. Yuna đã quyết định theo chân bố mình để trở thành một Summoner và hành hương đến Zanarkand để lấy con Aeon cuối cùng để đánh bại Sin. Trên suốt đoạn đường đi, Yuna sẽ được bảo vệ bởi những người bảo vệ (Guardian). Yuna là một nhân vật khá mạnh về White Magic.


Tên: Auron
Tuổi: 35
Vũ khí: Kiếm
Overdrive: Bushido
Giới thiệu: Auron là một người bảo vệ khá nổi tiếng, ông ta đã cùng Braska đánh bại Sin mười năm về trước. Bây giờ ông ta sẽ bảo vệ Yuna trên con đường hành hương đến Zanarkand lấy Final Aeon để đánh bại Sin một lần nữa. Auron là một người khá ít nói, nhưng ông ta có một thanh gươm chết người có thể cắt đứt mọi thứ, là một nhân vật rất tốt để đối phó với những quái vật có chỉ số Def cao


Tên: Wakka
Tuổi: 17
Vũ khí: Blitzball
Overdrive: Slots
Giới thiệu: Wakka là một người bảo vệ của Yuna, anh ta giống như một người anh trai của Yuna. Wakka đã bị mất em trai – Chappu, người đã bị Sin giết chết. Wakka còn là huấn luyện viên và đội trưởng của đội bóng Besaid Aurochs, một đội bóng chưa biết đến mùi chiến thắng trong một thời gian dài. Wakka dự định từ bỏ sự nghiệp chơi Blitz của mình sau mùa giải năm nay để trở thành một Guardian thực thụ. Wakka là một nhân vật khá thích hợp để đối phó với những con quái vật bay có chỉ số Eva cao




Tên: Lulu
Tuổi: 22
Vũ khí: Một con búp bê
Overdrive: Fury
Giới thiệu: Lulu giống như một người chị của Yuna, cô ta cũng là một Guardian của Yuna. Lulu trông có vẻ lạnh lùng nhưng thực ra cô ta lại khá đa cảm. Cô ta là một người rất mạnh về Black Magic. Cô ta mang một con búp bê như một thứ vũ khí làm tăng sức mạnh cho câu thần chú của cô ta.



Tên: Rikku
Tuổi: 16
Overdrive: Mix
Giới thiệu: Rikku là một cô gái trẻ người Al Bhed. Rikku luôn lạc quan vì vậy cô ta sẽ động viên các thành viên khác khi họ cảm thấy chán nản. Rikku có thể sử lí một cách dễ dàng các đối thủ thuộc loại máy móc, hãy cho cô ta chôm một vài thứ từ chúng, bạn sẽ thấy điều khiến cho Rikku trở thành khắc tinh của quái vật máy móc. Rikku là một cô gái có tốc độ rất tốt



Tên: Kimahri Ronso
Tuổi: 32
Vũ khí: Giáo
Overdrive: Ronso Rage
Giới thiệu: Kimahri là một người Ronso bị gãy sừng. Ông ta thường bị chế nhạo bởi những người cùng chủng tộc với ông ta bởi chiếc sừng gãy đó. Kimahri đã bảo vệ Yuna từ khi Yuna còn là một cô bé. Rất ít nói, nhưng ông ta lại hết lòng bảo vệ Yuna đến hết chết.

3> lời bài và cả đường link nghe nữa

Suteki Da Ne <Điều Đó Không Thật Đẹp Sao> Thanh Lam hát
Tiếng Nhật là:

aze ga yose ta kotoba ni
oyoi da kokoro
kumo ga hakobu ashita ni
hazunda koe

tsuki ga yureru kagami ni
furue ta kokoro
hoshi ga nagare kobore ta
yawarakai namida

suteki da ne
futari te wo tori aruke ta nara
iki tai yo
KIMI no machi ie ude no naka

sono mune
karada azuke
yoi ni magire
yumemiru

kaz e wa tomari kotoba wa
yasashii maboroshi
kumo wa yabure ashita wa
tooku no koe

tsuki ga nijimu kagami wo
nagare ta kokoro
hoshi ga yurete kobore ta
kaku se nai namida

suteki da ne
futari te wo tori aruke ta nara
iki tai yo
KIMI no machi ie ude no naka

sono kao
sotto furete
asa ni tokeru
yumemiru
Tieng Việt là:
Lời ru thiết tha nhẹ theo gió mãi ngân nga.
Sánh vai bên người thoáng nghe môi cười.
Từ trong trái tim niềm hạnh phúc ướt đôi mi.
Hỡi anh hay không tình em mênh mông.

Hồ in bóng trăng nhìn đêm vắng rất lung linh.
Dáng anh bên em phút giây êm đềm.
Ngàn sao sáng soi dòng sông trắng lướt trên mây.
Hỡi anh hay không tình em mênh mông.

Giọt nước mắt đã rơi.
Ướt đôi mi mềm tình này em trao đến người suốt cuộc đời
Giọt nước mắt đã rơi.
Ước ao thêm một lần tình yêu ta cùng hát bài ca.

Phút giây xa rồi thoáng nghe rơi giọt sương mai.
Đã xa vòng tay ấm nồng cùng những người xưa.
Lời anh :
The moon, a shaking heart in an unsteady mirror
The stars, gentle tears in an overflowing stream

suteki da ne
futari te wo tori aruketa nara
ikitai yo
KIMI no machi ie ude no naka


Isn't it beautiful, to walk together in each others hands
I do so want to go,
To your city, your house, into your arms.

sono mune
karada azuke
yoi ni magire
yumemiru


That heart,
held within your body
In those confusing nights
I dream

kaze wa tomari kotoba wa
yasashii maboroshi
kumo wa yabure ashita wa
tooku no koe


The wind, its halting words are a gentle illusion
The clouds, the broken future like a distant voice

tsuki ga nijimu kagami wo
nagareta kokoro
hoshi ga yurete koboreta
kakusenai namida



The moon, a heart flowing in the clouded mirror
The stars, broken and swaying, like tears unable to be hidden.

suteki da ne
futari te wo tori aruketa nara
ikitai yo
KIMI no machi ie ude no naka


Isn't it beautiful, to walk together in each others hands
I do so want to go,
To your city, your house, into your arms.

sono kao
sotto furete
asa ni tokeru
yumemiru


That face,
A soft touch,
Dissolving into morning,
I dream.

Còn đây là link nghe Lời nhật http://music.onboom.com/Movie-Game-A...eki-Da-Ne.html
Lời Việt http://music.onboom.com/Movie-Game-A...t-Dep-Sao.html

4. Cốt truyện trước của FFX

Lục địa Spira đã ở đó từ bao giờ ko ai biết, được tạo ra từ một bàn tay thần bí của Thượng Đế hay là một kết quả của vũ trụ? Đó là một câu hỏi ko lời giải. Chỉ biết, trên lục địa trung tâm mang cái tên Spira tồn tại 4 chủng tộc hoà bình và thân ái: người Guado ở thành phố Guadosalam, người Ronso trên đỉnh Gagazet, người Al Bhed cùng NGƯỜI BÌNH THƯỜNG sống rải rác khắp nơi, trong đó tập trung đặc biệt ở 2 thành phố hiện đại: Bevelle và Zanarkan.

Nhưng sự sống yên bình của họ nhanh chóng bị đe doạ bởi sự phát triển ngày càng nhanh của kỹ thuật cơ khí, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự…

1000 năm trước


Cuộc đại chiến nổ ra giữa Bevelle và Zanarkan với sự tham gia của các “vũ khí công nghệ cao” (hay machina như sau này chúng được các tín đồ Yevon gọi). Machina của Bevelle hiện đại và mạnh mẽ hơn hẳn Zanarkan và nhanh chóng, thành phố Zanarkan tươi đẹp chìm trong đổ nát, khói lửa, gần như bị tiêu diệt, nếu ko có summoner Yu Yevon-thủ lĩnh của Zanarkan.

Yu Yevon ra lệnh cho những người dân còn lại của Zanarkan tự sát để trở thành các fayth. Các fayth duy trì nguồn năng lượng của sự sống-hay linh hồn- dưới dạng các pyrefly (ma trơi), còn bản thân fayth khóa trong các bức tượng mà khi được gọi ra-bằng một phương thức đặc biệt của Yu Yevon- sẽ tạo một năng lượng khổng lồ, biết đến với tên gọi Aeon. Bản thân Yu Yevon hi sinh trở thành vong hồn, sử dụng các quyền năng của mình, thu thập nguồn năng lượng từ hàng trăm ngàn người chết được các fayth duy trì, tạo thành một bộ giáp khổng lồ bất khả xâm phạm được biết dưới cái tên Sin. Với Sin, Yu Yevon tiêu diệt toàn bộ đạo quân machina của Bevelle một cách dễ dàng. Bằng năng lượng khổng lồ nắm giữ được, Yu Yevon dùng Sin để tái tạo một Zanarkan ảo, tồn tại ở một thế giới giấc mơ với đủ mọi thứ trước khi bị tiêu hủy-kể cả những người dân của nó.

Con gái của Yu Yevon, công nương Yunalesca, quyết tâm trừ khử hoàn toàn thế giới khỏi các cuộc xung đột đẫm máu bởi machina, thiết lập một tôn giáo gọi là Yevon, truyền dạy phương thức triệu hồi đặc biệt của cha mình cho những người tình nguyện, những người đó gọi là Summoner. Các summoner ko những có thể triệu hội các Aeon ra chiến đấu mà còn có thể siêu thoát các linh hồn người chết đến Farlane-nơi của người chết, ko thì các linh hồn đầy sức mạnh hoặc trở thành quái vật, hoặc tồn tại dưới dạng một con người-chỉ có linh hồn. Yunalesca sáng lập thêm một nghi thức gọi là Nghi Thức Triệu Hồi Cuối Cùng (The Rite of Final Summoning), dùng để triệu hồi Aeon mạnh nhất-Aeon cuối cùng (Final Aeon). Các summoner phải trải qua một cuộc hành hương đến các điện thờ Yevon trên khắp Spira, thu thập các Aeon để đến điện thờ cuối cùng ở Zanarkan-Zanarkan của hiện thực, đổ nát và hoang phế. Ở đó Yunalesca sẽ giúp họ có được Final Aeon. Final Aeon được tạo ra từ chính linh hồn của một trong những Hộ Vệ (Guardian) của Summoner-tức là họ phải chết để summoner có được Final Aeon. Tình cảm giữa Summoner và Guardian được chọn càng khắn khít thì Final Aeon sẽ càng mạnh hơn. Khi đó, summoner sẽ có thể tiêu diệt Sin.

Tuy nhiên, linh hồn Yu Yevon với quyền năng của mình, sẽ chiếm hữu Final Aeon-bắt nó quay lại tiêu diệt summoner của mình- và tạo ra Sin một lần nữa, trong khoảng thời gian ngắn. Và sau đó, Sin-hay Final Aeon bên trong nó-lại tiếp tục xuất hiện đe doạ sự yên bình của Spira-nhằm tìm thêm năng lượng sự sống từ những người chết cho các Fayth sử dụng. Mục đích của việc này là để hồi phục năng lượng cho Yu Yevon, tiếp tục duy trì Zanarkan ảo, đồng thời cho người dân Spira một hi vọng, một niềm tin vào “Yevon giáo” và một trong những tiêu chí của Yevon chính là: cấm machina hoàn toàn.

Yunalesca đi tiên phong trong việc sử dụng Final Aeon-chính là linh hồn của chồng mình, Ngài Zaon-để tiêu diệt Sin, tạo niềm tin tuyệt đối cho người dân trên Spira vào đạo Yevon. Yunalesca cũng là High Summoner đầu tiên gục ngã sau khi diệt Sin (bị Final Aeon giết) nhưng từ chối được siêu thoát lên Farlane, vẫn ở lại Zanarkan, chào đón các summoner đã trải qua cuộc hành hương, giúp họ thực hiện nghi thức Final Summoning để lấy Final Aeon.

Bevelle run sợ trước sức mạnh của Sin và hi vọng vào những điều dạy của Yevon (Yevon’s Teaching) rằng : “một khi con người rũ bỏ mọi tội ác thì Sin sẽ biến mất” (và vì thế bộ giáp của Yevon mới có tên là Sin-Tội Lỗi), liền ra lệnh cấm sử dụng và phát triển hoàn toàn machina, ngoại trừ một vài thứ như sân vận động Luca (và thật gian xảo, các vũ khí của quân đội Bevelle vẫn còn một phần nào đó). Hàng loạt các điện thờ Yevon được dưng lên, mỗi cái trú ngụ một Fayth-hay Aeon sau khi được kết hợp vào một bức tượng năng lượng-giúp các summoner trẻ luyện tập khả năng summon của mình trên đường hành hương đến điện thờ cuối cùng ở Zanarkan. Chính quyền quân sự của Bevelle thay bằng Giáo Hội Yevon, quản lãnh các nhà thờ cùng tín đồ Yevon bằng các điều dạy của Yevon cùng với đội Chiến Binh Tu Sĩ (Warrior Monks)

Nền văn minh cơ khí của Spira chấm dứt với sự tiêu hủy gần như hoàn toàn mọi máy móc, sự ngăn cấm mọi công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, chủng tộc Al Bhed, với ngôn ngữ riêng của mình, ko chấp nhận thờ phụng Yevon, bị gọi là “Kẻ phản bội” (Traitors) bởi Giáo Hội (Yevon) ở Bevelle và bị đuổi ra khỏi lục địa chính của Spira. Mất đi mọi kiến thức và công nghệ về kỹ thuật cơ khí, người Al Bhed cố thu hồi tất cả những machina chưa bị tiêu hủy về sử dụng, dù ko rõ nhiều tác dụng của chúng.

Một vùng đất hoang phế ko người ở, do cuộc chiến Bevelle-Zanarkan gây ra, trở thành chiến trường quy định cho các summoner sở hữu được Final Aeon dùng để tiêu diệt Sin. Vùng đất đó, mang dấu ấn sự tiêu diệt của Sin, mở ra giai đoạn yên bình ngắn ngủi gọi là The Calm, sau được gọi với tên Calm Land.

Từ đây Yevon đã chết (chỉ còn tồn tại dưới dạng chiếm hữu Aeon), Yevon dùng phía dưới là để chỉ đạo Yevon.

Phu nhân Yocun và Ngài Ohalland (vốn là cầu thủ Bliztball) hoàn tất 2 cuộc hành hương sau đó, tiêu diệt được và trở thành 2 High Summoner đầu tiên.

Biglhen, người Al Bhed, hoàn thành các cột thu lôi suốt Thunder Plain, chấm dứt những cái chết trên đoạn đường đầy rẫy tia chớp này, mặc dù chính Biglhn đã chết do bị sét đánh trong quá trình xây dựng.

Một tên trộm to gan đã lẻn vào điện thờ, lấy cắp bức tượng chứa Fayth của Yojimbo ra dấu trong động Sunken (Sunken Cave), đem đến cho động cái tên: Cavern of the Stolen Fayth (Động của Fayth bị đánh cắp). Mục đích rõ ràng của hắn là ngăn cuộc hành hương của các summoner.


800 năm trước


Ngài Mi’ihen thành lập đội quân tên gọi Những Lưỡi Gươm Tía (Crimson Blades) với mục đích tiêu diệt Sin, bảo vệ Spira. Lo sợ ảnh hưởng đến đến nghi thức Final Summoning, Giáo Hội Yevon buộc tội Mi’ihen “phản bội” và “báng bổ”. Ngài Mi’ihen đã đi bộ từ Luca đến Bevelle, trên con đường nổi tiếng sau này gọi là Mi’ihen Highroad, trả lời trước Giáo Hội rằng mình chỉ vì người dân Spira chứ ko hề chống lại những điều giảng dạy của Yevon. Giáo Hội có vẻ thấy sự thiếu-khả-năng-thành-công của đội quân nên cho phép duy trì nó, đưa vào hệ thống kiểm soát của Giáo Hội, đổi tên thành đội quân Crusaders (Thập Tự Binh-hay Quân Viễn Chinh Vì Tôn Giáo).


700 năm trước


Omega, một trong những thành viên mạnh mẽ của Giáo Hội, chống lại đức tin của mình, từ bỏ Đạo Yevon. Bị tuyên bố là “kẻ phản bội”, Omega trốn vào một hang động tối tăm sau này gọi là Omega Ruins (Phế Tích Omega). Vì ko được siêu thoát (chỉ có thể bởi tay một summoner) nên linh hồn Omega sau trở thành một trong những quái vật dữ tợn và mạnh mẽ nhất Spira.


400 năm trước


High Summoner Gandof hoàn tất cuộc hành hương và chiến đấu với Sin ở Calm Land, đánh ngã nó xuống tạo thành một thung lũng sâu, gọi là The Scar (Vết Sẹo), rồi tiêu diệt nó ở dưới đó và chết.


Trong khoảng 100 năm đến hiện tại


Ngài Mika trở thành Grand Maester (Đại Trưởng Lão) của Giáo Hội Yevon. Ngay cả sau khi Mika qua đời, ông vẫn ở lại, ko siêu thoát, để tiếp tục giữ chức Grand Maester.

Một summoner trẻ tên Belgemine ko may chết trên đường hành hương dù đã rất gần Zanarkan. Bà từ chối siêu thoát, ở lại để giúp các summoner trẻ trui rèn kỹ thuật summon Aeon của họ.


Trong khoảng 30 năm đến hiện tại


Sin tấn công đảo Bikanel, phá hủy thành phố machina Home of Al Bhed (Quê Hương Người Al Bhed). Chàng trai trẻ Cid đứng lên thống nhất những người Al Bhed tha hương về xây dựng lại Home of Al Bhed trên sa mạc Sanubia.

Chàng tu sĩ trẻ Braska, trong nỗ lực hóa giải căng thẳng giữa người Al Bhed và Giáo Hội ở Bevelle, lên đường đến Home of Al Bhed. Mặc dù thất bại trong việc thuyết phục Giáo Hội cứng nhắc ở Bevelle, Braska cũng đạt chút thành công: gặp gỡ và yêu em gái của Cid-thủ lĩnh trẻ tuổi của người Al Bhed. Hai người kết hôn trong sự khinh rẻ của Giáo Hội và các tín đồ Yevon. Sau khi hạ sinh cô con gái đầu lòng Yuna (đặt theo tên High Summoner đầu tiên, Yunalesca), người thiếu phụ ko may qua đời trên đường về Home of Al Bhed thăm anh trai mình, bởi Sin. Đây là một cú sốc lớn cho Braska và là động lực thúc đẩy ông trở thành một summoner, với quyết tâm tiêu diệt Sin.

Auron, thủ lĩnh của các Warrior Monks ở Bevelle, bị trục xuất khỏi hàng ngũ các chiến binh tu sĩ vì từ chối kết hôn với con gái của một Đại Tu Sĩ (High Priest). Wes Kinoc, bạn của Auron, được thăng lên làm thủ lĩnh và sau này trở thành một Maester (Trưởng Lão). Auron kết bạn với Braska và trở thành Guardian cho Braska trên đường hành hương.


10 năm đến hiện tại


Jetch, ngôi sao Blitz Ball của đội tuyển Zanarkan Abes, ở thành phố Zarnakan ảo, gặp Sin trong một lần ra biển. Cuộc chạm trán làm Jetch bị lôi khỏi thế giới giấc mơ, đến thế giới thực của Spira. Sau một cuộc lộn xộn với các chiến binh tu sĩ, Jetch bị tống vào ngục vì bảo mình đến từ Zanarkan và ko chịu tôn sùng Yevon. Braska cảm thấy thú vị về gã sâu rượu này nên dùng danh dự của summoner cứu Jetch ra khỏi ngục, mời làm Guardian cho mình. Nghĩ rằng có thể tìm ra cách về Zanarkan của mình (ko biết là thế giới ảo), Jetch đồng ý.

Khi đến làng Besaid, Braska rất thích thú về sự yên bình ở đây, bảo Auron hứa là sẽ đem Yuna đến ở đây sau khi diệt xong Sin (biết rằng mình sẽ chết). Trong quá trình hành hương, tình cảm giữa họ ngày càng khắn khít (nhất là sau khi Jetch thề bỏ rượu vì trong lúc say đã đâm con Shoopuf, hại Braska dốc sạch tiền hành hương để đền).

Nhóm bạn trẻ vượt qua nhiều gian truân (trong đó có cuộc chạm trán với Chocobo Eater) để đến được Zanarkan Ruins (Phế Tích Zanarkan), điện thờ cuối cùng nơi cất giữ Final Aeon. Yunalesca, như suốt 1000 năm, vẫn ở đó chờ các summoner mới đến để giải thích và giúp họ thực hiện nghi thức Final Summoning. Thấy hết hi vọng về Zanarkan, Jetch quyết định hi sinh để trở thành Final Aeon cho Braska, trước đó dặn dò Auron tìm cách đến Zanarkan ảo chăm sóc “thằng bé nhỏng nhẽo” Tidus của mình .

Trong khi đó, Kihmari Ronso trẻ tuổi quyết đấu với Biran Ronso, người hùng của tộc Ronso, trên đỉnh Gagazet và bại trận. Ko chấp nhận thất bại, Kihmari bị Biran bẻ gãy sừng để nhục mạ. Kihmari bèn ra đi phiêu lưu để trui rèn kỹ năng chiến đấu, mong có ngày hạ được Biran.

Braska dùng Final Aeon tiêu diệt Sin và cũng như bao High Summoner trước, chết. Jetch bị Yu Yevon chiếm hữu và trở thành Sin mới (xuất hiện 10 năm sau). Auron, phẫn nộ và đau đớn, quay lại để tìm Yunalesca, chất vấn bà ta tại sao Braska phải chết. Yunalesca giải thích về việc các chết tạm thời của Sin sẽ cho Spira một niềm vui, hi vọng cũng như một sự cảnh cáo trước tội lỗi. Auron liền tấn công Yunalesca nhưng bị đánh trọng thương, thoi thóp dẫn Yuna 6 tuổi bỏ đi. Trên đường đi thì gặp Kihmari, biết ko thể cầm cự hơn nữa, Auron giao Yuna cho Kihmari nhờ đem về Besaid và chăm sóc cô bé. Kihmari nhận lời và ra đi. Auron được Rin-ông chủ của loạt cửa hiệu Al Bhed rải khắp Spira-cứu chữa nhưng ko khỏi và qua đời. Tuy nhiên, vẫn giữ lời hứa với Braska và Jetch, Auron từ chối siêu thoát rồi bỏ đi trong đêm.

Kihmari đem Yuna đến được ngôi làng Besaid hiền hòa ven biển, định bỏ đi nhưng sao từ chối lời yêu cầu ở lại của cô bé Yuna, đành ở lại chăm sóc cô bé suốt 10 năm. Yuna lớn lên cùng với cô chị lớn Lulu cùng 2 anh em Wakka, Chappu (Lulu và Chappu dường như có sự phát triển nào đó hơn là tình bạn) một cách yên bình đến khi cha mẹ của 3 người chết trong một cuộc tấn công của Sin.

Trong khi đó, Auron đi cùng với Sin đến được thế giới của giấc mơ (vì Auron vốn giờ chỉ là linh hồn) và vào thành phố Zanarkan ảo. Auron chăm sóc cậu bé Tidus 7 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ vì mẹ cậu-vợ Jetch- qua đời trong thương nhớ người chồng đã ko bao giờ trở lại. Tidus, với mong muốn vượt qua cha mình-vì cho rằng ông ko quan tâm gì đến mình mà lại luôn làm mẹ ko chú ý đến mình mỗi khi ông xuất hiện, trở thành một cầu thủ Blitz ball và là ngôi sao kế tiếp của Zanarkan Abes.

Jyscal Guado trở thành Maester của người Guado vì các công lao truyền bá đạo Yevon cho người Guado và xích gần quan hệ với Giáo Hội bằng cuộc hôn nhân với 1 phụ nữ loài người. Seymour Guado ra đời với 2 dòng máu nên luôn bị xem thường. Mẹ của Seymour hi sinh, trở thành Fayth của Aeon Anima, với hi vọng con trai mình sẽ mạnh mẽ hơn nhờ Anima. Seymour lớn lên và được làm High Priest của điện thờ Maccalania. Tuy nhiên sau khi có quyền lực trong tay, Seymour ngày càng đòi hỏi nhiều hơn thế nữa.

Wakka thành đội trưởng tuyển blitz ball Besaid Aurouchs (với em trai Chappu của mình trong đội), tuy nhiên họ ko thể giành được giải thưởng nào suốt 10 năm.

Rikku-con gái của Cid, thủ lĩnh người Al Bed-bị một con quái vật tấn công khi tập bơi. Brother-con trai lớn của Cid- định dùng phép Thunder cứu em nhưng lại đánh trúng Rikku. Từ đó Rikku mắc chứng khiếp sợ sét.


1 năm đến hiện tại



Lulu trưởng thành, trở thành Guardian cho một nữ summoner tên gọi Ginnem, tuy nhiên bà ta chết trong trận chiến với quái vật ở động Sunken và trở thành một quái vật mạnh mẽ trong động-do chưa bao giờ được siêu thoát. Điều này trăn trở suốt trong lòng Lulu đến tận khi trở về Besaid và nhân lên thêm sau cái chết của Chappu: anh gia nhập nhóm Crusader của Besaid và chiến đấu với Sin nhưng qua đời, theo các tín đồ Yevon là do các crusaders đã sử dụng machina. Từ đó Lulu trở nên lạnh lùng ít nói còn Wakka thì sùng đạo Yevon và căm thù Al Bhed với các machina mà-theo Wakka-đã hại chết Chappu, anh trở thành Guardian, định ko chơi blitz ball nữa.

Lulu cùng Wakka hộ tống Cha Zuke, tu sĩ của điện thờ Besaid, để thành summoner nhưng ông bỏ ý định giữa chừng và thành tu sĩ ở điện thờ Bevelle. Cảm thấy có vẻ chưa thích hợp với việc Guardian, Wakka (cùng Lulu) quay về Besaid để chơi giải cuối cùng trước khi giải nghệ. Chưa bỏ khát vọng diệt Sin, 2 người trở thành Guardian của cô bé Yuna-giờ đã quyết định trở thành summoner.

Seymour Guado đã đạt đến ngưỡng cuối của tham vọng quyền lực. Biết được sự bất đồng quan điểm giữa Maester Jyscal với Grand Maester Mika về việc dùng các summoner làm con mồi đem lại hi vọng cho Spira, Seymour giết chết cha mình là Jyscal để được phong làm Maester của người Guado. Jyscal thấy trước được nên để lại lời nhắn vào viên Video Sphere và cố vất vưởng trên Spira chứ ko chịu siêu thoát lên Farlane dù đã được siêu thoát (send).

5.Bắt đầu cốt truyện của FFX


Chương 1: Thoát Khỏi Giấc Mơ


Sin hay chính xác hơn, Jetch-Final Aeon của Braska, cảm thấy đã đến lúc kết thúc tất cả mọi thứ, mọi thứ mà ông bị ép phải làm khi bị chiếm hữu bởi Yu Yevon. Bằng một chút ý thức còn lại, Sin/Jetch vượt qua biên giới không gian, tấn công tiêu diệt thành phố Zanarkan ảo-nơi Auron đã đợi suốt 10 năm, liền đem Tidus lên, bám theo Sin để trở về thế giới thực của Spira.

Tidus bị ném xuống hòn đảo hoang vắng Baaj-nơi mà mẹ Seymour hi sinh để trở thành Fayth của Aeon bóng tối, Anima. Bất ngờ và hoảng loạn, Tidus bị tấn công bởi quái vật giữ cửa điện thờ Geosgaeno nhưng nhanh chân bơi thoát. Bỗng đâu, một nhóm người Al Bhed vũ trng machina xông vào căn phòng hoang tàn Tidus đang ngồi và, với một chút hiểu lầm, bắt anh ta đem lên con tàu machina của họ.

Rikku và Brother, nhận lệnh của Cid, đem một nhóm người Al Bhed đến hòn đảo hoang vắng này trên chiếc tàu thủy machina nhằm hồi phục một chiếc tàu bay machina cổ. Tiếc là trong nhóm chỉ có Rikku có thể hoạt động dưới nước. Thế là bọn họ đành phải nhờ Tidus-cầu thủ blitz ball, có thể hoạt động dưới nước dễ dàng-giúp một tay, với một phong cách hơi thiếu thân thiện, dễ hiểu vì quan hệ giữa người Al Bhed và loài người càng ngày càng tệ. Mặc dù đã thành công trong việc hồi phục năng lượng cho chiếc tàu bay nhưng Tidus chỉ kịp làm quen Rikku trước khi chiếc tàu thủy bị tấn công, một lần nữa, bởi Sin. Tidus lại bị Sin/Jetch đưa đi thật xa, đến ngôi làng Besaid, nơi định mệnh của anh.


Chương 2: Cuộc Hành Hương



Tidus mơ hồ tỉnh dậy và nhìn thấy ngay một thứ thân quen duy nhất từ khi ở thế giới này: quả bóng Blitz Ball, bay đến như một người bạn cũ. Và theo phản xạ của một cầu thủ Blitz ball xuất xắc, Tidus tung một cú sút tuyệt đẹp làm các cầu thủ đội Besaid Aurochs, đang tập trên bãi biển, ngưỡng mộ. Wakka, đội trưởng của họ, đang tranh thủ thời gian Yuna còn đang trong Cloister of Trial (Hành Lang Thử Thách)-để lấy Aeon đầu tiên, thực sự trở thành summoner- để luyện tập một chút cho giải đấu cuối cùng, sau đó anh sẽ toàn tâm trở thành Guardian cho Yuna.

Gương mặt giống hệt Chappu của Tidus cùng kỹ thuật blitz ball điêu luyện của anh làm Wakka sửng sốt, mời tham gia đội tuyển và Tidus, lạc quan như mọi khi, hứa sẽ giúp đội tuyển đoạt cúp vô địch trong giải đấu cuối cùng của Wakka. Mừng như bắt được vàng, Wakka dẫn Tidus về làng Besaid trong thời gian chờ đợi vì anh sẽ đi chung với Yuna trên đường hành hương của nàng đến thành phố cảng Luca, nơi diễn ra giải đấu. Tidus nhanh chóng “bị” làm quen với đạo Yevon và các giáo điều của nó, trong đó cấm đoán machina-một điều mới lại với Zanarkan ảo, thành phố machina.

Yuna đã vào trong Cloister of Trial hơn một ngày mà vẫn chưa ra làm cho Wakka lo lắng và Tidus-hăng hái bất kể quy định- xông vào Cloister of Trial để tìm nàng, Wakka đành phải đi theo dù không muốn. 2 người vượt qua Cloister of Trial và gặp Guardian của Yuna đang chờ nàng nhận lấy Aeon đầu tiên, Valefor. Đập vào mắt Tidus là một cô gái Yuna 16, xinh đẹp và đáng yêu xuất hiện trước cánh cửa Chamber of Fayth. Nhưng điều làm Tidus ngạc nhiên hơn chính là cô nàng cũng có vẻ chú ý đến Tidus-có lẽ vì câu chuyện Zanarkan, ko ai tin, hoặc vì Tidus là con trai của Jetch. Còn Lulu thì khó chịu vì sự có mặt của Tidus vì cho rằng Wakka mời về chỉ vì khuôn mặt giống Chappu của anh ta (có lẽ thật vậy vì Wakka sau đó đưa thanh kiếm yêu thích của Chappu khi trước cho Tidus sử dụng) và điều đó làm cho Lulu nhớ Chappu nhiều hơn. Tuy nhiên Yuna lại mời Tidus đi chung với mình (sau khi bị Kihmari test một chút ) bảo rằng biết đâu anh ta sẽ tìm được đường về Zanarknan của anh ta ở Zanarkan Ruins. Tidus, như Jetch khi trước, hi vọng và đồng ý, dù có vẻ như nguyên nhân đồng ý ko chỉ có vậy .

Chiếc tàu S.S Liki đưa họ vượt biển đến ngôi làng chài Kilika nhỏ bé, nơi tọa lạc điện thờ Kilika mà Yuna phải lấy Aeon Ifrit. Chuyến tàu ko yên bình chút nào khi gặp Sin giữa chừng và mặc dù các thủy thủ liều sinh mạng của mình đánh lạc hướng Sin, nó vẫn tấn công làng Kilika. Hàng trăm người chết được Yuna làm lễ cầu siêu (Sending) trong khung cảnh tang thương của mọi người. Sau đó, Yuna vượt qua khu rừng Kilika, chạm trán Lord Ochu và Sin Spawn trên đường, để vào điện thờ Kilika. Họ gặp nhóm cầu thủ xấc xược của Luca Goers, đang cầu nguyện trong đền, làm Tidus càng quyết tâm giúp Wakka đoạt chức vô địch. Tuy nhiên, vì ko phải một trong các Guardian, Tidus phải đứng đợi bên ngoài Cloister of Trial và gặp summoner Dona. Dona ghen ghét với sự nổi tiếng và trông cậy của mọi người với Yuna nên muốn chơi đùa với Tidus-ném anh chàng vào trong Cloister of Trial. May mà đã được Wakka hướng dẫn cách vượt qua Cloister of Trial nên Tidus đến vừa kịp lúc Yuna hoàn tất việc nhận Ifrit.

Con tàu S.S Winno đưa họ đến thành phố cảng Luca một cách yên bình vì có vẻ như Sin/Jetch đã khống chế lại được mình, một chút. Trong đêm, Tidus nghĩ ngợi về người cha của mình, giờ ko rõ tung tích nơi đâu, bất giác tung chân thi triển tuyệt chiêu sút bóng của cha mình: Jetch’s Shot. Yuna trông thấy và bắt chuyện với Tidus về Jetch, kể cho anh nghe về Jetch mà cô biết lúc còn là Guardian cho Braska, cha mình. Tidus bộc lộ nỗi lòng căm ghét của mình với cha cho Yuna nghe, chỉ vì sự phách lối của ông ta và một phần ganh tỵ với ông, khi ông luôn dành hết sự quan tâm, chăm sóc của mẹ Tidus (!? ). Ngoài ra, tùy, Tidus sẽ gặp anh chàng bán dạo túng thiếu O’aka XXIII v (có thể-tôi thì ko ) quyên góp ít tiền ủng hộ anh ta mở tiệm bán hàng.

Đến Luca, lần đầu tiên Tidus gặp Seymour, Maester của người Guado, cùng với Grand Maester Mika đến quan sát giải đâu-niềm giải trí duy nhất của người dân khắp Spira trong những ngày có Sin. Một sự căm ghét không hiểu từ do đâu bộc phát trong lòng Tidus chỉ ngay cái nhìn đầu tiên vào Seymour, có lẽ là vì Seymour chú ý đến Yuna . Đội tuyển Besaid Aurochs may mắn bóc trúng thăm đặc biệt, chỉ cần đấu 2 trận là (có thể) thắng giải. Khi trận đầu với Al Bhed Psyches diễn ra, Yuna bỗng nhe đồn thấy Auron-Guardian huyền thoại của High Summoner Braska, cha Yuna-xuất hiện trong thành phố và dẫn Tidus, Kihmari đi tìm ông. Kihmari chạm trán Biran Ronso cùng với bạn hắn Yenke và suýt trở thành một trận chiến nhưng Tidus bỗng nhận ra Yuna đã biến mất!
Người Al Bhed đã bắt cóc Yuna, gây áp lực buộc Besaid Aurochs phải “bán độ” (ko hoàn toàn là nguyên nhân nhưng một phần là vậy). Tidus cùng Kihmari và Lulu tấn công vào cảng nơi tàu Al Bhed đang đậu và cứu được Yuna sau khi đánh tan tác bọn người Al Bhed cùng với các machina của họ. Wakka nhận được tín hiệu báo an của Lulu và đá bại đội Al Bhed Psyches nhưng bị chấn thương trong nỗ lực ghi bàn. Tidus trở về sân vận động và gánh lấy trách nhiệm đá bại Luca Goers trong trận chung kết. Trận đấu diễn ra một hồi thì Tidus ra sân, nhường cho Wakka vào sân vì Tidus thấy rằng, đây là trận đấu của họ, Besaid. Trận đấu vừa kết thúc (với kết quả tùy người chơi) thì một bọn quái vật tràn vào sân vận động.

Muốn khoe mẽ sức mạnh của Aeon bóng tối mà mình sở hữu, Seymour lệnh cho thả các quái vật vào sân để gọi Anima ra tiêu diệt chúng. Trong lúc hỗn loạn, Auron-Guardia huyền thoại vì đã hộ vệ được High Summoner Braska diệt Sin-xuất hiện (trong một đoạn FMV-cool ). Yuna rất bất ngờ và vui mừng khi Auron đến tự nguyện làm Guardian cho nàng, đồng thời ông ta lôi cả Tidus vào làm Guardian luôn-một việc mà Yuna, hơn cả vui vẻ, đồng ý . Nhưng trong nỗi vui mừng đó, Tidus được Auron cho biết: “Sin is Jetch”!

Họ lại tiếp tục đến điện thờ Djose trên con đường Mi’ihen Highroad nổi tiếng, gặp một số nhân vật như Shelinda-một cô gái ngây thơ, sùng tín Yevon, Belgemine-thách Yuna một trận đấu Aeon để dạy cô ta một số điều, nhóm kỵ sĩ Chocobo (Chocobo Knight)-Lucin, Elma và Clasko- và Maechen. Nếu bạn chơi FFX-2 rồi thì bạn sẽ chú ý cô bé Calli, giờ vẫn còn nhỏ xíu. Đến khi gặp chi nhánh Rin (Rin’s Agency), một trong chuỗi cửa hiệu nổi tiếng của Rin-người Al Bhed, thì nhóm bạn được thông tin về một con Chocobo Eater gần đó và chạm trán với nó (trận chiến có thể thắng hoặc thua). Tại đây Yuna ghi âm lại những nhắn nhủ của mình cho các bạn, như là một di ngôn cho mọi người sau này khi cô hạ được Sin (tức là sẽ chết như các High Summoner trước). Nhóm bạn tiếp tục hành trình nhưng bị chặn lại tại Mushroom Rock.

Các Crusaders, chán nản thất bại trước Sin trong hàng trăm năm, nay quyết định bắt tay với người Al Bhed trong một kế hoạch sử dụng vũ khí machina mới nhất của người Al Bhed nhằm tiêu diệt Sin mà ko cần đến Final Aeon. Họ bắt một số Sin Spawn (Con Của Sin) đem đến Mushroom Rock, để cho chúng gọi Sin đến nhằm thực hiện kế hoạch. Maester Kinoc và Seymour, biết rõ kế hoạch sẽ thất bại vì chẳng có thứ vũ khí gì phá nổi lớp vỏ của Yu Yevon (tức là Sin) ngoại trừ sức mạnh của Final Aeon, ủng hộ kế hoạch để thu phục thêm lòng tin của tín đồ vào summoner cũng như vào lời dạy của Yevon (Yevon’s Teaching). Con đường qua Mushroom Rock bị chặn lại, nhóm của Yuna đang ko biết làm sao để đến điện thờ Djose thì Seymour xuất hiện mời họ (thực ra là mời Yuna ) vào tổng hành dinh của liên quân xem kế hoạch.

Wakka gặp Luzzu, thủ lĩnh Crusaders ở làng Besaid, đang tranh cãi với Gatta: Gatta muốn tham gia nhóm cầm chân Sin nhưng Luzzu phản đối, bảo đứng bên ngoài. Luzzu cũng thừa nhận với Wakka đã khuyến khích Chappu gia nhập nhóm liên minh khi trước với người Al Bhed, gây ra cái chết cho Chappu. Wakka đấm Luzzu 1 đấm nhưng cảm tấm lòng của Luzzu vì nhân dân Spira nên dộng viên anh thực hiện kế hoạch. Sin đến như dự kiến nhưng vũ khí của Al Bhed ko đủ mạnh để diệt Sin. Đội Kỵ Sĩ Chocobo và các Crusaders hi sinh gần hết (Luzzu sẽ chết trong trận chiến) trước các cú tấn công của Sin. Yuna buồn bã thực hiện lễ cầu siêu cho các vong hồn, còn Tidus thì cảm nhận được rõ, bằng trực giác, điều Auron nói: cha của anh, Jetch, chính là Sin.

Họ lại phải tiếp tục cuộc hành hương vì bây giờ, mọi hi vọng dồn vào các summoner. Yuna gặp summoner Isaaru ở điện thờ Djose và vượt qua Cloister of Trial (với Tidus giờ là Guardian chính thức), nhận sự trợ giúp của Aeon Ixion. Đích đến kế tiếp của họ là Maccalania, khá xa so với đoạn đường trước giờ và đầu tiên, họ phải vượt qua Moonflow. Trên đường lại gặp Biran và Yenke Ronso, họ cho biết (theo một cách chế nhạo Kihmari) các summoner đi trước đều biến mất một cách bí hiểm. Đồng thời, Belgemine cũng xuất hiện lần nữa cho một trận thử sức.

Trong khi đang cưỡi Shoopuf băng qua dòng sông Moonflow, Yuna bị một nhóm người Al Bhed dùng một machina kỳ quái bắt xuống nước. May mà trong nhóm có 2 cầu thủ blitz ball, Tidus và Wakka, nên Yuna được cứu thoát sau khi họ đập hỏng cỗ máy, ko biết người bên trong là một người quen. Đến khi cập bến Bắc, Rikku xuất hiện, từ dưới nước, bên trong cỗ máy kia (và chửi cho Tidus một trận về việc dám đánh mình ). Sau một hồi lộn xộn, Rikku xin trở thành Guardian cho Yuna và cố qua mặt Wakka về việc cô là một người Al Bhed.


Chương 3: Sự Thật và Dối Trá


Nhóm của Yuna đến Guadosalam trong sự đón chào nồng nhiệt của Tromell Guado, quân sư kiêm quản gia của Seymour. . Seymour gặp họ ở biệt thự của mình và cho họ xem khung cảnh ảo của thành phố machina vĩ đại, Zanarkan, thông qua năng lượng của các pyreflies trên Farlane. Seymour cầu hôn Yuna với tham vọng học theo như vợ chồng Yunalesca-Zaon khi trước, để cho Seymour trở thành Final Aeon và rồi: Sin! Yuna hẹn một chút thời gain để suy nghĩ và đến thăm Farlane để gặp một số người thân đã khuất của mình, thật sự đó chỉ là những hình ảnh ảo giác được sinh ra do năng lượng của các pyreflies (ma trơi-hay năng lượng sự sống của những người đã khuất) trên Farlane tạo ra. Yuna bảo Tidus thử gọi hình ảnh của Jetch ra nhưng ko được vì ông ta chưa chết, hay thực ra, chưa lên Farlane. (Mẹ Tidus thì có hiện ra vì bà đã chấp nhận cái chết của mình dù cũng ko được cầu siêu). Trên đường ra khỏi Farlane, họ gặp Maester Jyscal-cha của Seymour, dù đã được siêu thoát nhưng vẫn cố thoát khỏi Farlane, mong ngăn chặn con trai mình phạm thêm nhiều tội lỗi trên con đường đi tìm quyền lực, cố đưa được viên Video Sphere ghi những lời nhắn của mình cho Yuna trước khi nàng cầu siêu (sending) cho ông ta.

Thấy vẻ mãn nguyện trên gương mặt cha mẹ ở Farlane, Yuna, ko biết âm mưu của Seymour, được ngụy tạo bằng lời đề nghị vì sự hòa hiếu giữa người Guado và người thường cũng như sự hợp lực diệt Sin, định tiếp tục cuộc àhnh hương rồi mới kết hôn nhưng Seymour giờ đã đi đến điện thờ Maccalania trước rồi. Yuna liền cùng nhóm bạn đến điện thờ, trước đó, phải băng qua Thunder Plain.

Thunder Plain với hành chục tia sét mỗi lúc gáing xuống là nỗi khiếp sợ của Rikku và cô nàng nằng nặc đòi tạm nghỉ ở cửa hiệu của Rin để trấn an tinh thần. Yuna tranh thủ mở xem Video Sphere và biết được tham vọng cũng như việc giết cha của Seymour. Nàng quyết định đối mặt với Seymour nên tuyên bố với các bạn là mình đổi ý và sẽ kết hôn với Seymour. Thế là nhóm Yuna lại lên đường đi tiếp, gặp Barhtello-guardian của summoner Dona-đang đi tìm Dona đã mất tích ở khu rừng Maccalania. (Cùng lúc này, summoner Isaaru cũng đã bị bắt ở làng Besaid).

Auron dẫn nhóm vào một khu vực nhỏ trong rừng Maccalania để … gặp con quái vật Sphere và lấy một viên Video Sphere của Jetch để lại cho Tidus. (9 viên khác cũng xuất hiện rải rác trên Spira vào lúc này). Nhóm Yuna vượt qua khu vừng đến được chi nhánh Rin ở Maccalania băng giá, ở đây Tidus gặp Clasko, thành viên của đội Kỵ Sĩ Chocobo và đang phân vân trước quyết định trở thành một người nuôi Chocobo. Tromell Guado xuất hiện, xin lỗi về sự gấp rút của Seymour và mời Yuna đến gặp hắn ở điện thờ Maccalania. Đúng lúc này, Brother lãnh đạo một nhóm Al Bhed nữa cùng một machina khác đến để bắt Yuna, tất nhiên, lại thất bại. Rikku ko thể giấu dòng máu Al Bhed của mình và điều này làm Wakka-tín đồ sùng đạo Yevon và căm thù Al Bhed-hết sức bực mình.

Yuna một mình vào trong điện thờ gặp Seymour (và thu nhận luôn Aeon Shiva) để cho các Guardian đợi bên ngoài. Một tu sĩ phát hiện thấy viên Video Sphere của Jyscal trong hành lí của Yuna và đưa cho Tidus, thế là mọi người hiểu được nguyên nhân Yuna muốn gặp mặt Seymour. Tidus liền “lãnh đạo” các mọi người xông vào điện thờ gặp lúc Yuna đang chất vấn Seymour. Trận chiến diễn ra và Seymour bị giết chết. Trước khi Yuna có thể cầu siêu cho hắn thì Tromell xông vào lấy xác của Seymour, bảo rằng chuyện của người Guado để người Guado giải quyết (khi Tidus đưa ra viên Video Sphere). Seymour trở thành một vong hồn chưa siêu thoát.

Yuna và mọi người bị truy đuổi ra khỏi điện thờ và một con quái vật chặn họ lại. Dù đánh bại nó nhưng cả nhóm bị rớt xuống đáy hố băng do con quái vật làm vỡ. Trong khi mọi người còn đang quyết định con đường kế tiếp, khi mà giờ đây họ bị gán tội “phản bội” dogiết một Maester (Trưởng Lão) của Giáo Hội thì bỗng nhiên Sin xuất hiện, có vẻ như bị thu hút bởi bài thánh ca đạo Yevon từ điện thờ: Hymn of the Fayth (Giai điệu của các Fayth), bài hát mà lúc sinh thời Jetch rất thích nghe và ngân nga theo. Sức mạnh của Sin hất mọi người đến tận hòn đảo Bikanel, giữa sa mạc Sanubia. Tại đây, Yuna được người Al Bhed phát hiện và bắt về Home of Al Bhed (hay là “cứu đi” theo ý Cid). Người Guado phát hiện ra và tấn công Home of Al Bhed.

Tidus tập hợp nhóm lại và theo Rikku đến Home of Al Bhed giờ đang chìm trong khói lửa chiến tranh. Mọi người nhanh chóng tìm ra phòng giữ các summoner bị bắt nhờ Rikku (có Dona và Isaaru) nhưng Yuna đã bị người Guado cướp đi trước. Tidus giờ mới biết được (guardian ko chuyên ) rằng các summoner phải hi sinh mạng sống của mình mới đổi được The Calm-khoảng thời gian yên bình ngắn ngủi cho nhân dân Spira, và thật sự đau lòng vì chính mình đã ủng hộ ý định hành hương diệt Sin của Yuna (vì ko biết rõ).

Cid-cậu ruột của Yuna, thủ lĩnh người Al Bhed- cho Tidus và mọi người biết nguyên nhân mình bắt các summoner chỉ vì muốn chấm dứt các uộc hành hương vô nghĩa, hi sinh summoner cho một khoảng thời gian Calm ngắn ngủi. Thấy rằng ko thể cứu được Home of Al Bhed khỏi đám quái vật của người guado thả ra, Cid bèn đem tất cả những người Al Bhed cùng với các summoner bắt được lên chiếc tàu bay (Airship), mà khi trước thu hồi được ở đảo Baaj, rồi dùng tên lửa phá hủy hoàn toàn Home of Al Bhed. Nhóm Tidus cũng lên tàu bay và nhờ Cid đưa đến Bevelle cứu Yuna, đang bị ép làm lễ cưới với Seymour. Trận chiến ko cân sức diễn ra (với các Warrior Monks sử dụng machina, phản bội chính những điều dạy của Yevon mà họ truyền bá) và cả nhóm bị bắt ép buộc của Yuna thành hôn với Seymour-một vong hồn chưa siêu thoát. Yuna giả vờ quy thuận rồi bất ngờ nhảy khỏi toà tháp cao ngất, gọi Aeon Valefor ra đưa vào điện thờ Bevelle. Nhóm Tidus ngay lập tức phá vây và xông vào trong điện thờ sau Yuna. Sau khi vượt qua Cloister of Trial, Tidus bất chấp các luật lệ cổ điển của Yevon để xông vào trong Chamber of Fayth-nơi Yuna đang chuển bị tiếp nhận aeon Bahamut- và bất ngờ nhận ra Fayth của Bahamut chính là cậu bé khoác áo choàng tím vẫn thường xuất hiện trong giấc mơ của mình-thủ lĩnh của các Fayth. Tuy nhiên, Kinoc đang chờ sẵn bên ngoải với các Warrior Monks sử dụng machina (thứ mà Yevon đã cấm) bắt giữ cả nhóm.

Sau một toà án nhỏ của Giáo Hội, chủ trì bởi các Maester và Grand Maester Mika, bọn họ bị kết án tử hình, tống giam vào Via Purificio đợi ngày hành quyết, trước sự phản đối của Kelk, Maester của người Ronso. Tuy nhiên, Yuna, Auron, Kihmari và Lulu thoát khỏi Via Purifico sau khi đánh bại Isaaru trong cuộc đấu Aeon còn Tidus, Wakka, Rikku-bị giam dưới hầm nước của Via Purifico cũng ra khỏi được đó sau khi đánh bại bóng ma của con rồng Evrae-con rồng canh giữ bầu trời Bevelle đã bị nhóm Tidus hạ trên nóc tàu bay trước khi đáp xuống Bevelle cứu Yuna. Cả nhómtập hợp lại trên Bevelle Highbridge và gặp Seymour.

Seymour giết chết Kinoc cùng với hàng chục vệ binh Guado chung quanh và sử dụng năng lượng sự sống hay pyreflies từ họ để triệu hồi một bộ giáp dạng như bộ giáp Sin của Yu Yevon (dù yếu hơn rất nhiều). Kihmari tình nguyện đoạn hậu cho mọi người chạy nhưng cuối cùng tất cả đều quay lại để cùng nhau đánh bại Seymour trước khi thật sự bỏ trốn khỏi Bevelle để ra bìa rừng Maccalania.



Chương 4: Bước Ngoặc Định Mệnh


Yuna buồn bã và đắn đo vì giờ mình đã bị Giáo Hội Yevon trục xuất, phân vân ko biết nên làm sao. Mọi người (kể cả Kihmari) giao cho Tidus nhiệm vụ an ủi và động viên Yuna. Anh chàng làm cố làm điều đó bằng cách kể cho Yuna nghe vài điều về Zanarkan của mình (mà trước giờ chỉ có Yuna, ko kể Auron, tin) và khuyên nàng bỏ cuộc hành hương nhưng ko được. Tidus chuyển từ lời nói sang một hành động động viên lãng mạn (chẹp chẹp ) trong giai điệu ngọt ngào của bài hát chính Suteki Da Ne bên hồ nước tuyệt đẹp và cuối cùng hứa ủng hộ bất cứ sự chọn lựa của Yuna-và đó chính là tiếp tục cuộc hành hương nhưng tìm cách tiêu diệt Sin mãi mãi.

Trong khi đó, Mika loan tin rằng Yuna và nhóm bạn đã trở thành “kẻ phản bội” , có thể giết trước, báo sau, đồng thời gửi các Warrior Monks ra khắp Spira để chặn bắt họ. Maester Kelk của người Ronso bất đồng quan điểm với Mika nên rút khỏi Giáo Hội, quay về ngọn Gagazet để tập hợp các chiến binh Ronso, chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.

Nhóm Yuna đến được Calm Lands, vùng đất chiến trường truyền thống giữa các High Summoner (danh hiệu của những người đã đánh bại Sin) và Sin, giúp ông chủ Monster Arena mở lại đấu trường của mình (bằng cách bắt các quái vật xổng ra ngoài Calm Lands). Ở đây, họ gặp Cha Zuke-summoner nửa chừng- được lệnh bắt giết họ nhưng ông chỉ cảnh báo họ về nguy hiểm phía trước và thả cho đi tiếp. Tuy nhiên các warrior monks của Guado thì ko hiền lành như vậy và buộc nhóm Yuna dùng vũ lực mở đường. (Tuỳ theo người chơi) Họ gặp lại vong hồn của summoner Ginem trong Sunken Cave và buộc phải đánh bại để cầu siêu cho bà ta rồi thu phục Aeon Yojimbo.

Khi đến chân núi Gagazet, họ chạm trán những người Ronso còn đang nghi hoặc về các sự kiện diễn ra. Kelk tin vào lời của Yuna và các chiến binh Ronso tình nguyện ở lại phía sau đoạn hậu cho họ (kể cả Biran và Yenke, sau khi bị Kihmari đánh bại trong một trận chiến ngắn ). Seymour với sức mạnh mới của mình (học theo Yu Yevon) lần lượt giết chết các chiến binh Ronso trên đường truy đuổi, từng người từng người một đến khi bắt kịp nhóm Yuna ở lưng chừng núi cho một trận chiến. Seymour bày tỏ với Yuna tham vọng trở thành Sind để tiêu diệt toàn thể Spira, xóa bỏ mọi đau buồn của nó! Gã lại bị đánh bại một lần nữa và nhóm Yuna đến được Wall of Fayth-nơi những người thực sự của Zanarkan 1000 năm trước hi sinh trở thành một lượng Fayth khổng lồ, hiến năng lượng cho Yu Yevon suy trì Zanarkan ảo. Tại đây Tidus rơi vào giấc mơ hay thực ra, trở lại với bản chất của mình-giấc mơ-gặp gỡ Fayth của Bahamut và được giải thích mọi thứ về Zanarkan ảo. Fayth Bahamut nhờ Tidus tiêu diệt Sin-hay Yu Yevon một lần mãi mãi để chấm dứt giấc mơ quá lâu của họ, để các Fayth thật sự yên nghỉ.

Trong khi đó, Bevelle rơi vào sự hỗn loạn và mất lòng tin của các tín đồ Yevon khi Mika loan tin Yuna-con gái của High Summoner Braska-phản bội Giáo Hội và các Warrior Monks đe doạ cuộc sống hòa bình của mình khi bắt đầu kiểm soát các ngôi làng. Lòng tin vào Yevon giảm sút và người dân bắt đầu trogn cậy vào các Crusaders, hàng ngũ Crusaders ngày càng đông đảo (vốn đã mất gần hết sau kế hoạch ở Musroom Rock), nhận nhiệm vụ bảo vệ các ngôi làng của nhân dân (vốn ko ủng hộ Crusaders vì họ luôn muốn tiêu diệt Sin mà ko dùng Final Aeon). Để giữ chút lòng tin còn lại của tín đồ, Mika gọi các Warrior Monks trở về và xóa tội cho Yuna, trông cậy cô ta sẽ đánh bại Sin bằng Final Aeon, lấy lại lòng tin của dân chúng vào lời dạy của Yevon (Yevon’s Teaching). Các tín đồ ngày càng khan hiếm và Mika đành chọn đại Shelinda-một trong những tín đồ còn lại của Yevon-lãnh nhiệm vụ thống lĩnh các Warrior Monks. Người Guado thất vọng và chán nản, bắt đầu rút lui khỏi các vùng đất về lại Guadosalam của họ. Tromell Guado thì ngày ngày chỉ than khóc trong Farlane về sự bất lực của mình với các thủ lĩnh quá cố của Guado.

Nhóm của Yuna tiếp tục cuộc hành trình lên đến được đỉnh ngọn Gagazet, vượt qua 3 thử thách của Yunalesca với các summoner, trong đó việc thứ 3 chính là đánh bại con quái vật giữ đỉnh Gagazet. Cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp trên đỉnh Gagzet nhìn xuống Zanarkan Ruins (phế tích Zanarkan) làm mọi người nặng lòng, cảm thấy sắp đến lúc vĩnh biệt Yuna. Tidus nhặt được viên Video Sphere Yuna làm rơi và nghe được những di ngôn nàng lưu lại cho các bạn mình sau khi chết, trong lòng buồn bã hơn ai hết. Đêm đó, cả nhóm nghỉ chân trước đường vào Zanarkan Ruins, chấm dứt đoạn hồi ký của Tidus (từ đầu trò chơi đến thời điểm này thường có các đoạn tự thoại, chính là hồi ức của Tidus đối với hành trình).



Chương 5: Giấc Mơ Kết Thúc



Vượt qua Cloister of Trial cuối cùng của cuộc hành hương, Yuna và mọi người bất ngờ khi đối diện với summoner Yunalesca huyền thoại. Bà ta nói cho họ nghe về nghi thức Final Summoning và bảo Yuna chọn một Guardian để hi sinh. Yuna từ chối và muốn kết thúc “vòng xoáy tử thần” này một lần và mãi mãi. Được các bạn ủng hộ, Yuna lãnh đạo mọi người tấn công đánh bại Yunalesca và cầu siêu cho bà ta lên Farlane, mãi mãi. Sin lại xuất hiện trước Zanarkan Ruins như một sự chờ đợi High Summoner kêu gọi cho một trận chiến bằng Final Aeon và dường như cũng cảm thấy sự ra đi của Yunalesca. Tidus nhìn lên Sin-cha mình, Jetch-và tự nhủ rằng sẽ tìm ra một cách khác để giải phóng ông. Đúng lúc đó, Cid lái tàu bay đến đón cả nhóm lên.

Mọi người bàn bạc và cuối cùng nghĩ ra kế hoạch sử dụng bài hát Hymn of the Fayth rồi diệt Sin. Để làm được điều đó, họ cần sự trợ giúp của Grand Maester Mika nên quay về Bevelle. Mika mừng rỡ vì nghĩ Yuna đã có được Final Aeon tỏ ra hoảng sợ và thất vọng khi biết Yuna đã diệt Yunalesca. Ông ta lộ ra cho mọi người rằng ông là một vong hồn và ngay lập tức, tự siêu thoát lên Farlane, trốn tránh trách nhiệm. Cái “chết” của Mika lan nhanh làm các tín đồ Yevon hoang mang đến nỗi Isaaru phải được gọi về để chỉ huy Giáo Hội Bevelle. Tidus phải nhờ Shelinda triệu tập các tín đồ Yevon, tập trung tại Bevelle hát bài thánh ca Hymn of the Fayth khi thấy tín hiệu của tàu bay, giúp họ diệt Sin.

Fayth của Bahamut xuất hiện, gọi Tidus và Yuna vào Chamber of Fayth và nói cho họ biết về Yu Yevon, dồng tình với kế hoạch sử dụng bài thánh ca của Tidus, dặn Yuna hãy gọi các Aeon ra trong trận chiến cuối với Yu Yevon. Cảm thấy hơi kỳ lạ vì vẫn luôn sử dụng các Aeon trong chiến trận nhưng Yuna vẫn đồng ý.

Mọi sự đã sẵn sàng. Tidus dùng tàu bay ra hiệu cho mọi tín đồ Yevon dưới đất đồng thanh hát bài thánh ca Hymn of the Fayth. Sin/Jetch nghe được thì bị dụ đến theo chút ý thức còn lại, lặng lẽ lắng nghe. Tidus cùng đồng đội lên nóc tàu bay, ném bỏ viên Video Sphere ghi di ngôn của Yuna rồi cùng mọi người đánh yếu 2 “cánh tay” của Sin rồi ra hiệu cho Cid dùng vũ khí tàu bay bắn rơi nó. Sin mất thăng bằng rơi xuống nhưng nhanh chóng tung đôi cánh năng lượng bay lên lại. Tidus cùng mọi người tấn công nhân của Sin trên đầu làm cho Sin bật mở “miệng” ra cho tàu bay của Cid tiến vào.

Bên trong bụng Sin dường như là một thế giới khác, tập trung bởi năng lượng của các Fayth và ở đây, mọi người lại gặp Seymour! Lần này, hắn ko còn may mắn bỏ đi nữa mà bị Yuna cầu siêu đưa lên Farlane một lần và mãi mãi.
Jetch ở đó, giữa nhân bụng Sin với phong thái thường ngày trước khi bị Yu Yevon chiếm hữu và biến hình thành Final Aeon của Braska, tấn công nhóm Tidus. Jetch bị đánh bại và tan biến thực sự ngay sau khi Tidus nói cho ông biết anh ta đã cảm thấy thế nào về ông.

Yuna, nhớ lại lời của Fayth Bahamut, triệu hồi các Aeon ra và lần lượt, chúng bị chiếm hữu bởi Yu Yevon để cho Tidus và mọi người kết liễu hoàn toàn, cả các Fayth và Yu Yevon. Yuna cầu siêu, gửi họ lên Farlane và chợt nhận thấy Auron cũng đang dần tan biến. Nhưng Auron bảo Yuna cứ tiếp tục, ông ta đã ở quá lâu trong thế giới này và cuối cùng đã đến lúc nghỉ ngơi, trên Farlane. Mất Yu Yevon, các Fayth ở Wall of the Fayth bắt đầu tan biến, ngưng việc triệu hồi Zanarkan ảo cũng như bộ giáp cho Yu Yevon, Sin. Sin tan biến, các Fayth ở điện thờ cũng tan biến. Mọi người lại đứng trê nóc tàu bay ngắm nhìn khung cảnh bình yên mới, The Calm, nhưng là sự bình yên vĩnh cửu, The Eternal Calm!

Lúc đó, như Zanarkan ảo, Tidu bắt đầu tan biến, mờ dần trong không trung, chỉ kịp nghe câu nói cuối của Yuna “I love You” thì nhảy xuống đám mây mù dày đặc dưới tàu bay ngang qua Braska, Auron và Jetch. Cuối cùng, giấc mơ đã tan biến nhưng ta vẫn thấy Yuna đứng trên cảng Luca huýt sáo, tin vào lời hứa của Tidus: “Just whistle and I’ll come to you!” .The End.

Nelvil
12-02-2009, 09:28 PM
6. Nhiệm vụ của FFX


Phần 01: Ronso Rage: Overdrive của Kimahri!


Đầu tiên, để học được bất kỳ Overdrive nào của Kimahri thì bạn phải dùng chiêu “Lancet” lên một đối thủ, thì bạn sẽ học được một Overdrive mới của Kihmari (gọi là Ronso rage, cũng chính là Enemy Skill hay Blue Magic của đối thủ đó!). Chiêu Lancet là chiêu mặc định của Kimahri nên bạn sẽ có thể dùng ngay khi điều khiển được Kimahri.

Bạn chỉ có 12 chiêu Ronso Rage, và trong đó thì “Jump” là chiêu có sẵn nên bạn chỉ học được cả thảy 11 chiêu. Mỗi khi học được một chiêu mới thì sẽ xuất hiện dòng thông báo ngay phía trên cùng màn hình và đồng thời ống Overdrive của Kihmari cũng tự đồng đầy ngay (cho bạn thử chiêu ^_^)! Sau đây là danh sách các đối thủ có chiêu Ronso rage mà dễ gặp nhất:

Công thức: Tuyệt chiêu - Dùng Lancet lên – Nơi thường gặp (nếu có nhiều loại thì vị trí cứ theo thứ tự mà đọc)
Jump
Seed Cannon - Ragora; Sandragora; Grat - Kilika Forest; Sanubia Desert; Mt. Gagazet
Thrust Kick - YKT-63; YKT-11 - Bevelle Highbridge; Yevon Dome
Aqua Breath - Chimera (1/2/3) - Macalania Forest/ Al Bhed Home/ Brain Calm Lands
White Wind - Dark Flan; Spirit - Mt. Gagazet; Omega Ruins
Mighty Guard – Behemoth; Behemoth King - Mt. Gagazet; Zanarkand Ruins; Inside Sin
Fire Breath - Dual Horn(1/2); Grendel; Valaha- Mi'hen Highroad/ Mushroom Rock Road/Al Bhed Home; Mt. Gagazet; Zanarkand Ruins; Sunken Cave
Self Destruct - Bomb(1/2); Grenade; Puroboros - Mi'hen Highroad/ Mushroom Rock Road/ Al Bhed Home; Mt. Gagazet; Omega Ruins
Stone Breath – Basilisk; Anacondaur - Djose Highroad; Calm Lands
Doom – Ghost; Wraith - Sunken Cave; Inside Sin/ Omega Ruins
Bad Breath – Malboro; Great Malboro - Calm Lands/ Sunken Cave; Inside Sin/ Omega Ruins
Nova - Omega Weapon; Nemesis - Omega Ruins; Monster Arena

Hầu hết các chiêu này bạn có thể học trong Monster Arena nhưng vẫn có một số không và dù sao thì bạn cũng phải đi bắt bọn quái vật đó mà ^_^. Bởi vì Omega Weapon là Boss phụ nên có thể bạn sẽ “bỏ quên” ko học Nova thì cũng ko sao vì chỉ việc mở khoá Nemesis trong Monster Arena thôi thì cũng học được, nhưng tôi khuyên bạn đừng có “quên” vì Nemesis ko phải một “con ruồi” như Omega Weapon đâu!

Ngoài ra, trong trận độc chiến giữa Kimahri và 2 anh em Ronso là Biran, Yenke thì bạn có thể học tổng cộng cả thảy 8 chiêu Ronso Rage!!! Vì ống overdrive của bạn tự đầy mỗi khi học một chiêu mới nên hãy vừa học vừa tung đòn lên người chúng nhé (ngoại trừ Self-Destruct ^_^)!
Biran có các chiêu: Doom, Mighty Guard, Self-Destruct, Thrust Kick
Yenke có các chiêu: Aqua Breath, Fire Breath, Stone Breath, White Wind

Nếu bạn ko hiểu rõ tác dụng của các chiêu Ronso Rage thì đây:
Jump: đả thương ko-thuộc-tính lên một đối thủ
Fire Breath: đả thương thuộc-tính-lửa lên tất cả đối thủ
Seed Cannon: đả thương ko-thuộc-tính lên một đối thủ
Self Destruct: đả thương ko-thuộc-tính lên một đối thủ; hi sinh Kimahri để gây một chấn thương khủng khiếp, Kimahri bị loại khỏi trận chiến (ko thể hồi sinh bằng Phoenix down); nếu bạn vẫn chưa có khái niệm về chiêu này thì hãy thử rồi biết ^_^
Thrust Kick: đả thương ko-thuộc-tính lên một đối thủ; nhưng ko hất đối thủ khỏi trận chiến (như bọn YKT làm với bạn ^_^)
Stone Breath: hoá đá tất cả đối thủ
Aqua Breath:đả thương thuộc-tính-nước lên tất cả đối thủ
Doom: niệm Doom lên đối thủ (đếm một số lượt nhất định cho đến khi hết thì đối thủ sẽ chết)
White Wind: hồi phục một lượng HP, bằng nửa lượng HP hiện thời của Kimahri, cho cả nhóm (tưởng tượng khi Kihmari có 99999 HP xem ^_^)
Bad Breath: niệm (nhiều) thuộc tính bất lợi ngẫu nhiên lên tất cả đối thủ
Mighty Guard: niệm Protect, Shell và Null-all (tức là tổng hợp 4 chiêu Null của Yuna!!!) lên toàn nhóm
Nova: đả thương ko-thuộc-tính lên một đối thủ; mạnh nhất trong các chiêu đả thương (dù chỉ đến 99999 là tối đa ^_^)

Mọi thứ ở trên là gần như đầy đủ về Ronso Rage, tôi ko nghĩ có thể tìm thêm điều gì khó hiểu, ngoại trừ câu văn của tôi ^_^!


Phần 02: Bushido, Overdrive của Auron, và các viên Jecht Spheres!


Chế độ Overdrive của Auron là Bushido(võ sĩ đạo), với khả năng tung ra một cú đánh khá mạnh bằng việc kích hoạt tổ hợp phím bấm (của tay cầm, Controller). Chú ý là chỉ có thể nhập các phím của các chiêu Bushido bằng phím mũi tên chứ ko bằng cần Anolog (cần quay). Các chiêu Bushido sẽ tự động đạt được bằng một số lượng Jetch Sphere nhất định(các viên ngọc màu xanh dưới đất mà bạn chỉ có thể nhìn thấy được từ sau trận chiến với con Boss Seymour ở Macalania Forest) mà bạn lấy được trong suốt hành trình trên khắp Spira. (chú thích: A đại diện phím tam giác trên tay cầm, còn D đại diện cho phím vuông, tôi thực làm biếng gõ đại loại như vậy ^_^)

Dragon Fang: (trái) (xuống) (lên) (phải) L1 R1 X O
Ngoài việc đả thương tất cả đối thủ, chiêu này còn có khả năng như một chiêu Delay Attack-all, làm chậm lượt của tất cả kẻ địch (miễn là chúng ko immune (miễn nhiễm) với Delay attack).
Shooting Star: A O D X (trái) (phải) X
Đả thương khá mạnh 1 đối thủ đồng thời có khả năng tống đối thủ ra khỏi trận chiến (coi như overkill!!!), nhưng nhớ là nó ko hoạt động với một số đối thủ immune với chiêu này mặc dù đối thủ đó vẫn mất HP. Chiêu này sẽ có ngay sau khi bạn hạ Spherimorh và xem Jetch Sphere đầu tiên.
Banishing Blade: (lên) L1 (xuống) R1 (phải) (trái) A
Chiêu Bushido tuyệt nhất. Đả thương một đối thủ mạnh hơn Shooting Star một chút và đặc biệt “khuyến mãi” thêm 4 cái break cho đối thủ: Power Break, Armor Break, Magic Break, Mental Break!!!! Khả năng đối thủ dính 4 cái break đó là 100% trừ khi chúng immune 100% một cái break nào đó (những cái khác vẫn dính)!!!! Cực kỳ hữu dụng hầu như với mọi đối thủ nhất là với Masamune trong tay thì Auron có thể tung ra chiêu này trước mở đường cho các đồng đội ra tay (vì trong Masamune có First Strike). Tìm thêm 3 Jetch Sphere để học chiêu này.
Tornado: X (phải) R1 (trái) L1 A
Đả thương cực mạnh tất cả đối thủ bằng một cơn lốc lửa khổng lồ (2 hit). Mạnh nhất trong các chiêu Bushido. Học được bằng cách tìm đủ 10 viên Jetch Sphere, thực sự ko đáng với công sức vì một mai khi “thế giới đại đồng” (255 tất cả chỉ số tất cả nhân vật) thì chiêu này chỉ được 2 hit x 99999, vẫn thua Yuna, Wakka, Tidus!!!

Vị trí của các viên Jetch Sphere :
1. Sau trận chiến với Seymour ở Macalania Forest. Lưu ý là bạn chỉ thấy được các viên Jetch Sphere còn lại sau khi đã lấy viên này.
2. Làng Besaid, gần bên ngoài điện thờ Valefor, gần/trên bậc thang. Đoạn trò chuyện về Jetch muốn ăn một con shoopuf ^_^!
3. Tàu SS Liki, đậu ở cảng Kilika, trong cabin. Cuộc trò chuyện về định hướng trong đêm trên biển.
4. Sân vận động Luca, tầng hầm A (basement A), gần phòng khóa. Thông điệp của Jetch để lại cho Tidus về Blizt ball.
5. Mi’hen Highroad, tận phía dưới con đường cổ, nơi bạn lấy Saturn Crest (hoặc Mars Crest nếu chơi phiên bản EU). Quang cảnh chuẩn bi chạm trán con Chocobo eater.
6. Mushroom rockroad, gần một thang máy (ráng tìm đi, cũng ko nhiều thang máy lắm ^_^). Câu chuyện…quên mất rùi^_^.
7. Moonflow, gần trạm shoopuf, dường như là nơi bán đồ lưu niệm. Nỗi xấu hổ của Jetch và lời tuyên bố bỏ rượu (chưa được chứng thực ^_^).
8. Phía nam (south) Thunder plain , gần kề 1 cây cột thu lôi bên phải.
9. Phía nam (south) khu rừng (forest) Macalania, ngay bên cửa ra, nếu ko lầm thì kế chỗ save mà từ đó bạn có thể chạy vào chỗ đánh Spherimorh.
10. Mt. Gagazet Mountain Road (con đường núi mà tuyết phủ), con đường rẽ vào một ngõ cụt.

Một điều nữa về các chiêu Bushido là cái đồng hồ ko phải để chơi (^_^), bạn nhập tổ hợp phím của các chiêu Bushido càng nhanh thì uy lực càng mạnh, nếu bạn nhập ko kịp thời gian thì chiêu Bushido ko những giảm uy lực khá nhiều (do hết thời gian) mà còn mất cả hiệu quả đặc biệt như “tống đi” hay “full-break”. Đó gần như là tất cả mọi thứ về Bushido, ngoại trừ một số câu chuyện của Jetch Sphere tôi vẫn chưa xem vì làm biếng lấy hết lắm (^_^).


Phần 03: Jecht Shot 1 và 2!


Jetch Shot là tuyệt kỹ Bliztball của Jetch cũng như của Tidus. Nó cộng thêm một vài điểm shoot và loại bỏ 2 hậu vệ truy cản trước khi thật sự bay đến khung thành nên là một tuyệt chiêu rất lợi hại lúc đầu (về sau thì nó hơi chậm chạp và đã có Jetch Shot 2).

Trên đường đi đến Luca trên con tàu SS Liki, Tidus (chính là bạn ^_^) có thể học được chiêu này, nếu thất bại, bạn vẫn có thể quay lại đây sau để luyện tập (mặc dù luyện thành thì sẽ dễ dàng cho bạn hơn khi dự giải Blizt đầu tiên, cũng như Tidus sẽ ko bẽ mặt trước Yuna ^_^).

Để họ nó thì khi trên boong tàu, bấm O (hoặc X tuỳ phiên bản) để kiểm tra quả bóng Blizt và bạn sẽ bắt đầu luyện. Công việc rất đơn giản là bấm các phím mũi tên + O tuỳ theo vị trí “ý nghĩ” của Tidus xuất hiện trên màn hình để làm biến mất nó.
Ví dụ, một “ý nghĩ” xuất hiện bên trái thì bấm (trái + O) (bấm đồng thời chứ ko phải theo thứ tự), phía góc trên bên trái thì (lên + trái + O), ngay giữa thì bấm O…Mặc dù bạn có thể sử dụng cần Analog được nhưng tôi chỉ bấm có một lần là xong nên cũng ko biết cái nào dễ hơn ^_^.
Mẹo: dùng cần Analog trái quay vòng vòng “như điên” đồng thời nhấp O “như dại” thì bạn sẽ hoàn thành trò chơi nhỏ này trong nháy mắt ^_^! Đồng thời cẩn thận khi dùng phím mũi tên vì bạn hầu như phải nhấp rất nhanh, mạnh, nhiều lần thì mới làm biến mất một “ý nghĩ”, hơn nữa là đừng chú ý đến Tidus làm gì ma chỉ chú ý đến “ý nghĩ” xuất hiện ở đâu thôi, chúc thành công!

Sau khi học được Jetch Shot 1 thì bạn sẽ có cơ hội học tuyệt chiêu siêu tốn HP (^_^) là Jetch Shot 2 (chỉ có Tidus thôi). Trước tiên bạn phải học hết 3 key technique của Tidus rồi thì Jetch shot 2 sẽ xuất hiện là giải nhất của Tournament cup, hãy vô địch bạn sẽ được!
Chiêu này rất là tuyệt vời, nó loại bỏ 3 người truy cản và biến quả bóng thành vô hình (giống như Invisible Shot), bạn chỉ việc dùng cần Analog để điều chỉnh quả bóng bay vượt qua thủ môn. Tuyệt chiêu rất đáng 999 HP ^_^!

Đó là tất cả hững điều cần biết về Jetch Shot và tôi ko nghĩ đây thực sự đáng đưa vào Bí mật/ Nhiệm vụ phụ, nhưng quả thật có quá nhiều người thắc mắc về nó


Phần 04: [Break HP Limit] trên một bộ giáp!


[Break HP limit], đúng như tên của nó, là một auto-ability trên áo giáp cho phép nhân vật equip nó có HP vượt giới hạn 9.999 HP, đạt đến một mức tối đa là 99.999 HP miễn là bạn đã kích hoạt đủ lượng HP node trên bảng Sphere Grid của nhân vật đó.

Để Customize auto-ability này lên một cái áo giáp thì bạn cần 30x “wings to discovery”(đây là tên một item, nếu bạn nào chưa biết). Và đây là một số biện pháp để có đủ số item đó:
a. Overkill Shinryu: Shinryu là một trong các wái vật đặc biệt của Monster Arena, thuộc bảng Original Monster (xem phần Monster Arena để biết thêm chi tiết), mà sẽ cho 2x “Wing to Discovery” nếu Overkill, cho 1x “Wing to Discovery”. Đây có vẻ như là cách hiệu quả nhất mà chính tôi cũng cảm thấy tốt, vì Shinryu chỉ là quái vật bậc trung của Monster Arena (mặc dù vậy, đừng xem thường nó ^_^).
b. Đua chocobo ở điện thờ Remien: tức là cuộc đua chocobo với con chocobo vô chủ ở Remien, nếu bạn có thể mở được 3 thùng item trong cuộc đua rồi chạy về đích trước con chocobo kia mà ko chạm vào cây đèn nào thì bạn sẽ nhận được 30x “wing to discovery”!!! Tiếc là bạn chỉ có thể làm điều này một lần, nhưng như vậy cũng có nghĩa là đỡ được 15+ trận đấu với Shinryu ^_^, nên tôi cũng yêu phương pháp này lắm (một phần nữa là vì rất dễ, bạn cứ chạy đi lấy đủ 3 thùng rồi về đích vẫn kịp như chơi)!
Với ai chưa biết cách đến Remien Temple (điện thờ Remien) thì hãy đọc phần Thần khí của Yuna hoặc Phần Celestial Mirror!
c. Bribe con Malboro: Bribe tức là dùng một số tiền để “hối lộ” đối thủ cho chúng bỏ chạy và để lại một số item đặc biệt mà bình thường ko bao giờ bạn nhận/steal được, nếu đi đúng hành trình thì Rikku sẽ có chiêu này trước tiên. Số tiền bạn cần là 540 000gil để lấy được 2x “wing to discovery”!!! Ko đáng lắm, nhưng vì đã lỡ quảng cáo là “bảng hướng dẫn tối thượng” nên nêu ra cho đủ ^_^!

Ngoài ra còn có cách là chơi Blizt ball ^_^ nhưng tôi ko bao giờ nghĩ đến việc đó chứ đừng nói là làm ^_^! Và con quái vật tối thượng của Monster Arena là Nemesis luôn cho bạn một cái giáp với [Break HP Limit] cùng 3 ô trống, miễn là hạ được nó ^_^!

Một điều chú ý cuối cùng là nếu bạn đã kích hoạt các ô HP trên bảng Sphere grid của nhân vật nào đó vượt hơn 9999 nhưng vẫn chưa có auto-ability này thì ko có gì lo cả, trò chơi vẫn luôn “nhớ” lượng HP tổng cộng của nhân vật và khi bạn equip cái giáp [Break Hp limit] vào thì max HP của nhân vật đó sẽ vượt qua 9999 đúng với tổng số ô HP bạn đã kích hoạt.


Phần 05: Mật mã Al Bhed, cách tìm ra!


Hầu như mọi người chơi FFX đều biết 3 mật mã của phi thuyền do “ông cậu” Cid điều khiển: VICTORIOUS, MURASAME, GODHAND. Nhưng đa phần mọi người đều ko biết làm sao để có mật mã đó ngoại trừ đọc hướng dẫn hay mò đại ^_^. Phần này chính là để cho các bạn biết làm sao lại tìm ra các mật mã này để trân trọng hơn những người viết hướng dẫn (như tôi ^_^):

Trước tiên, bạn phải có đủ hết bảng giải mã chữ Al bhed còn ko thì hãy kiếm một trang FAQS nào chỉ cái đó để hiểu tiếng Al bhed. Sau đó hãy đến Besaid đọc hàng chữ trên phế tích, bạn sẽ có câu:
Kilika and Bikanel are one (Kilika và Bikanel là một)

Tiếp theo thì đến các phế tích ở Kilika và Bikanel để lần lượt tìm ra các dòng chữ:

tepswrs
VCOIU

hasod i
ITROS

Hoàn toàn khó hiểu phải ko? Nhưng nếu theo gợi ý của câu văn ở Besaid, ta đặt 2 cụm từ quái dị đó vào nhau thì được:

tepswrsVCOIU
hasodi ITROS

Cũng chưa hiểu phải ko? nếu đọc theo một kiểu ziczac thì ta sẽ được dòng chữ: thepasswordisVICTORIOUS (mật mã là VICTORIOUS)
Khá rắc rối chỉ để có một cái mật mã!

Và giờ là đến MURASAME: hãy quay về Baaj và đến nơi Tidus xuất hiện lần đầu trên Sprira, sẽ có một phế tích chứa bài thơ Al bhed:

In the land where bolts of light (ở vùng đất các tia sáng)
Illuminate the blackest night (toả sáng đêm đen)
With Macalania behind (với Macalania đằng sau)
The fourth pillar you sight (cây cột thứ 4 bạn thấy)
Look not on the left (đừng nhìn bên trái)
But on the right (mà bên phải)

Một bài thơ quá rõ ràng và quá tệ-chả trách Squaresoft chẳng bao giờ làm một bài thơ nào khác cả ^_^! Nội dung thì khá rõ ràng cho bạn tìm thấy câu chỉ dẫn Al bhed trên cây cột thu lôi: MURASAME.
Với GODHAND thì sự việc còn tệ hơn vì nó dẫn đến nơi giữ Celestial Weapon của Rikku: Godhand.
Trên Highroad (khi mà vừa rời Luca) sẽ có chỉ dẫn này:

There is a valley in a vast plain with a great thorn beside. (có một thung lũng trên đồng bằng rộng lớn với một cái gai bên cạnh)
From the thorn look cross the vale to the other side.(từ cái gai, nhìn băng thung lũng qua bên kia)

Đó chính là Calm land, gần hẻm núi bạn sẽ tìm ra chỉ dẫn:

With the Vale at your back go fortynine. (với thung lũng sau lưng đi 49 bước)
Then seven to the right in the truest line. (rồi qua phải 7 bước theo đường thẳng)

Hãy quay lưng lại thung lũng và làm đúng như chỉ dẫn rồi tìm thấy:

[một hòn đá ghi]: Right sixteen and right four (qua phải 16 và qua phải 4)

[một hòn đá nữa ghi]: With me at your back go twenty, then twenty to the right. (quay lưng lại với tôi rồi đi 20, rồi 20 về bên phải)

[một vòng tròn ghi]: Continue on. Find me. (tiếp tục nào. tìm tôi đi)

Hãy đi đến chỗ hẻm núi nơi có cái gai và tìm ra mật mã GODHAND.

Bạn đã thấy sự vất vả để khám phá bí mật của FF chứ, nếu bạn đã làm được tất cả các bước trên trước khi đọc hướng dẫn thì bạn đã có thừa kiên nhẫn và tài năng để bỏ bản hướng dẫn này một bên mà tự khám phá các bí mật của FF đấy ^_^!


Phần 06: Dark Matter và mọi thứ liên quan!


Mọi người cứ điên lên về Dark Matter vì vậy nên tôi phải đưa một phần riêng về nó ở đây.Dưới đây là tất cả các cách để lấy Dark Matter, ngoại trừ cách Bribe con Land Worms trong nhân của Sin, bởi vì bạn ko còn save cũng như ra ngoài được nên nó hầu như vô dụng:

a. Blizt ball: chậc, cũng như khi lấy Wing to Discovery, đây thực sự là một cách tệ hại trừ khi bạn là một fan điên cuồng của môn này và dự định luyện Tidus lên lv.99 thì có lẽ bạn đủ kiên nhẫn lấy chừng vài chục Dark Matter.
b. Monster Arena: mọi quái vật sản phẩm (creation) nằm trong 3 bảng Area, Species và Original đều có một cơ hội nhỏ (chừng 1/5 cơ hội nếu bạn thử đánh chừng 50 trận liên tiếp) cho 2x Dark Matter khi overkill chúng (kill thì là 1x). Khả năgn là như nhau nên nếu bạn dự định kiếm Dark Matter theo cách này thì nên chọn những con rất yếu như Vidatu, Hornet. Tôi cũng có được báo về việc lấy Dark Matter từ bọn Dark Aeon đặc biệt là Dark Yojimbo, nhưng có vẻ như ko phải là ý hay lắm, nếu so với việc chạm trán bọn quái vật nhẹ nhàng trong Monster Arena.
c. Mở khóa Ultima Buster: là cách tuyệt nhất để lấy 99x dark matter dù chỉ được một lần. Hãy bắt mỗi loại quái vật 5 con và trở về Monster Arena, ông chủ sẽ cho bạn 99x Dark Matter. Cách này có rất nhiều ưu điểm vì: 1) bạn cũng phải bắt hầu hết các quái vật của Spira để mở khoá một số quái vật cần cho việc max mọi chỉ số, cũng như luyện AP, kiếm Gil,…2) ko đòi hỏi sức mạnh cao gì cả, chỉ với một đội hình bình thường là cũng đã đủ để bắt hết quái vật (mặc dù Inside Sin và Omega Ruins khá là mạnh).

Vậy, bạn tìm Dark Matter để làm gì?

1. 60x Dark Matter dùng để customize [Break Damage limit] vào trong vũ khí và bạn có thể tạo một Celestial hoàn chỉnh mà ko cần theo những bước tìm sigil khó nhọc!!!
2. 90x Dark Matter dùng để customize [Ribbon] (yes, Ribbon!!!) vào trong một cái giáp nào đó và nhân vật của bạn gần như được bảo vệ đến tận răng. Nếu ko biết [Ribbon] dùng để làm gì thì hãy Equip nó và đấu với Great Malboro thử xem ^_^!
3. Dark Matter khá mạnh nếu dùng bằng lệnh USE để tọng vào họng bọn quái vật, ngoài ra cũng khá được giá ở chợ trời ^_^!
4. Các “siêu phẩm” của chiêu Mix rất cần đến Dark Matter, trong đó có cả Trio of 9999, Eleccentric,…

Nhưng với tôi thì Dark Matter hoàn toàn vô dụng, tại sao?
Đơn giản vì [Break Damage Limit] vốn đã có sẵn trong Celestial Weapon của mọi nhân vật, nên trừ phi bạn muốn tạo một phiên bản “cho ngầu” thì no-table ^_^!
Với [Ribbon] thì tôi vẫn chuộng phương pháp lấy từ bọn Dark Aeon hơn, chỉ vài lần là đã có đủ cho đội hình, trừ khi bạn đang chơi bản EU thì đành chịu!
Vậy nếu bạn vẫn còn muốn tìm Dark Matter trong bản International thì hãy tự chọn một phương pháp đi!


Phần 07: Các toạ độ ẩn của tàu bay!


Có tất cả 6 vị trí ẩn trên Spira, và bạn phải dùng chế độ search để tìm, ko cần chính xác như phía dưới, chỉ gần đúng rồi nhấp O là được:
X : Y : Địa điểm
14 : 57 : Baaj Temple
15 : 42 : Sanubia Desert
30 : 74 : Besaid Falls
34 : 56 : Mi'ihen Ruins
39 : 57 : Battle Site
72 : 34 : Omega Ruins


Phần 08: Monster Arena, những điều cần biết để biến nó thành WTC của FFX!


Monster Arena là gì?

- Là một dạng cửa hàng quái vật nằm ở góc trên bên phải Calm Land, gần đường ra Sunken Cave! Nó cho phép bạn chọn đấu với một loại quái vật mà bạn muốn với một giá tiền, miễn là quái vật đó có tên trong “danh sách quái vật”.

- Để đưa một quái vật bình thường nào đó vào trong “danh sách quái vật” thì bạn phải “bắt” (“capture”) nó, bằng cách giết nó bằng tấn công thường (tức là lệnh Attack, ko được bằng magic, skill, hay overdrive) và nhân vật giết nó phải equip một loại vũ khí đặc biệt có auto-ability [Capture] chỉ có bán ở Monster Arena (ko customize được).

- Mỗi lần bạn bắt thêm 1 con của cùng loài đó thì số lượng quái vật ‘trữ” trong Monster Arena sẽ tăng thêm 1 con. Monster Arena chỉ trữ tối đa mỗi loài 10 con.
Khi bạn chọn đánh nhau với một quái vật nào đó trong Monster Arena, cho dù bạn giết chết nó thì số lượng chủng loại đó cũng ko giảm đi, bạn được giữ tất cả item và vũ khí/giáp mà quái vật đó cho, cũng như bạn steal được. Chỉ có điều vì bạn phải tốn tiền để được đánh nhau với chúng nên mọi quái vật trong đó đều ko cho tiền.

- Ông chủ Monster Arena dường như là một nhà sinh vật học, phối giống thiên tài (^_^) vì thỉnh thoảng ông ta lại “tạo” ra một loài quái vật mới từ các quái vật bình thường, điều đó tôi sẽ gọi là “mở khóa quái vật”. Bởi vậy trong danh sách quái vật, ngoại trừ danh sách của 13 khu vực trên thế giới Spira, còn có thêm 3 danh sách là Area Conquest, Species Conquest và Original Creation Conquest chứa các quái vật được mở khóa với điều kiện nào đó (mà tôi sẽ nêu phía dưới trong phần riêng của chúng).

- Để có thể sử dụng Monster Arena thì lần đầu tiên bạn vào đó, bạn phải giúp ông chủ hồi phục Arena, bằng cách bắt tất cả quái vật của Calm Land, mỗi loài một con, tức là mở khóa con Chimerageist. Từ đó về sau, mỗi khi bạn bắt được quái vật ở đâu thì nó cũng sẽ xuất hiện trong Monster Arena => bạn có thể tìm hầu như mọi Item, vũ khí, giáp trong Monster Arena, và cũng là nơi được nhắc nhiều nhất trong bảng hướng dẫn này.

- Lưu ý cuối cùng là một số loài quái vật như máy móc và undead thì ko thể bắt được và chúng cũng ko có tên trong danh sách quái vật nên bạn ko lo về việc thiếu chúng nhưng vì chúng cũng giữ một số thứ “độc quyền” nên đành chịu thiếu một số thứ (ko quan trọng lắm đâu ^_^)!


Area Conquest: Để mở khóa các quái vật của bảng Area Conquest thì bạn phải bắt tất cả các loại quái vật của một khu vực (mỗi loại một con), và đây là khu vực và quái vật mở được cùng với item mà chúng sẽ cho và bạn steal được (các armor/weapon hầu như vô dụng vì bạn có thể customize những thứ tốt hơn nhiều):

BESAID ISLAND: Stratoavis: Amuletx4: Stamina Springx4
KILIKA: Malbora Menace: Mana Tonicx4: Mana Springx2
MI'IHEN HIGHROAD: Kottos: Healing Springx40; Soul Springx2
MUSHROOM ROCK ROAD: Coeuriregina: Shinning gemx6
DJOSE HIGHROAD: Jormungand: Supreme gemx4: Three Starsx2
THUNDER PLAINS: Cactuar King: Blessed gemx6: Designer Wallet
MACALANIA: Espada: Rename Cardx2: Farlane Windx3
BIKANEL ISLAND: Abyss Worm: Stamina Tonicx2: Stamina Tablet
CALM LANDS: Chimerageist: Return Spherex2, Stamina Springx2
SUNKEN CAVE: Don Tonberry: Farlane Windx6: Designer Walletx2
MOUNTAIN GAGAZET: Catoblepas: Three Starx2: Stamina Tonicx2
INSIDE SIN: Abaddon: Mana Tabletx2: Shining gemx2
OMEGA DUNGEON: Vorban: Friend spherex2: Healing Springx2

Species Conquest: là các quái vật trùm, đại diện cho toàn bộ 1 chủng loại quái vật (ví dụ như One-Eye là trùm của dơi một mắt), nhớ điều đó và bạn chỉ việc bắt mỗi loại chừng 3-5 con, nhưng tôi có danh sách chính xác:

FENRIR
Item: Agility Sphere x2
Steal: Chocobo Wing x3
Bắt mỗi loại quái vật sau 3 con: Dingo, Mi'ihen Fang, Garm, Snow Wolf, Skoll, Bandersnatch, Sand wolf
----------------
ORNITHOLESTES
Item: Gambler's Spirit x4
Steal: Chocobo Wing x2
Bắt mỗi loại quái vật sau 3 con: Dinonix, Ipiria, Raptor, Melusine, Iguion, Yowie, Zaurus
--------------------
PTERYX
Item: Evasion Sphere x2
Steal: Candle of Life x2
Bắt mỗi loại quái vật sau 5 con: Condor, Simurgh, Alcyone
---------------------
HORNET
Item: Accuracy Sphere x2
Steal: Purifying Salt x2
Bắt mỗi loại quái vật sau 5 con: Killer Bee, Bite Bug, Wasp, Nebiros
----------------------
VIDATU
Item: MP Sphere x2
Steal: Mana Tonic x2
Bắt mỗi loại quái vật sau 5 con: Gandarewa, Aerouge, Imp
--------------------
ONE EYE
Item: Magic Defense Sphere x2
Steal: Blessed Gem
Bắt mỗi loại quái vật sau 5 con: Floating Eye, Buer, Ahriman, Evil Eye, Floating Death
---------------------
JUMBO FLAN
Item: Magic Sphere x2
Steal: Mana Tablet x2
Bắt mỗi loại quái vật sau 3 con: Water Flan, Ice Flan, Snow Flan, Thunder Flan, Flame Flan
---------------------
NEGA ELEMENTAL
Item: Twin Stars x4
Steal: Twin Stars x2
Bắt mỗi loại quái vật sau 3 con: Yellow Element, White Element, Red Element, Gold Element, Blue Element, Dark Element, Black Element
---------------------
TANKET
Item: Defense Sphere x2
Steal: Lunar Curtain x8
Bắt mỗi loại quái vật sau 3 con: Raldo, Bunyip, Murussu, Mafdet, Shred, Halma
---------------------
FAFNIR
Item: Light Curtain x40
Steal: Stamina Spring x2
Bắt mỗi loại quái vật sau 5 con: Vouivre, Lamashtu, Kusariqqu, Mushussu, Nidhogg
---------------------
SLEEP SPROUT
Item: Teleport Sphere x2
Steal: Farplane Wind
Bắt mỗi loại quái vật sau 5 con: Funguar, Thorn, Exoray
---------------------
BOMB KING
Item: Door to Tomorrow x2
Steal: Shining Gem
Bắt mỗi loại quái vật sau 5 con: Bomb, Grenade, Puroburos
-----------------------
JUGGERNAUT
Item: Strength Sphere x2
Steal: Shining Gem
Bắt mỗi loại quái vật sau 5 con: Dual Horn, Grendel, Valaha
------------------------
IRON CLAD
Item: HP Shere x2
Steal: Stamina Tablet x2
Bắt mỗi loại quái vật sau 10 con: Iron Giant, Gemini (A), Gemini (B)

Original Creation Conquest: Đáp ứng một số yêu cầu nhất định và bạn sẽ mở được các quái vật bảng này: nổi tiếng kinh khủng ^_^!

EARTH EATER
Item: Fortune Sphere x2
Steal: Lv. 1 Key Sphere
Mở khóa 2 quái vật của Area Conquest.
---------------------
GREATER SPHERE
Item: Luck Sphere x2
Steal: Return Sphere
Mở khóa 2 quái vật của Species Conquest.
----------------------
CATASTROPHE
Item: Designer Wallet x2
Steal: Lv. 2 Key Sphere
Bắt mọi loại quái vật của 6 khu vực khác nhau (mỗi loại một con).
----------------------
TH'UBAN
Item: Underdog's Secret x2
Steal: Teleport Sphere
Bắt hết tất cả quái vật của 6 chủng loại khác nhau (mỗi loại 1 con)
-----------------------
NESLUG
Item: Pendulum x4
Steal: Friend Sphere x3
Bắt mỗi loại quái vật 1 con (tức là mở hết Area Conquest).
-----------------------
ULTIMA BUSTER
Item: Winning Formula x2
Steal: Lv. 3 Key Sphere x2
Bắt mỗi loại quái vật 5 con.
-----------------------
SHINRYU
Item: Wings to Discovery x6
Steal: Three Stars x2
Bắt mỗi loại quái vật của Mt. Gagazet và Gagazet Mountain Cave 3 con.
------------------------
NEMESIS
Item: Warp Sphere x6
Steal: Lv. 4 Key Sphere x2
Bắt mỗi loại quái vật 10 con. (^_^)

Giải thưởng của ông chủ Monster Arena mỗi khi mở một loại quái vật:

Area Conquest

Besaid Island: 99xStamina Tonic
Kilika: 99xPoison Fang
Mi'ihen Highroad: 99xSoul Spring
Mushroom Rock Road: 99xCandle of Life
Djose Highroad: 99xPetrify Grenade
Thunder Plains: 99xChocobo Wing
Macalania: 60xShining Gem
Bikanel Island: 99xShadow Gem
Calm Lands: 60xFarplane Wind
Sunken Cave: 40xSilver Hourglass
Mt. Gagazet: Blossom Crown (key item)
Inside Sin: 99xLunar Curtain
Omega Ruins: 60xDesigner Wallet

Species Conquest

Chim(PTERYX): 99xMega Pheonix
Tắc kè(ORNITHOLESTES): 99xStamina Spring
Sói(FENRIR): 99xChocobo Feather
Imp(VIDATU): 99xMana Spring
Bomb(BOMB KING): 60xTurbo Ether
Element(NEGA ELEMENT): 99xStar Curtain
Flan(JUMBO PLAN): 60xTwin Stars
Chuột chũi(TANKET): 99xGold Hourglass
Ong(HORNET): 60xMana Tonic
Rồng(FAFNIR): 99xPurifying Salt
Nấm(SLEEP SPROUT): 99xHealing Spring
Cầu mắt(ONE EYE): 60xStamina Tablet
Thú sừng(JUGERNAUT): 99xLight Curtain
Khổng lồ sắt(INRON CLAD): 60xMana Tablet

Original Monster Prizes
Earth Eater: 60xThree Stars
Greater Sphere: 60xSupreme Gem
Catastrophe: 99xDoor to Tomorrow
Th'uban: 99xGambler's Spirit
Neslug: 99xWinning Formula
Ultima Buster: 99xDark Matter
Shinryu: 30xMegalixir
Nemesis: 10xMaster Sphere


Phần 09: [No Encounters], cách loại bỏ những trận chiến đáng ghét!


Đối với các fan lâu năm của dòng FF thì chắc ko còn lại gì kỹ năng này, [No Encounter] là một auto-ability trên áo giáp mà có tác dụng bỏ hoàn toàn các trận chiến ngẫu nhiên khi bạn đang chu du, miễn là có một nhân vật trong nhóm (ko nhất thiết phải là nhóm chính) equip bộ giáp có auto-ability này. Một kỹ năng tuyệt vời để làm nhiệm vụ mà ko muốn bị bọn quái vật “quấy rầy” ^_^!

Để customize [No Encounter] thì bạn cần 30x Purifying Salts và chỉ có 2 cách để lấy thứ item này:
a. Steal từ đối thủ: như con Abbadon trong Monster Arena (100%) hay các Warrior Monk và Fallen Monk ở Zarnakan Ruins (hiếm khi). Với auto-ability [Master Thief] trên một cái giáp được equip, bạn có thể steal được Purifying Salts từ con Hornet trong Monster Arena.
b. Mở khóa Fafnir: để nhận 99x Purifying Salts từ ông chủ Monster Arena (xem phần Monster Arean để biết cách mở khóa Fafnir). Một cách tuyệt vời để lấy Purifying Salts.

Ngoài ra, một số quái vật thỉnh thoảng cho những cái giáp có [No Encounter] bao gồm Ghost, Wrath (2 con ma) và Dimonolith (bọn cục đá trong Omega ruins mà có cánh tay thò ra). Nhưng tôi ưa thích hơn hết là cách này, một lỗi của trò chơi: con Geosgaeno, boss giữ cửa điện thờ Baaj (dò bằng bảng ở “phần 07”) thỉnh thoảng cho một VŨ KHÍ có [No Encounter], tôi đã từng có thanh kiếm của Tidus, quả bóng của Wakka và găng tay của Rikku có [No Encounter] qua các lần hạ nó.
Mẹo: ko biết có đúng hay ko, nhưng khi tôi dùng Overdrive để giết con boss này thì nó ko cho vũ khí có [No Encounter], mà chỉ cho khi tôi dùng tấn công thường giết nó (tức là sau khi nó đã nuốt 1 nhân vật ít nhất 1 lần).

Nên nhớ thêm là bạn chỉ cần 1 nhân vật equip giáp (hoặc vũ khí ^_^) có [No Encounter] là đủ có tác dụng rồi.


Phần 10: Có Gil là có tất cả, vậy làm sao để có thật nhiều Gil?


Nếu bạn đang cần thật nhiều gil (mà thường thì lúc nào cũng vậy ^_^) thì đây là cái đáng giá cho bạn với cách “luyện” gil cực nhanh!

Cách 1:
Thực hiện các bước sau đây chính xác và bạn sẽ chật túi trong nháy mắt:
1-Dùng tàu bay đến Kilika Port.
2-Đến chỗ bà cụ bán vũ khí (bên cạnh một cái thùng item) chỉ ngay phía bên trái chỗ Save bạn đáp xuống.
3-Mua một lượng áo giáp khổng lồ cho Tidus (thật ra cho ai cũng được).
4-Quay về Calm Land.
5-Đến Monster Arena (ở góc phải, nếu bạn chưa biết vị trí).
6-Chọn đánh con Kottos trong bảng Area Conquest, overkill nó lấy 40x Healing Spring (đôi khi là 2x Dark Matter).
7-Dùng “Healing Spring” để Customize auto-ability [SOS Regen] lên những cái giáp mới mua được ở Kilika.
8-Bán những cái áo giáp mới customize để nhận một khoản lợi khổng lồ.
9-Lập lại các bước trên.

Một cái áo giáp (bất kỳ) ở Kilika giá 2.250 Gil. Giả sử bạn mua 100 cái giáp, tốn tổng cộng 225.000 Gil. Để Customize [SOS Regen] lên một cái giáp bạn cần 12x Healing Spring, với 100 cái giáp thì tổng cộng cần 1200x Healing Spring. Nghe có vẻ nhiều nhưng chỉ cần 40 trận overkill Kottos là bạn đã có đủ số. Tuy nhiên, theo thống kê thì có 1/5 khả năng Kottos sẽ cho Dark Matter nên coi như bạn phải đánh 36 lần, tốn tiền thuê chỗ 216.000 Gil (vì một trận đánh Kottos tốn 6000 Gil).

Cộng lại thì bạn cần bỏ “vốn đầu” là 225.000 + 216.000= 441.000 Gil
Sau khi Customize thì 1 cái giáp bán được 37.781 Gil. Bán 100 cái thì thu được: 37.781 x 100= 3.778.100 Gil. Trừ đi vốn thi lãi được: 3.778.100 – 441.000= 3.337.100 Gil
Như vậy bạn lời trung bình 33.371 Gil một cái giáp !!!

Cám ơn Evandownie về ý tưởng tuyệt vời và ACA vì đã tóm lại gọn gàng dễ hiểu

Nhược điểm duy nhất của cách này, cách tốt nhất, là bạn cần phải có một sức mạnh tầm trung (trên 100) cùng Celestial Weapon để sao có thể dùng Overdrive hạ Kottos nhanh nhất (ưu tiên luyện bằng Yuna với Oblivion của Anima, hoặc kết hợp thêm Tidus và Wakka).

Cách 2:
Đơn giản và hiệu quả: overkill (hoặc kill) One-Eye trong bảng Species Conquest của Monster Arena. Vũ khí của nó cho rất được giá (nhưng bạn nên giữ mỗi nhân vật 1 món có dư 2 ô trống) và đòi hỏi sức mạnh nhóm bạn thấp hơn so với kill Kottos (mặc dù cũng nên có Celestial Weapon với sức mạnh cỡ 90+).

Cách 3:
Nhẹ nhàng và chậm chạp: chỉ cần một nhóm bèo nhèo lúc vừa mới có tàu bay, đến Omega Ruins (dò bằng bảng ở “phần 07”) và đánh, đập, đánh, đập,… (^_^). Hang động này thực sự khá nguy hiểm vì vậy bạn đừng đi xa quá chỗ save 5 bước và nên save thường xuyên. Đây là nơi luyện S.LV và Gil rất tốt lúc đầu (nên dùng vũ khí có [Triple AP] hoặc [Double AP] để nhân vật mau S.Lv.up => chuyển qua 2 cách trên ^_^).

Phần 11: Celestial Mirror: làm sao để lấy và sử dụng?


Celestial Mirror là thứ cực kỳ quan trọng để lấy và nâng cấp các Celestial Weapon (Thần Khí) của tất cả các nhân vật. Vì vậy tôi sẽ cố miêu tả dễ hiểu trong phần hướng dẫn này:

1. Đầu tiên bạn cần đến điện thờ Remien. Nếu bạn chưa biết nó ở đâu thì hãy đến Calm Land, nói chuyện với người huấn luyện Chocobo (bà ta hoặc đứng ở góc phía trên bên trái của Calm Land, hoặc đứng ngay ngoài chi nhánh bán hàng của Rin giữa Calm Land), chọn cưỡi chocobo (“I want to ride one”) và điều khiển chocobo đến góc dưới cùng bên phải của Calm Land (rõ ràng hơn là góc bên phải cửa vào Calm Land, từ hướng Macalania), ở đó sẽ có một cái lông chocobo màu vàng nằm trên mặt đất (nếu bạn gặp thùng item thì bạn nhầm chỗ rồi, hãy đi vòng lên mô đất ngay trước). Bấm O (hoặc X) ngay chỗ cọng lông và chocobo sẽ tự động nhảy xuống bãi đất thấp phía dưới, leo xuống chocobo và qua khu vực mới: Điện thờ Remien (Remien Temple).

2.Bước vào khu vực này bạn sẽ thấy một điện thờ đồ sộ ngay bên khia cầu treo. Nhưng lúc này bạn chẳng có gì để làm với cái điện thờ đó cả. Hãy qua cầu treo và rẽ trái, ở đó có một con chocobo, một quyển sách Al Bhed ở góc trong cùng và một quả cầu xanh trên mặt đất, hãy kiểm tra nó. Nó ko phải Jetch Sphere mà là một viên ngọc hướng dẫn bạn vể việc đua chocobo ở đây. Sau khi đọc xong luật lệ thì hãy đi qua phái đối diện bên kia điện thờ và bạn sẽ thấy một con chocobo nữa. Hãy “nói chuyện” với nó rồi chọn “yes” để bắt đầu cuộc đua.

3. Cuộc đua này thật sự dễ dàng. Đường đua hình trôn ốc với các cây đèn màu ở các góc và một số thùng item rải rác khắp đường đua. Giờ bạn chỉ việc thắng con chocobo kia thôi và điều đó cực kỳ dễ, hãy chạy theo hướng mũi tên hồng trên bản đồ và bạn sẽ chiến thắng trong nháy mắt, lấy được key item “Cloudy Mirror” (bạn có thể đua nhiều lần nữa và tôi nghĩ bạn nên nhân cơ hội lấy 30x Wing to Discovery, đọc “phần 04” để biết chi tiết).

4. Cái gương (mirror), bạn vừa lấy được, qua thời gian đã bị mờ và trong FFX thì ko có tiệm đánh bóng hay tráng gương nào cả ^_^. Giờ thì hãy đến Macalania Forest (khu rừng ở Macalania), cách tốt nhất là bạn hãy đáp tàu bay đến Lake Macalania, nó sẽ đưa bạn đến chi nhánh của Rin ở khu vực băng tuyết bên ngoài khu vừng. Hãy đi ngược lại vào khu rừng, bạn sẽ thấy, khi vừa qua màn hình vào rừng, là có 2 cánh cửa rẽ bên phải: một con đường sẽ đưa bạn đến chỗ đánh nhau với con boss Seymour trước kia, còn một con đường sẽ đưa bạn lên con đường ánh sáng. Hãy đi theo con đường đó, chạy dọc theo con đường ánh sáng đến khi bạn gặp một ngả rẽ: một hướng rẽ về chỗ bạn sẽ dùng để rửa chiếc gương (cũng như nâng cấp các Celestial Weapon sau này), một hướng rẽ về trung tâm khu rừng Macalania. Hãy đi theo đường đó và khi bạn vừa bước xuống khỏi con đường ánh sánh thì trước mặt bạn (hay mặt Tidus ^_^) là chỗ save, ở bên phải có 2 mẹ con đang đứng. Tại sao lại mất một đoạn dài chỉ để tìm 2 mẹ con này? Tại vì tôi hứa là sẽ cố viết dễ hiểu, và đây là cách đi mà ko thể sai lầm gì được ^_^!

5. Nói chuyện với mỗi người 2 lần, họ sẽ bảo cho bạn biết về chuyện người chồng (cha) của họ trễ hẹn. Bạn hãy đi tìm ông ta. Nhân thể nếu bạn chưa lấy thì bên phải chỗ bà mẹ có một viên Jetch Sphere. Đi về hướng đó, qua màn hình bạn sẽ thấy một ngả ba, bên trái là đường bộ đến Bevelle giờ đã bị ngăn cản, nên hãy qua phải, qua màn hình thì lại là một ngã tư (nếu tôi nhớ ko lầm thì sẽ có một người đàn bà ở đó). Đường đi qua màn hình bên phải là đường đến Calm Land (ngay ban đầu bạn có thể đi ngược lại theo đường này để tìm 2 mẹ con kia), đường rẽ xuống phía dưới chính là chỗ lãng mạn của Tidus và Yuna ^_^, bạn hãy rẽ lên phía trên màn hình. Đây chính là nơi nhóm bạn nghỉ chân sau khi trốn khỏi Bevelle, hãy nói chuyện với người-đàn-ông-thường đứng đó (2 người kia là người Guado). Ông ta sẽ thắc mắc về chuyện vợ con mình sao chưa đến, bạn hãy chọn chỉ chỗ cho ông ta (“They’re over there”). Ông ta sẽ chạy đi và bạn hãy đi theo ông ta trở về chỗ 2 mẹ con đứng.

6. Giờ thì đứa con trai của họ đã biến mất, nói rằng đi tìm cha. Nó đang đứng ngay chỗ rửa gương (trên con đường ánnh sáng, nhớ chứ) bạn hãy đến đó nói chuyện với nó và (nếu như tôi nhớ ko lầm, ko thì bạn hãy bấm O/X để kiểm tra cái bục đó cũng được) sẽ xuất hiện chọn lựa cho bạn sử dụng Cloudy Mirror, chọn “Yes” và bạn có được Celestial Mirror (yeah!). Hãy nhớ nơi này (hay ghi nhớ cáh đến nơi này) vì đây sẽ là nơi bạn nâng cấp các Celestial Weapon.

Vậy Celestial Mirror thật sự dùng làm gì?

Celestial Weapon của các nhân vật thường nằm trong một chỗ nào đó, khi bạn kiểm tra nơi đó thì sẽ xuất hiện chọn lựa “có sử dụng Celestial Mirror ko?” chọn “Yes” và bạn sẽ lấy được Celestial Weapon đó. Nhưng ko chỉ vậy, các Celestial Weapon khi mới lấy được hoàn toàn chỉ là một đống sắt vụn, với chỉ một auto-ability : [No AP] !!
Vì vậy nên bạn mới cần phải nâng cấp cho chúng đạt cảnh giới tối cao với đủ 4 Auto-Ability.

Mỗi Celestial Weapon của mỗi nhân vật đều có 2 key item dùng để nâng cấp sức mạnh cho chúng gọi là [xxx] Crest và [xxx] Sigil với [xxx] khác nhau ở các nhân vật. Sau khi bạn có crest và sigil của cùng một nhân vật (ví dụ, Tidus thì sẽ là Sun Crest và Sun Sigil) thì bạn sẽ có thể quay về nơi rửa gương để nâng cấp cho Celestial Weapon của nhân vật đó (phải có Celestial Weapon đã nhé ^_^).
Một vũ khí phải nâng cấp riêng rẽ, Crest trước rồi Sigil sau (tức là 2 lần cho một weapon). Sau khi nâng cấp với cái Crest, weapon đó sẽ có 2 auto-ability: [No AP] và [Double Overdrive], đồng thời mở khóa khả năng đặc biệt của chúng (ví dụ sau khi nâng cấp Moon Crest cho Yuna thì aeon Valefor sẽ vượt qua giới hạn 9999).
Bởi vì những cái crest rất dễ lấy nên mới tệ như vậy, và khi bạn nâng cấp với Sigil thì weapon sẽ đạt sức mạnh tối đa của nó (maximum power) với đủ 4 auto-ability, trong đó tất cả các Celestial Weapon đều có 2 auto-ability: [Break Damage Limit] + [Triple Overdrive]. 2 chiêu còn lại thay đổi tùy nhân vật.
Đó là tất cả về Celestial Mirror và lễ rửa gương.

Nelvil
12-02-2009, 09:30 PM
Phần 12: Thần khí (Celestial Weapon) của Tidus- Caladbolg!

Trước khi lấy Caladbolg thì bạn phải có Celestial Mirror nên nếu chưa có thì hãy đọc phần đó đã nhé.

Cách lấy Caladbolg:
Ko có bước nào cả, đơn giản chỉ là bạn hoàn thành 3 vòng huấn luyện chocobo của huấn luyện viên chocobo (chọn "Let me train one”) rồi thắng bà ta trong vòng huấn luyện thứ tư. Sau đó cưỡi chocobo (hoặc đi bộ nếu bạn muốn giãn gân cốt ^_^) đến góc trên bên trái của Calm land, nơi huấn luyện viên chocobo thường đứng lúc trước. Nếu bạn để ý sẽ có một dường nhỏ đi xuống thung lũng và thường là có một người canh giữ đứng đó ko cho bạn xuống. Giờ thì bà ta đã đến xem cuộc đua thú vị khi nãy mà bạn thắng huấn luyện viên chocobo, nên bạn tự nhiên đi xuống và lấy cây Caladbolg (trong dấu ấn trên tường).

Cách lấy Sun Crest và Sun Sigil:

1. Sun Crest thực sự khá dễ lấy. Nó nằm trong một cái thùng ở nơi bạn đánh nhau với Yunalesca, sau trận chiến, chỉ việc đi xuống cầu thang (ở góc trong) và cái thùng chứa Sun Crest sẽ hiện ra, chỉ việc lấy nó mà thôi (nhưng nếu xui nó ko hiện thì thử đi lên/xuống cầu thang vài lần nữa xem)! Nhưng với những ai chơi phiên bản International và quên lấy Sun Crest sau khi hạ Yunalesca, thì chia buồn là bạn phải hạ Dark Bahamut trước khi có thể vào mà lấy cái Sun Crest!!! Còn các bạn chơi phiên bản EU thì tự nhiên, ko sao cả!

2. Sun Sigil, cũng như các Sigil khác, đòi hỏi bạn trải qua cực hình rồi mới chịu cho bạn lấy ^_^!! Mục tiêu rất đơn giản, bạn phải đua chocobo (vòng huấn luyện thứ tư) thắng huấn luyện viên chocobo, mà phải thắng một cách kinh hoàng, bạn phải có thời gian tổng kết nhỏ hơn 0:00:00 !!!!!!!! Tôi sẽ giải thích:
-Khi đua nếu bạn lấy được 1 quả bong bóng thì đến l1uc tính thời gian, huấn luyện viên chocobo sẽ trừ 3 giây trong tổng thời gian của bạn. Ngược lại nếu bạn bị những “con chim” đụng trong cuộc đua thì 1 cú đụng sẽ làm Tidus bị “choáng voáng” chừng 1.5-2 giây rồi khi tính kết quả thì huấn luyện viên chocobo sẽ cộng 3 giây vào tổng thời gian của bạn. Như vậy bạn sẽ bị cộng 5 giây cho một con chim, rất tệ!!!
-Giả sử bạn chạy đến đích với thời gian 0:36:00 và lấy được 14 quả bong bóng, đụng 1 con chim thì thời gian tổng kết của bạn là – 0:3:00, mặc dù trên bảng thành tích ghi 0:00:00. Khi đó bạn sẽ được thưởng Sun Sigil!!! Chú ý là có nhiều lúc hi hữu (tôi chưa thấy, chỉ nghe báo lại) thời gian của bạn vừa đủ 0:00:00 thì bạn ko được Sun Sigil!!!
-Thực tế là có một số chú ý có thể làm bạn dễ dàng hơn như: mỗi đợt bay ra 4 con chim và có 2 con nhắm vào bạn, 2 con nhắm vào huấn luyện viên chocobo, nên nếu bạn chạy trước bà ta thì chỉ cần lách 2 con chim của mình là có thể thoải mái nhắm bong bóng một chút. Nên nhớ trong đầu là đụng một con chim đáng giá với 2 quả bong bóng!!! Vậy cho nên ưu tiên lách bọn chim, trừ khi việc “đưa đầu cho chúng tông” có thể giúp bạn lấy 2-3 cái bong bóng ngay lập tức. Và đừng bao giờ lo lắng về thời gian, bạn chạy chậm thế nào thì với 12 bong bóng, ko đụng chim, bạn vẫn thắng như thường vì để làm được như vậy thì bạn phải vượt trước huấn luyện viên chocobo cùng với ko đụng con chim nào làm tốc độ bạn chạy khá nhanh!
-Chỉ có như vậy thôi, nếu bạn đọc ở đâu đó có mẹo nào đại loại như điều khiển chocobo dễ dàng hơn, hay có cách nào để ko bao giờ bị chim đụng, thì xin cam đoan với bạn là toàn nói nhảm!!!
-Đây là một trò chơi của kỹ năng và may mắn, tôi chẳng giúp gì được ngoài chúc bạn may mắn cả ^_^! Nếu bạn thất bại liên tục thì hãy cố nhớ là hầu hết các gamer của FFX đều thất bại ít nhất là nhiều giờ đồng hồ trước khi có thể thành công, điều đó có lẽ làm bạn tự tin lên chút ít ^_^!

Sau khi có Sun Crest và Sun Sigil thì bạn có thể nâng cấp Caladbolg ở chỗ rửa gương và Celestial Weapon thực sự của Tidus có 4 auto-ability: [Break Damage Limit] + [Triple Overdrive] + [Evade & Counter] + [Magic Counter].

Một đặc điểm mà Caladbolg thừa hưởng từ tổ tiên Ultima Weapon ở FFVII (^_^), là khi HP của Tidus đầy (hoặc gần đầy) thì sức mạnh của Caladbolg sẽ tăng lên!!! Đặc điểm này chỉ kích hoạt khi đã nâng cấp đủ!

Liên quan đến Caladbolg:Đây là tên của thanh kiếm trong thần thoại Ireland với sức mạnh có thể xẻ đội một ngọn đồi của Ireland. Theo các thông tin tôi tìm được thì Caladbolg thực sự ko xa lạ gì với các fan của dòng FF vì Squaresoft đã đưa nó vào các phiên bản trước nhiều lần với cái tên tiếng Latinh: Excalibur!!!


Phần 13: Thần khí (Celestial Weapon) của Yuna- Nirvana!

Như mọi khi, kiểm tra xem bạn đã có Celestial Mirror chưa rồi hãy lấy Nirvana nhé!

Cách lấy Nirvana:

Mở khóa Chimerageist của bảng Area Conquest có nghĩa là bắt mỗi loại quái vật của Calm Land 1 con. Quay Monster Arena để nhận phần thưởng từ ông chủ, sau đó sẽ có một thùng item xuất hiện ngay bên trái, nó chứa cây Nirvana!

Cách lấy Moon Crest và Moon Sigil:

1. Moon Crest: có thể lấy rất sớm ngay khi Tidus gặp Wakka lần đầu trên bãi biển! Hãy bơi ra biển dọc theo bãi cát, bạn sẽ thấy có một bãi cát nhỏ nằm cách biệt với bãi biển chính, trên đó có thùng chứa Moon Crest!

2. Moon Sigil: để có Moon Sigil, bạn phải có đủ các Aeon của Yuna, kể cả 3 Aeon ẩn là Anima, Yojimbo và Magus Sisters. Hãy đọc phần hướng dẫn cách lấy chúng nếu bạn chưa biết (mà tôi sẽ viết sau, chắc phải mất mấy ngày, chậc, sao mình lại để ở tận dưới cùng nhỉ ^_^). Đơn giản là bạn hãy đến điện thờ Remien (đọc phần về Celestial Mirror để biết cách đến), vào trong điện thờ và bạn sẽ gặp Belgemine, người thử thách các summoner. Bạn phải đánh bại tất cả các aeon của bà ta. Sau khi bạn thắng aeon cuối cùng (là Magus Sister) và “send” bà ta thì sẽ nhận được Moon Sigil.

Mẹo: chẳng có gì thật sự khó cả nếu bạn đã dùng Yuna từ trước đến giờ (nữ chính mà lị ^_^), còn ko thì một chuyến “du lịch” trong Omega Ruins sẽ làm mọi thứ dễ dàng hơn ^_^! Cơ bản là bà ta luôn yếu hơn bạn, tốt nhất là dùng Anima cho mọi trận chiến rồi dùng Yojimbo cho 2 trận chiến với Anima và Magus sisters, với một chỉ số magic kha khá của Yuna thì Yojimbo sẽ hạ chúng trong nháy mắt (mỗi lần chỉ cần 1000 thôi)!

Quay về chỗ rửa gương để nâng cấp cây Nirvana lên sức mạnh tối đa của nó với 4 auto-ability: [Break Damage Limit] + [Triple Overdrive] + [Double AP] + [One MP Cost]

Cây Nirvana đầy đủ sức mạnh sẽ mở khóa 99999 cho aeon Valefor (tức là có thể đả thương hơn 9999) đồng thời sức mạnh của Nirvana (tấn công và magic) sẽ tăng lên khi MP của Yuna đầy (hoặc gần đầy)!

Liên quan đến Nirvana: “nirvana” có nghĩa là “cõi niết bàn”, thế giới sau khi chết của đạo Phật. Cũng dễ hiểu, vì đạo Yevon trong game là một dạng cải biến của đạo Phật, tôn giáo lâu đời của Nhật Bản.


Phần 14: Thần khí (Celestial Weapon) của Wakka- World Champion!


Như mọi khi, kiểm tra xem bạn đã có Celestial Mirror chưa rồi hãy lấy Celestial Weapon nhé!

Cách lấy World Champion:

Còn nhớ quán bar nơi Kimahri và Biran, Yenke suýt đánh nhau ở Luca ko? Nếu ko thì tôi phải chỉ đường rồi (^_^): đáp tàu bay xuống Luca thì bạn sẽ ở ngay trung tâm sân vận động Luca, từ đó đi xuống dưới, qua màn hình là một ngã ba với bùng binh nhỏ, rẽ trái và bạn đến công viên, cái quán bar ở phía bên kia (chậc, ko biết nhớ đúng đường ko, ko thì tự mò nhé ^_^). Vào đó nói chuyện với người chủ đứng sau quày, ông ta sẽ cho bạn World Champion!

Cách lấy Jupiter/Mercury Crest và Jupiter/Mercury Sigil:
Dường như do trục trặc trong việc dịch thuật nên bản International đã làm lộn tùng phèo tên đúng của các crest, sigil của các nhân vật, ngoại trừ Tidus và Yuna. Tên phía trước là tên dùng bên bản EU, cũng là tên chính xác của chúng!

1. Jupiter/Mercury Crest: nằm ngay trong phòng thay đồ của đội Besaid Auroch khi trước (ở Luca). Hãy vào kiểm tra các tủ quần áo thì bạn sẽ tìm được Jupiter/Mercury Crest.

2. Jupiter/Mercury Sigil: sẽ là giải nhất của giải League trong Blizt Ball sau khi bạn đã có chiêu Overdrive cuối cùng của Wakka “Auroch Reels”. Nhiều khi nó ko xuất hiện thì bạn có thể dùng một mẹo vặt là save trước trận cuối cùng của giải League, tham dự giải Tournament để lấy Auroch Reels, rồi save lại. Chơi trận cuối của League rồi chọn “quit” sau trận đấu, nếu muốn có thể save lại rồi vào chơi Blizt ball, nếu giải League mới ko có Jupiter/Mercury Sigil thì hãy load lại.
-Nếu bạn hoàn toàn ko chơi Blizt Ball từ đầu thì sau khi bạn đã trải qua 450 trận chiến với quái vật, các Overdrive của Wakka sẽ hiện ra gần như lần lượt, nếu ko thì bạn chỉ việc chọn RESET TEAM DATA là chúng sẽ xuất hiện thôi, đừng lo, Jetch Shot sẽ ko mất đâu (chỉ mất hết mọi thứ bạn đã đạt được như tech, exp, lv, cầu thủ thuê… từ sau trận đấu chung kết ở Luca) và bạn đã có tàu bay nên có thể thuê bất kỳ cầu thủ giỏi nào mà bạn muốn. Vậy bạn chỉ mất 2 giải Tournament, 2 giải League để có Jupiter/Mercury Sigil với tổng cộng khoảng 26 trận, ko phải là quá nhiều với một trò giải trí như Blizt Ball.

Việc còn lại là đem World Champion về khu rừng, chỗ rửa gương để nâng cấp lên đủ sức mạnh với 4 auto-ability: [Break Damage Limit] + [Triple Overdrive] + [Double AP] + [Evade & Counter].

World Champion nâng cấp đủ sẽ mở khóa 9999 cho Ifrit đồng thời kích hoạt khả năng tăng sức mạnh của World Champion khi HP của Wakka đầy hoặc gần đầy!

Liên quan đến World Champion: chậc, nó thật sự là một quả bóng rất ngầu và cũng rất xứng tên “nhà vô địch thế giới” vì chẳng có thủ môn nào dám bắt quả bóng đó cả ^_^! Một chuyện bên lề: “Jupiter” (tên đúng của crest và sigil) có nghĩa là sao Mộc, nên việc World Champion mở khóa cho Ifrit là đúng với thuyết “ngũ hành sinh khắc”: Mộc vượng Hỏa!


Phần 15: Thần khí (Celestial Weapon) của Lulu- Onion Knight!


Như mọi khi, kiểm tra xem bạn đã có Celestial Mirror chưa rồi hãy lấy Celestial Weapon nhé!

Cách lấy Onion Knight:

Hãy đến điện thờ Baaj (xem “phần 07” để dò ra vị trí, xem phần “Anima” để biết thêm chi tiết). Lặn xuống hồ và lục ở phía đối diện cửa vào điện thờ (tôi ko rõ có cần phải đánh hạ con boss giữ cửa ko, vì luôn lấy sau khi hạ nó ^_^), nó hơi bị kín nhất là ở dưới nước, nên hãy bơi sát thành hò và nhấp nút kiểm tra (O hay X) để tìm, tốt nhất nê nhờ một người phụ giúp vì vừa phải nhấn nút lặn (X hay O) vừa nhấp quả hơi khó. Nhưng dù sao một lát bạn cũng sẽ có được Onion Knight(cái gì liên quan đến phụ nữ cũng thật phiền ^_^).

Cách lấy Venus/Mars Crest và Venus/Mars Sigil:
Dường như do trục trặc trong việc dịch thuật nên bản International đã làm lộn tùng phèo tên đúng của các crest, sigil của các nhân vật, ngoại trừ Tidus và Yuna. Tên phía trước là tên dùng bên bản EU, cũng là tên chính xác của chúng!

1. Venus/Mars Crest: hãy quay về Farlane (nơi người chết ở á, trong Guado Salam, nếu bị cản thì hãy đi làm nhiệm vụ “đục lỗ vào bụng Sin” xong rồi quay lại ^_^), bạn ko thể nào ko thấy nó chứ, tôi lúc nào cũng lấy nó ngay lần đầu đến Farlane.

2. Venus/Mars Sigil: giờ đến một cực hình khác, chán ngắt và mệt mỏi, giá mà có một cô gái đấm lưng cho tôi trong khi làm trò này nhỉ ^_^!
Nhiệm vụ đơn giản của bạn là né sét, ở Thunder Plain, 200 cú liên tiếp!!! Bạn ko biết né sét à? Nó thuộc về phần của Walkthrough, nhưng tôi cũng nhắc luôn: ngay khi màn hình nhá sáng trắng thì bấm O (hoặc X), đừng lo vì nó nhá tương đối lâu, Tidus sẽ nhảy qua lách cú sét, thế gọi là một cú né nét, okie?

Làm theo 10 điều răn sau đây cũng quá đủ chỉ dẫn cho bạn:
-Bạn không được save giữa chừng, không thì máy đếm sẽ trở lại 0.
-Bạn không được qua màn hình giữa chừng, không thì máy đếm sẽ trở lại 0.
-Bạn không được dùng tay cầm turbo, trò chơi phát hiện ra gian lận.
-Bạn không được nhấp O (hay X) liên tục, trò chơi biết kẻ gian lận.
-Bạn không được quăng tay cầm hay đập phá đồ đạc trong cơn giận. (^_^)
-Bạn không được phàn nàn rằng trò chơi này gian lận hay không công bằng. (^_^)
-Bạn sẽ cần tập trung và giữ bình tĩnh mọi lúc.
-Bạn sẽ cần đọc hướng dẫn “phần 09” để có một cái giáp có [No Encounter].
-Bạn sẽ cần đi lên góc trên bên trái của đại lý Rin vì sét ở đó nhiều hơn bình thường.
-Bạn sẽ cần tôi chúc may mắn. Chúc may mắn. (^_^)

Sau 200 cú né sét bạn hãy quay lại trước cửa hàng đại lý Rin để lấy phần thưởng trong thùng:
005 cú né – 2x X-potion
010 cú né – 2x Mega-Potion
020 cú né – 2x MP Sphere
050 cú né – 3x Strength Sphere
100 cú né – 3x HP Sphere
150 cú né – 4x Megalixir
200 cú né – Venus/Mars Sigil
Bạn có thể né 1 lần 200 cú rồi quay lại lấy hết các phần thưởng hoặc né 50 rồi cái quay lại lấy 4 phần thưởng, né tiếp 200 cú nữa rồi quay lại lấy 3 phần thưởng còn lại để khỏi nặng túi ^_^!

Sau khi có đủ crest và sigil thì chỉ việc quay về chỗ rửa gương mà nâng cấp Onion Knight lên với 4 auto-ability: [Break Damage Limit] + [Triple Overdrive] + [Magic Booster] + [One MP Cost].

Onion Knight nâng cấp đầy đủ sẽ mở khóa 9999 cho Shiva và kích hoạt khả năng năng tăng sức mạnh của Onion Knight một khi MP của LuLu đầy hoặc gần đầy!

Liên quan đến Onion Knight: “Hiệp sĩ củ hành” đã trở lại từ FFIII (đừng hỏi tôi về nó, tôi chỉ nghe người bạn chơi FFIII nói thôi ^_^), giống như các búp bê-vũ khí khác của LuLu, chúng đều là các sinh vật vui nhộn của loạt FF như cactuar, mumba, moogle,…. Chuyện ngoài lề: “venus” có nghĩa là “thần vệ nữ”, tên La Mã của thần tình yêu Hi Lạp Aphrodite, và LuLu quả có vài điểm xứng với điều đó ^_^. Hơn nữa “venus” còn là sao Kim và đúng với thuyết ngũ hành sinh khắc: “Kim vượng Thủy” nên Onion Knight mới mở khóa cho Shiva, đồng thời tôi cũng thấy vài điểm giống nhau giữa LuLu và Shiva (nếu bạn hiểu ý tôi, hehehe ^_^).


Phần 16: Thần khí (Celestial Weapon) của Kimahri- Spirit Lance!


Như mọi khi, kiểm tra xem bạn đã có Celestial Mirror chưa rồi hãy lấy Celestial Weapon nhé!

Cách lấy Spirit Lance:

Nếu bạn chú ý trong khi chơi trò né sét ở Thunder Plain thì có vài bia đá có hình Qactuar (ko phải Cactuar ở Bikanel đâu nhé). Hãy đến trước các bia đá có lân tinh phát sáng và bấm [vuông] thì Tidus sẽ làm lễ trước các bia đá (theo kiểu tín đồ Yevon ^_^). Sau khi làm lễ 3 bia đá thì sẽ có một bóng ma Qactuar bay lởn vởn, hãy đi đến phía nam của Thunder Plains (tức là hướng về Guado Salam), nó sẽ dẫn bạn đến một cột thu lôi đổ bên phải ngay giữa (tức là từ đó đến 2 cửa ra phía trên và đến phía dưới bằng nhau). Làm lễ ở đó thì bạn sẽ xem đoạn Kimahri lấy Spirit Lance.

Cách lấy Saturn/Jupiter Crest và Saturn/Jupiter Sigil:
Dường như do trục trặc trong việc dịch thuật nên bản International đã làm lộn tùng phèo tên đúng của các crest, sigil của các nhân vật, ngoại trừ Tidus và Yuna. Tên phía trước là tên dùng bên bản EU, cũng là tên chính xác của chúng!

1. Saturn/Jupiter Crest: nó nằm trên ngọn Mt. Gagazet, sau trận chiến với Seymour, giữa đống cột hai bên, có lẽ bạn đã lấy nó từ trước vì nó khá lộ liễu (tôi nghĩ đáng lẽ nó cũng phải khó nhìn thấy một chút ^_^).

2. Saturn/Jupiter Sigil: bạn còn nhớ trò chơi bắt bướm khi trước ở khu rừng Macalania ko? Đó chính là thử thách lần này đấy! Có 2 đoạn bắt bướm ở 2 màn hình, bắt đầu trò chơi bằng cách chạm vào con bướm xanh ở cuối đường (ở cả 2 màn hình). Bạn phải hoàn tất cả 2 đoạn mới có Saturn/Jupiter Sigil. Khi chơi trò này bạn nên equip giáp [No Encounter] mặc dù nếu bạn chạm vào bọn bướm đỏ thì vẫn phải đánh nhau. Nên hãy tránh bọn bướm đỏ và bắt hết bướm xanh trong thời gian cho phép. Trò này thực ra ko khó lắm ngoại trừ đoạn thứ 2 (khu vực ko có ông nhạc công mỏ chim) vì có một con bướm xanh “đi rong” ở ngay sau lưng bạn, còn lại thì chỉ việc bắt thử vài lần rồi bạn sẽ quen thôi. Chú ý ghi nhớ vị trí của bọn bướm đỏ sau mỗi lần thử, vì “hiệu ứng hình ảnh” nên nhiều khi con bướm ở bên trái đường trông rất giống như đang ở bên phải đường, nên chỉ việc ghi nhớ vị trí của chúng rồi cứ chạy theo một lộ trình cố định. Cuối cùng bạn sẽ có Saturn/Jupiter Sigil (chỉ có thể đạt được sau khi đã có tàu bay, nỗ lực trước đó ko thể lấy được).

Đem Spirit Lance về nâng cấp chỗ rửa gương để đủ 4 auto-ability: [Break Damage Limit] + [Triple Overdrive] + [Double AP] + [Evade & Counter].

Spirit Lance hoàn chỉnh sẽ mở khóa 9999 cho Ixion, có lẽ vì ko còn ai để mở cho Ixion ^_^!

Liên quan đến Spirit Lance: là một cái tên ko chính xác từ bản tiếng Nhật nên nó chẳng có ý nghĩa gì lắm. Tên tiếng Nhật của cây Spirit Lance là Longinus, được cho là đặt theo tên người lính La Mã đã đâm một mũi thương vào chúa Jesus khi Người treo mình trên thánh giá. Hơn nữa, các Crest và Sigil của nhân vật thực tế trong bản tiếng Nhật là cuộn kinh và thánh kinh, đồng thời tên của các kinh đó ứng với mỗi nhân vật bằng tên một ngày trong tuần chứ ko phải là tên các hành tinh (hoặc vệ tinh như Moon-mặt trăng!!!). Và do đó tên của Saturn Sigil trong bản tiếng Nhật (cũng chính là bản International) là Thánh Kinh thứ Sáu, ngày lễ Thánh thứ Sáu dường như là một ngày khá quan trọng với tín đồ Thiên Chúa (ko phải tôi, nên tôi ko rõ lắm ^_^).


Phần 17: Thần khí (Celestial Weapon) của Auron-Masamune!


Như mọi khi, kiểm tra xem bạn đã có Celestial Mirror chưa rồi hãy lấy Celestial Weapon nhé!

Cách lấy Masamune:

Hãy đến Sunken Cave, nếu bạn ko biết Sunken Cave ở đâu thì bạn cần một cái walkthrough thực sự chứ ko phải bản hướng dẫn này (^_^)! Coi như bạn đã biết nó ở đâu thì hãy đi về phía đối diện cửa hang (ko vào hang), ở đó bạn sẽ gặp thủ môn Yumai (nếu bạn là fan của Blizt ball ^_^), kệ anh ta, hãy đi sâu vào hẻm núi đó đến một chỗ lõm nhỏ vào vách núi là thanh Rusty Sword, lấy nó. Giờ thì đến Mushroom Rockroad, ko đừng dùng tau bay, ko thì nó sẽ đưa bạn đến bên kia. Hãy đến Mi’ihen Highroad và dùng Chocobo đi lên phía trên để tới đó, cẩn thận khi bạn vừa bước vào Mushroom rock road nếu bạn đang chơi phiên bản International vì 3 chị em Dark Magus đang đợi ở đ1o phục kích bạn, dù sao cũng cố chạy đến ngã rẽ thứ 2 bên trái, lên thang máy và cắm cây Rusty Sword vào chỗ bức tượng Mi’ihen để “tráo” lấy cây Masamune (^_^).

Cách lấy Mars/Saturn Crest và Mars/Saturn Sigil:
Dường như do trục trặc trong việc dịch thuật nên bản International đã làm lộn tùng phèo tên đúng của các crest, sigil của các nhân vật, ngoại trừ Tidus và Yuna. Tên phía trước là tên dùng bên bản EU, cũng là tên chính xác của chúng!

1. Mars/Saturn Crest: lấy khá nhanh nếu bạn đủ can đảm và tài luồn lách đi ngược con đường mới vào lấy Masamune để ra lại chỗ bạn xuống chocobo. Ko thì lên tàu bay rồi đáp xuống Mi’ihen Highroad lần nữa, cưỡi chocobo đến cuối đường Mi’ihen tức là giáp với Mushroom Rockroad, ở đây có một con đường rẽ xuống phía dưới với tên Mi’ihen-Old Road, cưỡi chocobo theo đường này đến tận cùng và sẽ có cái thùng chứa Saturn Crest!

2. Mars/Saturn Sigil: ko khó để lấy lắm nếu so với né sét hay đua gà ^_^! Bạn chỉ việc mở khóa tổng cộng 10 con quái vật của bảng Area Conquest hay bảng Species Conquest, ko tính bảng Original Creation Conquest! Xem “phần 08” về Monster Arena để thêm chi tiết về các quái vật đó. Sau khi xong công việc tốn thời gian đó thì bạn sẽ được ông chủ thưởng cho Mars/Saturn Sigil.

Quay về chỗ rửa gương để nâng cấp Masamune lên đủ 4 auto-ability: [Break Damage Limit] + [Triple Overdrive] + [First Strike] + [Counterattack].

Cây Masamune thật sự sẽ mở khóa 9999 cho Yojimbo (vì là samurai như Auron ^_^) và hơi quái dị một chút, khi Auron đang trong tình trạng nguy kịch (HP vàng) thì Masamune sẽ tăng sức mạnh và đó là cách duy nhất để các cú tấn công thường của Auron đạt 99999 khi đánh nhau với các đối thủ mạnh >_<!

Liên quan đến Masamune: là một thanh kiếm khá quen thuộc với fan của loạt game Chrono Trigger/Cross, với sức mạnh điên cuồng, khi Frog dùng nó xẻ đôi vách núi trong CT và khi Dario dùng nó để tẩn nhóm của bạn ra trò trong CC ^_^! Nếu bạn muốn biết rõ hơn nguồn gốc của Masamune thì đây:
Masamune là tên một nghệ nhân đúc kiếm dưới thời nhà Mạc ở Nhật, là sư phụ của một nghệ nhân khác tên Murasame (ko tìm ra họ của 2 người, sorry ^_^ ). Tương truyền thanh kiếm do Murasame rèn có thể thả trôi trên mặt nước và chém đứt đôi một chiếc lá thả nằm trên mặt nước. Còn thanh kiếm do Masamune rèn thả trên mặt nước thì ko chém đứt chiếc lá. Vì vậy thanh kiếm của Masamune được coi là thanh kiếm chính nghĩa ko bao giờ vấy máu người vô tội, còn kiếm của Murasame là một thanh kiếm sắc bén khát máu.


Phần 18: Thần khí (Celestial Weapon) của Rikku- Godhand!


Như mọi khi, kiểm tra xem bạn đã có Celestial Mirror chưa rồi hãy lấy Celestial Weapon nhé!

Cách lấy Godhand:

Hãy nhập mật mã GODHAND vào con tàu để mở khóa khu vực mới trong danh sách vị trí đáp, nơi đó sẽ có 1 thùng item chứa Godhand. Đơn giản nhỉ? Nhưng hãy đọc “phần 05” để biết người ta đã tìm ra chúng vất vả thế nào ^_^!

Cách lấy Mercury/Venus Crest và Mercury/Venus Sigil:
Dường như do trục trặc trong việc dịch thuật nên bản International đã làm lộn tùng phèo tên đúng của các crest, sigil của các nhân vật, ngoại trừ Tidus và Yuna. Tên phía trước là tên dùng bên bản EU, cũng là tên chính xác của chúng!

1. Mercury/Venus Crest: nằm ngay trong một hố cát lún ở sa mạc Sanubia ở màn hình tận cùng phía trên. Đáp tàu bay xuống Bikanel rồi hãy đi lên, đi lên,…qua màn hình, màn hình,… cuối cùng bạn đến 1 màn hình có một khu vực bão cát liên miên (đó là làng Cactuar-xương rồng), gần cửa vào màn hình có một bia đá Cactuar (xương rồng), trên có 10 ô trống, đó là bia Cactuar, hãy ghi nhớ những điều này cho phần sau. Giờ thì bạn hãy rẽ trái, đi sát góc màn hình để tìm thấy một thùng item nằm trong một hố cát xoáy “bị giấu” trong đống đá ngổn ngang. Đó là Mercury/Venus Crest.

2. Mercury/Venus Sigil: ko khó lấy nhưng khá là rắc rối nên tôi sẽ cố hết sức để viết rõ ràng, nếu vẫn chưa hiểu thì hãy vừa đọc vừa “mò”, bạn sẽ hiểu ngay thôi ^_^!
Cái Sigil bạn cần nằm ngay trong ngôi làng Cactuar nhưng bạn ko thể vào được vì bão cát ở đó, trừ khi bạn có “ấn tín” của 10 con cactuar giữ cổng làng. Bạn sẽ phải đi tìm chúng theo câu gợi ý trên bia đá (ko cần tìm vì tôi sẽ chỉ cho bạn ^_^), rồi bắt chúng, dù đánh thắng hay thua chúng thì bạn vẫn có viên sphere bạn cần để gắn vào bia đá cactuar. Mỗi lần lấy được 1 viên sphere, bạn phải quay về bia đá để gắn vào và nhận chỉ dẫn mới-cho dù biết vị trí mà chưa có câu chỉ dẫn thì cũng ko gặp được chúng!
=================
Đây là một số tên tắt tôi sẽ dùng để hướng dẫn bạn cho hướng dẫn dễ hiểu hơn:
Khu vực 1: màn hình có hồ nước, tên trong menu (bấm [tam giác] để mở xem) là Sanubia Desert—Oasis
Khu vực 2: màn hình có con đường uốn khúc, tên trong menu là Sanubia Desert-East
Khu vực 3: màn hình có sa mạc khổng lồ, với đống phế tích Al Bhed bên trái, tên trong menu là Sanubia Desert-Central
Khu vực 4: màn hình cuối cùng có bia đá và làng Cactuar, tên trong menu là Sanubia Desert-West
=================
Giờ bắt đầu với bọn Cactuar, hãy kiểm tra bia đá để nhận câu chỉ dẫn đầu tiên. Nên nhớ là khi bạn tìm thấy bọn cactuar thì sẽ có một trò chơi nhỏ diễn ra để tóm chúng, mục tiêu của bạn chỉ là tóm được chúng, còn trận chiến với chúng thì kết quả ko quan trọng, nhưng đây cũng là cơ hội tốt để bắt đủ 10 con cactuar khá là khó gặp cho Monster Arena. [No Encounter] và tàu bay là bắt buộc:
#################################
a)TOMAY:
Chỉ dẫn: Tomay’s gone. Gone to fetch the water.
Địa điểm: ngay bên phải hồ nước ở khu vực 1, ko thể nhầm được.
Mẹo: khá dễ, cứ chạy thẳng đến, hãy quan sát cử động của con cactuar, nếu nó quay đầu nhìn lại thì dừng lại, hoặc là nếu ko nhìn cử động của nó thì hãy canh chừng chữ Al Bhed “Needletime” hiện lên, những lúc đó là lúc con cactuar đang cảnh giác, nếu bạn cử động thì coi như hỏng. Thời gian ko phải đáng lo.

b)ROVIVEA:
Chỉ dẫn: Rovivea’s gone walkabout.
Địa điểm: bạn sẽ tìm thấy nó ở khu vực 2 nếu đi vào khu vực 2 từ khu vực 3, bạn sẽ dễ dàng thấy nó.
Mẹo: tương tự như TOMAY.

c)CHAVA:
Chỉ dẫn: Little Chava likes big number.
Địa điểm: ở khu vực 4 có một con đường hẹp mà 2 bên có 2 cái bảng chỉ đường quay vào nhau, hãy chạy đến bên bảng chỉ đường bên trái và đọc nó. Bảng đó sẽ nói về một cuộc đại hạ giá 20% của cửa hàng Al Bhed (tuyệt ^_^), sau khi đọc xong cái bảng đó thì CHAVA sẽ hiện ra.
Mẹo: tương tự như TOMAY.

d)ALEK/ALOJA:
Chỉ dẫn: Alek and Aloja play tag in the ruins of men.
Địa điểm: chúng đang chạy chơi ở khu phế tích tận cùng bên trái khu vực 3. Hãy tìm chúng ở chỗ thấp nhất của khu vực phế tích, bạn sẽ thấy chúng.
Mẹo: chiến thuật tương tự như TOMAY với khác biệt duy nhất là thời gian khá hạn chế cho bạn, cố lên.

e)VACHELLA:
Chỉ dẫn: Vachella seeks the shining blue.
Địa điểm: điểm xanh phát sáng chính là điểm save đó ^_^, bạn sẽ tìm thấy nó ở điểm save khu vực 2, dưới cái lều. Hãy mở menu save lên (và save nếu muốn) rồi thoát ra, Vachella sẽ xuất hiện.
Mẹo: ko khó nhưng đòi hỏi phản xạ của bạn. Vachella sẽ quay lại nhìn, rồi quay nhìn, rồi quay nhìn,… tổng cộng 8 lần trong suốt thời gian chơi, nên hãy tận dụng tốt những khoảng thời gian nó ngưng việc đó.

f)ROBEYA:
Chỉ dẫn: O, Robeya’s stuck inside.
Địa điểm: nó đang bị kẹt trong một thùng item tận cùng phía dưới bên trái của sa mạc khổng lồ ở khu vực 3. Hãy đi dọc màn hình phía dưới sang trái hoặc dọc hàng rào bên trái xuống dưới tùy bạn, bạn sẽ thấy một thùng item chưa mở, mở ra và Robeya xuất hiện.
Mẹo: dễ, nhưng thử thách xuất hiện là bạn phải làm sao lấy được 3 thùng item trong quá trình chơi trong đó: thùng phía sau bên phải là 2x Shadow gem, thùng phía trước bên trái là 2x Shinning Gem còn thùng phía trước bên phải là 1x Blessed Gem. Tùy bạn, tôi thì ko thích mấy món ăn vặt ^_^!

g)ISRRA:
Chỉ dẫn: A fiery description--The lord of the hole is gone, Isrra thinks.
Địa điểm: một lỗi nhỏ là nếu bạn ko rời khỏi khu vực 4 sau khi gắn sphere của Robeya thì Isrra sẽ ko xuất hiện! Chỉ việc ra khỏi màn hình này rồi quay trở lại, 1 trong 3 hố cát xoáy của khu vực này sẽ có Isrra chạy lung tung ở đó.
Mẹo: khá khó Isrra sẽ nhìn bạn hàng giây (trong tổng thời gian chỉ mười mấy giây ^_^), nhưng có một mẹo để túm nó: ngay khi vừa có cơ hội để đi, thì hãy chạy xuống hố cát gần đó, sau khi vào trong đó thì hãy chạy thẳng về phía Isrra, một lát sau là bạn đã đứng bên cạnh nó rồi!!!

h)ELIO:
Chỉ dẫn: Much-curious Elio has left on a journey.
Địa điểm: bạn phải quay lại khu vực 1, tiến đến gần cái hồ từ trên xuống (ko phải là màn hình, chỉ là với cái hồ thôi, điều này tức là nếu bạn đáp tàu bay xuống Bikanel thì bạn sẽ phải chạy lên trên gần cửa vào khu vực 2 rồi quay lại hồ, okie?). Bạn sẽ thấy một hoạt cảnh Elio nhảy lên nóc tàu bay của bạn !!! Hãy leo lên đó và túm nó
*** hãy cẩn thận nếu bạn đã đánh Sin lần một nhưng chưa mở đường vào bụng nó thì khi bạn lên nóc tàu bạn sẽ phải đánh nó (xem walkthrough cho điều này), bạn ko còn chọn lựa nào ngoài việc làm xong việc này rồi mới được bắt Elio***
Mẹo: khó, bạn vừa phải xem chừng Elio mà vừa phai xem chừng con tàu bay nêu muốn thành công, 11 giây là một thời gian rất ngắn cho công việc bộn bề này. Hãy save trước khi làm, và bạn ko cần đánh nhau với Elio, chỉ chạm vào nó là có sphere rồi.

i)FLAILE:
Chỉ dẫn: Flaile is always behind.
Địa điểm: sau khi gắn viên sphere của Elio vào thì hắn sẽ nhảy ra và bắt đầu trò chơi, thật đỡ mệt ^_^!
Mẹo: cũng như với Elio, save trước khi chơi trò này. Nó khá khó vì lần này ko thể sử dụng chữ Needletime nữa, nó vô nghĩa. Bạn chỉ có thể nhìn cử động của Flaile để canh giờ chạy đến, thời gian khá ngắn nên đừng chần chừ.
##################################

Sau khi gắn viên sphere đỏ đặc biệt của Flaile vào bia đá thì bão cát sẽ biến mất và bạn sẽ vào được làng Cactuar. Có 2 thùng item ở phía dưới làng, ccái bên trái là Mercury/Venus Sigil yêu dấu ^_^, còn bên phải là một item tuỳ theo số cactuar bạn đã đánh bại, với phần thưởng cao nhất là Friend Sphere, chẳng có gì đáng chú ý cả nên thắng thua bọn cactuar là ko quan trọng.

Nâng cấp sức mạnh của Godhand lên được 4 auto-ability: [Break Damage Limit] + [Triple Overdrive] + [Double AP] + [Gillionaire].

Godhand sẽ tăng sức mạnh lên mỗi khi HP của Rikku đầy hoặc gần đầy và cũng là Celestial Weapon có chiêu “độc quyền”: [Gillionaire].

Liên quan đến Godhand: nó là một món vũ khí của cô nàng Tifa ở FFVII vậy thôi, có lẽ vì vũ khí của Rikku là cơ khí nên nó ko liên quan gì được với các truyền thuyết ? Cái tên “bàn tay của Chúa” làm tôi nhớ đến Maradona, bạn có nghĩ vậy ko ^_^!


Phần 19: Overdrive ẩn của Valefor!


Valefor là aeon duy nhất có chiêu overdrive thứ 2, nếu có ai bảo là có aeon nào khác có được overdrive thứ 2 thì trừ khi bạn tận mắt thấy, ko thì đừng tin!

Để lấy được chiêu overdrive thứ 2, Energy Blast, thì bạn phải quay về làng Besaid sau khi có tàu bay (tôi đã nghe một số người bảo có thể lấy trước đó, nhưng vì bản thân tôi chưa bao giờ làm được cũng như thấy được nên tôi cho đó là lời đồn, và bạn có thể tự thử nếu muốn). Nếu chơi phiên bản EU thì mọi việc thật đơn giản, chỉ cần chạy vào làng, nói chuyện với người đàn bà có con chó bên cạnh điện thờ thế là xong. Nhưng nếu bạn đang chơi bản International thì Dark Valefor đang chờ bạn ở cổng và ko có cách nào vào làng ngoại trừ hạ nó.

Tại sao lại là Valefor? Cũng ko có gì khó hiểu lắm, chỉ có Valefor, Bahamut, Yojimbo và Magus Sisters là ko-thuộc-tính (Anima là bóng tối), trong đó thì Yojimbo và Magus Sisters là aeon ẩn, còn Bahamut là “đàn ông” (^_^), duy có Valefor thì vừa thân thiết với Yuna (xem đoạn nó cứu Yuna ở Bevelle), vừa là “phụ nữ” (^_^), hơn nữa ko có lý do gì cho Bahamut vốn đã khá mạnh thêm một Overdrive nữa chứ nhỉ?

Phần 20: Quay về Bevelle Temple (điện thờ)? Không bao giờ!


Có khá nhiều thông tin về việc trở lại điện thờ Bevelle nhưng thực tế là KO BAO GIỜ.
Một số bạn cho rằng mình đã bỏ lỡ Destruction Sphere ở điện thờ Bevelle thì xin nói chắc rằng: bạn ko thể bỏ lỡ Destruction Sphere ở đó được vì bạn buộc phải dùng Destruction Sphere để vượt qua được điện thờ Bevelle và như vậy là đủ rồi!!!

Nếu khi bạn đến điện thờ Baaj mà có một biểu tượng chưa mở khóa thì chắc chắn đó ko phải là điện thờ Bevelle (của Bahamut), tôi có thể cam đoan điều đó vì các lập trình viên đã quyết định việc bạn ko trở về Bevelle được nên họ làm cho bạn ko bỏ lỡ bất cứ thứ gì quan trọng của trò chơi ở đó!!!

Một lần nữa: Bạn ko thể quay về điện thờ Bevelle, okie?

Nelvil
12-02-2009, 09:33 PM
Phần 21: [Break MP Limit] trên một bộ giáp!


[Break Mp Limit] là auto-ability trên một cái giáp và như tên nó miêu tả, nó cho phép nhân vật mặc giáp đó có thể vượt qua giới hạn 999MP để đạt mức tối đa là 9999MP (mặc dù bạn ko cần nhiều thế đâu).

Để customize auto-ability này vào một cái giáp bất kỳ thì bạn cần 30x Three Star.
Các cách lấy Three Star:

1. Steal: từ Shinryu và Jormungand trong Monster Arena, mặc dù khả năng khá thấp, nếu trang bị giáp với auto-ability [Master Thief] thì bạn sẽ thường xuyên steal được Three Star từ chúng.

2. Đua chocobo ở Remien: nếu bạn có thể ở được 5 thùng item mà ko chạm một cây đèn nào rồi về đến đích trước tiên thì bạn sẽ có 60x Three Star, tuyệt vời! Nhưng điều đó đòi hỏi một kỹ thuật điêu luyện cùng may mắn của bạn nên tôi chúc bạn may mắn trước ^_^!

3. Mở khóa Earth Eater: tức là mở khóa 2 quái vật trong bảng Area Conquest thì bạn sẽ mở được Earth Eater của bảng Original Creation Conquest, ông chủ sẽ thưởng cho bạn 60x Three Star, tuyệt hơn đua gà nhiều ^_^!

4. Bride con Behemoth King: Bride tức là dùng tiền mua chuộc đối thủ để nó bỏ đi để lại một số item hiếm mà nó ko bao giờ cho cũng như bạn ko thể steal. Hãy bride con Behemoth King với 1.350.000 Gil, để nhận ~14x Three Star, save trước khi làm kẻo có trục trặc.

Ultima Buster trong bảng Original Conquest cũng thỉnh thoảng cho giáp với [Break MP Limit] nếu bạn hạ nổi nó!

Chỉ vậy thôi, thực tế thứ này vô dụng hơn [Break HP Limit] nhiều nên tôi chẳng để ý đến nó lắm!


Phần 22: Mẹo vặt lấy AP với Don Tonberry: 99 Sphere Levels trong 1 trận đấu 1 phút!


Ý tưởng to bự này do Ryan Charles khởi xướng đầu tiên và nó đã giúp hàng triệu tay chơi có thể max chỉ số dễ dàng, cám ơn Ryan rất nhiều!

Tôi sẽ hướng dẫn bạn theo thứ tự để có thể đạt 99 S.LV chỉ trong 1 trận chưa đầy một phút nhưng vẫn đòi hỏi bạn có một sức mạnh và kha khá chừng 100+ (ưu tiên Tidus và Wakka).

Bước 1: One-Eye

One-eye là trùm của chủng loại dơi một mắt, nằm trong bảng Species Conquest của Monster Arena. Để mở khóa nó, bạn cần bắt các loài sau mỗi loại 4 con: Floating Eye (Mi'ihen Highroad), Buer (Thunder Plains), Evil Eye (khu tuyết của Macalania), Ahriman (Mt. Gagazet), Floating Death (Omega Ruins).

One-Eye sẽ rất thường cho vũ khí, và vũ khí đó luôn có auto-ability [Triple AP] với 1 hoặc 2 ô trống, mục tiêu của bạn là tìm vũ khí có 2 ô trống để customize thêm 2 auto-ability nữa. Hạ One-eye ko quá khó nhưng ko dễ, vì vậy nên bạn hãy luyện trong Omega Ruins một thời gian trước khi làm điều này, hoặc nếu bạn muốn thì hãy summon Yojimbo để tặng cho One-Eye một chiêu Zanmato để tìm vũ khí [Triple AP] tạm thời, rồi equip nó đi luyện sẽ dễ hơn nhiều.

(Bạn có thể bỏ qua cả bước 2 và bước 3 nếu như bạn đủ sức đánh bại Ultima Buster (bắt tất cả các quái vật, mỗi loại 5 con) vì Ultima Buster thường cho vũ khí có cả 3 chiêu bạn cần: [Triple AP] + [Overdrive->AP] + [Triple Overdrive]. Nếu bạn đủ sức thì hãy thử đi, còn ko đủ sức nhưng đủ tiền thì hãy giao nó cho Yojimbo ^_^!)

Bước 2: Customize [Overdrive->AP]

Kế tới, bạn cần 10x Door to Tomorrow để customize [Overdrive->AP] vào 1 vũ khí AP mới lấy được. Món này thì có rất nhiều nguồn như steal con Ultima Weapon, bride bọn Mech Warrior, hoặc overkill Bomb King trong Monster Arena, bảng Species Conquest.
Nhưng cách tốt nhất là mở khóa 6 quái vật của bảng Area Conquest trong Monster Arena (tức là mở khóa con Catastrophe, bảng Original Creation Conquest). Khi đó ông chủ sẽ thưởng cho bạn 99x Door to Tomorrow, đủ customize cho vũ khí AP của cả 7 nhân vật. Giờ thì vũ khí AP của nhân vật bạn muốn luyện (ít nhất là Tidus, Wakka và Yuna) sẽ có: [Triple AP] + [Overdrive->AP] và một ô trống nữa.

Bước 3: Customize [Triple Overdrive]

Tôi cứ nghĩ One-Eye đã đủ phiền rồi, giờ thì cái này mới thực sự là vấn đề: bạn cần 30x Winning Formula để customize [Triple Overdrive] cho 1 vũ khí AP.
Bạn có thể bride con Sandworm của Bikanel với 900.000 Gil để nhận ~15x Winning Formula, nhớ save trước khi làm kẻo có trục trặc. (mặc dù với chỉ 200.000 Gil cho Yojimbo là tôi gần như chắc chắn chém được đầu Ultima Buster lấy 1 món vũ khí AP hoàn chỉnh ^_^).
Bạn cũng có thể cố overkill Ultima Buster để lấy 2x Winning Formula mỗi lần.
Cách tốt nhất chính là mở khóa Neglus bằng cách bắt tất cả quái vật, mỗi loại 1 con. Khi đó, ông chủ của Monster Arena sẽ thưởng cho bạn 99x Winning Formula, đủ cho 3 nhân vật chính ^_^!
Coi như bạn đã cố cách nào đó, giờ bạn đã có “vũ khí AP” hoàn chỉnh: [Triple AP] + [Overdrive->AP] + [Triple Overdrive].

Bước 4: Don Tonberry
Để mở khóa Don Tonberry bạn cần bắt tất cả các quái vật của Sunken Cave, mỗi loại một con. Trong đó Tonberry và Ghost khá khó gặp nhưng đừng bỏ cuộc.

Bước 5: “Thành tích chém giết”

Kế tiếp, bạn phải chắc rằng ít nhất một sát thủ trong nhóm mình đã giết trên 800 đối thủ! Ko nhiều đâu nếu bạn sử dụng thường xuyên một nhân vật từ đầu game, thêm vào quá trình luyện tập ở Omega Ruins thì ít nhất nhân vật đó cũng giết hơn 500 đối thủ rồi. Tại sao lại cần? Vì với mỗi mạng mà nhân vật đó giết thì khi nhân vật đó trúng chiêu Karma của Don Tonberry thì sẽ mất 100 HP (chiêu Karma của Master Tonberry là 10, của Tonberry là 1). Vd:
Tidus đã giết 635 đối thủ thì khi trúng chiêu Karma của Don Tonberry sẽ mất 63.500 HP!!!

Cái bạn cần là một chiêu Karma sát thương chừng 80.000-99.999 HP, nghĩa là thành tích giết 800-1000 mạng với max HP của nhân vật đó là <9999!

Để biết “thành tích” của mình là bao nhiêu thì hãy cho nhân vật đó “thử” trước trên Master Tonberry cho chắc ăn! Nhân vật đó sẽ là “người hi sinh” cho trận chiến 99 S.LV!

Để nâng “thành tích chém giết” của nhân vật lên cao thì hoặc là bạn quay về Omega Ruins để vừa luyện vừa tăng số kill, hoặc là ở lại Monster Arena, cứ nhè con quái vật đầu tiên trong danh sách (Besaid) mà nện ^_^!!!

Bước 6: Chuẩn bị cho trận chiến

Đặt Overdrive Mode của “người hi sinh” ở chế độ Stoic, 2 nhân vật còn lại ở chế độ Comrade. Cả 3 nhân vật cần luyện đều equip vũ khí AP. Một trong 2 nhân vật còn lại nên equip áo giáp có auto-ability [Auto-Phoenix], cùng với 99x Phoenix Down để đỡ mất thời gian hồi sinh cho “người hi sinh”.

Bước 7: Trận chiến 99 S.LV

Trận chiến chỉ trong chưa đến một phút, thật may cho bạn.
Vào trận chiến với Don Tonberry, “người hi sinh” xông vào tấn công Don Tonberry. 2 người kia chỉ việc defend (bằng phím [Tam Giác]). Sau chừng 5-6 cú Karma phản công của Don Tonberry thì dùng skill-> Flee để chạy khỏi trận chiến và nhìn xem AP chạy!!! Thật tuyệt!!!

Giải thích:

Comrade và Stoic sẽ tính như sau:
(Chấn thương nhận được)/(Hp tối đa)=(Phần Overdrive cộng vào ống Overdrive)

Và với một cú Karma hơn 80.000 dành cho một nhân vật HP chưa đến 9999 tức là rất nhiều Overdrive nhận được cho cả nhóm. Nhưng vì ability [Overdrive->AP] nên toàn bộ điểm Overdrive đó sẽ chuyển thành AP, cùng với [Triple Overdrive] (nhân 3 lần số Overdrive nhận được) và [Triple AP] (nhân 3 lần số AP nhận được) thì 99 S.LV là chuyện dĩ nhiên!!!

Một số biến đổi:

Trong trường hợp ko thể có [Triple Overdrive] hoặc do nguyên nhân gì khác thì bạn có thể biến đổi bằng cách dùng chiêu Mix : Eccentric và Hot Spur của Rikku để tăng hiệu quả lên khủng khiếp! Hoặc giảm HP của “người hi sinh” thật thấp bằng cách xóa một số ô HP trong bảng Sphere Grid.
Chú ý là [Double AP] sẽ ko có tác dụng gì khi dùng chung với [Triple AP] cũng như [Double Overdrive] ko có tác dụng gì khi dùng chung với [Triple Overdrive]. [SOS Overdrive] là cực kỳ tệ hại và đừng bao giờ dùng.


Phần 23: Magic Urn: phiền phức và vô dụng!


Một đối thủ khá quen thuộc với các fan của dòng FF, cho chúng một viên ore hay Elixir, chúng sẽ nhả lại một đống AP , Exp hay Gil. Ko còn như vậy với FFX!

Tôi phải nhấn mạnh điều này: bạn chỉ có thể giết Magic Urn bằng Zanmato của Yojimbo và bạn KO NHẬN ĐƯỢC BẤT KỲ THỨ GÌ KHI GIẾT NÓ. thậm chí chỉ 1 AP hay 1 Gil.

Khi đối đầu với Magic Urn, mà bạn chỉ có thể tìm thấy trong Sunken Cave, bạn có thể chọn tấn công bất kỳ “con mắt” nào của nó và nếu bạn đánh trúng con mắt thật, bạn sẽ được thưởng một item. Cơ hội bạn đánh trúng con mắt sẽ nhỏ dần sau mỗi lần trúng và đây là các item bạn sẽ nhận được nếu đánh trúng tất cả:

Phoenix Down, Lunar Curtain, Ether, Elixir, Silver Hourglass

Ko có món nào thật sự đáng giá cả! Nếu bạn chọn sai, mà rất thường như vậy, thì Magic Urn sẽ nổ tung, lấy một lượng HP kha khá. Cú nổ này là thuộc loại tấn công magic nên nếu Magic Defense của bạn cao thì ko có gì đáng lo cả.

Trên quan điểm riêng, tôi khuyên bạn flee mỗi khi gặp nó, đỡ mất thời gian (và HP nếu bạn yếu ^_^).


Phần 24: New game +!!! Lỗi tuyệt vời cho các Gamer!!!


Một lỗi lập trình của FFX giúp chúng ta có thể quay trở lại một đoạn trong game với các sự kiện được reset lại nhưng vẫn giữ được tất cả những thứ bạn đã đạt được, bạn hiểu chứ CHỈ CÓ SỰ KIỆN!

Nếu bạn cảm thấy thú vị với điều này thì hãy đọc tiếp, ko thì có thể bỏ qua. Chú ý là về vấn đề này thì vẫn còn nhiều phương pháp khai thác khác nhau, nhưng tôi chỉ nêu ra phương pháp của mình để mang tính chính xác, còn các thông tin khác chỉ nêu ra cho biết và mong ai đó kiểm chứng lại giúp tôi ^_^!

Lỗi này hiện nay chỉ phát hiện ra trên bản FF International tiếng Nhật và tiếng Indonesia, tôi ko có bản tiếng International tiếng Indo nên ko biết chắc có được ko ^_^! Và xin vui lòng tạo một bản save riêng để nhỡ có gì trục trặc cho đến khi bạn có lại tàu bay nhé!

Để có thể khai thác lỗi này thì bạn phải đến sa mạc Sanubia ở đảo Bikanel. Nếu bạn còn nhớ con đường đến Home of Al Bhed thì hãy đi theo con đường đó. Nếu bạn ko nhớ thì khi đáp xuống Bikanel, hãy đi thẳng lên phía trên, qua màn hình 3 lần thì bạn sẽ đến khu vực bão cát vô tận nơi lấy Mercury/Venus Sigil của Rikku, cũng là nơi chạm trán Dark Ifrit (đọc thêm phần 18 và phần về Dark Aeon để thêm chi tiết). Bạn cứ tiếp tục đi thẳng đến cửa ra ở phía trên nơi có một hố cát với 2 người đàn ông Al Bhed ngồi nói chuyện và người đàn bà Al Bhed đứng gần đó (nếu bạn đã diệt Dark Ifrit thì người đàn bà ko có ở đó). Nói chuyện với người đàn bà, chon “Yes” giúp bà ta tìm đứa con rồi qua màn hình để đán Dark Ifrit.

Một số nguồn tin nói rằng ko cần thiết phải hạ Dark Ifrit, nhưng trong trường hợp của tôi thì tôi đã phải hạ nó mới làm được, nên xin nêu ra:

Phương pháp hạ Dark Ifrit:

Xin đọc thêm chi tiết về Dark Ifrit trong phần về Dark Aeon, ở đây chỉ nêu tóm tắt phương pháp.

1. Bình thường: yếu điểm của Dark Ifrit mà bạn có thể khai thác là tốc độ của nó. Với một nhóm thuộc hàng khá (STR 150+, Tidus, trang bị Celestial Weapon) thì bạn chỉ việc Hastega nhóm mình lên, dùng các Overdrive và quick hit để giải quyết Dark Ifrit. Ko thực sự khó vì Dark Ifrit chỉ có thể kill một nhân vật của bạn trong một lượt và với tốc độ vượt trội trang bị thêm [Auto-phoenix] trong một cái giáp, bạn sẽ hạ nó nhanh chóng cho dù có K.O vài lần. Nếu ống overdrive của Dark Ifrit đầy thì hãy summon một aeon nào đó ra “thế mạng” cho nhóm bạn ^_^, mọi thứ sẽ ốn, vấn đề chỉ là thời gian!

2. Yojimbo: chậc , Zanmato ^_^! Grandsummon Yojimbo rồi tặng cho hắn chừng 300.000-500.000 Gil thì Dark Ifrit sẽ bay đầu ngay, save trước khi làm trò này, okie? (^_^)

Sau khi hạ Dark Ifrit xong thì theo một số nguồn tin, bạn có thể tiến hành phương pháp New Game + mà ko cần rời khỏi Bikanel. Trong trường hợp của tôi thì tôi đã ra khỏi Bikanel sau khi hạ Dark Ifrit và quay trở lại mới thành công, có lẽ vì lần đầu tôi làm ko chính xác hoặc giả là bắt buộc phải rời khỏi Bikanel, tôi ko rõ!

New Game +:

Giờ thì hãy đến nói chuyện với người đàn ông Al Bhed ngồi bên trái, trong khi nói chuyện hãy nhấp nút O (với bản International thì O là nút chính) liên tục cùng với nút chạy lên, nếu đúng thì bạn sẽ thấy câu nói bị lập lại và người đàn ông thì “cà giựt” (chắc thấy mình hạ được Dark Ifrit nên run sợ ^_^), trong khi đó bạn cứ tiếp tục nhấp O và nút lên “như điên”, Tidus sẽ tiến dần để vượt qua người đàn ông và trở vào trong “Home of Al Bhed” nơi mà lẽ ra bạn ko được bao giờ trở lại nên khi bạn vào đó thì mọi thứ giống như lần đầu bạn vào đó!

-Nếu bạn làm như trên nhưng ko qua được thì hãy cố đổi vị trí đứng nói chuyện với người đàn ông đó, trong trường hợp của tôi thì tôi đứng ngay chỗ đầu gối phải của người đàn ông đó, chỗ gần nhất mà bạn có thể đứng nói chuyện với ông ta.

-Dường như có thể dùng cần Analog trái để di chuyển nhưng tôi sử dụng phím mũi tên đã quen nên ko để ý đến điều đó, có lẽ như vậy thì dễ hơn?

-Có một phương pháp là hãy nhấp O như điên trước khi lại gần người đàn ông đó, trong khi đang nhấp O thì tiến gần đến người đàn ông đó và vẫn tiếp tục nhấp O.

Đó hầu như là mọi cách tôi đã thử và có thể nghĩ ra, nếu có ai có cách nào dễ hiểu và dễ thực hiện hơn thì xin vui lòng giúp tôi, cám ơn ^_^!

Làm được gì trong “New game +”:

Như đã nói ở trên, chỉ có những sự kiện là được kích hoạt lại nên dẫn đến những con boss nào mà trước khi đánh nhau có sự kiện diễn ra (như tên nhiều chuyện Seymour ^_^) thì bạn sẽ phải đánh lại, tất nhiên là để trả thù cho khi trước rùi ^_^!

Những thứ nào bạn đã làm rồi thì ko thể làm lại, những thùng item bạn đã lấy rồi thì ko thể lấy lại được nữa (chúng đều “há miệng” rồi ^_^). Ko rõ bọn Dark Aeon hay Monster Arena có giữ lại kết quả ko (tôi vẫn chưa đến Calm Land), nhưng tôi e là chúng sẽ được giữ lại, nếu vậy thì tiếc quá, mất cơ hội lấy 99x Dark Matter 2 lần ^_^!

Lỗi New Game +:

Một số lỗi đã được phát hiện ra trong quá trình nghiên cứu của các gamer trên Gamefaqs và do chính tôi phát hiện ra, xin nêu ra để các bạn cẩn thận khi thực hiện trò này:

1. treo máy: do đội hình của tôi khi đánh Dark Ifrit có Yuna và quên đổi đội hình nên khi chạm trán con boss Evrae trên nóc tàu bay, Yuna vẫn nằm trong đội hình xuất phát của tôi, tôi dùng lệnh summon và…treo máy, ko thể làm gì được cả!!

2. Ko có guardian: khi điều khiển Yuna trong Via Purifico thì ko hề có guardian nào xuất hiện, ko có Lulu, Auron hay Kihmari!!

3. Kẹt hoàn toàn: do lần đầu khi điều khiển Yuna cũng trong đoạn này, tôi đã cố quay lại và cánh cửa đóng sập xuống ngăn tôi làm điều đó nên khi đi “new game +” cánh cửa vẫn ở đó chắn đường, tôi ko thể làm gì được cả!!

4. ko có Boss: ko hề có con boss Evrae Altana ở dưới hầm nước, chỉ việc bơi đến hết đường hầm!!

Có lẽ vẫn còn có lỗi khác nhưng có vẻ như mọi thứ sẽ ổn thỏa cho đến tận khi bạn có tàu bay vì đã có người làm được rồi. Lỗi mới sẽ đượ cập nhật lên khi tôi đi tiếp và nếu có ai phát hiện ra lỗi gì khác với những thứ đã nêu thì xin nói cho tôi biết để cập nhật…

Phần 25: Các Overdrive Mode và những điều cần biết!


Có 17 loại Overdrive Mode, mỗi chế độ thì có độ tăng Overdrive khác nhau. Các nhân vật đều cần cùng một điều kiện để học một loại Overdrive Mode nhưng với tốc độ khác nhau, xem bảng để biết chi tiết.

Cám ơn Donni Wells và !ACA! vì công trình nghiên cứu của các bạn, tôi chỉ việc dịch lại mà thôi ^_^!

Chú thích:
=================
TÊN MODE
** Điều kiện để tăng Overdrive
--Cách học
** Độ lớn Overdrive tăng thêm
=================

STOIC
** Bị đối thủ đả thương (đối thủ chứ ko phải đồng đội nhé ^_^)
--Tự động có sẵn cho mọi nhân vật
** (Chấn thương nhận được) x 30/ HP tối đa
---------------------------------------
WARRIOR
** Đả thương đối thủ bằng mọi hình thức ngoại trừ Item hay Overdrive
--Tidus: 150 lần (đả thương đối thủ)
--Yuna: 200 lần
--Wakka: 160 lần
--Lulu: 300 lần
--Kihmari: 120 lần
--Auron: 100 lần
--Rikku: 140 lần
** (Chấn thương gây ra)x10/(chấn thương định mức) (con số này tối đa là 16)
---------------------------------------
HEALER
** Hồi phục HP cho đồng đội (chú ý là “đồng đội”, tức là nếu “Pray”, “Albhed potion”, “Megapotion”,… chỉ tính 2 lần vì ko tính bản thân)
--Tidus: 80 lượt (tức là nếu “Pray”, “Albhed potion”, … chỉ tính 1 lượt)
--Yuna: 60 lượt
--Wakka: 110 lượt
--Lulu: 170 lượt
--Kihmari: 100 lượt
--Auron: 200 lượt
--Rikku: 170 lượt
** (lượng HP hồi phục)x16/(HP tối đa của đồng đồng đội được hồi phục)
---------------------------------------
COMRADE
** Đồng đội bị đả thương (tức là nếu bị tấn công tất cả thì chỉ tính 2, ko tính bản thân)
--Tidus: 300 lượt (có đồng đội bị đả thương)
--Yuna: 240 lượt
--Wakka: 100 lượt
--Lulu: 100 lượt
--Kihmari: 100 lượt
--Auron: 220 lượt
--Rikku: 100 lượt
** (chấn thương đồng minh nhận được)x20/(HP tối đa của đồng minh bị đả thương)
---------------------------------------
SLAYER
** Tiêu diệt một đối thủ (mọi phương tiện)
--Tidus: 100 đối thủ
--Yuna: 110 đối thủ
--Wakka: 90 đối thủ
--Lulu: 130 đối thủ
--Kihmari: 120 đối thủ
--Auron: 80 đối thủ
--Rikku: 200 đối thủ
** 20% ống Overdrive (!!!)
---------------------------------------
VICTOR
** Có mặt trong nhóm chính khi thắng trận chiến
--Tidus: 120 trận thắng (có mặt trong nhóm thắng)
--Yuna: 150 trận thắng
--Wakka: 160 trận thắng
--Lulu: 200 trận thắng
--Kihmari: 120 trận thắng
--Auron: 200 trận thắng
--Rikku: 140 trận thắng
** 20% ống Overdrive (!!!)
---------------------------------------
TATICIAN
** Gây trạng thái bất lợi lên đối thủ (như Blind, Sleep, Silence,…)
--Tidus: 75 lần (thành công)
--Yuna: 100 lần
--Wakka: 80 lần
--Lulu: 75 lần
--Kihmari: 60 lần
--Auron: 110 lần
--Rikku: 90 lần
** 16% ống Overdrive (!!!)
---------------------------------------
HERO
** Tiêu diệt đối thủ có HP gấp 20 lần chấn thương trung bình có thể gây ra hay có ít nhất 10000 HP
--Tidus: 50 đối thủ (có đặc điểm như trên)
--Yuna: 50 đối thủ
--Wakka: 50 đối thủ
--Lulu: 70 đối thủ
--Kihmari: 45 đối thủ
--Auron: 40 đối thủ
--Rikku: 50 đối thủ
** 20% ống Overdrive (!!!)
---------------------------------------
ALLY
** Đến lượt của nhân vật
--Tidus: 600 lượt
--Yuna: 500 lượt
--Wakka: 350 lượt
--Lulu: 480 lượt
--Kihmari: 300 lượt
--Auron: 450 lượt
--Rikku: 320 lượt
** 4% ống Overdrive
---------------------------------------
DAREDEVIL
** Đến lượt nhân vật trong tình trạng nguy hiểm (HP vàng)
--Tidus: 170 lượt (trong tình trạng nguy hiểm)
--Yuna: 90 lượt
--Wakka: 140 lượt
--Lulu: 150 lượt
--Kihmari: 200 lượt
--Auron: 260 lượt
--Rikku: 110 lượt
** 16% ống Overdrive (!!!)
---------------------------------------
LONER
** Đến lượt của nhân vật khi 2 đồng đội đang K.O hoặc đã chạy
--Tidus: 60 lượt (đơn độc trong trận chiến)
--Yuna: 180 lượt
--Wakka: 110 lượt
--Lulu: 45 lượt
--Kihmari: 90 lượt
--Auron: 35 lượt
--Rikku: 170 lượt
** 16% ống Overdrive (!!!)
---------------------------------------
COWARD
** Escape hoặc Flee khỏi trận chiến (tức là đánh bài chuồn ^_^)
--Tidus: 600 lần bỏ chạy (bằng lệnh Escape hay Flee)
--Yuna: 900 lần bỏ chạy
--Wakka: 400 lần bỏ chạy
--Lulu: 980 lần bỏ chạy
--Kihmari: 700 lần bỏ chạy
--Auron: 1000 lần bỏ chạy
--Rikku: 450 lần bỏ chạy
** 10% ống Overdrive
---------------------------------------
DANCER
** Né được một cú tấn công
--Tidus: 250 lần (né được một cú tấn công)
--Yuna: 200 lần
--Wakka: 200 lần
--Lulu: 300 lần
--Kihmari: 130 lần
--Auron: 200 lần
--Rikku: 200 lần
** 16% ống Overdrive
---------------------------------------
ROOK
** Giảm 1/2 hoặc chống lại tấn công thuộc tính và trạng thái bất thường
--Tidus: 120 lần (giảm hoặc chống tấn công thuộc tính và trạng thái bất thường)
--Yuna: 110 lần
--Wakka: 120 lần
--Lulu: 120 lần
--Kihmari: 120 lần
--Auron: 120 lần
--Rikku: 120 lần
** 10% ống Overdrive
---------------------------------------
SUFFERER
** Đến lượt của nhân vật khi đang bị trạng thái bất thường (như Blind, Silence, Sleep,…)
--Tidus: 100 lượt (trong khi đang bị trạng thái bất thường)
--Yuna: 80 lượt
--Wakka: 100 lượt
--Lulu: 110 lượt
--Kihmari: 130 lượt
--Auron: 120 lượt
--Rikku: 90 lượt
** 16% ống Overdrive
---------------------------------------
VICTIM
** Bị dính trạng thái bất thường do đối thủ gây ra (như Blind, Silence, Sleep,…)
--Tidus: 120 lần (dính trạng thái bất thường của đối thủ)
--Yuna: 100 lần
--Wakka: 110 lần
--Lulu: 130 lần
--Kihmari: 100 lần
--Auron: 160 lần
--Rikku: 125 lần
** 16% ống Overdrive
---------------------------------------
AVENGER
** Đồng đội bị đối thủ K.O (nhớ là “đối thủ” nhe ^_^)
--Tidus: 100 lần (1 đồng đội bị K.O khi đang trong nhóm chính)
--Yuna: 80 lần
--Wakka: 100 lần
--Lulu: 150 lần
--Kihmari: 100 lần
--Auron: 120 lần
--Rikku: 90 lần
** 30% ống Overdrive


Phần 26: Mọi tuyệt chiêu Overdrive của tất cả nhân vật cùng cách lấy chúng!


Dưới đây là cách lấy từng chiêu Overdrive của các nhân vật, ngoại trừ Auron, Rikku và Kimahri đã có phần riêng!
====================
=Tidus-Swordplay
====================
Khi thi triển chiêu Overdrive của Tidus thì bạn phải bấm O (hoặc X) vào lúc con chạy đến vạc giữa thanh ngang để tăng sức mạnh cho chiêu Overdrive, càng nhanh càng tốt. Để học chiêu Overdrive mới của Tidus thì bạn phải sử dụng các chiêu Overdrive trước của anh ta, cho dù thi triển có thành công hay ko! Cho nên đừng cố giữ nó cho trận đánh Boss, hãy dùng càng nhiều càng tốt!

1. Spiral Cut:

Tuyệt chiêu có sẵn của Tidus, đơn giản là anh chàng vung gương chém đối thủ cao hơn bình thường ^_^!

2. Slice and Dice:

Sử dụng “Spiral Cut” 10 lần và bạn sẽ học được “Slice and Dice”. Tidus sẽ tung 6 kiếm với 1/2 sức mạnh thường mỗi kiếm, với điều kiện bạn thi triển thành công, ko thì chỉ 3 kiếm!

3. Energy Rain:

Sử dụng thêm 20 lần nữa Overdrive của Tidus để học Energy Rain, nâng tổng số lần Overdrive đã sử dụng lên 30. Mạnh hơn “Slice and Dice” nếu dùng bình thường vì tấn công tất cả đối thủ nhưng ko mạnh nếu dùng cho một con Boss vì chỉ có 1 hit.

4. Blitz Ace:

Dùng Overdrive của Tidus thêm 50 lần nữa, nâng tổng số lần sử dụng Overdrive lên 80 lần. Overdrive cuối cùng và cũng là mạnh nhất dù chỉ cho một đối thủ, với tổng cộng 8 hit với 1/3 sức mạnh thường mỗi hit và một cú Sphere Shot (blitz ball ^_^) gấp đôi sức mạnh thường. Chiêu Overdrive mạnh thứ 2 trò chơi sau Attack Reel của Wakka. Vui-vui: tùy theo bạn dùng nhân vật nào nhiều hơn, Yuna, Lulu, hoặc Rikku sẽ là người ném bóng cho Tidus, mặc dù cuối cùng sau một thời gian thì Yuna cũng giành lại vi trí đó (^_^)!

======================
=Yuna-Grand Summon
======================

Cực kỳ hiệu quả và lợi hại, chính điều này làm cho Yuna ko thể thiếu trong nhóm mạnh của bạn! Khi Grand Summon thì Aeon được gọi ra sẽ có 1 ống Overdrive đầy, và nếu Aeon đó đã đầy sẵn ống Overdrive thì Aeon đó của bạn sẽ có thể dùng Overdrive 2 lần!!! Grand Summon Yojimbo cũng tăng khả năng tung chiêu Zanmato của Yojimbo trong bản International ko ít, xem phần về Yojimbo để biết chi tiết.

Chú ý là Overdrive do Grand Summon cộng vào sẽ ko được giữ lại sau khi dismiss Aeon đó hay hết trận chiến! Đừng quá lo vì ko khi nào mà bạn lại ko dùng Overdrive khi Grand Summon cơ chứ ^_^!

====================
=Wakka-Slots
====================

Giống như trò quay số của Tifa vấn đề là dễ dàng hơn rất nhiều! Bạn có rất nhềiu thời gian cho mỗi Reel vì vậy nên hãy từ từ mà bấm, ko cần vội. Để học được các Overdrive mới cho Wakka thì bạn phải thắng chúng từ các giải League hay Tournament trong Blitz Ball, Wakka ko cần phải là thành viên của đội bóng cũng vẫn học được.

1. Element Reel:

Chiêu có sẵn của Wakka, xếp đúng hàng ngang cùng một loại (Lửa, Nước, Băng, Sét) thì Wakka sẽ tung chiêu tấn công thuộc tính đó lên tất cả đối thủ, xếp đúng hàng ngang 2 cột cùng loại thì Wakka sẽ tung tấn công thuộc tính lên 1 đối thủ, xếp hàng ngang với 3 cột khác nhau thì Waka sẽ tấn công bình thường lên 1 đối thủ.

2. Attack Reel:

Overdrive tuyệt vời nhất trò chơi lại là chiêu Overdrive thứ 2 của trò chơi! Tại sao? Vì khi chỉ số ngang nhau cả (tối đa 255) thì ai tấn công nhiều hit hơn sẽ mạnh hơn, và chiêu này của Wakka có thể tấn công đến 12 hit! Chiêu này sẽ là giải thưởng của Tournament ngay khi bạn có thể chơi Blitz Ball, ko thì hãy đơi đến giải kế hoặc “RESET GAME DATA”, cẩn thận kẻo những gì bạn đạt được từ sau trận chung kết ở Luca tan theo mây khói đó!

Nguyên tắc là xếp hàng ngang các cột để quyết định số hit (nên nhớ chiêu này tấn công mọi đối thủ) với “SINGLE” 1 hit, “DOUBLE” 2 hit, “MISS” thì ko được hit nào, và đặc biệt nếu hàng ngang là cùng một loại thì bạn sẽ được gấp đôi tổng số hit. Khó hiểu nhỉ? Xem ví dụ dưới đây:

SINGLE + SINGLE + MISS: thì 2 hit vì 1 + 1 + 0 = 2

SINGLE + SINGLE + SINGLE: thì 6 hit vì 1 + 1 + 1 = 3 x2 = 6 (gấp đôi vì khớp)

DOUBLE + SINGLE + DOUBLE: thì 5 hit vì 2 + 1 + 2 = 5

DOUBLE + DOUBLE + DOUBLE: thì 12 hit 2 + 2 + 2 = 6 x2 = 12 (gấp đôi vì khớp)

Nên hãy luyện Wakka lên cùng với Tidus thành 2 cái máy nghiền của nhóm nhé ^_^!

3. Status Reel:

Sau khi bạn đã trải qua 250 trận chiến với quái vật thì Status Reel sẽ là giải thưởng của Blitz Ball League. Status Reel có khả năng gây trạng thái bất thường cho 1 hay nhiều đối thủ.
Nếu sau 250 trận chiến mà vẫn chưa thấy nó xuất hiện ở giải League thì hoặc là cố đợi giải sau hoặc “Reset Game Data” lại vài lần xem (tất cả những gì đạt được trong Blitz Ball sẽ mất hết, trở lại như khi bạn vừa rời khỏi Luca).

4. Auroch Reel:

Sau khi bạn đã trải qua 450 trận chiến với quái vật thì Auroch Reel sẽ là giải thưởng của Blitz Ball Tournament. Auroch Reel sẽ đả thương tất cả đối thủ với một sức mạnh khổng lồ nếu bạn xếp khớp các biểu tượng nháy sáng, để tăng số lượng các biểu tượng này lên thì bạn phải có càng nhiều thành viên gốc của Besaid Auroch trong đội tuyển Blitz Ball. Dù sao Attack Reel vẫn tốt hơn với 12 hit!!!

================
=Lulu-Fury
================

Quay cần Analog bên phải của Lulu để dùng Fury của cô ta nếu bạn chưa biết!

Overdrive của Lulu có rất nhiều lợi điểm so với phép thuật thường của cô ta: ko tốn MP, có thể dùng cả khi Lulu đang bị trạng thái Silence,Fury tức là nhồi nhiều phép một lúc và như đã nói, khi chỉ số (cũng như chiêu) mọi người như nhau thì số hit của Overdrive mới quyết định ai lợi hại hơn ai (nên Kihmari, Auron và Rikku là yếu nhất cũng do vậy).

Nhược điểm: mỗi phép trong chuỗi Fury chỉ đạt 1/3 sức mạnh của phép thuật thông thường nên bạn phải cố “quay” được ít nhất 7 phép thì Overdrive của bạn mới giá trị hơn kỹ năng Double Cast (niệm 2 phép), các phép thuật dùng trong Fury chính là các phép hiện có của Lulu, phép càng mạnh thì càng khó “quay”.

Độ khó để “quay” Fury của Lulu ko chỉ bị bị ảnh hưởng bởi cấp độ của phép thuật sử dụng và chỉ số Magic của Lulu, nên hãy cố nâng chỉ số Magic cô ta lên 255 để đạt hiệu quả cao nhất, còn lại phụ thuộc vào kỹ thuật của bạn!

==========================
=Kimahri-Ronson Rage
==========================

Quá phức tạp để nêu trong mục này, xin đọc phần riêng dành cho anh ta.

====================
=Auron-Bushido
====================

Quá phức tạp để nêu trong mục này, xin đọc phần riêng dành cho ông ta.

================
=Rikku-Mix
================

Rikku có thể kết hợp 2 item khác nhau để tạo ra Item mới có tác dụng đặc biệt, xem bản Mix của Rikku để biết chi tiết.


Phần 27: Bảng Mix của Rikku: khổng lồ và hữu dụng!


Khả năng Mix của Rikku khá tuyệt vì có thể tạo ra các item cực mạnh, nhưng một số item đòi hỏi những thứ hiếm hay đắt tiền (mua hoặc Bride) nên cẩn thận khi quyết định, nên nhớ FFX là một game RPG-đánh lượt!

Dưới đây là bản Mix được chắt lọc bớt những công thức rườm rà, chỉ có những công thức “rẻ nhất”, ngoại trừ một số thứ đặc biệt lợi hại thì sẽ có đầy đủ tất cả công thức dành cho bạn xoay xở! Sẽ hơi rối mắt một chút do công cụ hạn chế của Forum nhưng nếu bạn đang cần thì cố lên ^_^!

Chú ý: phần trong ngoặc là lựa chọn có thể thay thế cho nguyên liệu thứ 2!

=============
Abaddon Flame
=============
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính lửa
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (mạnh)

Fire Gem + Musk (Sleep Power; Chocobo Feather)

==========
Aqua Toxin
==========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính nước
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (mạnh)

Fish Scale + Sleep Powder (Chocobo Feather)
Dragon Scale + Sleep Powder

==========
Black Hole
==========
- Tất cả đối thủ
- Giảm HP còn 1/16

Tất cả các công thức đã tìm ra:

Shadow Gem + Amulet (Door To Tomorrow; Gambler's Spirit; Pendulum; Underdog's Secret; Wings To Disocvery; Winning Formula)

=========
Black Ice
=========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính băng
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (mạnh)

Arctic Wind + Sleep Powder (Chocobo Feather; Musk)

============
Blaster Mine
============
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (yếu)

Grenade + Antidote (Soft)
Power Sphere + Musk

=========
Brimstone
=========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính lửa
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (mạnh)

Bomb Fragment + Sleep Powder
Bomb Core + Sleep Powder (Musk)


============
Burning Soul
============
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính lửa
- Thay đổi trạng thái
- 9x Hit (yếu)

Fire Gem + Level 1 Key Sphere
Bomb Fragment + Pendulum (Underdog's Secret)

=============
Calamity Bomb
=============
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- Thay đổi trạng thái
- 1x Hit (trung bình)

Grenade + Pendulum
Level 1 Key Sphere + Musk (Dream Powder)

=============
Chaos Grenade
=============
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- Thay đổi trạng thái
- 1x Hit (mạnh)

Pendulum + Pendulum (Musk)
Petrify Grenade + Winning Formula

============
Cluster Bomb
============
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- 1x Hit (mạnh)

Arctic Wind + Shining Gem
Fish Scale + Blessed Gem
Frag Grenade + Pendulum

=========
Dark Rain
=========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính nước
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (mạnh)

Dragon Scale + Dream Powder
Water Gem + Chocobo Feather (Musk)


=========
Eccentric
=========
- Tất cả đồng đội
- Ống Overdrive tăng nhanh 2 lần bình thường
- cộng dồn hiệu quả vào với [SOS Overdrive], [Double Overdrive], hoặc [Triple Overdrive], (chỉ 1 trong 3) cho ống Overdrive đầy rất, rất nhanh hơn bình thường

Tất cả các công thức đã tìm ra:

Amulet + Amulet (Door To Tomorrow; Elixir; Gambler's Spirit; Mana Tablet; Mana Tonic; Mega Elixir; Stamina Tonic; Three Stars; Twin Stars; Underdog's Secret; Wings To Discovery)

Door To Tomorrow + Elixir (Mana Tablet; Mana Tonic; Mega Elixir; Pendulum; Stamina Tonic; Three Stars; Twin Stars)

Elixir + Dark Matter

Gambler's Spirit + Elixir (Mana Tablet; Mana Tonic; Pendulum; Stamina Tonic; Three Stars; Twin Stars)

Mega Elixir + Accuracy Sphere (Agility Sphere; Attribute Sphere; Black Magic Sphere; Clear Sphere; Dark Matter; Defense Sphere; Evasion Sphere; Friend Sphere; Gambler's Spirit; HP Sphere; Level 1 Key Sphere; Level 2 Key Sphere; Level 3 Key Sphere; Level 4 Key Sphere; Magic Defense Sphere; Magic Sphere; Mana Tablet; Mana Tonic; Master Sphere; MP Sphere; Pendulum; Return Sphere; Skill Sphere; Special Sphere; Stamina Tablet; Stamina Tonic; Strength Sphere; Teleport Sphere; Three Stars; Twin Stars; Underdog's Secret; Warp Sphere; White Magic Sphere; Wings To Discovery; Winning Formula)

Underdog's Secret + Elixir (Mana Tonic; Pendulum; Stamina Tonic; Three Stars; Twin Stars)

Wings To Discovery + Elixir (Mana Tablet; Mana Tonic; Pendulum; Stamina Tonic; Three Stars; Twin Stars)

Winning Formula + Elixir (Mana Tablet; Mana Tonic; Pendulum; Stamina Tonic; Twin Stars)

============
Electroshock
============
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính sét
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (mạnh)

Electro Marble + Sleep Powder (Chocobo Feather)
Lightning Marble + Musk

======
Elixir
======
- Một đồng đội
- Hồi phục hoàn toàn HP & MP

Power Sphere + Antidote (Soft; Eyedrop)

============
Final Elixir
============
- Tất cả đồng đội
- Ưu tiên hồi sinh đồng minh K.O
- Hồi phục 1 phần HP & MP
- Chữa trạng thái bất thường

Potion + Dark Matter
High Potion + Amulet
Eyedrop + Three Stars

==========
Fire Storm
==========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính lửa
- 6x Hit (yếu)

Fire Gem + Fire Gem (Antidote)
Al Bhed Potion + Bomb Core

===========
Flash Flood
===========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính nước
- 6x Hit (yếu)

Antidote + Water Gem
Al Bhed Potion + Fish Scale
Grenade + Grenade

============
Frag Grenade
============
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- 1x Hit (yếu)

Power Sphere + Power Sphere
Mana Sphere + Mana Sphere
Ability Sphere + Ability Sphere

=======
Freedom
=======
- Một đồng đội
- Dùng Skill/Magic ko tốn MP

Tất cả công thức đã tìm ra:

Ether + Farplane Wind (Mega Phoenix; Remedy)

=========
Freedom X
=========
- Tất cả đồng đội
- Dùng Skill/Magic ko tốn MP

Tất cả công thức đã tìm ra:

Twin Stars + Potion (Fire Gem)
Ether + Musk

=======
Grenade
=======
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- 1x Hit (yếu)

Bomb Fragment + Anarctic Wind
Fire Gem + Ice Gem
Lightning Gem + Water Gem

===============
Hazardous Shell
===============
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- Thay đổi trạng thái
- 1x Hit (yếu)

Grenade + Healing Water (Map)
Dream Powder + Musk

============
Heat Blaster
============
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính lửa
- 9x Hit (yếu)

Fire Gem + Map (Arctic Wind)
Antidote + Bomb Core

==========
Hero Drink
==========
- Một đồng đội
- Khả năng Critical Hit cao (gấp đôi sức mạnh cú đánh)

Tất cả công thức đã tìm ra:

Potion + Designer Wallet (Fortune Sphere; Luck Sphere)

=========
Hot Spurs
=========
- Một đồng đội
- Ống Overdrive tăng nhanh 2 lần bình thường
- cộng dồn hiệu quả vào với [SOS Overdrive], [Double Overdrive], hoặc [Triple Overdrive], (chỉ 1 trong 3) cho ống Overdrive đầy rất, rất nhanh hơn bình thường

Elixir + Pendulum
Three Stars + Fire Gem (Water Gem)

==========
Hyper Mana
==========
- Tất cả đồng đội
- Gấp đôi MP tối đa
- Focus

Potion + Mana Tablet (Mana Tonic)
Water Gem + Mana Tonic

==============
Hyper Mighty G
==============
- Tất cả đồng đội
- Protect, Shell, Haste, Regen, Auto-Life

Tất cả công thức đã tìm ra:

Chocobo Wing + Amulet (Door To Tomorrow; Gambler's Spirit; Pendulum; Underdog's Secret; Wings To Discovery; Winning Formula)

Healing Spring + Amulet (Door To Tomorrow; Gambler's Spirit; Pendulum; Underdog's Secret; Wings To Discovery; Winning Formula)

Light Curtain + Amulet (Door To Tomorrow; Gambler's Spirit; Pendulum; Underdog's Secret; Wings To Discovery; Winning Formula)

Lunar Curtain + Amulet (Door To Tomorrow; Gambler's Spirit; Pendulum; Underdog's Secret; Wings To Discovery; Winning Formula)

Star Curtain + Amulet (Door To Tomorrow; Gambler's Spirit; Pendulum; Underdog's Secret; Wings To Discovery; Winning Formula)

=============
Hyper Nul-All
=============
- Tất cả đồng đội
- Cheer, Focus, Nul-Blaze, Nul-Shock, Nul-Tide, Nul-Frost

Mana Spring + Mana Spring (Lunar Curtain)
Hypello Potion + Hypello Potion

==============
Hyper Vitality
==============
- Tất cả đồng đội
- Gấp đôi HP tối đa
- Cheer

Stamina Tonic + Potion (Soft; Antidote)

=======
Icefall
=======
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính băng
- 6x Hit (yếu)

Ice Gem + Antidote (Echo Screen; Soft)

======
Krysta
======
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính băng
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (mạnh)

Arctic Wind + Dream Powder
Ice Gem + Dream Powder (Musk)

==============
Lightning Bolt
==============
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính sét
- Thay đổi trạng thái
- 9x Hit (yếu)

Electro Marble + Amulet (Gambler's Spirit)
Lightning Gem + Teleport Sphere

====
Mana
====
- Một đồng đội
- Gấp đôi MP tối đa

Ether + Potion (Soft; Power Sphere)

===========
Mega Elixir
===========
- Tất cả đồng đội
- Hồi phục hoàn toàn HP & MP

Antidote + Musk
Eyedrop + Map
Soft + Chocobo Feather

=========
Mega Mana
=========
- Tất cả đồng đội
- Gấp đôi MP tối đa

Ether + Ether (Ice Gem; Map)

============
Mega Nul-All
============
- Tất cả đồng đội
- Nul-Blaze, Nul-Shock, Nul-Tide, Nul-Frost

High Potion + Fire Gem
Dream Powder + Light Curtain
Map + Lunar Curtain

============
Mega Phoenix
============
- Tất cả đồng đội
- Hồi sinh đồng minh K.O với ½ HP

Phoenix Down + Phoenix Down (Potion; Grenade)

=============
Mega Vitality
=============
- Tất cả đồng đội
- Gấp đôi HP tối đa

Potion + Three Stars (Stamina Tablet)
Map + Stamina Tablet

========
Mighty G
========
- Tất cả đồng đội
- Protect, Shell, Haste

Al Bhed Potion + Musk
Power Distiller + Power Distiller
Remedy + Light Curtain

===========
Mighty Wall
===========
- Tất cả đồng đội
- Protect, Shell

Antidote + Light Curtain
Power Sphere + Power Distiller
Soft + Lunar Curtain

=============
Miracle Drink
=============
- Tất cả đồng đội
- Khả năng Critical Hit cao (gấp đôi sức mạnh cú đánh)

Luck Sphere + Ether (Chocobo Feather)
Fortune Sphere + Fire Gem

==========
Nega Burst
==========
- Một đối thủ
- Giảm HP còn 1/16

Shadow Gem + Map (Grenade; Fire Gem)

=======
Nul-All
=======
- Một đồng đội
- Nul-Blaze, Nul-Shock, Nul-Tide, Nul-Frost

Potion + Bomb Core (Fire Gem)
Phoenix Down + Fire Gem

=======
Panacea
=======
- Tất cả đồng đội
- Chữa trạng thái bất thường

Potion + Antidote (Soft; Eyedrop)

=========
Pineapple
=========
- Tất cả đối thủ
- 1x Hit (trung bình)

Map + Power Distiller (Power Sphere)
Fish Scale + Fire Gem

=============
Potato Masher
=============
- Tất cả đối thủ
- 1x Hit (mạnh)

Fire Gem + Dragon Scale
Water Gem + Arctic Wind
Map + Rename Card

============
Quartet of 9
============
- Một đồng đội
- Mọi hành động đều đạt 9999 (xem phần riêng về Trio of 9999 sau chương này để hiểu chi tiết hơn)

Water Gem + Pendulum
Fire Gem + Gambler's Spirit
Bomb Core + Amulet

===============
Rolling Thunder
==============
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính sét
- 6x Hit (yếu)

Lightning Gem + Antidote (Soft)
Electro Marble + Healing Water

===========
Snow Flurry
===========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính băng
- 5x Hit (yếu)

Arctic Wind + (Soft; Eyedrop; Map)

============
Super Elixir
============
- Tất cả đồng đội
- Hồi phục hoàn toàn HP & MP
- Chữa trạng thái bất thường

Potion + Winning Formula (Supreme Gem; Pendulum)

==============
Super Mighty G
==============
- Tất cả đồng đội
- Protect, Shell, Haste, Regen

Chocobo Feather + Map (Musk)
Light Curtain + Light Curtain

=========
Supernova
=========
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- 2x 9999 (!)

Dark Matter + Fire Gem (Amulet)
Three Stars + Three Stars

=======
Tallboy
=======
- Tất cả đối thủ
- Ko thuộc tính
- 1x Hit (mạnh)

Grenade + Gambler's Spirit
Dream Powder + Supreme Gem
Teleport Sphere + Pendulum

============
Thunderblast
============
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính sét
- Thay đổi trạng thái
- 3x Hit (mạnh)

Dream Powder + Lightning Marble (Lightning Gem)
Musk + Lightning Gem

===========
Thunderbolt
===========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính sét
- 5x Hit (yếu)

Electro Marble + Antidote (Map)
Lightning Marble + Soft

==========
Tidal Wave
==========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính nước
- 9x Hit (yếu)

Fish Scale + Door To Tomorrow (Pendulum)
Water Gem + Teleport Sphere

============
Trio of 9999
============
- Tất cả đồng đội
- Mọi hành động đều đạt 9999 (xem phần riêng về Trio of 9999 sau chương này để hiểu chi tiết hơn)

Xem phần sau chương này để biết chi tiết các công thức cũng như mọi thứ về chiêu Mix siêu cấp này của Rikku, theo quan điểm riêng của tôi, nó là Ultimate Mix!

==========
Ultra Cure
==========
- Tất cả đồng đội
- Hồi phục hoàn toàn HP
- Chữa trạng thái bất thường

Power Distiller + Sleep Powder (Musk; Poison Fang)

=============
Ultra Nul-All
=============
- Tất cả đồng đội
- Nul-Blaze, Nul-Shock, Nul-Tide, Nul-Frost
- Mọi chiêu cộng chỉ số (như Focus, Cheer, Reflex,…)

Chocobo Feather + Healing Water (Tetra Elemental)
Musk + Healing Spring

============
Ultra Potion
============
- Tất cả đồng đội
- Hồi phục hoàn toàn HP

Potion + Potion (Map; Grenade)

========
Vitality
========
- Một đồng đội
- Gấp đôi HP tối đa

High Potion + High Potion
X-Potion + X-Potion (High Potion)

=========
Waterfall
=========
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính nước
- 5x Hit (yếu)

Fish Scale + Antidote
Dragon Scale + Soft
Water Gem + Electo Marble

============
Winter Storm
============
- Tất cả đối thủ
- Thuộc tính băng
- 9x Hit (yếu)

Anarctic Wind + Amulet (Gambler's Spirit)
Ice Gem + Teleport Sphere

gamevn.com/kingofgame981