PDA

View Full Version : Đóng góp tư liệu về nhạc cụ truyền thống, dân gian Nhật Bản



Ren Shuyamaru
07-04-2009, 12:47 AM
Tài liệu về nhạc cụ, dân ca, văn hóa xưa của Nhật tiếng Việt rất ít. Shuya đang tự dịch một số tài liệu mang tính toàn diện, chi tiết về nhạc dân gian Nhật Bản. Trước mắt là về các nhạc cụ dân gian của Nhật. Bạn nào có tài liệu tiếng Việt/Anh có thể đóng góp giúp đỡ JPN và Shuya để biên tập, dịch, tổng hợp thành tài liệu lưu trữ. Cảm ơn các bạn rất nhiều :)

ZenG
08-04-2009, 08:30 PM
Vài nét khái quát

Nhạc cụ đã ca ngợi tinh thần của Nhật Bản và làm xao động trái tim bao người Nhật qua nhiều thế kỷ. Sáo Nhật Bản có lịch sử hơn 1.000 năm, trong khi đàn một dây chỉ mới có mặt ở Nhật vào thế kỷ 18. Tất cả đã tạo nên sắc màu cho âm nhạc Nhật Bản, phát triển song song với nghệ thuật biểu diễn truyền thống.

Nếu không hiểu rõ âm nhạc truyền thống Nhật Bản, bạn sẽ nghĩ bản nhạc nào nghe cũng giống nhau. Điều này đặc biệt đúng khi những người biểu diễn mặc quần áo truyền thống, chơi những nhạc cụ như shamisen và shakuhachi. Nhưng trong thực tế, các chuyên gia phân loại âm nhạc truyền thống Nhật Bản thành 50, thậm chí 80 loại khác nhau.

Âm nhạc truyền thống Nhật Bản được phân loại dựa theo cách phát âm của người ca sĩ, loại nhạc cụ và âm sắc của giọng hát và của nhạc cụ. Chẳng hạn, chuyện kể gidayubushi bunraku, những bài hát tokiwazu-bushi Kabuki và những bài hát trữ tình naga-uta đều được hát với phần đệm của shamisen, nhưng chúng tôi xếp chúng ở nhiều thể loại khác nhau nếu âm sắc của giọng hát và nhạc cụ khác nhau. Nói cách khác, mỗi thể loại có âm sắc của giọng hát và nhạc cụ riêng.

Dù vậy, sự khác biệt về âm sắc giữa các thể loại là rất nhỏ. Điều này đúng cho cả giọng hát và nhạc cụ. Trong nhiều trường hợp, chỉ có chuyên gia mới có thể biết được thể loại nào đang được trình diễn. Tuy nhiên, các nhạc sĩ lại cho những khác biệt nhò này là hết sức quan trọng, và chú ý sao để âm sắc của thể loại này không bị pha trộn với thể loại khác. Đây chính là lý do khiến người ta phân các thể loại ra hết sức chi tiết. Sự lo lắng về những sự khác biệt nhỏ về âm sắc này được phản ánh rõ qua hình dáng của các loại nhạc cụ và trong cách biểu diễn.

Nhạc cụ truyền thống Nhật Bản, cũng giống như nhạc cụ của những nước khác, có thể sắp xếp thành ba loại chính: nhạc gõ, sáo và đàn dây.

Kotsuzumi: Một loại nhạc gõ là trốngg kotsuzumi. Hầu hết các dạng trống của Nhật được đánh bằng hai cái dùi, nhưng trống thì gõ bằng ngón tay. Để giữ đúng âm sắc, những người chơi trống phải lắng nghe âm thanh một cách cẩn thận và điều chỉnh sức căng của dây buộc mặt trống vào thùng. Thậm chí đôi khi họ phải thổi hơi lên mặt trống để giữ nó ở mức độ ẩm cần thiết cho một âm sắc nhất định.

Shino-blue: loại sáo làm bằng tre. Khi thổi đệm với một ca sĩ trong một vở kịch Kabuki, người thổi sáo sẽ chọn một trong số 12 shino-blue để đạt được khoảng âm yêu cầu. Cũng vì mục đích này, người ta phải dùng hai hoặc ba shino-blue trong các lễ hội ở địa phương. Những điều này cho thấy các nhạc sĩ phải cố gắng nhiều như thế nào để đạt được loại âm sắc mà âm nhạc đòi hỏi.

Shamisen và miếng gảy đàn: Dùng một miếng gảy lớn để gảy 3 dây đàn. Được sử dụng trong kịch Kabuki, bunraku và các loại hình nghệ thuật trình diễn khác. Chiều dài khoảng 100 cm. Loại đàn dây này thích hợp với nhiều hình thức biểu diễn khác nhau, bởi vì nó có khả năng tạo ra nhiều âm sắc khác nhau.


http://i213.photobucket.com/albums/cc17/kimhang_japan/shamisen.jpg
(ảnh: Sugawara Chiyoshi)


Shakuhachi: Loại sáo bằng tre được thổi từ một đầu ống, không có lưỡi gà, dùng để đệm theo các điệu dân ca và các loại nhạc truyền thống khác, cũng như với nhạc hiện đại. Chiều dài: khoảng 55 cm.


http://i213.photobucket.com/albums/cc17/kimhang_japan/shakuhachi.jpg
Shakuhachi


Chijin: Loại trống có mặt trong các buổi trình diễn dân ca trên đảo Okinawa. Có thể thay đổi âm thanh bằng cách điều chỉnh độ căng của đoạn dây bện dưới mặt trống. Đường kính: khoảng 23 cm.


http://i213.photobucket.com/albums/cc17/kimhang_japan/chijin.jpg
Chịjin

Sanshin và ngón gảy đàn:Hầu hết các buổi trình diễn nhạc truyền thống Okinawa đều dùng loại nhạc cụ dây. Được xem là nguyên mẫu của shamisen, có thân bọc da rắn, và dùng ngón trỏ để gảy, chiều dài khoảng 80 cm.


http://i213.photobucket.com/albums/cc17/kimhang_japan/Sanshin.jpg
Sanshin


Taiko: Da thú được đóng vào thùng trống. Trống được dùng trong các buổi biểu diễn nghệ thuật truyền thống trên khắp nước Nhật. Kích thước trống cũng khác nhau – có những loại cầm được trên tay, nhưng cũng có loại cao hơn người chơi trống.


http://i213.photobucket.com/albums/cc17/kimhang_japan/taiko.jpg
Taiko


credit: Umi@akebonogakko.vn

------

Shu: ủng hộ Shu ^.^ Keep trying :D

Acmagiro
09-04-2009, 08:38 PM
Tài liệu về nhạc cụ, dân ca, văn hóa xưa của Nhật tiếng Việt rất ít. Shuya đang tự dịch một số tài liệu mang tính toàn diện, chi tiết về nhạc dân gian Nhật Bản. Trước mắt là về các nhạc cụ dân gian của Nhật. Bạn nào có tài liệu tiếng Việt/Anh có thể đóng góp giúp đỡ JPN và Shuya để biên tập, dịch, tổng hợp thành tài liệu lưu trữ. Cảm ơn các bạn rất nhiều :)


Đã đi tìm hết tài liệu tiếng Việt trên mạng, nhưng phần lớn (hay tất cả?) đều chỉ ở dạng sơ khai, rời rạc và không có hệ thống (chẳng hạn như bài bạn ZenG đăng bên trên).

Vào Wikipedia Japan thấy họ viết rất công phu, đầy đủ và có hệ thống hẳn hoi. Từng loại nhạc cụ được phân mục cụ thể và rất nhiều thứ liên quan. Tại sao JPN có thế mạnh là tiếng Nhật lại không tổ chức dịch Wikipedia Japan?

Những gì thuộc văn hóa Nhật thì người Nhật viết là kỹ nhất. Wiki các nước khác chỉ dịch lại thôi, và đôi khi họ còn bỏ sót hay nhầm lẫn. Do đó nếu người VN dịch lại từ Wiki của tiếng thứ hai (Anh, Pháp....) thì không bằng dịch trực tiếp từ Wiki Japan.

Ren Shuyamaru
15-04-2009, 12:36 AM
@ Hiba: khổ nỗi trình Nhật ngữ của em còi cọc lắm. Vốn đã xác định là tìm hiểu văn hóa Nhật Bản một cách từ từ lâu dài rùi nên cái chủ đề rất tâm đắc này mỗi ngày nó càng kéo dài lê thê qua từng bản dịch ngoại Nhật. Trước mắt em định làm 1 nghiên cứu kha khá về Koto. Ở VN, chưa có mấy tài liệu chi tiết về lịch sử cũng như các câu chuyện xoay quanh loại đàn tuyệt vời này.

yagi
01-01-2012, 12:31 PM
Shamisen hay Samisen (Tiếng Nhật: 三味線; âm Hán-Việt: tam vị tuyến) là một loại nhạc cụ ba dây của Nhật được chơi với một miếng gẩy đàn được gọi là bachi.

Shamisen có chiều dài tương tự với guitar nhưng cổ loại đàn này mỏng hơn và không có phím. Thân hình chữ nhật giống mặt trống của cây đàn được bọc da ở mặt trước và sau giúp khuếch đại âm thanh khi gẩy đàn. Da đàn thường được làm bằng da chó hoặc da mèo nhưng trong quá khứ có một loại giấy đặc biệt được sử dụng và nhiều loại nhựa cũng được dùng để làm mặt đàn. Dây đàn thường được làm bằng lụa, gần đây thì nylon cũng được sử dụng làm dây đàn.

Các bộ phận của Shamisen


http://www.iromegane.com/wp-content/uploads/2011/04/shamisen.jpg

http://thekexperience.okeiweb.com/images/stories/Image/pictures/shamisenpic.jpg

http://www.tikuyu-shamisen.com/file/14/shamisen.jpg

http://www.bijinga.com/artists/jason_wellington/images/Shamisen.jpg

http://www.proverbs2525.org/photo_albums/japan/traditional/shamisen.jpg

http://www.cosplayisland.co.uk/files/costumes/1033/19951/a-motochika.jpg

Shamisen xuất hiện trong game Warriors Orochi 2 cùng nhân vật Motochika Chosokabe

Bonus: Tiếng Shamisen của nhân vật Dayuu trong Shinkenger

http://mp3.zing.vn/bai-hat/Samurai-Sentai-Shinkenger-Dayu-s-Shamisen-dang-cap-nhat/IW7FAWE0.html


Nguồn:
Nội dung: wikipedia.org
Hình ảnh: Tổng hợp
Link nhạc: mp3.zing.vn

hey911
01-01-2012, 12:45 PM
Cái này là đàn tì bà đấy phải ko???

yagi
01-01-2012, 12:52 PM
Cái này tớ cũng không rõ, đàn tì bà thường thấy có hộp đàn như trái bầu. Còn Shamisen thì vuông. Nhưng cũng không dám chắc là hai loại đàn này khác nhau, bởi vì có thể là nó có nhiều loại, cũng châu Á cả mà.

Ngọc_san
01-01-2012, 01:42 PM
đàn này sao gọi là tì bà dc. Hình thức 2 loại đàn khác nhau, phát ra tiếng khác nhau và đặc biệt là tì bà dc sử dụng ở nhìu nc châu Á khác như VN, TQ nhưng shamisen thì mình chỉ thấy có người Nhật use thôi :)

Kasumi
11-02-2012, 11:55 PM
Shamisen hay samisen (tiếng Nhật: 线 三味, nghĩa là “tam vị tuyến”), hay còn được gọi là sangen (nghĩa là “ba dây”) là một trong các nhạc cụ 3 dây được chơi với miếng gảy được gọi là một Bachi. Cách phát âm tiếng Nhật thường là “shamisen” (ở phía tây Nhật Bản, và thường trong thời kỳ Edo có nguồn gốc từ “samisen”) nhưng đôi khi cũng là “jamisen” khi được sử dụng như là một hậu tố (ví dụ, Tsugaru-jamisen).


http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/220px-KitagawaUtamaro_FlowersOfEdo.jpg
Kitagawa Utamaro, “Hoa của Edo: thiếu phụ diễn xướng với đàn Samisen”, ca. 1880

http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/220px-Tokyo_Geisha_with_Shamisen_c1870s2C.jpg
Geisha Tokyo với đàn Shamisen, 1870s

Cấu tạo

Shamisen tương tự về chiều dài với đàn guitar, nhưng cổ của nó mỏng hơn nhiều và không hề có phím đàn. Phần thân đàn hình chữ nhật hơi tròn giống như mặt trống, được gọi là dō, được bọc mặt trước và sau bằng da theo cách làm đàn banjo, và iúp khuếch đại âm thanh của các dây đàn. Da thường được làm từ da chó hay da mèo, nhưng trong quá khứ 1 loại giấy đặc biệt cũng được sử dụng và gần đây nhiều loại chất dẻo khác nhau cũng đang được dùng thử. Trên da của một số các cây đàn shamisen tốt nhất, vẫn có thể nhìn thấy được vị trí của núm vú mèo.

Cổ đàn shamisen thường được chia thành ba hay bốn đoạn sao cho thật vừa khít và liền lại với nhau. Thật vậy, một số cây shamisen được làm sao cho có thể dễ dàng tháo rời và xếp gọn lại để tiết kiệm không gian. Các chốt được sử dụng để quấn dây theo truyền thống được làm từ ngà voi, nhưng khi nó đã trở thành một nguồn tài nguyên quý hiếm, gần đây chúng được làm từ các vật liệu khác, chẳng hạn như các loại gỗ và nhựa.

Ba dây đàn theo truyền thống được làm bằng lụa, hoặc, gần đây hơn, nylon. Sợi dây thấp nhất đi qua một gờ nổi nhỏ ở “nut” cuối để nó có thể bật lên, tạo ra một âm thanh đặc trưng được gọi là sawari (phần nào gợi nhớ đến âm bật vang của đàn sitar, được gọi là jivari). Phần trên của dō hầu như luôn luôn được bảo vệ bởi một nắp phủ được biết đến như một dō kake, và nhạc công thường đeo một dải vải nhỏ trên bàn tay trái của mình để tạo thuận lợi trượt lên và xuống trên phần cổ đàn. Dải vải này được gọi là yubikake. Cũng có thể có một nắp phủ trên đầu của nhạc cụ, được gọi là Tenjin.

Chơi đàn


http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/220px-ShamisenBuskerPittStreetSydney.jpg
Một nghệ sĩ đường phố chơi shamisen ở Sydney, Australia

Đối với hầu hết các thể loại đàn shamisen, các dây đàn được gảy với một miếng gảy to và có trọng lượng có tên là Bachi, có hình tam giác, giống như một chiếc lá bạch quả. Bachi truyền thống được làm từ ngà voi, mai rùa, hoặc sừng con trâu nước. Tuy nhiên, một số trong những vật liệu này đã trở nên hiếm hoi, nếu không nói là bất hợp pháp, do đó, Bachi hiện nay thường được làm bằng gỗ hoặc nhựa. Âm thanh của đàn shamisen tương tự trên một số khía cạnh với đàn banjo của Mỹ, trong đó phần thân đàn bọc da giống như trống , được gọi là dō, khuếch đại âm thanh của các dây đàn. Như trong kiểu chơi đàn banjo clawhammer của Mỹ, Bachi thường được sử dụng để gảy cả dây đàn và lớp da bọc, tạo ra một âm gõ cao.


http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/220px-Man_playing_shamisen.jpg
1 nhạc công người Nhật đang chơi shamisen còn người kia hát

Trong kouta (小 呗; nghĩa là “đoạn nhạc ngắn”) và thỉnh thoảng ở các thể loại khác, shamisen được gảy bằng các ngón tay.

Lên dây đàn

Đàn shamisen được chơi và được chỉnh dây tùy theo loại đàn. Danh pháp của các nút trong một quãng tám cũng thay đổi tùy theo loại đàn. Sự thực, có vô số kiểu dáng của shamisen trên khắp Nhật Bản, và các cách lên dây đàn, khóa nhạc và ký pháp nốt nhạc cũng khác nhau ở 1 mức độ nào đó.

Có các cách lên dây khác nhau cho đàn shamisen, nhưng ba trong số các cách lên dây đàn phổ biến nhất được công nhận trên tất cả các loại đàn là “honchoshi” (本 调子), “ni agari” (二 上がり), và “san sagari” (三 下がり).

Honchoshi

“Honchoshi” có nghĩa là “điều chỉnh gốc” hoặc “điều chỉnh cơ bản,” và nó được gọi như vậy bởi vì các cách lên dây khác được coi là bắt nguồn từ cách chỉnh dây này. Đối với cách điều chỉnh dây này, các dây đầu tiên và thứ ba được điều chỉnh riêng một quãng tám, trong khi dây đàn ở giữa được lên chỉnh đến ngang với một quãng tư, theo cách nói phương Tây, cách từ dây thứ nhất. Một ví dụ cho cách lên dây này là D, G, D.

Ni Agari

“Ni agari” có nghĩa là “tăng hai” hoặc “tăng đệ nhị,” và điều này đề cập đến một thực tế là âm vực của dây đàn thứ hai được nâng lên (từ honchoshi), tăng quãng giữa của các dây đầu tiên và dây thứ hai đến một quãng năm (ngược lại giảm quãng giữa các dây thứ hai và thứ ba xuống một quãng tư). Một ví dụ này cho cách lên dây này là D, A, D.

San Sagari

“San sagari,” có nghĩa là “hạ thấp ba” hay “hạ thấp đệ tam” để chỉ việc lên dây đàn shamisen đến honchoshi và rồi hạ thấp dây đàn thứ 3 (dây có âm vực cao nhất) xuống nguyên một bậc, vậy nên giờ đây nhạc cụ được lên dây trong các quãng bốn . Một ví dụ này cho cách lên dây này là D, G, C.

Ký hiệu âm nhạc


http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/220px-Shami_tab_vertical.jpg
Nhạc phổ shamisen dọc, đọc từ phải sang trái.
Các nút cho dây thứ 3 được thể hiện bằng chữ số La Mã, cho dây thứ 2 bằng các chữ số Trung Quốc, và cho dây số 1 bằng chữ số Trung Quốc đi trước bởi イ.

http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/220px-Shami_tab_horizontal.jpg
Nhạc phổ shamisen ngang, đọc từ trái sang phải.
Tương tự như nhạc phổ guitar, ba đường ngang đại diện cho các dây của shamisen.
Các nút được biểu diễn bằng các chữ số La Mã, và các nút nhánh được chỉ ra bởi các nét gạch dưới chúng.

Âm nhạc cho đàn shamisen có thể được viết bằng ký hiệu âm nhạc phương Tây, nhưng thường được viết bằng ký hiệu tablature. Trong khi các cách lên dây có thể là tương tự trên mọi loại đàn, cách thức mà các nút trên phần cổ của nhạc cụ (gọi là tsubo trong tiếng Nhật) được đặt tên thì không. Kết quả là, tablature cho mỗi loại đàn được viết khác nhau. Ví dụ, với phong cách min’yo shamisen, các nút trên shamisen được gắn nhãn từ 0, dây mở được gọi là “0″. Tuy nhiên, theo phong cách jiuta shamisen, các nút được chia nhỏ và đặt tên bởi quãng tám, với “1″ là dây mở và nút đầu tiên trong một quãng tám, bắt đầu lại ở quãng tám tới. Các nút này cũng được dán nhãn khác nhau cho shamisen phong cách Tsugaru. Để thêm vào sự dễ gây nhầm lẫn, đôi khi các nút có thể được “tráo,” và bởi vì tên của các nút và vị trí của chúng là khác nhau cho từng loại đàn, điều này cũng tạp nên sự phong phú cực kì. Do đó, học viên của một loại đàn shamisen sẽ cảm thấy khó khăn để đọc tablature từ các loại đàn shamisen khác, trừ trường hợp được đặc biệt huấn luyện để đọc các loại tablatures.

Tablature có thể được viết bằng ký hiệu truyền thống của Nhật Bản từ phải sang trái theo chiều dọc, hoặc nó có thể được viết bằng ký hiệu hiện đại hơn theo chiều ngang từ trái sang phải, giống như tablature guitar hiện đại. Trong cách kí hiệu theo chiều dọc truyền thống, các ký tự Trung Quốc và các kí hiệu cũ cho các động tác được sử dụng, tuy nhiên ký hiệu từ các ký hiệu âm nhạc theo phong cách phương Tây, chẳng hạn như những cái tên tiếng Ý cho các động tác, kí hiệu nhịp và dấu lặng đã được du nhập vào.

Lịch sử và các loại đàn

Shamisen có nguồn gốc từ sanshin (三 线) (một nhạc cụ của Vương quốc Ryukyu, bây giờ là một tỉnh của Nhật Bản, từ thế kỷ 16 và là một trong những nhạc cụ chính được sử dụng ở miền đất đó), sanshin là nhạc cụ đã dần dần tiến hóa từ đàn sanxian Trung Quốc.

Đàn shamisen có thể được chơi đơn hoặc chơi với đàn shamisen khác, hay hòa tấu với các nhạc cụ khác của Nhật, hoặc đệm cho các khúc ca như nagauta, hoặc chơi nhạc đệm cho một bộ phim, đặc biệt là chơi cho kabuki và bunraku. Cả đàn ông và phụ nữ theo truyền thống đều chơi shamisen.

Phong cách kể chuyện nổi tiếng nhất và có lẽ được yêu cầu nhiều nhất là gidayū, được đặt tên theo tên Takemoto Gidayū (1651-1714), người đã tham gia tích cực vào nhà hát múa rối bunraku truyền thống ở Osaka. Đàn Gidayū shamisen và miếng gảy của nó là lớn nhất trong họ đàn shamisen, và những người dẫn xướng phải giới thiệu các vai của vở kịch, cũng như phải hát tất cả những lời dẫn giãi về các cảnh diễn. Vai người dẫn xướng thường nên gây mệt giọng đến nỗi những người biểu diễn phải được thay đổi nửa chừng qua mỗi cảnh. Có rất ít thứ được ký hiệu trong các cuốn sách truyền thống (maruhon) ngoại trừ những cái tên và những từ hồi đáp shamisen chung chung, thích hợp nhất định. Người chơi shamisen phải hiểu rõ toàn bộ công việc một cách hoàn hảo để phối hợp hiệu quả với sự diễn xuất của người diễn xướng. Từ thế kỷ 19 các nữ nghệ sĩ được gọi là onna-jōruri hoặc onna gidayū cũng tham gia biểu diễn các buổi hòa nhạc truyền thống này.

Vào đầu thế kỷ 20, các nhạc sĩ khiếm thị, bao gồm Shirakawa Gunpachirō (1909-1962), Takahashi Chikuzan (1910-1998), và nhạc công sáng mắt như Kida Rinshōei (1911-1979), phát triển một phong cách chơi đàn mới, dựa trên các bài hát dân gian truyền thống (“min’yō”) nhưng có nhiều khúc ngẫu hứng và kĩ thuật ngón tay hào nhoáng. Phong cách này – nay được gọi là jamisen-Tsugaru, tiếp sau quê hương của nó ở phía bắc của đảo Honshu – tiếp tục trở nên khá phổ biến ở Nhật Bản. Phong cách Tsugaru-jamisen bậc thầy đôi khi được so sánh với bluegrass banjo.

Kouta (小 呗) là phong cách nhạc khúc được học bởi geisha và maiko. Tên của nó có nghĩa là “nhạc khúc ngắn”, “đoản khúc” , tương phản với các thể loại âm nhạc trong bunraku và kabuki, hay còn gọi là nagauta (trường ca).

Jiuta (地 呗), hoặc nghĩa đen là “thổ nhạc” là một phong cách cổ điển của âm nhạc shamisen.

Shamisen trong các thể loại phi truyền thống

Một nhạc công shamisen đương đại, Takeharu Kunimoto, chơi nhạc bluegrass trên đàn shamisen , có trải qua một năm học tập bluegrass tại Đại học Đông bang Tennessee và biểu diễn với một ban nhạc bluegrass dựa trên đó. Một nhạc công khác sử dụng Tsugaru-jamisen ở thể loại phi truyền thống là Michihiro Sato, người chơi khúc ngẫu hứng tự do trên nhạc cụ.

Nghệ sĩ dương cầm nhạc jazz người Mỹ gốc Nhật Glenn Horiuchi chơi shamisen trong các buổi biểu diễn và thu âm của mình.

Một bộ đôi nổi tiếng ở Nhật Bản được gọi là anh em Yoshida đã phát triển một phong cách chơi đàn năng động, bị ảnh hưởng nhiều bởi đơn tấu tiết tấu nhanh nhấn vào sự thăng âm và giọng mũi, mà thường được kết hợp với nhạc rock trên guitar điện.

Người chơi ghi-ta kim loại Marty Friedman thường sử dụng shamisen trong các bản ghi âm của mình để tạo cho âm thanh lôi cuốn hơn trong âm nhạc của mình. [3]

Nhạc sĩ rock người Nhật Gackt tổ chức buổi hòa nhạc “Đêm thứ sáu ngày thứ bảy” của mình năm 2004, ngồi trên sân khấu với một cây đàn shamisen, cùng tham gia bởi hai nhạc sĩ từ ban nhạc của mình, GacktJOB, cũng chơi shamisen.

Nhạc sĩ rock người Nhật Miyavi cũng chơi shamisen vào những dịp khác nhau, kết hợp sử dụng của nó trong các album và trong suốt các buổi hòa nhạc (tức là màn ra mắt trực tiếp trong buổi hòa nhạc của superband S.K.I.N tại hội nghị Anime Expo năm 2007 tại Long Beach, California vào ngày 29 Tháng Sáu 2007).

Nhạc công Tsugaru-jamisen người Mỹ và tay guitar Kevin Kmetz dẫn đầu một ban nhạc rock được gọi là God of shamisen, có trụ sở ở Santa Cruz, California, và cũng chơi nhạc cụ với ban nhạc Estradasphere.

Nhạc sĩ Hiromitsu Agatsuma nhạc jazz truyền thống người Nhật kết hợp một hỗn hợp đa dạng các thể loại vào âm nhạc của mình. Ông sắp xếp một số bản nhạc jazz tiêu chuẩn và các bài hát nổi tiếng phương Tây khác cho shamisen vào album mới nhất của mình, Agatsuma Plays Standards. Đĩa thu trước đó của ông thể hiện âm nhạc điện tử, funk và phong cách truyền thống Nhật Bản.

Các biến thể trong cấu tạo và kiểu chơi đàn

Đàn Shamisen đa dạng về hình dạng và kích thước, phụ thuộc vào thể loại âm nhạc nào được biểu diễn với nhạc cụ.

Nói chung, các hosozao cổ mảnh được sử dụng trong nagauta, cổ ngắn hơn và mảnh hơn đáp ứng cho các yêu cầu linh động và điêu luyện của Kabuki. Đàn hosozao này thường được sử dụng trong kouta, nó được gảy bằng các móng tay.

Các chuzao, kích thước lớn hơn hosozao, lí tưởng cho jiuta, với một âm sắc êm dịu hơn lan tỏa hơn.

Cuối cùng, futozao dày cổ được sử dụng trong âm nhạc mạnh mẽ của Gidayubushi (nhạc của Bunraku), Joruri và Tsugaru jamisen-. Trong những thể loại này, phần cổ dày của đàn thuận lợi hơn cho việc dùng nhiều lực hơn khi chơi các thể loại nhạc này. Các futozao (dịch nghĩa là “dày cổ”) của tsugaru-jamisen quả thật là 1 sự cách tân gần đây, và được cố ý tạo ra với một kích thước lớn hơn nhiều so với cây đàn shamisen theo phong cách truyền thống, và cổ của nó dài hơn và dày hơn các nagauta truyền thống và / hoặc jiuta shamisens.

Bachi hay là các mỏng gảy được sử dụng để chơi đàn shamisen cũng khác nhau về kích thước, hình dạng và chất liệu. Bachi sử dụng cho nagauta và jiuta shamisens có hình tam giác, thường có các đỉnh rất nhọn. Gidayu shamisen sử dụng một Bachi rất mảnh mai , có hình tam giác tinh tế hơn. Các Bachi được sử dụng trong jamisen-Tsugaru có hình dạng tam giác dễ thấy, nhưng vẫn còn nhỏ hơn so với hầu hết các Bachi, và nó ít được phát âm hơn Bachi được sử dụng trong nagauta và jiuta. Bachi có thể được làm bằng nhựa, gỗ, mai rùa, sừng trâu nước, ngà voi, hoặc kết hợp của các vật liệu này.

Chiều rộng của phần nối (Koma), vật liệu làm ra nó và vị trí của nó trên phần thân đàn của shamisen cũng khác nhau giữa các lọai đàn và các trường phái tấu đàn học.

Shamisen được chơi cho các thể loại âm nhạc truyền thống của Nhật Bản, như jiuta, kouta, và nagauta, tuân thủ các tiêu chuẩn rất nghiêm ngặt. Những tín đồ thuần túy tôn sùng các thể loại này yêu cầu rằng đàn shamisen phải được làm bằng đúng loại gỗ tiêu chuẩn, đúng loại da tiêu chuẩn, và được chơi với các Bachi tiêu chuẩn. Hầu như không có sự đa dạng. Tsugaru jamisen, mặt khác, đã đem chính nó cho lối chơi hiện đại, và được sử dụng trong các thể loại hiện đại như jazz và rock. Như một nhạc cụ cởi mở hơn, các biến thể của nó tồn tại cho ta thấy. Các chốt điều chỉnh và Bachi, thứ thường được làm từ ngà voi hoặc mai rùa, là 1 ví dụ, giờ đây đôi khi chúng được làm bằng chất liệu acrylic để cho đàn shamisen một cái nhìn hào nhoáng hơn hiện đại hơn. Gần đây, các nhà phát minh tiên phong đã phát triển một Tsugaru-jamisen với bộ tải điện được sử dụng cùng với bộ khuếch đại, giống như guitar điện: các Tsugaru-jamisen điện đã được sinh ra.

Các Heike (平 家) shamisen là một shamisen đặc biệt được thiết kế để biểu diễn các nhạc khúc Ondo Heike, một giai điệu dân gian có nguồn gốc từ Shimonoseki, tỉnh Yamaguchi . Phần cổ của đàn shamisen Heike là khoảng một nửa chiều dài của hầu hết các shamisen, cho nhạc cụ độ cao cần thiết để chơi Heike Ondo. Việc sử dụng loại đàn shamisen điển hình hơn cũng có thể, nhưng chúng phải được điều chỉnh với một thiết bị capo để nâng cao độ của chúng cho phù hợp để sử dụng.


Theo tieulocloc.wordpress

Kasumi
12-02-2012, 12:10 AM
Shakuhachi (尺八 (しゃく は ち), phát âm [ɕakɯhatɕi]) là 1 loại sáo dọc Nhật Bản. Theo truyền thống nó được làm bằng tre, nhưng ngày nay cũng tồn tại các phiên bản làm từ ABS và gỗ cứng. Nó được sử dụng bởi các nhà sư của trường phái Fuke của đạo Phật Thiền (Zen Buddhism) trong việc thực hành suizen (吹 禅?, hành thiền thổi sáo). Âm điệu sâu lắng của cây sáo đã khiến cho nó trở nên phổ biến trong làng nhạc pop thập niên 1980 ở các nước nói tiếng Anh.


http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/84px-Shakuhachi-2.png
1 ống sáo Shakuhachi , thổi vào đầu ống
Trái: nhìn từ đỉnh, 4 lỗ
Phải: nhìn từ đấy, 5 lỗ

Những cây sáo thường được làm theo ngũ cung tối giản (thang 5 âm thấp nhất).

Tổng quan

Tên Shakuhachi nghĩa là “1.8 Shaku”, chính là đề cập đến kích thước của cây sáo. Nó là một tổ hợp của hai từ:

* Shaku (尺?) Có nghĩa là “Shaku”, một đơn vị đo chiều rộng cổ xưa tương ứng 30.3 cm (0,994 foot Anh) và chia thành mười đơn vị nhỏ.
* Hachi (八?) Có nghĩa là “tám”, ở đây chỉ tám sun, hay một phần mười của 1 đơn vị Shaku.

Như vậy, “Shaku-hachi” nghĩa là “một Shaku tám sun” (gần 55 cm), cũng chính là chiều dài tiêu chuẩn của một shakuhachi. Các loại Shakuhachi khác rất đa dạng về độ dài, từ khoảng 1.3 Shaku lên đến 3.3 Shaku. Mặc dù kích thước khác nhau, tất cả chúng vẫn được gọi chung là “shakuhachi”.


http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/170px-JapaneseShakuhachiSection.jpg
Một shakuhachi với utaguchi (歌 口, gờ thổi) của nó và lớp khảm gỗ.

Người nhạc công thổi vào ống sáo- 1 ống dẫn khí hẹp qua 1 khối được gọi là “fipple”(phần lồi hẹp để đặt miệng vào ý=.=), và do đó hạn chế sự kiểm soát âm vực. Người nhạc công thổi shakuhachi cũng giống như người phải kề vào miệng 1 cái chai rỗng mà thổi vào vậy (mặc dù shakuhachi có một gờ nhọn để thổi) và còn phải có sự kiểm soát âm vực đáng nể. Năm lỗ đặt ngón tay được điều chỉnh theo 1 thang âm 5 bậc không có lấy một quãng nửa nhịp, nhưng nhạc công có thể bẻ cong mỗi nốt nhạc cũng như cả 1 quãng trường hoặc nhiều hơn, bằng cách sử dụng kỹ thuật gọi là Meri và Kari, trong đó các góc thổi được điều chỉnh để bẻ cong âm vực thấp xuống và cao lên. Các nốt nhạc cũng có thể được hạ thấp xuống bằng cách bịt hoặc che một phần lỗ đặt ngón tay. Vì có thể đạt được hầu hết các cao độ của âm thông qua các kĩ thuật thổi và kĩ thuật tay trên shakuhachi, mỗi 1 âm sắc có triển vọng đều được tính đến khi sáng tác hoặc chơi nhạc. Shakuhachi có phạm vi hai quãng tám nguyên ( quãng thấp hơn được gọi là Otsu, quãng cao hơn là kan) và một phần ba quãng tám nữa (dai-kan). Các quãng tám khác nhau được tạo ra bằng cách biến dạng tinh tế hơi thở và cách đặt môi.

Một shakuhachi 1,8 tạo ra D4 (D cao hơn C Trung , 293.66Hz) như các nốt gốc của nó, nốt thấp nhất được tạo ra khi tất cả 5 lỗ đặt ngón tay được bịt lại với một góc thổi bình thường. Ngược lại, một shakuhachi 2,4 có một nốt gốc của A3 (A thấp hơn CTrung , 220Hz). Khi tăng chiều dài, khoảng cách giữa các lỗ đặt ngón tay cũng tăng lên, kéo theo cả các ngón tay dài ra và kỹ thuật tăng lên. Sáo dài hơn thường có thêm các lỗ đặt ngón tay bù trừ, và hầu hết những cây sáo thật dài luôn được tùy chỉnh cho phù hợp với 1 người độc tấu. 1 số honkyoku(đoạn nhạc), đặc biệt là của trường phái Nezasaha (Kimpu-ryu) thường được định hướng để chơi những sáo dài.

Phần lớn sự tinh tế của shakuhachi (và kỹ năng của nhạc công) nằm ở màu sắc giai điệu phong phú của nó, và cả khả năng biến hóa đa dạng nữa. Các cách đặt tay, đặt môi khác nhau, và số lượng Meri có thể tạo ra các nốt có cùng cao độ, nhưng vẫn có những sự khác biệt hoặc vụn vặt hoặc lớn lao trong màu sắc của giai điệu. Những đoạn honkyoku phụ thuộc nhiều vào phương diện này của nhạc cụ để nâng cao sự tinh tế và chiều sâu của chúng.

Shakuhachi thường được làm từ phần cuối gốc của một gióng tre, là những nhạc cụ cực kỳ linh hoạt. Lỗ có thể được che kín một phần (che đi 1/3, 1/2, 2/3, vv) và âm vực cũng thay đổi ít hay nhiều tùy theo cách thay đổi góc thổi. Nhạc công chuyên nghiệp có thể tạo được hầu như bất kỳ nốt nào mà họ muốn từ nhạc cụ, và tấu kho tàng rộng lớn của âm nhạc Zen nguyên bản, hợp tấu với đàn Koto, Biwa, và shamisen, âm nhạc dân gian, jazz, và những phần hiện đại khác.

Do các kỹ năng cần thiết, thời gian chuẩn bị, và phạm vi chất lượng nguyên liệu cho shakuhachi tre thủ công, người ta có thể sẽ phải trả từ 300 USD đến 5.000 USD cho một cây sáo mới tinh hoặc đã qua sử dụng. Bởi vì mỗi phần của tre đều độc đáo, shakuhachi không thể sản xuất hàng loạt, và thợ thủ công phải dành nhiều thời gian tìm kiếm các đoạn có hình dạng chuẩn xác cho từng cây sáo riêng lẻ mới đạt đến âm vực chính xác cho tất cả các nốt nhạc. Hàng mẫu với chất lượng thượng hạng, với những lớp khảm đầy giá trị, hoặc có ý nghĩa lịch sử có thể lấy 10.000 USD hoặc nhiều hơn. Shakuhachi plastic hay PVC có một số ưu điểm trội hơn so với các cây sáo tre truyền thống: chúng có trọng lượng nhẹ, rất bền, gần như trơ với nhiệt và lạnh, và thường có giá dưới 100 USD. Shakuhachi làm bằng gỗ cũng sẵn có, thường là chi phí ít hơn tre nhưng đắt hơn vật liệu tổng hợp. Hầu hết tất cả nhạc công, tuy nhiên, lại thích tre hơn, với lý do chất lượng âm thanh, thẩm mỹ, và truyền thống.

Lịch sử


http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/A_begging_criminal-J_M_W_Silver.jpg
Bức phác họa của 1 komuso(bên phải) đang thổi shakuhachi

Các cây sáo tre đầu tiên du nhập vào Nhật Bản bắt nguồn từ Trung Quốc qua Hàn Quốc. Shakuhachi đúng nghĩa, tuy nhiên, lại hoàn toàn khác biệt với các cây sáo cùng loại củaTrung Quốc – kết quả qua nhiều thế kỷ tiến hóa biệt lập ở Nhật Bản.

Thời kỳ trung cổ, shakuhachi là đáng chú ý nhất trong vai trò của chúng ở tông phái Thiền Fuke của các nhà sư Phật giáo, được gọi là komusō (“thiền sư của hư vô,” hoặc “thiền sư vô vi”), họ dùng shakuhachi như một công cụ tinh thần. Nhũng bản nhạc của họ (gọi là “honkyoku”) được ngắt nhịp theo hơi thở của những người thổi và được xem là thiền định (suizen) cùng với âm nhạc.

Du hành trên khắp nước Nhật bị giới hạn bởi Mạc phủ vào thòi này, nhưng giáo phái Fuke đã xoay xở đấu tranh để nhận được sự bãi miễn từ Shogun (Tướng quân), vì những thực hành tâm linh của họ đòi hỏi họ phải vừa di chuyển từ nơi này đến nơi khác vừa chơi shakuhachi và cầu xin của bố thí (có một bài hát nổi tiếng miêu tả các thầy tu hành khất truyền thống này, “Hi fu mi, hachi gaeshi”, “Một hai ba, nhảy qua cái bát khất thực”). Họ thuyết phục các Shogun cấp cho họ “độc quyền” chơi nhạc cụ. Đổi lại, một số phải làm gián điệp cho Mạc phủ, và các Shogun cũng gửi một số gián điệp đến trong lốt nhà sư Fuke. Điều này được thực hiện dễ dàng hơn nhờ các giỏ đan bằng cây liễu gai mà các nhà sư Fuke đội trên đầu, một biểu tượng cho sự thờ ơ của họ với thế sự.

Đáp lại những bước phát triển này, một số đoạn honkyoku đặc biệt khó, ví dụ như Shika no tone, trở nên nổi tiếng như những “bài kiểm tra”: nếu bạn có thể thổi được chúng, bạn là một thiền sư Fuke thực thụ. Nếu bạn không thể, bạn có thể là một gián điệp và cũng rất có thể bị giết nếu bạn đang trong khu vực mang địch ý.


http://i748.photobucket.com/albums/xx130/Lindsay_091/200px-Himeji_Oshiro_Matsuri_August09_126.jpg
Nhạc công đang thổi shakuhachi trong lễ hội Oshiro Himeji lần thứ 60, năm 2009

Thời Minh Trị Duy Tân, bắt đầu vào năm 1868, Mạc phủ bị xóa sổ và giáo phái Fuke cũng vậy, để có thể xác định và loại bỏ dư đảng của shogun. Thổi shakuhachi đã chính thức bị cấm trong vài năm. Nhạc dân gian truyền thống không Fuke không bị ảnh hưởng nhiều từ việc này, vì các giai điệu có thể được chơi cũng dễ dàng như vậy trên các nhạc cụ ngũ âm khác. Tuy nhiên, các tiết mục honkyoku được biết đến chỉ dành riêng cho phái Fuke và được truyền thụ bởi việc lặp lại và thực hành, và phần lớn chúng đã bị mất đi, cùng với nhiều tài liệu quan trọng.

Khi chính phủ Minh Trị đã cho phép thổi lại shakuhachi một lần nữa, nó chỉ như một nhạc cụ kèm theo của shamisen, koto, vv Mãi cho đến sau này honkyoku mới lại được phép tấu những đơn khúc ngắn 1 cách công khai .

Shakuhachi theo truyền thống hầu như chỉ được thổi bởi đàn ông Nhật Bản, tuy nhiên tình hình đang thay đổi nhanh chóng. Nhiều giáo viên âm nhạc truyền thống shakuhachi chỉ ra rằng đa số sinh viên của họ là phụ nữ. Năm 2004 Big Apple Shakuhachi Festival tại thành phố New York đã tổ chức buổi hòa nhạc đầu tiên của những bậc thầy shakuhachi quốc tế là phụ nữ. Lễ hội này được tổ chức và dàn dựng bởi Ronnie Nyogetsu Reishin Seldin, bậc thầy shakuhachi đầu tiên có công việc giảng dạy toàn thời gian ở Tây Bán Cầu. Nyogetsu cũng có 2 Bằng Dại Shihan (Hàm tiến sĩ) , và điều hành KiSuiAn, Shakuhachi Dojo lớn nhất và tích cực nhất bên ngoài Nhật Bản, từ năm 1975.

Người nước ngoài ngoài đầu tiên trở thành một bậc thầy shakuhachi là người Mỹ-Ostria Riley Lee. Lee đã chịu trách nhiệm về Lễ hội Shakuhachi Thế giới được tổ chức tại Sydney, Australia ngày 05-08 tháng 7 năm 2008, có trụ sở tại Sydney Conservatorium Music.

Các bản thu âm

Bản thu âm Shakuhachi đầu tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ là Bell Ringing in an Empty Sky (Tiếng chuông ngân vang trên bầu trời trống trải), biểu diễn bởi Goro Yamaguchi cho Nonesuch Explorer Records on LP

Những bản thu âm mới của âm nhạc shakuhachi tương đối phong phú , đặc biệt là trên các nhãn hiệu Nhật Bản và ngày càng gia tăng ở Bắc Mỹ, Châu Âu, và Úc. Mặc dù nhạc cụ này đôi khi được coi là kỳ quặc và lỗi thời ở Nhật Bản, nó lại rất được hoan nghênh ở nước ngoài.

Các thể loại chính của nhạc shakuhachi là

* Honkyoku (truyền thống, solo),
* Sankyoku (hợp tấu với đàn Koto và shamisen), và
* Shinkyoku (những sáng tác âm nhạc mới cho shakuhachi và koto, các tác phẩm sau thời kỳ Minh Trị thường chịu ảnh hưởng của âm nhạc phương Tây).

Shakuhachi thường được dùng trong các bộ phim hiện đại, đặc biệt những film của James Horner. Các bộ phim, trong đó shakuhachi là đặc trưng nổi bật bao gồm: Huyền thoại mùa thu và Trái tim can đảm của James Horner, Jurassic Park và các phần tiếp theo của nó của John Williams và Don Davis, và The Last Samurai của Hans Zimmer và Hồi ức của một Geisha của John Williams.

Trong lĩnh vực âm nhạc đương đại, nhạc phẩm của Carlo Forlivesi cho shakuhachi và guitar Ugetsu (雨 月) là một trong những tác phẩm thử thách nhất từng được viết cho nhạc cụ. “Các kỹ thuật biểu diễn mang theo độ khó rất đáng kể trong một vài tình huống hoàn toàn mới: một chuyển động táo bạo của ‘sự bành trướng’ với những truyền thống tương ứng của hai nhạc cụ bị dồn ép đến mức có khi chúng bị đẩy đến những thời điểm của các giới hạn về khả năng của chúng, với mục đích là để shakuhachi và guitar chơi trên cấp độ và với trình độ điêu luyện (hai nhạc cụ khác biệt sâu sắc về văn hóa và thanh âm), do đó càng làm tăng thêm phạm vi biểu cảm, kết cấu của các cuộc đối thoại, kích thước hài hòa và màu sắc giai điệu

Tổng hợp shakuhachi

Âm thanh của shakuhachi cũng đôi khi nổi bật lên trong nền âm nhạc không phải của người Nhật cũng không mang tính truyền thống, từ electronica đến rock-pop đến nhạc jazz, đặc biệt là sau khi được thường được vận chuyển như là một loại nhạc cụ “cài sẵn” trên những sự tổng hợp đa dạng và keyboard bắt đầu từ năm 1980. Dưới đây là danh sách các bài hát nổi tiếng từ nhiều thể loại âm nhạc, nơi bạn có thể nghe thấy âm thanh điện tử hoặc mô phỏng shakuhachi.


Theo tieulocloc.wordpress

nic-chan
12-02-2012, 12:13 AM
E muốn học cách thổi Shakuhachi quá :32-music::32-music:

Kasumi
20-02-2012, 01:15 AM
Nãy giờ lục lọi khắp nơi tìm hiểu xem hồ Biwa (http://japanest.com/forum/showthread.php/40138-H%E1%BB%93-Biwa) và đàn Biwa (Tỳ Bà) có quan hệ j với nhau không nhưng đáng tiếc là chẳng có manh mối j cả :"> Sẳn tiện sang đây post luôn thông tin về loại đàn này. Tuy Tỳ Bà ko có xuất xứ từ Nhật Bản nhưng cũng nằm trong danh sách các nhạc cụ dân gian, nên chắc post vào đây cũng là hợp lí :)

---

ĐÀN TỲ BÀ


Dưới đời Đường, Trung Quốc có ba loại nhạc: Ya Yue (Nhã nhạc) là nhạc dùng trong các cuộc tế lễ và trong triều đình; Su Yue (Tục nhạc) là nhạc dùng trong dân gian và Hu Yue (Hồ nhạc) là các loại nhạc của các nước “rợ Hồ”. Nhạc Ya Yue và Su Yue từ Trung Quốc đã du nhập Nhật Bản dưới thời Nara (645-793), biến thành Gagaku (Nhã nhạc) của Nhật Bản, trong dàn nhạc có hai cây đàn mang tên là Gaku Biwa (nhạc Tỳ Bà).


http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/SawbxgoKCtcAAHi-tmU1/gakubiwa02.jpg?et=RLruN2Z7b6uHWnuCBWGxbA&nmid=0
Gakubiwa

http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/SawoLAoKCtcAAG@Chew1/saibara-biwa-sho.jpg?et=qF92lzUsMUVjhsqaSRgDPw&nmid=0
Nhạc công gảy Biwa trong dàn Gagaku Nhật Bản

Đến thời đại Heian (794-1191) xuất hiện một loại Biwa khác dùng để phụ họa cho những người hát kể chuyện thăng trầm của gia đình quý phái Heike, một loại anh hùng ca. Và dàn nhạc đó được gọi là Heike Biwa.


http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/SawcFgoKCtcAAHyxzgE1/biwa16.jpg?et=Va%2BMWAzb3FAsmxDqrRSPoA&nmid=0
Heikebiwa


http://youtu.be/vnIQl5CZRr8
Video một nhạc công gảy Heikebiwa

Đến cuối của thời Muromachi (1338-1573), tại phía Nam của tỉnh Kyushu, dưới sự lãnh đạo của ông hoàng vùng Satsuma, một cây đàn Biwa khác dùng để kể chuyện, nhưng tiết tấu dồn dập hơn, chỉ đờn trong khi người kể chuyện nghỉ hát để lấy hơi, và cách phối hợp hai kỹ thuật Moso Biwa và Heike Biwa, đó là Satsuma Biwa.


http://farm3.static.flickr.com/2197/2303526788_239b06ce62.jpg?v=0
Mosobiwa

http://www.city.kagoshima.lg.jp/library/shimin/6keizai/6-4kigyo/6-4-1a/6-4-1-3/29d1f4a83d60d8caf687247880558c9f.jpg
Satsumabiwa


http://youtu.be/Rl_GXQIzAUM
Video Nghệ sĩ Yukihiro Goto biểu diễn Satsuma Biwa

Trong thời đại Meiji (1868-1912), phía Bắc của tỉnh Kyushu xuất hiện một cách đàn Biwa mới, tùy phỏng theo Moso Biwa và Satsuma Biwa, có pha một chút kỹ thuật của đàn tam Shamisen. Đàn đó được gọi là Chikuzen Biwa, dùng để biểu diễn âm nhạc của thời đại và từ Kyushu đàn được phổ biến lên miền Bắc tận Tokyo.


http://www.city.oyabe.toyama.jp/hkikaku/megan/img/9/KitagawaUtamaro_shamisen.jpg
Shamisen (đàn 3 dây)

http://www.leejisun.com/images/chikuzenbiwa.jpg
Chikuzenbiwa

Từ một cây đàn Pipa của Trung Quốc, sang Nhật Bản, đã biến thành năm loại đàn khác nhau: Gaku Biwa trong nhạc Cung Đình, Moso Biwa trong chùa, Heike Biwa cho những người chuyên hát kể chuyện Heike, Satsuma Biwa phối hợp hai cách đàn Moso và Heike, Chikuzen Biwa dành cho những nhạc sĩ tấu nhạc không lời. Mỗi nhạc khí đều giữ hình thức đặc thù, không có nhiều phím, chỉ bốn, năm phím, không đàn theo cách tạo nhiều chữ đàn, mà đàn chậm rãi, có nhiều chữ rung, nhấn theo phong cách của Nhật Bản.

Người Nhật biết tạo một nét đặc thù cho các nhạc khí Heike Biwa, Satsuma Biwa và không bao giờ nghĩ đến cách đóng đàn Biwa, hay đàn Biwa theo cách của Pipa Trung Quốc, và nhờ đó được người yêu nhạc trên thế giới tìm nghe các đàn Tỳ Bà Nhật Bản không ngoại lai.


http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/SawgEwoKCtcAAEtZwdQ1/photo-SawgEwoKCtcAAEtZwdQ1.jpg?et=kAWmUYYri1XC126PtQ9Ecw&nmid=0
Satsuma Biwa (薩摩琵琶) Heike Biwa (平家琵琶) Moso Biwa (盲僧琵琶)


http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/SawjEgoKCtcAABFLf7w1/Bieu-dien-ngu-huyen-ty-ba.jpg?et=GrPJkNYvWDhwhq7PgcZBpQ&nmid=0
Nghệ sĩ biểu diễn đàn Biwa (Ngũ huyền Tỳ Bà - 5 dây)

Các nghệ sĩ biểu diễn Biwa Nhật Bản


http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/SawonwoKCtcAAH3TNqc1/Biwa-Player.jpg?et=gXjWyq8xGa1lluT5SI81ig&nmid=0

http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/SawotgoKCtcAAHxhLcY1/biwa-03.jpg?et=c%2CLS0LTlxoFEuarR2IbOsA&nmid=0

http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/Sawo5QoKCtcAAAI9SsQ1/kyokuho-otogi-chikuzen-biwa.jpg?et=hBh4mvSm4idOhIyGpEUeDA&nmid=0

http://images.trantruongca.multiply.com/image/1/photos/upload/300x300/SawpBgoKCtcAAAg9ZCA1/ngu-huyen-ty-ba.jpg?et=yfCLRdxxbZI3RDaww0%2C0jA&nmid=0


TRẦN VĂN KHÊ
catruthanglong

Ngọc_san
20-02-2012, 01:55 AM
sao thấy trong NHK họ nói đàn Biwa là du nhập từ Ba Tư chứ ko phải TQ:22-idle:

Kasumi
20-02-2012, 02:04 AM
Trong bài viết đâu có nói đàn Tỳ Bà xuất xứ TQ đâu Ngọc :| Ko nguyên văn nhưng qua bài viết có thể rút ra là đàn Tỳ Bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi Pipa, rồi ở Nhật Bản với tên gọi Biwa và VN mình là Tỳ Bà thôi.

Ngọc_san
20-02-2012, 02:23 AM
uhm tại N ko thấy nêu rõ xuất xứ of đàn, chỉ biết là Gagaku du nhập từ TQ và trong đó có đàn Biwa.

Từ một cây đàn Pipa của Trung Quốc, sang Nhật Bản, đã biến thành năm loại đàn khác nhau
Mà N nghĩ câu này cũng mún nói nó xuất thân từ cây Pipa, hay là hôm đó mình xem mà đầu óc để đâu nên nghe lộn nhỉ:22-idle:.
Mà sao mấy cây đàn of Nhật ko gảy bằng tay mà có kèm thanh gỗ hình cây quạt nhìn phong cách ghê hen:53-fast:
---------------------
vừa mới tìm tt, đúng là xuất thân từ Ba Tư :D

Kasumi
20-02-2012, 02:36 AM
Xuất xứ thì là Ba Tư đúng rồi đó :D

Xác nhận lại cho chắc ăn :">


Ðã là hồ cầm mà có bốn dây thì chỉ có đàn tỳ bà - người Trung Quốc và Triều Tiên gọi là Pipa, người Nhật Bản gọi là Biwa. Người Trung Quốc cũng gọi đàn pipa là huqin, tức là hồ cầm, vì đàn ấy không phải do người Trung Quốc chế ra mà của dân tộc vùng Tây á đem vào. Giáo sư người Nhật Tanabe Hisao và Kishibe Shigeo cho rằng đàn pipa có thể bắt nguồn từ đàn barbat của người Ba Tư, đã theo con đường buôn bán tơ lụa ngày xưa mà nhập vào Trung Quốc, rồi sau đó sang Triều Tiên, Nhật Bản rồi đến Việt Nam.

Kasumi
26-03-2012, 04:14 PM
Đàn Koto

Đàn Koto (琴 hoặc 筝) là một loại nhạc cụ truyền thống của Nhật Bản, nó tương tự như đàn guzheng của Trung Quốc. Đàn Koto được xem là nhạc cụ dân tộc của nước Nhật. Koto có chiều rộng khoảng 180 cm ( tương đương với 71 in) và được làm từ gỗ kiri (Paulownia tomentosa). Nó có 13 dây được nối vào 13 con chắn có thể dịch chuyển dọc theo chiều rộng của thân đàn. Người chơi có thể điều điều chỉnh cường độ âm tiết của đàn trước khi sử dụng bằng cách di chuyển các con chặn này. Thông thường, người chơi đàn Koto sẽ sử dụng ba ngón tay (đầu ngón tay cái, ngón trỏ và ngón giữa) để gảy đàn.


http://i1203.photobucket.com/albums/bb384/trankt01/Japan/800px-Japanese_Koto.jpg
Đàn Koto 13 dây theo phong cách Nhật Bản

Một trong những cách viết từ koto thông dụng là: 筝 và nó được phát âm là sō. Mặc dù nó cũng thường được gọi bằng một số tên khác, nhưng đa số các tên gọi này đều tương tự nhau, chẳng hạn như đàn guzheng của Trung Quốc được viết là (筝) hoặc guqin (琴, trong tiếng Nhật Bản phát âm là kin).

Lịch sử

Đàn koto được phát minh vào đầu thế kỷ thứ 5 và trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 8, đàn Koto lần đầu tiên được truyền bá đến Nhật Bản từ Trung Quốc. Phiên bản đầu tiên của đàn Koto chỉ có năm dây đàn, trong khi phiên bản đàn Koto hiện tại có tới bảy dây. (Koto vốn có mười hai dây khi nó lần đầu tiên được truyền bá đến vùng Nara, Nhật Bản vào những năm 710 – 784 và sau đó tăng lên đến mười ba dây). Loại nhạc cụ này được sử dụng rất phổ biến trong khắp khu vực Châu Á, dưới nhiều hình thái khác nhau: Đàn Koto ở Nhật Bản là một phiên bản biến tấu từ đàn Qin, tại Hàn Quốc nó là tổ tiên của loại đàn gayageum và được gọi là Đàn Tranh tại Việt Nam. Loại nhạc cụ đa dạng này được phân làm hai chủng loại lớn, Dạng đàn có con chặn và dạng đàn không có con chặn. Loại đàn thông dụng nhất tại Trung Quốc là đàn Qin, nó tương tự với hầu hết các loại đàn truyền thống khác ở các nước châu Á.


http://i1203.photobucket.com/albums/bb384/trankt01/Japan/800px-Koto_sou-overview.jpg

Tổng quan về đàn Koto

Ban đầu khi đàn Koto được nhập khẩu vào Nhật Bản, thuật ngữ “Koto” được sử dụng cho cho toàn bộ các nhạc cụ có dây của Nhật. Theo thời gian, ngày càng có nhiều chủng loại nhạc cụ có dây du nhập vào Nhật và từ Koto không sử dụng thể định nghĩa chung cho tất cả. Nhóm nhạc cụ goto Azuma hay còn gọi là yamatogoto được đổi thành wagon, nhóm nhạc cụ kin no koto trở thành kin, và nhóm sau no koto đổi thành so hoặc koto.

Đàn koto hiện đại xuất thân từ đàn so hay còn gọi là gakuso, được sử dụng trong các ban nhạc cung đình Nhật Bản. Đó là một loại nhạc cụ phổ biến trong giới thượng lưu; trong đó thì đàn koto được xem là loại nhạc cụ lãng mạng nhất. Một số bản nhạc độc tấu mang tính văn học hoặc sử học được thể hiện bằng đàn koto đã tồn tại hàng thế kỷ trước khi có sokyoku hay còn gọi là dòng nhạc koto độc tấu được thành lập. Nền văn học Nhật Bản xem đàn koto như một biểu tượng âm nhạc truyền thống. Trong một chương của tác phẩm "The Tales of Genji (Genji monogatari)", nhân vật chính Genji đã mang lòng yêu da diết một người phụ nữ bí ẩn, người mà anh chưa bao giờ được gặp mặt nhưng đã mang lòng yêu chỉ qua một lần nghe tiếng đàn koto của cô.


http://i1203.photobucket.com/albums/bb384/trankt01/Japan/KotoPlayer.jpg
Masayo Ishigure đang sử dụng đàn Koto 13 dây

Lịch sử của đàn Koto được bắt đầu từ thế kỷ thứ 16 ở Nhật Bản. Tại thời điểm này một thầy tu của đạo Phật có tên là Kenjun (Sinh năm 1547 và mất năm 1636), người sống ở phía Bắc vùng Kyūshū, đã bắt đầu sáng tác các khúc nhạc dùng cho đàn koto, và lập nên trường phái nhạc "Tsukushi goto".

Có lẽ người có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến sự phát triển của đàn Koto là ông Yatsuhashi Kengyo (1614-1685). Ông là một nhạc sĩ mù tài năng sống tại Kyoto người thay đổi giới hạn phối âm của đàn từ sáu âm tiết sang một phong cách hoàn toàn mới mà ông đặt tên là Uta Kumi. Yatsuhashi đã thay đổi âm độ của âm goto Tsukushi – âm tiết dựa trên âm điệu của đàn gagaku, và với sự thay đổi này, một phong cách mới của đàn Koto được sinh ra. Và vì thế mà ngày nay, người ta gọi Yatsuhashi Kengyo là "Cha đẻ của đàn Koto hiện đại".

Những phát minh mới của Nhật Bản trong việc chế tạo ra những loại đàn tam thập lục không có con chăn bao gồm: đàn koto một dây (ichigenkin) và đàn koto hai dây (nigenkin hoặc yakumo goto) khoảng những năm 1920, Goro Morita đã tạo ra một phiên bản mới của đàn goto hai dây. Trong loại đàn goto này, người sử dụng sẽ nhấn các phím phía trên những dây đàn kim loại – nó tương tự như loại đàn autoharp ở phương Tây. Nó được đặt tên là Taisho goto sau khi triều đại Taisho.

Vào đầu thời kỳ Minh Trị (1868-1912), âm nhạc phương Tây du nhập vào Nhật Bản. Michio Miyagi (1894-1956), một nhà soạn nhạc mù nhưng rất sáng tạo và ông cũng đồng thời là một người trình diễn, được xem là nhà soạn nhạc người Nhật Bản đầu tiên kết hợp âm nhạc phương Tây với âm nhạc truyền thống của đàn koto. Miyagi được mọi người quí trọng vì ông đã có công tái sinh lại âm nhạc koto khi mà nghệ thuật truyền thống Nhật Bản đã bị lãng quên và thay thế cho nó là luồng tư tưởng phương Tây. Ông đã viết hơn 300 tác phẩm mới cho đàn koto trước khi ra đi bất ngờ trong một tai nạn xe lửa ở tuổi 62. Ông cũng là người phát minh ra đàn bass koto 17 dây, tạo ra các kỹ thuật chơi mới, cải tiến phong cách truyền thống, và quan trọng nhất là ông đã truyền bá rộng rãi âm nhạc truyền thống Nhật Bản. Ông đã kết hợp đàn koto và shakuhachi để trình diễn bài hát Haru no Umi (Spring Sea) và còn sử dụng nhiều nhạc cụ dân tộc khác trong các chuyến lưu diễn ở nước ngoài năm 1928. Bản Haru no Umi thậm chí còn được dùng để chào đón năm mới tại Nhật Bản.

Kể từ sau thời đại của Miyagi, nhiều nhà soạn nhạc khác như Tadao Sawai (1937-1997) đã viết và trình diễn các tác phẩm để tiếp tục phát triển loại nhạc cụ này. Góa phụ Kazue Sawai, với tư cách là con gái của một người đệ tử của Miyagi, đã đóng góp rất lớn cho cho việc quốc tế hoá và hiện đại hoá dòng nhạc này. Việc cô biên soạn lại tác phẩm piano "Three Dances" của nhà soạn nhạc John Cage để sử dụng cho đàn bass koto là một bước ngoặt lớn trong thời nến âm nhạc koto hiện đại.

Cấu tạo

Đàn koto thường được làm bằng gỗ Paulownia. Giai đoạn sơ chế gỗ trước khi tạo thành đàn koto rất phức tạp. Để sử dụng trong mùa chế tạo đàn koto, người chế biến phải phơi các cây gỗ này trên mái nhà ít nhất một năm. Tuy nhiên trong số đó cũng có một số loại gỗ có công đoạn sơ chế đơn giản hơn. Kotos có thể có hoặc không được trang trí, một số cách trang trí thường dùng bao gồm: khảm ngà voi hoặc làm từ gỗ mun, mai rùa, kim loại …


http://i1203.photobucket.com/albums/bb384/trankt01/Japan/800px-Koto_sou-ji.jpg
Ji (Con chặn)

Các con chắn (ji) thường được làm bằng ngà voi, nhưng ngày nay nó thường được làm bằng nhựa, và đôi khi bằng gỗ. Có một số sự khác biệt nhỏ mà ít người để ý đến, có những loại con chắn nhỏ, cũng như những con chắn với ba độ cao khác nhau, tuỳ thuộc vào nhu cầu điều chỉnh âm tiết của người sử dụng. Khi bỏ sót một con chắn nhỏ vì bất cẩn, người chơi có thể chữa cháy bằng cách kéo một con chắn ở phía trên xuống. Tất nhiên, với sự sắp xếp tạm thời này, con chắn sẽ có khuynh hướng tuột xuống dưới. Những con chắn cũng khá dễ vỡ trong lúc chơi đàn, và đặc biệt thường xuyên xảy ra ở các loại nhạc cụ phải thường xuyên sử dụng đến nó, các con chắn có thể sẽ rơi ra trong quá trình chơi, đặc biệt là khi người chơi nhấn các dây đàn. Tuy nhiên, người ta cũng có bán khá nhiều loại vật liệu dùng để giữ cố định cho chốt cài của con chắn, giúp hạn chế sự dịch chuyển của nó trong lúc chơi đàn.


http://i1203.photobucket.com/albums/bb384/trankt01/Japan/800px-Koto_sou-ryubi.jpg
Các chi tiết của đàn Koto

Các dây đàn được làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau. Nhưng thông dụng nhất là các loại dây làm từ nhựa tổng hợp. Dây làm bằng tơ vẫn còn được sản xuất. Dây đàn bằng tơ tằm thường có màu vàng, nhưng nó khá mắc và không bền, tuy nhiên nó có thể phát ra nhiều âm tiết đặc biệt hơn. Các dây đàn thường được kéo căng và nối với một ống giấy hoặc ống carton có kích cỡ tương đương đầu lọc của điếu thuốc, nó được căn ngang các lỗ ở phía đầu của đàn koto và luồng qua các lỗ ở phía sau, thắt chặt, và cột lại bằng một nút thắt đặc biệt. Việc lắp dây vào đàn có thể được thực hiện bằng máy móc, nhưng đa số đàn koto đều được thắt dây và buộc bằng tay. Người ta có thể thắt chặt dây đàn bằng cách kéo sợi dây từ phía sau, ngồi ở phía bên hông đàn koto, mặc dù các công đoạn này khó khăn hơn và đòi lực tay phải mạnh. Một số đàn koto được cài đặt nút điều chỉnh âm độ (giống như đàn piano), để có thể điều chỉnh âm thanh dễ dàng hơn.

Đàn Koto ngày nay

Sự du nhập của nhạc pop từ phương Tây đã làm giảm vị trí của đàn koto tại Nhật Bản, mặc dù nó vẫn được nghiên cứu và phát triển như một loại nhạc cụ dân tộc. Đàn bass koto 17 dây, được gọi là jūshichi-gen tại Nhật Bản, đã trở nên khá nổi bật trong những năm qua kể từ khi nó được cải tiến bởi Michio Miyagi. Ngoài ra còn có dạng đàn koto 20 dây, 21 dây, và koto 25 dây. Hiện nay có nhiều bản nhạc đang được soạn cho loại đàn koto 20 dây, 25 dây và bass kotos 17 dây. Cùng với sự ra đời tầng lớp ca sĩ thế hệ trẻ của Nhật Bản như chuyên gia về đàn koto - Kazue Sawai và các học sinh của cô bao gồm Michiyo Yagi, Reiko Obata một ca sĩ người Mỹ gốc Nhật, họ đang cố gắng tạo chỗ đứng cho đàn koto bằng cách kết hợp nó với dòng nhạc jazz và thậm chí họ còn đang nghiên cứu để thử kết hợp nó với dòng nhạc pop. Các thành viên của ban nhạc Rin' nổi tiếng với thể loại jūshichi-gen trong giới ca nhạc (pop / rock) hiện đại.


http://i1203.photobucket.com/albums/bb384/trankt01/Japan/800px-Himejijo_Kangetsukai_Oct09_125.jpg
Buổi hoà tấu đàn Koto tại Himejijo kangetsukai năm 2009

Các nhóm độc tấu nổi tiếng thường lưu diễn ở nước ngoài gồm có: chuyên gia về đàn koto và cũng là nghệ sĩ Elizabeth Falconer người đã từng đoạt giải thưởng thưởng về âm nhạc, đồng thời là người đã bỏ ra trên mười năm để nghiên cứu về đàn koto tại trường Sawai Koto School, Tokyo; Bên cạnh đó chuyên gia đàn koto, Linda Kako Caplan, một đại chuyên gia gốc Canada và là nghiên cứu sinh của học viện Fukuoka’s Chikushi Koto School trong hơn hai mươi năm. Yukiko Matsuyama điều hành ban nhạc KotoYuki của cô tại Los Angeles. Các tác phẩm cô viết thường pha trộn âm sắc của âm nhạc hiện đại thế giới với phong các văn hoá cổ điển Nhật Bản. Một đệ tử khác của Sawai, anh Masayo Ishigure, hiện đang quản lý một trường học tại Thành phố New York.


http://i1203.photobucket.com/albums/bb384/trankt01/Japan/Yagi_Michiyo_playing_koto.jpg
Yagi Michiyo đang sử dụng đàn Koto 21 dây

Trong tháng ba, năm 2010, đàn koto nhận được sự quan tâm mạnh mẽ của quốc tế khi đoạn video về giải thưởng the Grammy Award-winning của một ban nhạc rock được đăng lên trang web của họ và trở thành một cú “hit” mạnh. Đoạn video trình chiếu một đoạn biểu diễn độc đáo của thành viên Brett Larner - người chơi Soemon trong việc điều chỉnh các tông độ cho bản "Lateralus" sao cho phù hợp với đàn koto sáu dây và đàn bass koto hai dây. Trước đó, Larner đã từng song tấu đàn koto với John Fahey, Jim O'Rourke và các thành viên của nhóm nhạc rock độc lập bao gồm Camper Van Beethoven, Deerhoof, Jackie O Mother****er và Mr.Bungle.

Trong nhạc pop và rock cổ điển, David Bowie đã sử dụng đàn koto trong dàn nhạc cụ khi trình diễn bản "Moss Garden" trong album "Hero" của mình. Paul Gilbert, một tay shred guitar nổi tiếng, thu âm cùng với vợ mình, Emi bằng đàn koto trong bản nhạc "Koto Girl" do ông sáng tác trong album Alligator Farm. Visual Kei trong ban nhạc Kagrra, được biết đến là người sử dụng nhiều nhạc cụ truyền thống Nhật Bản nhất trong các ca khúc của họ, một ví dụ điển hình là bản "Utakata" (うたかた), một bài hát mà mà nhạc cụ được sử dụng chính là đàn koto. Winston Tông, người ca sĩ với biệt danh Tuxedomoon, đã sử dụng koto trong bài hát 15-phút của mình, "The Hunger" trong album solo đầu tay của mình. Ban nhạc rock Queen đã sử dụng một cây đàn koto (đồ chơi) trong bản "The Prophet’s Song" trong album phát hành năm 1975 của họ “A Night at the Opera”. Album phát hành năm 1999 của Dr Dre với tựa đề “Chronic 2001” đã kết hợp những tính năng nổi bật của koto trong hai bài hát - "Still D.R.E" và "The Message". Trong khi, David Horvitz sử dụng koto theo một phong cách hiện đại của nhạc indie rock trong album “Xiu Xiu” và “The Air Force”.

Sự tác động của đàn koto đến các dòng nhạc phương Tây còn thể hiện qua dòng nhạc jazz. Thang âm "in-sen", một thang âm có năm nốt, lần đầu tiên được sử dụng trong nhạc jazz của John Coltrane và McCoy Tyner (một nghệ sĩ đàn Koto) và nó dựa trên những âm điệu của đàn koto. Nghệ sĩ dương cầm của dòng nhạc Jazz, Dave Brubeck viết bản "Koto Song” tuy nhiên, bản nhạc này lại không được viết giành cho đàn koto mà thay vào đó là đàn piano, bản nhạc thể hiện được những nét độc đáo trong thang âm của piano. June Kuramoto của nhóm nhạc jazz fusion Hiroshima là một trong những người đầu tiên trình diễn koto dưới hình thức nhạc đương đại không theo dạng fusion truyền thống. Reiko Obata, người sáng lập ban nhạc Jazz East West, cũng là người đầu tiên thực hiện và thu âm một album nhạc jazz dựa trên nhạc cụ chính là đàn koto. Obata còn là người đầu tiên thực hiện một đĩa DVD hướng dẫn những thao tác căn bản của đàn Koto bằng tiếng Anh với tiêu đề "You Can Play Koto". Brett Larner còn mở rộng hoạt động âm của mình trong dòng nhạc jazz, thực hiện một CD đôi với Anthony Braxton một nhạc sĩ saxophone huyền thoại và đồng thời cũng là một nhà soạn nhạc.


sandy
VnSharing

Kasumi
27-03-2012, 08:09 PM
SÁO

Fue (笛, hiragana: ふえ) là tên tiếng Nhật của sáo, và nó cũng được dùng để nói đến lớp học sáo xuất phát từ Nhật. Fue có rất nhiều loại, nhưng nói chung đều có thanh âm cao và được làm bằng tre gọi là shinobue. Loại sáo được dùng phổ biến nhất là shakuhachi.

Phân loại

Fue truyền thống được chia làm 2 loại cơ bản - sáo ngang và sáo dọc. Sáo ngang được thiết kế cho các nhạc sĩ thổi qua lỗ gần đầu nhất. Sáo dọc được thiết kế theo chiều dọc và nhạc sĩ thổi vào 1 đầu.

Lịch sử

Fue đầu tiên được phát triển từ ống thổi được gọi là paixiao của Trung Quốc. Nó được du nhập vào Nhật từ thế kỷ thứ V, và được phổ biến trong thời kỳ Nara.

Ngay sau khi Fue ra đời, các thành viên giáo phái Fuke thuộc Thiền định Phật giáo đã dùng shakuhachi. Những "linh mục hư vô" đã xem chúng như một công cụ tinh thần, dùng chúng cho suizen, hoặc "thổi thiền định". Fue hiện đại có thể được nghệ sĩ dùng để thổi một mình hoặc đồng diễn cùng các nhạc cụ khác.

Nhạc cụ

Sáo Nhật bao gồm nhiều loại sau:




Hình ảnh
Tên
Loại
Mô tả


http://i1094.photobucket.com/albums/i455/RualuvNatamikun/Recycle/75px-Shakuhachi-2.png
Shakuhachi
Dọc
Một trong những loại sáo phổ biến và lâu đời nhất của Nhật Bản


http://i1094.photobucket.com/albums/i455/RualuvNatamikun/Recycle/75px-Hichiriki.jpg
Hichiriki
Dọc
Một loại sáo độc đáo với 2 nhạc cụ thổi



Gakubue
Ngang
Sáo truyền Thống


http://i1094.photobucket.com/albums/i455/RualuvNatamikun/Recycle/100px-Komabue_fue.jpg
Komabue
Ngang
Đây là loại sáo dành cho Komagaku, một loại âm nhạc kết hợp với các điệu múa gagaku hoàng gia


http://i1094.photobucket.com/albums/i455/RualuvNatamikun/Recycle/35px-Ryuteki.jpg
Ryūteki
Ngang
Được sử dụng trong âm nhạc Nhật có xuất xứ từ Trung Quốc, âm thanh của nó được xem là đại diện của Rồng khi bay lên.


http://i1094.photobucket.com/albums/i455/RualuvNatamikun/Recycle/100px-Nohkan.jpg
Nohkan
Ngang
Một cây sáo được sử dụng trong kịch Noh và khúc đồng diễn Hayashi


http://i1094.photobucket.com/albums/i455/RualuvNatamikun/Recycle/75px-Shinobue_3types.jpg
Shinobue
Ngang
Cũng được gọi là sáo trúc, được sử dụng cho nagauta, làm nhạc nền trong các nhà hát kabuki


http://i1094.photobucket.com/albums/i455/RualuvNatamikun/Recycle/100px-Kagurabue.jpg
Kagurabue
Ngang
Sáo này được sử dụng trong một loại nhạc của Nhật gọi là Mikagura. Nó dài 45.5 cm, là loại sáo dài nhất


http://i1094.photobucket.com/albums/i455/RualuvNatamikun/Recycle/35px-Minteki_2.jpg
Minteki aka Seiteki
Ngang
Dùng trong các dịp lễ





VnSharing

Kasumi
26-04-2012, 12:13 AM
Nhạc cụ truyền thống bằng thủy tinh ở Nhật Bản

Trống và sáo là hai loại nhạc cụ chính trong âm nhạc truyền thống của Nhật Bản, trong đó có trống cầm tay Tsuzumi với hình dạng giống như đồng hồ cát. Thường được làm bằng da và gỗ cứng như gỗ cây anh đào, trống Tsuzumi nổi tiếng với âm độ cao và là loại trống duy nhất ở Nhật được đánh bằng tay trần không cần dùi trống.


http://thvl.vn/data/upload_file/Image/2010Anh/tsuzumi.jpg
Tsuzumi truyền thống

Cô Kaho Tosya - nghệ sĩ biểu diễn trống – cho biết, dù trống thủy tinh chưa thật hoàn chỉnh như trống truyền thống, nhưng chúng vẫn phát ra những âm thanh rất thú vị, khác biệt với những loại trống khác mà cô thường sử dụng.

Để cho ra mắt 5 loại nhạc cụ bằng thủy tinh độc đáo này, một nhóm gồm 13 thợ thủ công thủy tinh đã phải làm việc trong hơn 19 tháng qua với chi phí khoảng 10 triệu yên, tương đương 109.000 USD. Các loại nhạc cụ bằng thủy tinh này là ý tưởng của nghệ sĩ thổi sáo Gazan Watanabe, 48 tuổi, người cho rằng thủy tinh là loại vật liệu hoàn hảo để chế tạo nhạc cụ Nhật Bản. Ông cho biết :

- Một trong những đặc điểm của nhạc cụ Nhật Bản là độ rắn của vật liệu dùng chế tạo nhạc cụ. Chúng ta cũng có thể tìm thấy độ rắn và sự trơn láng tương tự ở các loại nhạc cụ thủy tinh này.

Ông Watanabe cũng cho biết, ông hy vọng các loại nhạc cụ thủy tinh này sẽ được sản xuất đại trà dễ dàng hơn các loại nhạc cụ bằng gỗ, giúp đưa các loại trống và sáo truyền thống này vào âm nhạc hiện đại.


Thu Thủy
THVL

Kasumi
29-06-2012, 08:41 PM
Taiko - Chiếc trống truyền thống của người Nhật Bản

Trong tiếng Nhật, “taiko” là chiếc trống. Thực ra, nó không phải là phát minh của người Nhật mà được du nhập từ Trung Quốc trong khoảng thế kỷ 5, 6 trước Công nguyên thông qua bán đảo Triều Tiên. Taiko đã thích nghi và phát triển nhanh trong môi trường văn hóa Nhật và cuối cùng trở thành một phần văn hóa Nhật.


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/06/TaikoDrummersAichiJapan.jpg/250px-TaikoDrummersAichiJapan.jpg

Nó được sử dụng khắp mọi nơi từ những nơi linh thiêng như chùa chiền cho đến hoàng cung, taiko có mặt trong cả các đền thờ thần đạo đến những làng chài ven biển.

Người Nhật phân biệt taiko làm 2 loại: Byou-uchi daiko là trống có thân làm bằng gỗ từ một thân cây được đục rỗng ruột. Còn Tsukushime-daiko là trống mà thân trống làm bằng nhiều miếng gỗ ghép lại. Nhiều người nghĩ rằng loại Byou-uchi daiko thường có kích thước nhỏ vì bị hạn chế bởi đường kính cây gỗ làm thân trống. Nhưng trong một số đền thờ, đã có những chiếc trống với kích thước rất to, gọi là Adaiko.


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/d/d6/Kodo_Taiko_Drum.JPG

Trống Taiko Nhật bản là một loại nhạc cụ được lưu truyền từ thời xa xưa, giữ vai trò quan trọng trong các lễ tế thần và trong các nghi lễ. Ngày nay, cùng với loại taiko truyền thống được lưu truyền từ đời này sang đời khác, các loại taiko hiện đại đã trở thành một nhạc cụ không thể thiếu trong nền âm nhạc Nhật Bản. Ngày nay người Nhật đã không ngừng phổ biến tiếng trống của họ ra khắp thế giới.

Các bộ phận của 1 taiko

Ko - thân trống.
Hara – vùng trung tâm của da trống.
Fuchi - cạnh trên và dưới của trống.
Kawa - da
Mimi - phần da thừa xung quanh taiko.
BYO - Đinh giữ da trên một taiko.
Kanagu, hoặc Kan - vòng tròn để cố định taiko. ("Kanagu" nghĩa đen có nghĩa là các đồ vật bằng kim loại, hoặc phần cứng).
Nawa - sợi dây thừng trên taiko


http://ecjalcolumbia2011.files.wordpress.com/2011/11/taiko_blk.jpg


Theo nama.edu

Seung_Hyun
01-07-2012, 12:56 PM
Đàn Koto

Một trong những cách viết từ koto thông dụng là: 筝 và nó được phát âm là sō. Mặc dù nó cũng thường được gọi bằng một số tên khác, nhưng đa số các tên gọi này đều tương tự nhau, chẳng hạn như đàn guzheng của Trung Quốc được viết là (筝) hoặc guqin (琴, trong tiếng Nhật Bản phát âm là kin).


Em xin được góp ý là Guzheng và Guqin là 2 nhạc cụ hoàn toàn khác nhau ạ :50-spin1:
Guzheng 21 dây và có ngựa đàn, còn Guqin chỉ 7 dây, không ngựa đàn và nhỏ hơn nhiều

Nhưng e cảm ơn vì bài Koto ạ :7-com:
Hay và rất chi tiết :")