PDA

View Full Version : [Truyện dài] Biểu tượng thất truyền- Dan Brown



kiemanh
05-10-2010, 01:09 PM
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Nguồn : Vnthuquan

Cuốn sách này là một tác phẩm hư cấu. Các tên gọi, nhân vật, tổ chức, địa danh, sự kiện trong cuốn sách này là giả tưởng và bất kỳ sự trùng khớp nào với người thật, đang sống hay đã chết đều hoàn toàn là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Sống trên thế giới mà không có ý thức về ý nghĩa của thế giới giống như là lang thang trong một thư viện rộng lớn mà không hề chạm tay vào một cuốn sách nào.

Những giáo điều bí mật của mọi thời đại
SỰ THẬT

Năm 1991, một tài liệu được khoá chặt trong két an toàn của Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA). Tài liệu hiện vẫn ở nguyên tại đó. Nội dung khó hiểu của nó có nhắc đến một cái cổng cổ xưa và một vị trí chưa biết đến dưới lòng đất. Tài liệu còn có một câu “Nó được chôn giấu đâu đó ngoài kia”.
Tất cả các tổ chức trong cuốn tiểu thuyết này đều có thật, kể cả Hội Tam điểm. Đại học Vô hình (Invisible College), Phòng An ninh, SMSC, và Học viện Khoa học Tinh thần (Institute of Noetic Sciences).
Tất cả các nghi thức, khoa học, tác phẩm nghệ thuật và các cách đo đạc trong cuốn tiểu thuyết này là có thật.

Phần mở đầu

Thánh viện Hội Tam điểm 8 giờ 33 phút tối.
Chết như thế nào là một điều bí ẩn.
Từ thuở khai thiên lập địa tới nay, chết như thế nào vẫn luôn luôn là một điều bí ẩn.
Kẻ nhập môn, 34 tuổi, đăm đăm nhìn xuống cái sọ người nằm gọn trên lòng bàn tay mình. Cái sọ đã được khoét rỗng như cái bát, đựng đầy một thứ rượu vang màu đỏ máu.
Uống đi, gã tự nhủ. Mày đâu có gì phải sợ.
Theo truyền thống, gã bắt đầu cuộc hành trình trong trang phục nghi lễ mà các tín đồ dị giáo thời Trung cổ vẫn mặc khi bị dẫn tới giá treo cổ. Chiếc áo rộng lùng thùng phơi ra bộ ngực xanh xao của gã, ống quần bên trái xắn lên đầu gối, còn ống tay phải vén tới tận khuỷu. Cổ gã tròng một sợi thòng lọng nặng trịch - hay sợi “cáp tàu kéo”, theo cách gọi của thành viên trong hội. Tuy nhiên đêm nay, gã phục sức như một vị huynh trưởng, tương tự các đồng đạo đang có mặt để làm chứng.
Các đồng đạo tụ tập quanh gã đều chải chuốt trong lễ phục đầy đủ của mình, gồm tạp dề bằng da cừu non, khăn quàng vai và găng tay trắng, trên cổ là những trang sức nghi lễ nhấp nháy một cách ma quái dưới ánh sáng lù mù. Nhiều người trong số họ nắm giữ những vị trí quan trọng ngoài đời, nhưng kẻ nhập môn biết rằng địa vị thế tục ấy chẳng có ý nghĩa gì giữa bốn bức tường này. Ở đây, tất cả mọi người đều bình đẳng, đều đã thề nguyện làm anh em và gắn bó với nhau nhờ một mối giao ước huyền bí.
Vừa đưa mắt thăm dò đám người xung quanh, kẻ nhập môn vừa tự hỏi, ở thế giới bên ngoài, ai mà ngờ được rằng những nhân vật kia lại có lúc cùng tập hợp ở một nơi… nhất là một nơi như thế này. Trông căn phòng chẳng khác nào một thánh điện sót lại từ thời viễn cổ.
Tuy nhiên, sự thật còn lạ lùng hơn nữa.
Ta chỉ cách Nhà Trắng có vài dãy nhà.
Toạ lạc ở số 1733 phố 16 Tây Bắc. Washington D.C. khu dinh thự đồ sộ này là phiên bản của đền Mausolus, một đền thờ từ thời tiền Công giáo, Ban đầu nó là một lăng mộ… dùng để chôn người chết. Ở lối vào chính có hai cánh cửa bằng đồng, do hai pho tượng nhân sư, nặng mười bảy tấn canh gác: Bên trong là một mê cung tráng lệ gom các phòng hành lễ, đại sảnh, hầm chứa gắn niêm phong, thư viện và còn nguyên một bức tường rỗng chứa hai bộ hài cốt người. Kẻ nhập môn nghe nói tất cả các phòng trong toà nhà này đều ẩn chứa những bí mật, nhưng gã chưa được đặt chân vào chỗ nào bí mật hơn Phòng Thánh lễ, chính là căn phòng rộng thênh thang, nơi gã đang quỳ gối với cái đầu lâu nằm gọn trên tay đây.

Phòng Thánh lễ vuông vức đến hoàn hảo, và hun hút như một cái hang. Trần nhà được đẩy lên đến tận độ cao 30 mét và ngự trên những cột chống bằng đá hoa cương xanh nguyên khối. Quây tròn quanh phòng là một hành lang dài giật cấp với nhiều ghế ngồi tối màu bằng gỗ hồ đào Nga bọc da lợn chế tác theo lối thủ công. Một chiếc ngai cao 9.9 mét nổi lên lừng lững ở mặt tường phía tây, đối diện với nó là bộ đàn ống ẩn kín. Các bức tường đều vẽ chi chít những biểu tượng cổ xưa, về Ai Cập, Do Thái, về thiên văn, giả kim, và rất nhiều ký hiệu lạ lùng chưa ai biết tới.

Đêm nay, Phòng Thánh lễ được thắp sáng bằng những ngọn nến bố trí theo một trật tự riêng. Quầng sáng lờ mờ của chúng chỉ được hỗ trợ thêm bằng cột ánh trăng nhợt nhạt lọt qua mắt vòm trần rọi thẳng xuống vị trí trung tâm, xuống điểm đáng chú ý nhất trong gian phòng hình vuông - đó là chiếc bàn thờ khổng lồ đẽo từ một khối cẩm thạch Bỉ đen bóng.
Cái chết là một điều bí ẩn, kẻ nhập môn nhẩm lại.
- Đến giờ rồi, - ai đó thì thầm.
Kẻ nhập môn ngước mắt lên. Một dáng người đường bệ khoác áo choàng trắng xuất hiện trước mặt gã. Đại Huynh trưởng. Giàu có, tráng kiện và rất được công chúng yêu mến, người đàn ông gần 60 tuổi này là một biểu tượng của nước Mỹ. Mái tóc có thời đen nhánh giờ đã ngả bạc, gương mặt nổi tiếng phản ánh một cuộc đời quyền uy và một trí tuệ siêu phàm.
- Hãy tuyên thệ đi, - Đại Huynh trưởng lên tiếng, giọng êm như ru - Hãy hoàn tất hành trình của đạo hữu.
Cũng giống như các hành trình khác, kẻ nhập môn phải bắt đầu con đường của mình ở cấp độ thấp nhất. Một đêm nọ, trong một nghi thức tương tự thế này, Đại Huynh trưởng đã bịt mắt gã bằng một băng vải nhung và ấn lưỡi dao găm hành lễ vào bộ ngực trần của gã, rồi hỏi:
- Ngươi có dám thề danh dự rằng ngươi tự ao và tự nguyện hiến mình làm ứng viên cho các đặc quyền cũng như những bí ẩn của Hội, không nhằm trục lợi hay vì bất kỳ động cơ hèn hạ nào khác không?
- Tôi xin thề, - kẻ nhập môn nói dối.
- Vậy hãy khắc cốt ghi tâm. - Huynh trưởng cảnh cáo - rằng nếu ngươi dám tiết lộ những điều bí mật mà chúng ta chia sẻ cho ngươi, thì ngươi sẽ chết ngay lập tức.
Lúc đó, kẻ nhập môn không hề sợ hãi.
Bọn họ sẽ chẳng bao giờ biết được mục đích thật sự của ta.
Nhưng đêm nay, gã e ngại trước không khí trang nghiêm bất thường của Phòng Thánh lễ, và bắt đầu điểm lại trong óc tất cả những lời cảnh báo đã được nghe suốt dọc hành trình, rồi những lời đe doạ về các hậu quả khủng khiếp nếu gã tiết lộ những bí mật cổ xưa mà gã sắp được biết: Đâm ngang họng… rút lưỡi… moi ruột và đốt… vãi tro than theo gió… móc tim và vứt cho lũ thú hoang…
- Huynh đệ của ta, - vị Huynh trưởng có đôi mắt xám đặt tay trái lên vai kẻ nhập môn và nói - Hãy tuyên đọc lời thề cuối cùng đi.
Lấy lại tinh thần để hoàn tất bước sau cùng của hành trình, kẻ nhập môn thả lỏng cơ bắp và lại tập trung chú ý vào cái sọ người nằm trên tay. Thứ rượu vang đỏ thẫm trông gần như đen kịt trong ánh nến tù mù. Gian phòng chìm vào sự im lặng chết chóc, và gã có thể cảm nhận được ánh mắt của các chứng nhân, họ đang chờ ứng viên mới tuyên đọc lời thề cuối cùng và gia nhập hàng ngũ tinh tuý của mình.
Đêm nay, gã nghĩ, một điều gì đó chưa từng diễn ra trong lịch sử Hội, chưa từng diễn ra suốt mấy trăm năm qua, sẽ diễn ra giữa bốn bức tường này.
Gã biết đó là một tia lửa… và nó sẽ đem lại cho gã sức mạnh khôn cùng. Như được tiếp thêm sinh lực, gã hít một hơi và xướng to đúng những lời mà biết bao con người trên khắp thế giới đã từng tuyên đọc trước gã.
- Nếu tôi cố tình vi phạm lời thề, thì thứ rượu tôi sắp uống đây sẽ biến thành thuốc độc giết chết tôi.
Lời gã vang vọng trong không gian trống trải.
Rồi tất cả im ắng.
Rất vững vàng, kẻ nhập môn từ từ nâng cái sọ lên miệng. Khi cảm thầy môi mình chạm vào vỏ xương khô, gã nhắm mắt và nghiêng nó về phía miệng mình, uống những ngụm thật to. Cạn xong giọt cuối cùng, gã hạ cái sọ người xuống.
Trong một tích tắc, gã tưởng chừng phổi mình thắt lại, còn tim thì đập thình thịch. Lạy Chúa, họ biết ư? Song trạng thái ấy mau chóng qua đi, mau y như lúc mới xuất hiện.
Tiếp đó, cảm giác ấm áp dễ chịu bắt đầu lan toả khắp cơ thể gã. Kẻ nhập môn thở phào, vừa cười thầm vừa ngước lên nhìn người đàn ông có đôi mắt xám. Không mảy may nghi ngờ. Ông ta đã ngu ngốc tiếp nhận gã vào đẳng cấp bí mật nhất của hội ái hữu này.
Chẳng bao lâu nữa, các người sẽ mất hết mọi thứ mà bấy nay các người ra công gìn giữ.

kiemanh
05-10-2010, 01:15 PM
Chương 1


Chiếc thang máy hiệu Otis chất đầy du khách đang lừ lừ chạy lên trụ phía nam của Tháp Eiffel. Trong cái khoang chật cứng, một doanh nhân khắc khổ vận bộ đồ là phẳng phiu đăm đăm nhìn xuống cậu bé đứng bên cạnh.

- Trông con nhợt nhạt lắm, con trai ạ. Lẽ ra con nên ở lại bên dưới thì hơn.

- Con ổn mà… - cậu bé trả lời, cố gắng kiềm chế nỗi lo lắng của mình - Đến tầng tới, con sẽ ra.

Mình ngạt thở quá.

Người đàn ông cúi xuống gần hơn.

- Ba cứ nghĩ là con đã trị được cái chứng ấy rồi cơ đấy - ông ta âu yếm vuốt má con trai.



Mặc dù xấu hổ vì làm cha thất vọng, cậu bé vẫn không sao xua đi được tiếng ong ong trong tai.



Mình ngạt thở quá. Mình phải thoát ra khỏi cái bao diêm này.

Nhân viên điều khiển thang máy đang cam đoan gì đó về các van đẩy có khớp nối và kết cấu thép. Xa tít phía dưới họ, đường phố Paris toả ra mọi hướng.

Đến kia rồi, cậu bé tự nhủ, nghển cổ nhìn lên chỗ trả khách.

Gắng chịu đứng một chút nữa thôi.



Khi chiếc thang máy rẽ chếch lên khu vực ngắm cảnh phía trên, thân tháp bắt đầu thu hẹp, các thanh giằng đồ sộ của tháp co cụm lại thành một đường hầm thẳng đứng.

- Ba, con không nghĩ…

Đột nhiên, có tiếng ken két vang lên trên đầu họ. Khoang thang máy giật mạnh rồi nghiêng hẳn về một bên. Những sợi cáp sờn bắt đầu quấn lại quanh khoang và quẫy đùng đùng như những con rắn.

- Cậu bé vươn tay về phía cha.

- Ba ơi!

Mắt hai cha con gặp nhau trong một giây kinh hoàng.

Rồi đáy thang máy bung ra.



***



Robert Langdon vùng dậy trên chiếc ghế da mềm, choàng tỉnh khỏi giấc mơ chập chờn. Chỉ có mình anh trong khoang hành khách rộng rãi. Chiếc phản lực Falcon 2000EX đang xóc nảy do thời tiết xấu, dưới bụng nó, động cơ đôi Pratt & Whitney vẫn kêu đều đều.

- Thưa ông Langdon? - tiếng điện đàm vang lên loạt xoạt trên trần - Chúng ta đã đến chặng cuối.



Langdon ngồi thẳng dậy và nhét gọn tập bài giảng vào cặp da.



Anh đã rơi vào trạng thái mơ màng đúng lúc đang xem dở phần biểu tượng của Hội Tam điểm. Langdon ngờ rằng chính lời mời bất ngờ lúc sáng ngày của Peter Solomon đã khơi gợi giấc mơ ban nãy về người cha quá cố của anh.



Peter Solomon từng là thầy hướng dẫn của Langdon trong một thời gian dài. Là người thứ hai mình không bao giờ muốn làm thất vọng.



Nhà phúc thiện, sử gia kiêm khoa học gia 58 tuổi ấy đã che chở Langdon gần ba mươi năm về trước, và bằng nhiều cách đã lấp đầy khoảng trống do cái chết của cha anh để lại. Mặc dù giàu sang tột đỉnh và xuất thân từ một gia tộc nhiều thế lực. Solomon vẫn rất khiêm nhường và nồng hậu, như Langdon nhận thấy qua đôi mắt xám dịu dàng của ông.



Bên ngoài cửa sổ, mặt trời đã lặn, nhưng Langdon vẫn phân biệt được đường nét thanh mảnh của tháp tưởng niệm lớn nhất thế giới đang vươn lên phía chân trời như kim chỉ giờ của một chiếc đồng hồ mặt trời cổ xưa. Tháp tưởng niệm lát đá cẩm thạch cao 170 mét này là tiêu điểm ở trái tim của cả liên bang. Từ ngọn tháp ấy toả rộng ra các hướng là tấm hình hoạ chi tiết vô vàn đường phố và tượng đài.



Ở Washington D.C., chỉ không khí thôi đã toát ra một sức mạnh gần như huyền bí.



Langdon rất yêu thành phố này. Khi máy bay tiếp đất, niềm hưng phấn về những điều sắp tới bỗng trào dâng trong anh. Máy bay lướt đến một nhà ga riêng ở khu vực nào đó trong khuôn viên mênh mông của sân bay quốc tế Dulles rồi dừng hẳn lại.


Langdon thu thập hành lý, cảm ơn phi hành đoàn và rời khỏi chiếc máy bay sang trọng. Anh bước ra cầu thang gấp, cảm giác thật thoải mái trong làn không khí lạnh giá tháng Giêng.

Hít thở đi! Robert, Langdon nghĩ thầm và khoan khoái tận hưởng không gian thoáng đãng.

Sương trắng trải khắp đường băng. Langdon bước xuống nền nhựa mù sương mà tưởng như mình đang tiến vào một khu đầm lầy.

- Xin chào! Xin chào! - ai đó cất tiếng gọi từ bên kia đường băng, giọng Ăng-lê đơn điệu - Giáo sư Langdon phải không ạ?

Langdon trông lên. Một phụ nữ trung tuổi đeo phù hiệu và cầm cặp hồ sơ đang vội vã tiến lại phía anh, mái tóc vàng loăn quăn xòe ra dưới chiếc mũ len rất kiểu cách. Langdon tới gần, người phụ nữ hân hoan vẫy tay.

- Chào mừng ông tới Washington!

- Cảm ơn cô - Langdon mỉm cười.

- Tôi là Pam, thuộc tổ dịch vụ hành khách - Người phụ nữ nói với vẻ hồ hởi không giấu giếm - Mời ông đi theo tôi, xe của ông đang đợi sẵn.



Langdon băng qua đường, theo người phụ nữ đi về phía bãi chờ xe, quanh đấy la liệt những chiếc phi cơ riêng bóng lộn. Chỗ đậu taxi của đám người giàu có và nổi tiếng.

- Tôi thật không muốn làm phiền ông, thưa Giáo sư, - người phụ nữ nói, nghe có phần bẽn lẽn - nhưng ông chính là Robert Langdon, từng viết nhiều cuốn sách về các biểu tượng và tôn giáo, phải không ạ?

Langdon lưỡng lự đôi chút rồi gật đầu.

- Tôi đoán chẳng sai mà! - Pam nói, vẻ rạng rỡ - Nhóm đọc sách của tôi đã đọc cuốn sách về tính nữ thiêng liêng và nhà thờ của ông đấy! Cuốn sách đã làm dấy lên vô khối điều tiếng! Ông thích vẽ đường cho hươu chạy thật!

Langdon mỉm cười.

- Tôi không định gây ra tai tiếng gì đâu.

Dường như cảm nhận được rằng Langdon không có hứng thảo luận về tác phẩm của mình, người phụ nữ bèn nói:

- Xin lỗi vì đã bắt ông nghe những lời huyên thuyên. Tôi biết, chắc ông phát mệt vì cứ bị người ta nhận ra… nhưng đó là lỗi của chính ông - Pam hài hước ra dấu về phục sức của Langdon - Bộ đồng phục này tố cáo ông đấy.



Đồng phục này ư? Langdon liếc xuống quần áo của mình. Anh đang mặc chiếc áo len cổ lọ màu than mọi khi, cùng với áo khoác tuýt hiệu Harris, quần ka ki và đôi giày lười da mềm mà các sinh viên hay mang… chính là kiểu phục trang chuẩn mực của anh khi lên lớp, đi lưu giảng, chụp ảnh tác giả sách hay tham gia các hoạt động xã hội.



Người phụ nữ bật cười:

- Cái áo len cổ lọ quá lỗi mốt rồi. Trông ông sẽ bảnh bao hơn nếu đeo cà vạt!

Không đời nào, Langdon nghĩ bụng. Khác gì mấy cái thòng lọng.



Thời Langdon còn ở Học viện Phillips Exeter, nhà trường yêu cầu sinh viên phải đeo cà vạt sáu ngày một tuần và mặc dù ông hiệu trưởng lý giải rất lãng mạn rằng cà vạt có nguồn gốc từ thời các nhà hùng biện La Mã quàng lụa fascalia để giữ ấm dây thanh quản, nhưng Langdon thừa biết, về mặt từ nguyên, tiền thân của cà vạt là thứ khăn quàng cổ thắt nút mà một nhóm lính đánh thuê hung bạo người “Croat” thường đeo khi lâm trận. Ngày nay, các chiến binh văn phòng hiện đại đeo loại phụ kiện cổ xưa này với hy vọng đe doạ kẻ thù của họ trong các trận chiến họp hành thường nhật.

- Rất cảm ơn lời khuyên của cô - Langdon nói và cười khùng khục - Sắp tới tôi sẽ tìm một chiếc cà vạt vậy.

Bấy giờ, một người đàn ông trông rất chuyên nghiệp vận bộ đồ sẫm màu chui ra khỏi chiếc Lincoln Town Car bóng loáng đỗ gần nhà ga và giơ ngón tay lên.

- Ông Langdon phải không? Tôi là Chárles, hãng xe Beltway Limousine - Anh ta mở cửa bên - Chúc ông một buổi tối tốt lành. Chào mừng ông tới Washington.



Langdon đưa tiền boa cho Pam để cảm ơn thái độ niềm nở của cô rồi bước lên khoang xe sang trọng của chiếc Town Car. Người lái xe chỉ cho anh bảng điều khiển nhiệt độ, nước đóng chai, và giỏ bánh xốp nướng còn nóng hổi. Mấy giây sau, Langdon đã lao vun vút trên một tuyến đường riêng. Ra là giới thương lưu người ta sống kiểu này đây.



Khi lái xe vào đường Windsock, người tài xế kiểm tra lại tên hành khách của mình rồi gọi một cú điện ngắn.

- Beltway Limousine đây, - anh ta nói với giọng rất chuyên nghiệp - Tôi được yêu cầu xác nhận khi hành khách tới nơi - anh ta ngừng lại - Vâng, thưa ngài. Ông Langdon khách của ngài đã đến. Tôi sẽ đưa ông ấy tới nhà Quốc hội lúc 7 giờ tối. Rất hân hạnh, thưa ngài - anh ta gác máy.

Langdon mỉm cười. Không thể chê vào đâu được. Chú ý đến từng chi tiết là một trong những tư chất đáng nói nhất của Peter Solomon, nhờ nó mà ông dễ dàng điều khiển được quyền lực lớn lao của mình.

Vài tỷ đô la trong nhà băng cũng chẳng nhằm nhò gì.



Langdon ổn định tư thế trong chiếc ghế da sang trọng và nhắm mắt lại trong khi tiếng ồn ào của sân bay loãng dần phía sau. Còn nửa tiếng đồng hồ đi xe nữa mới đến toà nhà Quốc hội Hoa Kỳ, và anh rất mừng vì được tự do trong khoảng thời gian ấy để sắp xếp lại những suy nghĩ của mình. Ngày hôm nay, mọi chuyện diễn ra quá nhanh, tới giờ Langdon mới rảnh trí để suy nghĩ một cách nghiêm túc về buổi tối lạ lùng đang chờ đợi mình.

Xuất hiện dưới lốt bí mật. Langdon nghĩ, thích thú với viễn cảnh đó.

Cách toà nhà Quốc hội mười dặm, có một nhân vật đang sốt ruột chuẩn bị để đón tiếp anh.
Hết chương 1

kiemanh
05-10-2010, 01:17 PM
Chương 2


Kẻ tụ xưng là Mal’akh(1) nhấn mũi kim vào cái đầu cạo nhẵn thín của mình, đoạn thở một hơi dài khoan khoái khi cái vật nhọn ấy chọc vào rồi lại rút ra khỏi da thịt gã. Tiếng thiết bị điện chạy ro ro khe khẽ quả thật cũng dễ nghiền… nhất là lúc cây kim ăn sâu vào lớp hạ bì và để lại chút phẩm nhuộm.

Ta sẽ là một kiệt tác.
Nhân loại xăm mình chưa bao giờ là vì cái đẹp. Mục đích thật ra là để thay đổi. Từ các thày tế người Nubia(2) da rạch nhằng nhịt khoảng 2000 năm trước Công nguyên tới các thày dòng xăm trổ đầy mình chuyên thờ Cybele ở La Mã cổ đại hay dân Maori hiện đại với những vết sẹo moko, con người luôn xăm mình như một cách tự hiến dâng phần nào cơ thể, chịu đựng nỗi đau thân xác của việc làm đẹp và thể hiện những thay đổi.

Bất chấp lời cảnh báo đáng sợ trong Sách Leviticus/ Levificus 19:28 ngăn cấm việc ghi dấu lên da thịt ai đó, xăm mình vẫn trở thành nghi lễ trưởng thành cho hàng triệu người trong thời đại ngày nay - từ các cô cậu choai choai mặt mũi sáng sủa đến con nghiện ma tuý và những bà nội trợ vùng ngoại thành.

Hành động xăm hình lên da là một tuyên ngôn về sự thay đổi quyền lực, một lời công bố với thế giới rằng: Ta nắm quyền điều khiển thân xác ta. Việc biến đổi thể chất mang lại cảm giác mê hoặc đến nỗi hàng triệu kẻ đã chạy theo đủ mọi cách thức thay đổi da thịt, nào là phẫu thuật thẩm mỹ, xỏ khuyên khắp người, nào là thể dục thể hình hay bơm chất tạo cơ bắp… thậm chí còn thay đổi thói quen ăn uống và chuyển đổi giới tính. Về mặt tinh thần, con người muốn khao khát được làm chủ cái vỏ xác phàm của mình.

Chiếc đồng hồ quả lắc thừa kế tử tổ phụ gõ lên một tiếng, Mal’akh ngước mắt nhìn. 6 giờ 30 phút tối. Buông dụng cụ xuống, gã khoác tấm áo choàng bằng lụa Kiryu quanh cơ thể trần như nhộng cao ngót 1m90 của mình và bước xuống sảnh. Hương thơm cay nồng của thuốc nhuộm da trộn với mùi khói từ những cây nến sáp ong gã thắp để khử trùng kim tạo thành một thứ không khí thật nặng nề trong toà nhà bừa bộn. Gã thanh niên cao lớn bước xuống hành lang, băng qua những món đồ cổ Italia vô giá - một bức tranh khắc của Piranesi, một cái ghế Savonarola, một ngọn đèn dầu Bugarini bằng bạc.

Lúc đi ngang qua khung cửa sổ trải suốt tử trần xuống tận nền nhà, gã đưa mắt ngắm đường chân trời ở phía xa. Phần mái vòm sáng ngời của nhà Quốc hội nổi lên rực rỡ trên nền trời đông tối thẫm, toát ra một sức mạnh uy nghiêm.

Kia chính là nơi cất giấu, gã nghĩ thầm. Người ta chôn nó đâu đó bên ấy.

Rất ít người biết rằng nó tồn tại… và số người ý thức được sức mạnh kinh khủng của nó cũng như cách thức khéo léo cất giấu nó thì càng ít hơn. Cho đến hôm nay, nó vẫn là bí mật lớn nhất của đất nước này, và cái nhóm ít ỏi nắm rõ sự thật đó đã giấu kín nó dưới một bức màn dày biểu tượng, huyền thoại và ẩn ý.

Nhưng giờ họ đã mở rộng cửa cho ta vào! - Mal’akh nghĩ.

Ba tuần trước, trong một nghi thức bí mật với sự chứng kiến của những nhân vật quyền thế nhất nước Mỹ, Mal’akh đã leo lên cấp 33, cấp tối cao của hội ái hữu lâu đời nhất còn sót lại trên thế giới. Mặc dù Mal’akh đã có địa vị mới nhưng các tín hữu vẫn chưa hề chia sẻ điều gì với gã, và cũng chẳng bao giờ họ chia sẻ, gã biết rõ như vậy.

Mọi chuyện không đơn giản như vậy. Cái gì cũng có tôn ti trật tự của nó, trong đẳng cấp luôn còn đẳng cấp. Thậm chí phải chờ đợi hàng năm trời nữa, có khi Mal’akh vẫn không giành được lòng tin tuyệt đối của họ.

May thay, gã sẽ khám phá ra bí mật sâu xa kia mà chẳng cần đến lòng tin ấy.
Vào hội là đạt được mục đích rồi.

Được tiếp sức bởi viễn cảnh sắp đến, gã sải bước về phía phòng ngủ. Khắp nhà vang vọng giai điệu quái đản của một đĩa nhạc rất hiếm ghi âm bản “Khúc an hồn” của Verdi - một lời gợi nhớ kiếp trước, hiện đang đến phần “ánh sáng vĩnh hằng” thể hiện qua giọng nữ cao eo éo. Mal’akh bấm điều khiển từ xa chuyển sang phần “Ngày phẫn nộ”. Giữa tiếng trống giữ nhịp chói tai và những quãng năm song song, gã sải bước chạy lên cầu thang cẩm thạch, chiếc áo choàng bay tung theo nhịp di chuyển của đôi chân gân guốc.

Trong lúc chạy, Mal’akh thấy cái dạ dày trống rỗng của mình quặn lên. Đã hai ngày nay, gã thực hiện phương pháp chay tịnh truyền thống là chỉ uống nước mà không ăn gì. Khi bình minh lên, cơn đói của mày sẽ được đền đáp, cùng với sự đau đớn, gã tự nhủ.

Mal’akh bước vào thánh điện phòng ngủ của mình và khoá chặt cửa lại sau lưng, thái độ hết sức sùng kính. Trên đường tiến về phía khu vực thay đồ, gã dừng lại, cảm nhận được bóng mình trong tấm gương lớn mạ vàng. Không cưỡng nổi, gã quay người và đứng đối diện với hình phản chiếu của bản thân. Bằng cử động chậm rãi như đang mở một món quà vô giá, Mal’akh cởi áo choàng để lộ ra cơ thể trần như nhộng. Những gì trông thấy làm gã sợ sệt.
Ta đúng là một kiệt tác.
Thân hình to cao của gã được cạo nhẵn nhụi. Trước tiên, gã hạ tầm mắt xuống hình xăm vảy và móng vuốt của một con diều hâu trên hai mu bàn chân. Ngược lên trên là đôi chân cơ bắp với hình xăm của những cây cột chạm khắc - chân trái là hoa văn xoắn ốc còn chân phải là những sọc thẳng đứng. Chẳng khác gì cặp cột Boaz và Jachin(4). Phần bẹn và bụng dưới trông y như một vòm cung có trang trí, lên cao hơn là bộ ngực vạm vỡ vẽ một con phượng hoàng hai đầu, mỗi đầu ngoảnh ra một phía với con mắt chính là núm vú của Mal’akh. Hai vai, cổ, mặt và cái đầu cạo trọc lốc của gã đều phủ kín các hình vẽ công phu mô tả những biểu tượng và dấu triện cổ.
Ta là một tác phẩm… một biểu tượng đang tiến hoá.
Mười tám tiếng trước, có một kẻ người trần mắt thịt nhìn thấy tấm thân loã thể của Mal’akh. Kẻ đó đã thét lên sợ hãi.
- Lạy Chúa, ngươi đúng là quỷ sứ.
- Nếu ông cho là như vậy thì đúng như vậy - Mal’akh đáp. Cũng như người xưa, gã hiểu rằng thiên thần và ác quỷ vốn dĩ giống nhau, hai nguyên mẫu có thể hoán đổi cho nhau, vấn đề chỉ là góc nhìn mà thôi: trong trận đấu, thiên thần hộ mệnh giúp con người chống lại kẻ thù sẽ bị chính những kẻ thù đó coi là quỷ sứ.
Mal’akh hơi cúi đầu xuống để nhìn phần nào đỉnh đầu mình. Ở đó bên trong một cái quầng như vương miện là một vòng da trơn xanh xao tròn nhỏ, không có hình xăm. Khoảng trống chưa vẽ được gìn giữ rất cẩn thận này là phần da thịt nguyên vẹn duy nhất còn lại của Mal’akh. Khoảng trống thiêng liêng ấy đã kiên nhẫn chờ đợi… và sẽ được phủ kín vào đêm nay. Mặc dù chưa rõ còn cần những gì để hoàn thành kiệt tác của mình, Mal’akh vẫn biết rằng thời khắc ấy đang gần đến.
Sung sướng với hình ảnh bản thân và cảm thấy quyền lực của mình tăng lên mạnh mẽ, gã khép áo choàng lại rồi tiến về phía cửa sổ, đăm đăm nhìn ra thành phố bí ẩn bên ngoài. Nó được chôn giấu đâu đó đằng kia.
Sau đó, Mal’akh đi tới bàn trang điểm, quay về với nhiệm vụ trước mắt. Gã cẩn thận thoa một lớp phấn hoá trang lên mặt, da đầu và cổ cho tới khi những hình xăm biến mất. Rồi gã mặc bộ quần áo đặc biệt và vài thứ phục sức đã lựa chọn kỹ càng cho buổi tối hôm nay. Xong xuôi Mal’akh tự soát lại mình trong gương. Hết sức hài lòng, gã đưa tay xoa lên lớp da đầu nhẵn thín và mỉm cười.
Nó ngoài kia, gã nghĩ, và đêm nay, có một người sẽ giúp ta tìm thấy nó.
Lúc bước ra khỏi nhà. Mal’akh hoàn toàn sẵn sàng cho một sự kiện sắp làm chấn động cả toà nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Gã đã cố công gắng sức chuẩn bị mọi điều cần thiết cho buổi tối hôm nay.

Và rốt cuộc, giờ đây, con tốt cuối cùng của gã đã tham gia vào ván cờ.

Chú thích:
(1) Mal’akh là thiên thần truyền tin, thường có một đôi cánh, xuất hiện nhiều trong Kinh thánh, văn học và nghi thức tế lễ truyền thống Do Thái. Trong tiếng Do Thái hiện đại, malákh là một từ chung để chỉ các thiên thần - ND.
(2) Nubia là vùng đất ở miền Nam Ai Cập, dọc sông Nile và ở miền Bắc Sudan. Thời cổ đại, đây là một vương quốc độc lập - ND.
(3) Sách Leviticus Chớ vì kẻ chết mà cắt thịt mình, chớ xăm vẽ trên mình: Ta là Đức Jehovah.
Leviticus là quyển thứ ba trong Kinh thánh Do Thái và Cựu ước, có nghĩa là “cuốn sách của các thầy Levi”. Về nội dung, Leviticus viết rất cụ thể những lề luật Israel phải tuân giữ để cụ thể hoá việc làm “dân riêng” của Thiên Chúa.
Trọng tâm của quyển sách này cũng nói về vai trò của hàng tư tế (các thầy Levi) trong dân tộc Israel nên người ta đã lấy tên Levi để đặt cho nó - ND.
(4) Boaz và Jachin, hai cây cột bằng đồng ở cổng vòm Đền thờ Solomon tại Jerusalem. Cột Boaz đứng ở bên trái và cột Jachin ở bên phải. Cặp cột này có kích thước dày gần 1,8 mét và cao 8,2 mét. Phần đầu cột cao 2.4 mét trên đỉnh có trang trí hoa văn hoa huệ tây - ND.
Hết chương 2

kiemanh
05-10-2010, 01:20 PM
Chương 3


Đang bạn xem lại mấy trang ghi chú, Robert Langdon chợt nghe thấy tiếng lốp xe nghiến mạnh hơn xuống mặt đường. Anh ngước lên, ngạc nhiên khi nhận ra họ đã tới quãng nào.
Đến cầu Tưởng niệm(5) rồi cơ à?

Langdon buông tập ghi chú xuống và đăm đăm ngắm dòng Potomac hiền hoà chảy qua bên dưới. Sương dày buông là là trên mặt nước. Foggy Bottom(6) là một nơi đúng như cái tên của nó, và có vẻ là một địa điểm khá kỳ cục để xây dựng thủ đô của cả nước. Tân Thế giới có bao nhiêu nơi chốn, mà các bậc tiền bối lại chọn vùng đầm lầy ẩm ướt ven sông này để đặt nền móng cho xã hội không tưởng của họ.

Langdon liếc mắt sang trái, nhìn qua hồ Tidal Basin sang phía bóng tròn duyên dáng của Đài tưởng niệm Jeherson hay đền Pantheon(7) của nước Mỹ như nhiều người vẫn gọi. Ngay phía trước xe, Đài tưởng niệm Lincoln vươn cao với nét khắc khổ cứng nhắc, những đường thẳng trực giao gợi nhớ Parthenon(8) cổ đại ở Athens. Xa hơn nữa là khu trung tâm của thành phố - nơi có chóp nhọn mà Langdon ngó thấy từ trên không. Cảm hứng kiến trúc của nó rất xa xưa, xa xưa hơn cả Đế chế La Mã hoặc Hy Lạp.
Đó là Đài tưởng niệm Washington - tháp Ai Cập của nước Mỹ.

Ngọn tháp bằng đá nguyên khối lù lù hiện ra, nổi bật trên nền trời như cột buồm chính của một con tàu. Từ góc nhìn nghiêng của Langdon, ngọn tháp đêm nay trông như đang lơ lửng… nó tròng trành trên nền trời ảm đạm tựa hồ đang trôi nổi ở một vùng biển động. Langdon cảm thấy mình cũng chống chếnh theo. Chuyến viếng thăm Washington lần này hoàn toàn bất ngờ. Lúc thức giấc mình cứ tưởng sẽ có một Chủ nhật yên tĩnhở nhà… còn giờ thì mình chỉ cách điện Capitol chừng vài phút đi đường.

Sáng nay, vào hồi 4 giờ 45 phút, như thường lệ, Langdon bắt đầu một ngày mới bằng việc lao mình xuống làn nước phẳng lặng, bơi liền năm mươi vòng trong bể bơi Harvard vắng tanh. Thể lực của anh không bằng dạo còn là vận động viên nghiệp dư môn polo dưới nước ở đại học, nhưng anh vẫn gọn gàng và dẻo dai, một điểm rất đáng ngưỡng mộ đối với một người đàn ông đã vào độ tứ tuần. Chỉ khác là giờ đây anh phải nỗ lực hết sức mình để duy trì vóc dáng ấy.

Khoảng 6 giờ, Langdon về đến nhà, bắt đầu nghi lễ buổi sớm của mình bằng việc tự tay nghiền cà phê Sumatra và tận hưởng mùi thơm kỳ lạ ngập tràn gian bếp. Anh rất ngạc nhiên khi thấy đèn đỏ nhấp nháy trên màn hình thư thoại. Ai lại gọi tới vào lúc 6 giờ sáng Chủ nhật chứ? Anh nhấn nút nghe tin nhắn.
- Chúc một buổi sáng tốt lành, Giáo sư Langdon. Tôi vô cùng xin lỗi vì gọi vào lúc mới bảnh mắt thế này - Giọng nói nhã nhặn mang âm sắc miền nam ngập ngừng thấy rõ - Tôi là Anthony Jelbart, trợ lý của Peter Solomon. Ông Solomon có nói Giáo sư là người quen dậy sớm… ông đang cố liên lạc với Giáo sư trong sáng nay. Khi nào nhận được tin nhắn này, Giáo sư vui lòng gọi trực tiếp cho ông ấy được không? Chắc Giáo sư đã biết đường dây riêng mới của ông ấy rồi, còn nếu chưa biết thì xin thông báo đó là số 202-329-5746.

Langdon đâm lo cho ông bạn vong niên. Peter Solomon là người có giáo dục và lịch sự hết chỗ chê, chắc chắn không gọi đến vào rạng sáng Chủ nhật trừ phi có chuyện gì đó rất không ổn.
Langdon buông chỗ cà phê nghiền dở và vội vã tới phòng làm việc của mình để gọi lại.
Hy vọng ông ấy không sao.

Peter Solomon là một người bạn, người thầy và mặc dù chỉ lớn hơn Langdon mười hai tuổi, với anh, ông còn là một người cha ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ tại Đại học Princeton. Hồi học năm thứ hai, Langdon được mời tham dự một buổi diễn thuyết tối của sử gia kiêm nhà phúc thiện lừng danh này. Solomon đã nói chuyện với niềm say mê đầy sức lan toả, trình bày một cách nhìn rất mới lạ về ký hiệu học và lịch sử hình thành của nó, từ đó khơi dậy trong Langdon hứng thú trọn đời dành cho các biểu tượng. Tuy nhiên, không phải sự lỗi lạc mà chính vẻ khiêm nhường trong đôi mắt xám dịu dàng của Peter Solomon đã giúp Langdon có đủ dũng khí để viết cho ông một lá thư cảm ơn. Chàng sinh viên năm thứ hai chẳng bao giờ dám mơ tưởng rằng Peter Solomon, một trong những trí thức trẻ tuổi giàu có và hấp dẫn nhất nước Mỹ, lại viết thư trả lời. Nhưng Solomon đã làm đúng như thế, và đó là sự khởi đầu cho một tình bạn đẹp đẽ.

Peter Solomon là một học giả nổi tiếng, có phong thái giản dị trái ngược hẳn với gia thế huy hoàng của mình. Ông xuất thân từ gia tộc Solomon giàu sang, một dòng dõi mà nhiều tên tuổi xuất hiện trên các công trình và trường đại học ở khắp đất nước này. Tương tự dòng họ Rothschild bên châu Âu, cái tên Solomon ở Mỹ luôn nhuốm đầy màu sắc kỳ bí của một thế gia vọng tộc và của những thành công. Peter kế thừa danh vọng và sự sản từ người cha quá cố khi còn rất trẻ, giờ đây ở tuổi 58, ông đã kinh qua không ít vị trí quyền thế. Hiện ông là người đứng đầu Viện Smithsonian. Đôi lúc, Langdon bỡn Peter rằng tì vết duy nhất trên lý lịch sáng chói của ông chính là tấm bằng tốt nghiệp một trường đại học hạng hai - trường Yale.

Vừa bước vào phòng làm việc, Langdon đã nhận ra có một bức fax của Peter.
Peter Solomon
VĂN PHÒNG TÔNG THƯ KÝ VIỆN SMITHSONIAN
Chúc một buổi sáng tốt lành, Robert, Tôi cần nói chuyện với cậu ngay.
Trong sáng nay hãy gọi cho tôi theo số 202-329-5746, càng sớm càng tốt.
Peter

Langdon lập tức quay số, ngồi xuống bên chiếc bàn gỗ sồi chạm trổ tinh xảo để đợi tín hiệu trả lời.

- Văn phòng Peter Solomon - giọng nói quen thuộc của viên trợ lý vang lên - Tôi là Anthony. Tôi giúp gì được quý vị?
- Chào anh, tôi là Robert Langdon đây. Sớm nay anh có gửi cho tôi một tin nhắn…
- A vâng thưa Giáo sư Langdon! - Giọng chàng trai ở đầu dây bên kia như giãn ra - Cảm ơn Giáo sư đã gọi lại nhanh như vậy. Ông Solomon rất muốn nói chuyện với Giáo sư. Để tôi báo cho ông ấy biết rằng Giáo sư đang nghe máy. Giáo sư vui lòng chờ một lát được chứ?
- Được!

Trong lúc đợi Solomon đến nghe máy, Langdon cúi nhìn cái tên Peter ở trên cùng tờ giấy in tiêu đề của Viện Smithsonian và bất giác mỉm cười. ít thấy ai vô công rồi nghề trong gia tộc Solomon. Cây phả hệ nhà Peter sản sinh ra toàn những tên tuổi, từ các doanh nhân giàu có, các chính khách nhiều ảnh hưởng đến vô vàn khoa học gia trứ danh, thậm chí một vài người còn có chân trong Hiệp hội Hoàng gia London(9). Cô em gái Katherine, người thân duy nhất còn lại của Peter hiển nhiên cũng được thừa hưởng gene khoa học, bởi vì hiện thời cô là nhân vật hàng đầu trong một ngành học thuật mới mẻ gọi là Lý trí học.

Mình mù tịt về thể loại ấy, Langdon nghĩ bụng, thích thú nhớ lại một bữa tiệc ở tư gia Peter hồi năm ngoái, hôm ấy Katherine đã ra sức giải thích cho anh hiểu thế nào Lý trí học, anh lắng nghe rất chăm chú rồi nhận xét:
- Nghe giống phép thuật hơn là khoa học!
Katherine nháy mắt dí dỏm:
- Hai lĩnh vực đó gần gũi nhau hơn anh tưởng đấy, Robert ạ.
Lúc này, viên trợ lý của Solomon đã trở lại đầu dây.
- Tôi xin lỗi, ông Solomon còn đang cố kết thúc một cuộc họp qua điện thoại. Sáng nay, mọi việc ở đây có phần lộn xộn.
- Không sao. Tôi gọi lại sau cũng được.
- Thực ra, Peter có dặn tôi giải thích cho Giáo sư biết lý do của lần liên lạc này. Giáo sư bằng lòng nghe tôi nói chứ ạ?
- Tất nhiên.
Viên trợ lý hít một hơi thật sâu.
- Chắc Giáo sư cũng biết, hằng năm, ban Giám đốc Smithsonian thường tổ chức một bữa tiệc riêng tư tại Washington để tri ân những người đã nhiệt thành ủng hộ Viện. Đối tượng tham dự đều thuộc giới thượng lưu của đất nước.

Langdon thừa hiểu với một tài khoản ngân hàng có quá ít số 0, anh khó lòng được coi là một nhân vật thượng lưu, nhưng biết đâu Solomon định mời anh tham dự thì sao.
- Năm nay, như thường lệ - viên trợ lý tiếp tục - trước dạ tiệc sẽ có một bài diễn văn quan trọng. Chúng tôi may mắn đăng ký được Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia để trình bày bài diễn văn đó.
Địa điểm xịn nhất thủ đô còn gì, Langdon nghĩ thầm, nhớ lại một buổi diễn giảng chính trị từng tham dự tại đại sảnh hình bán nguyệt đầy ấn tượng ấy. Thật khó lòng quên được 500 chiếc ghế gấp bố trí thành một vòng cung hoàn hảo, xung quanh là 38 pho tượng cỡ bằng người thật, trong căn phòng mà Hạ viện từng sử dụng làm phòng họp.
- Vấn đề là thế này - viên trợ lý nói - Diễn giả bị ốm và vừa mới thông báo cho chúng tôi biết rằng bà ấy không thể diễn thuyết được - Anh ta ngừng lời vẻ lúng túng - Nghĩa là chúng tôi đang xoay xở tìm diễn giả thay thế, và ông Solomon hy vọng Giáo sư bằng lòng đảm nhiệm vai trò ấy.
Langdon ngạc nhiên lặp lại.
- Tôi ư? - Anh hoàn toàn không ngờ đến tình huống này - Tôi dám chắc Peter có thể tìm được người thế chân tốt hơn nhiều.
- Thật khiêm nhường quá! Giáo sư chính là lựa chọn đầu tiên của Peter Solomon đấy ạ. Các khách mời của Viện sẽ rất vui nếu được nghe Giáo sư diễn thuyết. Để đỡ công chuẩn bị, ông Solomon cho rằng Giáo sư có thể sử dụng lại bài giảng mà Giáo sư đã trình bày trên Bookspan TV cách đây vài năm. Ông ấy bảo nội dung bài giảng đề cập đến tính biểu tượng trong kiến trúc ở thủ đô chúng ta. Nghe có vẻ thích hợp lắm.
Langdon ngần ngừ.
- Theo tôi nhớ thì bài diễn thuyết đó liên quan đến lịch sử xây dựng Hội Tam điểm nhiều hơn là…
- Chính xác! Chắc Giáo sư biết Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, và rất nhiều bạn bè ông ấy đến dự tiệc lần này cũng thế. Tôi tin rằng họ sẽ ưa thích chủ đề của Giáo sư.
Quả thực công việc khá dễ dàng. Langdon luôn giữ lại bản thảo của tất cả các buổi nói chuyện mà anh từng thực hiện.
- Tôi cho rằng tôi cần phải xem xét đã. Sự kiện sẽ diễn ra hôm nào nhỉ?
Viên trợ lý hắng giọng, nghe chừng bối rối…
- Chà, thật tình thì, đúng tối nay.
Langdon bật cười vang.
- Tối nay à?
- Chính vì vậy mà sáng nay mọi việc ở đây cứ nháo nhào cả lên. Viện Smithsonian đang rơi vào tình thế nước sởi lửa bỏng… - Viên trợ lý nói vội vã hơn - ông Solomon sẵn sàng cho phi cơ riêng tới Boston đón Giáo sư. Chuyến bay chỉ mất một tiếng, và Giáo sư sẽ trở lại nhà trước nửa đêm. Chắc Giáo sư đã rất quen với ga hàng không tư nhân của Sân bay Logan ở Boston rồi phải không?
- Phải, - Langdon miễn cưỡng thừa nhận. Chẳng trách Peter luôn thành công.
- Tuyệt quá! Vậy Giáo sư sẽ ra chỗ máy bay lúc… xem nào, 5 giờ được không?
- Các vị đâu có để cho tôi nhiều lựa chọn, - Langdon cười.
- Tôi chỉ muốn làm ông Solomon vui vẻ thôi.
Peter luôn biết cách khiến người ta dốc sức vì mình. Langdon cân nhắc một lúc lâu, và thấy rằng chẳng thể nào từ chối được.
- Thôi được rồi. Nhắn với Peter rằng tôi nhận lời.
- Tuyệt vời! - viên trợ lý thốt lên, thực sự trút được gánh nặng. Anh ta báo cho Langdon số hiệu máy bay và vài thông tin khác.
Gác máy xong, Langdon tự hỏi không biết có ai từ chối nổi Peter Solomon điều gì chưa.
Anh quay trở lại với món đồ uống và múc thêm hạt cà phê vào máy xay. Một chút caffeine nữa cho buổi sáng, anh nghĩ thầm. Hôm nay sẽ là một ngày rất dài.

Chú thích:
(5) Cầu tưởng niệm, tên tiếng Anh là Arlington Memorial Bridge, nối liền đảo Columbia với Đài tưởng niệm Lincoln tại Washington D.C. ngang qua sông Potomac. Đầu phía đông của cầu là rìa phía tây của Công viên Quốc gia, gồm Công viên West Potomac và Vườn Hiến pháp. Đầu phía tây của cầu chạy tới Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Virginia - ND.
(6) Đáy Sương mù - ND.
(7) Đền Pantheon là một công trình ở Rome, nguyên thuỷ được xây làm điện thờ tất cả các thần của La Mã cổ đại, và được xây lại vào đầu thế kỷ thứ II sau Công nguyên - ND.
(8) Parthenon là ngôi đền bằng đá cẩm thạch trắng thờ thần Athena, được xây dựng vào thế kỷ V trước Công nguyên ở Acropolis. Đây là công trình xây dựng nổi tiếng nhất còn lại của Hy Lạp cổ đại. Tên của đền Parthenon có nguồn gốc từ bức tượng Athena Parthenos bằng ngà voi và vàng ở căn phòng phía Đông công trình. Tên gọi cho Athena là parthenos, có nghĩa là vị nữ thần vẫn còn trinh nguyên - ND.

(9) Hiệp hội Hoàng gia London về Nâng cao Kiến thức Tự nhiên, gọi tắt là Hiệp hội Hoàng gia, là một tổ chức học thuật khoa học được thành lập năm 1660 và được coi là tổ chức lâu đời nhất theo hình thức này hiện vẫn còn tồn tại. Nó cũng được xem là Viện Khoa học Anh quốc - ND.
Hết chương 3

kiemanh
05-10-2010, 01:22 PM
Chương 4


Điện Capitol hay Toà nhà Quốc hội Hoa Kỳ, vươn lên bề thế ở đầu phía đông Công viên Quốc gia, trên một khu đất bằng được tôn cao mà Kiến trúc sư cảnh quan Pierre L’Enfant từng mô tả là “nền móng sẵn sàng cho một đài kỷ niệm”. Vô cùng đồ sộ với chiều dài khoảng 229 mét, chiều rộng 107 mét, bao phủ hơn 16 mẫu mặt sàn và có tới 541 phòng, toà nhà được xây dựng tỉ mỉ đến chừng chi tiết theo phong cách kiến trúc tân cổ điển nhằm mô phỏng sự huy hoàng của La Mã cổ đại, nơi có nhiều ý tưởng tạo nguồn cảm hứng cho những người sáng lập nước Mỹ trong việc thiết lập luật pháp và văn hoá của nền cộng hoà mới.

Dưới lòng đất, sâu trong trung tâm du khách mới hoàn thiện, người ta vừa lập một trạm kiểm tra an ninh ra vào Điện Capitol, bên trên là mái kính rất lộng lẫy, chẳng khác gì phần khung tranh mà nội dung bên trong là vòm Điện. Một vị khách nam đang tiến đến gần trạm. Alfonso Nunez, nhân viên mới vào làm thận trọng quan sát anh ta: Người đàn ông nọ đã nấn ná trong sảnh được một lúc, gắng kết thúc cho xong một cuộc điện đàm trước khi bước vào toà nhà. Đầu anh ta cạo nhẵn thín, tay phải quấn băng choàng qua cổ, bước chân hơi khập khiễng. Trông chiếc áo khoác thuỷ quân rách rưới và cái đầu trọc lốc, Nunez đoán vị khách này xuất thân từ quân ngũ. Những người đã từng phục vụ trong lực lượng vũ trang Hoa Kỳ là diện khách thường xuyên nhất của Washington.
- Chúc ông một buổi tối tốt lành, - Nunez lên tiếng, theo đúng quy định chào hỏi dành cho các vị khách nam giới đến tham quan một mình.
- Chào anh, - vị khách đáp, đưa mắt nhìn quanh lối vào gần như vắng tanh - Một buổi tối yên tĩnh quá nhỉ!
- Đang diễn ra trận đấu sống còn của NPC mà. Tối nay mọi người đều mải xem những anh chàng áo đỏ rồi - Nunez đáp, thầm ước giờ này mình cũng được ngồi xem như vậy, nhưng đây là tháng làm việc đầu tiên của anh, và anh lại gặp đúng phiên trực - Xin hãy bỏ mọi đồ vật bằng kim loại ra khay.

Trong khi vị khách dùng bàn tay lành lặn rờ rẫm moi hết các túi áo khoác của mình, Nunez quan sát anh ta rất kỹ. Theo bản năng, con người thường ưu tiên chiếu cố cho những đồng loại bị thương và tàn tật nhưng Nunez đã được huấn luyện để biết cách gạt bỏ chính bản năng đó.

Vị khách moi từ trong túi ra ít xu lẻ, chìa khoá, và mấy chiếc điện thoại di động. Trong khi chờ đợi, Nunez đưa mắt nhìn bàn tay bị thương của người đàn ông, nó được quấn kín dưới nhiều lớp băng rất dày.
- Bị bong gân à? - Anh hỏi.
Gã trọc gật đầu.
- Trượt ngã trên băng. Tuần trước. Vẫn đau chết cha?
- Rất lấy làm tiếc cho ông. Xin mời bước qua đây.
Vị khách tập tễnh bước qua máy dò, cỗ máy kêu lên kinh ỏi.
Vị khách cau mày.
- Biết ngay mà. Tôi vẫn đang đeo nhẫn dưới lớp băng gạc này.
Ngón tay tôi sưng tướng nên không tháo nhẫn ra được, vì thế bác sĩ băng trùm lên luôn.
- Không sao. - Nunez nói - Tôi sẽ dùng máy dò cầm tay.

Nunez đưa máy dò trên bàn tay băng bó của vị khách. Đúng như dự liệu, thứ kim loại duy nhất mà anh phát hiện được là một cục to sụ ở ngón đeo nhẫn của người đàn ông. Nunez đưa thiết bị dò kim loại rà kỹ từng li trên khắp ngón tay và băng đeo. Anh biết rằng cấp trên có thể đang giám sát mình qua hệ thống truyền hình tại trung tâm an ninh của toà nhà, mà anh thì rất cần việc làm. Cẩn thận lúc nào cũng vẫn hơn. Nunez thận trọng lách nhẹ máy dò vào dưới lớp băng đeo của vị khách.
Người đàn ông nhăn mặt vì đau.
- Xin lỗi.
- Không sao, - người đàn ông đáp - Thời buổi này thì không thể không cẩn thận được.
- Đúng thế - Nunez bỗng sinh thiện cảm với người khách của mình. Thật lạ, cảm giác ấy dường như có tác dụng rất lớn ở đây. Nước Mỹ đã coi bản năng con người là tuyến phòng thủ đầu tiên trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố. Sự thật cũng chứng minh rằng trực giác là thứ máy cảnh báo chính xác hơn bất kỳ thiết bị điện tử nào trên đời - nó là món quà của sự sợ hãi, như cách gọi trong một cuốn sách tham khảo về vấn đề an ninh.
Trong trường hợp này, bản năng của Nunez không mách bảo điều gì khiến anh phải lo sợ. Chỉ lạ là khi đứng gần sát người khách, anh bỗng nhận ra cái gã bặm trợn ấy có bôi một thứ kem chống nắng hoặc kem xoá nám nào đó trên mặt. Nhưng có sao. Ai lại thích chường bộ mặt nhợt nhạt ra vào mùa đông cơ chứ.
- Ông có thể vào được rồi, - Nunez nói, hoàn tất công việc dò tìm và xếp gọn máy dò cầm tay lại.
- Cảm ơn - Người đàn ông bắt đầu nhặt nhạnh đồ đạc trên khay.
Trong khi anh ta thu dọn, Nunez chú ý thấy hai ngón tay thò ra khỏi lớp băng đều có hình xăm: đầu ngón tay trỏ có hình một cái mũ miện, còn đầu ngón tay cái là hình một ngôi sao. Dường như thời buổi này ai cũng có hình xăm trổ, Nunez nghĩ thầm, mặc dù các đầu ngón tay phải buốt lắm để xăm được thế kia.
- Mấy hình xăm đó có đau không?
Người khách liếc xuống mấy đầu ngón tay mình và cười.
- Không ghê như anh tưởng đâu.
- Thế còn may, - Nunez đáp - Tôi thì đau khủng khiếp. Thời ở trại huấn luyện tân binh, tôi có xăm hình tiên cá trên lưng mà.
- Tiên cá à? - gã trọc cười hềnh hệch.
- Ừ, - Nunez đáp, có phần ngượng ngùng - Sai lầm thời trai trẻ ấy mà.
- Tớ hiểu, - gã trọc đáp - Tớ cũng phạm một sai lầm to đùng thời còn trẻ, và giờ sáng nào tớ cũng phải thức dậy cùng ả.
Cả hai cùng cười, rồi gã kia quay đi.

Đúng là trò trẻ con. Mal’akh nghĩ thầm, băng qua Nunez và lên cầu thang máy tiến về phía Điện Capitol. Việc thâm nhập dễ dàng hơn dự đoán. Dáng đi lom khom và cái bụng độn bông đã giúp gã che giấu được vóc dáng thật, trong khi lớp hoá trang trên mặt và tay giúp phủ kín những hình xăm chi chít khắp cơ thể. Tuy nhiên, món nguỵ trang tài tình nhất lại là cái băng đeo, đang che đậy một đồ vật ghê gớm mà Mal’akh mang theo vào toà nhà.

Đó là món quà dành cho kẻ duy nhất trên đời giúp ta đạt được thứ ta đang tìm kiếm.

Hết chương4

kiemanh
05-10-2010, 01:23 PM
Chương 5


Bảo tàng lớn nhất và có công nghệ tiên tiến nhất thế giới cũng chính là một trong những bí mật được giữ kín nhất trên đời. Nó chứa nhiều hiện vật hơn cả Bảo tàng Cung điện Mùa Đông, Bảo tàng Vatican và Bảo tàng New York Metropolitan cộng lại. Bộ sưu tập thì phong phú như vậy, nhưng lại nằm giữa những bức tường bảo vệ nghiêm ngặt, trước nay chẳng có mấy người được mời vào bên trong.

Toạ lạc ở số 4210 đường Silver Hill, ngay ngoại ô Washington D.C., bảo tàng là một dinh thự đồ sộ hình chữ chi bao gồm năm khu vực liên thông với nhau - mỗi khu vực còn rộng hơn cả một sân bóng đá. Phần ngoại thất bằng kim loại phơn phớt xanh của toà nhà phần nào ám chỉ sự khác thường bên trong nó - một thế giới kỳ lạ rộng 56.000 mét vuông với một “Tử địa”, một “Thuỷ trì” và nhiều phòng lưu trữ trải dài suốt mười hai dặm.

Lái chiếc Volvo trắng tới tận cổng kiểm tra an ninh chính của bảo tàng, Katherine Solomon vẫn cảm thấy bồn chồn.
Người bảo vệ mỉm cười.
- Chắc cô không phải dân hâm mộ bóng bầu dục, cô Solomon nhỉ? - Anh ta giảm bớt âm lượng chương trình phát trước trận đấu lượt về của đội Redskins.
Katherine cố nặn ra một nụ cười.
- Tối chủ nhật mà.
- Ồ, vâng. Cô phải họp nhỉ?
- Ông ấy đến chưa? - Katherine hỏi, vẻ sốt ruột.
Người bảo vệ liếc vào sổ.
- Tôi chưa thấy tên ông ấy trong phần đăng ký…
- Chắc tôi đến sớm quá - Katherine vẫy tay thân mật và tiếp tục lái theo lối vào xoáy tròn để tới khu vực đỗ xe hai tầng. Cô dừng lại tại vị trí thường lệ ở tầng dưới, cầm lấy đồ đạc và liếc nhanh mình trong gương chiếu hậu, một động tác do thói quen nhiều hơn là do nhu cầu làm điệu.

May mắn thừa hưởng làn da Địa Trung Hải mềm mại của tổ tiên, nên dù đã ở tuổi 50, Katherine Solomon vẫn giữ được nước da bánh mật mịn màng. Cô hầu như không trang điểm, mái tóc đen dài để xoã một cách tự nhiên. Cũng như ông anh Peter, cô có đôi mắt xám, vóc dáng mảnh khảnh và vẻ trang nhã đầy quý phái.

Hai người cứ như một cặp song sinh vậy, người ta thường nhận xét với anh em họ thế.

Cha Katherine mất vì ung thư khi cô lên bảy, nên cô không còn nhớ gì nhiều về ông. Peter lớn hơn Katherine tám tuổi, lúc đó vừa mười lăm đã phải học cách trở thành người đứng đầu gia tộc Solomon, sớm hơn dự tưởng của tất cả mọi người. Nhưng không phụ sự mong đợi của dòng họ, Peter đã trưởng thành trong vai trò mới bằng phẩm cách và sức mạnh xứng đáng với tên tuổi gia đình. Đến giờ, ông vẫn chăm nom săn sóc Katherine y như hồi còn bé.

Dù thi thoảng bị anh trai thúc giục, và dù chẳng thiếu người theo đuổi, Katherine vẫn gắn bó với cuộc sống độc thân. Khoa học trở thành người bạn đời của cô, công việc thì đầy hứa hẹn và thú vị tới mức khó có người đàn ông nào sánh nổi. Cô không hề nuối tiếc điều gì.

Katherine làm quen với Lý trí học - lĩnh vực cô đang đeo đuổi - từ thời chưa mấy ai biết đến nó, vài năm trở lại đây, môn khoa học này bắt đầu mở ra nhiều cánh cửa tri thức mới, giúp tìm hiểu sức mạnh của trí tuệ con người.

Nhân loại còn rất nhiều tiềm năng đáng kinh ngạc chưa được khai thác.
Katherine đã viết hai cuốn sách về Lý trí học, và nghiễm nhiên trở thành người đi đầu trong lĩnh vực trừu tượng này. Nếu sắp tới cô cho công bố những phát hiện gần đây nhất thì thể nào Lý trí học cũng sẽ chiếm vị trí trung tâm trong mọi cuộc đàm thoại ở khắp nơi trên thế giới.
Tuy nhiên tối nay, khoa học lại rất xa vời trong tâm trí Katherine.
Mới đây thôi, cô nhận được vài ba thông tin đáng ngại liên quan đến anh trai mình. Mình vẫn không tin nổi đó là sự thật. Suốt cả buổi chiều, cô chẳng còn tâm trí nghĩ đến điều gì khác.
Mấy giọt mưa rơi tí tách lên kính chắn gió, Katherine vội vã vơ lấy đồ đạc để đi vào trong, nhưng vừa dợm bước ra khỏi xe thì điện thoại di động đổ chuông.
Cô xem tên người gọi và hít một hơi thật sâu.
Rồi cô vén tóc ra sau tai và ngồi lại trong xe để trả lời cuộc gọi.
***
Cách đó sáu dặm, Mal’akh đang di chuyển qua những hành lang của Điện Capitol với chiếc điện thoại di động áp chặt bên tai, kiên nhẫn đợi đầu kia bắt máy.
Cuối cùng, một giọng phụ nữ vang lên.
- Tôi nghe đây?
- Chúng ta cần gặp nhau lần nữa. - Mal’akh nói.
Một khoảng im lặng khá dài.
- Mọi việc vẫn ổn chứ?
- Tôi có manh mối mới, - Mal’akh thông báo.
- Nói đi.
Mal’akh hít một hơi thật sâu.
- Có thể tìm được…
- Sao?
- Thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô.
Giọng Katherine Solomon đầy sửng sốt.
- Anh bảo sao… thật ư?
Mal’akh mỉm cười.
- Một truyền thuyết sở dĩ tồn tại được nhiều thế kỷ… là có lý do cả đấy.
Hết chương 5

kiemanh
05-10-2010, 01:24 PM
Chương 6


- Thế nây là đã vào gần hết mức chưa? - Robert Langdon chợt cảm thấy lo lắng khi người lái xe đỗ lại trên phố Số 1, còn cách Điện Capitol những một phần tư dặm.
- Gần hết mức rồi đấy ạ - người lái xe đáp - Do quy định An ninh Nội địa, không xe cộ nào được lại gần các toà nhà quan trọng nữa. Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông.
Langdon nhìn đồng hồ, giật mình vì thấy đã 6 giờ 50 phút. Chỉ còn mười phút nữa là đến giờ diễn thuyết. Một công trường xây dựng quanh Công viên Quốc gia đã làm chậm hành trình của họ.
- Trở trời rồi - người lái xe nói, bước ra và mở cửa cho Langdon - Chắc ông sẽ phải nhanh lên đấy.
Langdon móc ví định boa cho người lái xe, nhưng anh ta khoát tay.
- Chủ nhà của ông đã tính một khoản thưởng rất hậu hĩ vào tiền cước rồi.
Đúng là Peter, Langdon nghĩ bụng, đoạn thu dọn đồ đạc của mình.
- Xong, rất cảm ơn anh về chuyến đi.
Khi Langdon tới tầng trên cùng của phòng đợi có mái vòm trang nhã dẫn xuống lối vào “ngầm” dành cho khách tham quan, trời bắt đầu lác đác vài giọt mưa.

Trung tâm du khách điện Capitol là một công trình tốn kém và gây nhiều tranh cãi. Được mô tả như một thành phố ngầm lớn ngang ngửa với Disney World, không gian dưới mặt đất này dành hẳn một diện tích rộng 45.000 mét vuông cho các hiện vật trưng bày, nhà hàng và phòng họp.

Langdon vẫn mong tới lúc được nhìn ngắm nơi đây, nhưng anh không lường nổi là phải đi bộ xa đến thế. Trời có vẻ sẽ đổ mưa bất kỳ lúc nào, và anh buộc phải bước rảo chân, đôi giày mềm gần như trượt đi trên nền xi măng ướt. Mình ăn mặc để lên diễn thuyết chứ có phải để chạy bổ xuống dốc cao mấy trăm thước trong mưa đâu.

Xuống đến bên dưới, Langdon đã mệt đứt hơi. Anh đẩy cánh cửa xoay, dừng lại một lát trong phòng giải lao để điều hoà nhịp thở và giũ bớt nước mưa, đồng thời ngước mắt nhìn không gian mới hoàn thành vừa hiện ra trước mặt mình.
Chà, quả là ấn tượng
Nơi này khác hẳn với hình dung của anh. Biết rằng người ta xây dựng trung tâm dưới lòng đất, Langdon đã từng ngại ngần khi nghĩ đến việc phải đi qua đây. Thuở bé, có lần anh bị mắc kẹt dưới đáy giếng sâu suốt một đêm, tai nạn ấy khiến anh trở nên dị ứng với những không gian khép kín. Nhưng cái thế giới dưới lòng đất này lại, rất thoáng đãng. Sáng sủa. Rộng rãi.

Trần nhà là một khoảng không mênh mông bằng kính gắn hàng loạt cụm đèn lộng lẫy, trải ánh sáng êm dịu khắp phần nội thất màu ngọc trai.

Kể như bình thường, Langdon sẽ tha thẩn cả tiếng đồng hồ để chiêm ngưỡng kiến trúc nơi này, nhưng vì chỉ còn năm phút nữa là đến giờ nên anh đành dẹp ý muốn ấy và lao qua sảnh chính để sang chỗ kiểm tra an ninh và thang máy. Cứ bình tinh nào, anh tự nhủ.
Peter biết là mình đang trên đường đến mà. Thiếu mình thì chương trình chưa bắt đầu đâu.
Tại quầy kiểm tra an ninh, khi Langdon moi đồ đạc khỏi các túi và tháo chiếc đồng hồ cũ rích của mình ra, tay bảo vệ gốc Tây Ban Nha liền gợi chuyện với anh.
- Chuột Mickey à? - gã ta hỏi, giọng khá hào hứng.
Đã quá quen với những phản ứng tương tự, Langdon gật gật đầu.
Chiếc đồng hồ Chuột Mickey này là món quà cha mẹ tặng anh nhân sinh nhật lần thứ 9.
- Tôi đeo nó để nhắc mình biết thong thả và đơn giản hoá cuộc sống đi.
- Tôi nghĩ nó vô tác dụng rồi, - gã bảo vệ cười - Trông ông đang cuống quít cả lên ấy!
Langdon mỉm cười và đẩy túi xách của mình qua máy chiếu X quang.
- Đi đường nào tới Sảnh Tượng đài nhỉ?
Tay bảo vệ ra hiệu về phía thang máy.
- Có biển chỉ dẫn đấy ạ!
- Cảm ơn - Langdon nhấc túi xách khỏi băng chuyền và vội vã bước đi.
Trong khi thang máy chạy lên. Langdon hít một hơi thật sâu và cố gắng tập hợp những ý nghĩ của mình. Anh ngước mắt, nhìn xuyên qua trần nhà bằng kính lấm tấm mưa lên vòm Điện khổng lồ đang ngập trong ánh đèn chiếu sáng. Quả là một toà nhà kỳ vĩ. Tít trên nóc, ngót 90 mét trong không trung, Tượng thần Tự do vươn cao giữa trời đêm mù sương như một tên lính gác ma quái. Cứ nghĩ chính các nô lệ là người nâng từng mảnh của bức tượng đồng cao gần 6 mét kia tới vị trí chót vót đó, Langdon lại cảm thấy thật chua chát. Việc thi công pho tượng này là một bí mật của Điện Capitol, hiếm khi xuất hiện trong bài giảng lịch sử ở bậc trung học.

Thực ra thì toàn bộ toà nhà cũng là một kho tàng chứa vô khối bí mật kỳ lạ, chẳng hạn cái “bồn tắm sát nhân” khiến Phó Tổng thống Henry Wilson viêm phổi mà chết, cái cầu thang với vết máu vĩnh viễn không phai làm bao nhiêu người vấp ngã, và một phòng hầm có niêm phong đựng con ngựa chết nhồi rơm của tướng John Alexander Logan, được các công nhân phát hiện ra vào năm 1930…

Tuy nhiên, không có câu chuyện nào tồn tại lâu như những lời đồn về mười ba bóng ma lang thang trong toà nhà. Người ta hay kháo nhau rằng linh hồn của Pierre L’Enfant - Kiến trúc sư thiết kế thành phố - vẫn thơ thẩn trong các đại sảnh, tìm cách thanh toán tờ hoá đơn tính đến nay đã quá hạn hai trăm năm của mình. Bóng ma của một công nhân ngã từ Vòm điện Capitol xuống trong lúc thi công thì thường lang thang ở các hành lang với một khay dụng cụ trên tay, và dĩ nhiên không thể thiếu con mèo đen chết yểu luôn lảng vảng trong cái mê cung kỳ quái gồm toàn những lối đi và phòng ngủ hẹp ở tầng hầm, đây cũng là bóng ma nổi tiếng nhất, xuất hiện rất nhiều lần trong tầng hầm Điện Capitol.

Langdon bước ra khỏi thang máy và lại nhìn đồng hồ. Còn ba phút. Anh vội vã đi xuống hành lang lớn, theo các biển chỉ dẫn để tới Đại sảnh Tượng đài Danh nhân và dượt lại phần phát biểu mở màn ở trong đầu. Langdon phải thừa nhận rằng viên trợ lý của Peter nhận xét rất có lý: chủ đề diễn thuyết hôm nay cực kỳ phù hợp với sự kiện do một thành viên quan trọng của Hội Tam điểm chủ trì, nhất là lại tổ chức tại Washington D.C.

Ai nấy đều biết thủ đô nước Mỹ có một lịch sử phong phú liên quan đến hội kín này. Chính George Washington đặt viên gạch đầu tiên cho toà nhà Quốc hội trong một nghi lễ hoàn chỉnh của Hội Tam điểm. Rồi cũng chính ông cùng các Huynh trưởng khác của Hội như Ben Franklin và Pierre L’Enfant lại ấp ủ ý tưởng và thiết kế nên thành phố, những trí tuệ tuyệt vời ấy đã trang hoàng cho thủ đô mới của họ toàn bằng những biểu tượng, kiến trúc và nghệ thuật theo phong cách Hội Tam điểm.
- Dĩ nhiên, người thường sẽ nhận thấy đủ loại ý tưởng kỳ cục trong những biểu tượng như vậy.

Lắm kẻ đa nghi phàn nàn rằng các bậc tiền bối trong Hội Tam điểm đã che giấu nhiều bí mật lớn lao ở khắp Washington cùng với những thông điệp mang tính biểu tượng lẩn khuất trong bố cục đường phố của thủ đô. Langdon chẳng bao giờ chú ý đến giả thuyết ấy Thông tin thất thiệt quanh Hội Tam điểm phổ biến đến mức ngay cả những sinh viên có học vấn của Harvard cũng quan niệm rất sai lệch về tổ chức này.

Năm ngoái, một tân sinh viên hốt hoảng lao bổ vào lớp Langdon với một bản in tải từ web. Thì ra là một tấm bản đồ thủ đô, theo đó vài tuyến phố nhất định đã được bôi đậm để tạo thành nhiều hình dạng khác nhau, chẳng hạn dấu ấn của quỷ Satan, biểu tượng com pa và thước thợ của Hội Tam điểm, rồi cái đầu của Baphomet(10)… cốt chứng tỏ rằng các thành viên Hội Tam điểm tham gia kiến tạo Washington D.C. ngày trước có liên quan đến một âm mưu bí mật và đen tối nào đó.
- Thú vị đấy, - Langdon trả lời - nhưng không đủ sức thuyết phục. Nếu em vẽ cho hết mọi đường giao cắt trên bản đồ, chắc chắn em sẽ tìm được tất cả các loại hình dạng.
- Nhưng đây không thể là một sự trùng hợp được! - cậu sinh viên kêu lên.
Langdon kiên nhẫn chứng minh cho cậu ta thấy rằng có thể tạo ra những hình tương tự trên bản đồ đường phố Detroit.
- Cậu sinh viên vô cùng thất vọng.
- Đừng vội nản! - Langdon nói - Đúng là ở Washington có một số bí mật khó lòng tưởng tượng… chỉ hiềm chúng không nằm trên tấm bản đồ đường phố này mà thôi.
- Cậu sinh viên trở nên phấn chấn:
- Bí mật ạ? Kiểu kiểu thế nào, thưa thầy?
- Cứ xuân sang tôi lại dạy một khoá gọi là Các biểu tượng Huyền hoặc. Tôi giảng rất nhiều về thủ đô. Em nên tham gia khoá học đó.
- Biểu tượng huyền hoặc - Cậu tân sinh viên lại được phen kích động - Vậy đúng là có những biểu tượng của quỷ sứ ở thủ đô!
Langdon mỉm cười.
- Xin lỗi, nhưng cái từ huyền hoặc, mặc dù gợi ra những hình ảnh liên quan đến việc tôn thờ quỷ sứ, trên thực tế lại có nghĩa là “được che giấu” hoặc “bí ẩn”. Vào thời kỳ tôn giáo bị đàn áp, người ta phải giấu giếm hoặc che đậy những tri thức bị xếp vào loại phản chính thống. Những tri thức ấy khiến nhà thờ lo ngại, họ bèn định nghĩa lại rằng bất kỳ thứ gì “thần bí” thì đều xấu xa, và vì thế mới sinh ra thiên kiến.
- Ồ - Cậu sinh viên cụt hứng.
Tuy nhiên, mùa xuân năm đó, Langdon nhận ra cậu sinh viên ngồi ở hàng ghế đầu trong khi năm trăm sinh viên đang chen chân vào Thính phòng Sanders của Đại học Harvard, một giảng đường rất cũ với những băng ghế gỗ kêu cọt cà cót kẹt.
- Xin chào tất cả các bạn. - Langdon nói to từ trên bục giảng: Anh bật máy chiếu, và một hình ảnh hiện ra phía sau lưng anh - Trong khi mọi người đang ổn định chỗ ngồi, xin hỏi có bao nhiêu bạn nhận ra toà nhà trong bức hình này?
- Điện Capitol! - hàng chục giọng nói đồng thanh vang lên - Thủ đô Washington!
- Đúng. Trong mái vòm này, có tới hơn 4.000 tấn sắt thép. Một thành tích phi thường chứng tỏ trình độ kiến trúc của những năm 1850.
- Ghê thật! - ai đó nói to.
Langdon đảo mắt, hy vọng sẽ có người phản đối cái từ đó.
- Và bao nhiêu người trong số các bạn đã từng tới Washington?
Lác đác những cánh tay giơ lên.
- Ít quá nhỉ? - Langdon giả vờ ngạc nhiên - Thế bao nhiêu người đã tới Rome, Paris, Madrid hoặc London?
Hầu như tất cả các cánh tay trong phòng đều giơ cao.
Chẳng có gì là lạ. Một trong những nghi thức trưởng thành cho sinh viên Mỹ là tấm vé tàu hoả đi châu Âu nghỉ hè trước khi bước ra thực tế nghiệt ngã của cuộc đời.
- Xem ra các bạn đi châu Âu nhiều hơn là tới thủ đô của chúng ta. Theo các bạn tại sao lại như vậy?
- Ở châu Âu không quy định độ tuổi được uống bia rượu! - ai đó ở phía cuối lớp nói to.
Langdon mỉm cười.
- Cứ làm như quy định về độ tuổi uống bia rượu ở đây ngăn trở nổi các bạn ấy!
Mọi người phì cười.
Đó là ngày đầu tiên của khoá học, và sinh viên mất nhiều thời gian hơn so với bình thường để ổn định chỗ ngồi, đổi chỗ và gây ra những tiếng cọt kẹt trên các băng ghế gỗ. Langdon rất thích giảng bài trong thính phòng này, bởi chỉ cần nghe xem sinh viên nhấp nhổm trên ghế ra sao, anh sẽ biết họ quan tâm đến bài giảng tới mức độ nào.
- Nói cho đúng, - Langdon nói - Washington D.C. có một số công trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật và biểu tượng tuyệt vời nhất thế giới. Tại sao các bạn lại ra nước ngoài trước khi tới thăm thủ đô của mình nhỉ?
- Những thứ cổ xưa cuốn hút hơn - ai đó đáp.
- Nhân nhắc đến những thứ cổ xưa - Langdon nói rõ thêm - tôi cho rằng ý bạn chỉ những toà lâu đài, hầm mộ, đền thờ, đại loại như thế, phải không nào?
Sinh viên đồng loạt gật đầu.
- Tốt. Giờ nếu tôi nói rằng Washington D.C. có tất cả những thứ đó thì các bạn nghĩ sao? Nào là lâu đài, hầm mộ, nào là kim tự tháp, đền thờ… đủ hết.
Tiếng cọt kẹt giảm hẳn.
- Thưa các bạn - Langdon nói, hạ thấp giọng và bước lên phía trước bục giảng - trong tiết tới, các bạn sẽ thấy rằng đất nước chúng ta có rất nhiều bí mật và lịch sử được giấu kín, và cũng y hệt như ở châu Âu tất cả những bí mật hay nhất đều được giấu ở những chỗ ai cũng trông thấy.
Các băng ghế im phăng phắc.
Thế đấy.
Langdon giảm bớt ánh sáng và chuyển sang hình chiếu thứ hai.
- Ai nói cho tôi biết George Washington đang làm gì ở đây nào?
Trên hình chiếu là một bức bích hoạ nổi tiếng tả cảnh George Washington vận bộ lễ phục của Hội Tam điểm, đang đứng trước một cỗ máy trông rất kỳ dị - một cái kiềng khổng lồ bằng gỗ đỡ hệ thống ròng rọc có treo khối đá to tướng. Một nhóm người ăn bận chỉnh tề đứng quanh ông.
- Chắc là đang nâng tảng đá tổ chảng ấy ạ? - ai đó đánh bạo lên tiếng.
Langdon không bình luận vội. Anh thích để sinh viên tự đính chính nếu có thể được.
- Thật ra, - tiếng một sinh viên khác - em nghĩ Washington đang hạ tảng đá. Ông ấy mặc y phục Hội Tam điểm. Em đã từng nhìn thấy vài bức tranh vẽ các hội viên Tam điểm đặt móng rồi. Nghi thức này luôn phải dùng đến những cái giá ba chân để hạ viên đá đầu tiên xuống.
- Rất chính xác - Langdon nói - Trong bức bích hoạ này, Người cha của đất nước ta đang sử dụng cái giá ba chân và ròng rọc để đặt viên đá móng cho Điện Capitol. Đó là ngày 18 tháng Chín năm 1793, trong khoảng thời gian từ 11 giờ 15 phút đến 12 giờ 30 phút - Langdon dừng lại, nhìn khắp lớp học một lượt - Ai có thể cho tôi biết ý nghĩa của ngày tháng đó nào?
Im lặng.
- Vậy nếu tôi nói với các bạn rằng thời gian chính xác đó là do ba hội viên Tam điểm nổi tiếng George Washington, Benjamin Franklin và Pierre L’Enfant ấn định thì sao?
Càng im lặng.
- Rất đơn giản, viên đá móng được đặt vào ngày giờ ấy vì đó là lúc Đầu Rồng cát tường nằm trong cung Xử Nữ, tất nhiên là còn nhiều yếu tố khác nữa.
Tất cả ngơ ngác nhìn nhau.
- Thưa thầy, - giọng một người vang lên - Thầy muốn nói việc đó liên quan đến chiêm tinh học phải không ạ?
- Đúng. Mặc dù là một dạng chiêm tinh khác hẳn những gì chúng ta biết ngày nay.
Một cánh tay giơ lên.
- Ý thầy là những người sáng lập đất nước ta đã tin vào chiêm tinh?
Langdon cười.
- Cừ lắm. Các bạn nghĩ sao nếu tôi cho các bạn biết rằng kiến trúc của thành phố Washington chứa nhiều biểu tượng chiêm tinh hơn bất kỳ thành phố nào khác trên thế giới - hoàng đạo này, tinh đồ này, đá móng được đặt vào ngày giờ chiêm tinh thật chính xác này? Quá nửa số người soạn thảo bản Hiến pháp của chúng ta là hội viên Tam điểm, họ đều tin rằng các ngôi sao có liên hệ chặt chẽ với số phận, và rất chú ý tới bố cục của bầu trời khi kiến thiết thế giới mới của mình.
- Nhưng ai cần bận tâm đến sự thật là viên đá móng điện Capitol được đặt xuống đúng lúc Đầu Rồng nằm trong cung Xử Nữ chứ? Biết đâu đó chỉ là sự trùng hợp thì sao?
- Thế thì sự trùng hợp ấy quá ấn tượng. Bởi đá móng của ba công trình tạo nên Tam giác Liên bang - Điện Capitol. Nhà Trắng, và Tượng đài Washington - tuy đặt xuống vào những năm khác nhau nhưng đều được tính toán giờ giấc kỹ càng để diễn ra trong điều kiện chiêm tinh giống hệt nhau đấy.
Khắp giảng đường, những cặp mắt mở to. Rồi rất nhiều cái đầu cúi xuống hí hoáy ghi chép.
Một cánh tay giơ lên cuối lớp.
- Tại sao họ lại làm như thế ạ?
Langdon bật cười.
- Phải trả lời bằng tài liệu của cả một học kỳ cơ đấy. Nếu muốn tìm hiểu, các bạn nên tham dự khoá học về chủ nghĩa thần bí của tôi. Thật tình thì, tôi nghĩ tinh thần các bạn chưa sẵn sàng để nghe câu trả lời.
- Sao cơ ạ? - anh chàng kia kêu lên - Thầy nói đi mà!
Langdon tỏ ra trầm ngâm và sau đó lắc đầu, cố tình đùa bỡn họ.
- Xin lỗi, tôi không làm thế được. Một số bạn mới chỉ là sinh viên năm thứ nhất. Tôi e điều đó có thể lung lạc tinh thần các bạn.
- Thầy nói cho chúng em biết đi! - cả lớp ồ lên.
Langdon nhún vai.
- Có lẽ các bạn nên gia nhập Hội Tam điểm hoặc Đông Tinh Hội(11) để biết rõ câu trả lời ngay từ nguồn gốc.
- Chúng em làm sao xin vào được, - một chàng trai lý sự - Hội Tam điểm giống như một hội kín siêu hạng ấy!
- Hội kín siêu hạng ư? Thật thế à? - Langdon nhớ tới chiếc nhẫn Tam điểm to tướng mà ông bạn Peter Solomon vẫn đeo một cách tự hào bên tay phải - Vậy tại sao hội viên Tam điểm lại công khai đeo nhẫn, kẹp cà vạt, hoặc ghim cài áo có biểu tượng của hội? Tại sao những toà nhà của Hội Tam điểm đều được làm dấu rất rõ ràng? Tại sao thời gian hội họp của họ lại được đăng sờ sờ trên báo? - Langdon mỉm cười trước tất cả những khuôn mặt đầy bối rối - Thưa các bạn, Hội Tam điểm không phải là một hội kín… đó là một hội chứa đựng nhiều điều bí mật.
- Cũng thế cả thôi ạ, - ai đó thốt lên.
- Thật ư? - Langdon gặng hỏi - Vậy bạn có coi Coca-Cola là một hội kín không?
- Dĩ nhiên là không ạ, - chàng sinh viên đáp.
- Được rồi, vậy sẽ thế nào nếu bạn gõ cửa trụ sở chính của hãng và hỏi xin công thức sản xuất Coke?
- Họ sẽ chẳng bao giờ tiết lộ đâu.
- Chính xác. Để biết được bí mật lớn nhất của Coca-Cola, bạn cần phải gia nhập công ty, làm việc trong nhiều năm, chứng tỏ mình là người đáng tin cậy và cuối cùng len được vào hàng ngũ tinh tuý, nơi bạn có thể được chia sẻ thông tin ấy. Sau đó bạn sẽ phải thề giữ gìn bí mật.
- Ý thầy là Hội Tam điểm giống như một công ty?
- Chỉ ở khía cạnh hệ thống tầng bậc chặt chẽ và nguyên tắc giữ bí mật ngặt nghèo của họ thôi.
- Chú em là hội viên Tam điểm, - một cô gái nói to - Và thím em rất khó chịu vì chú chẳng bao giờ kể chuyện về hội với thím. Thím bảo rằng Hội Tam điểm là một dạng tôn giáo kỳ lạ.
- Một quan niệm sai lầm phổ biến!
- Hội Tam điểm không phải là một tôn giáo ư?
- Chúng ta làm một phép thử nhé! - Langdon nói - Ai ở đây đã từng học khoá học tôn giáo so sánh của Giáo sư Witherspoon?
Vài cánh tay giơ lên.
- Tốt. Hãy cho tôi biết ba điều kiện tiên quyết để một hệ tư tưởng được coi là một tôn giáo?
- ABC, - một cô gái lên tiếng - An lòng, Buộc chặt, Cải đạo(12)
- Rất đúng, - Langdon nói - Tôn giáo an lòng người ta bằng sự cứu rỗi; tôn giáo buộc chặt người ta vào một thuyết thần học chính xác, và tôn giáo cải đạo cho những người phi tín ngưỡng - Anh ngừng lại - Hội Tam điểm không có ba điều kiện này. Hội viên Tam điểm chẳng hề hứa hẹn gì về sự cứu rỗi, không có thuyết thần học nhất định và không tìm cách cải đạo ai. Trên thực tế, ngay trong các địa điểm hội họp của Hội, việc thảo luận về tôn giáo cũng bị cấm ngặt.
- Vậy Hội Tam điểm là phản tôn giáo?
- Ngược lại. Một trong những điều kiện tiên quyết để trở thành hội viên Tam điểm là bạn phải tin vào một đấng tối cao. Điểm khác biệt giữa duy linh Tam điểm và tôn giáo có tổ chức là ở chỗ hội viên Tam điểm không áp đặt định nghĩa hay tên gọi cụ thể cho một đấng tối cao nào. Thay vì những nhân vật xác định như Thượng đế, thánh Allah. Đức Phật, hay Jesus, hội viên Tam điểm sử dụng các thuật ngữ khái quát hơn như Đấng Toàn năng hoặc Kiến trúc sư vĩ đại của Vũ trụ. Điều này giúp hội viên Tam điểm thuộc mọi tín ngưỡng có thể tập hợp lại với nhau.
- Nghe hơi xa vời, - ai đó lên tiếng.
- Ồ có lẽ thế, nhưng nên chăng gọi là đầu óc phóng khoáng? - Langdon tiếp tục - Trong thời buổi các nền văn hoá khác biệt đang sát phạt nhau để xem định nghĩa về Chúa của ai tốt hơn thì có thể nói truyền thống khoan dung và phi thành kiến của Hội Tam điểm là rất đáng khen - Langdon sải bước trên bục giảng - Hơn nữa, Hội Tam điểm chào đón thành viên thuộc mọi chủng tộc, màu da, tín ngưỡng, và đối đãi với nhau bằng tinh thần huynh đệ công bằng bình đẳng.
- Công bằng bình đẳng ạ? - một hội viên Hội Phụ nữ của trường đứng lên - Có bao nhiêu phụ nữ được nhận vào Hội Tam điểm rồi, thưa Giáo sư Langdon?
Langdon giơ tay trong tư thế đầu hàng.
- Câu hỏi rất hay. Theo chuyện xưa kể lại, Hội Tam điểm bắt nguồn từ các hội nghề nghiệp của những người thợ nề ở châu Âu và do đó là một tổ chức của nam giới, vài trăm năm trước, có người nói là từ năm 1703, một chi nhánh dành cho nữ giới gọi là Đông Tinh Hội được thành lập. Họ có hơn 1 triệu hội viên.
- Thế nhưng Hội Tam điểm vẫn là một tổ chức hùng mạnh loại trừ phụ nữ, - cô gái khăng khăng.
Langdon không rõ Hội Tam điểm thực sự hùng mạnh đến mức nào, nhưng anh không định đi theo hướng đó. Hội viên Tam điểm hiện đại phân bố từ mấy ông già vô hại thích ăn mặc chải chuốt đến những phe đảng môi giới bí mật đủ quyền năng khuynh đảo cả thế giới. Sức mạnh của họ chắc chắn nằm đâu đó giữa khoảng này.
- Giáo sư Langdon, - một cô gái tóc quăn ở hàng ghế sau lên tiếng, - nếu Hội Tam điểm không phải hội kín, không phải doanh nghiệp, cũng chẳng phải tôn giáo, vậy thì nó là gì ạ?
- Chà, nếu em hỏi một hội viên Tam điểm, người đó sẽ đưa ra định nghĩa thế này: Hội Tam điểm là một hệ thống đạo đức ẩn giấu trong những biểu tượng và thể hiện qua các ký hiệu.
- Nghe như lối diễn tả văn hoa cho khái niệm “giáo phái quái đản” ấy thôi.
- Em bảo sao, quái đản?
- Vâng! - cô gái đáp, và đứng lên - Em đã nghe nói về những trò họ làm bên trong các toà nhà bí mật! Những nghi thức thắp nến kỳ cục với quan tài, thòng lọng, rồi uống rượu trong những cái đầu lâu. Như thế là quái đản!
Langdon nhìn lướt cả lớp.
- Còn ai thấy quái đản nữa không?
- Có ạ! - Tất cả đồng thanh.
Langdon vờ thở dài buồn bã.
- Tệ quá? Chỉ thế mà đã thấy quái đản thì chắc chẳng bao giờ các bạn muốn gia nhập tôn giáo của tôi đâu.
Cả khán phòng chìm vào im lặng. Cô sinh viên ở Hội Phụ nữ có vẻ băn khoăn.
- Thầy cũng đi theo một giáo phái nào đấy à?
Langdon gật đầu và hạ thấp giọng ra chiều bí mật.
- Đừng tiết lộ với ai nhé, vào ngày của thần mặt trời Ra, tôi quỳ xuống trước một công cụ tra tấn cổ xưa và nhấm nháp những biểu tượng máu thịt mang tính nghi thức.
Cả lớp lộ vẻ khiếp hãi.
Langdon nhún vai.
- Nếu có bạn nào muốn tham gia cùng tôi, hãy đến nhà nguyện Harvard vào Chủ nhật, quỳ dưới thánh giá và nhận lễ ban thánh thể.
Cả lớp vẫn im phăng phắc.
Langdon nháy mắt.
- Hãy mở mang đầu óc của các bạn đi. Tất cả chúng ta đều sợ những gì chúng ta không hiểu.

***

Tiếng chuông đồng hồ bắt đầu vang vọng trong các hành lang Điện Capitol.
7 giờ
Giờ thì Robert Langdon guồng chân chạy. Hãy nói về một cổng vào đầy kịch tính. Lao qua Hành lang Liên kết, anh nhận ra lối đi sang Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia và tiến thẳng về phía đó.
Khi tới gần cửa. anh bước chậm lại như đi dạo và hít vài hơi thật sâu.
Rồi anh cài cúc áo khoác, ngẩng cao đầu, rẽ vào vừa đúng lúc tiếng chuông cuối cùng ngân vang.
Đến giờ trình diễn rồi.

Vào tới Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia, Giáo sư Robert Langdon ngước mắt và mỉm cười thân thiện. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc nụ cười của anh biến mất. Anh đứng sững lại.
Có điều gì đó rất, rất tệ.

Chú thích:
(10) Baphomet là một thần dị giáo, bị xem là hình ảnh của quỷ Satan. Baphomet có hình dáng thân người, đầu dê, và đôi chân dê. Khuôn mặt, cặp sừng và đôi tai của Baphomet khi cách điệu tạo thành một ngôi sao lộn ngược, biểu tượng của tín ngưỡng thờ quỷ Satan - ND.
(11) Order of the Eastem Star (Đông Tinh Hội) là tổ chức huynh đệ lớn nhất thế giới, kết nạp cả nam và nữ giới. Hội được thành lập năm 1850 bởi Rob Morris, một luật sư kiêm nhà giáo dục ở Boston. Massachusetts, một nhân vật cao cấp trong Hội Tam điểm. Đông Tinh Hội lấy nền tảng là những lời răn trong Kinh thánh, nhưng cũng đón nhận người từ tất cả các tín điều đơn thần. Hội có khoảng 10.000 tăng hội tại 20 quốc gia và xấp xỉ 1 triệu hội viên thuộc Tổng Tăng hội. Các thành viên của Đông Tinh Hội có độ tuổi từ 18 trở lên; nam giới phải là Huynh trưởng trong Hội Tam điểm còn nữ giới phải có quan hệ đặc biệt với các hội viên Tam điểm - ND.
(12) Nguyên gốc trong tiếng Anh, cụm từ ABC là viết tắt của 3 chữ “Assure, Believe, Convert”. Để giữ nguyên được cụm viết tắt này, người dịch không dịch nguyên văn đúng nghĩa của từng từ mà lựa dịch ý - ND.
Hết chươngg 6

kiemanh
05-10-2010, 01:25 PM
Chương 7


Katherine Solomon vội vã băng qua bãi đỗ xe bất chấp làn mưa lạnh ngắt, lòng thầm ước giá như mình mặc nhiều hơn chứ không chỉ phong phanh chiếc quần jeans và áo len cashmere thế này. Càng tới gần lối vào chính của toà nhà, tiếng ồn của máy lọc không khí nghe càng ầm ĩ, nhưng Katherine hầu như không nhận thấy, bởi tai cô vẫn ong ong cuộc nói chuyện điện thoại vừa rồi.

Có thể tìm được… thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô.

Katherine nửa tin nửa ngờ trước thông tin ấy. Cô còn nhiều điều phải thảo luận với người gọi, và họ đã thoả thuận là sẽ gặp nhau vào tối muộn hôm nay.

Đến cửa chính, Katherine lại cảm thấy phấn khích, y như mọi lần bước vào toà nhà đồ sộ này. Chẳng ai biết nơi ấy lại nằm ở đây.

Tấm biển trên cánh cửa ghi:
TRUNG TÂM HỖ TRỢ BẢO TÀNG SMITHSONIAN
(SMSC)

Viện Smithsonian sở hữu một bộ sưa tập hiện vật khổng lồ đến nỗi hơn một tá bảo tàng đồ sộ bên Công viên Quốc gia chỉ đủ cho họ trưng bày 2% trong số đó cùng một lúc. 98% còn lại của bộ sưu tập đành phải lưu giữ ở nơi khác, và cái nơi khác ấy… chính là nơi đây.

Quả vậy, toà nhà này chứa đựng hàng loạt hiện vật phong phú đến kinh ngạc, từ những pho tượng Phật khổng lồ, sách cổ chép tay, tên tẩm độc xứ New Guinea, dao chạm đá quý đến thuyền độc mộc làm từ tấm sừng hàm cá voi. Các báu vất thiên nhiên cũng khiến người ta choáng váng không kém, chẳng hạn như những bộ xương khủng long cổ dài, nhiều mảnh thiên thạch vô giá, một con mực khổng lồ, thậm chí cả bộ sưu tập sọ voi được Teddy Roosevelt mang về từ một khu bảo tồn tự nhiên châu Phi.

Tuy thế, chẳng báu vật nào trong số đó là lý do khiến Peter Solomon, Tổng thư ký của Smithsonian, phải giới thiệu em gái mình tới SMSC. Ba năm trước, ông mời Katherine về đây, nhưng không phải để nhìn ngắm những kiệt tác khoa học, mà là để sáng tạo ra chúng, và đó chính là những gì Katherine đang thực hiện.

Sâu trong toà nhà này, trong bóng tối của nơi chốn tách biệt nhất, có một phòng thí nghiệm khoa học nho nhỏ khác hẳn bất kỳ phòng thí nghiệm nào trên thế giới. Tại đây, Katherine đã đạt được nhiều bước đột phá trong lĩnh vực Lý trí học, những đột phá ấy có dây mơ rễ má với tất cả mọi ngành từ vật lý, lịch sử, triết học tới tôn giáo. Chỉ ít lâu nữa, mọi thứ sẽ thay đổi, cô nghĩ.

Khi Katherine bước vào tiền sảnh, người bảo vệ ngồi ở quầy giấu vội chiếc đài của mình và giật vội tai nghe ra khỏi tai.
- Cô Solomon! - Anh ta cười hì hì.
- Lại đội áo đỏ hả?
Người bảo vệ đỏ mặt ngượng nghịu.
- Mới là chương trình trước trận đấu thôi ạ.
Katherine tủm tỉm.
- Tôi không mách đâu.
Cô bước tới máy dò kim loại và bỏ hết mọi thứ trong túi ra. Khi tháo đến chiếc đồng hồ Cartier bằng vàng ở cổ tay, Katherine lại thấy lòng đau tê tái. Chiếc đồng hồ này là món quà mẹ tặng cô nhân ngày sinh lần thứ 18. Ngót mười năm đã trôi qua kể từ khi mẹ chết thảm… chết ngay trên tay Katherine.
- Thế, thưa cô Solomon? - người bảo vệ thì thầm giọng bông đùa - Cô đã định nói cho ai biết cô thường làm gì trong này chưa?
Katherine ngước nhìn lên.
- Một ngày nào đó, Kyle ạ. Nhưng không phải tối nay.
- Nào, - Kyle giục - Một phòng thí nghiệm bí mật… trong một bảo tàng bí mật? Chắc chắn là cô đang làm gì đó rất hay ho.
Hơn cả hay ho ấy chứ

Katherine nghĩ và thu gom lại đồ đạc. Sự thật là cô đang làm cho khoa học tiên tiến đến mức nó thậm chí không còn là khoa học nữa kia.
Hết chương 7

kiemanh
05-10-2010, 01:26 PM
Chương 8

Robert Langdon đứng chết sững ở cửa Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia, trân trối nhìn khung cảnh bất ngờ trước mắt. Căn phòng vẫn y nguyên như trong ký ức của anh với hình bán nguyệt cân đối xây dựng theo phong cách khán đài Hy Lạp. Những bức tường vòng cung duyên dáng bằng sa thạch và thạch cao Italia làm nền cho hàng cột ốp đá sặc sỡ, điểm xuyết loạt tượng danh nhân quốc gia - cả thảy là ba mươi tám pho lấy nguyên mẫu từ các công dân Mỹ xuất chúng, kích thước như người thật, quây thành nửa vòng tròn trên nền nhà lát đá cẩm thạch đen trắng.

Mọi chi tiết đúng như Langdon ghi nhớ hồi tham dự thuyết giảng ở đây
Ngoại trừ một chi tiết.
Tối nay, căn phòng trống rỗng.

Không ghế ngồi. Không cử toạ. Không có Peter Solomon. Chỉ có vài du khách đi lại vẩn vơ, chẳng hề để tâm đến sự xuất hiện của Robert Langdon. Hay là Peter dặn đến Nhà Tròn(13) nhỉ? Langdon ngó xuống hành lang phía nam dẫn tới Nhà tròn và cũng chỉ thấy dăm ba khách du lịch lang thang ở đó.

Tiếng vọng của chuông đồng hồ đã dứt hẳn. Giờ thì anh đến muộn thật rồi.

Robert Langdon vội vã quay lại tiền sảnh và gặp được một hướng dẫn viên.
- Xin lỗi anh, sự kiện tổ chức ở đâu nhỉ, sự kiện của Viện Smithsonian tối nay ấy?
Người hướng dẫn ngập ngừng.
- Tôi không dám chắc, thưa ông. Khi nào thì nó bắt đầu?
- Giờ này!
Người kia lắc đầu.
- Viện Smithsonian không có sự kiện nào vào tối nay cả, chí ít là ở đây.

Ngơ ngác, Langdon vội vã quay trở lại trung tâm căn phòng, đưa mắt nhìn quanh một lượt. Hay là Solomon đang trêu đùa gì đây?

Langdon không tài nào hiểu nổi. Anh rút điện thoại di động cùng tờ fax nhận được sáng nay và bấm số của Peter.

Điện thoại phải mất một lúc mới bắt được tín hiệu trong toà nhà rộng lớn. Cuối cùng, nó cũng đổ chuông.
Giọng miền nam quen thuộc trả lời máy.

- Văn phòng Peter Solomon, tôi là Anthony. Tôi giúp gì được quý vị?
- Anthony! - Langdon thở phào - Rất vui là anh vẫn còn ở văn phòng. Robert Langdon đây. Hình như có gì đó nhầm lẫn về buổi thuyết giảng. Tôi đang đứng trong Đại sảnh Tượng đài Danh nhân, nhưng chẳng có ai ở đây cả. Hay là buổi lễ được chuyển tới một phòng khác?
- Tôi không nghĩ như vậy, thưa Giáo sư. Để tôi kiểm tra nhé! - Viên trợ lý dừng lại một lát - Giáo sư đã xác nhận trực tiếp với ông Solomon chưa?
Langdon bối rối.
- Không, tôi xác nhận với anh, Anthony ạ. Sáng nay!
- Vâng, tôi nhớ rồi - Đầu dây bên kia im bặt một lúc - Đó là sơ suất của Giáo sư đấy, Giáo sư có nghĩ thế không?
Langdon giật thót.
- Anh bảo sao cơ?
- Hãy xem nhé… - người đàn ông nói - ông nhận được một bản fax đề nghị gọi tới một số điện thoại, và làm theo. Ông nói chuyện với một người hoàn toàn xa lạ tự nhận mình là trợ lý của Peter Solomon. Sau đó, ông sẵn sàng leo lên một chiếc máy bay riêng để tới Washington và chui vào một chiếc xe đợi sẵn. Có phải thế không nào?
Langdon rùng mình ớn lạnh.
- Anh là thằng quái nào vậy? Peter đâu?
- Tôi e rằng Peter Solomon không hề biết rằng ông đến Washington tối nay - âm sắc miền nam biến mất, và giọng gã đàn ông chuyển thành tiếng thì thầm dịu dàng - Ngài ở đây, thưa ngài Langdon, bởi vì tôi muốn như vậy.

Chú thích:
(13) Nhà tròn Điện Capitol nằm ngay phía dưới mái vòm và là phần cao nhất của toà nhà này, được xem như “trái tim biểu tượng và vật chất” của Điện Capitol. Nhà tròn được bao quanh bởi những hành lang nối hai khu Hạ viện và Thượng viện. Phía nam Nhà tròn là Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia - Phía đông bắc là phòng họp cũ của Thượng viện - ND
Hết chương 8

kiemanh
05-10-2010, 01:27 PM
Chương 9


Robert Langdon áp chặt điện thoại di động vào tai và bồn chồn đi đi lại lại trong Sảnh Tượng đài.
- Anh là thằng quái nào vậy?
Gã đàn ông bình tĩnh trả lời bằng giọng thầm thì mượt như nhung.
- Đừng cuống thế, Giáo sư. Ngài được triệu tới đây vì một lý do.
- Triệu tới ư? - Langdon cảm thấy mình như con thú bị nhốt - Anh định bắt cóc tôi chăng?
- Không hề - Giọng gã kia thản nhiên - Nếu tôi chủ tâm làm hại thì ngài đã chết ngay trong chiếc Town Car rồi - Gã bỏ lửng câu nói một lúc.
- Ý định của tôi hoàn toàn cao quý, tôi khẳng định như vậy. Đây chỉ đơn giản một lời mời.
Thôi xin kiếu!
Sau những trải nghiệm tại châu Âu trong mấy năm vừa qua, sự nổi tiếng không hề mong muốn của Langdon khiến anh trở thành một khối nam châm với những kẻ điên rồ, nhưng gã này đã đi quá giới hạn cho phép.
- Xem nào, tôi không biết chuyện quái gì đang diễn ra ở đây, nhưng tôi sẽ tắt máy…
- Đừng dại dột thế? - gã kia nói - Cơ hội cho ngài cứu rỗi linh hồn Peter Solomon không có nhiều đâu.
Langdon hít một hơi lạnh buốt.
- Anh nói gì?
- Tôi chắc là ngài nghe rõ lời tôi.
Nghe cách gã nọ nhắc đến Peter, Langdon thấy bình tĩnh lại.
- Anh biết gì về Peter nào?
- Tôi biết những bí mật sâu kín nhất của ông ta. Ngài Solomon là khách của tôi, và tôi có thể là một chủ nhà đầy sức thuyết phục.
Không thể như thế được.
- Peter không hề ở chỗ anh.
- Tôi trả lời điện thoại di động riêng của ông ta. Như thế là đủ rồi chứ gì?
- Tôi sẽ gọi cho cảnh sát.
- Không cần đâu, - gã kia đáp - Các nhà chức trách sẽ đến với ngài ngay thôi.
Gã điên này đang nói về chuyện gì không biết
Langdon đanh giọng.
- Nếu Peter ở chỗ anh, hãy để ông ấy nghe máy đi.
- Không được. Ngài Solomon bị kẹt ở một nơi không hay ho lắm - Gã kia ngừng lại - ông ta đang ở Araf(14).
- Ở đâu?- Langdon nhận ra mình đang siết chặt điện thoại đến nỗi tê cứng cả mấy ngón tay.
- Araf? Hamistagan(15)? Cái nơi Dante(16) dâng hiến thần khúc ngay sau trường đoạn Hoả ngục huyền thoại của ông ấy.

Những trích dẫn văn học và tôn giáo của gã đàn ông càng củng cố thêm mối nghi ngờ của Langdon, rõ ràng anh đang phải đương đầu với một tên loạn trí. Thần khúc thứ hai. Langdon biết rất rõ tác phẩm ấy ai học ở Phillips Exeter cũng phải đọc Dante cả.
- Anh bảo rằng Peter Solomon đang… ở trong luyện ngục à?
- Một từ ngữ thô tục mà lũ Thiên Chúa giáo các người sử dụng, nhưng phải, ngài Solomon đang ở quãng giữa.
Lời nói của gã đàn ông ong ong trong tai Langdon.
- Ý anh là Peter đã… chết?
- Không, không hẳn.
- Không hẳn ư?! - Langdon thét lớn, giọng anh dội vang trong đại sảnh. Cả một nhóm du khách trố mắt nhìn anh. Langdon quay đi và hạ giọng:
- Chết là chết, sống là sống chứ!
- Ngài làm tôi ngạc nhiên đấy, thưa Giáo sư. Tôi cứ tưởng ngài hiểu biết sâu sắc hơn về những bí ẩn của sự sống và cái chết cơ. Có một thế giới trung chuyển, một thế giới Peter Solomon đang lang thang vào lúc này. Ông ta có thể quay trở lại thế giới của ngài, mà cũng có thể bước sang thế giới tiếp theo… tuỳ thuộc vào hành động của ngài hiện thời.
Langdon cố gắng tìm hiểu ý nghĩa đằng sau câu nói ấy.
Vậy anh muốn gì ở tôi?
Rất đơn giản. Ngài đã được tiếp cận với một thứ rất cổ xưa, và tối nay, ngài sẽ chia sẻ nó với tôi.
- Tôi chẳng rõ anh đang nói chuyện gì.
- Không. Ngài giả vờ không hiểu những bí mật cổ xưa đã được gửi gắm cho ngài chăng?
Langdon bỗng thấy lòng trĩu nặng, cố gắng đoán xem câu chuyện định dẫn tới đâu. Những bí mật cổ xưa. Anh chưa hề hé một lời với bất kỳ ai về những trải nghiệm của mình hồi ở Paris, nhưng những kẻ cuồng tín Chén Thánh đã theo sát tin tức truyền thông, một số kẻ đoán già đoán non cho rằng Langdon hiện nắm giữ thông tin bí mật liên quan đến Chén Thánh, thậm chí cả nơi cất giấu nó.
- Xem nào, - Langdon nói - nếu chuyện này liên quan đến Chén Thánh thì tôi dám quả quyết với anh rằng tôi chẳng biết gì hơn…
- Đừng có xúc phạm trí thông minh của tôi, ông Langdon, - gã kia gắt lên - Tôi không quan tâm đến mấy thứ vớ vẩn như Chén Thánh hay cuộc tranh cãi ba lăng nhăng của loài người xem phiên bản lịch sử của ai đúng hơn ai. Tôi cũng không hứng thú với các luận điểm quẩn quanh về ngữ nghĩa của tín điều. Đó là loại câu hỏi chỉ được trả lời thông qua cái chết.
Những lời cay nghiệt ấy khiến Langdon bối rối.
- Thế chuyện quái này là gì vậy?
Gã kia nín lặng vài giây.
- Chắc ông cũng biết, ở Washington có một cánh cổng cổ xưa.
Một cánh cổng cổ xưa?
- Và tối nay, thưa Giáo sư, ông sẽ mở nó ra cho tôi. Ông phải lấy làm vinh hạnh vì tôi đã liên hệ với ông. Đây là lời mời đáng giá nhất đời ông đấy. Chỉ riêng ông được lựa chọn mà thôi.
Mày đúng là thằng mất trí.
- Xin lỗi, nhưng anh chọn nhầm người. - Langdon từ chối - Tôi chẳng mảy may hay biết về bất kỳ cánh cổng cổ xưa nào cả.
- Ông không hiểu rồi, thưa Giáo sư. Không phải là tôi chọn ông… mà là Peter Solomon.
- Sao cơ? - Langdon đáp, giọng chỉ như một tiếng thì thầm.
- Ngài Solomon chỉ cho tôi cách tìm cánh cổng, và tiết lộ rằng trên đời này chỉ có một người đủ khả năng mở nó ra. Người đó chính là ông.
- Nếu Peter nói vậy thì chắc ông ấy nhầm… hoặc nói dối.
- Tôi không nghĩ thế. Khi thú nhận sự thực, ông ta đang ở trong trạng thái rất yếu ớt, và tôi thiên về hướng tin lời ông ta.
Langdon cảm thấy tức điên lên.
- Tôi cảnh cáo anh, nếu anh làm hại Peter bằng bất kỳ…
- Lời cảnh cáo quá muộn mằn - gã kia đáp bằng giọng thích thú - Tôi đã khai thác được những gì mình cần từ Peter Solomon. Nhưng vì lợi ích của ông ta, tôi khuyên ông nên đưa cho tôi thứ tôi yêu cầu ở ông. Thời gian chẳng còn bao nhiêu đâu… đối với cả hai vị. Tôi khuyên ông hãy tìm cánh cổng và mở nó ra. Peter sẽ chỉ đường.
Peter?
- Nhưng anh vừa nói Peter đang ở “luyện ngục” kia mà.
- Thượng hạ tương liên(17) - gã kia đáp.
Langdon cảm thấy rùng mình. Câu trả lời lạ lùng này là một ngạn ngữ bí ẩn cổ xưa tuyên ngôn cho niềm tin vào sự liên kết vật lý giữa trời và đất. Thượng hạ tương liên. Langdon dõi mắt nhìn khắp căn phòng rộng lớn và tự hỏi làm thế nào mà tối nay mọi việc lại thay đổi đột ngột ngoài tầm kiểm soát như thế này.
- Chà, tôi không biết cách tìm bất kỳ cánh cổng cổ xưa nào. Tôi sẽ gọi cảnh sát.
- Tại sao ông lại được chọn nhỉ? Thật sự thì nó vẫn chưa hé mở gì với ông à?
- Chưa, - Langdon trả lời.
- Sắp rồi, - gã kia đáp, cười khùng khục - Có khi ngay bây giờ đấy.
Sau đó máy tắt.
Langdon kinh hãi đứng đờ ra một lúc, cố gắng phân tích những gì vừa xảy ra.
Đột nhiên, anh nghe thấy một âm thanh bất ngờ từ xa vọng lại.
Chỗ Nhà tròn.
Ai đó đang gào thét.

Chú thích:
(14) Theo quan điểm Hồi giáo. Araf là vùng ranh giới giữa thiên đàng và địa ngục, dành cho những người không tốt không xấu. Araf cũng là một bức tường cao ngăn giữa thiên đàng và địa ngục. Trên bức tường này là những người thoát khỏi địa ngục nhưng chưa được tiếp nhận lên thiên đàng. Họ rất muốn được vào thiên đàng nhưng tội lỗi và đức hạnh của họ cân bằng nhau - ND.
(15) Hamistagan là một khái niệm chỉ địa điểm tương tự như Araf - ND.
16. Dante Alighieri (1265-1321), một trong những nhà thơ kiệt xuất nhất Italia và thế giới thời Trung cổ, tác giả trường ca Thần chức (La divina commedia). Tác phẩm này được sáng tác bằng tiếng Italia trong thời gian Dante bị trục xuất khỏi quê hương Florence, từ khoảng năm 1308 đến khi ông mất năm 1321, gồm 100 khổ thơ với 14.226 câu thơ, chia làm ba phần, mỗi phần bao gồm 33 khổ thơ: Hoả ngục (Infemo). Luyện ngục (Purgatorio) và Thiên đường (Paradiso). Tác phẩm được xếp vào hàng những bản trường ca vĩ đại nhất của nền văn học thế giới. Trường ca kể lại cuộc du hành của Dante qua ba thế giới bên kia, diễn ra tại thời điểm Ba ngày lễ Phục sinh thiêng liêng mùa xuân năm 1300. Nhà thơ La Mã Virgil dẫn ông đi qua Hoả ngục và Luyện ngục; trong khi nàng Beatrice, người phụ nữ mà Dante coi là lý tưởng, dẫn ông qua Thiên đường. Beatrice là người phụ nữ thành Florence, người mà ông biết đến từ thời thơ ấu, và mang lòng ái mộ, theo hình mẫu tình yêu thuần khiết thời thượng truyền thống - ND.
(17) Nguyên văn: As above, so below. Cụm từ này được dùng trong giới thần bí và yêu thuật và khởi nguồn từ các văn bản của phái thần bí chủ nghĩa. Khái niệm này được đặt ra đầu tiên trong The Emerald Tablet của Hermes Trismegistus, “That which is Below corresponds to that which is Above, anh that which is Above, corresponds to that which is Below, to accomplish the miracles of the One Thing” (Tạm dịch: Cái gì ở Dưới tương ứng với cái gì ở Trên, và cái gì ở Trên tương ứng với cái gì ở Dưới, để đạt tới những phép nhiệm màu của Nhất thể). Theo các cấp độ khác nhau của thực tại: vật chất, tâm thần và tinh thần, khái niệm này được hiểu rằng những gì xảy ra ở một cấp độ nào đó cũng sẽ xảy ra ở mọi cấp độ khác. Tuy nhiên, khái niệm này thường được dùng với thế giới vi mô và vĩ mô. Thế giới vi mô là cá thể còn thế giới vĩ mô là vũ trụ, cái này nằm trong cái kia, và nhờ hiểu một cái (thường là vi mô) mà ta có thể hiểu cái kia
hết chương 9

kiemanh
05-10-2010, 01:28 PM
Chương 10


Robert Langdon đã từng vào Nhà tròn Điện Capitol nhiều lần, nhưng đây là lần đầu tiên phải chạy cuống lên thế này. Khi phóng qua cửa phía bắc. anh thấy một nhóm du khách túm tụm ở giữa phòng. Một cậu bé con đang gào khóc, bố mẹ cậu ta gắng sức vỗ về. Những người khác xúm xít xung quanh, vài nhân viên an ninh thì nỗ lực vãn hồi trật tự.
- Gã rút nó ra khỏi cái băng đeo của gã - ai đó nhớn nhác nói - và vứt lại đó!

Khi tới gần, Langdon hướng ngay ánh nhìn vào thứ đang khiến tất cả chấn động. Phải công nhận, vật nằm trên sàn Điện Capitol kia rất vặt vãnh, nhưng sự hiện diện của nó không làm người ta kêu thét lên mới là lạ.
Kẻ nào đó đã bỏ lại một bàn tay hình nộm trong Nhà tròn.

Langdon đã nhìn thấy loại dụng cụ ấy rất nhiều lần. Khoa Nghệ thuật của trường Harvard có hàng chục cái như thế - những người mẫu nhựa với kích cỡ thật đê các nghệ sĩ điêu khắc và hội hoạ sử dụng làm minh hoạ cho các biểu hiện phức tạp nhất của con người, thật lạ là biểu hiện ấy không phải ở gương mặt mà là ở bàn tay.

Những bàn tay hình nộm, hay tay nộm như cách gọi của một số người, có đủ khớp để giúp nghệ sĩ tạo dáng bất kỳ động tác nào theo mong muốn, chẳng hạn ngón giữa chọc thẳng lên không trung là kiểu bọn sinh viên non nớt thường nghịch. Tuy nhiên, tư thế của bàn tay này là ngón trỏ và ngón cái chĩa lên trần nhà.

Khi tới gần hơn, Langdon nhận ra cái tay nộm rất bất bình thường. Bề mặt nó không nhẵn nhụi như đa số những bàn tay nhựa cùng loại. Thay vào đó, bề mặt ấy lấm tấm và hơi nhăn nhúm, trông gần như là…
Da thật
Langdon khựng lại.
Rồi anh nhìn thấy máu. Chúa ơi!

Bàn tay cụt kia bị xiên lên một cái đế gỗ có đóng đinh để dựng đứng được. Langdon thấy nôn nao cả người. Anh nhích lại gần hơn, gần như ngợp thở, giờ thì nhận ra ở đầu ngón cái và ngón trỏ điểm những hình xăm nhỏ xíu. Tuy nhiên, anh không bận tâm nhiều đến mấy đường nét ấy. mọi sự chú ý lập tức bị hút vào chiếc nhẫn vàng quen thuộc ở ngón tay thứ tư.
Không!

Langdon giật nảy mình. Trời đất dường như chao đảo, anh nhận ra bàn tay bị cắt cụt đó là bàn tay phải của Peter Solomon.
Hết chương 10

kiemanh
05-10-2010, 01:29 PM
Chương 11


- Tại sao Peter không trả lời?
Vừa tắt máy di động, Katherine Solomon vừa băn khoăn tự hỏi.
Anh ấy ở đâu nhỉ?

Suốt ba năm qua, trong những cuộc gặp lúc 7 giờ tối Chủ nhật hằng tuần, Peter Solomon luôn là người đến trước. Những buổi gặp mặt này là một nghi thức riêng trong gia đình, giúp duy trì mối liên hệ thường xuyên giữa hai anh em, và giúp Peter cập nhật thông tin về tình hình công việc của Katherine ở phòng thí nghiệm.

Anh ấy chưa bao giờ đến muộn, Katherine nghĩ, và anh ấy luôn trả lời điện thoại. Tệ hơn nữa, cô vẫn không quyết định được là nên nói gì với Peter khi ông đến. Mình biết đề cập thế nào về điều mình phát hiện ra hôm nay?

Bước chân Katherine gõ đều đặn xuống hành lang xi măng. Hành lang này được gọi là “Đường phố” chạy xuyên suốt SMSC như một cột sống, nối liền năm khoang lưu trữ rất lớn. Bên trên, ở độ cao 12 mét là hệ thống tuần hoàn gồm nhiều ống thông gió màu cam đang lọc và lưu thông hàng nghìn mét khối không khí, nó phát ra tiếng kêu ro ro như hoà cùng nhịp đập trái tim của toà nhà.

Mọi lần đi bộ trên quãng đường dài ngót một phần tư dặm tới phòng thí nghiệm, Katherine luôn cảm thấy bình tâm trong tiếng thở của toà nhà. Song đêm nay, âm thanh này lại làm cô bất an. Những chuyện mới biết về Peter có thể khiến ai cũng phải khó chịu. Là người thân duy nhất còn lại trên đời của ông, Katherine rất phiền muộn khi nghĩ rằng anh trai đang giấu giếm mình nhiều điều bí mật.

Cho đến nay, mới chỉ có một lần Peter giữ bí mật với Katherine… một bí mật tuyệt vời cất giấu ở cuối hành lang này. Ba năm trước, ông dẫn em gái xuống đây, giới thiệu với cô về SMSC bằng cách tự hào khoe một vài hiện vật phi thường của toà nhà - mảnh thiên thạch từ sao Hoả mang số hiệu ALH-84001, cuốn nhật ký bằng hình viết tay của Sitting Bull(18), bộ sưu tập bình cau gắn sáp có chứa các tiêu bản gốc do chính Charles Darwin sưu tầm.

Khi đi ngang một cánh cửa nặng nề có ô cửa sổ nhỏ, Katherine thoáng thấy một thứ bên trong. Cô há hốc miệng.
- Kia là cái gì thế?
Peter cười và tiếp tục bước.
- Khoang 3. Nó được gọi là Thuỷ trì. Trông rất lạ lùng, phải không nào?
Nói là kinh khủng thì đúng hơn. Katherine vội vã theo sau anh trai. Toà nhà này hệt như một tinh cầu biệt lập với thế giới bên ngoài.
- Thứ anh muốn chỉ cho em xem nằm ở Khoang 5 - Peter nói, dẫn em gái xuống hành lang dài bất tận - Đây là khu vực mới nhất của bọn anh. Nó được xây dựng để chứa những hiện vật lấy từ tầng hầm Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia. Bộ sưu tập đó dự kiến được chuyển về đây trong vòng năm năm tới, tức là hiện thời Khoang 5 đang rỗng không.
Katherine trố mắt.
- Rỗng không à? Vậy thì mình đi xem làm gì?
Đôi mắt xám của Peter ánh lên vẻ láu lỉnh quen thuộc.
- Anh chợt nghĩ ra là trong lúc chưa ai sử dụng không gian này thì em có thể sử dụng.
- Em à?
- Ừ. Em nên có một phòng thí nghiệm chuyên dụng, dùng để triển khai một vài thí nghiệm lý thuyết mà em đang tiến hành suốt bao năm nay.
Katherine sửng sốt nhìn anh trai.
- Nhưng, anh Peter, những thí nghiệm đó là lý thuyết? Gần như không thể triển khai chúng trên thực tế.
- Chẳng có gì là không thể. Katherine ạ, và toà nhà này rất hoàn hảo với em. SMSC không chỉ chứa các kho báu, nó còn cung cấp phương tiện nghiên cứu khoa học tiên tiến hàng đầu thế giới. Bọn anh liên tục lấy mẫu vật từ các bộ sưu tập và kiểm tra chúng bằng những công nghệ định lượng tốt nhất có thế mua được. Mọi trang thiết bị có khả năng cần đến đều được bố trí ở đây cho em tuỳ ý sử dụng.
- Anh Peter, những trang bị cần thiết để thực hiện các thí nghiệm này…
- Đâu vào đấy cả rồi - Peter mỉm cười rạng rỡ - Phòng thí nghiệm đã hoàn thành.
Katherine dừng phắt lại.
Peter trỏ xuống hành lang dài.
- Chúng ta sẽ tới tham quan nó bây giờ.
Katherine gần như không nói lên lời.
- Anh… anh xây cho em một phòng thí nghiệm à?
- Công việc của anh mà. Viện Smithsonian được thành lập để phát triển kiến thức khoa học, là Tổng thư ký, anh phải nghiêm túc thực hiện trách nhiệm đó. Anh tin rằng những thí nghiệm em đề xuất có tiềm năng mở rộng biên giới khoa học sang một lãnh địa hoàn toàn mới mẻ - Peter ngừng lời, nhìn thẳng vào mắt em gái - Cho dù em có là em gái anh hay không thì anh cũng cảm thấy có nghĩa vụ phải ủng hộ nghiên cứu này. Những ý tưởng của em rất xuất sắc. Thế giới đáng được biết những thí nghiệm ấy đi đến đâu.
- Anh Peter, em không thể…
- Được rồi, thoải mái đi… nó là tiền riêng của anh, vả lại không ai sử dụng Khoang 5 lúc này cả. Khi làm xong những thí nghiệm của mình, em sẽ chuyển đi. Thêm nữa, Khoang 5 có một số đặc tính độc đáo rất thích hợp cho công việc của em.

Katherine chưa hình dung nổi không gian rộng lớn bỏ không kia sẽ đem lại những gì cho nghiên cứu của mình, nhưng cô cảm thấy sắp tìm ra rồi. Bấy giờ họ tới một cánh cửa thép với dòng chữ khắc đậm: KHOANG 5

Peter đưa thẻ từ qua khe, bảng phím điện tử bật sáng. Ông đưa ngón tay bấm mã truy cập, nhưng rồi dừng lại, nhướng cặp lông mày với vẻ ranh mãnh y như hồi còn là một cậu bé.
- Em dám chắc là mình đã sẵn sàng chứ?
Katherine gật đầu. Anh của em, lúc nào cũng giỏi quảng cáo.
- Lùi lại đi - Peter bấm số.
Cánh cửa thép phát tiếng kêu rè rè và mở ra.
Sau ngưỡng cửa chỉ là một màn tối đen như mực… một khoảng trống toang hoang. Có tiếng rền trống rỗng dường như vọng ra từ sâu thẳm. Katherine cảm thấy khí lạnh thốc vào mặt mình. Chẳng khác gì nhìn xuống Hẻm núi Lớn(19) vào ban đêm vậy.
- Hãy hình dung ra một nhà chứa máy bay còn trống đang đợi một phi đội Airbus - Peter nói - và em sẽ có khái niệm cơ bản.
Katherine bất giác lùi lại một bước.
- Khoang này quá rộng nên không thể sưởi ấm được, còn phòng thí nghiệm của em là một phòng bằng bọt đá núi lửa cách nhiệt, gần như một khối vuông, nằm ở góc xa nhất của khoang để bảo đảm cách biệt tối đa.
Katherine cố gắng tưởng tượng. Một cái hộp bên trong một cái hộp. Cô căng mắt nhìn vào khoảng tối đen, nhưng nó đặc quánh.
- Bao xa ạ?
- Khá xa… nhét được cả một sân bóng vào đây đấy. Phải báo trước với em rằng đi bộ tới nơi là tương đối mệt. Rất tối nữa!
Katherine ngập ngừng nhìn về phía góc phòng.
- Không có công tắc đèn à?
- Khoang 5 chưa được đấu điện.
- Nhưng… thế thì phòng thí nghiệm hoạt động sao được?
Peter nháy mắt.
- Dùng pin nhiên liệu hydrogen.
Katherine há hốc miệng.
- Anh đùa đấy à?
- Có đủ năng lượng sạch để vận hành cả một thành phố nhỏ. Tần số sóng vô tuyến ở phòng thí nghiệm của em hoàn toàn tách biệt với phần còn lại của toà nhà. Toàn bộ bề ngoài khoang này được phủ màng phản quang để bảo vệ các hiện vật bên trong khỏi bức xạ mặt trời. Tóm lại, khoang này là một môi trường khép kín, trung tính với năng lượng.
Katherine bắt đầu hiểu sự hấp dẫn của Khoang 5. Vì rất nhiều nghiên cứu của cô tập trung vào việc định lượng các trường năng lượng mới nên cần tiến hành thí nghiệm ở một nơi tách biệt các bức xạ lạ (hay còn gọi là “tạp âm trắng”), tránh cả sự gây nhiễu từ “bức xạ sóng điện não” (hay còn gọi là “bức xạ tư duy”) của những người sống gần đó. Khuôn viên đại học và phòng thí nghiệm bệnh viện đều không đáp ứng được các điều kiện ấy, còn căn hầm chứa bỏ không này lại hoàn hảo tới mức không thể hoàn hảo hơn được nữa.
- Giờ chúng ta vào sâu trong và xem xét nhé - Peter cười tươi, tiến vào khoảng tối đen mịt mùng - Cứ đi theo anh là được.
Katherine ngập ngừng ở ngưỡng cửa. Đi thầm đến hơn 100 thước cơ à? Cô định gợi ý mang đèn pin, nhưng Peter đã tan biến trong bóng tối.
- Anh ơi? - Katherine gọi.
- Hãy vững tin - Peter nói vọng lại, giọng đã khá xa - Em sẽ tìm thấy lối đi. Cứ nghe anh.
Anh ấy đang đùa chắc? Katherine bước vài bước qua ngưỡng cửa, tim đập thình thịch, cố căng mắt dõi vào bóng tối. Mình chẳng nhìn thấy gì cả.
Đột nhiên, cách cửa thép rít lên và đóng sầm lại phía sau, đẩy cô vào bóng tối hoàn toàn. Không có lấy một đốm sáng nào.
- Anh Peter?!
Im lặng.
- Em sẽ tìm thấy lối đi. Cứ nghe anh.
Ngập ngừng, Katherine dò dẫm nhích lên phía trước. Vững tin ư?
Thậm chí còn không nhìn rõ bàn tay xòe ngay trước mặt. Cô tiến thẳng về phía trước, nhưng chỉ vài giây đã hoàn toàn mất phương hướng. Mình đang đi đâu không biết?
Đó là chuyện ba năm về trước.
Giờ đây, khi bước đến trước cánh cửa kim loại nặng nề. Katherine nhận ra mình đã tiến rất xa so với buổi tối đầu tiên ấy. Phòng thí nghiệm - có biệt danh là Khối vuông, một thánh điện ngay trong lòng Khoang 5 - đã trở thành mái ấm của cô. Đúng như Peter tiên đoán, Katherine tìm được đường đi trong bóng tối vào đêm hôm đó, cũng như các hôm khác sau này, nhờ hệ thống chỉ dẫn đơn giản cực kỳ khéo léo mà ông để cô tự khám phá.
Quan trọng hơn là, một lời tiên đoán nữa của Peter cũng đã trở thành hiện thực: thí nghiệm của Katherine đem lại nhiều kết quả phi thường, đặc biệt những đột phá trong sáu tháng vừa qua sẽ làm thay đổi hoàn toàn các mô thức tư duy. Hai anh em thống nhất giữ bí mật tuyệt đối cho tới khi hiểu thật rõ mọi hàm ẩn. Tuy nhiên, Katherine biết rằng một ngày gần đây cô có thể công bố vài phát kiến khoa học, những phát kiến có tính cách mạng nhất trong lịch sử loài người.
Một phòng thí nghiệm bí mật trong một bảo tàng bí mật, Katherine nghĩ thầm, tay nhét thẻ từ vào cánh cửa Khoang 5. Đợi bảng phím điện tử bật sáng, cô nhập mã PIN của mình.
Cánh cửa thép rít lên.
Tiếng rền rĩ quen thuộc vang ra kèm theo luồng khí lạnh giá thường lệ, và như mọi lần. Katherine cảm thấy mạch đập của mình bắt đầu tăng vọt.
Hành trình thường lệ kỳ lạ nhất trên trái đất.

Gắng trấn tĩnh để bắt đầu chuyến đi bộ, Katherine Solomon liếc đồng hồ đeo tay và bước vào không gian trống rỗng. Tuy nhiên, tối nay, một ý nghĩ khó chịu cứ bám riết lấy cô. Peter đang ở đâu nhỉ?

Chú thích:
(18) Sitting Bull (1831 - 1890) là tù trưởng bộ lạc da đỏ Hunkpapa Lakota. Sitting Bull Chỉ huy dân da đỏ trong cuộc chiến chống quân đội Hoa Kỳ và nổi tiếng đánh thắng trong trận Little Bighorn - ND.
19. Hẻm núi Lớn (Grand Canyon) là một khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado ở bang Arizona, Hoa Kỳ, hàng triệu năm về trước, với độ dài 446 km, rộng 0,4 đến 24 km và sâu hơn 1600 mét. Nơi đây được xem như một “cuốn sách truyện vĩ đại” vì có thể quan sát được các tầng, lớp khác nhau của vỏ Trái đất hình thành trong suốt hơn 2 tỷ năm
Hết chương 11

kiemanh
05-10-2010, 01:30 PM
Chương 12


Trent Anderson, chỉ huy cảnh sát Điện Capitol, phụ trách an ninh ở khu vực đầu não của Hoa Kỳ đã hơn mười năm nay. Anh là người đàn ông vạm vỡ, tóc đỏ, ngực nở, khuôn mặt rắn rỏi, có dáng dấp quân nhân nhờ kiểu đầu luôn cạo ngắn, vũ khí thường kè kè bên hông như cảnh cáo bất kỳ kẻ ngu ngốc nào dám chất vấn mức độ quyền lực của người đeo nó.

Phần lớn thời gian, Anderson có mặt trong trung tâm giám sát công nghệ cao đặt tại tầng hầm Điện Capitol để phối hợp từ xa với nhóm sĩ quan cảnh sát của mình. Ở đây, anh điều hành một đội kỹ thuật viên theo dõi các màn hình, các kết quả thông báo của máy tính và giữ liên lạc với cán bộ an ninh dưới quyền thông qua một tổng đài điện thoại.

Tối nay Điện Capitol yên ắng một cách khác thường, và Anderson rất hài lòng. Anh hy vọng xem được một chút trận đấu của đội bóng áo đỏ trên chiếc ti vi màn hình phẳng ở văn phòng mình. Song trận đấu chỉ vừa bắt đầu thì bộ đàm của anh réo vang.
- Thưa Chỉ huy?

Anderson bật rên, bấm nút hồi đáp mà mắt vẫn dán vào ti vi.
- Chúng ta có chút rắc rối ở Nhà tròn. Tôi vừa cử nhân viên tới đó rồi, nhưng tôi nghĩ Chỉ huy sẽ muốn xem qua tình hình đấy.
- Được! - Anderson bước vào trung tâm an ninh đầu não, một cơ sở hiện đại thu gọn đầy ắp những màn hình máy tính - Cậu tìm được gì thế?
Kỹ thuật viên đang chuyển một đoạn video kỹ thuật số lên màn hình.
- Máy quay ban công phía đông Nhà tròn. Hai mươi giây trước. - Anh ta cho chạy đoạn phim.
Anderson nhìn qua vai kỹ thuật viên.

Hôm nay Nhà tròn gần như vắng tanh, chỉ lác đác vài ba khách du lịch. Con mắt nhà nghề của Anderson lập tức chú ý tới một người đi một mình và di chuyển nhanh hơn hẳn những người khác. Đầu trọc lốc áo khoác kiểu quân đội màu xanh lục. Cánh tay bị thương đeo băng. Hơi tập tễnh. Dáng đi lom khom. Đang nói chuyện điện thoại.

Tiếng bước chân của gã trọc vang lên khô đanh trên loa cho tới khi đột ngột dừng lại, chính giữa Nhà tròn. Gã kết thúc cuộc trò chuyện và quỳ xuống như thể buộc dây giày. Nhưng thay vì buộc giày, gã lôi một vật ra khỏi băng đeo tay và thả nó xuống sàn. Sau đó gã đứng lên và tập tễnh tiến ra cửa phía đông.

Anderson chăm chú ngó vật thể kỳ dị mà gã kia để lại sau. Cái gì thế nhỉ? Nó cao khoảng 20 cm và dựng đứng. Anderson cúi sát màn hình hơn rồi nheo mắt nhìn. Trông giống lăm, nhưng nhất định không phải!
Bằng những bước chân vội vã, gã trọc nhanh chóng biến mất sau cánh cửa phía đông. Tiếng một cậu bé vang lên cạnh đó:
- Mẹ ơi, ông kia đánh rơi cái gì ấy.
Cậu ta tiến tới gần vật nọ, nhưng lại dừng ngay tắp lự. Bất động hồi lâu, cậu đột ngột trỏ tay và hét lên chói tai.
Ngay lập tức, viên Chỉ huy xoay người lao ra cửa, vừa chạy vừa quát to ra lệnh.
- Liên lạc với tất cả các trạm! Tìm ngay một gã trọc tay băng bó và chặn gã lại. NGAY LẬP TỨC!
Anh lao ra khỏi trung tâm an ninh, nhảy ba bậc một trên mặt cầu thang mòn vẹt. Tín hiệu an ninh cho thấy gã trọc tay băng bó rời Nhà tròn qua cổng phía đông. Do đó, lối ngắn nhất ra khỏi toà nhà sẽ dẫn gã theo hành lang đông-tây, ngay phía trước kia.
Mình có thể chặn đường hắn.

Khi lên đến bậc trên cùng và ngoặt khỏi góc tường, Anderson quan sát hành lang vắng vẻ trải dài trước mặt. Chỉ có một đôi vợ chồng già tay trong tay đi bộ thơ thẩn ở tít đầu bên kia. Gần đó là một du khách tóc vàng mặc chiếc áo phông màu lam đang đọc cuốn sách hướng dẫn và ngắm nhìn phần trần nhà đắp nổi bên ngoài phòng họp Hạ viện.
- Xin lỗi, - Anderson hỏi và chạy lại phía anh ta - Anh có thấy một người trọc đầu tay băng bó không?
Người kia rời mắt khỏi cuốn sách với vẻ mặt ngơ ngác.
- Một người trọc đầu, tay băng bó! - Anderson nhắc lại rành rẽ hơn - Anh có nhìn thấy hắn không?
Vị khách tỏ vẻ ngần ngừ, đoạn lo lắng liếc về đầu phía đông của hành lang.
- A, vâng, - anh ta nói - Tôi nghĩ hắn vừa chạy ngang qua tôi… tới lối cầu thang đằng kia - Anh ta trỏ xuống sảnh.
Anderson rút bộ đàm và quát to.
- Tất cả các trạm! Đối tượng tình nghi tiến ra lối đông nam. Tập hợp! - Anh gác máy và giật tung vũ khí ra khỏi bao, chạy về hướng được chỉ.

***

Ba mươi giây sau, tại một lối ra vắng vẻ bên mạn đông của Điện Capitol, người đàn ông tóc vàng to khỏe trong chiếc áo phông màu lam bước vào trời đêm ẩm ướt. Gã mỉm cười, tận hưởng không khí mát mẻ buổi tối.
Thay hình đổi dạng.
Quá dễ dàng.
Chỉ một phút trước, gã còn vội vàng tập tễnh ra khỏi Nhà tròn trong tấm áo khoác quân đội. Lẩn vào một hốc tường tối, gã lột nhanh áo khoác, để lộ chiếc áo phông màu lam bên trong. Trước khi bỏ lại áo khoác, gã lôi ra một mớ tóc giả màu vàng và đội lên đầu mình. Sau đó, gã đứng thẳng dậy, móc từ áo phông ra một cuốn sách hướng dẫn về Washington và bình thản rời khỏi hốc tường với dáng vẻ tinh tươm.
Thay hình đổi dạng. Đó là tài nghệ của ta.

Bằng những sải chân dài, Mal’akh tiến về phía chiếc Limousine đang chờ sẵn. Gã cong lưng, đứng thẳng lên với chiều cao gần 1m9 và vươn vai. Gã hít thật sâu đê không khí tràn vào căng phổi, cảm thấy đôi cánh phượng hoàng xăm trên ngực đang quạt rộng ra.

Giá như họ biết sức mạnh của ta. Mal’akh nghĩ, đăm đăm nhìn về phía thành phố. Đêm nay quá trình chuyển đổi của ta sẽ hoàn tất.

Mal’akh đã chơi những con bài của mình rất điệu nghệ ngay trong Điện Capitol, qua đó thể hiện sự kính nể đối với tất cả những nghi thức cổ xưa. Lời mời cổ xưa đã được gửi đi. Nếu Langdon chưa hiểu được vai trò của ông ta ở đây tối nay thì chỉ lát nữa ông ta sẽ hiểu.
Hết chương 12

kiemanh
05-10-2010, 01:31 PM
Chương 13


Nhà tròn Điện Capitol - cũng như nhà thờ Thánh Peter - luôn khiến Robert Langdon ngạc nhiên. Về lý thuyết, anh vẫn biết gian phòng này lớn tới mức thừa chỗ đặt tượng Thần Tự do, nhưng chẳng hiểu sao anh vẫn cảm thấy nó rộng hơn và thiêng liêng hơn mình nghĩ nhiều, như thể có các linh hồn lẩn quất trong không trung vậy.
Tuy thế, đêm nay ở đây chỉ có sự hỗn loạn.

Các sĩ quan cảnh sát Điện Capitol vừa triển khai bao vây Nhà tròn vừa cố gắng xua đám du khách hoảng loạn tách xa khỏi bàn tay. Cậu bé con vẫn khóc. Chợt có ánh đèn sáng rực nhá lên - một khách tham quan đang chụp ảnh. Mấy nhân viên an ninh lập tức ngăn cản, giằng lấy máy ảnh và dẫn ông ta đi. Giữa tình cảnh lộn xộn ấy, Langdon như bị thôi miên, cứ vô thức len lỏi qua đám đông, nhích lại gần bàn tay.

Bàn tay phải của Peter Solomon dựng thẳng đứng, cổ tay bị chém rất ngọt gắn liền với đế gỗ nhỏ nhờ một cái xiên. Ngón giữa, ngón vô danh và ngón út gập lại, còn ngón cái và ngón trỏ duỗi hẳn ra, chỉ thẳng lên mái vòm cao vút.
- Tất cả lùi lại! - một sĩ quan hô.

Bấy giờ Langdon đã đứng khá gần, đủ để trông thấy vết máu khô chảy từ cổ tay và đông lại trên đế gỗ. Nếu chết rồi thì vết thương không thể chảy máu… tức là Peter còn sống. Langdon không biết mình nên cảm thấy nhẹ nhõm hay ghê sợ. Peter bị chặt tay khi vẫn còn sống ư? Anh sực nhớ lại bao nhiêu lần người bạn thân thiết chìa chính bàn tay này ra để bắt tay hoặc âu yếm ôm lấy mình. Túi mật như lộn lên tận cổ họng anh.

Trong khoảnh khắc, đầu óc Langdon trống rỗng, y hệt ti vi mất sóng. Rồi hình ảnh rõ nét đầu tiên bật ra đột ngột.
Một chiếc vương miện… và một ngôi sao.

Langdon cúi xuống, chăm chú nhìn đau ngón tay cái và trỏ của Peter. Những hình xăm? Thật khó tin, chắc đây là tác phẩm của chính tên quái vật đã chặt tay Peter.
Trên ngón cái là hình vương miện. Còn trên ngón trỏ là hình ngôi sao.

Không thể nào! Hai dấu hiệu nọ lập tức đánh mạnh vào cân não Langdon, biến cảnh tượng hãi hùng trước mắt anh thành một điều gì gần như phi thực. Vương miện và ngôi sao đã xuất hiện rất nhiều lần trong lịch sử, luôn luôn cùng nhau và cùng một chỗ - trên những đầu ngón tay của một bàn tay. Nó là một trong những biểu tượng thần bí và được thèm muốn nhất của thế giới cổ đại.
Mật Thủ(20).

Biểu tượng này tuyệt tích đã lâu, nhưng xưa kia, nó tượng trưng cho một lời hô hào mạnh mẽ. Langdon căng óc, cố tìm hiểu ý nghĩa của cái vật kỳ quái trước mặt mình. Kẻ nào đó dùng bàn tay Peter để tạo Mật Thủ? Thật không thể tưởng tượng nổi. Theo truyền thống, biểu tượng được khắc trên đá, gỗ hoặc thể hiện qua hình vẽ. Chăng ai lấy xương thịt con người làm Mật Thủ. Y tưởng này thật kinh tởm.
- Thưa ông? - một nhân viên an ninh lên tiếng phía sau Langdon - Xin hãy lùi lại.

Langdon hầu như không nghe thấy. Còn những hình xăm khác nữa. Mặc dù không nhìn được ba đầu ngón tay còn lại, nhưng Langdon biết chúng cũng sẽ mang những dấu hiệu đặc biệt riêng. Đó là truyền thống. Tổng cộng có năm biểu tượng. Đã mấy ngàn năm qua, những biểu tượng trên các đầu ngón tay Mật Thủ chưa bao giờ thay đổi… hàm ý của nó cũng vậy.
Bàn tay thể hiện… một lời mời.

Langdon rùng mình khi nhớ lại câu nói của gã đàn ông đã kéo anh tới đây. Thưa Giáo sư đây là lời mời đáng giá nhất đời ông đấy. Thật vậy, Mật Thủ thời xưa có vai trò như lời mời quý giá nhất trên trái đất. Nhận được biểu tượng này tức là nhận được lệnh triệu tập thiêng liêng để gia nhập một nhóm tinh tuý gồm toàn những người bảo vệ cho sự uyên thâm bí ẩn của mọi thời đại. Lời mời vừa là một vinh dự, vừa ngụ ý rằng bề trên tin tưởng anh xứng đáng nhận được sự uyên thâm ấy, và như thế, Mật Thủ chính là bàn tay của bề trên chìa ra cho kẻ nhập môn.
- Thưa ông - nhân viên an ninh nhắc lại, đồng thời đặt bàn tay rắn rỏi của anh ta lên vai Langdon - Yêu cầu ông lùi lại ngay.
- Tôi biết thứ này có ý nghĩa gì, - Langdon giãy ra - Tôi có thể giúp các anh.
- Lùi lại ngay! - người bảo vệ nói.
- Bạn tôi đang bị đe doạ. Chúng ta phải…

Những cánh tay mạnh mẽ kéo Langdon lên và lôi anh ra xa bàn tay. Langdon đành buông xuôi… lòng dạ rối bời đến nỗi không đủ sức kháng nghị. Anh đã nhận được một lời mời chính thức. Kẻ nào đó đang triệu tập anh đến mở cánh cổng huyền hoặc dẫn vào một thế giới khác - thế giới của những điều bí ẩn cổ xưa và những tri thức chưa ai hay biết.
Nhưng tất cả thật điên rồ.
Đều do ảo tưởng của một kẻ tâm thần.
Hết chương 13

kiemanh
05-10-2010, 01:32 PM
Chương 14


Chiếc Limousine dài thượt của Mal’akh nhẹ nhàng rời xa Điện Capitol, tiến về phía đông, xuôi xuống Đại lộ Độc Lập. Một đôi nam nữ trên vỉa hè cố căng mắt nhìn qua những ô cửa sau lắp kính màu, hy vọng trông thấy yếu nhân ngồi bên trong.
Ta ở đằng trước cơ mà. Mal’akh nghĩ thầm, tự mãn cười với mình.

Gã ưa thích cái cảm giác quyền lực khi tự lái chiếc xe hơi đồ sộ này. Ở nhà còn năm chiếc xe hơi nữa, nhưng không chiếc nào đem lại điều gã cần tối nay, đó là sự đảm bảo riêng tư. Riêng tư hoàn toàn.

Những chiếc Limousine ở Washington đều được hưởng một sự miễn trừ bất thành văn. Người ta gọi chúng là toà đại sứ trên các bánh xe.

Đám cảnh sát làm việc gần đồi Capitol chẳng bao giờ dám chắc mình có thể chặn phải nhân vật thần thế cỡ nào ngồi trong một chiếc Limousine, nên đơn giản nhất là tránh voi chẳng xấu mặt nào.

Khi vượt sông Anacostia sang địa phận Maryland, Mal’akh cảm thấy lực hút của số phận đang cuốn mình tới chỗ Katherine. Nhiệm vụ thứ hai trong đêm nay đang vẫy gọi mình… một nhiệm vụ chưa bao giờ mình tưởng tượng nổi. Đêm qua, Peter Solomon đã tiết lộ điều bí mật cuối cùng, nhờ đó Mal’akh biết về sự tồn tại của một phòng thí nghiệm, nơi Katherine Solomon đang thực hiện những phép màu và đạt được nhiều bước đột phá vĩ đại tới mức đủ sức thay đổi cả thế giới, một khi chúng được công bố.

Công việc đó sẽ hé lộ bản chất thật của tất cả mọi điều.

Đã nhiều thế kỷ nay, “những bộ óc sáng láng nhất” trên trái đất đều phủ nhận khoa học cổ đại. Tự trang bị cho mình thái độ hoài nghi thiển cận, họ thường chế giễu khoa học cổ là dị đoan ngu ngốc, trong khi đó lại ngất ngây vì công nghệ mới - vốn là thứ chỉ càng kéo họ rời xa chân lý. Những đột phá của thế hệ trước luôn bị công nghệ của thế hệ sau chứng minh là sai lầm, và cứ thế tình trạng này diễn ra qua nhiều thời đại. Con người càng học hỏi thì càng nhận thấy mình chẳng hiểu biết gì hết.

Mấy nghìn năm qua, nhân loại vẫn đang dò dẫm trong bóng tối… nhưng giờ đây, sắp có một sự thay đổi, đúng như lời tiên tri. Lần mò mãi trong lịch sử, cuối cùng nhân loại cũng đến được một giao lộ.

Khoảng khắc này đã được dự đoán từ lâu, được tiên tri trong những văn bản cổ xưa, những cuốn lịch nguyên thuỷ, thậm chí trong chính các vì sao. Ngày tháng rất cụ thể, và nó sắp đến. Dẫn đường cho nó là sự bùng nổ tri thức vĩ đại… là luồng ánh sáng soi rọi bóng tối, cho nhân loại cơ hội cuối cùng để tránh xa vực thẳm và tiến vào con đường trí tuệ.
Ta đến để xua tan ánh sáng, Mal’akh nghĩ. Đây là vai trò của ta.

Số phận đã gắn gã với Peter và Katherine Solomon. Những đột phá mà Katherine thực hiện trong SMSC có nguy cơ tháo cũi xổ ***g cho tư duy tương lai, bắt đầu thời đại Khai sáng mới. Một khi cô cho công bố những khám phá đó, chúng sẽ trở thành chất xúc tác, thành nguồn cảm hứng để nhân loại phát hiện lại những tri thức đã mất, tạo ra nhiều quyền năng khó tả.

Định mệnh của Katherine là thắp lên ngọn đuốc.
Còn định mệnh của ta là dập tắt nó.
hết chương 14

kiemanh
05-10-2010, 01:33 PM
Chương 15


Katherine Solomon dò dẫm trong bóng tối mịt mùng, gắng tìm cửa ngoài của phòng thí nghiệm. Khi chạm tới cánh cửa lót chì ấy, cô ra sức kéo mạnh và lách nhanh vào tiền sảnh nhỏ xíu. Chỉ mất 90 giây để băng qua khoảng không mông lung nọ, vậy mà tim cô đập dữ dội.

Ba năm đã qua, chắc anh tưởng em quen với quãng đường đó rồi phải không? Katherine luôn cảm thấy an tâm khi thoát khỏi màn đen của Khoang 5 và bước vào không gian sáng sủa, sạch sẽ này.

“Khối vuông” là một cái hộp khổng lồ không có cửa sổ. Lưới sợi chì bọc titan trải kín từng li tường và trần nhà, y như một cái chuồng khổng lồ xây dựng bên trong hàng rào xi măng. Không gian này được chia thành nhiều ngăn khác nhau như phòng thí nghiệm, phòng điều khiển, phòng máy, phòng tắm và một thư viện nghiên cứu nhỏ… nhờ các vách ngăn bằng kính mờ Plexiglas.

Katherine nhanh nhẹn bước vào phòng thí nghiệm chính. Đây là một nơi làm việc sáng sủa và vô trùng, trang bị nhiều thiết bị định lượng tiên tiến: các máy điện não đồ, một máy femto giây(21), một bẫy quang từ, và công cụ phân tích xác suất dựa trên tiếng ồn điện tử (hay gọi đơn giản là Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên).

Các trang thiết bị và công nghệ phục vụ việc nghiên cứu Lý trí học tuy rất tiên tiến, song chính những phát kiến lại bí ẩn hơn hẳn đám máy móc lạnh lẽo dùng để tạo ra chúng kia. Những dữ liệu mới được nạp vào sẽ mau chóng biến nhiều phép màu và huyền thoại thành hiện thực, điều này củng cố cho hệ tư tưởng cơ bản của lý trí học, đó là: trí óc con người vẫn còn nhiều tiềm năng chưa khai phá hết.
Luận thuyết chung rất đơn giản: Chúng ta mới chỉ chạm đến bề mặt trí tuệ và năng lực tinh thần của mình mà thôi.

Thông qua thí nghiệm, một vài cơ sở như Viện Khoa học Tinh thần (IONS) tại California và Phòng Nghiên cứu những Dị thường Công nghệ Princeton (PEAR) đã khẳng định rằng suy nghĩ của con người, nếu được tập trung một cách thích hợp, có khả năng tác động và thay đổi khối lượng vật chất. Thí nghiệm của họ không phải là dạng tiểu xảo mua vui ở các phòng khách như kiểu “bẻ cong thìa”, mà là những thẩm định được kiểm soát kỹ càng và đem lại cùng một kết quả phi thường: tư duy con người tương tác với thế giới vật chất, thậm chí có khả năng thay đổi tới cả lĩnh vực hạ nguyên tử, cho dù con người có biết điều đó hay không.
Ý thức bao trùm vật chất.

Năm 2001, trong những thời khắc tiếp theo sự kiện hãi hùng ngày 11 tháng 9, lĩnh vực Lý trí học đã đạt được bước tiến vượt bậc. Bốn nhà khoa học phát hiện ra rằng, khi thế giới hoảng loạn cố kết lại và cùng hướng mọi sự chú ý vào thảm kịch này trong nỗi sợ hãi chung thì kết quả của ba mươi bảy Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên khác nhau trên khắp thế giới đột ngột trở nên bớt ngẫu nhiên rõ rệt. Bằng cách nào đó, sự đồng nhất về trải nghiệm, sự tập hợp của hàng triệu bộ óc đã ảnh hưởng đến chức năng ngẫu nhiên hoá của những cỗ máy, hệ thống các thông tin đầu ra của chúng và tạo lập được một trật tự từ trong hỗn loạn.

Xem ra, phát hiện đáng kinh ngạc ấy trùng khớp với một tín điều xa xưa, theo đó người ta tin tưởng vào “ý thức vũ trụ” - một tập hợp to lớn những ý hướng con người mà trên thức tế có thể tương tác với thế giới vật chất. Gần đây, các nghiên cứu về thiền định và cầu nguyện tập thể cũng đem lại những kết quả tương tự trên các Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên, củng cố thêm nhận định của tác giả Lý trí học Lynne McTaggart: ý thức con người là một thực thể bên ngoài những giới hạn cơ thể, là một năng lượng có tổ chức cao đủ khả năng thay đổi thế giới vật chất. Katherine say mê cuốn sách Cuộc du hành vào Ý thức của McTaggart, cũng như rất quan tâm đến công trình nghiên cứu qua Web của nữ tác giả này. Tại địa chỉ themtentionexperimnent.com, McTaggart tiến hành các thực nghiệm nhằm khám phá xem ý niệm con người tác động ra sao đến thế giới. Bên cạnh đó, còn một số nghiên cứu khá cách tân, lưu hành dưới dạng văn bản, cũng khơi gợi nhiều hứng thú của Katherine.

Nền tảng này giúp Katherine tiến nhanh hơn trong công việc, giúp cô chứng minh được rằng “tập hợp tư duy” đủ sức tác động đến bất kỳ thứ gì, từ khả năng tăng trưởng của cây cối, hướng cá bơi trong bát, cách tế bào phân chia trên đĩa cấy vi khuẩn, quá trình đồng bộ hoá những hệ thống tự động tách biệt, đến các phản ứng hoá học trong cơ thể ai đó. Thậm chí ý niệm cá nhân có thể biến đổi cả cấu trúc kết tinh của một chất rắn mới hình thành. Katherine đã tạo ra những tinh thể băng đối xứng hoàn hảo bằng cách truyền suy nghĩ trìu mến vào một ly nước khi nó đóng băng. Thật kỳ diệu, trường hợp ngược lại cũng thu được kết quả tương ứng: khi Katherine truyền những suy nghĩ tiêu cực, ô nhiễm vào nước, các tinh thể băng liền hình thành dưới dạng hỗn độn, dễ đứt gãy.
Tư duy con người có thể biến đổi thế giới vật chất.

Khi tiến hành những thí nghiệm táo bạo hơn, Katherine càng thu được nhiều kết quả đáng kinh ngạc. Công việc của cô đã chứng minh rằng “ý thức bao trùm vật chất” hiển nhiên không chỉ là câu thần chú tự huyễn hoặc của Kỷ nguyên Mới. Ý thức có khả năng thay đổi trạng thái của vật chất, và quan trọng hơn, ý thức có đủ sức mạnh khuyến khích thế giới vật chất dịch chuyển theo một hướng nhất định.
Chúng ta chính là chủ nhân của vũ trụ.

Ở mức độ hạ nguyên tử, Katherine nhận thấy các hạt tồn tại hay tiêu biến hoàn toàn phụ thuộc vào việc cô có muốn quan sát chúng hay không. Nói theo một nghĩa nào đó là niềm ước mong được nhìn thấy một, hạt… đã làm hạt đó xuất hiện. Nhiều thập kỷ trước, Heisenberg từng đề cập đến thực tế này, và giờ đây nó trở thành một nguyên tắc cơ bản của khoa Lý trí học. Theo Lynne McTaggart thì: “Bằng cách này hay cách khác, ý thức sống có tác động đến việc biến khả năng thành sự thật. Yếu tố quan trọng nhất tạo ra vũ trụ của chúng ta chính là ý thức quan sát vũ trụ đó”.

Chưa hết, các nghiên cứu của Katherine còn đưa đến một nhận định hết sức phi thường: nếu biết luyện tập, ta có thể tăng cường mức độ ảnh hưởng của ý thức lên thế giới vật chất, ý thức là một kỹ năng hình thành được nhờ rèn giũa. Cũng như ngồi thiền, muốn khai thác sức mạnh thật sự của “tư duy, thì phải luyện tập. Quan trọng hơn… một số người bẩm sinh thành thạo trong việc điều khiển ý thức hơn những người khác, và trước đây đã có vài người thật sự trở thành những bậc thầy.
Đó là mắt xích còn thiếu giữa khoa học hiện đại và thuyết thần bí cổ xưa.

Katherine học được điều này từ người anh trai, Peter. Vừa sực nhớ về ông, cô lại cảm thấy vô cùng lo lắng. Cô bước tới thư viện và ngó vào.

Vắng ngắt.

Thư viện là một phòng đọc nhỏ với hai chiếc ghế Morris, một bàn gỗ hai cây đèn đứng và một giá sách bằng gỗ gụ áp sát tường chất khoảng 500 cuốn sách. Sách này là do Katherine và Peter góp chung, nội dung bao gồm mọi đề tài họ yêu thích, từ vật lý hạt đến chủ nghĩa thần bí cổ xưa. Bộ sưu tập của họ đã phát triển thành một hỗn hợp dung hoà cả mới và cũ, tiên tiến và lịch sử. Hầu hết sách của Katherine mang những tựa đề như Ý thức Lượng tử Vật lý học Mới và Những Nguyên tắc của Thần kinh học. Còn sách của anh trai cô mang những cái tên khó hiểu hơn, cổ kính hơn như Kybalion(22), Zohar(23), Các bậc thầy vật lý nhảy múa(24), và một bản dịch thẻ sách của người Sumeria lấy từ Bảo tàng Anh quốc.

Peter thường nói:
- Chìa khoá cho tương lai khoa học được cất giấu trong quá khứ của chúng ta.
Là một học giả cống hiến cả đời cho lịch sử, khoa học và chủ nghĩa thần bí, Peter chính là người đầu tiên khích lệ Katherine nâng cao kiến thức ở bậc đại học bằng những hiểu biết về triết học Hermetic sơ khai. Katherine chỉ mới 19 tuổi khi Peter khơi dậy nơi cô sự quan tâm đối với mối liên hệ giữa khoa học hiện đại và chủ nghĩa thần bí cố xưa.
- Nào Kate, hãy cho anh biết - Peter đề nghị vào kỳ nghỉ năm thứ hai của Katherine - Thời buổi này sinh viên Đại học Yale - đọc gì về vật lý lý thuyết?
Katherine đứng trong thư viện bao la sách của gia đình và liệt kê danh mục sách cần đọc.
- Rất ấn tượng, - Peter nhận xét - Einstein, Bohr, và Hawking là những thiên tài hiện đại. Nhưng em đã đọc gì xa xưa hơn nữa chưa?
Katherine gãi đầu.
- Ý anh là kiểu như… Newton?
- Tiếp tục xem nào - Peter mỉm cười. Ở tuổi 27, anh đã nổi danh trong giới học thuật, và thường cùng em gái tận hưởng hình thức đối đáp giải trí rất trí tuệ này.
Còn xa xưa hơn cả Newton cơ à? Những cái tên cũ kỹ như Ptolemy, Pythagoras, và Hermes Trismegistus nảy ra trong đầu Katherine. Làm gì còn ai đọc những thứ ấy nữa.
Peter rà một ngón tay dọc theo giá sách dài toàn những bìa da nứt nẻ và hàng tập sách cũ kỹ nhuốm bụi.
- Kiến thức khoa học của người xưa cực kỳ đáng nể… vật lý hiện đại giờ đây chỉ mới bắt đầu hiểu về nó mà thôi.
- Anh Peter, - Katherine nói - anh từng kể với em rằng người Ai Cập biết về đòn bẩy và ròng rọc từ rất lâu trước thời Newton, và rằng các nhà giả kim cổ đại chẳng kém cạnh gì hoá học gia hiện đại, nhưng thế thì sao? Vật lý học ngày nay giải quyết được những khái niệm mà cổ nhân không thể tưởng tượng nổi kia.
- Chẳng hạn như…?
- Chà… chẳng hạn thuyết rối lượng tử! Các nghiên cứu hạ nguyên tử đã chứng minh rõ ràng rằng mọi vật chất có liên hệ qua lại, chúng cùng mắc vào một mạng lưới duy nhất… một dạng tổng thể vũ trụ.
- Anh định nói với em rằng người cổ đại đã từng ngồi với nhau thảo luận về thuyết rối lượng tử chắc?
- Hẳn rồi! - Peter đáp, gạt mớ tóc đen dài trước trán cho khỏi vướng mắt mình - Sự liên hệ là cốt lõi của những tín điều nguyên thuỷ. Tên gọi của nó cũng xa xưa như chính lịch sử vậy… Dharmakaya(25), Đạo Bà la môn(26). Trên thực tế, cuộc truy tìm tinh thần cổ xưa nhất của con người là nhận thức về sự ràng buộc của bản thân, để cảm nhận mối liên hệ qua lại giữa mình với tất cả mọi thứ. Con người luôn muốn trở thành “một chủ thể” cùng với vũ trụ… để đạt tới nhất thể trạng (at-one-ment). - Anh nhướng mày - Cho đến nay, người Do Thái và người Thiên Chúa giáo vẫn cố gắng “chuộc tội” (atonement)… mặc dù hầu hết chúng ta đã quên rằng chính “nhất thể trạng” mới thực sự là thứ chúng ta đang tìm kiếm.
Katherine thở dài, sực nhớ ra rằng khó lòng tranh luận được với một người quá thông thạo lịch sử.
- Được rồi, nhưng mà anh đang nói đến những thứ tổng quát. Còn em thì nói về vật lý cụ thể.
- Vậy thì cụ thể nhé - Đôi mắt tinh anh của Peter ánh lên thách thức.
- Vâng, thế những thứ đơn giản như tính phân cực, hay cân bằng dương/âm của lĩnh vực hạ nguyên tử thì sao nào? Rõ ràng, người cổ đại không hiệu…
- Từ từ đã! - Peter rút ra một văn bản phủ bụi và đập mạnh xuống bàn - Tính phân cực hiện đại chính là “thế giới kép” đã được Krishna(27) mô tả trong cuốn Bhagavad Gita(28) này từ hơn 2000 năm trước. Ở đây có hàng chục cuốn sách khác, kể cả Kybalion, nói về các hệ đôi và lực đối lập trong tự nhiên.
Katherine tỏ vẻ hoài nghi.
- Vâng, nhưng nếu bàn về phát hiện hiện đại liên quan đến hạ nguyên tử, chẳng hạn nguyên tắc bất định Heisenberg…
Khi đó ta phải xem ở đây, - Peter ngắt lời, sải bước dọc giá sách dài và rút ra một cuốn sách khác - Những quyển Kinh Vệ đà của người Hindu được gọi là Upanishads(29) - Anh đặt mạnh cuốn sách lên trên cuốn thứ nhất - Heisenberg và Schrodinger đã nghiên cứu tài liệu này và ghi rõ rằng nó giúp họ hình thành một số luận thuyết riêng.
Cuộc tranh luận còn tiếp tục vài phút nữa, chồng sách bụi bặm trên bàn càng lúc càng cao. Cuối cùng, Katherine giơ tay chịu thua.
- Được rồi! Anh đã thắng, nhưng em muốn nghiên cứu vật lý lý thuyết tiên tiến. Tương lai của khoa học! Em cho rằng Krishna hay Vyasa(30) chẳng có gì nhiều để mà đề cập tới lý thuyết siêu dây và các mô hình vũ trụ học đa chiều đâu.
- Em nói đúng. Họ không hề đả động đến - Peter ngừng lời, môi thoáng nụ cười - Khi em nêu ra lý thuyết siêu dây… - Anh tiến lại gần giá sách lần nữa - tức là em đang nhắc tới cuốn sách này- Anh lôi ra một cuốn sách bọc da to tướng và ném rất mạnh xuống bàn - Bản dịch thế kỷ XIII từ nguyên bản tiếng Syria trung cổ.
- Lý thuyết siêu dây vào thế kỷ XIII? - Katherine ngờ vực - Anh tiếp đi!
Lý thuyết siêu đây là một mô hình vũ trụ học hết sức mới mẻ. Thông qua những quan sát khoa học gần đây nhất, nó hé mở về một vũ trụ đa chiều được cấu thành không phải từ ba… mà từ mười chiều, tất cả đều tương tác như những sợi dây dao động, tương tự các dây đàn vĩ cầm cộng hưởng.
Katherine im lặng chờ đợi. Trong khi đó, anh trai cô mở sách, lướt qua phần mục lục được in rất đẹp rồi búng tay vào một chỗ gần đầu cuốn sách.
- Đọc đoạn này đi - Anh trỏ vào một trang văn bản và biểu đồ đã mờ.
Hết sức nghiêm túc, Katherine xem kỹ trang sách. Bản dịch dùng nhiều từ cổ và rất khó đọc, nhưng trước sự ngạc nhiên hoàn toàn của cô gái, quả thực lời văn và các hình vẽ mô tả một vũ trụ mười chiều với những sợi dây cộng hưởng y hệt mô hình vũ trụ theo lý thuyết siêu dây hiện đại. Vừa đọc tiếp xuống dưới, Katherine bỗng há hốc miệng và nhảy dựng lên.
- Chúa ơi, thậm chí nó còn mô tả rõ sáu chiều liên hệ với nhau thế nào và vận hành như một chỉnh thể ra sao? - Cô thảng thốt giật lui một bước - Cuốn sách này là gì vậy?
Peter cười toe toét.
- Là thứ mà anh hy vọng một ngày kia em sẽ đọc - Anh lại búng tay lên trang bìa, nhan đề gồm ba chữ in rất đẹp.
Zohar Toàn tập.
Mặc dù chưa bao giờ đọc Zohar nhưng Katherine đã nghe nói nó là tài liệu căn bản của thuyết thần bí Do Thái cổ đại, và chỉ dành cho những giáo sĩ thông thái nhất.
Cô nhìn cuốn sách.
- Vậy là xưa kia, những người theo thuyết thần bí đã biết vũ trụ của họ có mười chiều rồi ư?
- Chính xác - Peter ra hiệu về phía hình minh hoạ tên là Sephiroth(31) gồm mười vòng tròn đan xen vào nhau trên trang sách - Rõ ràng, thuật ngữ thì khó hiểu nhưng bản chất rất tiên tiến.
Katherine không biết phản ứng thế nào.
- Nhưng… tại sao sau họ không còn ai nghiên cứu vấn đề này?
Peter mỉm cười.
- Còn chứ.
- Em không hiểu.
- Katherine, chúng ta sinh ra trong một thời đại tuyệt vời. Sắp có thay đổi rồi. Loài người đang đứng ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới, họ sắp dõi mắt nhìn lại tự nhiên và những lối xưa… quay về với ý tưởng trong các cuốn sách như Zohar hay nhiều văn bản cổ khác từ khắp các nơi trên thế giới. Chân lý vững mạnh có sức hấp dẫn riêng và cuối cùng sẽ kéo người ta về với nó. Rồi một ngày kia, khoa học hiện đại sẽ nghiêm túc nghiên cứu tri thức của người xưa… đó là ngày nhân loại bắt đầu tìm thấy đáp án cho những câu hỏi lớn vẫn còn vượt quá tầm hiểu biết của mình.
Đêm ấy, Katherine háo hức đọc tập tài liệu cổ của anh trai mình và nhanh chóng hiểu rằng anh nói đúng: Người cổ đại sở hữu một tri thức khoa học phong phú. Khoa học ngày nay mới chỉ “khám phá lại” chứ chưa “phát hiện” được gì nhiều. Nhân loại đã từng thấu hiểu bản chất thật sự của vũ trụ… nhưng lại để tuột mất, và lãng quên.
Vật lý học hiện đại có thể giúp chúng ta nhớ ra! Katherine xác định sẽ dành trọn cuộc đời cho nhiệm vụ sử dụng khoa học tiên tiến để tái phát hiện những tri thức mất mát của người xưa. Điều đó không đơn thuần là cảm hứng với học thuật vẫn mang lại động lực cho cô bấy nay, mà quan trọng hơn, Katherine nhận thức được rằng thế giới cần đến những vốn hiểu biết ấy… cần hơn bao giờ hết.
Đến cuối phòng thí nghiệm, Katherine nhìn thấy chiếc áo bờ-lu trắng của anh trai treo trên móc bên cạnh áo mình. Cô rút điện thoại ra kiểm tra tin nhắn. Chẳng có gì. Một giọng nói lại vang lên trong tâm trí cô. Có thêm tìm được thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô. Một truyền thuyết sở dĩ tồn tại được nhiều thế kỷ… là có lý do cả đấy.
- Không, - Katherine nói to - Đó không thể nào là sự thật.
Đôi khi một truyền thuyết chỉ đơn giản là một truyền thuyết mà thôi.
Hết chương 15

kiemanh
05-10-2010, 01:34 PM
Chương 16


Chỉ huy Trent Anderson lao bổ trở lại Nhà tròn Điện Capitol, giận sôi vì nhóm an ninh của mình thất bại. Một người trong đội đã tìm thấy dải băng đeo và chiếc áo khoác nhà binh tại một hốc tường gần cổng phía đông.
Đây là chỗ thằng khốn thoát thân!
Anderson đã phân công các nhóm xem lại đoạn video khu vực bên ngoài, nhưng đến lúc họ tìm được gì đó thì gã kia đã cao chạy xa bay từ lâu.
Lúc này, khi bước vào Nhà tròn để xem xét tình hình, Anderson nhận thấy mọi việc đã được kiểm soát khá tốt. Lực lượng an ninh khéo léo phong toả cả bốn lối vào Nhà tròn bằng phương pháp kiểm soát đám đông sẵn có. Họ sử dụng một tấm màn chắn bằng nhung, bố trí bảo vệ trực để xin lỗi khách du lịch, và treo tấm biển mang dòng chữ PHÒNG NÀY TẠM THỜI ĐÓNG CỬA ĐỂ LÀM CÔNG TÁC VỆ SINH. Cả chục nhân chứng được dồn thành một nhóm ở mé phía đông gian phòng, bị tịch thu hết điện thoại di động và máy ảnh.
Anderson không muốn để ai gửi một bức ảnh chụp dù bằng điện thoại di động tới CNN.
Trong số những nhân chứng bị giữ lại có một người đàn ông tóc đen, cao ráo, mặc áo tuýt thể thao, đang cố tách khỏi nhóm để nói chuyện với viên Chỉ huy. Bấy giờ người đó đang tranh cãi khá gay gắt với các nhân viên an ninh.
- Lát nữa tôi sẽ nói chuyện với anh ta - Anderson gọi với tới chỗ nhân viên của mình - Còn bây giờ, hãy giữ tất cả mọi người trong sảnh chính cho tới khi chúng ta xác định được thứ này.
Anderson đưa mắt về cái bàn tay vẫn đứng trơ trơ ở giữa phòng.
Lạy Chúa lòng lành. Suốt mười lăm năm làm công tác an ninh tại Điện Capitol, anh đã trông thấy vài thứ kỳ lạ. Nhưng không có thứ nào như thế này.
Phải gọi pháp y tới đây nhanh để đưa cái đó ra khỏi khu vực của mình.
Anderson tiến lại gần hơn, thấy rõ rằng phần cổ tay đầm đìa máu đã được găm vào một đế gỗ có cắm chông để làm cho bàn tay đứng thẳng được. Gỗ và thịt, anh nghĩ. Các máy dò kim loại chịu chết. Vật duy nhất bằng kim loại là một chiếc nhẫn vàng lớn mà Anderson cho rằng đã từng bị dò ở cửa kiểm soát hoặc bị kẻ tình nghi tuốt khỏi ngón tay người chết để tự đeo.
Anderson cúi thấp xuống để xem xét bàn tay. Trông nó như tay một người đàn ông trạc tuổi 60. Cái nhẫn mang một dấu hiệu trang trí nào đó với một con chim hai đầu và chữ số 33. Anderson không biết biểu tượng này. Nhưng anh chú ý nhiều hơn đến những hình xăm nhỏ xíu trên đầu ngón cái và ngón trỏ.
Một tác phẩm quái gở khốn kiếp.
- Chỉ huy? - Một nhân viên an ninh bước vội tới, giơ điện thoại ra - Cuộc gọi đích danh Chỉ huy. Tổng đài an ninh vừa nối máy.
Anderson nhìn cấp dưới như nhìn một kẻ tâm thần.
- Tôi đang dở việc ở đây, - anh quát ầm lên.
Mặt anh chàng kia tái mét. Anh ta bịt ống nói và thì thào.
- CIA gọi.
Anderson sửng sốt. CIA đã biết vụ này rồi kia à?
- Gọi từ Phòng An ninh của họ.
Anderson đờ người. Chó chết thật. Anh khó chịu nhìn chiếc điện thoại trên tay cậu nhân viên.
Trong cái đại dương mênh mông nhung nhúc những cơ quan tình báo ở Washington này, Phòng An ninh (OS) của CIA chẳng khác gì Tam giác quỷ Bermuda - một khu vực nguy hiểm và bí ẩn mà tất cả những ai hiểu biết đều tìm cách tránh xa bất cứ khi nào có thể. OS do CIA thành lập và được trao quyền gần như thanh trừng nội bộ, chỉ để phục vụ một mục đích kỳ cục là kiểm soát chính CIA. Là một phòng nội chính rất có thế lực, OS theo dõi tất cả các nhân viên CIA để phát giác những hành vi trái phép: tham ô ngân quỹ, buôn bán bí mật, đánh cắp công nghệ, và sử dụng những hình thức tra tấn trái luật, đại loại như vậy.
Họ theo dõi các tình báo viên của nước Mỹ.
Với toàn quyền điều tra mọi vấn đề an ninh quốc gia, OS có phạm vi ảnh hưởng rất mạnh và rộng. Anderson không thể đoán được tại sao họ lại quan tâm đến sự cố ở Điện Capitol, hoặc làm cách nào mà họ biết nhanh đến vậy. Người ta đồn rằng OS có tai mắt khắp mọi nới. Tất cả những gì Anderson biết là họ có đường truyền tín hiệu trực tiếp từ các máy quay an ninh ở Điện. Sự cố này không phù hợp với định hướng quản lý của OS, nhưng thời gian cuộc gọi tới cho Anderson có vẻ quá trùng khớp, không thể là vụ gì khác hơn vụ bàn tay ghê tởm?
- Chỉ huy - như giơ một chủ khoai nóng rãy, nhân viên an ninh chìa điện thoại cho Anderson - Chỉ huy cần nhận cuộc gọi ngay bây giờ. Nó là từ… - Anh ta ngừng lại và chúm môi tạo hình hai chữ: SA-TO
Anderson cau mặt lườm anh chàng kia. Cậu đùa tôi đấy chắc? Anh cảm thấy bàn tay mình bắt đầu vã mồ hôi. Sato đích thân xử lý vụ này cơ? sỏ Phòng An ninh - Giám đốc Inoue Sato - là một huyền thoại của làng tình báo. Sinh ra sau vụ Trân Châu Cảng, trong hàng rào một trại giam của Nhật ở Manzanar California và phải trải qua bao nhiêu gian nan mới sống sót nổi, Sato cực kỳ thấm thía sự kinh khủng của chiến tranh, cũng như hiểu rõ tình báo quân sự kém hiệu quả thì nguy hại ra sao. Giờ đây, ở vào một trong những địa vị quyền lực và bí mật nhất của ngành tình báo Hoa Kỳ, Sato đã chứng tỏ mình là một người yêu nước kiên định và một đối thủ đáng sợ cho bất kỳ kẻ đối lập nào. Chẳng mấy khi lộ diện nhưng rất được công chúng nể sợ, vị Giám đốc OS thường lùng sục tại những vùng nước sâu của CIA, y như loài quái thú săn mồi, chỉ trồi lên khi nào định xơi tái nạn nhân của mình.
Anderson mới diện kiến Sato có một lần, nhưng ký ức về đôi mắt đen lạnh lùng ấy khiến anh cảm thấy được trao đổi chuyện này chỉ qua điện thoại là rất may rồi.
Anderson cầm điện thoại và đưa lên miệng.
- Giám đốc Sato, - anh cố nói bằng giọng thân thiện nhất - Tôi là Chỉ huy Anderson đây. Tôi có thể giúp…
- Tôi cần nói chuyện ngay với một người đàn ông đang hiện diện trong toà nhà anh quản lý - Giọng vị Giám đốc OS rất đanh, y như tiếng sỏi chà lên bảng viết. Cuộc phẫu thuật ung thư vòm họng để lại nơi cổ Sato một vết sẹo to tướng, và làm cho giọng nói trở nên uy hiếp người nghe một cách ghê gớm - Tôi muốn anh tìm ông ta cho tôi ngay lập tức.
Có thế thôi sao? Muốn tôi gọi một ai đó à? Anderson đột nhiên cảm thấy đầy hy vọng rằng có lẽ cuộc điện đàm này là hoàn toàn ngẫu nhiên.
- Giám đốc đang tìm ai?
- Robert Langdon. Tôi tin chắc rằng ông ta đang ở trong khu nhà của anh.
Langdon à? Cái tên nghe quen quen, nhưng Anderson không tài nào xác định được. Giờ anh chỉ thắc mắc liệu Sato đã biết về vụ bàn tay chưa.
- Hiện tôi đang ở trong Nhà tròn, - Anderson phân vân - nhưng ở đây cũng có một số khách du lịch… Giám đốc chờ chút - Anh buông điện thoại xuống và gọi vọng lại phía nhóm người - Này các vị, có vị nào tên là Langdon không?
Không gian lặng đi chốc lát, rồi một giọng trầm thấp vang lên từ đám du khách.
- Có tôi là Robert Langdon.
Sato biết tất cả mọi chuyện. Anderson nghển cổ, dõi mắt nhìn người vừa lên tiếng.
Chính là người đàn ông đã cố gắng tách khỏi đám đông để đến gặp anh lúc trước. Anh ta có vẻ đang mất bình tĩnh… nhưng trông rất quen.
Anderson đưa điện thoại lên miệng.
- Vâng, ông Langdon có ở đây.
- Đưa máy cho ông ấy - Sato xẵng giọng.
Anderson thở hắt ra. Đỡ quá.
- Chờ nhé!
Anh vẫy Langdon.
Khi người đàn ông đến gần. Anderson bỗng hiểu ra tại sao tên họ anh ta lại quen quen. Mình vừa đọc một bài báo về thằng cha này. Hắn làm cái quái gì ở đây không biết.
Mặc dù Langdon cao tới 1m80 và nở nang như vận động viên, nhưng Anderson thấy anh thiếu hẳn vẻ sắc sảo hay lạnh lùng đáng ra phải có ở một nhân vật nổi tiếng vì đã thoát chết trong vụ nổ ở Vatican và vụ săn lùng tội phạm ở Paris. Trông anh ta giống một kẻ cắm cúi đọc Dostoyevsky bên lò sưởi thư viện một trường Đại học tên tuổi nào đó hơn. Thằng cha này trốn tránh cảnh sát Pháp bằng cách náu vào một đống giày thì phải?
- Ông Langdon? - Anderson lên tiếng và bước tới đón - Tôi là Chỉ huy Anderson, phụ trách an ninh ở đây. Ông có một cuộc điện thoại.
- Gọi tôi? - Đôi mắt xanh da trời của Langdon lộ vẻ lo lắng và bất ổn.
Anderson đưa điện thoại ra.
- Gọi từ Phòng An ninh CIA.
- Tôi chưa bao giờ biết đến cơ quan đó cả.
Anderson mỉm cười e ngại.
- Chà, thưa ông, thế mà họ lại biết ông đấy.
Langdon đưa điện thoại lên tai.
- A lô?
- Ông Robert Langdon phải không? - Cái giọng cay nghiệt của Giám đốc Sato oang oang vọng ra từ chiếc loa tí xíu, to đến mức Anderson cũng nghe rõ.
- Vâng - Langdon đáp.
Anderson nhích lại gần hơn để nghe xem Sato nói gì.
- Tôi là Giám đốc Inoue Sato, thưa ông Langdon. Tôi đang phải xử lý một cuộc khủng hoảng, và tôi tin ông có những thông tin may ra giúp ích cho tôi.
Langdon lộ vẻ hy vọng.
- Có liên quan đến Peter Solomon phải không? Các vị biết ông ấy ở đâu chứ?
Peter Solomon à? Anderson chịu không hiểu đầu cua tai nheo ra sao.
- Thưa Giáo sư, - Sato nhắc nhở - Lúc này tôi là người đặt câu hỏi.
- Peter Solomon đang gặp nguy hiểm, - Langdon kêu lên - Một gã điên nào đó vừa…
- Xin lỗi, - Sato ngắt lời.
Anderson co rúm người. Không hay rồi. Ngắt mạch câu hỏi của một quan chức CIA chóp bu đúng là một sai lầm mà chỉ dân thường mới mắc phải. Chắc gã Langdon này tự cho mình là khôn đây.
- Nghe cho kỹ - Sato nói - Như chúng tôi vừa nói, đất nước đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng. Người ta gợi ý cho tôi rằng ông có những thông tin ngăn chặn được cuộc khủng hoảng đó. Nào, tôi hỏi lại lần nữa. Ông nắm giữ những thông tin gì?
Langdon hoàn toàn mất phương hướng.
- Thưa Giám đốc, tôi chẳng hiểu Giám đốc đang đề cập tới chuyện gì. Bây giờ tôi chỉ quan tâm tới việc tìm Peter và…
- Không hiểu gì ư? - Sato gặng.
Anderson nhận ra Langdon bắt đầu phát cáu. Giọng vị Giáo sư lúc này nghe hung hăng tợn.
- Không hề, thưa ông. Chẳng hiểu tí nào cả.
Anderson chớp mắt. Sai lầm. Sai lầm. Sai lầm. Robert Langdon vừa mắc phải một sai lầm đắt giá trong cách ứng xử với Giám đốc Sato.
Và cũng quá muộn để sửa chữa rồi. Trước sự ngạc nhiên của Anderson, Giám đốc Sato xuất hiện ở mé bên kia Nhà Tròn, và đang tiến lại từ phía sau Langdon. Sato ngay trong toà nhà này. Anderson nín thở và chuẩn bị tinh thần xem tấn kịch sắp tới. Gã Langdon đúng là loại điếc không sợ súng.
Cái bóng lù lù của vị Giám đốc tiến lại gần hơn, điện thoại vẫn áp trên tai, đôi mắt đen như hai tia laser dính chặt vào lưng Langdon.
Langdon nắm chặt chiếc điện thoại của viên Chỉ huy cảnh sát và cảm thấy càng lúc càng thất vọng khi vị Giám đốc OS dồn ép anh.
- Tôi xin lỗi, thưa ông, - Langdon nói cộc lốc - nhưng tôi không hiểu được ý ông. Ông muốn gì ở tôi?
- Tôi muốn gì ở anh ư? - Giọng chói lói của vị Giám đốc OS vang qua chiếc điện thoại Langdon đang cầm, xóc óc và trống rỗng, như giọng một người đang hấp hối vì căn bệnh viêm họng liên cầu.
Trong khi vị Giám đốc nói, Langdon cảm thấy ai đó vỗ vào vai anh. Anh quay lại và mắt anh nhìn thẳng xuống… gương mặt của một phụ nữ Nhật Bản nhỏ thó. Bà ta có vẻ mặt dữ tợn, nước da lốm đốm, mái tóc thưa, hàm răng ám khói thuốc lá, và một vết sẹo trắng ởn dễ sợ chạy ngay qua cổ. Bàn tay xương xẩu của người phụ nữ cầm một chiếc điện thoại di động áp vào tai, và khi môi bà ta mấp máy, Langdon nghe thấy giọng nói khó chịu quen thuộc qua điện thoại di động của mình.
- Tôi muốn gì ở anh ư, thưa Giáo sư? - Bà ta bình thản gập điện thoại và đăm đăm nhìn anh - Trước hết, anh có thể thôi gọi tôi là ông được rồi.
Langdon trợn mắt nhìn, sượng trân.
- Thưa bà, tôi… xin lỗi. Tín hiệu điện thoại không tốt nên…
- Tín hiệu điện thoại rất tốt, thưa Giáo sư, - Sato gạt đi - Và tôi không đủ khoan dung để tiếp tục chịu đựng câu chuyện nhảm nhí này.
Hết chương16

kiemanh
05-10-2010, 01:35 PM
Chương 17


Giám đốc Inoue Sato chỉ cao xấp xỉ 1m50, nhưng là mẫu người đáng sợ, dễ trở nên dữ dội. Bà ta gầy trơ xương với những đường nét góc cạnh, làn da lốm đốm như đá hoa cương thô phủ địa y (hậu quả của một chứng bệnh da liễu gọi là bạch biến). Bà mặc áo khoác xanh lam nhàu nhĩ trông chẳng khác gì cái bao tải, bên trong là chiếc áo cánh cổ mở phơi ra toàn bộ vết sẹo chạy vắt ngang cổ. Theo các đồng nghiệp, hình thức làm đẹp duy nhất mà Sato chấp nhận là cạo ria mép.
Sato cai quản Phòng An ninh của CIA đã hơn mười năm. Bà có chỉ số IQ ngoại hạng và trực giác chính xác đến ghê người, hai yếu tố đó đem lại cho bà sự tự tin khiến bất kỳ ai không làm nổi những việc tưởng chừng bất khả thi đều phải khiếp sợ. Ngay cả khi nghe chẩn đoán mình bị ung thư cổ họng giai đoạn cuối, Sato cũng không gục ngã. Cuộc chiến với căn bệnh khiến bà phải rời bỏ công việc suốt một tháng, lấy đi phân nửa cơ quan thanh quản và làm trọng lượng cơ thể bà sụt mất một phần ba, nhưng bà đã quay lại văn phòng cứ như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Xem chừng Inoue Sato là người không thể bị đánh bại.
Robert Langdon ngờ rằng có lẽ anh không phải là người đầu tiên nhầm Sato là nam giới trên điện thoại, nhưng vị Giám đốc ấy vẫn nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen đầy giận dữ.
- Một lần nữa, tôi rất xin lỗi, thưa bà, - Langdon phân bua - Tôi đang cố tìm hiểu lý do mình ở đây. Có một kẻ lừa tôi tới thủ đô tối nay. Hắn ta đang bắt giữ Peter Solomon - Anh rút từ trong áo vét của mình ra bản fax - Đây là thứ hắn gửi cho tôi lúc trước. Tôi cũng đã ghi lại số đuôi của chiếc máy bay mà hắn cử tới, có lẽ các vị nên gọi cho Cục Hàng không Liên bang và truy xem…
Sato chìa bàn tay nhỏ xíu giật lấy tờ giấy và đút tọt nó vào tôi, chẳng buồn mở ra.
- Giáo sư, tôi đang tiến hành một cuộc điều tra. Từ giờ cho tới lúc ông bằng lòng cung cấp những gì tôi muốn biết, tôi khuyến cáo ông nên im lặng, trừ phi được yêu cầu mở miệng.
Rồi bà xoay sang viên Chỉ huy trưởng.
- Chỉ huy Anderson - bà lên tiếng, bước lại thật sát và nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen nhỏ xíu - liệu anh có thể cho tôi biết đang xảy ra chuyện quái gì ở đây không? Nhân viên bảo vệ đằng cồng phía đông báo với tôi rằng các anh phát hiện thấy một bàn tay người. Đúng không?
Anderson bước tránh sang bên và trỏ cái vật đang nằm chình ình giữa sàn nhà.
- Vâng, thưa bà, chỉ mới vài phút trước.
Sato thờ ơ liếc bàn tay như thể đấy chỉ là một thứ quần áo đặt sai chỗ.
- Anh không hề đả động đến nó khi tôi gọi?
- Tôi… tôi tưởng bà biết rồi.
- Đừng nói dối tôi. - Anderson xụi lơ trước ánh mắt Sato, nhưng giọng anh vẫn rất tự tin.
- Thưa bà, tình huống hiện nay vẫn trong tầm kiểm soát.
- Tôi thực sự nghi ngờ điều đó! - Sato nhận xét với vẻ tự tin không kém.
- Tổ pháp y đang trên đường tới đây. Bất kỳ kẻ nào gây ra việc này cũng sẽ để lại dấu vân tay.
Sato lộ vẻ hoài nghi.
- Tôi cho rằng một kẻ đủ khôn ngoan vượt qua trạm kiểm tra an ninh của các anh với một bàn tay người thì chắc cũng đủ thông minh để không lưu lại dấu tay nào.
Điều đó có thể đúng, nhưng tôi nắm trách nhiệm điều tra.
- Nói thật nhé, bây giờ tôi sẽ giải thoát cho anh khỏi trách nhiệm đó Tôi sẽ tiếp quản vụ việc.
Anderson cứng người.
- Đây không thuộc lãnh địa của OS thì phải?
- Rất đúng. Đây là vấn đề an ninh quốc gia.
Bàn tay của Peter… liên quan đến an ninh quốc gia cơ à?
Đầy thắc mắc, Langdon sửng sốt theo dõi cuộc đối đáp giữa hai người kia. Anh cảm thấy Sato không có chung mục tiêu cấp bách như mình là tìm kiếm Peter. Xem ra vị Giám đốc OS đang quan tâm đến một vấn đề hoàn toàn khác.
Anderson cũng lộ vẻ bối rối.
- An ninh quốc gia ư? Với tất cả lòng kính trọng, thưa bà…
- Suy cho cùng, - Sato ngắt lời - vị trí của tôi cao hơn anh. Tôi nghĩ anh nên làm đúng như tôi nói, và hãy tuân thủ mà đừng cật vấn gì.
Anderson gật đầu và nuốt khan.
- Nhưng ít nhất chúng tôi cũng cần in dấu tay để khẳng định bàn tay kia là của Peter Solomon chứ?
- Tôi xin xác nhận điều đó, - Langdon thốt lên, thấm thía một sự thật chắc chắn đến tởm lợm - Tôi nhận ra chiếc nhẫn… và bàn tay ông ấy! - Anh ngừng lại - Nhưng những hình xăm thì rất mới. Kẻ nào đó vừa xăm cho ông ấy thôi.
- Sao cơ - Lần đầu tiên kể từ lúc xuất hiện, Sato tỏ ra lúng túng - Bàn tay bị xăm ư?
Langdon gật đầu.
- Ngón cái có hình vương miện. Ngón trỏ hình ngôi sao.
Sato đeo kính lên và bước lại phía bàn tay, lượn vòng xung quanh như một con cá mập.
- Ngoài ra. - Langdon nói - mặc dù các vị không nhìn thấy ba ngón còn lại, nhưng tôi dám chắc chúng cũng có những hình xăm trên đầu ngón tay.
Sato lộ vẻ ngạc nhiên trước thông báo đó và ra dấu với Anderson.
- Chỉ huy, anh có thể xem xét mấy đầu ngón tay khác cho chúng tôi được không?
Anderson cúi xuống bên cạnh bàn tay, rất thận trọng để không chạm vào nó. Anh áp má xuống gần sát sàn nhà và ngước lên nhìn mé dưới những ngón tay bị bẻ gập.
- Ông ấy nói đúng, thưa bà. Tất cả các ngón tay đều có hình xăm, mặc dù tôi không thể nhìn rõ đó là…
- Một mặt trời, một đèn ***g và một chìa khoá, - Langdon bổ sung luôn.
Giờ thì Sato quay hẳn lại phía Langdon, đôi mắt hẹp của bà ta như đang đánh giá anh.
- Làm thế nào mà ông biết chính xác như vậy?
Langdon trợn mắt nhìn trả lại.
- Hình ảnh một bàn tay người được vẽ dấu hiệu như thế trên các đầu ngón tay là một biểu tượng rất cổ xưa. Người ta gọi nó là Mật Thủ.
Anderson đứng thẳng lên.
- Thứ này mà cũng có tên gọi à?
Langdon gật đầu.
- Nó là một trong những biểu tượng bí mật nhất của the giới cổ đại.
Sato gõ gõ lên đầu mình.
- Vậy thì tôi băn khoăn rằng nó làm quái quỷ gì ở giữa Điện Capitol chứ?
Langdon ước sao mình có thể thoát khỏi cơn ác mộng này.
- Theo truyền thống, thưa bà, nó được sử dụng như một lời mời.
- Một lời mời… cho cái gì? - Sato hỏi.
Langdon nhìn xuống những biểu tượng trên bàn tay đáng sợ của bạn mình.
- Trong nhiều thế kỷ. Mật Thủ được sử dụng như một lời triệu tập huyền bí. Về cơ bản, nó là một lời mời tiếp nhận tri thức bí mật, những tri thức được bảo vệ mà chỉ một vài nhân vật chủ chốt mới được biết.
Sato khoanh đôi tay gầy gò trước ngực và đăm đăm nhìn Langdon bằng cặp mắt đen láy.
- Chà, thưa Giáo sư, ông vừa cằn nhằn rằng không hiểu tại sao mình ở đây… nhưng đến giờ ông thể hiện rất tốt điều ngược lại đấy.
Hết chương 17

kiemanh
05-10-2010, 01:36 PM
Chương 18


Katherine Solomon khoác chiếc áo bờ lu trắng và bắt đầu lộ trình thường lệ của mình - “lượn vài vòng”, như anh trai cô thường nói.

Như người mẹ lo âu ghé thăm đứa con đang ngủ. Katherine thò đầu vào phòng máy. Gian buồng dùng nhiên liệu hydro đang chạy rất êm, các két sao lưu của nó đều nằm yên trên giá.

Katherine tiếp tục men theo hành lang tới phòng lưu trữ dữ liệu. Như mọi khi, hai cỗ máy đa sao lưu toàn ảnh vẫn chạy ro ro yên ổn trong khoang chứa có kiểm soát nhiệt độ. Toàn bộ công trình nghiên cứu của mình đây. Katherine nghĩ thầm, ghé mắt nhìn vào qua lớp kính siêu bền dày gần 10 cm. Khác với phiên bản cũ to bằng tủ lạnh, các thiết bị chứa dữ liệu toàn ảnh trông chỉ như thiết bị âm thanh gọn nhẹ, mỗi cái được đặt trên một bệ hình trụ.

Các ổ đọc toàn ảnh trong phòng thí nghiệm đều đồng bộ và giống hệt nhau - cùng là nguồn đĩa sao lưu để bảo vệ các bản sao công trình của Katherine. Hầu hết các phác đồ sao lưu đều chủ trương nên có một hệ thống sao chép thứ cấp ở nơi khác đề phòng trường hợp động đất hoả hoạn, hoặc bị đánh cắp, nhưng Katherine và anh trai cô nhất trí rằng giữ bí mật mới là điều tối quan trọng; một khi các dữ liệu rời khỏi toà nhà để chuyển tới máy chủ ở nơi khác thì họ không dám chắc rằng liệu chúng còn giữ được bí mật hay không.

Hài lòng vì tất cả vẫn vận hành trơn tru. Katherine quay trở lại theo lối hành lang. Khi vòng qua góc tường, cô chợt nhận ra có điều khác thường bên kia phòng thí nghiệm. Chuyện gì thế nhỉ? Một quầng sáng đang chiếu rọi tất cả các thiết bị. Katherine chạy vội vào để nhìn cho rõ, lòng rất ngạc nhiên khi thấy ánh sáng phát ra từ phía sau bức tường kính Plexiglas của phòng điều khiển.

Anh ấy ở đây. Katherine lao như bay qua phòng thí nghiệm, đến cửa phòng điều khiển và đẩy bật nó ra.
- Anh Peter! - cô kêu lên và chạy bổ vào.
Người phụ nữ to béo ngồi ở bàn máy trong phòng điều khiển nhảy bật dậy.
- Ôi lạy Chúa! Chị Katherine? Chị làm em sợ hết hồn!
Trish Dunne là chuyên gia phân tích siêu hệ thống của Katherine, cũng là người duy nhất ngoài hai anh em Solomon được phép có mặt ở đây. Cô gái tóc đỏ 26 tuổi này là một thiên tài lập mô hình dữ liệu và đã khai thác được một tài liệu mật rất đáng giá của KGB. Cô rất ít khi làm việc vào những ngày nghỉ cuối tuần, nhưng tối nay, cô bận phân tích dữ liệu trên bức tường plasma của phòng điều khiển, bức tường này là một màn hình phẳng rất lớn trông chẳng khác gì màn hình điều khiển của NASA.
- Em xin lỗi. - Trish nói - Em không biết chị cũng ở đây. Em đang cố làm cho xong trước khi chị và anh trai chị tới.
- Cô vừa nói chuyện với Peter à? Anh ấy đến muộn và không trả lời điện thoại.
Trish lắc đầu.
- Em cá là Peter vẫn đang loay hoay với chiếc iPhone mà chị mới tặng anh ấy.
Katherine rất cảm kích sự hài hước của cô bạn đồng nghiệp, và sự có mặt của Trish làm cô nảy ra một ý tưởng.
- Nói thật thì tôi rất vui vì cô ở đây tối nay. Chưa chừng cô sẽ giúp được tôi đấy cô không phiền chứ?
- Bất cứ việc gì, em tin nó sẽ hay hơn xem đấu bóng.
Katherine hít một hơi thật sâu, cố giữ cho tâm trí bình tĩnh.
- Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào, nhưng sớm hôm nay, tôi đã nghe được một câu chuyện rất bất thường…
Trish Dunne không đoán nổi Katherine Solomon đã nghe được chuyện gì, nhưng rõ ràng câu chuyện đó khiến chị ấy không vui. Đôi mắt xám vốn luôn điềm tĩnh nay lại lộ vẻ lo âu, và chị đã phải vén tóc ra sau tai ba lần kể từ lúc bước vào phòng - một “dấu hiệu” chứng tỏ chị ấy đang bối rối, như Trish thường nói. Một nhà khoa học xuất chúng, nhưng không biết che giấu cảm xúc của mình.
- Với tôi, - Katherine nói - câu chuyện này rất hoang đường… như một chuyện cổ tích xa xưa. Nhưng… - Cô ngừng lời, lại đưa tay gạt một lọn tóc ra phía sau tai.
- Nhưng sao ạ?
Katherine thở dài.
- Nhưng hôm nay, một nguồn tin rất đáng tin cậy đã cho tôi biết rằng chuyện cổ tích đó là có thật.
- Ồ… Chị ấy muốn dẫn câu chuyện đến đâu đây?
- Tôi định trao đổi với Peter, nhưng tôi sực nghĩ, biết đâu cô sẽ giúp tôi nảy ra ý tưởng nào đó trước khi tôi hỏi anh ấy. Tôi rất muốn biết liệu câu chuyện cổ tích này đã bao giờ được chứng thực trong lịch sử chưa.
- Trong lịch sử ư?
Katherine gật đầu.
- Ở đâu đó trên thế giới, bằng một thứ ngôn ngữ nào đó, vào một thời điểm nào đó trong lịch sử.
Kỳ quặc quá, Trish thầm nghĩ, những rất có khả năng. Mười năm trước, điều này là không tưởng. Nhưng ngày nay, với Internet, với mạng toàn cầu, và với quá trình số hoá những thư viện và bảo tàng lớn trên thế giới, mục tiêu của Katherine có thể thực hiện được bằng cách sử dụng một cơ chế tìm kiếm tương đối đơn giản có trang bị một loạt mô đun dịch thuật và vài ba từ khoá được lựa chọn kỹ.
- Không thành vấn đề - Trish nói. Nhiều cuốn sách nghiên cứu trong phòng thí nghiệm có chứa những đoạn ngôn ngữ cổ xưa, khi ấy Trish phải viết nhiều mô đun dịch thuật Nhận dạng ký tự quang học (OCR) chuyên dụng để tạo văn bản tiếng Anh từ các ngôn ngữ khó hiểu. Chắc chắn cô là chuyên gia siêu hệ thống duy nhất trên thế giới lập được các mô đun dịch thuật OCR bằng tiếng Frisian(32) cổ, tiếng Maek(33) và tiếng Akkadian(34).
Các mô đun rất có tác dụng, nhưng bí quyết xây dựng một cơ chế tìm kiếm kiểu nhện hiệu quả lại phụ thuộc vào việc lựa chọn các từ khoá đúng, độc đáo nhưng không hạn chế quá mức.
Trong lúc Trish suy nghĩ, Katherine đã ghi nhanh những từ khoá thích hợp ra một băng giấy. Viết được vài từ, cô dừng lại, nghĩ ngợi và tiếp tục thêm vài từ nữa.
- Được rồi đấy, - cuối cùng cô nói và đưa băng giấy cho Trish.
Trish đọc lướt danh sách các chuỗi tìm kiếm, và mở to mắt.
Katherine đang điều tra loại cổ tích quái quỷ gì đây?
- Chị muốn em tìm kiếm tất cả các cụm từ khoá này à? - Có một từ Trish còn không nhận ra. Liệu đây có phải là tiếng Anh không? - Chị cho rằng chúng ta sẽ tìm được những từ này ở cùng một chỗ à? Chính xác cả cụm ấy?
- Cứ thử đi.
Trish định nói không thể (impossible) nhưng ở đây, những từ bắt đầu bằng chữ cái I bị cấm. Katherine coi đó là vật cản tư duy rất nguy hiểm trong một lĩnh vực thường biến những định kiến sai lầm thành hiện thực được khẳng định. Trish Dunne thật sự ngại rằng việc tìm kiếm các cụm từ khoá này sẽ rơi vào phạm trù đó.
- Mất bao lâu để có kết quả? - Katherine hỏi.
- Vài phút để viết con nhện và cho nó hoạt động. Sau đó, có lẽ mất 15 phút để nó vận hành hết hiệu suất.
- Nhanh thế à? - Katherine phấn khởi.
Trish gật đầu. Các cơ chế tìm kiếm truyền thống thường cần trọn một ngày để lướt qua toàn bộ không gian trực tuyến, tìm kiếm các văn bản mới, phân tích nội dung của chúng và cho nó vào cơ sở dữ liệu thu thập được. Nhưng Trish không viết loại nhện đó.
- Em sẽ viết một chương trình gọi là người uỷ thác, - Trish giải thích - Không hợp pháp lắm, nhưng nó rất nhanh. Thực chất đó là một chương trình ra lệnh cho các cơ chế tìm kiếm của người khác làm việc thay cho mình. Hầu hết các cơ sở dữ liệu đều có chức năng tìm kiếm tích hợp trong, chẳng hạn thư viện, bảo tàng, các trường đại học, chính phủ. Cho nên em sẽ viết một con nhện chuyên dò ra cơ chế tìm kiếm của người ta, nhập các từ khoá của chị, và yêu cầu các cơ chế ấy hoạt động. Bằng cách này, chúng ta khai thác được sức mạnh của hàng nghìn cơ chế, làm việc thống nhất.
Katherine có vẻ rất ấn tượng.
- Xử lý song song.
Một loại siêu hệ thống.
- Em sẽ gọi chị nếu em phát hiện thấy gì đó.
- Rất cảm ơn cô. Trish - Katherine vỗ nhẹ vào lưng cô gái và đi ra phía cửa - Tôi sẽ ở bên thư viện.
Trish tập trung viết chương trình. Lập trình một con nhện tìm kiếm là nhiệm vụ quá ư tầm thường so với trình độ năng lực của cô, nhưng Trish Dunne không bận tâm. Cô sẵn sàng làm bất kỳ việc gì cho Katherine Solomon. Có lúc, Trish vẫn không tin nổi số phận may mắn lại đưa cô đến nơi này.
Cưng đã đi được một chặng đường dài, cưng nhỉ!
Chỉ mới hơn một năm trước, Trish bỏ công việc của một chuyên gia phân tích siêu hệ thống tại một trong vô vàn công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao. Lúc rỗi rãi, cô nhận lập trình cho một số nơi và bắt đầu mở một blog chuyên ngành mang tên “Những ứng dụng trong phân tích siêu hệ thống máy tính” mặc dù cô nghĩ chẳng ai thèm đọc nó. Rồi một buổi tối, điện thoại của cô đổ chuông.
- Cô Trish Dunne phải không? - một giọng phụ nữ nhã nhặn hỏi thăm.
- Vâng, xin hỏi ai gọi thế ạ?
- Tôi là Katherine Solomon.
Trish gần như ngất xỉu tại chỗ. Katherine Solomon à?
- Tôi vừa đọc cuốn sách của chị, cuốn Lý trí học. Cánh cổng hiện đại đi tới tri thức cổ xưa, và tôi đã viết về cuốn đó trên blog của mình!
- Phải, tôi có biết, - người phụ nữ trả lời rất nhã nhặn - Và đó là lý do tôi gọi cho cô.
- Dĩ nhiên là thế. Trish nhận ra như vậy, cảm thấy chẳng biết nói sao.
Ngay cả những nhà khoa học xuất sắc cũng phải sử dụng Google.
- Blog của cô khiến tôi rất thích, - Katherine nói tiếp - Tôi không ngờ rằng kỹ thuật lập mô hình siêu hệ thống lại tiến xa đến vậy.
- Vâng, - Trish hồ hởi, với tâm trạng rất muốn được người khác biết đến - Mô hình dữ liệu là một công nghệ đang bùng nổ với những ứng dụng rất rộng lớn.
Hai người phụ nữ dành vài phút nói chuyện phiếm về công việc của Trish trong ngành siêu hệ thống, kinh nghiệm của cô trong việc phân tích, lập mô hình và dự đoán xu hướng của các trường dữ liệu lớn.
- Nói thực cuốn sách của chị rất cao siêu so với tôi. - Trish nói - nhưng tôi cũng đủ khả năng hiểu nó để thấy có sự giao thoa với công trình siêu hệ thống của tôi.
- Trên blog, cô nói rằng cô tin ngành lập mô hình siêu hệ thống có khả năng biến cải những nghiên cứu của lý trí học, phải không?
- Chắc chắn là như vậy. Tôi tin siêu hệ thống sẽ biến Lý trí học thành một môn khoa học thật sự.
- Khoa học thật sự à? - Giọng Katherine hơi đanh lại - Thế hiện giờ nó không phải…?
Ôi thôi hớ rồi.
- Ừm, ý tôi là Lý trí học có vẻ… huyền bí hơn.
Katherine cười.
- Không sao đâu, tôi đùa thôi. Tôi nghe nói điều đó luôn ấy mà!
Cũng phải. Trish nghĩ bụng. Thậm chí Viện Lý trí học ở California cũng mô tả lĩnh vực này bằng một thứ ngôn ngữ khó hiểu và bí ẩn, xem nó như ngành nghiên cứu về “sự tiếp cận tức thời và trực tiếp của con người đối với những kiến thức vượt xa sức mạnh lý trí và độ cảm nhận của các giác quan bình thường”.
Trish được biết rằng từ lý trí xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ - nếu dịch thô là “kiến thức bên trong” hoặc “ý thức trực giác”.
- Tôi rất quan tâm đến công trình siêu hệ thống của cô, - Katherine nói - và muốn xem nó liên hệ ra sao với dự án tôi đang tiến hành. Cô có sẵn lòng gặp tôi không? Tôi rất muốn được thử bộ não của cô.
Katherme Solomon muốn thử bộ não của mình ư? Chẳng khác gì bảo Maria Sharapova đi hỏi thủ thuật chơi tennis.
Ngày hôm sau, một chiếc Volvo trắng tiến vào sân nhà Trish và một người phụ nữ yểu điệu duyên dáng trong bộ đồ bò màu xanh bước ra. Trish lập tức cảm thấy mình thật hèn kém. Trời ạ, cô lẩm bẩm. Thông miinh, giàu có, mảnh mai - và chắc mình phải tin là Chúa rất lòng lành mất? Nhưng phong thái khiêm nhường của Katherine khiến Trish cảm thấy thoải mái ngay.
Hai người ngồi ở hiên sau khá rộng rãi của Trish, nhìn xuống một khuôn viên khang trang.
- Nhà cô rất đẹp, - Katherine nhận xét.
- Cảm ơn chị. Tôi gặp may khi còn học đại học, bán được bản quyền một số phần mềm do tôi viết.
- Vẫn về siêu hệ thống chứ?
- Một dạng tiền thân của siêu hệ thống. Sau vụ 11-9, chính phủ chặn và xâm nhập các trường dữ liệu lớn như thư điện tử dân sự, điện thoại di động, fax, văn bản, website để tìm kiếm các từ khoá liên quan đến những giao dịch liên lạc có tính khủng bố. Vì thế tôi viết một phần mềm cho phép họ nắm giữ trường dữ liệu theo hình thức thứ cấp khai thác từ đó một sản phẩm tình báo bổ sung - Cô mỉm cười - Điều quan trọng là phần mềm của tôi cho phép họ đo được thân nhiệt của nước Mỹ.
- Tôi không hiểu lắm?
Trish bật cười.
- A nghe hơi kỳ cục, tôi biết. Y tôi định nói là nó định lượng trạng thái tình cảm của cả nước. Nó cung cấp một loại phong vũ biểu đo ý thức chung - Trish tiếp tục giải thích việc một người có thể đánh giá được tâm trang của đất nước như thế nào bằng cách sử dụng một trường dữ liệu về thông tin liên lạc của cả nước dựa trên “mật độ xuất hiện” một số từ khoá và chỉ số tình cảm nhất định trong trường dữ liệu ấy Những thời điểm vui vẻ sẽ có ngôn ngữ vui vẻ hơn, và những thời điểm căng thẳng thì ngược lại. Chẳng hạn, trong tình huống xảy ra một vụ tấn công khủng bố, chính phủ có thể sử dụng các trường dữ liệu để đo sự thay đổi trong tâm lý nước Mỹ và đưa ra lời khuyên tốt hơn cho Tổng thống về tác động tình cảm của sự kiện ấy.
- Rất lý thú, - Katherine nhận xét, tay xoa cằm - Và cô đang tiến hành kiểm nghiệm một nhóm các cá nhân… như là một chủ thể đơn nhất.
- Chính xác. Một siêu hệ thống. Một chủ thể đơn nhất được xác định bởi số lượng hợp phần của nó. Chẳng hạn, cơ thể người gồm hàng triệu tế bào riêng lẻ, mỗi tế bào có những thuộc tính và mục đích khác nhau, nhưng có chức năng như một chủ thể đơn nhất.
Katherine hào hứng gật đầu.
- Như một đàn chim hoặc đàn cá. Chúng tôi gọi đó là hội tự hoặc ràng buộc.
Trish cảm thấy vị khách nổi tiếng này bắt đầu nhìn thấy tiềm năng ứng dụng kỹ thuật lập trình siêu hệ thống vào lĩnh vực Lý trí học của mình.
- Phần mềm của tôi, - Trish giải thích - được thiết kế để giúp các cơ quan chính phủ đánh giá tốt hơn và phản ứng phù hợp với những cuộc khủng hoảng quy mô lớn như dịch bệnh, các thảm hoạ quốc gia, khủng bố, đại loại thế - Cô ngừng lại - Dĩ nhiên, luôn có khả năng sử dụng nó theo những hướng khác… chẳng hạn là nắm bắt nhanh trạng thái tâm lý quốc gia và dự đoán kết quả một cuộc bầu cử hoặc xu hướng vận động của thị trường chứng khoán vào thời điểm mở cửa.
- Tuyệt vời!
Trish ra hiệu về phía ngôi nhà rộng rãi của mình.
- Chính phủ cũng nghĩ vậy.
Giờ thì đôi mắt xám của Katherine tập trung hết vào cô.
- Trish, cho tôi hỏi về vấn đề đạo đức do công trình của cô đặt ra nhé?
- Ý chị là gì?
- Ý tôi là phần mềm của cô rất dễ bị lợi dụng. Kẻ sở hữu nó sẽ tiếp cận được với những thông tin rất quan trọng không phải ai cũng biết. Cô không cảm thấy do dự khi tạo ra nó ư?
Trish không hề chớp mắt.
- Hoàn toàn không. Phần mềm của tôi không khác gì hơn là… một chương trình mô hình tập bay trong ngành hàng không. Một số người sử dụng sẽ thực hành bay cho các nhiệm vụ cứu trợ tới các nước chậm phát triển. Một số người lại sử dụng để tập điều khiển máy bay chở khách lao vào các toà cao ốc. Kiến thức là một công cụ, và như tất cả các công cụ, tác động của nó tuỳ thuộc vào người sử dụng.
Katherine ngả người ra sau, vẻ rất ấn tượng.
Vậy cho phép tôi hỏi cô một câu hỏi giả định.
Trish đột nhiên cảm thấy cuộc trò chuyện của họ chuyển thành một buổi phỏng vấn tuyển dụng.
Katherine cúi xuống và nhặt một hạt cát nhỏ xíu dưới bàn và giơ lên cho Trish nhìn.
- Theo tôi hiểu, - cô nói - công trình siêu hệ thống ấy giúp cô tính toán được trọng lượng của cả một bãi biển toàn cát… bằng cách cân một hạt cát.
- Vâng, về cơ bản đúng như vậy.
- Cô biết đấy, hạt cát nhỏ bé này có khối lượng. Một khối lượng rất nhỏ, nhưng vẫn là khối lượng.
Trish gật đầu.
- Và vì hạt cát này có khối lượng nên nó có trọng lực. Tất nhiên, cũng rất nhỏ, nhưng vẫn có.
- Vâng.
- Vậy thì, - Katherine nói, - nếu chúng ta có hàng nghìn tỉ hạt cát thế này và để chúng hấp dẫn nhau nhằm tạo nên… ví dụ mặt trăng đi thì trọng lực kết hợp của chúng đủ để dịch chuyển toàn bộ các đại dương và tạo ra thuỷ triều lên xuống trên hành tinh chúng ta.
Trish không hiểu rõ câu chuyện sẽ đi đến đâu, nhưng cô thấy thích thú với những điều mình đang nghe.
- Giờ chúng ta cùng giả định nhé? - Katherine nói, tay phủi hạt cát đi -Nếu tôi bảo cô rằng một suy nghĩ… tức là bất kỳ ý tưởng nhỏ nhoi nào hình thành trong tâm trí chúng ta… trên thực tế cũng có khối lượng thì sao nào? Nếu một suy nghĩ là một vật chất thật sự, một thực thể đo đếm được, với một khối lượng đo đếm được thì sẽ sao? Dĩ nhiên, đó là một khối lượng vô cùng nhỏ, nhưng vẫn cứ là khối lượng. Vậy hàm ẩn ở đây là gì?
- Nói một cách giả định ư? Chà, hàm ẩn rõ nét là… nếu một suy nghĩ cũng có khối lượng thì nó sẽ có trọng lực và có thể hút mọi vật về phía nó.
Katherine mỉm cười.
- Cô cừ lắm. Giờ ta tiến thêm một bước nhé. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nhiều người cùng tập trung vào một suy nghĩ giống nhau? Tất cả những điều nảy ra từ những suy nghĩ đó sẽ hợp nhất lại, và khối lượng luỹ tích của suy nghĩ này bắt đầu tăng lên. Bởi vậy, trọng lực của nó cũng tăng lên.
- Đúng.
- Nghĩa là… nếu có đủ số người cùng nghĩ về một điều thì lực hấp dẫn của suy nghĩ đó trở nên hữu hình… tạo ra một lực thực sự - Katherine nháy mắt - Và có thể gây ra một ảnh hưởng đo đếm được lên thế giới vật chất của chúng ta đấy.
Hết chương 18

kiemanh
05-10-2010, 01:37 PM
Chương 19


Giám đốc Inoue Sato đứng khoanh tay, mắt nhìn xoáy vào Langdon đầy vẻ hoài nghi trong khi phân tích những điều anh vừa nói.
- Gã nói rằng gã muốn ông mở khoá một cánh cổng cổ xưa phải không? Vậy tôi nên làm gì với câu chuyện đó đây, thưa Giáo sư?
Langdon nhún vai yếu ớt. Anh lại cảm thấy suy sụp và cố gắng không nhìn xuống bàn tay dễ sợ của bạn mình.
- Gã đã nói với tôi chính xác như vậy. Một cánh cổng cổ xưa… ẩn giấu đâu đó trong toà nhà này. Tôi bảo gã rằng tôi chẳng biết cổng kiếc nào cả.
- Nhưng tại sao hắn lại nghĩ rằng ông có thể tìm thấy nó?
- Tại gã bị điên, rõ ràng thế - Gã nói rằng Peter sẽ chỉ đường.
Langdon nhìn xuống ngón tay duỗi thẳng của Peter, và lại ngán ngẩm trước cái kiểu vặn vẹo câu chữ đầy ác ý của vị đại diện nhà chức trách. Peter sẽ chỉ đường. Langdon đưa mắt nhìn theo hướng ngón tay trỏ thẳng lên mái vòm bên trên. Một cái cổng ư? Trên đó chăng? Đúng là điên rồ.
- Gã đàn ông đã gọi cho tôi, - Langdon bảo Sato - là kẻ duy nhất biết tôi đến Điện Capitol tối nay, vì vậy bất kỳ ai thông báo cho bà rằng tôi ở đây tối nay, thì đó chính là người bà cần. Tôi thấy…
- Tôi có được thông tin từ đâu không phải là chuyện của ông, - Sato ngắt lời, giọng đanh lại - ưu tiên cao nhất của tôi lúc này là hợp tác với người đó, và tôi được biết ông là người duy nhất đủ khả năng đáp ứng những điều anh ta muốn.
- Còn ưu tiên cao nhất của tôi là tìm ra bạn tôi, - Langdon ủ rũ đáp lại.
Sato hít một hơi dài, rõ ràng sự kiên nhẫn của bà ta đang bị thách thức.
- Nếu muốn tìm thấy Solomon, chúng ta cần hành động, thưa Giáo sư bắt đầu bằng cách hợp tác với người có vẻ như biết rõ ông ấy đang ở đâu - Sato nhìn đồng hồ - Thời gian rất eo hẹp. Tôi dám khẳng định với ông rằng chúng ta bắt buộc phải nhanh chóng làm theo những đòi hỏi của người đàn ông này.
- Bằng cách nào chứ? - Langdon hỏi, vẻ ngờ vực - Bằng cách xác định và mở một cách cổng cổ xưa ư? Làm gì có cánh cổng nào, thưa Giám đốc Sato. Thằng cha đó bị tâm thần rồi.
Sato bước lại gần, chỉ cách Langdon chưa đầy nửa mét.
- Biết nói thế nào nhỉ… sáng nay gã điên của ông đã khôn khéo thao túng hai nhân vật vô cùng thông minh đấy - Bà ta nhìn thẳng vào Langdon rồi liếc về phía Anderson - Trong nghề của tôi, ai cũng hiểu rằng giữa điên rồ và thiên tài chỉ có một ranh giới rất nhỏ. Cho nên ít nhiều chúng ta cũng nên ngả mũ cúi chào gã này!
- Gã đã cắt phăng bàn tay của một con người!
- Đúng như vậy. Đó không phải là hành vi của một người lương thiện. Nhưng quan trọng hơn, thưa Giáo sư, rõ ràng gã ta tin rằng ông có thể giúp gã. Gã tìm cách đưa ông tới Washington, và chắc chắn phải có lý do gã mới làm thế chứ?
- Lý do duy nhất khiến gã nghĩ tôi mở được “cánh cổng” là bởi chính Peter đã nói với gã như vậy! - Langdon phản biện.
- Tại sao Peter Solomon lại nói thế nếu điều đó không phải sự thật?
- Tôi tin chắc Peter chẳng nói gì hết, và nếu có nói, thì đó là vì ông ấy bị ép buộc, bị rối trí… hoặc bị đe doạ.
- Phải. Người ta gọi đó là tra tấn ép cung, và hình thức ấy khá hiệu quả. Càng có lý do để ngài Solomon buột ra sự thật - Sato bình phẩm, như thể rất nhiều kinh nghiệm về thủ pháp này - Gã kia có giải thích tại sao Peter nghĩ chỉ mình ông mở được cánh cổng không?
Langdon lắc đầu.
- Thưa Giáo sư, nếu đúng như danh tiếng của ông thì ông và Peter Solomon đều cùng quan tâm đến một đề tài, đó là các bí mật, các bí quyết lịch sử, chủ nghĩa thần bí, đại loại như vậy. Trong tất cả các cuộc thảo luận với ông, Peter chưa bao giờ nhắc nhở đến một cánh cổng bí mật ở Washington D.C. ư?
Langdon không thể tin nổi mình lại phải nghe câu hỏi này từ một sĩ quan cao cấp của CIA.
- Tôi khẳng định như vậy. Peter và tôi trao đổi khá nhiều chuyện huyền bí, nhưng hãy tin tôi, tôi sẽ khuyên ông ấy đi kiểm tra lại đầu óc nếu có lần nào nói với tôi về một cánh cổng ẩn giấu đâu đấy. Đặc biệt lại là cánh cổng dẫn tới những Bí ẩn cổ xưa.
Sato ngước nhìn lên.
- Sao cơ? Người kia có nói cụ thể là cánh cổng này dẫn tới cái gì à?
- Phải, nhưng gã không cần nói thẳng ra - Langdon ra dấu về phía bàn tay - Mật Thủ là giấy mời chính thức để đi qua một cánh cống huyền diệu và nhận lấy những tri thức cổ - những tri thức mạnh mẽ có tên Bí ẩn cổ xưa… hoặc là tri thức bị lãng quên của mọi thời đại.
- Tức là ông đã nghe nói đến bí mật mà gã kia tin rằng được cất giấu ở đây.
- Rất nhiều nhà sử học nghe nói đến nó.
- Thế vì sao mà anh dám khẳng định cánh cổng đó không hề tồn tại?
- Kính thưa bà, tất cả chúng ta đều nghe nói đến Suối nguồn Tươi trẻ và Shangri-la(35), nhưng điều đó không có nghĩa là những thứ ấy tồn tại.
Máy bộ đàm của Anderson đột ngột ré lên rất to làm ngắt lời họ.
- Chỉ huy? - giọng trên máy bộ đàm gọi.
Anderson giật bộ đàm ra khỏi thắt lưng.
- Anderson đây.
- Thưa Chỉ huy, chúng tôi đã tìm kiếm xong. Ở đây không có ai khớp với mô tả. Còn mệnh lệnh gì không, thưa Chỉ huy?
Anderson liếc nhanh về phía Sato, rõ ràng là chờ đợi một lời quở trách, nhưng Giám đốc OS dường như không để tâm. Anderson bước xa khỏi chỗ Langdon và Sato, nói khẽ vào máy bộ đàm.
Sato vẫn chú tâm vào Langdon.
- Theo ông, bí mật mà gã kia tin rằng đang cất giấu ở Washington… chỉ là tưởng tượng?
Langdon gật đầu.
- Đó là một truyền thuyết rất lâu đời. Đã hàng nghìn năm rồi, từ thời tiền Công giáo, người ta đã đồn đại về bí mật của những Bí ẩn cổ xưa.
- Nhưng truyền thuyết ấy vẫn tồn tại?
- Khối tín điều vô lý hơn còn tồn tại nữa là - Langdon thường nhắc nhở sinh viên của mình rằng hầu hết các tôn giáo hiện đại đều có những câu chuyện không dễ kiểm chứng về mặt khoa học: tất cả mọi chuyện, từ Moses rẽ nước Hồng Hải… đến Joseph Smith sử dụng cặp kính thần để dịch Kinh Mormon từ những tấm vàng mà ông ấy tìm thấy ở tiểu bang New York. Việc nhiều người chấp nhận mộtý tưởng không phải là bằng chứng về giá trị của nó.
- Tôi hiểu. Vậy đích xác thì những… Bí ẩn cổ xưa này là gì?
Langdon thở hắt ra. Bà có hẳn vài tuần rảnh rỗi không?
- Nói ngắn gọn, Bí ẩn cổ xưa là một tập hợp kiến thức bí ẩn được tích luỹ từ rất lâu rồi. Người ta tin rằng khía cạnh đáng chú ý nhất của vốn kiến thức này là giúp kẻ thực hành nó tiếp cận được phần sức mạnh đang nằm im trong trí não con người. Những nhà thông thái nắm giữ được kiến thức này đã thề giữ bí mật với quần chúng bởi vì nó quá mãnh liệt và nguy hiểm cho những ai không được khai tâm.
- Nguy hiểm thế nào?
- Thông tin được giấu kín vì lý do tương tự như ta không để trẻ nhỏ nghịch diêm vậy. Nếu tích cực thì lửa sẽ đem lại ánh sáng… nhưng ở khía cạnh tiêu cực, lửa có khả năng huỷ diệt gớm ghê.
Sato gỡ cặp kính và săm soi Langdon.
- Giáo sư hãy cho tôi biết liệu ông có tin rằng kiến thức hùng mạnh đó thực sự tồn tại không?
Langdon không biết phải trả lời thế nào. Các Bí ẩn cổ xưa luôn là nghịch lý lớn nhất trong sự nghiệp học thuật của anh. Thực ra, mọi truyền thống huyền bí trên Trái đất này đều xoay quanh một ý tưởng.
- Ý tưởng ấy chấp nhận sự tồn tại của một thứ tri thức bí truyền có khả năng đem lại cho nhân loại những sức mạnh thần bí, thậm chí siêu phàm, chẳng hạn cỗ bài bói và Kinh Dịch giúp con người tiên đoán tương lai; thuật giả kim mang lại sự bất tử thông qua Hòn đá Triết học(36) huyền thoại; Wicca(37) cho phép những người thực hành nó ở cấp cao tạo ra được các loại bùa chú đầy quyền năng. Bản danh sách ấy còn kéo dài mãi.
Là một học giả, Langdon không thể phủ nhận các tư liệu lịch sử về những truyền thống này, đó là văn bản, hiện vật, và nhiều công trình nghệ thuật ám chỉ rằng người cổ đại có vốn tri thức rất cao song chỉ chia sẻ qua các huyền tích, truyền thuyết và biểu tượng, nhằm bảo đảm rằng những người được khai tâm mới đủ khả năng tiếp cận sức mạnh của vốn tri thức ấy. Tuy nhiên, là một người có tư tưởng thực tiễn và luôn biết nghi ngờ, Langdon vẫn không thực sự bị thuyết phục.
- Xin nói rằng tôi là một người hay hoài nghi - anh bảo Sato - Tôi chưa bao giờ bắt gặp thứ gì trong thế giới thực tiễn cho thấy sự hiện hữu của Bí ẩn cổ xưa, chúng chỉ là truyền thuyết, là một nguyên mẫu huyền thoại lặp đi lặp lại. Theo tôi, nếu quả thực con người sở hữu những sức mạnh kỳ diệu thì phải có bằng chứng chứ. Nhưng cho đến nay, lịch sử chưa hề ghi nhận một ai có sức mạnh siêu phàm cả.
Sato nhướng mày.
- Điều đó không hoàn toàn đúng.
Langdon do dự, nhận ra rằng với những người theo đạo, trên thực tế vẫn có tiền lệ về các vị nhân thần mà Jesus là minh chứng rõ rệt nhất.
- Phải thừa nhận rằng rất nhiều người giàu kiến thức tin tưởng vào sự tồn tại của vốn tri thức cao siêu ấy, nhưng tôi thì không tin - anh nói.
- Có phải Peter Solomon cũng thuộc số đó không? - Sato hỏi, liếc xuống bàn tay vẫn nằm trên sàn nhà.
Langdon không dám nhìn theo ánh mắt Sato.
- Peter xuất thân từ một dòng họ luôn có niềm đam mê đối với tất cả những gì cổ xưa và huyền bí.
- Phải chăng đó là một lời khẳng định? - Sato hỏi.
- Tôi có thể quả quyết với bà rằng cho dù tin vào sự tồn tại của những Bí ẩn cổ xưa. Peter cũng không khi nào tưởng đến việc tiếp cận chúng thông qua một cánh cổng ở Washington D.C. này. Ông ấy hiểu rõ những biểu tượng ẩn dụ, điều mà kẻ bắt giữ ông ấy rõ ràng mù tịt.
Sato gật đầu.
- Vậy ông tin rằng cánh cổng này là một ẩn dụ.
- Dĩ nhiên, - Langdon đáp - về mặt lý thuyết. Nó là một ẩn dụ rất quen thuộc, một cánh cổng bí ẩn mà người ta phải đi qua đó để được khai sáng. Cổng và cửa ngõ là những kiến trúc biểu tượng quen thuộc của nghi thức khai tâm. Tìm kiếm một cánh cổng theo đúng nghĩa đen chẳng khác gì cố tìm cho ra Cổng Thiên đàng.
Sato lộ vẻ trầm ngâm.
- Nhưng dường như kẻ bắt giữ Solomon tin rằng ông sẽ mở được một cánh cổng có thật?
Langdon thở hắt ra.
- Gã phạm phải một sai lầm giống như nhiều kẻ cuồng tín khác, đó là lẫn lộn giữa ẩn dụ với hiện thực.
Tương tự, các nhà giả kim ngày xưa đã lao tâm khổ tứ một cách vô ích nhằm biến chì thành vàng mà không hề nhận ra rằng quá trình này là một ẩn dụ về việc khai thác những tiềm năng đích thực của con người, giúp biến cải tư duy u tối, kém hiểu biết thành một tư duy sáng láng hơn.
Sato ra dấu về phía bàn tay.
- Nếu gã này muốn ông xác định cho gã một cánh cổng nào đó thì tại sao gã không đơn giản là hỏi ông cách tìm nó? Tại sao phải bày ra hành động điên rồ này? Tại sao lại gửi cho ông một bàn tay xăm hình?
Langdon đã tự hỏi mình đúng những câu hỏi này và vẫn chưa tìm ra câu trả lời.
- Chà, dường như kẻ mà chúng ta đang phải truy tìm, ngoài sự bất ổn về tâm thần, còn là kẻ có học vấn rất cao. Bàn tay này là bằng chứng cho thấy gã khá am hiểu về các Bí ẩn cũng như chìa khoá bí mật của chúng. Đấy là chưa kể lịch sử của căn phòng này.
- Tôi không hiểu.
- Mọi thứ gã làm tối nay đều được tiến hành theo đúng quy trình cổ xưa. Theo truyền thống. Mật Thủ là một lời mời thiêng liêng, và do đó nó phải được đưa ra ở một địa điểm thiêng liêng.
Sato nheo mắt.
- Đây là Nhà tròn của Điện Capitol, thưa Giáo sư, không phải là thánh đường dẫn tới những bí mật huyền thoại xa xưa.
- Trên thực tế, thưa bà. - Langdon đáp - tôi biết rất nhiều nhà sử học sẽ không đồng ý với bà về câu nói vừa rồi.

***

Lúc ấy, ở bên kia thành phố, Trish Dunne ngồi lọt giữa những bức tường plasma của Khối vuông. Chuẩn bị xong con nhện tìm kiếm, cô gõ năm cụm từ khoá mà Katherine đã đưa.
Chẳng đi đến đâu cả cho mà xem.
Cảm thấy không mấy lạc quan, cô cho con nhện hoạt động, bắt đầu trò chơi Đi câu cực kỳ phổ biến. Chỉ trong chớp mắt, các cụm từ liền được so sánh với mọi nội dung văn bản trên khắp thế giới… để tìm ra một trường hợp trùng khớp hoàn toàn.

Trish không khỏi thắc mắc về thực chất của câu chuyện, nhưng cô đã chấp nhận rằng làm việc với gia đình Solomon có nghĩa là không bao giờ biết hết toàn bộ mọi việc.
Hết chương 19

kiemanh
05-10-2010, 01:37 PM
Chương 20


Robert Langdon lén nhìn đồng hồ một cách lo lắng: 7 giờ 58 phút tối. Gương mặt cười của chú chuột Mickey cũng chẳng làm anh vui lên bao nhiêu. Mình phải đi tìm Peter. Mình đang lãng phí thời gian.
Sato đã tránh sang bên một lát để gọi điện, nhưng giờ bà ta quay trở lại chỗ Langdon.
- Thưa Giáo sư, tôi đang làm ông nhỡ việc gì đó phải không?
- Không, thưa bà, - Langdon đáp, kéo ống tay áo phủ trùm lên đồng hồ - Tôi chỉ đang rất lo lắng cho Peter.
- Tôi hiểu, nhưng tôi quả quyết rằng hiện giờ điều tốt nhất ông làm được cho bạn ông là giúp tôi tìm hiểu ý đồ của kẻ bắt giữ Peter.
Langdon không dám chắc, nhưng anh cảm thấy anh chẳng thể đi đâu được cho tới khi vị Giám đốc OS có được thông tin mà bà ta muốn.
- Ban nãy, - Sato lên tiếng - ông nói rằng Nhà Tròn này có phần thiêng liêng hợp với ý tưởng về các Bí ẩn cổ xưa?
- Vâng, thưa bà.
- Hãy giải thích cho tôi xem nào?
Langdon biết anh sẽ phải lựa chọn ngôn từ thật đơn giản. Anh đã dạy nhiều học kỳ về các biểu tượng huyền bí của Washington D.C., chỉ riêng toà nhà này thôi đã đủ liệt kê một danh sách bất tận những chi tiết tham khảo.
Quá khứ của nước Mỹ còn chứa khá nhiều bí mật

Mỗi lần Langdon giảng về biểu tượng học của nước Mỹ, đám sinh viên lại ngạc nhiên vì biết rằng ý định thực sự của các vị tiền bối lập quốc chẳng mảy may liên quan với những điều mà nhiều chính trị gia ngày nay tuyên bố.
Vận mệnh tiền định của nước Mỹ đã chìm nghỉm trong lịch sử

Thoạt đầu, các vị tiền bối sáng lập đặt tên thành phố này là “Rome”, đặt tên con sông chảy qua đây là Tiber và dựng lên một thủ đô với nhiều đền thờ và thánh điện, tất cả đều được trang trí bằng hình ảnh của các vị thần vĩ đại trong lịch sử như Apollo, Minerva, Venus, Helios, Vulcan, Jupiter. Ở trung tâm thành phố, giống như nhiều thành phố cổ đại khác, họ xây dựng một cột tháp Ai Cập để làm lễ vật vĩnh cửu dâng hiến cổ nhân. Cột tháp ấy còn đồ sộ hơn cả cột tháp ở Cairo hay Alexandria, vươn tới độ cao 166,5 mét với hơn 30 tầng, thể hiện lời cảm tạ và kính trọng đối với vị cha già mà thành phố thủ đô này đang mang tên.
Washington.

Giờ đây, sau nhiều thế kỷ, bất chấp sự phân chia tôn giáo và thành bang của nước Mỹ, Nhà tròn vẫn lấp lánh những biểu tượng tôn giáo cổ xưa. Có cả tá thần thánh ở đây, nhiều hơn cả Đền Pantheon nguyên bản bên Rome. Dĩ nhiên, đền Pantheon của người La Mã đã bị cải sang Thiên Chúa giáo từ năm 609… nhưng đền Pantheon Hoa Kỳ thì chẳng bao giờ bị cải giáo cả, mọi dấu tích về lịch sử đích thực của nó vẫn nguyên vẹn như xưa.
- Có thể bà đã biết, - Langdon nói - Nhà tròn được thiết kế như vật hiến tế cho một trong những thánh điện huyền bí tôn nghiêm nhất thành Rome. Đền thờ Vesta(38).
- Như các vũ nữ ấy hả? - Xem ra Sato không tin nổi những trinh nữ canh giữ ngọn lửa lại có gì đó liên quan đến Điện Capitol ở Hoa Kỳ.
- Đền Vesta ở Rome mang hình tròn, - Langdon đáp - với một lỗ to trên sàn nhà, nơi các vũ nữ canh giữ ngọn lửa khai sáng linh thiêng. Nhiệm vụ của họ là giữ cho ngọn lửa không bao giờ tắt.
Sato nhún vai.
- Nhà tròn này quả đúng là hình tròn, nhưng tôi chẳng thấy cái lỗ nào trên sàn nhà cả.
- Không, làm gì còn nữa, nhưng có thời chính giữa căn phòng này có một cái lỗ lớn. Ở đúng vị trí bàn tay của Peter bây giờ - Langdon trỏ xuống sàn - Thực ra, bà vẫn tìm thấy trên sàn các dấu vết của hàng rào chắn bảo vệ mọi người khỏi bị ngã xuống lỗ đấy.
- Sao cơ? - Sato hỏi, chăm chú ngó sàn nhà - Tôi chưa bao giờ nghe nói đến điều đó.
- Có lẽ ông ấy nói đúng - Anderson trỏ một vòng núm sắt từng là vị trí các cọc lan can - Tôi trông thấy những thứ này đã bao lần, nhưng chẳng hiểu nổi tác dụng của chúng là gì.
Đâu phải chỉ riêng ông, Langdon nghĩ, hình dung ra hàng nghìn người, kể cả những nghị sĩ tiếng tăm, hằng ngày qua lại trung tâm Nhà tròn mà không hề biết rằng đã có thời, nếu đi như thế thì họ sẽ rơi tõm xuống Hầm ngầm Điện Capitol ngay bên dưới.
- Cái lỗ hổng trên nền bị lấp rồi - Langdon giải thích - Nhưng trước đây khách tới thăm Nhà tròn có thể nhìn thẳng xuống ngọn lửa cháy sáng ở bên dưới.
Sato quay lại.
- Lửa à? Ngay trong Điện Capitol ư?
- Giống như một ngọn đuốc khổng lồ ấy mà. Một ngọn lửa vĩnh cửu cháy sáng ở hầm ngầm ngay dưới chân chúng ta đây. Lổ hổng nhìn xuống ngọn lửa, khiến gian phòng giống một Đền thờ Vesta hiện đại. Thậm chí còn có hẳn một Vu nữ ở toà nhà này, một nhân viên liên bang gọi là Vu nữ Nhà hầm. Bà ta trông nom cho ngọn lửa cháy sáng suốt năm mươi năm trời, tới tận khi chính trị, tôn giáo và tác hại của khói khiến người ta buộc phải chấm dứt việc đốt lửa.
Cả Anderson và Sato đều tỏ ra ngạc nhiên.
- Ngày nay, thứ duy nhất gợi nhớ ngọn lửa một thời cháy sáng là chiếc la bàn hình ngôi sao bốn cánh gắn trên sàn nhà hầm, ở tầng dưới nơi họ đứng, tượng trưng cho ngọn lửa vĩnh cửu từng toả ánh sáng ra cả bốn hướng Tân Thế giới của nước Mỹ.
- Theo luận điểm của Giáo sư thì cái gã đã để bàn tay của Peter ở đây biết tất cả những tình tiết đó? - Sato chất vấn.
- Rõ ràng là như vậy, và còn biết hơn thế. Trong phòng này, có rất nhiều biểu tượng thể hiện niềm tin về những Bí ẩn cổ xưa.
- Tri thức bí mật, - Sato nói tiếp, giọng pha sự châm chọc - Kiến thức dẫn dắt con người tới những sức mạnh thần thánh, phải không?
- Vâng thưa bà.
- Nhưng điều đó không thích hợp lắm với nền tảng Thiên Chúa giáo của nước ta.
- Có lẽ thế, nhưng nó vẫn cứ đúng. Quá trình biến cải một con người thành một vị thần được gọi là phong thánh. Cho dù quý vị có biết về chủ đề biến cải người thành thần hay không thì nó vẫn là yếu tố cốt lõi trong hệ thống biểu tượng của Nhà tròn.
- Phong thánh ư? - Anderson vọt miệng, với vẻ mặt thảng thốt thừa nhận.
- Phải - Anderson làm việc ở đây. Ông ta biết rõ - Từ phong thánh (apotheosis) theo nghĩa đen là “quá trình biến cải thần thánh” quá trình một người thường trở thành thần linh. Nó xuất phát từ ngôn ngữ Hy Lạp cổ: apo là “trở thành” và theos là “thần thánh”.
Anderson có vẻ rất ngạc nhiên.
- Phong thánh nghĩa là “trở thành thần” à? Vậy mà tôi không biết.
- Còn gì nữa thế? - Sato chất vấn.
- Thưa bà, - Langdon đáp - bức vẽ lớn nhất trong toà nhà này có tên Sự phong thánh của Washington, và nó mô tả rất rõ George Washington đang được biến cải thành một vị thần.
Sato tỏ vẻ không tin.
- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì tương tự.
- Thực lòng, tôi tin chắc bà đã thấy rồi - Langdon chỉ ngón trỏ thẳng lên trên - Nó ở ngay trên đầu bà đấy.

Chú thích:
(38) Trong thần thoại La Mã. Vesta là nữ thần đồng trinh của lò sưởi, nhà và gia đình. Vesta thường được hình tượng hoá bằng ngọn lửa thiêng cháy tại các đền thờ của bà - ND.
Hết chương 20

kiemanh
10-10-2010, 05:06 PM
Chương 21


Bức Sự phong thánh của Washington, do Constantino Brumidi hoàn thiện năm 1865, là một bức bích hoạ rộng gần 420 mét vuông phủ kín trần Nhà tròn.

Được mệnh danh là “Michelangelo của Điện Capitol”, Brumidi tuyên bố mình có khả năng trang trí Nhà tròn điện Capitol y như Michelangelo đã làm với Nhà nguyện Sistine bằng cách vẽ một bức bích hoạ lên tấm toan cao nhất gian phòng, tức trần nhà của nó. Cũng như Michelangelo, Brumidi đã thực hiện các tác phẩm tuyệt đẹp của mình ở Vatican. Tuy nhiên, Brumidi di cư sang Mỹ năm 1852, bỏ thánh điện lớn nhất của Chúa để đến với một thánh điện mới, Điện Capitol, công trình giờ đây kiêu hãnh với những tác phẩm bậc thầy của ông - từ bức tranh vẽ như thật ở Hành lang Brumidi(39) tới trụ ngạnh trần phòng Phó Tổng thống. Nhưng chính bức tranh khổng lồ trải kín Nhà tròn Điện Capitol mới được hầu hết các sử gia coi là kiệt tác của Brumidi.

Robert Langdon ngước nhìn bức bích hoạ phủ kín trần nhà. Anh thường thích thú quan sát phản ứng kinh ngạc của sinh viên trước hình ảnh kỳ lạ trong tranh, nhưng lúc này đây, anh chỉ thấy bế tắc vì một cơn ác mộng không sao lí giải nổi.
Giám đốc Sato đứng bên cạnh, tay chống nạnh, cau mày nhìn trần nhà cao tít bên trên. Langdon cảm nhận được bà ta cũng có phản ứng như bao người lần đầu dừng bước ngắm bức tranh ở ngay trái tim nước Mỹ…

Hoàn toàn bối rối.

Không chỉ riêng bà đâu, Langdon nghĩ thầm. Với hầu hết mọi người, càng ngắm Sự phong thánh của Washington, họ càng thấy nó lạ lùng.
- George Washington ở ngay trung tâm ấy. - Langdon nói, trỏ lên phần chính giữa mái vòm cao tới hơn 50 mét - Các vị thấy đấy, ông mặc áo choàng trắng, đang bước lên mây, dưới đám mây là một người thường, mười ba thiếu nữ hộ tống theo sau. Đây chính là thời điểm phong thánh… là quá trình Washington biến thành thần linh.
Sato và Anderson không nói năng gì.
- Gần đó - Langdon tiếp tục - các vị có thể thấy một loạt nhân vật xa xưa, lạ lùng: đó là các vị thần cổ đại. Họ đang trao cho cha ông chúng ta những tri thức tiên tiến. Kia là thần Minerva, đang truyền cảm hứng công nghệ cho các nhà phát minh vĩ đại như Ben Franklin, Robert Fulton, Samuel Morse - Langdon lần lượt chỉ rõ từng nhân vật - Trên kia, thần Vulcan giúp chúng ta tạo ra cỗ máy hơi nước. Cạnh đó, thần Neptune giảng giải cách đặt đường cáp xuyên đại dương. Kế bên là thần Ceres, nữ thần ngũ cốc và là nguồn gốc tạo ra từ ngũ cốc (cereal), bà ngồi trên chiếc máy gặt McCormick, công trình mang tính đột phá trong nông nghiệp, giúp Hoa Kỳ trở thành nước sản xuất lương thực hàng đầu thế giới. Bức tranh này công khai khắc hoạ cảnh tiền nhân của chúng ta tiếp nhận nguồn tri thức lớn lao từ các thần linh - Anh cúi đầu, nhìn Sato - Tri thức là một sức mạnh, và tri thức đúng đắn giúp con người thực hiện được những điều kỳ diệu, những nhiệm vụ phi thường.
Sato thu ánh mắt, nhìn trả Langdon và xoa xoa gáy.
- Lắp đặt đường cáp điện thoại thì liên quan gì đến việc làm thần!
- Có lẽ đúng như vậy với một người hiện đại, - Langdon đáp - Nhưng với George Washington, nếu biết chúng ta có khả năng trò chuyện với mọi người tận bên kia đại dương, bay nhanh bằng tốc độ âm thanh và đặt cả chân lên mặt trăng thì ông ấy sẽ cho rằng việc làm của chúng ta thật kỳ diệu, và tưởng chúng ta đều thành thần tiên cả rồi - Anh ngừng một lúc - Nhà Vị lai chủ nghĩa Arthur C. Clarke từng nói, “Các công nghệ tiên tiến chẳng khác biệt phép màu là mấy”.
Sato mím môi, rõ ràng đang suy nghĩ rất ghê. Bà ta liếc xuống bàn tay, rồi nhìn theo hướng ngón trỏ duỗi thẳng lên mái vòm.
- Giáo sư, gã đó bảo ông là “Peter sẽ chỉ đường”. Phải vậy không nhỉ?
- Vâng, thưa bà, nhưng…
- Chỉ huy, - Sato nói, rời mắt khỏi Langdon - anh có thể giúp chúng tôi quan sát bức tranh gần hơn được không?
Anderson gật đầu.
- Có một lối đi hẹp chạy vòng xung quanh bên trong mái vòm.
Langdon ngước nhìn cái lan can nhỏ xíu ngay bên dưới bức vẽ và cảm thấy toàn thân cứng đờ.
- Không cần phải lên tận đó đâu.
Trước đây, anh đã từng bước trên lối đi hẹp ít người thăm viếng đó cùng một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ và vợ ông ta, anh gần như ngất xỉu do chóng mặt trước độ cao quá lớn và lối đi quá nguy hiểm.
- Không cần sao? - Sato gặng hỏi - Giáo sư, chúng ta biết có kẻ cho rằng căn phòng này chứa đựng một cánh cổng khả dĩ giúp gã trở thành thần thánh; chúng ta có một bức bích hoạ mô tả quá trình thay đổi của một con người thành một vị thần, và chúng ta có một bàn tay chỉ thẳng lên bức vẽ đó. Dường như tất cả mọi chi tiết đều giục chúng ta đi lên trên.
- Thực ra, - Anderson xen vào, mắt ngước nhìn trần - ít người biết rằng có một khoang bát giác bên trong mái vòm, mở ra mở vào được như một cánh cổng, quý vị có thể nhìn qua đó và…
- Khoan đã, - Langdon nói - ông nhầm đường rồi đấy. Cánh cổng mà gã kia đang tìm kiếm là một cánh cổng tượng trưng, một cánh cổng không tồn tại. Khi gã nói “Peter sẽ chỉ đường”, là gã đang ẩn dụ. Động tác chỉ tay với ngón trỏ và ngón cái chĩa thẳng lên trên là một biểu tượng quen thuộc của những Bí ẩn cổ xưa, từng hiển hiện trong nghệ thuật cổ đại trên khắp thế giới. Động tác y hệt như thế này từng xuất hiện trong ba kiệt tác mã hoá nổi tiếng nhất của Leonardo da Vinci là Bữa tiệc Ly, Sùng bái Magi và Thánh John Người rửa tội. Nó là một biểu tượng về sự liên hệ huyền bí giữa con người với Chúa.
Thương hạ tương liên. Giờ đây, cách lựa chọn từ ngữ kỳ quái của gã điên bắt đầu hé lộ đôi phần hữu lý.
- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó cả. - Sato nói.
Vậy thì hãy xem kênh ESPN, Langdon nghĩ bụng, anh luôn thích thú khi thấy những vận động viên chuyện nghiệp chỉ tay lên trời để cảm tạ Chúa sau khi ghi bàn hoặc về đích. Anh tự hỏi liệu có bao nhiêu người biết rằng họ đang tiếp tục một truyền thống từ thời tiền Công giáo là cảm ơn sức mạnh huyền bí của bề trên, nguồn sức mạnh mà trong một thời khắc ngắn ngủi đã biến cải họ thành một vị thần có khả năng thực hiện những điều kỳ diệu.
- Tôi tiết lộ một điều may ra có ích cho bà chăng, - Langdon nói - bàn tay của Peter không phải là bàn tay đầu tiên xuất hiện kiểu này trong Nhà tròn.
Sato nhìn Langdon như nhìn một người mất trí.
- Ông nói sao cơ?
Langdon chỉ chiếc điện thoại Blackberry của Sato.
- Hãy tìm cụm từ “George Washington Zeus” trên Google thử xem.
Sato có vẻ không tin tưởng lắm nhưng vẫn bấm bàn phím.
Anderson nhích lại gần, chăm chú nhìn qua vai bà ta.
Langdon nói:
- Nhà tròn này từng có một bức điêu khắc rất lớn hình George Washington để ngực trần… được khắc hoạ như một vị thần. Ông ngồi theo tư thế giống thần Zeus trong đền Pantheon, ngực trần, tay trái cầm một thanh kiếm, tay phải giơ lên với ngón cái và ngón trỏ duỗi ra.
Rõ ràng Sato đã tìm thấy một bức hình trên mạng, bởi vì Anderson đang đăm đăm nhìn chiếc Blackberry của bà ta, vẻ kinh ngạc.
- Xem nào, đó là George Washington ư?
- Phải, - Langdon nói - Được mô tả như thần Zeus.
- Nhìn tay ông ấy kìa, - Anderson nói, vẫn ngó đăm đăm qua vai Sato - Tay phải ông ấy ở tư thế y hệt như tay Solomon.
Thì tôi đã nói đấy thôi, Langdon nghĩ thầm, tay Peter không phải là Mật Thủ đầu tiên xuất hiện trong căn phòng này. Khi pho tượng George Washington cởi trần của Horatio Greenough được trưng bày lần đầu tại Nhà tròn, nhiều người đã đùa rằng chắc Washington đang cố lên trời để tìm vài bộ quần áo. Tuy nhiên, khi quan niệm tôn giáo của nước Mỹ thay đổi thì những lời bình phẩm bông đùa lại biến thành tranh cãi, và pho tượng bị dời tới một nhà kho trong khu vườn phía đông. Hiện nay, nó ngự tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia của Viện Smithsonian, nơi ai nhìn thấy cũng phải tin ngay rằng nó là một trong những mối hên hệ cuối cùng với thời đại Washington, khi người cha của đất nước nhìn xuống Điện Capitol như một vị thần… chẳng khác gì thần Zeus nhìn xuống đền Pantheon.
Sato bấm một số nào đó trên chiếc Blackberry, rõ ràng nhận thấy đã đến lúc phải kiểm tra với nhân viên của mình.
- Các anh tìm được gì? - Bà ta lắng nghe một cách kiên nhẫn - Tôi hiểu… - đoạn nhìn thẳng vào Langdon, sau đó đưa mắt sang bàn tay Peter - Anh chắc chứ? - Sato nghe một lúc lâu hơn - Được rồi, cảm ơn - Cuối cùng bà ta tắt máy và quay lại phía Langdon.
- Nhân viên hỗ trợ của tôi đã làm một số nghiên cứu và xác nhận sự tồn tại của cái mà ông gọi là Mật Thủ, chứng thực mọi điều ông kể: từ năm dấu hiệu trên đầu ngón tay là ngôi sao, mặt trời, chìa khoá, vương miện và đèn ***g đến thực tế rằng bàn tay này là một lời mời cổ xưa để nắm bắt tri thức bí mật.
- Tôi rất mừng, - Langdon đáp.
- Đừng vội, - bà ta đáp lại cộc lốc - Chúng ta lâm vào đường cùng rồi, trừ phi ông bằng lòng hé lộ hết những điều ông đang che giấu.
- Thưa bà?
Sato bước tới gần anh.
- Chúng ta lại trở về điểm xuất phát, thưa Giáo sư. Ông cung cấp cho tôi toàn những điều tôi có thể tham khảo được từ các nhân viên của mình. Vì thế tôi phải hỏi ông lần nữa. Tại sao người ta dụ ông tới đây tối nay? Điều gì khiến ông trở thành trường hợp đặc biệt? Điều gì ông biết mà người khác không biết?
- Chúng ta đã nói hết lúc nãy rồi, - Langdon phản đối - Tôi không hiểu tại sao gã này lại cho rằng tôi biết điều gì đó.
Langdon rất muốn gặng hỏi làm thế quái nào mà Sato lại hay tin anh có mặt ở Điện Capitol tối nay, nhưng anh không đề cập đến.
Chẳng đời nào Sato nói ra.
- Nếu tôi biết bước tiếp theo; - anh bảo - tôi sẽ nói với bà. Nhưng tôi không biết. Theo truyền thống, Mật Thủ là do đại sư đưa cho môn đệ. Và sau đó, rất nhanh sau đó, một loạt chỉ dẫn sẽ xuất hiện tiếp theo bàn tay… chỉ dẫn về bất cứ thứ gì, chẳng hạn về đền thờ, về tên ồng thầy sẽ dạy dỗ người đó. Nhưng gã này chỉ để lại cho chúng ta năm hình xăm? Khó lòng… - Chợt Langdon ngừng bặt.
Sato nhìn anh.
- Có chuyện gì thế?
Ánh mắt Langdon dõi trở lại bàn tay. Năm hình xăm. Anh bỗng nhận ra rằng những gì mình đang nói có thể không hoàn toàn đúng.
- Giáo sư? - Sato gọi giật giọng.
Langdon nhích dần về phía cái vật ghê gớm kia. Peter sẽ chỉ đường.
- Tôi sực nảy ra ý nghĩ rằng gã điên có để lại một thứ gì đó trong bàn tay nắm chặt kia, một bản đồ, một lá thư, hoặc một vài chỉ dẫn.
- Không có đâu, - Anderson góp ý - Các vị thấy đấy, ba ngón tay nắm không chặt lắm.
- Ông nói đúng, - Langdon đồng ý - Nhưng với tôi… - Anh cúi rạp xuống, cố gắng nhìn phía dưới các ngón tay để xem phần lòng bàn tay bị che khuất của Peter - nó không nhất thiết phải viết trên giấy.
- Viết bằng hình xăm chăng? - Anderson nói.
Langdon gật đầu.
- Ông có nhìn thấy gì trên lòng bàn tay không? - Sato hỏi.
Langdon cúi xuống thấp hơn, cố nhìn lên phần bên dưới các ngón tay nắm hờ.
- Góc này khó nhìn quá. Tôi không tài nào…
- Ôi chao - Sato thốt lên và bước lại gần anh - Cứ nậy cái vật khốn kiếp ấy ra.
Anderson bước tới chắn đường bà ta.
- Thưa bà! Nên đợi pháp y rồi hẵng chạm…
- Tôi muốn có câu trả lời - Sato đáp, bước nhanh qua viên Chỉ huy.
Bà ta cúi rạp xuống, gạt Langdon ra xa bàn tay.
Langdon đứng lên và như không tin vào mắt mình khi thấy Sato rút từ trong túi ra một cây bút, cẩn thận luồn nó xuống dưới ba ngón tay co quắp. Sau đó, bà ta lần lượt cạy các ngón tay lên cho tới khi bàn tay mở hoàn toàn. Lòng bàn tay phơi ra rất rõ.
Sato ngước mắt nhìn Langdon, gương mặt thoáng nụ cười.
- Lại đúng nữa, thưa Giáo sư.

Chú thích:
(39) Hành lang Brumidi là phần hành lang uốn vòm được trang trí công phu thuộc tầng 1 của khu Thượng viện trong Điện Capitol.

hết Chương 21

kiemanh
10-10-2010, 05:07 PM
Chương 22


Katherine rảo bước trong thư viện, kéo ống tay áo bờ-lu và nhìn đồng hồ. Cô vốn không quen chờ đợi, nhưng lúc này, thế giới quanh cô như ngưng đọng cả rồi. Cô đang đợi kết quả tìm kiếm của Trish, đợi tin từ anh trai mình, và đợi cả cuộc gọi lại từ kẻ chịu trách nhiệm về toàn bộ tình trạng rối bời này.
Ước gì anh ta đừng nói với mình, Katherine nghĩ bụng. Bình thường, cô hết sức thận trọng trong chuyện kết giao, nhưng dù lúc chiều mới gặp người đàn ông đó lần đầu, cô đã thấy tin cậy anh ta chỉ sau vài phút. Tin hoàn toàn.
Anh ta gọi đến khi Katherine đang tận hưởng niềm vui thường lệ chiều Chủ nhật là theo dõi các tờ tạp chí khoa học trong tuần.
- Bà Solomon phải không ạ? - giọng nói nhẹ nhàng khác thường cất lên - Tôi là Bác sĩ Christopher Abaddon. Tôi hy vọng được trao đổi một lát về anh trai bà.
- Xin lỗi, ai thế nhỉ? - Katherine gặng hỏi, và làm thế nào ông ta lại có số điện thoại di động riêng của mình?
Bác sĩ Christopher Abaddon.
Katherine không có chút ấn tượng nào với cái tên này.
Người kia hắng giọng, cứ như thể vừa rơi vào tình huống lúng túng khó xử.
- Tôi xin lỗi, thưa bà Solomon. Tôi cứ đinh ninh anh trai bà đã kể với bà về tôi rồi chứ. Tôi là bác sĩ của Peter. Số điện thoại di động của bà nằm trong danh sách liên hệ khẩn cấp của ông ấy.
Tim Katherine như ngừng lại. Liên hệ khẩn cấp ư?
- Có chuyện gì không ổn à?
- Không… tôi không nghĩ vậy, - người kia đáp - Anh trai bà lỡ hẹn sáng nay, và tôi không thể liên lạc được bằng bất kỳ số nào của ông ấy. Peter chưa bao giờ lỡ hẹn mà không thông báo, và tôi thấy hơi lo. Tôi phân vân lắm trước khi gọi điện cho bà, nhưng…
- Không, không sao đâu, tôi rất biết ơn sự lo lắng của ông - Katherine vẫn cố gắng nhớ xem đã nghe đến tên người bác sĩ này chưa - Suốt từ sáng hôm qua tới giờ tôi chưa nói chuyện với Peter, nhưng chắc là do anh ấy quên bật điện thoại di động.
Gần đây Katherine có tặng cho anh mình một chiếc iPhone và ông vẫn chưa có thời gian để tìm hiểu cách sử dụng nó.
- Ông là bác sĩ của anh ấy à? - cô hỏi. Phải chăng Peter bị bệnh anh nhưng lại giấu mình?
Đường dây lặng đi một lúc.
- Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng tôi đã phạm một sai lầm nghề nghiệp khá nghiêm trọng khi gọi cho bà. Peter bảo tôi rằng bà đã biết việc ông ấy đến chỗ tôi, nhưng giờ thì tôi biết là không phải như vậy.
Anh trai mình nói dối bác sĩ riêng ư? Katherine càng thêm lo âu.
- Anh ấy bị ốm à?
- Tôi xin lỗi, bà Solomon, nguyên tắc giữ bí mật giữa bác sĩ và bệnh nhân không cho phép tôi công khai tình trạng của anh trai bà, và tôi đã trót nói quá nhiều khi thừa nhận rằng ông ấy là bệnh nhân của tôi. Giờ tôi sẽ gác máy, nhưng nếu hôm nay bà liên lạc được với Peter, xin nhắc ông ấy gọi cho tôi để tôi biết là ông ấy vẫn ổn.
- Đợi một chút? - Katherine vội nói - Hãy cho tôi biết Peter gặp chuyện gì!
Bác sĩ Abaddon thở hắt ra, chừng như khó chịu vì sai lầm của mình.
- Bà Solomon, tôi có thể thấy rằng bà không vui, nhưng tôi không dám trách bà. Tôi xin khẳng định anh trai bà ổn thôi. Ông ấy chỉ vừa mới tới chỗ tôi ngày hôm qua.
- Hôm qua ư? Và anh ấy lại hẹn tiếp vào hôm nay à? Có vẻ gấp gáp quá nhỉ.
Người kia thở dài.
- Tôi nghĩ chúng ta nên dành cho Peter đôi chút thời gian rồi hãy…
- Tôi sẽ đến chỗ bác sĩ ngay bây giờ, - Katherine nói, rảo chân đi ra cửa - Bác sĩ ở chỗ nào nhỉ?
Im lặng.
- Bác sĩ Christopher Abaddon? - Katherine gọi - ông hãy cho tôi biết địa chỉ, hoặc tôi sẽ tự tra ra. Bằng cách nào thì tôi cũng sẽ đến chỗ ông thôi.
Người bác sĩ ngập ngừng.
- Nếu muốn tôi gặp, thưa bà Solomon, xin bà vui lòng đừng nói gì với Peter cho tới khi tôi có cơ hội giải thích sơ suất của mình được không?
- Vâng.
- Cảm ơn bà. Văn phòng của tôi ở Kalorama Heights - Anh ta đưa cho cô địa chỉ.
Hai mươi phút sau, Katherine Solomon đã có mặt trên những con phố trang nghiêm của khu Kalorama Heights. Cô đã gọi tới tất cả các số điện thoại của anh trai mình nhưng đều không thấy trả lời. Cô không cảm thấy quá lo lắng chuyện anh trai cô đang ở đâu, trái lại, việc anh ấy bí mật tới gặp một bác sĩ… mới là vấn đề.
Khi tìm được địa chỉ, Katherine ngơ ngác ngước nhìn toà nhà. Đây mà là phòng khám của một bác sĩ ư?
Toà tư gia sang trọng trước mắt cô nằm trong hàng rào bảo vệ bằng sắt rèn, lắp nhiều camera điện tử và có những khoảnh vườn tươi tốt. Katherine đang giảm tốc độ để kiểm tra địa chỉ cho chắc chắn thì một chiếc máy quay xoay về phía cô, và cánh cổng mở ra. Katherine ngập ngừng cho xe chạy vào và đỗ cạnh một chiếc Limousine dài, gần đó là một ga-ra đủ chỗ cho sáu chiếc xe.
Anh chàng này là bác sĩ gì không biết?
Lúc Katherine bước ra khỏi xe, cửa trước toà nhà mở ra và một nhân vật lịch lãm xuất hiện. Anh ta khá điển trai, cao lớn, và trẻ hơn cô hình dung. Mặc dù vậy, ở anh ta lại toát ra vẻ tinh tế và phong nhã thường thấy ở lứa già dặn hơn. Anh ta ăn mặc rất chỉnh tề comple sẫm màu thắt cà vạt hẳn hoi, mái tóc vàng dày uốn chải rất công phu.
- Bà Solomon, tôi là bác sĩ Christopher Abaddon. - anh ta lên tiếng, giọng chỉ như tiếng thì thầm.
Khi họ bắt tay nhau, Katherine nhận thấy làn da anh ta trơn mịn và được chăm sóc rất cẩn thận.
- Tôi là Katherine Solomon, - Katherine đáp, cố gắng không nhìn chằm chằm vào làn da nhẵn nhụi và bóng mịn một cách khác thường của người bác sĩ. Hình nhanh ta có hoá trang thì phải?
Khi Katherine bước vào phòng đợi được bài trí rất đẹp, nỗi bất an trong lòng cô bỗng tăng thêm. Nhạc cổ điển ngân nga êm dịu, và không khí toả mùi thơm như có người vừa đốt hương.
- Tuyệt vời thật - cô nhận xét - mặc dù nó không giống kiểu phòng khám mà tôi hình dung.
- Tôi có may mắn là làm việc ngay tại tư gia - Người kia dẫn Katherine vào phòng khách, nơi có đống lửa đang tí tách cháy - Xin bà cứ tự nhiên. Tôi đi pha trà. Tôi sẽ mang ra ngay để chúng ta còn nói chuyện - Anh ta rảo bước về phía bếp và biến mất.
Katherine Solomon chưa ngồi ngay. Trực giác của phụ nữ là một bản năng mạnh mẽ mà cô rất tin tưởng, và ở nơi này có gì đó làm cô gai người. Không một chi tiết nào gợi liên tưởng đến phòng khám của một bác sĩ như cô từng gặp. Phòng khách được trang hoàng toàn đồ cổ những tác phẩm nghệ thuật cổ điển phủ kín các bức tường, chủ yếu là tranh vẽ với nhiều chủ đề thần thoại rất lạ. Katherine dừng lại trước một tấm toan lớn hoạ Ba Kiều nữ với những tấm thân để trần, thể hiện rất ấn tượng nhờ các màu sắc sống động.
- Đó là bức sơn dầu nguyên bản của Michael Parkes - Bác sĩ Abaddon im lìm xuất hiện ngay bên cạnh Katherine, tay bưng một khay trà đang bốc khói - Tôi nghĩ chúng ta nên ngồi gần bếp lửa? - Anh ta dẫn cô qua phòng khách và mời cô ngồi - Không có gì phải lo lắng cả đâu.
- Tôi không lo lắng, - Katherine đáp lại, có phần hấp tấp.
Người chủ nhà mỉm cười trấn an.
- Thật ra, công việc của tôi là biết khi nào thì người khác lo lắng.
- Bác sĩ nói sao cơ?
- Tôi là bác sĩ tâm lý, thưa bà Solomon. Đó là chuyên môn của tôi.
- Tôi đã gặp gỡ anh trai bà được ngót một năm nay. Tôi là chuyên gia trị liệu của ông ấy.
Katherine thừ người. Anh trai mình đang phải trị liệu ư?
- Bệnh nhân nào chẳng tìm cách giữ bí mật việc điều trị của mình, - người đàn ông nói - Tôi thật sai lầm khi gọi cho bà, mặc dù nếu bao biện thì đúng là tại anh bà mà tôi mới nhầm lẫn như vậy.
- Tôi… tôi không hề hay biết.
- Tôi xin lỗi nếu khiến bà lo lắng, - người đàn ông nói, vẻ lúng túng - Tôi nhận ra bà chú ý đến gương mặt tôi lúc chúng ta gặp nhau, và vâng, tôi có hoá trang đấy - Anh ta tự sờ vào má mình, vẻ ngượng ngập - Tôi mắc bệnh về da liễu, nên muốn che giấu. Vợ tôi thường đắp mặt cho tôi, nhưng khi cô ấy vắng nhà thì tôi đành phải trông vào đôi tay vụng về của mình.
Katherine gật đầu, cô quá bối rối nên chẳng biết nói gì.
- Và mái tóc tuyệt vời này… - Anh ta sờ tay lên bộ tóc vàng óng của mình - Tóc giả đấy mà. Bệnh ngoài da của tôi ảnh hưởng cả tới các nang da đầu khiến tóc tôi bay sạch - Anh ta nhún vai - E rằng một trong những lỗi lầm của tôi là quá đỏm dáng.
- Thế thì lỗi của tôi là khiếm nhã mất rồi, - Katherine đáp.
- Không hề - Bác sĩ Abaddon mỉm cười trấn an - Chúng ta bắt đầu nhé? Có lẽ mời bà dùng chút trà nhỉ?
Họ ngồi trước đống lửa và Abaddon rót trà…
- Gặp anh trai bà mãi, đâm ra tôi có thói quen dùng trà. Ông ấy nói nhà Solomon toàn những người uống trà cả.
- Đó là truyền thống gia đình tôi, - Katherine đáp - Xin cho tôi trà đen, cảm ơn.
Họ nhâm nhi trà và chuyện phiếm vài phút, nhưng Katherine rất nóng lòng muốn biết thông tin về anh trai mình.
- Tại sao anh tôi lại tới gặp bác sĩ? - cô hỏi, và tại sao anh ấy lại không hề nói gì với mình? Phải thừa nhận, Peter đã từng chịu đựng nhiều chuyện đau buồn trong đời - mất cha từ rất sớm, và sau đó, chỉ trong vòng năm năm, ông phải chôn cất hết đứa con trai duy nhất lại đến mẹ mình. Mặc dù vậy, Peter luôn gắng sống theo hướng tích cực.
Bác sĩ Abaddon nhấp một ngụm trà.
- Anh bà đến đây bởi vì ông ấy tin tưởng tôi. Chúng tôi có một mối liên hệ vượt xa mối liên hệ thông thường giữa bác sĩ với bệnh nhân - Anh ta trỏ một tài liệu đóng khung ở gần bếp lò. Thoạt trông nó giống một tấm bằng, nhưng khi nhìn kỹ, Katherine nhận ra hình con phượng hoàng hai đầu.
- Bác sĩ là hội viên Tam điểm? - Mà lại là cấp cao nhất, chắc chắn thế.
- Peter và tôi là huynh đệ.
- Chắc chắn bác sĩ đã thực hiện việc gì đó rất quan trọng nên mới được mời lên cấp 33.
- Không hẳn, - Abaddon đáp - Tôi có tiền, và tôi tặng rất nhiều tiền cho các quỹ từ thiện của Hội.
Giờ thì Katherine nhận ra tại sao anh trai cô lại tin tưởng vị bác sĩ trẻ tuổi này. Một hội viên Tam điểm giàu có, quan tâm đến hoạt động nhân đạo và thần thoại cổ đại. Xem ra bác sĩ Abaddon có nhiều điểm chung với Peter hơn cô tưởng.
- Khi hỏi vì sao Peter tới gặp bác sĩ, là tôi muốn biết nguyên do anh ấy cần bác sĩ tâm lý, chứ không phải ngụ ý tại sao anh ấy chọn ông, - Katherine giải thích.
Bác sĩ Abaddon mỉm cười.
- Vâng, tôi biết. Tôi đang tìm cách né tránh câu hỏi một cách tế nhị. Thật sự thì đó không phải là chuyện tôi nên nói ra - Anh ta ngừng lại - Mặc dù tôi phải nói rằng tôi rất bối rối vì Peter giữ kín không cho bà biết các cuộc thảo luận giữa chúng tôi, bởi lẽ các cuộc thảo luận ấy có liên quan trực tiếp tới nghiên cứu của bà.
- Nghiên cứu của tôi à? - Katherine hỏi, hoàn toàn không còn e dè nữa. Peter nói về nghiên cứu của mình ư?
- Gần đây, anh trai bà có đến tôi để hỏi ý kiến chuyên môn về tác động tâm lý của những đột phá mà bà đang tiến hành trong phòng thí nghiệm.
Katherine suýt bị sặc trà.
- Thật sao? Tôi… rất ngạc nhiên, - cô cố trấn tĩnh. Peter đang nghĩ gì không biết? Anh ấy kể với bác sĩ tâm lý về công việc của mình ư?Họ đã quy ước với nhau rằng sẽ không hé lộ với bất kỳ ai về những gì Katherine đang tiến hành. Hơn nữa, chính anh trai cô là người đề xuất phải giữ bí mật kia mà.
- Thưa bà Solomon, chắc chắn bà biết rõ rằng Peter rất quan tâm xem chuyện gì sẽ xảy ra khi nghiên cứu của bà được công bố. Ông ấy nhìn thấy tiềm năng của một sự thay đổi triết học rất lớn trên thế giới… và ông ấy đến đây để thảo luận về những hậu quả có thể phát sinh, từ góc nhìn của khoa tâm lý.
- Tôi hiểu, - Katherine đáp, tách trà của cô run run.
- Chúng tôi thảo luận những vấn đề rất gai góc: Chuyện gì sẽ xảy ra với con người nếu những bí mật lớn nhất của cuộc sống bị phanh phui? Chuyện gì sẽ xảy ra khi những niềm tin mà chúng ta chấp nhận như những tín điều… đột nhiên được chứng minh là sự thật hay huyền thoại? Có thể có người sẽ nói, tốt nhất là cứ để cho những câu hỏi chưa lời giải đáp được yên thân.
Katherine không tin nổi những điều đang nghe, nhưng cô cố kìm nén cảm xúc của mình.
- Tôi hy vọng anh không phiền lòng, thưa bác sĩ Abaddon, nhưng tôi không muốn thảo luận chi tiết về công việc của mình. Tôi chưa có kế hoạch công bố cụ thể bất cứ điều gì. Tạm thời, những phát hiện của tôi vẫn được cất giữ an toàn trong phòng thí nghiệm.
- Rất hay - Abaddon ngả người trên ghế, trầm ngâm suy nghĩ một lát - Dù thế nào thì tôi cũng đã dặn Peter quay lại đây hôm nay vì hôm qua ông ấy có chút vấn đề. Khi chuyện đó xảy ra, tôi vẫn đang có khách…
- Vấn đề à? - Tim Katherine đập mạnh - Là suy sụp chăng? - Cô không thể hình dung nổi anh trai mình lại suy sụp vì vấn đề gì đó.
Abaddon nhẹ nhàng tiến tới.
- Tôi có thể thấy là tôi vừa làm bà không vui. Tôi rất xin lỗi. Trước tình hình rắc rối này, chắc bà cho rằng bà nên được nghe câu trả lời.
- Không phải vấn đề nên hay không, điểm mấu chốt là tôi chỉ còn Peter là người thân duy nhất, - Katherine đáp - Không ai hiểu anh ấy rõ hơn tôi, nếu bác sĩ cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra thì có lẽ tôi sẽ giúp được bác sĩ. Chúng ta cùng chung một mong muốn là làm những điều tốt nhất cho anh Peter mà.
Bác sĩ Abaddon chìm vào im lặng khá lâu và sau đó chậm rãi gật đầu như thể tán đồng. Cuối cùng. anh ta lên tiếng.
- Nói cho rõ, thưa bà Solomon, sở dĩ tôi quyết định chia sẻ thông tin này với bà chỉ vì tôi nghĩ những hiểu biết của bà có thể giúp tôi hỗ trợ Peter.
- Dĩ nhiên rồi.
Abaddon rướn người ra phía trước, tì khuỷu tay lên đầu gối.
- Bà Solomon, hễ gặp anh trai bà, tôi lại cảm thấy ông ấy cứ bị dằn vặt ghê gớm vì một cảm giác tội lỗi nào đó. Tôi chưa bao giờ gặng hỏi tỉ mỉ bởi vì đó không phải là mục đích khiến ông ấy tìm đến tôi. Nhưng hôm qua, vì một vài lý do, tôi đã hỏi ông ấy - Abaddon nhìn xoáy vào cô Peter đã tâm sự hết, thật đột ngột và bất ngờ. Ông thổ lộ những điều tôi không tưởng nổi là sẽ được nghe… kể cả những chi tiết về cái đêm mẹ của ông bà qua đời.
Đêm Giáng sinh - gần mười năm về trước. Mẹ trút hơi thở cuối cùng ngay trên tay mình.
- Peter kể với tôi rằng mẹ của ông bà bị sát hại trong một vụ cướp tại tư gia. Một kẻ đã đột nhập để truy tìm một thứ mà hắn cho rằng anh trai bà đang cất giấu?
- Đúng vậy.
Mắt Abaddon ánh lên dò xét.
- Peter kể ông ấy đã bắn chết tên cướp.
- Phải.
Abaddon xoa xoa cằm.
- Bà còn nhớ kẻ đột nhập tìm kiếm thứ gì khi hắn mò vào nhà bà không?
Câu hỏi gợi lên một ký ức mà Katherine đã cố gắng đào sâu chôn chặt suốt mười năm nay.
- Hừm, yêu cầu của hắn rất kỳ cục. Tiếc rằng không ai trong chúng tôi hiểu hắn muốn nói gì. Chúng tôi đều ngơ ngác trước đòi hỏi của hắn.
- Chà, anh trai bà thì hiểu đấy.
- Sao cơ? - Katherine ngồi thẳng dậy.
- Ít nhất theo câu chuyện mà Peter kể với tôi hôm qua, ông ấy biết chính xác kẻ đột nhập tìm kiếm thứ gì. Vì không muốn giao nó nên ông ấy giả vờ không hiểu mà thôi.
- Vô lý! Anh Peter không thể biết người kia muốn gì. Những yêu cầu của hắn thật vô nghĩa!
- Thú vị đấy - Bác sĩ Abaddon dừng lại và ghi chép vài điều - Như tôi đã nói, Peter kể với tôi là ông ấy biết rõ. Anh bà tin rằng nếu thuận theo kẻ đột nhập thì có lẽ mẹ của ông bà vẫn còn sống đến hôm nay. Quyết định này chính là căn nguyên tất cả cảm giác tội lỗi của ông ấy.
Katherine lắc đầu.
- Vớ vẩn hết sức…
Abaddon chùng người xuống, vẻ bối rối.
- Thưa bà Solomon, đây là một phản hồi rất hữu ích. Như tôi đã từng lo ngại, anh trai bà dường như hơi xa rời thực tế. Tôi phải thừa nhận rằng tôi sợ tình hình có thể trầm trọng thêm. Đó là lý do tại sao tôi dặn ông ấy quay lại đây hôm nay. ảo giác loại này không phải hiếm, nhất là khi chúng có liên quan đến những ký ức đau buồn.
Katherine lại lắc đầu.
- Anh Peter không hề bị ảo giác, thưa Bác sĩ Abaddon.
- Tôi đồng ý, có điều…
- Có điều gì cơ?
- Có điều việc ông ấy nhớ lại vụ tấn công mới chỉ là phần mở đầu một phần rất nhỏ của một câu chuyện dài và hoang đường mà ông ấy kể với tôi.
Katherine ngả người về phía trước.
- Anh Peter đã nói những gì với bác sĩ?
Abaddon cười buồn.
- Thưa bà Solomon, cho phép tôi hỏi câu này. Đã bao giờ Peter đề cập với bà về một thứ mà ông ấy tin rằng được cất giấu ngay tại Washington D.C.… hoặc về vai trò mà ông ấy đang đảm nhận để bảo vệ một kho báu khổng lồ gồm toàn những tri thức cổ xưa đã bị thất truyền chưa?
Katherine há hốc miệng.
- Bác sĩ đang nói về chuyện gì vậy?
Abaddon thở dài.
- Câu chuyện tôi sắp kể sẽ khiến bà khá sốc, thưa bà Katherine - Anh ta ngừng lại và nhìn xoáy vào cô - Nhưng nó sẽ vô cùng hữu ích nếu bà có thể nói cho tôi bất kỳ điều gì bà biết về nó - Anh ta với lấy chén trà của cô - Bà dùng thêm trà nhé?

hết Chương 22

kiemanh
10-10-2010, 05:08 PM
Chương 23


Một hình xăm nữa.
Langdon lo lắng ép sát mình bên cạnh bàn tay đã duỗi ra của Peter và xem xét bảy biểu tượng nhỏ xíu giấu kín bên dưới những ngón tay co quắp không còn sinh khí.



- Hình như là các con số, - Langdon nói vẻ ngạc nhiên - Mặc dù tôi không nhận ra chúng.
- Nhóm đầu tiên là một số La Mã, - Anderson góp ý.
- Thực tình tôi không nghĩ vậy, - Langdon đính chính - Không hề có số La Mã I-I-I-X. Nếu viết đúng phải là V-I-I.
- Thế phần còn lại thì sao? - Sato hỏi.
- Tôi không chắc. Trông như là tám-tám-năm trong số Ả-rập vậy.
- Số Ả rập à? - Anderson hỏi - Trông chúng giống các con số thông thường.
- Các số chúng ta thường dùng chính là số Ả-rập - Langdon quen với việc phải giải thích điều này cho sinh viên của mình đến nỗi anh đã chuẩn bị hẳn một bài giảng về những tiến bộ khoa học của các nền văn hoá Trung Đông xưa kia, một trong những tiến bộ đó là hệ thống chữ số hiện đại của chúng ta, với nhiều ưu điểm hơn hẳn chữ số La Mã, chẳng hạn phát minh ra con số 0 và xây dựng được “hệ đếm theo vị trí”. Dĩ nhiên, Langdon luôn kết thúc bài giảng với một câu nhắc nhở rằng cũng chính nền văn hoá Ả-rập đã cống hiến cho nhân loại từ al-kuhl, thứ đồ uống mà các tân sinh viên Harvard ưa chuộng và thường biết đến với tên gọi rượu.
Langdon xem xét kỹ hình xăm, cảm thấy rất khó hiểu.
- Tôi thậm chí còn không, chắc lắm về con số tám-tám-năm. Kiểu viết vuông vức trông rất lạ mắt. Có lẽ không phải là các con số.
- Vậy chúng là gì chứ? - Sato hỏi.
- Tôi không chắc. Toàn bộ hình xăm trông rất giống kiểu chữ… rune(40).
- Nghĩa là sao? - Sato hỏi.
- Hệ thống chữ cái rune chỉ bao gồm những đường thẳng. Các chữ viết đó được gọi là chữ rune và thường được dùng để khắc lên đá bởi vì các đường cong rất khó chạm khắc.
- Nếu đây là văn tự rune thì nghĩa của chúng là gì? - Sato hỏi.
Langdon lắc đầu. Kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở bảng chữ cái rune cơ bản nhất là Futhark - một hệ thống chữ của người Giéc-manh thế kỷ thứ III - nhưng đây không phải là chữ Futhark.
- Thật tình, tôi thậm chí còn chưa dám chắc đây là chữ rune. Các vị cần hỏi một chuyên gia. Có hàng chục hình thức khác nhau như Halsinge(41), Manx(42), hay chữ chấm Stungnar…
- Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, phải không?
Langdon tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Phải, nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến chuyện này? - Anh đứng thẳng lên, cao hơn hẳn người phụ nữ nhỏ bé.
- Ông cứ trả lời tôi đi. Ông vừa nói rằng các chữ cái rune được sử dụng để chạm lên đá, và theo tôi biết thì thành viên của Hội Tam điểm nguyên thuỷ là những người thợ đá. Tôi nói đến điều này là vì khi tôi yêu cầu văn phòng tìm kiếm mối liên hệ giữa Mật Thủ và Peter Solomon, kết quả của họ dẫn tới một mối liên hệ cụ thể - Bà ta dừng lại, như để nhấn mạnh ý nghĩa của những điều vừa khám phá - Hội Tam điểm.
Langdon thở hắt ra, cố kìm để khỏi nói thẳng với Sato những điều mà anh phải liên tục nhắc nhở sinh viên của mình: “Google” không có nghĩa là nghiên cứu, vào thời buổi mà việc tìm kiếm thông tin bằng các từ khoá ồ ạt, và phổ biến như hiện nay thì dường như mọi thứ đều có liên hệ với nhau. Thế giới đang trở thành một mạng lưới thông tin đan xen nhau và càng lúc càng trở nên dày hơn.
Langdon kiên nhẫn nói.
- Tôi không ngạc nhiên khi Hội Tam điểm xuất hiện trong kết quả tìm kiếm của nhân viên bà. Hội Tam điểm là một mắt xích rất rõ rệt giữa Peter Solomon và bất kỳ chủ đề bí ẩn nào.
- Phải, - Sato đáp, - đó là một lý do nữa khiến tôi ngạc nhiên, bởi buổi tối hôm nay ông chưa hề nhắc đến Hội Tam điểm. Sau hết, ông vừa giảng giải về những tri thức bí mật dành cho một thiểu số được khai sáng. Nghe có vẻ rất Tam điểm, phải không nhỉ?
- Đúng vậy… và nó cũng rất Rosicrucian(43), Kabbalistic(44), Alumbrados, hay bất kỳ hội kín nào.
- Nhưng Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, một hội viên rất có thế lực là đằng khác. Dường như các hội viên Tam điểm đều sẽ rất quan tâm nếu chúng ta nói về các bí mật. Ai chẳng biết rằng Hội Tam điểm rất thích những bí mật.
Langdon nghe ra sắc thái ngờ vực trong giọng Sato, và anh chẳng mong muốn điều đó chút nào.
- Nếu bà cần thông tin gì về Hội Tam điểm, tốt hơn cả là nên trực tiếp hỏi một hội viên của họ.
- Thực ra tôi lại thích hỏi người tôi tin tưởng hơn, - Sato đáp.
Đối với Langdon, câu nói ấy vừa ngu ngốc vừa khiêu khích.
- Tôi xin mở ngoặc, thưa bà, toàn bộ triết lý Tam điểm được xây dựng trên cơ sở lòng trung thực và chính trực. Các hội viên Tam điểm là những người đáng tin cậy nhất mà bà có thể gặp được.
- Tôi thì lại thấy bằng chứng rất thuyết phục chứng minh ngược lại.
Langdon càng lúc càng không ưa Giám đốc Sato. Sau nhiều năm viết về truyền thống mô tả bằng hình tượng mang tính ẩn dụ và các biểu tượng của Hội Tam điểm, anh biết rằng hội này luôn là một trong những tổ chức bị hiểu sai và vu khống một cách thiếu công bằng nhất trên thế giới. Họ thường xuyên bị quy kết cho đủ thứ chuyện, từ thờ cúng quỷ dữ tới âm mưu lập một chính phủ cai trị toàn thế giới, nhưng chính sách của họ là không bao giờ phản ứng lại những kẻ chỉ trích mình, để tránh phải trở thành một mục tiêu dễ công kích.
- Nói gì thì nói, - Sato tiếp tục, giọng chua cay - chúng ta lại đi vào ngõ cụt, thưa ông Langdon. Dường như ông đã bỏ sót… hoặc giấu giếm tôi điều gì đó. Cái gã mà chúng ta đang phải đối phó bảo rằng Peter Solomon chọn riêng ông mà thôi - Bà ta ném cho Langdon một cái nhìn lạnh lẽo - Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta chuyển cuộc nói chuyện này về tổng hành dinh CIA. Biết đâu ở đó chúng ta lại gặp may hơn.
Lời doạ dẫm của Sato chẳng đe doạ nổi Langdon, nhưng lại tác động đến dòng suy tưởng của anh. Peter Solomon chọn riêng ông mà thôi. Câu nói này, kết hợp với chi tiết đề cập đến Hội Tam điểm, bỗng khiến Langdon giật mình. Anh nhìn xuống chiếc nhẫn trên ngón tay Peter. Chiếc nhẫn là một trong những vật sở hữu giá trị nhất của Peter - một vật gia bảo của dòng họ Solomon, mang biểu tượng phượng hoàng hai đầu - biểu tượng tối mật cho tri thức của Hội Tam điểm. Cái nhẫn vàng lóe sáng trong ánh đèn, gợi lại một ký ức bất ngờ.
Langdon sững sờ khi nhớ lại tiếng thì thào kỳ quái của kẻ bắt giữ Peter: Thật sự thì nó vẫn chưa hé mở gì với ông à? Tại sao ông lại được chọn nhỉ? Trong một khoảnh khắc kinh hoàng, mọi ý nghĩ của Langdon chợt tập trung lại, và màn sương được vén lên.
Ngay lập tức, mục đích khiến anh có mặt ở đây trở nên sáng rõ như ban ngày.
***
Cách đó mười dặm trên đường Suitland Parkway, trong lúc lái xe về phía nam. Mal’akh nghe thấy tiếng rung rõ rệt trên mặt ghế cạnh gã. Đó là chiếc iPhone của Peter Solomon, một thứ tỏ ra rất đắc dụng ngày hôm nay. Ảnh người gọi hiện trên màn hình, một phụ nữ trung niên quyến rũ với mái tóc đen dài.
KATHERINE SOLOMON ĐANG GỌI
Mal’akh mỉm cười, phớt lờ cuộc gọi. Số phận đang đưa ta lại gần hơn.
Gã đã lừa được Katherine Solomon tới nhà mình vào chiều nay chỉ vì một lý do - để xác định xem cô có thông tin gì giúp được cho gã không… có lẽ là một bí mật gia đình có thể giúp Mal’akh xác định được thứ gã tìm kiếm. Tuy nhiên, rõ ràng là anh trai Katherine đã chẳng nói gì với cô về những gì ông ta đang bảo vệ suốt nhiều năm qua. Thế nhưng Mal’akh lại biết được một điều khác từ Katherine. Một điều khiến cô phải mất vài tiếng cuộc đời trong ngày hôm nay.
Katherine đã xác nhận với gã rằng toàn bộ công trình nghiên cứu của cô nằm ở một địa điểm, cất giữ an toàn trong phòng thí nghiệm của cô.
Ta phải phá huỷ nó.
Nghiên cứu của Katherine rất có khả năng mở ra một cánh cửa hiểu biết mới, và một khi cánh cửa ấy chỉ hé ra thôi, những người khác sẽ tiếp bước. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi mọi thứ thay đổi
Ta không thể để chuyện đó xảy ra. Thế giới phải nguyên trạng như nó vẫn thế… mông lung trong bóng tối ngu dốt.
Chiếc iPhone phát tín hiệu báo Katherine vừa gửi tới một thư thoại. Mal’akh nhận tin.
- Anh Peter, vẫn là em đây - Giọng Katherine nghe đầy lo lắng - Anh ở đâu vậy? Em đang nghĩ về cuộc trò chuyện của em với bác sĩ Abaddon… và em rất lo. Mọi thứ vẫn ổn chứ? Hãy gọi cho em. Em ở phòng thí nghiệm.
Thư thoại kết thúc.
Mal’akh mỉm cười. Katherine nên lo cho bản thân thay vì anh trai mụ. Gã ngoặt khỏi đường Suitland Parkway để sang phố Silver Hill.
Đi thêm chưa đầy một dặm nữa, trong bóng tối, gã nhận ra đường nét mờ mờ của toà nhà SMSC nép mình dưới bóng cây dọc đại lộ phía bên tay phải gã. Toàn bộ quần thể được bao quanh bởi một hàng rào thép gai cao ngất.
Một toà nhà được bảo vệ ư? Mal’akh cười thầm. Sẽ có người mở cửa cho ta vào.
Chú thích:
(40) Hệ chữ cái rune là một tập hợp những chữ cái có liên hệ với nhau dùng để viết nhiều ngôn ngữ Giéc manh khác nhau trước khi có hệ chữ cái La tin, từng được sử dụng ở Bắc Âu, Anh, bán đảo Scandinavia, và Iceland từ khoảng thế kỷ III đen thề kỷ XVII - ND.
(41) Hệ chữ cái rune rút gọn, chủ yếu tìm thấy trong các văn bia có niên đại vào thế kỷ X đến XII ở vùng Halsingland thuộc Thuỵ Điển. Hệ chữ này dường như là dạng đơn giản hoá của chữ rune Rok ở Thuỵ Điển - Na Uy và không có các nét đứng - ND.
(42) Manx là một ngôn ngữ Goidelic, có liên hệ gần gũi với ngôn ngữ Xen-tơ ở Ireland và Scotland - ND.
(43) Rosicrucianism (Hội Thập tự Hoa hồng) là thuyết thần học của một hội kín thần bí, hình thành ở Đức thời kỳ Trung cổ muộn, với học thuyết “xây dựng dựa trên những chân lý bí truyền của quá khứ cổ xưa”, những thứ “được giữ kín trước người phàm, đem lại sự hiểu biết về tự nhiên, vũ trụ vật chất và lĩnh vực tinh thần” - ND.
(43) Kabbalah (nghĩa là “tiếp nhận”) là một nguyên tắc và trường phái tư tưởng liên quan đến khía cạnh bí truyền của Do Thái giáo. Nó là một tập hợp những lời răn bí truyền nhằm giải thích mối quan hệ giữa một Đấng Sáng tạo toàn năng, bất tử với cái vũ trụ hữu hạn và có sinh có diệt do Ngài tạo ra. Kabbalah tìm cách định nghĩ bản chất của vũ trụ và con người, bản chất và mục đích của tồn tại, và nhiều câu hỏi khác. Nó cũng thể hiện phương pháp giúp hiểu những khái niệm này - ND.
hết Chương 23

kiemanh
10-10-2010, 05:08 PM
Chương 24


Tâm trí Langdon đột nhiên thông suốt.
Mình hiểu tại sao mình lại ở đây.
Đứng ở chính giữa Nhà tròn, Langdon chỉ muốn quay mình chạy đi tránh xa bàn tay Peter, xa chiếc nhẫn vàng lấp lánh, xa hẳn con mắt ngờ vực của Sato và Anderson. Nhưng anh vẫn đứng bất động, tay nắm chặt thêm chiếc túi da đeo trên vai. Mình phải ra khỏi nơi này.
Hàm anh nghiến chặt lại, ký ức bắt đầu tái hiện quang cảnh buổi sáng lạnh lẽo nhiều năm về trước tại Cambridge(45). Lúc đó là 6 giờ sáng. Sau vài vòng bơi trong bể bơi trường Harvard, Langdon lên lớp như thường lệ. Anh vừa bước qua ngưỡng cửa, mùi bụi phấn quen thuộc đã ùa tới, trộn với hơi nước nóng quanh anh. Tiến được hai bước về phía bàn của mình, Langdon chợt đứng sững lại.
- Một người đang đợi anh ở đó - một quý ông lịch lãm với chiếc mũi khoằm và đôi mắt xám rất quý phái.
- Peter? - Langdon sửng sốt nhìn vị khách.
Nụ cười của Peter Solomon làm sáng bừng cả căn phòng vẫn còn tối lờ mờ.
- Chúc một buổi sáng tốt lành, Robert. Ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi lắm sao? - Giọng ông nhẹ nhàng, nhưng đầy sức mạnh.
Langdon bước vội tới và nồng nhiệt bắt tay người bạn của mình.
- Một quý ông Yale đang làm gì ở khuôn viên Crimson lúc mới sáng bảnh mắt thế này?
- Nhiệm vụ bí mật đằng sau chiến tuyến quân thù ấy mà, - Solomon đáp và cười. Ông làm hiệu chỉ phần thắt lưng gọn gàng của Langdon - Bơi lội có tác dụng nhỉ! Trông dáng cậu rất bảnh rồi đấy.
- Thì đang cố làm cho anh tự thấy già nua thôi mà, - Langdon đùa theo - Rất vui được gặp anh, Peter. Có chuyện gì thế?
- Đi công tác vội qua, - người đàn ông đáp, liếc quanh gian phòng học vắng tanh - Xin lỗi vì làm phiền cậu. Robert, nhưng tôi chỉ có vài phút thôi Có việc tôi rất cần nhờ cậu… hết sức riêng tư. Mong cậu giúp đỡ.
Lạ đấy. Langdon tự hỏi không biết một anh Giáo sư đại học quèn như mình thì có thể làm được gì cho một quý ông có tất cả mọi thứ.
- Việc gì cũng được, - Langdon đáp, rất vui vì có cơ hội giúp đỡ người đã nhiệt thành tương trợ anh bấy lâu, nhất là khi cuộc đời giàu sang của Peter cũng phải chịu quá nhiều bi kịch.
Solomon hạ giọng.
- Tôi mong cậu giữ hộ tôi một thứ.
Langdon đảo mắt.
- Em hy vọng không phải con Hercules - Langdon đã từng đồng ý giúp Solomon trông con chó tai cụp nặng ngót 70 kg tên là Hercules trong khi ông đi vắng. Suốt thời gian ở với Langdon, con chó tỏ ra nhớ nhung thứ đò chơi nhai bằng da ở nhà và nó đã tìm một vật thay thế rất đáng giá trong phòng làm việc của anh: một cuốn Kinh thánh có minh hoạ, viết tay, bằng giấy da cừu nguyên bản từ thế kỷ XVII. Ấy thế mà cái “con chó khốn kiếp” đó vẫn chưa lấy làm hài lòng.
- Cậu biết là tôi vẫn đang tìm một bản để đền cho cậu mà, - Solomon ngượng ngùng nói.
- Không sao đâu. Em mừng là Hercules có năng khiếu tôn giáo đến thế.
Solomon cười khùng khục nhưng có vẻ thẫn thờ.
- Robert, hôm nay tôi đến đây là muốn nhờ cậu để mắt trông nom một thứ rất có giá trị với tôi. Tôi được thừa hưởng nó đã lâu, nhưng tôi không còn cảm thấy an tâm để nó trong nhà hay trong phòng làm việc nữa.
Langdon sinh dạ bồn chồn. Bất cứ thứ gì “rất có giá trị”, trong thế giới của Peter Solomon đều xứng đáng cả một gia tài.
- Thế két ký gửi an toàn thì sao? - Chẳng phải phải gia đình anh có tài khoản trong một nửa số ngân hàng ở Mỹ đấy ư?
- Như thế lại phải làm giấy tờ và dính dáng đến đám nhân viên ngân hàng. Tôi muốn nhờ một người bạn đáng tin cậy, và tôi biết cậu có thể giữ bí mật - Solomon lục tôi áo và rút ra một gói nhỏ, trao nó cho Langdon.
Căn cứ vào phần mở đầu câu truyện đầy kịch tính, Langdon cứ nghĩ sẽ thấy một vật ấn tượng hơn, nhưng cái gói chỉ là một hộp vuông vức nhỏ nhắn, mỗi chiều chưa tới 10 cm, bọc trong lớp giấy gói màu nâu đã bạc và có buộc dây. Căn cứ vào sức nặng và kích cỡ của cái gói, có cảm giác thứ bên trong nó phải làm bằng đá hoặc kim loại.
Gì thế này?
Langdon xoay xoay cái hộp trên tay, và nhận thấy sợi dây buộc được bảo vệ rất cẩn thận ở một mặt với một dấu sáp đóng nổi, giống như trong các công văn thời xưa vậy. Con dấu khảm hình phượng hoàng hai đầu với chữ số 33 hằn rõ trên ngực - biểu tượng truyền thống của cấp bậc cao nhất trong Hội Tam điểm.
- Nói thật, Peter. - Langdon toét miệng cười - Anh là Đại Huynh trưởng của tổng Hội Tam điểm chứ đâu phải Giáo hoàng. Tại sao lại dùng nhẫn đóng dấu niêm phong các gói đồ?
Solomon liếc xuống chiếc nhẫn vàng của mình và cười khan.
- Tôi có niêm phong cái gói này đâu, Robert. Cụ cố của tôi đóng đấy. Ngót một thế kỷ nay rồi.
Langdon ngẩng phắt đầu lên.
- Sao cơ?
Solomon giơ ngón tay đeo nhẫn của mình lên.
- Chiếc nhẫn Tam điểm này là của cụ cố. Sau đó ông nội thừa hưởng, rồi cha… và cuối cùng là tôi.
Langdon giơ cái gói lên.
- Cụ cố anh bọc cái gói này một thế kỷ trước và không có ai mở nó ra à?
- Chính xác.
- Nhưng… sao lại không chứ?
- Bởi vì chưa đến lúc - Solomon mỉm cười.
Langdon trợn mắt.
- Đến lúc làm gì cơ?
- Robert, nói thì bảo phi lý, nhưng cậu biết càng ít càng tốt. Cứ bỏ cái gói này vào chỗ nào đó an toàn, và đừng cho ai biết tôi đã trao nó cho cậu là được.
Langdon cố tìm trong ánh mắt người bạn vong niên của mình một tia bông đùa. Solomon có xu hướng kịch tính hoá mọi việc, và Langdon băn khoăn không biết anh có đang bị trêu chọc không.
- Peter, chắc đây không phải là một âm mưu khôn khéo khiến em nghĩ rằng mình vừa được giao phó một bí mật lâu đời của Hội Tam điểm để rồi em sẽ tò mò và quyết định gia nhập Hội chứ?
- Cậu biết là Hội Tam điểm có tuyển người ngoài đâu. Vả lại, cậu đã nói với tôi rằng cậu không thích tham gia mà.
Điều này hoàn toàn đúng. Langdon rất kính trọng triết lý và các biểu tượng của Hội Tam điểm nhưng anh đã quyết định không bao giờ gia nhập hội; những lời tuyên thệ giữ bí mật sẽ ngăn cản anh thảo luận về Hội Tam điểm với các sinh viên của mình. Cũng chính vì lý do này mà Socrates(46) đã từ chối tham gia vào Eleusinian Mysteries(47).
Nhìn cái hộp nhỏ bé bí ẩn cùng con dấu Tam điểm. Langdon không thể không đặt ra câu hỏi rất hiển nhiên.
- Tại sao anh không giao thứ này cho một trong số các huynh đệ Tam điểm?
- Cứ cho là tôi có linh cảm rằng nó sẽ an toàn hơn khi được cất giữ bên ngoài hội đi, và đừng để kích thước nhỏ bé của cái gói đánh lừa cậu. Nếu lời cha tôi dặn dò là đúng thì nó đang chứa đựng một thứ ghê gớm lắm đấy - ông ngần ngừ - Một thứ bùa phép, đại loại như vậy.
- Ông ấy nói đến bùa phép phải không nhỉ? Theo định nghĩa, bùa phép là một vật có sức mạnh phép thuật. Theo truyền thống, bùa được dùng để đem lại may mắn, xua đuổi tà ma, hoặc hỗ trợ trong các nghi thức cổ xưa.
- Peter, anh thừa biết là bùa phép đã không còn thịnh hành từ thời Trung đại mà?
Peter kiên nhẫn đặt một tay lên vai Langdon.
- Tôi hiểu cậu cảm thấy thế nào, Robert ạ. Chúng ta quen nhau đã lâu đặc tính hay hoài nghi của cậu là một trong những thế mạnh cần có của một học giả, nhưng nó cũng lại là điểm yếu nhất của cậu. Tôi hiểu cậu đủ để không nghĩ đến việc đề nghị cậu tin… mà chỉ là tin tưởng. Mong cậu tin tưởng khi tôi nói rằng thứ bùa phép này rất mạnh. Cha tôi dặn nó có thể đem đến cho chủ sở hữu khả năng lập lại trật tự từ hỗn loạn.
Langdon đứng đờ người. Ý tưởng “trật tự từ hỗn loạn” là một trong những châm ngôn chính của Hội Tam điểm. Ordo ab chao. Mặc dù vậy thì vẫn rất vô lý nếu cho rằng có một thứ bùa biết truyền sức mạnh, chưa kể lại là loại sức mạnh đem lại trật tự từ trong hỗn loạn.
- Thứ bùa này, - Solomon nói tiếp - sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác, và thật tệ là tôi đủ cơ sở để tin rằng những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó - Langdon còn nhớ rõ vẻ nghiêm túc trong đôi mắt ông - Tôi mong cậu giữ gìn nó hộ tôi một thời gian. Cậu làm được chứ?
Đêm ấy, Langdon ngồi một mình bên bàn ăn trong bếp cùng với cái gói và cố gắng hình dung xem thứ gì bên trong. Cuối cùng, cho rằng tất cả chỉ do thói quen quan trọng hoá vấn đề của Peter, anh cất cái gói vào két tường trong thư viện, rồi từ đấy quên bẵng nó.
Cho tới sáng nay.
Cuộc điện thoại từ gã đàn ông nói giọng miền nam.
- Ồ thưa Giáo sư, tôi suýt quên! - viên trợ lý nói sau khi thông báo cho Langdon các chi tiết về việc sắp xếp chuyến đi tới Thủ đô cho anh - ông Solomon còn một đề nghị nữa.
- Vâng? - Langdon đáp, tâm trí lan man tới bài thuyết trình mà anh vừa đồng ý đảm nhận.
- Ông Solomon có để một lời nhắn cho Giáo sư - Người kia bắt đầu đọc một cách chật vật, như thể đang cố giải mã thủ bút của Peter - Hãy bảo Robert… mang… theo cái gói nhỏ có niêm phong mà tôi gửi anh ấy nhiều năm trước - Gã dừng lại - Câu này có ý nghĩa gì với Giáo sư không?
Langdon sực nhớ tới cái hộp nhỏ vẫn nằm yên trong két tường suốt thời gian qua, anh ngạc nhiên đáp.
- Có. Tôi biết Peter muốn nói gì.
- Và Giáo sư có thể mang nó theo chứ?
- Dĩ nhiên. Báo với Peter rằng tôi sẽ mang theo.
- Tuyệt vời - Viên trợ lý thở phào - Chúc Giáo sư có một buổi thuyết trình lý thú tối nay. Chúc Giáo sư thượng lộ bình an.
Trước khi rời nhà, Langdon lấy cái gói vẫn bọc kỹ ở đáy két và bỏ nó vào túi xách.
Giờ anh đang đứng trong Điện Capitol, lòng chắc chắn duy nhất một điều. Peter Solomon sẽ vô cùng sững sờ khi biết Langdon đã phụ lòng ông như thế nào.

Chú thích:
(45) Đây là thành phố Cambridge thuộc bang Massachusetts. Hoa Kỳ. - ND.
(46) Socrates là một triết gia Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh là bậc thầy về truy vấn. Thời trẻ ông nghiên cứu các loại triết học thịnh hành lúc bấy giờ, đó là nền triết học nỗ lực tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên chung quanh chúng ta. Socrates được coi là người đặt nền móng cho thuật hùng biện dựa trên hệ thống những câu hỏi đối thoại. Ông có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng về đức hạnh với quan điểm: “Hãy tự biết lấy chính mình”. Ông bị chính quyền khi đó kết tội làm bại hoại tư tưởng của thanh niên do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành Athènes thừa nhận và bảo hộ và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ông bị tuyên phạt tự tử bằng thuốc độc. Sinh thời ông không mở trường dạy học, mà thường coi mình là có sứ mệnh của thần linh, nên phải đi dạy bảo mọi người và không làm nghề nào khác Socrates thường nói chuyện với mọi người tại các nơi công cộng, không lấy tiền. Học trò xuất sắc của ông là đại hiền triết Platon - ND.
(47) Mật nghi (các nghi thức bí truyền) Eleusis là các nghi lễ khai tâm được tổ chức hằng năm trong tín ngưỡng thờ thần Demeter và Persephone ở vùng Eleusis thuộc Hy Lạp cổ đại. Các huyền tích và nghi thức bí truyền này bắt đầu từ khoảng năm 1600 trước Công nguyên và tồn tại 2000 năm. Các nghi thức, nghi lễ và tín điều được giữ kín, vì người ta tin lễ khai tâm giúp gắn kết những người thờ cúng với các vị thần và hứa hẹn đem lại sức mạnh thần thánh cùng các phần thưởng ở thế giới bên kia - ND.
hết Chương 24

kiemanh
10-10-2010, 05:09 PM
Chương 25


Lạy Chúa, Katherine nói đúng. Y như mọi khi.
Trish Dunne sửng sốt nhìn kết quả tìm kiếm hiển thị trên bức tường plasma trước mặt. Cô cứ đinh ninh lệnh tìm kiếm sẽ không cho ra kết quả gì cả, nhưng trên thực tế, lúc này cô đã có hơn một chục kết quả, và kết quả vẫn tiếp tục xuất hiện.
Có một kết quả trông rất hứa hẹn.
Trish xoay người và gọi to về phía thư viện.
- Chị Katherine? Em nghĩ chị muốn xem cái này đấy!
Đã vài năm kể từ lần cuối cùng Trish chạy một con nhện tìm kiếm, và kết quả tối nay khiến cô rất kinh ngạc, vài năm trước, kiểu tìm kiếm này là vô vọng. Nhưng giờ đây, dường như lượng tư liệu số hoá trên thế giới tăng vọt đến mức người ta có thể tìm thấy bất kỳ thứ gì.
Thật khó tin, chuỗi từ khoá còn chứa một từ mà Trish thậm chí chưa bao giờ nghe nói đến… và lệnh tìm kiếm vẫn tìm thấy từ đó.
Katherine chạy ào qua cửa phòng điều khiển.
- Cô thu được gì rồi?
- Cả loạt ứng viên - Trish trỏ bức tường plasma - Các tài liệu này đều chứa nguyên văn những cụm từ khoá của chị.
Katherine vén tóc ra sau tai và lướt qua danh sách.
- Chị đừng vội vui mừng, - Trish nói thêm - em có thể đoan chắc với chị rằng hầu hết mớ tài liệu này không phải là những gì chị đang tìm kiếm. Người ta gọi chúng là lỗ đen. Hãy nhìn kích thước của file mà xem. Cực kỳ lớn. Chúng tương tự tệp nén lưu lại hàng triệu thư điện tử, hàng loạt bộ bách khoa thư đồ sộ hoặc tin nhắn trên toàn cầu suốt mấy năm qua, đại loại như thế. Xét theo kích thước và nội dung đa dạng của chúng thì những file này chứa nhiều từ khoá đến mức chúng tiếp nhận bất kỳ cơ chế tìm kiếm nào đến gần.
Katherine trỏ một kết quả ở gần đầu danh sách.
- Cái này thì sao?
Trish cười. Katherine rất nhanh mắt, tin ngay ra file duy nhất có kích thước nhỏ.
- Mắt chị tinh lắm. Đúng, đó là ứng viên duy nhất của chúng ta đấy Trên thực tế, file đó nhỏ đến mức nó có thể không dài quá một trang đâu.
- Mở ra xem nào - Giọng Katherine đầy hồi hộp.
Trish không thể tin nổi là một tài liệu độ một trang lại chứa tất cả những chuỗi tìm kiếm lạ lùng mà Katherine đưa cho cô. Tuy nhiên, khi cô nhấn vào tài liệu để mở nó, các cụm từ hiện ra rất… rõ rệt và dễ nhận thấy trên văn bản.
Katherine sải bước tới gần, mắt dán chặt vào bức tường plasma.
- Tài liệu này đã bị… lọc.
Trish gật đầu.
- Chào mừng đến với thế giới văn bản số hoá.
Lọc tài liệu tự động đã trở thành một cách làm chuẩn mực khi cung cấp những tài liệu số hoá. Lọc tài liệu là một quá trình trong đó máy chủ cho phép người sử dụng tìm kiếm toàn bộ văn bản, nhưng chỉ tiết lộ một phần nhỏ của nó, tức là phần nội dung khớp với các từ khoá yêu cầu. Bằng cách loại bỏ đa số nội dung văn bản, máy chủ tránh được việc vi phạm bản quyền và cũng gửi kèm cho người sử dụng một thông điệp gợi tò mò: Tôi có thông tin quý vị đang tìm kiếm, nhưng nếu quý vị muốn phần còn lại, quý vi sẽ phải mua nó.
- Chị thấy đấy, - Trish nói, lướt qua trang văn bản đã bị lược bỏ rất nhiều - tài liệu này có đủ tất cả những cụm từ khoá của chị.
Katherine im lặng, đăm đăm nhìn đoạn văn bản hổng lỗ chỗ.
Trish để cho cô đọc khoảng một phút rồi quay trở về đầu trang.
Mỗi cụm từ khoá của Katherine đều được gạch chân và viết hoa, kèm theo một phần nội dung văn bản tìm thấy, đó là vài từ xuất hiện mỗi bên của cụm từ cần tìm.



Trish không hình dung nổi nội dung của tài liệu, và còn “đồ hình” là cái quái gì nữa không biết?
Katherine háo hức bước lại gần màn hình.
- Tài liệu này từ đâu ra vậy? Ai viết nó?
Trish đang xử lý tài liệu.
- Cho em một giây thôi. Em đang tìm cách truy nguyên.
- Tôi cần biết ai viết tài liệu này, - Katherine nhắc lại, giọng đanh hơn - Tôi muốn xem phần còn lại của nó.
- Em đang tìm cách, - Trish đáp, giật mình vì giọng nói sắc lạnh của Katherine.
Lạ thay, vị trí của file không hiển thị như một địa chỉ web truyền thống mà lại là một địa chỉ Giao thức Intemet (IP) số.
- Em không truy được IP, - Trish thông báo - Tên miền không xuất hiện. Xem nào! - Cô kéo cửa sổ gốc của mình lên - Em sẽ chạy lệnh truy dấu.
Trish gõ chuỗi lệnh để ping(48) tất cả các “bước truyền” giữa máy móc trong phòng điều khiển của cô và bất cứ máy nào đang lưu tài liệu này.
- Truy tìm ngay nào, - cô nói và cho chạy lệnh.
Lệnh truy dấu hoạt động cực nhanh, và một danh sách dài dằng dặc các thiết bị mạng xuất hiện gần như ngay lập tức trên bức tường plasma. Trish lướt xuống phía dưới… xuống nữa… qua tất cả các thiết bị định tuyến và chuyển đổi có kết nối với máy của cô…
- Thế quái nào ấy nhỉ?
Lệnh truy dấu của cô dừng lại trước khi đến được máy chủ của tài liệu. Vì một lý do nào đó, lệnh ping của cô vấp phải một thiết bị mạng nuốt chửng nó thay vì hất nó trở lại.
- Xem chừng lệnh truy dấu của em bị chặn, - Trish nói. Trường hợp này cũng có thế xảy ra ư?
- Cho chạy lại đi.
Trish chạy lệnh truy dấu khác và gặp kết quả tương tự.
- Không được. Ngõ cụt rồi. Hình như tài liệu này nằm trên một máy chủ không thể truy dấu được - Cô nhìn những bước truyền cuối cùng ngay trước “ngõ cụt” - Nhưng em đoan chắc với chị rằng nó nằm đâu đó ở Washington D.C. này thôi.
- Cô đùa đấy à?
- Có gì lạ đâu chị, - Trish nói - Các chương trình nhện này chạy xoắn ốc theo yếu tố địa lý, có nghĩa là những kết quả đầu tiên luôn gần quanh đây, thêm nữa, một trong các chuỗi tìm kiếm của chị là “Washington D.C.” mà.
- Nếu dùng giao thức “who is”(49) thì sao? - Katherine gợi ý - Liệu nó có cho cô biết ai sở hữu tên miền không?
Hơi vớ vẩn nhưng không phải là một ý tưởng tồi. Trish tìm tới cơ sở dữ liệu “who is” và chạy lệnh tin kiếm IP, hy vọng khớp được các con số bí ẩn với một tên miền có thật. Tâm trạng thất vọng của cô giờ đã bớt nhờ sự tò mò càng lúc càng tăng. Người nào có tài liệu này nhỉ? Các kết quả “who is” xuất hiện rất nhanh, nhưng không có kết quả nào thích hợp, Trish đành giơ tay chịu thua.
- Hình như địa chỉ IP này không tồn tại. Em không thể dò ra thông tin gì về nó.
- Rõ ràng IP có tồn tại. Chúng ta vừa tìm thấy một tài liệu lưu trữ ở đó mà!
- Đúng, và hiển nhiên ai đó có tài liệu này không hề muốn để lộ nhận dạng. Em không biết nói gì với chị. Truy dấu hệ thống thực sự không phải là sở trường của em: Có lẽ chị nên mời ai đó có kỹ năng xâm nhập hệ thống. em thì chịu thua rồi.
- Cô quen ai như thế không?
Trish quay lại, đăm đăm nhìn sếp của mình.
- Chị Katherine, em đùa đấy. Chính xác thì đó không phải là một ý hay đâu.
- Nhưng nó có tác dụng phải không? - Katherine xem đồng hồ.
- A vâng… luôn luôn. Về mặt kỹ thuật thì rất dễ dàng.
- Cô có quen ai không?
- Các hacker hả? - Trish cười - Phân nửa số đồng nghiệp cũ của em thạo việc này.
- Có ai cô tin tưởng không?
Chị ấy nói thật đấy à?
Nhận thấy Katherine cực kỳ nghiêm túc, cô vội đáp:
- Chà, vâng. Em biết một người nhờ được. Anh ấy là chuyên gia an ninh hệ thống của chúng em, một chuyên viên máy tính siêu hạng. Anh ấy muốn hò hẹn với em, kiểu bông lơn ấy mà, nhưng đó là một anh chàng tốt, và em tin tưởng anh ấy. Anh ấy làm việc tự do.
- Cậu ta có kín tiếng không?
- Anh ấy là một hacker. Dĩ nhiên là anh ấy phải kín tiếng. Đó là việc anh ấy làm mà. Nhưng em tin chắc anh ấy sẽ đòi ít nhất 1000 đô la chỉ để nhìn…
- Gọi cho cậu ta đi. Trả cậu ấy gấp đôi nếu tìm ra kết quả nhanh.
Trish không biết điều nào khiến cô khó chịu hơn, giúp Katherine Solomon thuê một hacker hay gọi cho anh chàng mà đến nay vẫn không sao chấp nhận nổi việc cô chuyên gia phân tích siêu hệ thống tóc đỏ béo lùn lại cự tuyệt lời tán tỉnh của mình.
- Chị chắc chắn chứ?
- Dùng điện thoại trong thư viện ấy, - Katherine dặn - Nó có thể chặn các cuộc gọi đến, và đương nhiên là không sử dụng tên tôi nhé.
- Vâng - Trish đi ra cửa, nhưng dừng lại khi nghe thấy iPhone của Katherine kêu. Nếu may mắn, tin nhắn đang tới kia sẽ là thông tin giúp cô thoát khỏi nhiệm vụ không lấy gì làm thú vị này. Cô nấn ná đợi Katherine lấy iPhone ra khỏi túi áo choàng và đọc màn hình.
Katherine Solomon nhẹ cả người khi nhìn cái tên xuất hiện trên iPhone.
Có thế chứ!
PETER SOLOMON
- Tin nhắn của anh tôi, - cô nói, mắt liếc Trish.
Trish lộ vẻ hy vọng.
- Có lẽ chúng ta nên hỏi ý kiến ông ấy… trước khi liên hệ với một hacker chăng?
Katherine đọc tài liệu trên bức tường plasma và nghe thấy rõ giọng nói của bác sĩ Abaddon. Có thể tìm được… thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô. Katherine không còn biết tin vào điều gì nữa, và tài liệu kia ẩn chứa thông tin về những ý tưởng cường điệu rõ ràng đã làm Peter ám ảnh.
Katherine lắc đầu.
- Tôi muốn biết ai viết tài liệu này và nó nằm ở đâu. Cứ liên hệ đi.
Trish cau mày và đi ra phía cửa.
Cho dù tài liệu này có thể giải thích được điều bí ẩn về những gì anh trai cô đã nói với bác sĩ Abaddon hay không, chí ít hôm nay cũng đã giải quyết xong một khó khăn. Cuối cùng thì anh trai cô đã biết cách sử dụng chức năng nhắn tin trên chiếc iPhone mà Katherine tặng cho ông.
- Và nhớ báo cho giới truyền thông nhé. - Katherine gọi với theo Trish - Ngài Peter Solomon vĩ đại vừa gửi được tin nhắn đầu tiên.
***
Ở bãi đỗ xe bên kia phố chếch với SMSC. Mal’akh đứng bên cạnh chiếc Limousine của gã, duỗi chân và đợi cú điện thoại mà gã biết chắc là sẽ tới. Mưa đã ngớt, mặt trăng mùa đông bắt đầu ló ra khỏi những đám mây. Vẫn là vầng trăng đã chiếu xuống Mal’akh qua mắt vòm trần nhà Thánh điện Hội Tam điểm ba tháng trước trong lễ nhập môn của gã.
Thế giới đêm nay khác hẳn.
Trong khi chờ đợi, dạ dày gã lại quặn lên. Việc nhịn ăn hai ngày qua, mặc dù rất khó chịu, lại rất cần thiết cho việc chuẩn bị của gã.
Đó là nghi thức cổ xưa. Chỉ ít lâu nữa, tất cả những khó chịu thể xác sẽ không còn đáng kể nữa.
Đứng dưới trời đêm lạnh lẽo, Mal’akh cười khùng khục khi thấy khá mỉa mai là số phận đã gửi gắm gã vào cổng một nhà thờ nhỏ. Ở đây nép giữa Trung tâm Nha khoa Sterling và một siêu thị nhỏ, là một thánh đường nhỏ bé.
TOÀ NHÀ VINH QUANG CỦA CHÚA.
Mal’akh đăm đăm nhìn ô cửa sổ, ở đó hiện rõ một phần tuyên ngôn mang tính học thuyết của nhà thờ: CHÚNG CON TIN RĂNG ĐỨC JESUS CHRIST ĐƯỢC SINH RA BỞI CHÚA THÁNH THẦN, DO ĐỨC MARY ĐỒNG TRINH SINH NỞ, VÀ VỪA LÀ CHÚA VỪA LÀ CON NGUỜI TOÀN HẢO.
Mal’akh mỉm cười. Phải. Jesus trên thực tế là cả hai - con người và Chúa - nhưng điều kiện tiên quyết của thánh thần không phải là có một bà mẹ trinh nữ. Mà là cách thức trở thành thánh thần.
Tiếng chuông điện thoại di động vang lên trong đêm, khiến mạch gã đập nhanh. Chiếc điện thoại đang đổ chuông lúc này là điện thoại của Mal’akh, loại rẻ tiền dùng một lần mà gã mới mua hôm qua. Nhận dạng của người gọi cho biết đó là cuộc gọi mà gã đang trông đợi.
Một cuộc gọi nội hạt, Mal’akh trầm ngâm, nhìn ngang qua bên kia phố Silver Hill về phía đường viền mái nhà dích dắc vượt lên khỏi các ngọn cây, lờ mờ dưới ánh trăng. Mal’akh bật điện thoại.
- Tôi là bác sĩ Abaddon, - gã nói, cố tình trùng giọng xuống.
- Katherine đây. - giọng người phụ nữ vang lên - Cuối cùng tôi cũng đã có tin của anh trai mình.
- Ồ tôi thấy nhẹ cả người. Ông ấy thế nào?
- Anh ấy đang trên đường tới phòng thí nghiệm của tôi - Katherine thông báo - Anh ấy đề xuất mời anh cùng tham gia với chúng tôi.
- Sao cơ ạ? - Mal’akh vờ ngập ngừng - Trong phòng thí nghiệm… của bà à?
- Chắc chắn là anh ấy rất tin tưởng anh. Anh ấy chưa bao giờ mời bất kỳ ai tới đó cả.
- Hẳn ông ấy nghĩ một cuộc viếng thăm sẽ giúp ích cho những cuộc thảo luận của chúng tôi, nhưng tôi cảm thấy như thế hơi mang tính chất xâm phạm.
- Nếu anh trai tôi nói rằng anh được hoan nghênh thì anh sẽ được hoan nghênh. Thêm nữa, Peter nói anh ấy có nhiều điều cần trao đổi với cả hai chúng ta, và tôi rất muốn được biết ngọn ngành mọi chuyện đang diễn ra.
- Vậy thì được. Chính xác thì phòng thí nghiệm của bà ở đâu?
- Tại Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian. Anh có biết chỗ đó không?
- Không. - Mal’akh nói, dõi mắt qua bãi đỗ xe về phía toà nhà - Thực ra tôi đang ở trong xe, và tôi có hệ thống chỉ dẫn. Địa chỉ thế nào nhỉ?
- Số 4210 phố Silver Hill.
- Vâng, chờ tôi chút. Tôi sẽ nhập vào hệ thống - Mal’akh đợi khoảng mười giây và lên tiếng - à, hay quá, có vẻ như tôi ở gần hơn mình nghĩ. Hệ thống GPS cho biết tôi chỉ mất khoảng chục phút là tới nơi.
- Tuyệt. Tôi sẽ gọi cho bộ phận an ninh và báo với họ rằng anh sẽ qua đó.
- Cảm ơn bà.
- Gặp anh sau.
Mal’akh nhét điện thoại vào túi và ngó về phía SMSC. Mình tự mời mình liệu có khiếm nhã không nhỉ? Mỉm cười, gã rút chiếc iPhone của Peter Solomon ra và đọc lại tin nhắn gã gửi cho Katherine vài phút trước đó.
Đã nhận được tin nhắn của em. Vẫn ổn. Bận suốt ngày. Quên cá hẹn với bác sĩ Abaddon. Xin lỗi không giới thiệu cậu ta sớm hơn. Chuyện dài lắm. Giờ đang tới phòng thí nghiệm. Nếu được, mời bác sĩ Abaddon cùng tham gia với chúng ta. Anh hoàn toàn tin tướng cậu ấy, và anh có nhiều việc cần nói với cá hai người. - Peter
Không có gì lạ, giờ chiếc iPhone của Peter phát tín hiệu nhận trả lời từ Katherine.
Anh Peter, chúc mừng anh đã học được cách nhắn tin! Biết anh vẫn ổn em rất yên tâm. Đã nói chuyện với Bs. A., cậu ta đang tới phòng thí nghiệm. Lát gặp! - K.
Siết chặt chiếc iPhone của Solomon, Mal’akh cúi xuống phía dưới chiếc Limousine và gài điện thoại vào giữa bánh trước và vỉa hè.
Chiếc điện thoại này phục vụ gã rất đắc lực… nhưng giờ đã đến lúc nó cần biến mất không dấu vết. Gã leo lên sau tay lái, cài số, và cho xe trườn lên phía trước cho tới khi nghe tiếng rắc rắc đanh gọn vì bị nghiền nát của chiếc iPhone.
Mal’akh lùi xe trở lại bãi đỗ và chăm chú nhìn bóng toà nhà SMSC phía xa. Mười phút. Nhà kho của Peter Solomon chứa hơn 30 triệu báu vật, nhưng đêm nay, Mal’akh đến đây để phá huỷ hai thứ giá trị nhất mà thôi.
Tất cả những nghiên cứu của Katherine Solomon.
Và chính Katherine Solomon.

Chú thích:
(48) Ping là một tiện ích đi kèm trong UNIX, Intemet và các hệ thống mạng TCP, IP. Ping tương đương với một tiếng la trong hẻm núi và lắng nghe tiếng vọng lại của nó. Ta “ping” một máy chủ khác trên hệ thống mạng để xem máy chủ đó có thể tiến đến được từ máy chủ của ta hay không. Câu lệnh có dạng ping ip address, trong đó ip address là địa chỉ IP của máy chủ mà bạn muốn liên lạc Ping sử dụng giao thức ICMP (Intemet Control Message Protocol: Giao thức điều khiển thông báo trên Intemet) để giải quyết công việc của nó. Nói một cách cụ thể, nó gửi đi một thông báo kiểu tiếng vang ICMP đến máy chủ được chỉ định - ND.
(49) Whois là một giao thức giúp người dùng truy vấn thông tin về domain và IP thông qua cơ sở dữ liệu của các Whois server. Có 2 loại: Whois Domain và Whois IP. Whois Domain cho phép lấy thông tin khách hàng đăng ký từ cơ sở dữ liệu Whois của nhà đăng ký tên miền, còn Whois IP cho phép lấy thông tin về địa điểm (nhà cung cấp dịch vụ Internet, quốc gia) của máy chủ - ND.
hết Chương 25

kiemanh
10-10-2010, 05:10 PM
Chương 26


- Giáo sư Langdon ư? - Sato gọi - ông nhìn thấy ma đấy à? Ông không sao chứ?
Langdon xốc chiếc túi xách lên vai và đặt bàn tay của mình lên nó, tưởng như hành động này ít nhiều giúp anh giấu kỹ hơn cái gói hình khối hộp bên trong. Anh cảm nhận được mặt mình xám ngoét.
- Tôi… chỉ thấy lo cho Peter.
Sato nghếch mặt, liếc xéo anh.
Langdon đột nhiên cảnh giác, sự can thiệp của Sato tối nay rất có thể liên quan đến cái gói nhỏ mà Solomon tin tưởng giao cho anh.
Peter đã cảnh báo: Những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó. Thứ bùa này sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác. Langdon không lý giải nổi tại sao CIA lại cần một chiếc hộp nhỏ chứa bùa phép… hoặc cái gì tương tự bùa phép. Ordo ab chao chăng?
Sato bước lại gần hơn, đôi mắt đen đầy soi mói.
- Tôi cảm thấy ông đã phát hiện ra gì đó thì phải?
Langdon toát mồ hôi.
- Không, không hẳn.
- Ông đang toan tính gì vậy?
- Tôi chỉ… - Langdon ngập ngừng, chẳng biết nên nói thế nào.
Anh không có ý định tiết lộ về sự tồn tại của cái gói nằm trong túi mình, nhưng nếu Sato dẫn anh tới CIA thì chắc chắn cái túi sẽ bị khám xét - Thực ra… - anh bịa chuyện - tôi có một ý tưởng khác về những con số trên bàn tay Peter.
Sato không biểu lộ gì.
- Sao nào? - Bà ta liếc Anderson, lúc đó vừa quay lại sau khi đón nhóm pháp y mới tới.
Langdon nuốt khan và cúi rạp xuống bên bàn tay, băn khoăn không biết nên nói gì với họ bây giờ. Mày là một giáo viên cơ mà? Robert, ứng biến đi. Anh quan sát kỹ lần cuối bảy biểu tượng nhỏ xíu, hy vọng gợi ra được chút liên tưởng nào đó.

Chẳng ích gì. Trống rỗng.
Langdon dùng khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh duyệt lại các bộ bách khoa thư về biểu tượng trong óc mình, nhưng chỉ tìm được một điểm khả dĩ bấu víu. Nó xuất hiện với anh ngay từ đầu, nhưng xem chừng không thuyết phục lắm. Tuy nhiên, lúc này không còn nhiều thời gian cân nhắc nữa.
- Chà, - anh bắt đầu nói - dấu hiệu đầu tiên khiến một nhà ký tượng học biết rằng mình đang đi sai hướng khi giải đoán các biểu tượng và mật mã là diễn giải các biểu tượng bằng cách sứ dụng nhiều ngôn ngữ tượng hình. Chẳng hạn, khi tôi nói với quý vị câu này là của La Ma và A rập thì đó là một phân tích kém bởi vì tôi sử dụng nhiều hệ thống biểu tượng. Với chữ La Mã và chữ rung cũng y như vậy.
Sato khoanh tay và nhướng mày như muốn nói “Tiếp đi xem nào!”
- Nhìn chung, giao tiếp được thực hiện bằng một ngôn ngữ, không phải nhiều ngôn ngữ, vì thế trước bất kỳ văn bản nào, công việc đầu tiên của nhà ký tượng học là phải tìm một và chỉ một hệ thống biểu tượng nhất quán áp dụng cho toàn bộ văn bản đó.
- Giờ ông đã thấy một hệ thống duy nhất?
- Chà, vâng… à không - Kinh nghiệm về sự đăng đối của các biểu tượng hai chiều đối xứng đã dạy cho Langdon biết rằng đôi khi các biểu tượng có ý nghĩa nếu nhìn từ nhiều góc độ. Trong trường hợp này, anh nhận ra trên thực tế có một cách để quan sát cả bảy biểu tượng bằng một ngôn ngữ duy nhất - Nếu chúng ta thay đổi bàn tay một chút, ngôn ngữ sẽ trở nên nhất quán.
Lạ thay, thao tác Langdon sắp thực hiện dường như giống hệt với điều mà kẻ bắt giữ Peter gợi ý lúc gã nói ra câu ngạn ngữ Hermetic cổ xưa. Thương hạ tương liên.
Langdon rùng cả mình khi nhoài người lên, vớ lấy cái đế gỗ cắm bàn tay Peter. Nhẹ nhàng. anh xoay ngược cái đế để cho các ngón tay duỗi trỏ thẳng xuống phía dưới. Những biểu tượng trong lòng bàn tay lập tức thay đổi:

- Nhìn từ góc độ này, - Langdon nói - X-I-I-I trở thành một số La Mã có giá trị: số 13. Đồng thời, có thể diễn giải các ký tự còn lại bằng cách sử dụng bảng chữ cái La Mã: SBB - Langdon cho rằng phân tích của mình sẽ chỉ dẫn tới những cái nhún vai hời hợt, nhưng nét mặt Anderson lập tức thay đổi.
- SBB à? - viên Chỉ huy kêu lên.
Sato quay phắt về phía Anderson.
- Nếu tôi không nhầm thì nó khá giống một hệ thống đánh số quen thuộc trong Điện Capitol này.
Anderson tái mặt.
- Đúng thế.
Sato nở một nụ cười thâm hiểm và gật đầu với Anderson.
- Chỉ huy, theo tôi nào. Tôi muốn nói vài lời riêng với anh.
Khi Giám đốc Sato dẫn Chỉ huy Anderson ra khỏi tầm nghe, Langdon còn lại một mình ngơ ngác. Chuyện quái gì đang diễn ra đây vậy?
***
Chỉ huy Anderson băn khoăn không hiểu tại sao tình hình tối hôm nay lại diễn biến kỳ lạ đến thế. Bàn tay nói tới SBB13 ư? Anh ta rất ngạc nhiên vì có kẻ ngoại đạo lại nghe nói tới SBB… thậm chí rành rẽ là SBB13. Ngón tay trỏ của Peter Solomon không muốn bảo họ lên trên như lúc đầu… mà chỉ theo một hướng hoàn toàn ngược lại.
Giám đốc Sato dẫn Anderson tới một khu vực yên tĩnh gần bức tượng đồng của Thomas Jefferson.
- Chỉ huy, - bà ta hỏi - tôi tin anh biết chính xác SBB13 nằm ở chỗ nào phải không?
- Dĩ nhiên rồi.
- Anh có biết bên trong là gì không?
- Không, không thể biết nếu không xem. Tôi nghĩ nó dừng hoạt động mấy thập kỷ nay rồi.
- Chà, anh sẽ mở nó nhé!
Anderson rất khó chịu vì bị sai khiến ngay trong toà nhà do mình quản lý.
- Thưa bà, như thế rất dễ có vấn đề. Tôi sẽ phải kiểm tra bảng phân công nhiệm vụ trước đã. Bà biết đấy, hầu hết các tầng phía dưới đều là văn phòng riêng hoặc nhà kho, và quy trình an ninh rất coi trọng sự riêng tư…
- Anh sẽ mở SBB13 cho tôi, - Sato nói - hoặc tôi sẽ gọi OS và cử một đội mang theo máy phá tường tới đấy.
Anderson trợn mắt nhìn Sato một lúc lâu rồi rút bộ đàm ra, đưa lên miệng.
Anderson đây. Tôi cần ai đó mở SBB. Trong vòng năm phút nữa, cho người tới gặp tôi tại đó nhé.
Giọng trả lời nghe có vẻ lúng túng.
- Chỉ huy, xin xác nhận là anh vừa nói SBB phải không?
- Đúng. SBB. Cử ai đó tới ngay lập tức, và tôi cần đèn pin - Anderson tắt bộ đàm. Tim anh ta đập rộn lên khi Sato bước lại gần, hạ giọng thấp hơn nữa.
- Chỉ huy, thời gian rất gấp - bà ta thì thào - và tôi muốn anh đưa chúng tôi xuống SBB13 càng nhanh càng tốt.
- Vâng, thưa bà.
- Tôi cũng cần anh giúp một việc khác nữa.
Mở cửa và xông vào vẫn còn chưa đủ ư? Anderson đang ở tình thế không phản đối được, nhưng vẫn không quên chú ý rằng Sato đến nơi chỉ vài phút sau khi bàn tay của Peter xuất hiện trong Nhà tròn, và giờ đây bà ta đang tận dụng tình huống này để đòi xâm nhập khu vực riêng của Điện Capitol. Dường như tối nay bà ta đã đi quá giới hạn cho phép.
Sato ra hiệu về phía vị Giáo sư.
- Cái túi da trên vai Langdon.
Anderson liếc mắt nhìn.
- Sao cơ?
- Tôi cho rằng người của anh đã soi cái túi đó khi Langdon vào toà nhà này?
- Dĩ nhiên. Tất cả các túi đều được soi kỹ.
- Tôi muốn xem bản soi đó. Tôi muốn biết trong túi có cái gì.
Anderson nhìn chiếc túi mà Langdon đeo khư khư suốt buổi tối.
- Nhưng… hỏi thẳng ông ta thì không đơn giản hơn à?
- Yêu cầu của tôi có gì không rõ chăng?
Anderson lại rút bộ đàm ra và thông báo đề nghị của Sato. Sato cho biết địa chỉ Blackberry và yêu cầu người của anh ta gửi cho mình một bản X quang số hoá qua email ngay khi họ tìm được nó.
Anderson miễn cưỡng nghe theo.
Lúc này nhóm pháp y đang định thu lấy bàn tay để chuyển cho Cảnh sát Điện Capitol, nhưng Sato ra lệnh cho họ gửi thẳng tới đơn vị của bà ta ở Langley. Anderson quá mệt mỏi nên chẳng buồn phản đối. Anh ta đã bị cỗ xe lu Nhật Bản nhỏ xíu ấy nghiến dẹp lép rồi.
- Tôi muốn cả cái nhẫn đó nữa - Sato gọi với theo nhóm pháp y.
Kỹ thuật viên trưởng toan tranh cãi, nhưng nghĩ lại chẳng nên. Anh ta tháo cái nhẫn vàng khỏi tay Peter, đặt nó vào một túi lấy mẫu sạch sẽ và đưa cho Sato. Bà ta đút tọt nó vào túi áo khoác rồi quay về phía Langdon.
- Chúng ta đi chứ, Giáo sư. Mang theo đồ đạc của ông.
- Chúng ta đi đâu? Langdon hỏi lại.
- Cứ theo ông Anderson thôi.
Ờ, Anderson nghĩ, và theo sát tôi đấy! SBB là khu vực rất ít người ghé thăm trong Điện Capitol. Để tới đó, họ sẽ phải qua một mê cung toàn những căn buồng bé xíu và những lối đi hẹp nằm ngay bên dưới tầng hầm. Cậu con trai út của Abraham Lincoln bị lạc dưới đó và suýt bỏ mạng. Anderson bắt đầu ngờ rằng nếu Sato có ý đồ gì thì chắc Robert Langdon sẽ chịu số phận tương tự.
hết Chương 26

kiemanh
10-10-2010, 05:11 PM
Chương 27


Chuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis luôn tự hào rằng mình có khả năng làm nhiều công việc: Lúc này, anh ta đang ngồi trên ghế phô-tơi với một chiếc điều khiển TV, một điện thoại không dây, một máy tính xách tay, một máy PDA, và một bát Pirate’s Booty(50) to tướng. Một mắt thì để ý trận đấu của đội Redskins đã tạm tắt tiếng còn một mắt để vào chiếc máy tính, Zoubianis đang nói chuyện qua tai nghe Bluetooth với một phụ nữ đã bặt tin tức hơn một năm nay.
- Thế quái nào mà Trish Dunne lại gọi tới vào đúng buổi tối có trận đấu quyết định thế này chứ? Lại một lần nữa thể hiện sự vô lý của mình, người đồng nghiệp cũ đã chọn đúng trận đấu của đội Redskins làm thời điểm để chuyện phiếm với Zoubianis và nhờ giúp một việc. Sau một hồi chuyện trò qua loa về những ngày trước kia và nói rằng cô nhớ những lời bông đùa tuyệt vời của anh ta, Trish đi thẳng vào vấn đề chính: cô đang tìm cách xác định một địa chỉ IP ẩn, có lẽ đó là một máy chủ bảo mật thuộc khu vực Washington D.C. Máy chủ này có một văn bản nhỏ và cô muốn truy cập vào nó… hoặc ít ra thì cũng khai thác thông tin xem tài liệu thuộc về ai.
Đúng người nhưng không đúng lúc, Zoubianis bảo cô. Thế là Trish tuôn ra tràng giang đại hải những lời tán tụng, hầu hết đều là sự thật, và Zoubianis chẳng biết mình gõ một địa chỉ IP rất lạ vào máy tính tự lúc nào.
Zoubianis nhìn con số và nhận ra ngay rằng công việc không dễ dàng gì.
- Trish. IP này có định dạng hiện đại lắm. Nó được viết theo một giao thức thậm chí còn chưa trình ra công chúng. Có lẽ nó thuộc giới quân sự hoặc tình báo chính phủ.
- Quân sự à? - Trish cười - Tin em đi, em vừa lôi một tài liệu soạn lại từ máy chủ này mà, và nó không phải của quân đội.
Zoubianis kéo cửa sổ gốc của mình lên và thử truy dấu.
- Em bảo rằng truy dấu của em bị tắc à?
- Vâng. Hai lần. Cùng một bước truyền.
- Của anh cũng thế - Anh ta kéo một trình dò tìm chẩn đoán và chạy thử - Thế IP này có gì hay ho vậy?
- Em chạy một trình uỷ thác sử dụng cơ chế tìm kiếm ở IP này và thu được một tài liệu đã lọc. Em cần xem nội dung còn lại của lài liệu.
- Em sẵn sàng trả tiền, nhưng em không tài nào xác định được ai là người sở hữu IP hay làm cách nào truy cập được nó.
Zoubianis cau mày nhìn màn hình.
- Em có chắc không đấy? Anh đang chạy một trình chẩn đoán, và mã tường lửa trông… rất thâm nghiêm.
- Thế anh mới được trả nhiều tiền.
Zoubianis ngẫm nghĩ. Họ trả cho anh ta cả đống tiền để làm một việc dễ dàng.
- Hỏi một câu thôi, Trish. Tại sao em quan tâm đến vụ này thế?
Trish do dự.
- Em làm giúp một người bạn.
- Chắc phải là bạn rất đặc biệt.
- Vâng.
Zoubianis cười khan nhưng không nói gì. Tôi biết tỏng mà.
- Thế nào, - Trish lên tiếng, vẻ nôn nóng - Anh đủ khả năng xác định IP này chứ? Phải không?
- Có, anh đủ khả năng, và ờ, anh biết em đang định quay anh như quay dế đây.
- Anh sẽ mất bao lâu?
- Không lâu đâu! - Zoubianis đáp, tay vẫn gõ bàn phím - Anh có thể thâm nhập vào máy trên hệ thống của họ trong vòng mười phút. Khi nào vào được và tìm thấy gì, anh sẽ gọi lại cho em.
- Em rất cảm ơn. Thế anh vẫn ổn chứ?
Giờ cô nàng mới thèm hỏi?
- Trish, Chúa ơi, em gọi cho anh đúng buổi tối có một trận đấu quan trọng và giờ em muốn chuyện phiếm à? Thế em muốn anh thâm nhập IP này hay không đây?
- Cảm ơn anh, Mark. Em sẽ đợi anh gọi lại.
- Mười lăm phút nữa - Zoubianis gác máy, vớ lấy bát Pirate’s Booty và bật tiếng trận đấu bóng lên.
Ôi phụ nữ!

Chú thích:
(50) Pirate’s Booty là đồ ăn nhanh do công ty Robert’s American Gourmet Food sản xuất. Loại đồ ăn này chủ yếu làm từ nguyên liệu tự nhiên và pho mát thật - ND.
hết Chương 27

kiemanh
10-10-2010, 05:14 PM
Chương 28


Bọn họ đưa mình đi đâu không biết
Vội vã theo Anderson và Sato đi sâu vào lòng Điện Capitol, Langdon cảm thấy nhịp tim mình tăng lên theo mỗi bước chân. Họ bắt đầu hành trình qua cổng tây Nhà tròn, men xuống một cầu thang bằng đá cẩm thạch và sau đó quay ngược lại qua một ô cửa rộng để vào căn buồng nổi tiếng ngay bên dưới nền Nhà tròn.
Nhà hầm điện Capitol.
Không khí ở đây khá ngột ngạt, Langdon bắt đầu cảm thấy nỗi sợ bị mắc kẹt. Trần nhà rất thấp. ánh sáng yếu ớt toả xuống làm nổi bật bốn mươi cây cột Doric đồ sộ đỡ phần nền bằng đá rất rộng ngay phía trên đầu. Thư giãn nào Robert.
- Lối này, - Anderson lên tiếng, rảo chân ngoặt sang trái, băng qua khoảng không gian hình tròn rất rộng.
Rất may, tầng hầm đặc biệt này không có cái xác nào cả. Thay vào đó nó chỉ có vài bức tượng, một mô hình Điện Capitol, và một khu lưu trữ thấp tè cất cái bục linh cữu bằng gỗ để đặt quan tài trong các buổi tang lễ cấp nhà nước. Bọn họ hấp tấp đi qua, thậm chí không đưa mắt liếc cái la bàn cẩm thạch bốn điểm ở chính giữa nền nhà, nơi Ngọn lửa Vĩnh cửu từng cháy sáng.
Anderson dường như rất vội vã. Sato lại một lần nữa chúi đầu vào chiếc Blackberry. Langdon nghe nói dịch vụ điện thoại di động được phát triển và phổ biến khắp mọi góc của Điện Capitol để phục vụ hàng trăm cuộc gọi của chính phủ diễn ra ở đây hằng ngày.
Sau khi băng chéo qua tầng hầm, cả nhóm bước vào một phòng nghỉ sáng lờ mờ và bắt đầu đi ngoắt ngoéo qua một loạt hành lang và ngõ cụt rối tinh rối mù. Cái mê cung này có nhiều ô cửa đánh số, mỗi cửa đều mang một con số xác định. Langdon đọc các cửa trong khi đi lòng vòng theo hai người kia.

S154… S153… S152…

Anh không biết những gì đang nằm sau các cánh cửa kia, nhưng chí ít đã có một việc trở nên sáng tỏ, đó là ý nghĩa của hình xăm trên lòng bàn tay Peter Solomon. SBB13 có vẻ như là một ô cửa được đánh số ở đâu đó dưới tận cùng Điện Capitol.
- Những cánh cửa này để làm gì vậy? - Langdon hỏi, tay ép chặt túi xách vào sườn và băn khoăn tự hỏi cái gói nhỏ của Solomon liệu có tác dụng gì với cánh cửa đánh số SBB13 không.
- Văn phòng và nhà kho, - Anderson nói - Văn phòng riêng và nhà kho - anh ta bổ sung, liếc nhìn Sato.
Giám đốc OS thậm chí không rời mắt khỏi cái Blackberry của mình.
- Trông chúng nhỏ xíu. - Langdon nhận xét.
Hầu hết những căn buồng này chỉ để làm cảnh, nhưng chúng vẫn là nhóm bất động sản được săn lùng nhất ở Thủ đô. Đây là trung tâm của Điện Capitol thời kỳ đầu, Phòng họp Thượng viện cũ ở trên chúng ta hai tầng.
- Thế còn SBB13? - Langdon hỏi - Đó là văn phòng của ai?
- Chẳng của ai. SBB là khu nhà kho riêng, và tôi phải nói trước rằng tôi thắc mắc không biết…
- Chỉ huy Anderson, - Sato ngắt lời mà không hề rời mắt khỏi chiếc Blackberry - Chỉ cần đưa chúng tôi tới đó thôi.
Anderson nghiến chặt răng và im lặng dẫn họ đi qua một khu pha lẫn giữa nhà kho với mê cung. Trên phần lớn các bức tường, những tấm biển chỉ dẫn đều chỉ về cả hai phía trước và sau, rõ ràng là cố gắng định vị các khu văn phòng cụ thể trong mạng lưới hành lang nhằng nhịt này.

S142 tới S152…
ST1 tới ST70…
H1 tới H166 và HT1 tới HT67…

Langdon không chắc có thể tìm được đường ra khỏi đây một mình. Nơi này đúng là một mê cung. Từ tất cả những gì thu thập được, anh nhận ra số hiệu văn phòng bắt đầu bằng chữ S hay H là tuỳ thuộc vào việc chúng nằm ở khu vực Thượng hay Hạ viện.
Những nơi có ghi ST và HT rõ ràng là một cấp mà Anderson gọi là Cấp Bậc thang.
Vẫn chưa thấy biển đề SBB.
Cuối cùng họ cũng tới một cánh cửa bằng thép nặng nề gắn ổ khoá bằng thẻ từ.
TẦNG SB
Langdon cảm thấy họ đang tiến gần đến đích.
Anderson định lấy thẻ của mình nhưng rồi lại ngập ngừng, cảm thấy không thoải mái với yêu cầu của Sato.
- Chỉ huy, - Giám đốc OS giục - Chúng ta không có cả đêm đâu.
Anderson miễn cưỡng nhét thẻ vào. Cánh cửa thép bật mở. Anh ta đẩy hẳn nó ra, cả bọn bước qua và tiến vào một tiền sảnh. Cánh cửa nặng nề đóng lại sau lưng họ.
Langdon không rõ mình hy vọng nhìn thấy gì ở tiền sảnh này, nhưng chắc chắn nó hoàn toàn khác với khung cảnh đang hiện ra trước mắt. Anh nhìn đăm đăm vào chiếc cầu thang dẫn xuống dưới.
- Lại xuống tiếp à? - anh thốt lên, rồi ngừng lại một lúc - Còn tầng nào bên dưới tầng hầm cơ à?
- Phải, - Anderson xác nhận - SB là viết tắt của “Hầm Thượng viện”.
Langdon rên lên. Thật kinh khủng.
hết Chương 28
Chương 29


Một tiếng đồng hồ trôi qua, mới lại có ánh đèn pha rọi lên đoạn đường gom nhiều cây cối dẫn vào SMSC. Vì nhiệm vụ, người bảo vệ vặn nhỏ tiếng chiếc ti vi xách tay của mình và giấu suất ăn nhanh xuống phía dưới quầy. Chẳng đúng lúc chút nào. Đội Redskins đang kết thúc pha nỗ lực mở màn của mình, mà anh thì không muốn bỏ lỡ nó.
Khi chiếc xe hơi lại gần hơn, người bảo vệ kiểm tra tên họ ghi trong sổ trực đặt trước mặt.
Bác sĩ Christopher Abaddon.
Katherine Solomon vừa gọi để báo cho bộ phận An ninh biết khách của mình sắp tới. Người bảo vệ không biết vị bác sĩ này là ai, nhưng rõ ràng phải là một bác sĩ rất ngon lành, vì ông ta đến bằng chiếc Limousine dài màu đen. Cỗ xe sang trọng dài ngoằng dừng lại bên cạnh phòng bảo vệ, và người lái xe hạ kính cửa sổ xuống êm ru.
- Chào anh, - gã lái xe lên tiếng, đưa tay lột mũ. Anh ta có vóc dáng vạm vỡ, đầu cạo trọc lốc, cũng đang nghe trận đấu bóng trên đài - Tôi đưa bác sĩ Christopher Abaddon tới gặp bà Katherine Solomon.
Người bảo vệ gật đầu.
- Xin cho xem giấy tờ tuỳ thân.
Gã lái xe tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Xin lỗi, bà Solomon chưa gọi trước sao?
Người bảo vệ gật đầu, lén liếc nhìn màn hình ti vi.
- Tôi vẫn phải quét và ghi lại dữ liệu của khách khứa. Rất xin lỗi, quy định mà. Tôi cần xem giấy tờ tuỳ thân của bác sĩ.
- Không sao - Gã lái xe quay về phía sau ghế ngồi của anh ta và nói bằng giọng khẽ khàng qua tấm vách ngăn cách. Trong khi đó, người bảo vệ lại lén theo dõi trận đấu. Đội Redskins giờ đã ổn định được thế trận, nên người bảo vệ chỉ mong làm xong thủ tục cho chiếc Limousine này trước khi bước vào ván mới.
Gã lái xe lại quay lên và chìa ra tấm thẻ mà rõ ràng anh ta vừa nhận lấy qua tấm vách ngăn.
Người bảo vệ cầm thẻ và nhanh chóng quét qua hệ thống của mình. Tấm bằng lái xe đăng ký ở Washington D.C., chủ nhân là Christopher Abaddon sống ở khu Kalorama Heights. Tấm ảnh cho thấy một quý ông tóc vàng điển trai mặc áo cộc tay màu xanh dương, đeo cà vạt, miệng túi cài chiếc khăn mùi xoa bằng sa tanh. Sao lại có người đeo khăn mùi xoa bỏ túi tới Bộ Phương tiện Cơ giới chứ?
Tiếng reo hò nổi lên từ ti vi, người bảo vệ ngoái lại vừa kịp lúc nhìn thấy một cầu thủ áo đỏ nhảy múa ở khu vực cuối sân, ngón tay anh ta chỉ lên trời.
- Mình bỏ lỡ rồi, - người bảo vệ rên rỉ, quay ra phía cửa sổ.
- Được - anh nói, trả thẻ cho gã lái xe - Các vị xong xuôi rồi.
Chiếc Limousine lăn bánh qua, người bảo vệ quay về với cái ti vi của mình, hy vọng sẽ được xem cảnh chiếu lại.
***
Mal’akh lái chiếc Limousine chạy theo lối đi ngoằn ngoèo mà không thể nhịn được cười. Bảo tàng bí mật của Peter thật rất dễ đột nhập. Tuyệt hơn nữa, tối nay là lần thứ hai trong vòng hai mươi tư giờ qua Mal’akh lọt được vào một trong những khu vực kín đáo của Solomon. Đêm qua, gã đã thực hiện một cuộc viếng thăm tương tự tới tư gia ông ta.
Mặc dù có một điền trang rất lớn ở Potomac, nhưng phần lớn thời gian Peter Solomon ngụ tại thành phố, trong căn hộ áp mái của mình ở Dorchester Arms. Toà nhà ông ở, cũng như hầu hết mọi khu nhà dành cho các đại gia, là một pháo đài thực sự. Tường rất cao. Cổng có bảo vệ. Khách khứa ra vào phải đăng ký. Bãi đỗ xe ngầm có bảo đảm an ninh.
Mal’akh đã lái chiếc Limousine này tới phòng bảo vệ của toà nhà, bỏ chiếc mũ khỏi cái đầu trọc lốc, và nói rành rẽ.
- Tôi chở bác sĩ Christopher Abaddon. Ông ấy là khách mời của ngài Peter Solomon - Mal’akh nói năng cứ như thể gã đang tuyên bố mình là Công tước xứ York vậy.
Người bảo vệ kiểm tra sổ ghi chép, rồi xem căn cước của Abaddon.
- Vâng, tôi biết ngài Solomon đang đợi bác sĩ Abaddon - Anh ta ấn nút và cánh cổng mở ra - Ngài Solomon ở căn hộ tầng áp mái. Mời khách của anh dùng thang máy cuối cùng bên phải. Nó chạy thẳng lên tận nơi.
- Cảm ơn anh - Mal’akh đội mũ lên và lái xe qua.
Khi vòng xe vào sâu ga ra, gã dõi tìm các máy quay an ninh. Chẳng có gì. Rõ ràng, những người sống ở đây không phải hạng đột nhập xe hơi người khác, cũng không ưa việc bị theo dõi rình mò.
Mal’akh đậu xe vào một góc tối gần thang máy, hạ vách ngăn giữa khoang lái và khoang khách, rồi trườn ra phía sau chiếc Limousine.
Khi đã yên vị, gã lột chiếc mũ lái xe của mình và đội mớ tóc giả lên.
Chỉnh chang lại áo vét và cà vạt, gã kiểm tra qua gương soi để chắc chắn rằng lớp hoá trang vẫn nguyên vẹn. Gã không được phép mạo hiểm, nhất là tối nay.
Ta đã chờ đợi việc này quá lâu rồi.
Vài giây sau, Mal’akh bước vào thang máy riêng. Thang chạy êm ru lên tận tầng trên cùng. Khi cửa mở ra, gã thấy mình ở trong một phòng chờ rất trang nhã. Vị chủ nhà của gã đã đợi sẵn.
- Bác sĩ Abaddon, xin chào.
Mal’akh nhìn vào đôi mắt xám nổi tiếng của người đàn ông và cảm thấy tim mình đập mạnh.
- Ông Solomon, tôi rất biết ơn vì ông đã dành thời gian gặp tôi.
- Kìa, xin cứ gọi tôi là Peter.
Hai người bắt tay. Khi nắm lấy bàn tay người đàn ông lớn tuổi, Mal’akh nhìn thấy chiếc nhẫn vàng Tam điểm… trên chính bàn tay đã từng cầm súng chĩa vào gã. Một giọng nói thì thầm vọng về từ dĩ vãng xa xăm. Nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.
- Mời vào, - Solomon nói, dẫn Mal’akh tới một phòng khách lịch sự có những ô cửa sổ rộng nhìn ra quang cảnh tuyệt đẹp của Washington D.C.
- Tôi ngửi thấy mùi trà thì phải? - Mal’akh hỏi khi bước vào.
Solomon có vẻ rất ấn tượng.
- Cha mẹ tôi luôn tiếp khách bằng trà. Tôi cũng tiếp nối truyền thống đó - ông đưa Mal’akh vào phòng khách, bữa tiệc trà đang đợi trước lò sưởi - Kem hay đường nào?
- Đen thôi, xin cảm ơn.
Lại một lần nữa Solomon tỏ ra ấn tượng.
- Rất thanh đạm - ông rót cho cả hai mỗi người một tách trà đen - Anh nói cần thảo luận với tôi một chuyện rất nhạy cảm và chỉ có thể thảo luận riêng mà thôi.
- Cảm ơn. Tôi rất biết ơn ông đã dành thời gian.
- Anh và tôi giờ là huynh đệ trong Hội Tam điểm, người một nhà với nhau rồi. Hãy cho biết tôi giúp gì được anh.
- Trước hết, tôi muốn cảm ơn ông về vinh dự nhận cấp bậc 33 vài tháng trước. Điều này vô cùng có ý nghĩa với tôi.
- Tôi rất vui, nhưng xin nhớ những quyết định đó không phải của riêng tôi. Do Hội đồng Tối cao bầu mà.
- Dĩ nhiên rồi - Mal’akh tin chắc Peter Solomon có thể đã bỏ phiếu phủ quyết, nhưng trong Hội Tam điểm, cũng như ở tất cả những nơi khác, tiền là sức mạnh. Sau khi đạt được cấp độ 32 tại chi hội của mình, Mal’akh chỉ đợi có một tháng rồi quyên góp một khoản tiền trị giá hàng triệu đô la cho quỹ từ thiện đứng tên Đại Tổng Hội Tam điểm. Hành động tự nguyện hết sức hào phóng này, như Mal’akh tiên liệu, đủ mạnh để giúp gã nhanh chóng được mời vào đẳng cấp 33 tinh tuý. Nhưng ta vẫn chưa được biết về các bí mật.
***
Mặc dù lâu nay người ta cứ xì xầm rằng “Tất cả sẽ được tiết lộ ở cấp 33”, nhưng Mal’akh không khai thác nổi điều gì mới mẻ hay hợp với mục đích tìm kiếm của mình. Tuy vậy, gã cũng chẳng mong sẽ được nghe người ta chia sẻ bí mật. Nội bộ Hội Tam điểm càng vào sâu càng thu hẹp… hẹp đến mức dẫu vài năm nữa Mal’akh cũng chưa chắc được đặt chân vào. Nhưng gã chẳng cần. Việc nhập môn chỉ để phục vụ mục đích này. Có gì đó rất hiếm gặp đã xảy ra ngay trong Phòng Thánh lễ, và nó đã đem lại cho Mal’akh quyền năng vượt trên tất cả. Ta khéo còn phải chơi theo quy định của các người nữa.
- Ông có nhận ra rằng chúng ta đã từng gặp nhau nhiều năm về trước không? - Mal’akh nói và nhấp một ngụp trà.
Solomon lộ vẻ ngạc nhiên.
- Thật sao? Tôi không nhớ.
- Cũng đã lâu lắm rồi - Và Christopher Abaddon không phải tên thật của tôi.
- Xin lỗi. Đầu óc tôi đang già đi từng ngày. Xin nhắc lại xem tôi quen anh như thế nào nhỉ?
Mal’akh mỉm cười lần cuối với người đàn ông gã căm ghét hơn bất kỳ ai khác trên cõi đời này.
- Thật tiếc là ông không còn nhớ.
Bằng một động tác thuần thục, Mal’akh rút từ trong túi một thiết bị nhỏ xíu, giơ ra và phóng mạnh nó tới ngực ông già. Một tia chớp xanh lè nhá sáng, khẩu súng gây choáng kêu xèo xèo sắc lạnh, và một cơn đau buốt trùm lên Peter Solomon khi hàng triệu volt điện chạy qua người ông. Mắt mở lớn. Ông già gục xuống ghế, bất động. Bấy giờ Mal’akh đứng dậy, cúi nhìn người đàn ông, vẻ thèm khát như một con sư tử sắp ăn thịt con mồi bị thương của nó.
Solomon há hốc miệng, cố thở.
Mal’akh nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt nạn nhân của gã và tự hỏi có bao nhiêu người từng được chứng kiến ngài Peter Solomon vĩ đại rúm ró thế này. Mal’akh tận hưởng cảnh tượng vài giây. Gã nhấp một ngụm trà, đợi cho ông già thở trở lại.
Solomon quằn quại, cố nói.
- Tạ… tại sao? - cuối cùng ông cũng bật ra thành tiếng.
- Vậy ông nghĩ sao? - Mal’akh hỏi lại.
Solomon thực sự ngơ ngác.
- Anh muốn… tiền ư?
Tiền à? Mal’akh cười phá lên và nhấp một ngụm trà nữa.
- Tôi đã tặng cho Hội Tam điểm hàng triệu đô la, tôi đâu có cần tiền - Tôi đến để lầy tri thức, và thứ đó làm cho tôi giàu có.
- Vậy thì… anh muốn gì?
- Ông nắm giữ một bí mật. Ông sẽ cho tôi biết điều đó tối nay.
Solomon cố nhấc đầu lên để có thể nhìn vào mắt Mal’akh.
- Tôi không… hiểu.
- Đừng dối trá nữa! - Mal’akh gào lớn, tiến sát lại ông già đã bị tê liệt. - Tôi biết có một thứ đang được cất giấu ở Washington này.
Đôi mắt xám của Solomon tỏ ra thách thức.
- Tôi không hiểu anh đang nói về chuyện gì!
Mal’akh nhấp một ngụm trà nữa và bỏ cái chén vào khay.
- Ông đã nói câu này với tôi mười năm về trước, vào đúng cái đêm mẹ ông chết.
Đôi mắt Solomon mở to.
- Mày…?
- Lẽ ra bà ấy đã không chết. Nếu ông đưa cho tôi thứ mà tôi muốn…
Gương mặt ông già nhăn nhúm vì đau đớn… và không sao tin nổi.
- Tôi đã cảnh cáo ông, - Mal’akh nói - nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.
- Nhưng mày…
Mal’akh lao bổ tới, một lần nữa dí thật mạnh khẩu súng điện vào ngực Solomon. Lại một tia lửa xanh lè nhá lên, và Solomon hoàn toàn tê liệt.
Mal’akh bỏ khẩu súng điện vào túi và thản nhiên uống nốt chén trà. Uống xong, gã lau miệng bằng chiếc khăn tay vải lanh thêu chữ ***g và cúi nhìn nạn nhân của mình.
- Chúng ta đi nào!
Cơ thể Solomon bất động, nhưng mắt ông vẫn mở to.
Mal’akh cúi xuống và thì thầm vào tai ông già.
- Tôi sẽ đưa ông tới một nơi chỉ có sự thật mà thôi.
Không nói thêm lời nào. Mal’akh nhét chiếc khăn tay vào miệng Solomon. Sau đó, gã xốc ông già bất động lên đôi vai vạm vỡ của mình và tiến ra phía thang máy. Trên đường đi ra, gã nhặt lấy chiếc iPhone cùng chìa khoá của Solomon để trên bàn.
Tối nay, ông sẽ cho tôi biết tất cả những bí mật của ông
Mal’akh nghĩ thầm. Kể cả lý do tại sao ông để mặc tôi chết nhiều năm về trước.
hết Chương 29
Chương 30


Tầng SB.
Tầng hầm Thượng viện.
Càng đi sâu xuống, Robert Langdon càng thấy tâm lý trĩu nặng nỗi sợ không gian hẹp. Khi họ tiến vào phần nền móng nguyên thuỷ của toà nhà, không khí trớ nên đặc quánh, tựa hồ không có hệ thống thông gió. Các bức tường ở đây được xây lẫn lộn bằng đá và gạch màu vàng.
Giám đốc Sato vẫn bấm phím chiếc Blackberry suốt dọc đường đi Langdon cảm thấy đằng sau điệu bộ thận trọng kia, bà ta đang nghi ngờ điều gì đó, nhưng chính anh cũng thấy ngờ vực về bà ta.
Sato vẫn không nói cho Langdon biết bằng cách nào bà ta hay tin anh có mặt ở đây tối nay. Vấn đề an ninh quốc gia ư? Có thời anh đã phải rất nhọc nhằn mới hiểu được mối quan hệ giữa chủ nghĩa thần bí cổ đại và vấn đề an ninh quốc gia. Lại một lần nữa, anh thấy khó khăn trong việc tìm hiểu những điều liên quan đến tình huống này.
Peter Solomon tin tưởng gửi gắm mình một lá bùa… một thằng điên dối trá đã lừa mình mang nó tới Điện Capitol và muốn mình dùng nó để mở một cánh cổng bí mật… có lẽ nằm ở trong một căn phòng gọi là SBB13.
Mọi việc không được rõ ràng lắm.
Vừa theo hai người kia hối hả bước đi, Langdon vừa cố gắng gạt bỏ khỏi tâm trí mình hình ảnh hãi hùng về bàn tay có hình xăm bị biến cải thành Mật Thủ của Peter. Hình ảnh kinh khủng ấy đi kèm với tiếng ông nói: Những bí ẩn cổ xưa, Robert ạ, sinh ra nhiều huyền tích… nhưng điều đó không có nghĩa rằng bản thân chúng là hư cấu.
Mặc dù đã dành cả đời nghiên cứu về những biểu tượng và lịch sử kỳ bí. Langdon vẫn tỉnh táo phản đối mọi ý tưởng về Bí ẩn cổ xưa cũng như lời hứa hẹn phong thần phong thánh của các bí mật ấy.

Phải thừa nhận rằng, tài liệu lịch sử có chứa một bằng chứng không thể chối cãi, theo đó tri thức bí ẩn khởi nguồn từ Mật phái ở Ai Cập cổ đại rồi được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Phần lớn các ghi chép cho thấy nó rút vào bóng tối đến tận thời Phục Hưng mới tái xuất ở châu Âu, và được gửi gắm cho một nhóm khoa học gia tinh tuý Nhóm này làm việc giữa bốn bức tường của Hiệp hội Hoàng gia London - cơ sở khoa học hàng đầu châu Âu - và được mệnh danh rất khó hiểu là Đại học Vô hình.

Cái “đại học” ẩn dạng này nhanh chóng trở thành bộ tham mưu của những trí tuệ sáng láng nhất thế giới, như Isaac Newton, Francis Bacon, Robert Boyle, và cả Benjamin Franklin. Danh sách tín đồ hiện đại cũng không kém phần ấn tượng, nào là Einstein, Hawking, nào là Bohr, Celsius - những bộ óc vĩ đại đã đem lại nhiều bước nhảy vọt phi thường trong hiểu biết của nhân loại. Một số người cho rằng thành tựu tiên tiến ấy là kết quả của việc họ được tiếp xúc với tri thức cổ xưa cất giấu ngay trong Đại học Vô hình. Langdon không bao giờ tin giả thuyết này, mặc dù chắc chắn là có rất nhiều “công việc bí ẩn” diễn ra trong mấy bức tường này.

Năm 1936, cả thế giới kinh ngạc khi phát hiện ra nhiều tài liệu riêng tư cho thấy Isaac Newton rất say mê nghiên cứu thuật giả kim cổ đại và tri thức thần bí, trong số đó có một bức thư viết tay gửi cho Robert Boyle khuyến nghị ông này giữ “im lặng” về những kiến thức bí mật mà họ đã tiếp thu được. “Đừng truyền bá nó”, Newton viết, kẻo sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến thế giới”.

Cho đến giờ người ta vẫn tranh cãi về ý nghĩa của câu cảnh báo lạ lùng này.
- Giáo sư, - Sato đột ngột lên tiếng, rời mắt khỏi cái Blackberry của bà ta - mặc dù ông khăng khăng nói rằng ông không lý giải nổi tại sao mình lại ở đây tối nay, nhưng có lẽ ông phải thấy nảy ra manh mối nào đó về ý nghĩa chiếc nhẫn của Peter Solomon chứ!
- Tôi sẽ cố gắng xem sao, - Langdon đáp, tập trung trở lại.
Sato lôi cái túi đựng mẫu vật ra và đưa cho Langdon.
Cho tôi biết về những biểu tượng trên chiếc nhẫn.
Bấy giờ họ đang bước dọc một hành lang vắng vẻ. Langdon kiểm tra chiếc nhẫn quen thuộc. Mặt nhẫn có hình một con phượng hoàng hai đầu quắp một dải băng mang dòng chữ ORDO AB CHAO, trên ngực nó vẽ con số 33.
- Phượng hoàng hai đầu mang số 33 là biểu trưng cho cấp bậc cao nhất trong Hội Tam điểm - Nói cho đúng, cấp độ rất uy tín này chỉ tồn tại riêng trong Phân hội Scottish(51). Tuy nhiên, các nghi thức và tầng bậc của Hội Tam điểm là một hệ thống tôn ti trật tự rất phức tạp mà Langdon không định đi vào chi hết tối nay - Về cơ bản, cấp bậc 33 là vị trí danh dự tinh tuý dành cho một nhóm nhỏ những hội viên Tam điểm xuất chúng. Tất cả các cấp độ khác có thể đạt được bằng cách hoàn thành xong cấp độ trước đó, nhưng việc leo lên đến cấp 33 thì lại bị khống chế. Phải mời mới được vào.
- Và ông biết rõ Peter Solomon là một thành viên của giới tinh tuý?
- Dĩ nhiên. Quan hệ thành viên gần như là một bí mật.
- Và ông ấy là nhân vật cao cấp nhất?
- Hiện tại thì đúng. Peter đứng đầu Hội đồng Tối cao Cấp độ 33, một cơ quan điều hành của Phân hội Scottish ở Mỹ.
Langdon luôn thích đến thăm tổng hành dinh của họ - Thánh điện, một kiệt tác cổ điển với phần trang trí mang tính biểu trưng có thể so sánh với Nhà nguyện Rosslyn ở Scotland.
Giáo sư, ông có chú ý thấy dòng chữ khắc quanh riềm nhẫn không? Đề là “Tất cả được tiết lộ ở cấp 33”.
Langdon gật đầu.
- Đây là một chủ đề rất phổ biến trong những truyền thuyết về Hội Tam điểm.
- Theo chỗ tôi hiểu, thế nghĩa là nếu một hội viên lên tới cấp 33 cao nhất thì anh ta sẽ được tiết lộ một điều gì đó thật đặc biệt?
- Phải, truyền thuyết thì như vậy, nhưng có lẽ không đúng với thực tế. Thiên hạ cứ đồn đoán rằng chỉ một số ít có chọn lọc trong tầng lớp cao nhất của Hội Tam điểm mới được chia sẻ một bí mật lớn lao nào đó. Song tôi ngờ rằng sự thật có lẽ không kịch tính đến thế.

Peter Solomon thường nửa đùa nửa thật về sự tồn tại của một bí mật quý giá trong Hội Tam điểm, nhưng Langdon luôn cho rằng đó chỉ là một ý đồ ranh mãnh nhằm lôi kéo anh gia nhập hội này.

Tiếc thay, những sự kiện tối nay không phải là đùa, và việc Peter nài anh giữ cái gói niêm phong trong túi này không hề gợn chút nào ranh mãnh.

Langdon khổ sở nhìn cái túi nhựa có chiếc nhẫn của Peter.
- Bà Giám đốc, - anh hỏi - tôi giữ thứ này có được không?
- Để làm gì?
- Nó rất có giá trị với Peter, và tối nay tôi muốn trả lại cho ông ấy.
Nét mặt Sato đầy nghi ngại.
- Hi vọng ông tìm được cơ hội đó.
- Cảm ơn - Langdon bỏ chiếc nhẫn vào túi.
Họ tiếp tục tiến sâu hơn vào mê cung, Sato lại lên tiếng:
- Tôi hỏi câu nữa. Nhân viên của tôi nói rằng khi kiểm tra các khái niệm “cấp 33” và “cánh cổng” liên quan đến Hội Tam điểm, họ tìm thấy hàng trăm tài liệu tham khảo đề cập đến kim tự tháp. Tại sao thế?
- Điều đó không có gì lạ cả - Langdon đáp - Những người xây dựng Kim tự tháp Ai Cập là tiền nhân của thợ đá hiện đại, và kim tự tháp cùng với các chủ đề về Ai Cập, rất phổ biến trong hệ thống biểu tượng Hội Tam điểm.
- Biểu tượng gì chứ?
- Kim tự tháp thể hiện sự khai sáng. Nó là một biểu tượng kiến trúc qua đó con người cổ đại muốn chứng minh rằng họ có khả năng thoát khỏi cõi thế tục, vươn tới thiên đường, tới mặt trời vàng và cuối cùng là tới nguồn sáng tối thượng.
Sato đợi thêm một lát.
- Không còn gì khác sao?
Không còn gì khác sao? Langdon chẳng vừa mới nói đến một trong những biểu tượng tao nhã nhất lịch sử đấy thôi. Một cấu trúc mà qua nó con người nâng mình lên thế giới của thần thánh.
- Theo nhân viên của tôi - Sato tiếp tục - dường như tối nay có một mối liên hệ chặt chẽ hơn nhiều. Họ nói rằng có một truyền thuyết rất phổ biến về một kim tự tháp cụ thể ở đây, tại Washington này, một kim tự tháp liên hệ đặc biệt với Hội Tam điểm và các bí ẩn cổ xưa.
Giờ thì Langdon hiểu Sato đang nhắc đến điều gì, và anh cố gắng xua tan ý tưởng này trước khi họ lãng phí thêm thời gian.
- Tôi không lạ gì truyền thuyết đó, thưa bà Giám đốc, nhưng nó thuần tuý là sản phẩm tưởng tượng. Kim tự tháp Hội Tam điểm là một trong những huyền tích lâu đời nhất của Washington D.C., có lẽ bắt nguồn từ kim tự tháp trên Quốc ấn của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
- Tại sao ông không đề cập đến chuyện này sớm hơn?
Langdon nhún vai.
- Bởi vì nó không có cơ sở thực tế. Như tôi đã nói, nó là một huyền tích. Một trong rất nhiều huyền tích liên quan đến Hội Tam điểm.
- Và huyền tích cụ thể này có liên hệ trực tiếp đến các Bí ẩn cổ xưa?
- Chắc chắn rồi, giống như rất nhiều huyền tích khác. Các Bí ẩn cổ xưa là nền tảng cho vô số truyền thuyết tồn tại trong lịch sử, chẳng hạn những câu chuyện về tri thức hùng mạnh nằm trong vòng bảo vệ của các Hiệp sĩ đền thánh, Hội Thập tự Hoa hồng, tổ chức Illuminati(52), nhóm Alumbrados… và còn nhiều nhiều nữa. Tất cả đều dựa trên những bí ẩn cổ xưa. Kim tự tháp Hội Tam điểm chỉ là một ví dụ.
- Tôi hiểu rồi. - Sato đáp - Nhưng thực tế thì truyền thuyết này nói gì?
Langdon ngẫm nghĩ câu hỏi đó một lát rồi mới trả lời.
- Chà, tôi không chuyên lắm về các luận thuyết hư cấu, nhưng tôi được đào tạo về thần thoại học, và hầu hết các câu chuyện đều tiến triển như thế này: Các bí mật cổ xưa - hay gọi là tri thức thất truyền của mọi thời đại - từ lâu đã được coi là kho báu quý giá nhất của nhân loại và như tất cả các kho báu, chúng được bảo vệ rất cẩn mật. Các bậc hiền nhân được khai sáng, những người hiểu được sức mạnh thật sự của vốn tri thức này, rất sợ tiềm lực kinh khủng của nó. Họ biết rằng nếu kiến thức bí mật này rơi vào tay những kẻ chưa được khai tâm thì kết quả có thể rất tai hại; như chúng ta đã nói trước đó, những công cụ hùng mạnh có thể được sử dụng cho cả việc thiện lẫn việc ác. Vì thế, để bảo vệ các Bí ẩn cổ xưa và cũng là bảo vệ nhân loại, những người đầu tiên nắm bắt được tri thức đã thành lập ra các hiệp hội bí mật. Bên trong những hội này, họ chỉ chia sẻ tri thức của họ với những thành viên được khai sáng, truyền bá tri thức đó trong vòng các trí giả mà thôi. Nhiều người tin rằng chúng ta có thể xem lại và tìm thấy những tàn dư lịch sử của những người từng nắm được các bí ẩn… trong các câu chuyện về pháp sư, phù thuỷ và đạo nhân.
- Thế còn Kim tự tháp Hội Tam điểm? - Sato hỏi - Thứ đó thì liên quan gì chứ?
- Chà, - Langdon đáp, chân rảo bước nhanh hơn để theo cho kịp - đây là chỗ mà lịch sử và truyền thuyết bắt đầu giao thoa. Theo một số tài liệu, vào thế kỷ XVI ở châu Âu, hầu như tất cả các hội kín này đều biến mất, bị tiêu diệt bởi một làn sóng khủng bố tôn giáo. Người ta nói rằng, hội viên Tam điểm là những người cuối cùng còn tồn tại và gìn giữ các bí mật cổ xưa. Cũng dễ hiểu là họ sợ rằng nếu một ngày nào đó tổ chức của họ bị xoá sổ như những tổ chức tiền thân, thì các bí mật cổ xưa sẽ bị thất truyền mãi mãi.
- Thế còn kim tự tháp? - Sato lại nhấn mạnh.
Langdon bắt đầu giải thích.
- Truyền thuyết Kim tự tháp Hội Tam điểm rất đơn giản. Nó nói rằng, để hoàn thành trách nhiệm bảo vệ vốn tri thức vĩ đại cho các thế hệ tương lai, Hội Tam điểm quyết định giấu nó vào một pháo đài - Langdon cố gắng nhớ lại các chi tiết về câu chuyện - Một lần nữa, tôi nhấn mạnh đây chỉ là truyền thuyết, nhưng rất hay được viện dẫn, Hội Tam điểm đem tri thức bí mật của họ từ Cựu Thế giới tới Tân Thế giới, tức là tới đây, nước Mỹ này, một mảnh đất mà họ hy vọng sẽ thoát khỏi chế độ tôn giáo tàn bạo, và ở đây, họ xây dựng một pháo đài bất khả xâm phạm - một kim tư tháp bí mật - được thiết kế đế bảo vệ các bí mật cố xưa cho tới khi nào tất cả nhân loại sẵn sàng tiếp nhận sức mạnh ghê gớm mà tri thức này có thể đem lại. Theo truyền thuyết Hội Tam điểm đặt trên đỉnh kim tự tháp vĩ đại của họ một khối vàng đặc sáng rực rỡ làm biểu tượng cho kho báu quý giá bên trong - cái kho tri thức co xưa có thể giúp con người phát huy hết tiềm năng của mình. Hoá thành thần thánh.
- Câu chuyện hay đấy, - Sato nói.
- Vâng. Hội Tam điểm bị chinh phục bởi tất cả các loại huyền tích kỳ cục.
- Rõ ràng ông không tin rằng có một kim tự tháp như thế tồn tại.
- Dĩ nhiên là không rồi, - Langdon đáp - Không hề có bằng chứng gì cho thấy các bậc tiền bối hội viên Tam điểm của chúng ta đã xây dựng một loại kim tự tháp nào đó ở nước Mỹ, càng không thể ở Washington D.C. này. Rất khó giấu được một kim tự tháp, đặc biệt là một cái đủ lớn để chứa được toàn bộ tri thức đã bị thất truyền của mọi thời đại.
Theo lời Langdon, truyền thuyết chẳng bao giờ giải thích chính xác xem cái gì nằm bên trong Kim Tự tháp Hội Tam điểm - dù đó là những văn bản cổ, những văn tự huyền bí, những phát kiến khoa học, hay cái gì đó bí hiểm hơn thế nữa - nhưng huyền tích thật sự nói rằng thông tin quý giá bên trong được mã hoá rất khéo léo… và chỉ ai có tâm hồn khai sáng nhất mới đủ sức thấu hiểu.
- Nhưng dù sao - Langdon tiếp - câu chuyện này rơi vào một thể loại mà giới biểu tượng học chúng tôi gọi là một “lai tạp nguyên mẫu”, một hình thức pha trộn của những huyền tích kinh điển, vay mượn thêm nhiều yếu tố từ kho tàng thần thoại đến mức nó chỉ có thể là một sản phẩm hư cấu… không thể là sự thật lịch sử được.
Khi dạy sinh viên về các lai tạp nguyên mẫu, Langdon sử dụng ví dụ là các truyện thần tiên, được kể lại qua nhiều thế hệ và phóng đại dần theo thời gian, vay mượn rất nhiều của nhau để trở thành những câu chuyện đạo lý với những yếu tố ước lệ tương tự - những thiếu nữ đồng trinh, các hoàng tử đẹp trai, những toà lâu đài bất khả xâm phạm, và những phù thuỷ hùng mạnh. Nhờ các câu chuyện thần tiên, trận chiến “thiện và ác” bám rễ trong chúng ta từ thời còn thơ ấu thông qua các câu chuyện: Merlin chống lại Morgan le Fay, Thánh George chống lại Rồng, David chống lại quái vật Goliath, Nàng Bạch Tuyết chống lại Mụ phù thuỷ, và thậm chí là Luke Skywalker chiến đấu với Darth Vader.
Họ ngoặt qua một góc tường và theo Anderson xuống một quãng cầu thang ngắn nữa, Sato gãi gãi đầu.
- Giải thích cho tôi điều này nhé. Nếu tôi không nhầm thì các kim tự tháp từng được coi là những cánh cổng bí ẩn mà qua đó, các pharaoh băng hà có thể bay lên thế giới thần linh, có phải không nhỉ?
- Đúng đấy.
Sato dừng lại đột ngột và nắm lấy tay Langdon, ngước nhìn anh với vẻ mặt nửa ngạc nhiên nửa hoài nghi.
- Kẻ bắt cóc Peter Solomon bảo ông tìm một cánh cổng bí mật, và ông không hề nghĩ rằng gã đang nói về Kim tự tháp Hội Tam điểm trong huyền tích này ư?
- Nói gì thì nói, Kim Tự tháp Hội Tam điểm chỉ là một câu chuyện thần tiên. Nó hoàn toàn do tưởng tượng mà ra.
Sato bước lại sát anh hơn, tới mức Langdon ngửi thấy cả hơi thở sặc sụa mùi thuốc lá của bà ta.
- Tôi hiểu vị trí của ông trong chuyện này, thưa Giáo sư, nhưng vì cuộc điều tra, tôi không thể loại bỏ yếu tố so sánh. Một cánh cổng dẫn tới vốn tri thức bí mật ư? Theo kẻ bắt cóc Peter Solomon, nghe chừng chỉ ông mới mở được.
- Chà, tôi khó lòng tin…
- Ông tin điều gì không quan trọng. Dù sao đi nữa, ông cũng phải thừa nhận rằng bản thân gã đó có thể đang tin chắc vào khả năng tồn tại của Kim Tự tháp Hội Tam điểm.
- Gã là một kẻ mất trí! Gã cũng có thể tin rằng SBB 13 là lối vào một kim tự tháp khổng lồ ngầm dưới lòng đất, nơi chứa đựng tri thức đã bị thất truyền của cổ nhân!
Sato đứng lặng đi, đôi mắt rực sáng.
- Rắc rối mà tôi đang phải xử lý tối nay không phải là một chuyện thần tiên, thưa Giáo sư. Nó rất thật, tôi dám quả quyết với ông như thế.
Một sự im lặng lạnh lẽo bao trùm lấy họ.
- Thưa bà? - Cuối cùng Anderson lên tiếng, ra hiệu về phía cánh cửa bảo vệ cách đó 3 mét - Chúng ta gần đến nơi rồi, nếu chúng ta đi tiếp.
Cuối cùng Sato cũng thôi không nhìn xoáy vào Langdon nữa mà ra hiệu cho Anderson tiếp tục.
Họ theo viên Chỉ huy lực lượng an ninh đi qua ô cửa để vào một lối đi hẹp. Langdon ngó quanh, hết bên trái rồi bên phải.
Thật không thể tưởng tương được.
Anh chưa bao giờ trông thấy hành lang nào dài đến thế này.
Chú thích:
(51) Phân hội Scottish là một trong vài phân hội của Hội Tam điểm. Một phân hội gồm vài cấp bậc kế tiếp nhau do những tổ chức hoặc cơ quan khác nhau của Hội Tam điểm tấn phong, hoạt động dưới sự kiểm soát của cơ quan trung ương. Cơ quan trung ương của Phân hội Scottish là Hội đồng Tối cao. Phân hội Scottish là một trong những cơ quan trực thuộc Hội Tam điểm, nơi một huynh trưởng có thể gia nhập để tiếp tục lĩnh hội những nguyên tắc của Hội. Phân hội Scottish được hình thành dựa trên những lời giáo huấn đạo đức và triết lý do hội hành nghề (craft lodge hoặc Blue Lodge) đưa ra - ND.
(52) Tổ chức Illuminati là một hội kín được sáng lập vào thế kỷ XVI bởi những người khai sáng giỏi nhất Italia, gồm các nhà vật lý, thiên văn học, toán học, nhằm chia sẻ mối quan tâm của họ về những tín điều không chính xác của nhà thờ. Tên gọi Illuminati có nghĩa là “Những người khai sáng” - ND.
hết Chương 30

kiemanh
10-10-2010, 05:14 PM
Chương 31


Rời khỏi ánh đèn rực rỡ của Khối hộp và bước vào bóng tối thăm thẳm, Trish Dunne lại thấy lòng trào lên cảm giác sợ hãi quen thuộc. Bảo vệ ở cổng trước của SMSC vừa gọi vào báo vị khách của Katherine, bác sĩ Abaddon, đã đến và cần có người dẫn tới Khoang 5. Trish đề nghị được ra dẫn khách vào, chủ yếu là vì hiếu kỳ. Katherine nói rất ít về người đàn ông sắp ghé thăm họ, nên Trish cảm thấy hết sức tò mò. Rõ ràng là Peter cực kỳ tin tưởng anh ta, gia đình Solomon chưa từng mời ai tới Khối hộp cả.
Đây là trường hợp đầu tiên.

Mình hy vọng anh ta không sợ hãi màn đi bộ, Trish vừa nghĩ vừa dò dẫm qua vùng tối đen đặc. Cô háo hức muốn thấy vẻ kinh hãi của vị khách đặc biệt khi nhận ra những gì cần phải làm để tới được phòng thí nghiệm. Lần đầu luôn là lần tệ nhất.

Một năm về trước, Trish tới đây lần đầu tiên. Cô nhận lời mời làm việc của Katherine, ký hợp đồng và theo sếp mới tới SMSC để xem phòng thí nghiệm. Hai người phụ nữ đi bộ hết chiều dài của “đường phố”, đến trước một cánh cổng kim loại có dòng chữ KHOANG 5.

Mặc dù Katherine đã cố gắng chuẩn bị tinh thần cho cô gái bằng cách mô tả vị trí khá hẻo lánh của phòng thí nghiệm, nhưng Trish vẫn hết sức bất ngờ khi cửa khoang mở ra.

Trước mặt cô là một khoang tối đen trống rỗng

Katherine bước qua ngưỡng cửa, tiến vài bước vào vùng tối đặc quánh ấy, rồi ra hiệu cho Trish đi theo.
- Cứ tin tôi. Cô sẽ không bị lạc đâu.
Hình dung ra cảnh mình lần mò trong một căn phòng rộng bằng cả cái sân vận động nhưng tối đen như mực, Trish thấy toát mồ hôi.
- Chúng tôi có một hệ thống chỉ dẫn để giúp cô không lạc đường - Katherine trỏ xuống sàn - Rất thủ công thôi.

Trish nheo mắt, cố nhìn phần nền xi măng thô cứng qua bóng tối.

Cũng phải mất một lúc cô mới nhận ra nó, đúng là có một đường dẫn hẹp bằng thảm. Lớp thảm tuôn dài như một lối đi, mất hút trong bóng tối.
- Hãy nhìn bằng chính bàn chân cô - Katherine nói, xoay người cất bước - Cứ theo ngay sau tôi là được.

Thấy Katherine đã biến mất trong khoảng tối, Trish cố nén nỗi sợ hãi và bước theo. Đúng là điên rồ! Cô mới đi được vài bước trên thảm thì cánh cửa Khoang 5 sập lại phía sau, dập tắt những tia ánh sáng cuối cùng. Tim đập thình thịch, Trish tập trung hết tinh thần để cảm nhận lớp thảm dưới chân mình. Cô chỉ mới đánh bạo bước vài bước theo lớp thảm mềm thì cảm nhận được cạnh chân phải chạm vào lớp xi măng cứng lạnh. Giật mình, bản năng bảo cô dịch sang bên trái, đặt cả hai chân lên lớp thảm mềm mại.

Giọng Katherine vang lên phía trước, trong bóng tối, thanh âm gần như chìm nghỉm giữa không gian thăm thẳm tẻ ngắt này.

- Cơ thể con người rất kỳ lạ - Katherine nói - Nếu cô lấy đi của nó một giác quan, thì những giác quan khác sẽ thay thế, gần như ngay tức thì. Lúc này, nói cho đúng nghĩa thì thần kinh ở chân cô đang điều chỉnh để trở nên nhạy cảm hơn.
Đúng thật, Trish nghĩ, lại dò đường đi lần nữa.
Họ im lặng di chuyển trong một khoảng thời gian dường như đằng đẵng.
- Còn bao xa nữa? - Trish không kìm được buột hỏi.
- Chúng ta sắp đi được nửa đường rồi - Giọng Katherine giờ nghe có vẻ cách xa hơn.
Trish rảo chân bước nhanh, gắng hết sức để giữ bình tĩnh, nhưng hơi thở của bóng tối dường như sắp nuốt chửng cô. Mình chẳng nhìn thấy gì hết, dù là đặt sát trước mắt.
- Chị Katherine? Làm sao chị biết khi nào thì không phải đi nữa?
- Cô sẽ biết ngay thôi, - Katherine nói.
Đó là một năm về trước, còn bây giờ, tối nay, Trish lại một lần nữa đi trong khoảng tối, tiến theo hướng ngược lại, ra khỏi gian phòng để đón khách của sếp. Một cảm giác thay đổi đột ngột ở lớp thảm dưới chân báo cho cô biết rằng cô còn cách cửa khoảng ba thước. Trish dừng ngay lại, móc thẻ khoá ra và dò dẫm men theo tường cho tới khi tìm thấy khe khoá và nhét thẻ vào.
Cánh cửa rít lên.
Trish nheo mắt trước ánh sáng tràn tới từ hành lang SMSC.
Lại như mọi khi…
Bước dọc theo hành lang vắng ngắt, Trish nghĩ đến văn bản lọc thông tin kỳ lạ mà họ đã tìm thấy trên một nguồn bí mật. Một cánh cổng cổ xưa? Một vi trí bí mật dưới lòng đất. Cô tự hỏi liệu Mark Zoubianis có đủ may mắn truy ra xem tài liệu bí ẩn ấy nằm ở đâu không.
***
Bên trong phòng điều khiển, Katherine đứng trong màn ánh sáng dìu dịu của bức tường plasma và nhìn đăm đăm cái tài liệu bí ẩn mà họ đã tìm ra. Cô vừa tách các cụm từ chính của mình và càng lúc càng thấy chắc chắn rằng tài liệu này nói về đúng cái huyền tích mà anh trai cô từng hé lộ với bác sĩ Abaddon.
… vị trí bí mật DƯỚI LÒNG ĐẤT nơi…
đâu đó ở Washington D.C., có toạ độ…
… phát hiện ra một CÁNH CỔNG CỔ XƯA dẫn tới…
… cảnh báo rằng KIM TỰ THÁP chứa…
… giải mã BIỂU HÌNH ĐƯỢC CHẠM KHẮC này để hé mở…
Mình cần xem phần còn lại của file này. Katherine nghĩ thầm.
Katherine đăm đăm nhìn một lúc nữa rồi bấm công tắc nguồn của bức tường plasma. Cô luôn nhớ tắt màn hình rất tốn năng lượng này để không lãng phí nguồn dự trữ hydro lỏng của các tế bào nhiên liệu.
Những cụm từ khoá từ từ nhoà dần, thu hẹp thành một chấm trắng nhỏ xíu ở chính giữa bức tường, cuối cùng tắt ngấm.
Katherine quay trở lại văn phòng. Chỉ lát nữa bác sĩ Abaddon sẽ đến, và cô muốn làm cho anh ta cảm thấy thoải mái.
hết Chương 31

kiemanh
10-10-2010, 05:15 PM
Chương 32


- Sắp tới nơi rồi, - Anderson dẫn Langdon và Sato đi xuống hành lang vô tận chạy suốt toàn bộ chiều dài tầng hầm phía đông của Điện Capitol - Thời Tổng thống Lincoln, nền lối này rất bẩn thỉu và nhung nhúc chuột bọ.
Langdon rất mừng là nền đã được lát gạch, anh vốn không ưa giống chuột. Cả nhóm tiếp tục đi tới, tiếng bước chân họ vang lên bập bõm, nghe rất kỳ cục trong hành lang dài. Dọc theo hành lang là những ô cửa, một số đóng kín, khá nhiều mở hé. Nhiều căn phòng ở tầng này trông như bị bỏ phế. Langdon chú ý thấy số hiệu trên các cánh cửa giảm dần, giảm đến tận cùng.
SB4… SB3… SB2… SB1…
Họ tiếp tục đi qua một cánh cửa không đánh số, nhưng Anderson dừng phắt lại khi số hiệu bắt đầu tăng.
HB1… HB2…
- Xin lỗi, - Anderson lên tiếng - Qua mất rồi. Tôi gần như chẳng bao giờ đặt chân xuống tận chỗ này.
Cả nhóm lùi lại vài thước, tới một cánh cửa kim loại cũ kỹ mà bấy giờ Langdon mới nhận thấy. Nó nằm ở điểm chính giữa hành lang - nơi phân chia Tầng hầm Thượng viện (SB) và Tầng hầm Hạ viện (HB). Thực tế cánh cửa này có đánh số, nhưng đã quá mờ, rất khó nhận ra:
SBB
- Đây rồi - Anderson nói - Sẽ có người mang chìa khoá tới ngay.
Sato cau mày và nhìn đồng hồ.
Langdon nhìn dòng chữ SBB và hỏi Anderson.
- Tại sao chỗ này lại thuộc phía Thượng viện mặc dù nó ở chính giữa?
Anderson lộ vẻ bối rối.
- Ý ông là sao?
- Nó ký hiệu là SBB, tức là bắt đầu bằng chữ S chứ không phải chữ H.
Anderson lắc đầu.
- Chữ S trong SBB không phải là viết tắt của Thượng viện. Nó…
- Chỉ huy? - tiếng một nhân viên an ninh cất lên phía xa. Anh ta hối hả băng qua hết hành lang để tới chỗ họ, giơ ra một chiếc chìa khoá - Xin lỗi anh, phải mất vài phút đấy. Chúng tôi không thể xác định được chìa khoá chính của SBB. Đây là cái dự phòng lấy từ một hộp phụ.
- Cái gốc bị mất à? - Anderson hỏi, giọng lộ rõ ngạc nhiên.
- Chắc là mất, - người kia đáp, thở hổn hển - Lâu lắm rồi có ai yêu cầu xuống đây đâu.
Anderson cầm lấy chiếc chìa khoá.
- Không có chìa phụ cho SBB13 à?
- Xin lỗi, cho đến lúc này chúng tôi vẫn không tìm thấy chìa khoá của bất kỳ phòng nào trong SBB cả. MacDonald đang tiếp tục tìm - Viên cảnh vệ rút bộ đàm và gọi - Bob? Tôi đang ở chỗ Chỉ huy. Có thêm thông tin gì về chìa khoá SBB13 chưa?
Bộ đàm của viên cảnh vệ có tiếng xột xoạt, và một giọng nói vang lên.
- Thực ra là có đấy. Lạ lắm. Kể từ khi chúng ta vi tính hoá, chưa có trường hợp nào vào đó, nhưng theo sổ đăng ký thì tất cả các phòng kho trong SBB đều đã được dọn sạch và bỏ không hơn hai mươi năm nay. Giờ chúng được ghi rõ là khu vực không sử dụng - Anh ta ngừng lại - Tất cả, chỉ trừ SBB13.
Anderson giật lấy bộ đàm.
- Chỉ huy đây. Cậu nói sao, tất cả chỉ trừ SBB13 thôi à?
- Vâng, thưa sếp - giọng kia đáp lại - tôi tìm thấy một câu chú giải viết tay cho biết SBB13 là phòng “riêng”. Đã từ lâu lắm rồi, do chính Kiến trúc sư viết và ký nháy.
Langdon biết, cụm từ Kiến trúc sư không phải để chỉ người đã thiết kế Điện Capitol mà là người điều hành toà nhà. Tương tự như viên quản lý, người được bổ nhiệm vào chức Kiến trúc sư Điện Capitol sẽ chịu trách nhiệm về tất cả mọi việc, bao gồm bảo dưỡng, tu bổ, an ninh, thuê nhân viên, và phân bổ các phòng làm việc.
- Điều lạ là - giọng trên bộ đàm nói - chú thích của Kiến trúc sư ghi rõ rằng “khu vực riêng” này dành cho Peter Solomon sử dụng.
Langdon, Sato và Anderson đưa mắt nhìn nhau thảng thốt.
- Tôi đoán, thưa sếp - giọng nói tiếp tục - ông Solomon giữ chìa khoá gốc xuống SBB cũng như mọi chìa khoá của SBB13.
Langdon không thể tin vào tai mình. Peter có hẳn một phòng riêng trong tầng hầm ĐiệnCapitol ư? Anh vốn biết Peter Solomon có nhiều bí mật, nhưng điều này thì vượt quá mọi sự hình dung.
- Tốt lắm - Anderson nói, rõ ràng là không thích thú gì - Chúng tôi hy vọng có thể tiếp cận được SBB12, cho nên cứ tìm chìa khoá phụ đi.
- Rõ, thưa sếp. Chúng tôi cũng đang xử lý bức hình số mà anh yêu cầu…
- Cảm ơn - Anderson bấm nút thoại để cắt ngang lời người kia - Tốt lắm. Khi nào xong cậu gửi ngay file đó tới điện thoại Giám đốc Sato nhé.
- Rõ, thưa sếp - Máy bộ đàm im bặt.
Anderson đưa trả bộ đàm cho anh nhân viên đang đứng đấy.
Người này rút ra một bản sao sơ đồ toà nhà và đưa cho Chỉ huy.
- Thưa sếp, SBB tô màu xám, chúng tôi đã đánh dấu X vào gian phòng SBB13 nên cũng không khó tìm lắm. Khu vực này khá nhỏ.
Anderson cảm ơn thuộc cấp của mình và dồn mọi chú ý vào bản sơ đồ.
Người cảnh vệ trẻ tuổi vội vã rời đi. Langdon ngó xem, rất ngạc nhiên trước số lượng dày đặc các căn phòng nhỏ tạo thành mê cung kỳ dị bên dưới Điện Capitol.
Anderson nghiên cứu sơ đồ một lát, gật gù đút tọt nó vào túi.
Quay về cánh cửa có dòng chữ SBB, anh ta rút chìa khoá, rồi lại do dự, vẻ ngần ngại không muốn mở ra. Langdon cũng rơi vào tâm trạng e dè tương tự, anh không biết đằng sau cánh cửa này là những gì, nhưng anh tin chắc rằng dù là gì đi nữa, một khi đã cất giấu tít dưới này thì rõ ràng Solomon muốn giữ bí mật cho nó.
Hoàn toàn bí mật.
Sato hắng giọng, và Anderson hiểu ý. Viên Chỉ huy hít một hơi thật sâu, tra chìa khoá xoay thử. Chìa khoá không nhúc nhích.
Trong khoảnh khắc, Langdon tràn trề hy vọng là không mở được.
Nhưng đến lần thử thứ hai, ổ khoá xoay, và Anderson kéo cánh cửa về phía mình.
Khi cánh cửa nặng nề kêu ken két và mở ra phía ngoài, mùi không khí ẩm mốc ùa ra khắp hành lang.
Langdon đăm đăm nhìn vào bóng tối nhưng chẳng thấy gì cả.
- Giáo sư, - Anderson cất tiếng, vừa mò công tắc vừa liếc Langdon - Về thắc mắc của ông, chữ S trong SBB không phải là Thượng viện. Nó mang nghĩa là bên dưới cơ.
- Bên dưới à? - Langdon ngơ ngác hỏi lại.
Anderson gật đầu và bật công tắc ngay mé trong cánh cửa. Ngọn đèn duy nhất soi rõ một cầu thang dốc đứng chạy sâu xuống vùng tối đen như mực.
SBB là tầng dưới tầng hầm.


hết Chương 32

kiemanh
10-10-2010, 05:16 PM
Chương 33


Chuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis ngồi sâu hơn vào chiếc phô-tơi, mặt cau có trước những thông tin hiển thị trên màn hình máy tính.

Địa chỉ này thuộc loại chó chết gì không biết?

Những công cụ xâm nhập tốt nhất của anh ta hoàn toàn vô hiệu trong việc đột phá vào tài liệu này cũng như xác định địa chỉ IP bí ẩn của Trish. Mười phút đã trôi qua mà chương trình của Zoubianis vẫn không thể vượt qua được tường lửa của hệ thống. Hy vọng xâm nhập rất thấp. Chẳng trách họ trả mình nhiều tiền thế. Anh ta định trang bị lại công cụ và thử một cách tiếp cận khác thì điện thoại đổ chuông.

Trish, lạy Chúa, anh đã bảo anh sẽ gọi lại cơ mà. Anh ta tắt tiếng chương trình bóng bầu dục và trả lời máy.
- Tôi nghe đây?
- Anh Mark Zoubianis? - một giọng đàn ông vang lên - Ngụ tại số 357 Kingston Drive ở Washington phải không?
Zoubianis nghe rõ tiếng trao đổi lào xào xung quanh người đang nói chuyện với mình. Lại một thằng cha tiếp thị trên điện thoại đây mà? Điên chắc?
- Để tôi đoán thử xem nào, chắc tôi vừa giành giải thưởng trong tuần tại Anguilla phải không?
- Không, - người kia trả lời, giọng không mảy may đùa cợt - Đây là An ninh hệ thống của Cục Tình báo Trung ương. Chúng tôi muốn biết vì sao anh lại tìm cách xâm nhập vào một trong các cơ sở dữ liệu đặc biệt của chúng tôi?

***

Cách tầng đáy Điện Capitol ba tầng, trong không gian thoáng đãng của trung tâm khách tham quan, nhân viên an ninh Nunez đang khoá các cửa chính như anh vẫn làm vào giờ này hằng tối. Khi quay trở lại, băng qua sàn nhà bằng cẩm thạch rộng mênh mông, anh nghĩ đến gã đàn ông mặc chiếc áo choàng quân đội với những hình xăm.

Mình đã để hắn lọt vào. Nunez băn khoăn không biết ngày mai anh còn tiếp tục được làm việc không.

Khi Nunez tiến đến cầu thang máy, bỗng có tiếng đập ở cửa phía ngoài buộc anh phải quay lại nhìn. Nunez ngoái ra cửa chính. Một người Mỹ da đen đứng tuổi đang vỗ mạnh tay lên lớp kính chắn, ra hiệu xin vào.

Nunez lắc đầu và chỉ đồng hồ.

Người kia lại đập tay và bước hẳn ra chỗ sáng đèn. Ông ta mặc bộ đồ màu lam thẫm rất sang trọng, mái tóc muối tiêu cắt ngắn. Tim Nunez đập thình thình. Trời ạ. Cho dù còn ở cách xa một quãng, Nunez vẫn nhận ra người đàn ông này là ai. Anh vội vã quay lại cửa ra vào và mở khoá.
- Tôi xin lỗi, thưa ngài. Mời ngài vào ạ.

Warren Bellamy - Kiến trúc sư Điện Capitol - bước qua ngưỡng cửa và cảm ơn Nunez bằng một cái gật đầu nhã nhặn. Ông có vóc người mềm mại, dong dỏng, dáng đi thẳng, ánh nhìn xuyên thấu toát ra sự tự tin rằng mình làm chủ được mọi việc xung quanh. Bellamy giữ cương vị giám thị Điện Capitol đã suốt hai mươi lăm năm qua.
- Tôi giúp gì được ngài chăng? - Nunez hỏi.
- Có đấy cảm ơn anh - Bellamy nói với giọng rành rẽ, dứt khoát.
Tốt nghiệp ở một trong tám trường đại học danh giá nhất nước Mỹ, ông có cách diễn đạt chính xác chẳng khác gì người Anh chính gốc - Tôi được biết rằng các anh đã gặp một rắc rối tại đây tối hôm nay - ông lộ vẻ cực kỳ lo lắng.
- Vâng, thưa ngài. Đó là…
- Chỉ huy Anderson đâu?
- Ở tầng dưới cùng với Giám đốc Sato thuộc Văn phòng An ninh của CIA.
Mắt Bellamy càng mở to, lo lắng.
- CIA ở đây à?
- Vâng, thưa ngài. Giám đốc Sato xuất hiện gần như ngay sau sự cố.
- Tại sao? - Bellamy hỏi.
Nunez nhún vai. Tôi biết hỏi ai bây giờ?
Bellamy đi thẳng tới thang máy.
- Họ đâu rồi?
- Họ vừa đi xuống các tầng dưới - Nunez rảo bước theo sau.
Bellamy liếc nhìn lại với vẻ lo ngại.
- Xuống dưới à? Tại sao nhỉ?
- Tôi thật sự không biết. Tôi chỉ nghe nói thế qua bộ đàm.
Bellamy bước nhanh hơn.
- Đưa tôi tới chỗ họ ngay.
- Vâng, thưa ngài.
Hai người vội vã băng qua quãng trống, Nunez thoáng nhìn thấy một chiếc nhẫn vàng rất lớn trên ngón tay Bellamy.
Nunez rút bộ đàm ra.
- Tôi sẽ thông báo cho Chỉ huy biết ngài đang xuống.
- Không - ánh mắt Bellamy sáng quắc - Tôi không muốn thông báo trước.
Nunez đã phạm phải một vài sai lầm tối hôm nay, và anh không muốn tiếp tục phạm sai lầm bằng cách giấu Chỉ huy Anderson về sự hiện diện của Kiến trúc sư trong toà nhà.
- Thưa ngài? - anh lên tiếng, vẻ bất an - Tôi nghĩ Chỉ huy Anderson sẽ muốn…
- Anh có biết rằng chính tôi tuyển dụng Anderson không? - Bellamy nói.
Nunez gật đầu.
- Vậy thì tôi nghĩ anh ta muốn anh làm theo mong muốn của tôi.
hết Chương 33

kiemanh
10-10-2010, 05:17 PM
Chương 34


Trish Dunne bước vào sảnh SMSC và ngạc nhiên khi nhìn thấy vỉ khách đang đợi. Trông anh ta chẳng hề giống các ông tiến sĩ nhân chủng, đại dương, địa lý và nhiều nhà khoa học khác đã từng vào toà nhà này. Không vận đồ flannel và chẳng có vẻ gì là chúi mũi vào sách vở suốt ngày, bác sĩ Abaddon giống một nhà quý tộc hơn, với bộ đồ may đo không chê vào đâu được. Anh ta cao lớn, thân hình nở nang, gương mặt mịn màng, mái tóc vàng óng được chải chuốt rất kỹ, tạo cho Trish ấn tượng rằng anh ta quen với những thứ xa xỉ hơn là các phòng thí nghiệm.
- Bác sĩ Abaddon phải không ạ? - Trish lên tiếng và chìa tay ra.
Người đàn ông có vẻ do dự, nhưng anh ta cũng nắm lấy bàn tay mũm mĩm của Trish trong bàn tay to lớn của mình.
- Tôi xin lỗi. Thế chị là…?
- Tôi là Trish Dunne. - Trish đáp - Tôi là trợ lý của bà Katherine. Bà ấy nhờ tôi ra đón bác sĩ vào phòng thí nghiệm.
- Ồ, tôi hiểu rồi - Giờ thì người kia gật đầu - Rất vui được gặp cô, Trish. Xin lỗi, đều tại tôi nhầm lẫn. Tôi cứ đinh ninh rằng Katherine chỉ ở đây một mình tối nay - Anh ta ra hiệu về phía đại sảnh - Giờ thì xin phó thác cả cho cô. Mời cô dẫn đường.

Mặc dù người đàn ông trấn tĩnh rất nhanh nhưng Trish vẫn thoáng nhận ra vẻ thất vọng trong ánh mắt anh ta. Chợt cô thấy ngờ ngợ về động cơ giữ bí mật của sếp mình. Katherine chẳng bao giờ tâm sự với Trish về cuộc sống riêng tư, song vị khách này, dẫu trẻ hơn Katherine, nhưng hấp dẫn và ăn mặc rất chải chuốt, rõ ràng xuất thân từ cùng tầng lớp giàu sang và nhiều đặc quyền đặc lợi của chị ấy.

Chuyện bồ bịch đây chăng? Tuy nhiên, cho dù bác sĩ Abaddon có hình dung cuộc thăm viếng tối nay sẽ dẫn tới đâu thì dường như sự hiền diện của Trish cũng không nằm trong dự liệu của anh ta.

Tại chỗ kiểm tra an ninh trong tiền sảnh, nhân viên bảo vệ nhanh tay tháo tai nghe, và Trish có thể bắt được tiếng ồn ào từ trận đấu của đội bóng Redskins. Anh chàng bảo vệ hướng dẫn bác sĩ Abaddon đi qua máy dò kim loại và đưa cho gã đeo phù hiệu an ninh tạm thời.
- Đội nào đang thắng vậy? - Bác sĩ Abaddon vừa niềm nở hỏi vừa bỏ hết điện thoại, chìa khoá và một chiếc bật lửa ra khỏi túi.
- Đội Đỏ dẫn trước ba bàn, - anh bảo vệ đáp, giọng nôn nóng, tỏ rõ ý muốn xem tiếp - Một trận đấu gay cấn quá!
- Ông Solomon sẽ đến ngay bây giờ đấy. - Trish dặn anh bảo vệ - Nhờ anh dẫn ông ấy tới phòng thí nghiệm ngay khi ông ấy đến nhé!
- Vâng - Anh bảo vệ nháy mắt vẻ biết ơn khi hai người đi qua - Xin cảm ơn vì báo trước - Tôi sẽ lưu ý.

Lời nhắn của Trish không chỉ nhắc nhở anh chàng bảo vệ mà còn ngầm bảo bác sĩ Abaddon rằng Trish không phải là người duy nhất tham dự vào buổi tối riêng tư của anh ta với Katherine ở đây.
- Anh quen Katherine thế nào vậy? - Trish hỏi, liếc mắt nhìn vị khách bí ẩn.
Bác sĩ Abaddon cười khan.
- Ồ, đó là một câu chuyện dài. Chúng tôi đang cùng phối hợp với nhau một vài việc.
Hiểu rồi, Trish nghĩ. Không phải việc của tôi.
- Đây là một cơ ngơi tuyệt vời, - Abaddon lên tiếng, ngoảnh nhìn xung quanh trong khi theo Trish tiến xuống hành lang lớn - Tôi chưa đến đây bao giờ cả.

Giọng nói nhẹ nhàng của anh ta trở nên hoà nhã thêm theo mỗi bước chân, Trish nhận thấy người này đang dụng tâm để ý tất cả mọi thứ. Nhờ ánh sáng rực rỡ trong hành lang, cô nhận thấy da mặt anh ta trông không được thật cho lắm. Kỳ cục. Tuy nhiên, khi họ đi qua hành lang vắng vẻ. Trish vẫn giới thiệu sơ bộ với anh ta về mục đích và chức năng của SMSC, kể cả các khoang và những thứ chứa bên trong.
Vị khách lộ vẻ thán phục.
- Nghe như thể nơi này có một kho tàng khổng lồ gồm toàn mẫu vật vô giá. Tôi cứ tưởng phải có bảo vệ ở khắp mọi nơi.
- Không cần, - Trish nói, đưa tay trỏ dãy ống kính mắt cá chạy dài trên trần nhà - An ninh ở đây được tự động hoá. Mỗi phân của hành lang này đều được ghi hình 24 tiếng suốt 7 ngày trong tuần, và hành lang này chính là xương sống của cả toà nhà. Không thể vào được bất kỳ phòng nào từ hành lang này mà không có thẻ và số PIN.
- Một cách sử dụng máy quay rất hiệu quả.
- Tạ ơn Trời, chúng tôi chưa bao giờ bị trộm cắp cả. Vả chăng, đây không phải là bảo tàng khiến ai đó phải tới ăn cướp, nào có ai ra chợ đen để tìm mua những bông hoa đã tuyệt chủng, những chiếc thuyền độc mộc của người Inuit, hay xác những con mực khổng lồ đâu.
Bác sĩ Abaddon cười khùng khục.
- Cô nói rất đúng.
- Hiểm hoạ an ninh lớn nhất của chúng tôi là lũ gặm nhấm và côn trùng - Trish giải thích rằng người ta ngăn ngừa toà nhà khỏi sự phá hoại của côn trùng bằng cách làm lạnh toàn bộ rác thải và bằng một kết cấu kiến trúc gọi là “Tử địa”, dùng các bức tường kép vây lấy toàn bộ toà nhà như lớp vỏ bọc, tạo thành một không gian không thích hợp cho sự sống.
- Rất tuyệt vời, - Abaddon nói - Thế phòng thí nghiệm của bà Katherine và ông Peter ở đâu?
- Khoang 5 - Trish đáp - Phải đi hết lối này tới cuối hành lang.
Abaddon đột ngột dừng lại, ngoái sang phải, nhìn về phía một ô cửa sổ nhỏ.
- Chúa ơi! Cô có nhìn thấy thứ đó không?
Trish cười.
- Có đó là Khoang 3. Người ta gọi là Thuỷ trì.
- Thuỷ trì à? - Abaddon hỏi lại, áp mặt vào sát lớp kính.
- Có hơn 11.000 lít ethanol lỏng trong đó. Anh còn nhớ tôi vừa đề cập tới xác con mực khổng lồ chứ?
- Đó là con mực à? - Bác sĩ Abaddon rời ánh nhìn khỏi cửa sổ, mắt mở lớn - Nó to thật?
- Một con Architeuthis cái, - Trish nói - Nó dài hơn 12m.
Bác sĩ Abaddon rõ ràng vô cùng thích thú trước con mực và dường như không thể nào rời mắt khỏi lớp vách kính. Hình ảnh ấy khiến Trish liên tưởng tới một cậu bé con đứng ở cửa hàng bán sinh vật cảnh. ao ước được vào trong và xem một chú cún con. Năm giây sau, anh ta vẫn đăm đăm nhìn qua cửa sổ.
- Được rồi, được rồi - cuối cùng Trish đành lên tiếng, vừa cười vừa nhét thẻ và nhập mã PIN của cô - Nào. Tôi sẽ cho anh xem con mực.

Khi bước vào không gian lờ mờ của Khoang 3, Mal’akh lướt mắt dọc các bức tường để tìm máy quay an ninh. Cô trợ lý bé nhỏ mập mạp của Katherine bắt đầu huyên thuyên về mẫu vật trong phòng.

Mal’akh đâu có để tâm. Gã chẳng hứng thú với bất kỳ thứ gì ở mấy con mực khổng lồ. Mối quan tâm duy nhất của gã là dùng cái không gian kín đáo, tối tăm này để giải quyết một trở ngại ngoài dự tính.

hết Chương 34

kiemanh
10-10-2010, 05:17 PM
Chương 35


Cầu thang bằng gỗ dẫn xuống tầng đáy Điện Capitol cũng dốc và nông như các cầu thang Langdon vừa đi qua. Anh thở gấp hơn, phổi như thắt lại. Không khí dưới này lạnh lẽo và ẩm ướt vô chừng. Langdon bất giác nhớ lại một dãy cầu thang tương tự mà anh đã gặp vài năm trước ở Địa Ngục môn. Nghĩa địa Vatican.
Anderson đi đầu, dẫn đường với cây đèn pin trên tay. Tiếp đến là Langdon. Sato theo sát đằng sau, bàn tay nhỏ bé của bà ta thỉnh thoảng lại thúc vào lưng anh. Mình sẽ đi càng nhanh càng tốt. Anh hít vào thật sâu, cố gắng không để tâm tới những bức tường chật hẹp hai bên. Cầu thang này vốn chẳng rộng rãi gì so với vai anh, thành thử cái túi đeo trên người cứ cọ quệt vào vách tường.
- Lẽ ra ông nên để cái túi lại trên kia - Sato góp ý.
- Không sao. - Langdon đáp, hoàn toàn không muốn cái túi rời khỏi tầm mắt mình. Anh nhớ tới gói nhỏ của Peter và chưa hình dung nổi nó liên quan thế nào với thứ gì đó ở tầng đáy này.
- Chỉ vài bước chân nữa thôi, - Anderson nói - Gần tới rồi.
Cả nhóm đi sâu hơn vào bóng tối, tách khỏi tầm ánh sáng của ngọn đèn duy nhất trên cầu thang. Khi rời chân khỏi bậc thang gỗ cuối cùng, Langdon cảm thấy sàn nhà dưới chân mình là nền đất.
Hành trình vào trung tâm Trái đất đây. Sato bước xuống sau anh.
Anderson giơ đèn lên, kiểm tra xung quanh. Tầng đáy không hẳn là một tầng nhà mà chỉ là một hành lang cực kỳ chật hẹp chạy vuông góc với cau thang. Anderson rọi đèn sang trái rồi sang phải. Langdon thấy lối đi chỉ dài khoảng 15 mét và có những cánh cửa gỗ nhỏ ở cả hai bên. Những cánh cửa sát nhau đến mức phòng ốc đằng sau chúng có lẽ không thể rộng hơn 3 mét.
Kho lưu trữ ACME(53) kết hợp với hầm mộ Domatilla(54), Langdon nghĩ thầm trong khi Anderson xem tấm sơ đồ. Cái phần nhỏ xíu mô tả tầng đáy được đánh dấu X để chỉ vị trí của SBB13. Langdon nhận thấy bố cục khu này rất giống một lăng tẩm với mười bốn ngôi mộ chạy thành hai hàng đối diện nhau, mỗi bên bảy mộ, song có một khoang bị bỏ đi để lấy chỗ bố trí cái cầu thang mà họ vừa theo xuống.

Tổng cộng là mười ba.
Anh ngờ rằng “mười ba” nhà lý luận của nước Mỹ sẽ tranh luận gay gắt nếu họ biết rằng có đúng mười ba gian phòng kho bên dưới Điện Capitol. Nhiều người cứ băn khoăn không hiểu vì sao Quốc ấn của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ có đúng 13 ngôi saio, 13 mũi tên, 13 bậc kim tự tháp, 13 đường sọc trên tấm khiên, 13 chiếc lá ô liu, 13 quả ô liu. 13 chữ cái trong dòng chữ annuit coeptis (“Người phê chuẩn nhiệm vụ của chúng ta”), 13 chữ cái trong dòng chữ e pluribus unum (“Trong rất nhiều, có một”), và nhiều nhiều nữa.
- Bị bỏ hoang hay sao ấy, - Anderson nói, rọi quầng sáng đèn vào gian phòng ngay trước mặt họ. Cánh cửa gỗ nặng nề mở toang.
Quầng sáng soi rõ một gian phòng bằng đá rất hẹp, khoảng 3 mét chiều rộng và 9 mét chiều sâu, tương tự một lối đi cụt không dẫn tới đâu cả. Gian phòng chẳng có gì ngoài vài cái thùng gỗ cũ nát và mấy mảnh giấy bọc đồ nhàu nhĩ.
Anderson rọi đèn lên tấm biển đồng gắn trên cửa. Tấm biển toàn gỉ đồng, nhưng vẫn có thể đọc được các chữ: SBB IV
- SBB Bốn, - anh ta nói.
- Thế SBB13 ở đâu? - Sato hỏi, có vài làn hơi uốn lượn toả ra từ miệng bà ta do không khí lạnh lẽo ở tầng này.
Anderson xoay ánh đèn về đầu phía nam của hành lang.
- Đằng kia.
Langdon nhìn xoáy vào lối đi hẹp và rùng mình, cảm thấy vã mồ hôi mặc dù ở đây khá lạnh.
Họ đi qua cả dãy ô cửa, tất cả các phòng trông đều giống nhau, cửa khép hờ, rõ ràng là bị bỏ phế từ lâu. Đến cuối dãy, Anderson xoay sang phải, nhấc đèn rọi thẳng vào phòng SBB13. Tuy nhiên, quầng sáng đèn pin bị chặn lại bởi cánh cửa gỗ nặng nề.
Không như các phòng khác, cửa phòng SBB13 đóng chặt.
Cánh cửa cuối cùng này trông giống hệt những cửa khác - bản lề to nặng, tay nắm bằng thép, và biển số bằng đồng đã gỉ xanh. Bảy chữ cái nằm trên biển số đúng là những chữ cái trên bàn tay Peter.
SBB XIII
Xin hãy bảo rằng cửa bị khoá đi, Langdon nhủ thầm.
Sato nói không do dự.
- Thử mở xem nào.
Viên Chỉ huy cảnh sát lộ vẻ miễn cưỡng, nhưng vẫn bước tới, nắm lấy tay nắm thép to nặng và kéo nó xuống. Tay nắm không nhúc nhích. Anh ta rọi đèn, soi rõ một ổ khoá kiểu cũ rất to.
- Thử bằng chìa chính xem, - Sato gợi ý.
Anderson xỏ chiếc chìa khoá mở cánh cửa lối vào ở phía trên, nhưng nó không vừa.
- Tôi lầm chăng, - Sato nói, giọng đầy cay nghiệt - hay lực lượng An ninh các anh không cần tiếp cận được mọi ngóc ngách của một toà nhà trong trường hợp khẩn cấp?
Anderson thở hắt ra và nhìn lại Sato.
- Thưa bà, người của tôi đang tìm chìa khoá phụ, nhưng…
- Bắn vỡ ổ khoá đi, - Sato ra lệnh, hất đầu về phía ổ khoá phía dưới tay nắm.
Mạch đập của Langdon như vọt lên.
Anderson hắng giọng, nói một cách khó khăn.
- Thưa bà, tôi đang đợi thông báo về chiếc chìa khoá phụ. Tôi chắc là phá tung lối vào thì không dễ…
- Thế ngồi tù vì cản trở cuộc điều tra của CIA thì dễ hơn chăng?
Anderson có vẻ bàng hoàng. Sau một lúc lâu. anh miễn cưỡng đưa đèn cho Sato và rút súng ra.
- Đợi đã! - Langdon lên tiếng, thấy không thể cứ thờ ơ đứng ngoài được nữa - Nghĩ kỹ đi. Peter đã phải hy sinh cả một bàn tay chứ không chịu tiết lộ thứ gì đằng sau cánh cửa. Các vị có chắc rằng chúng ta cần làm thế này không? Phá khoá một cánh cửa chỉ để đáp ứng yêu cầu của một tên khủng bố.
- Ông có muốn cứu Peter Solomon không? - Sato hỏi.
- Dĩ nhiên, nhưng…
- Vậy thì tôi đề nghị ông làm đúng những gì gã bắt cóc đòi hỏi.
- Mở một cánh cổng cổ ư? Bà nghĩ đây là cánh cổng chắc?
Sato rọi đèn vào mặt Langdon.
- Thưa Giáo sư, tôi không biết nó là cái quái gì. Cho dù đây là phòng kho hay lối vào bí mật của một kim tự tháp cổ thì tôi vẫn định mở nó ra. Tôi nói thế đủ rõ chưa?
Langdon nheo mắt vì chói sáng và gật đầu.
Sato hạ đèn xuống, rọi vào ổ khoá cũ kỹ trên cánh cửa.
- Chỉ huy! Tiến hành đi.
Chừng như vẫn băn khoăn trước kế hoạch này, Anderson rút khẩu súng rất chậm, và đăm đăm nhìn nó với vẻ do dự.
- Ôi lạy Chúa! - Sato vươn bàn tay nhỏ bé giật lấy vũ khí của Anderson, đoạn nhét đèn pin vào bên tay để không của anh - Rọi đèn đi.
Cầm khẩu súng với vẻ tự tin của một người đã được huấn luyện về vũ khí. Sato lanh lẹ bật chốt an toàn, lên đạn và nhằm vào ổ khoá.
- Đợi đã!- Langdon kêu lên, nhưng đã quá muộn.
Súng nổ ba phát.
Langdon cảm giác màng nhĩ vỡ tung. Bà ta điên rồi?! Tiếng súng ở không gian chật hẹp nghe thật đinh tai nhức óc.
Anderson cũng chấn động không kém, anh ta run run rọi đèn lên cánh cửa đầy vết đạn.
Ổ khoá đã bung, phần gỗ xung quanh vỡ nát. Khoá mở, cánh cửa cũng hé ra.
Sato chĩa súng lên và ấn đầu nòng vào cửa, đẩy mạnh. Cánh cửa bật vào khoảng tối đen phía trong.
Langdon căng mắt nhìn nhưng chẳng thấy gì. Cái mùi quái quỷ gì thế nhỉ? Một mùi hôi thối khác lạ thoát ra từ bóng tối.
Anderson bước vào ô cửa và rọi đèn lên sàn, thận trọng lần theo suốt dọc chiều dài phần nền bẩn thỉu. Gian phòng này cũng dài và hẹp như những phòng khác. Tường xây bằng đá gồ ghề, làm cho căn phòng phảng phất không khí một buồng giam cổ xưa. Nhưng cái mùi đó…
- Chẳng có gì ở đây cả, - Anderson nhận xét, di chuyển quang sáng đèn xa thêm trên sàn. Cuối cùng, khi ánh sáng chạm tới cuối phòng, viên Chỉ huy nâng cao nó lên để rọi được cả bức tường xa nhất.
- Chúa ơi…! - anh ta thét.
Tất cả mọi người cùng trông theo và nhảy lùi lại.
Langdon trân trối nhìn chỗ sâu nhất của gian phòng, không sao tin nổi vào mắt mình.
Trước vẻ hãi hùng của anh, một thứ cũng đang trừng trừng nhìn lại.

Chú thích:
(53) Tập đoàn Acme hay Công ty sản xuất mọi thứ là một doanh nghiệp hư cấu tồn tại trong nhiều phim hoạt hình, nổi tiếng với những sản phẩm cực kỳ nguy hiểm và kỳ quặc thường gặp sự cố vào đúng những thời khắc tồi tệ nhất. Tên Acme mang tính châm biếm vì từ acme xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là đỉnh cao - ND.
(54) Hầm mộ Domifilla (đặt theo tên Thánh Domitilla) là một trong những hầm mộ rất lớn và ấn tượng, chạy dài 15 km dưới lòng đất ở Rome. Đây là hệ thống hầm mộ cổ nhất và cũng là nơi duy nhất còn thấy hài cốt. Trên các lối đi còn có một bức tranh tường từ thế kỷ II mô tả Bữa tiệc ly và nhiều hiện vật giá trị khác. Cuối cùng, đây là hầm mộ duy nhất có một nhà thờ ngầm dưới đất, lối vào hầm mộ phải đi qua nhà thờ có từ thế kỷ thứ IV này - ND.
hết Chương 35

kiemanh
10-10-2010, 05:18 PM
Chương 36


- Lạy Chúa lòng lành…? - Anderson giật lui một bước ở ngưỡng cửa, ánh đèn chới với.
Langdon cũng bật ngược trở lại, giống hệt Sato, người giật mình lần đầu trong buổi tối hôm nay.
Sato chĩa khẩu súng về phía bức tường hậu và ra hiệu cho Anderson rọi đèn lần nữa. Viên Chỉ huy nhấc đèn lên. Quầng sáng mờ dần khi chạm tới bức tường phía xa, nhưng ánh sáng vẫn đủ soi rõ hình dáng một gương mặt ma quái và vàng vọt, trừng trừng nhìn lại họ qua hốc mắt trống rỗng.
Một cái sọ người.
Cái sọ nằm trên một cái bàn gỗ ọp ẹp kê dựa vào bức tường hậu của gian phòng. Hai đoạn xương ống chân nằm bên cạnh cái sọ, cùng với một vài thứ được bố trí có chủ định trên bàn như ở một nơi thờ cúng - một cái đồng hồ cát cổ, một cái bình thót cổ bằng pha lê, một cây nến, hai cái đĩa đựng thứ bột nhờ nhờ, và một tập giấy. Đứng dựa vào tường bên cạnh cái bàn là hình dáng đáng sợ của một lưỡi hái dài, với phần lưỡi cong quen thuộc.
Sato bước vào phòng.
- Chà… xem ra Peter Solomon cất giữ nhiều bí mật hơn tôi tưởng.
Anderson gật đầu, tiến theo sát bà ta.
- Tàng trữ xương cốt trong phòng riêng - Anh ta nhấc cao đèn và soi khắp không gian còn lại của căn phòng trống - Lại còn cái mùi đó? anh ta nói thêm, mũi nhăn lại - Gì thế nhỉ?
- Lưu huỳnh - Langdon đáp từ phía sau - Có hai cái đĩa trên bàn. Đĩa bên phải đựng muối. Đĩa kia đựng lưu huỳnh.
Sato quay ngoắt lại, vẻ nghi ngờ.
Làm thế quái nào mà ông biết điều đó?
- Bởi vì, thưa bà, có những căn phòng giống hệt thế này ở khắp nơi trên thế giới.
***
Trên họ hai tầng, nhân viên an ninh Nunez đang tháp tùng Kiến trúc sư Điện Capitol, Warren Bellamy, đi dọc hành lang chạy hết chiều dài tầng hầm phía đông. Nunez dám khẳng định anh vừa nghe thấy ba phát súng dưới lòng đất. Không thể xảy ra chuyện đó được.
- Cửa xuống tầng đáy đang mở, - Bellamy nói, nheo mắt nhìn dọc hành lang tới một cánh cửa he hé ở phía xa.
Một buổi tối kỳ lạ, Nunez nghĩ bụng. Chẳng ai xuống đó cả.
- Tôi rất mừng nếu biết chuyện gì đang diễn ra. - anh ta nói, lần tay lấy bộ đàm.
- Quay lại vị trí của anh đi, - Bellamy ra lệnh - Từ đây, tôi tự xoay xở được!
Nunez chần chừ.
- Ngài chắc chứ?
Warren Bellamy dừng lại, đặt một bàn tay rắn chắc lên vai Nunez.
- Con trai, ta đã làm việc ở Điện Capitol hai mươi lăm năm rồi. Ta nghĩ ta có thể tự tìm được lối đi.
hết Chương 36

kiemanh
10-10-2010, 05:19 PM
Chương 37


Trong đời mình, Mal’akh đã từng nhìn thấy một vài không gian kỳ quái, nhưng rất ít nơi ganh đua được với thế giới bất phàm của Khoang 3. Thuỷ trì. Trông như thể một nhà khoa học điên khùng đã chiếm lấy siêu thị Walmart và chất các bình mẫu vật đủ hình đủ dạng lên mọi giàn và giá đựng đồ để tạo ra hiện trạng của căn phòng rộng mênh mông này. Với kiểu chiếu sáng như trong phòng rửa ảnh, Khoang 3 tràn ngập thứ “ánh sáng an toàn” màu đỏ nhờ nhờ phát ra từ bên dưới các giá đỡ, toả ngược lên trên và soi thẳng tới những bình chứa đựng đầy ethanol. Mùi hoá chất bảo quản khiến người ta buồn nôn.
- Khoang này chứa hơn 20.000 mẫu vật. - cô gái mũm mĩm giới thiệu - Cá, động vật gặm nhấm, động vật có vú, bò sát.
- Tôi hy vọng tất cả đều chết hẳn rồi chứ? - Mal’akh hỏi, cố tỏ ra lo lắng.
Cô gái cười.
- Vâng, vâng. Tất cả đều chết rồi. Nhận việc ở đây xong, suốt sáu tháng đầu tôi không dám bước vào phòng này đấy.
Mal’akh có thể hiểu lý do tại sao. Nhìn đến đâu cũng chỉ thấy tiêu bản của đủ mọi loại sinh vật đã chết - kỳ nhông, sứa, chuột, sâu bọ, chim, và nhiều giống khác mà gã không xác định được. Chừng như sợ bản thân bộ sưu tập còn chưa đủ kinh dị, người ta mới lắp những ngọn đèn đỏ nhờ nhờ kia. Chúng giữ cho các mẫu vật nhạy sáng nọ không bị ánh sáng trực tiếp chiếu vào quá lâu, khiến khách tham quan có cảm giác mình đang đứng trong một bể thuỷ sinh khổng lồ, xung quanh là bóng tối với các sinh vật vô hồn đang âm thầm theo dõi.
- Kia là một con cá vây tay, - Trish giới thiệu và trỏ một bình chứa bằng Plexiglas rất lớn đựng con cá xấu xí nhất mà Mal’akh từng nhìn thấy - Người ta cứ nghĩ loài này đã tuyệt chủng cùng với khủng long, nào ngờ mấy năm trước có người lại tìm được nó ngoài khơi châu Phi và chuyển tặng cho viện Smithsonian.
May cho cô đấy, Mal’akh nghĩ, hầu như chẳng buồn nghe. Gã còn bận lướt nhìn các bức tường để tìm kiếm máy quay an ninh. Gã mới nhìn thấy một cái - bố trí ngay ở cửa chính - không có gì lạ bởi vì cửa là lối ra vào duy nhất ở đây.
- Còn kia là thứ anh muốn xem… - Trish nói, dẫn Mal’akh tới cái bể khổng lồ mà gã nhìn thấy từ cửa sổ - Tiêu bản dài nhất của chúng tôi - Cô dang rộng cánh tay để mô tả con vật kinh khủng, chẳng khác gì người dẫn chương trình đang giới thiệu một chiếc xe hơi mới - Một con Architeuthis.
Bể chứa con mực trông giống một loạt buồng kính điện thoại được đặt nghiêng và đục thông với nhau. Bên trong cỗ quan tài bằng Plexiglas trong suốt, dài thượt này là một hình dáng nhợt nhạt và khó xác định Mal’akh trân trối ngó cái đầu hình củ hành và đôi mắt to bằng quả bóng rổ.
- Thứ này khiến cho con cá vây tay của cô trông vẫn còn hấp dẫn chán, - gã nhận xét.
- Cứ đợi tới lúc anh nhìn phần tua của nó nhé!
Trish lật phần nắp bể lên. Mùi ethanol ùa ra khi cô nhoài người vào bể và bật một cái công tắc ngay phía trên vạch chất lỏng. Một dãy đèn huỳnh quang nhấp nháy sáng lên dọc theo toàn bộ phần đáy bể. Con Architeuthis liền hiện ra với toàn bộ vẻ rực rỡ của nó - một cái đầu khổng lồ gắn vào khối thân đồ sộ trơn trượt gồm toàn những xúc tu và giác hút sắc như dao cạo.
Trish bắt đầu kể một con Architeuthis có thể đánh gục một con cá voi như thế nào.
Mal’akh hờ hững nghe.
Đã đến lúc rồi.

***

Mỗi lần vào Khoang 3, Trish Dunne lại cảm thấy hơi bất an, nhưng cảm giác ớn lạnh vừa chạy qua người cô rất khác lạ.
Rất bản năng. Rất nguyên thuỷ.
Trish cố gắng phớt lờ, nhưng nó mau chóng nổi lên rõ rệt và bám riết lấy cô. Mặc dù không xác định nổi căn nguyên nỗi lo lắng của mình, nhưng linh tính mách bảo Trish rằng đã đến lúc phải rời khỏi nơi này.
- Dẫu sao đó cũng chỉ là con mực, - cô kết luận, tiến lại bể và tắt đèn - Có lẽ chúng ta nên vào chỗ Katherine…
Một bàn tay to lớn bịt cứng lấy miệng Trish, giật mạnh đầu cô ra sau. Ngay lập tức, một cánh tay chắc khỏe siết lấy cổ cô, ép mạnh cô vào một bộ ngực cứng như đá. Trong khoảng khắc, Trish đờ đẫn vì bất ngờ.
Tiếp đến là nỗi kinh hãi.
Gã kia đưa tay sờ soạng ngực Trish, tóm lấy tấm thẻ từ và giật ra. Dây đeo miết vào gáy cô bỏng rát trước khi đứt tung. Chiếc thẻ rơi xuống sàn ngay dưới chân họ. Trish vùng vẫy, cố gắng thoát thân, nhưng bàn tay gã nọ vẫn bịt chặt miệng cô. Gã cúi xuống và ghé sát miệng vào tai cô, thì thào.
- Khi anh buông tay khỏi miệng cưng, cưng không được kêu, rõ chưa?
Trish cuống quít gật đầu, phổi như rách toang vì thiếu không khí.
Mình ngạt thở quá!
Gã đàn ông bỏ tay khỏi miệng Trish, và cô há miệng, hít thật sâu.
- Hãy để cho tôi đi? - cô hổn hển van nài - Anh làm gì vậy?
- Cho anh biết số PIN của cưng nào, - gã đàn ông nói.
Trish hoàn toàn bối rối. Katherine! Giúp em! Gã đàn ông này là ai?!
- Bảo vệ có thể nhìn thấy anh đấy! - cô nói, nhưng biết rõ rằng họ ở ngoài tầm nhìn của các máy quay. Không có ai đang quan sát cả.
- Số PIN của cưng, - gã đàn ông nhắc lại - Số PIN khớp với thẻ của cưng ấy.
Nỗi sợ hãi lạnh buốt xâm chiếm ruột gan Trish, cô quẫy đạp dữ dội, vùng vẫy cánh tay còn tự do và cào lên mắt gã đàn ông. Những ngón tay của cô chạm vào thịt và cào sâu một bên má. Bốn vết rách thẫm màu lộ ra trên da thịt gã. Khi đó, cô nhận ra những vết thẫm màu trên da thịt gã kia không phải là máu. Cô vừa cào rách lớp mặt nạ hoá trang của gã, để lộ ra những hình xăm xám xịt phía dưới.
Con quái vật này là ai? Với sức mạnh kinh người, gã đàn ông xoay mạnh Trish và nhấc bổng cô lên, giơ cô lơ lửng phía trên cái bể ngâm mực khổng lồ vẫn để ngỏ. Khuôn mặt cô gần sát với dung dịch ethanol. Mùi hoá chất xộc vào mũi cô bỏng rát.
- Số PIN của mày là gì? - gã kia nhắc lại.
Mắt Trish cay xè, cái xác tái nhợt của con mực nằm chìm phía dưới, rất gần mặt cô.
- Nói cho tao biết, - gã đàn ông ra lệnh, hạ Trish xuống sát mặt dung dịch - Là gì nào?
Cổ họng Trish rát bỏng.
- Không-tám-không-bốn! - cô nói vội, gần như nghẹt thở - Hãy thả tôi ra! Không-tám-không-bốn!
- Mày nói dối, - gã đàn ông đe doạ, hạ tay xuống thấp hơn nữa khiến tóc Trish chạm vào ethanol.
- Tôi không nói dối! - cô đáp và ho sặc sụa - Mùng 4 tháng Tám! Đó là sinh nhật tôi!
- Cảm ơn nhé, Trish.
Hai bàn tay rất khỏe của gã đàn ông nghiến chặt vào đau Trish, và một sức mạnh kinh người ấn mạnh cô xuống thấp, làm mặt cô ngập vào làn bể. Hai mắt cô bỏng rát. Gã đàn ông nhấn mạnh hơn, khiến cả đầu cô gái chìm hẳn trong dung dịch ethanol. Trish cảm thấy mặt mình áp vào cái đầu con mực.
Thu hết sức lực trong người, cô quẫy đạp dữ dội, cong người về phía sau, cố gắng nhấc đầu mình lên khỏi bể dung dịch. Nhưng hai bàn tay chắc khỏe kia vẫn không nhúc nhích.
Mình phải thở
Vẫn chìm trong dung dịch, Trish cố gắng không mở mắt và miệng, cố gắng không hít vào, dù hai phổi đau rát. Không. Đừng! Nhưng cuối cùng phản xạ hô hấp của Trish đã thắng thế.
Miệng cô há ra, hai lá phổi mở căng hết cỡ, hối hả hút lấy dưỡng khí mà cơ thể đang cần. Dòng ethanol cuồn cuộn ộc vào miệng cô.
Khi các hoá chất xộc tới phổi, Trish cảm nhận một cơn đau đớn chưa từng hình dung nổi trong đời. Thật may, nó chỉ kéo dài vài giây trước khi thế giới quanh cô vụt tắt.

***

Mal’akh đứng cạnh bể, thở dốc và xem xét hiện trường.
Người phụ nữ bất động nằm gục trên thành bể, mặt vẫn chìm trong ethanol. Nhìn xác cô gái. Mal’akh chợt nhớ lại một người phụ nữ khác từng bị gã sát hại.
Isabel Solomon.

Đã lâu lắm rồi. Một sinh mạng khác.

Mal’akh chòng chọc nhìn cái xác mềm nhũn. Rồi gã ôm lấy hông Trish và dùng chân kê, nhấc cô lên, đẩy vào qua mép bể. Trish Dunne trượt xuống dung dịch ethanol, đầu trước, thân sau, và rơi tùm xuống. Mặt nước lắng dần, chỉ còn thấy cô gái nổi lập lờ phía trên sinh vật biển khổng lồ kia. Khi lớp quần áo ngấm dung dịch và nặng dần, Trish bắt đầu chìm xuống lòng bóng tối, từng chút, từng chút một, cuối cùng nằm yên phía trên con mực.

Mal’akh lau tay và đậy nắp Plexiglas, khoá bể lại.
Thuỷ trì có thêm một mẫu vật mới.
Gã nhặt chiếc thẻ trên sàn và đút vào túi: 0804.

Lúc mới nhìn thấy Trish ở sảnh. Mal’akh cho rằng cô là một trở ngại. Sau đó, gã nhận ra tấm thẻ và mã PIN của cô chính là những yếu tố bảo đảm cho âm mưu của gã. Nếu phòng lưu trữ dữ liệu được bảo vệ đúng như Peter nói thì sẽ hơi khó khăn để thuyết phục Katherine mở ra. Giờ thì ta đã có chìa khoá. Gã rất hài lòng vì không phải phí thời gian phỉnh phờ Katherine làm theo ý gã nữa.
Lúc đứng thẳng lên. Mal’akh nhìn thấy bóng mình phản chiếu trong ô cửa sổ, với lớp hoá trang đã bị cào rách nát. Nhưng chẳng sao.
Khi Katherine hiểu ra mọi việc thì đã quá muộn rồi.
hết Chương 37

kiemanh
10-10-2010, 05:20 PM
Chương 38


- Phòng này là của Hội Tam điểm ư? - Sato hỏi, rời mắt từ cái đầu lâu sang phía Langdon.
Langdon thản nhiên gật đầu.

Người ta gọi nó là Gian buồng Suy niệm. Những căn phòng loại này được thiết kế như những nơi rất lạnh lẽo, giản đơn để cho một hội viên Tam điểm có thể suy niệm về cái chết của chính mình. Bằng cách ngồi thiền định, ngẫm nghĩ về tính tất yếu của cái chết, một hội viên Tam điểm có thể ngộ ra nhiều điều rất giá trị về bản chất của cuộc sống.

Sato nhìn quanh một lượt cái không gian quái dị này, rõ ràng là chưa tin tưởng lắm.
Đây là một dạng phòng thiền ư?

Hoàn toàn đúng. Những gian buồng này luôn chứa cùng một loại biểu tượng: đầu lâu và xương bắt chéo, lưỡi hái, đồng hồ cát, lưu huỳnh, muối, giấy trắng, nến và vài thứ khác. Các biểu tượng của cái chết gợi cho hội viên Tam điểm nhiều suy nghĩ, xem sống thế nào cho tốt khi còn tồn tại trên cõi đời này.

Trông cứ như một miếu thờ thần chết vậy, - Anderson nói.
Đó cũng là một nhận định.

Hầu hết các sinh viên môn biểu tượng học của tôi đều có chung một phản ứng ban đầu - Langdon thường gợi ý họ đọc cuốn Các biểu tượng Của Hội Tam điểm do Beresniak soạn, trong đó có những bức ảnh rất đẹp về các Gian phòng Suy niệm.
- Và sinh viên của ông không hề kinh hãi khi biết các hội viên Tam điểm ngồi thiền với đầu lâu và lưỡi hái? - Sato gặng hỏi.
- Cũng không kinh hãi hơn là bao so với cảnh tín đồ Thiên Chúa giáo cầu nguyện dưới chân người bị đóng đinh thập giá, hay tín đồ Hindu tụng kinh trước mặt vị thần voi bốn tay Ganesh. Việc hiểu sai các biểu tượng của một nền văn hoá là nguyên nhân phổ biến gây ra sự kỳ thị.

Sato quay đi, rõ ràng là không hứng thú lắm tới bài giảng. Bà ta tiến về phía chiếc bàn. Anderson cố gắng rọi đèn theo, nhưng quầng sáng bắt đầu mờ dần. Anh ta vỗ vỗ vào đế đèn để làm cho nó sáng hơn một chút.

Ba người tiến sâu hơn vào khoảng không gian chật hẹp. Mùi lưu huỳnh cay xè xộc vào lỗ mũi Langdon. Tầng đáy rất ẩm ướt, và hơi ẩm trong không khí chính là tác nhân kích thích lưu huỳnh. Sato đến bên chiếc bàn và đăm đăm nhìn xuống cái sọ cùng những đồ vật đi kèm. Anderson theo chân bà ta, cố hết sức soi rọi chiếc bàn bằng ánh sáng đang mờ dần của chiếc đèn pin.

Sato kiểm tra mọi thứ trên bàn rồi chống tay lên hông, thở dài.
- Cái đống đồng nát này là gì nhỉ?
Langdon biết rằng đồ vật trong căn phòng này được lựa chọn và bài trí rất tỉ mỉ.
- Là các biểu tượng của quá trình biến cải. - anh giải thích, cảm thấy gò bó khi tiến tới và cùng đứng với hai người kia bên chiếc bàn - Đầu lâu là biểu tượng cho quá trình cải biến cuối cùng của con người thông qua giai đoạn phân rã, nó cũng nhắc nhở rằng một ngày nào đó tất cả chúng ta đều sẽ trút bỏ xác thịt. Lưu huỳnh và muối là các chất xúc tác giả kim để thúc đẩy quá trình này. Đồng hồ cát tượng trưng cho sức mạnh khả biến của thời gian - Anh trỏ cây nến không cháy - Thứ này đại diện cho ngọn lửa nguyên sơ và việc đánh thức con người khỏi giấc ngủ mê muội của mình, đó là một quá trình thay đổi thông qua khai sáng.
- Thế thứ kia? - Sato hỏi, tay trỏ vào góc.
Anderson xoay cây đèn pin về phía lưỡi hái to tướng đứng dựa vào bức tường hậu.
- Không phải là biểu tượng của cái chết như nhiều người lầm tưởng, - Langdon nói - Lưỡi hái thực ra là một biểu tượng cho sự nuôi dưỡng của trời đất, người ta dùng nó để thu hoạch những món quà tự nhiên.
Sato và Anderson đều im lặng, rõ ràng là đang cố ghi nhận không gian kỳ quặc xung quanh.
Langdon chỉ muốn rời khỏi đây thật mau.
- Căn phòng có vẻ dị thường với các vị, - anh bảo họ - nhưng chẳng có gì để xem ở đây cả, thật sự thì nó rất bình thường. Vô khối nơi hội họp của Hội Tam điểm cũng có những căn buồng giống hệt thế này.
- Nhưng đây không phải là nơi hội họp của Hội Tam điểm! - Anderson tuyên bố - Đây là Điện Capitol, và tôi muốn biết căn phòng này có tác dụng quái quỷ gì trong toà nhà của tôi.
- Đôi khi các hội viên Tam điểm bố trí riêng những không gian này trong văn phòng hoặc tư gia của mình để làm nơi thiền định. Chuyện đó không phải là hiếm - Langdon biết một bác sĩ mổ tim ở Boston đã biến một ngăn nhỏ trong văn phòng mình thành Gian buồng Suy niệm để suy ngẫm về cái chết trước khi tiến hành ca phẫu thuật.
Sato có vẻ bồn chồn.
- Ý ông là Peter Solomon xuống đây để suy niệm về cái chết ư?
- Thật sự thì tôi không biết, - Langdon thành thực đáp - Có lẽ ông ấy tạo ra gian phòng này cho các huynh đệ Tam điểm đang làm việc trong toà nhà, dành cho họ một không gian tinh thần tách biệt hẳn với những hỗn loạn của thế giới trần tục… một nơi để nhà làm luật quyền thế suy niệm trước khi đưa ra những quyết định gây ảnh hưởng đến người khác.
- Một tình cảm đáng trân trọng, - Sato nói giọng mỉa mai - nhưng tôi có cảm giác dân Mỹ sẽ thấy bất ổn khi biết các nhà lãnh đạo của mình ngồi cầu nguyện trong mấy gian buồng chứa lưỡi hái và đầu lâu.
Ồ, không hề, Langdon nghĩ thầm và tin rằng thế giới sẽ khác hẳn nếu có nhiều nhà lãnh đạo dành thời gian suy ngẫm về ý nghĩa của cái chết trước khi phát động chiến tranh.
Sato bĩu môi và cẩn thận xem xét tất cả bốn góc gian buồng.
- Dứt khoát phải có gì đó ở chỗ này ngoài đống xương người và mấy cái bát hoá chất, thưa Giáo sư. Có kẻ đưa ông từ nhà riêng ở Cambridge tới đây chỉ để có mặt trong gian buồng này mà.
Langdon nắm chặt cái túi đeo bên sườn, vẫn không hiểu nổi gói nhỏ anh mang theo có liên hệ gì với gian buồng này.
- Thưa bà, tôi xin lỗi, nhưng tôi không thấy có gì khác thường ở đây cả - Langdon hy vọng rằng cuối cùng họ cũng có thể tiến hành việc tìm kiếm Peter.
Ánh đèn của Anderson lại chập chờn, và Sato quay phắt về phía anh ta, lộ rõ vẻ cáu kỉnh.
- Trời đất ơi, phiền phức ghê! - Bà ta thọc tay vào túi và lôi ra một cái bật lửa hút thuốc. Bật lửa lên, bà ta giơ tay thắp ngọn nến để trên bàn. Bấc nến nổ lách tách và cháy sáng, toả ra thứ ánh sáng ma quái trong không gian ngột ngạt này. Những cái bóng dài nhảy nhót trên tường đá. Khi ngọn lửa sáng hơn, một cảnh tượng bất ngờ hiện ra trước mắt họ.
- Nhìn kìa! - Anderson nói và giơ tay chỉ.
Dưới ánh nến, họ nhìn thấy một bức tranh graffiti đã mờ, nội dung là bảy chữ cái viết hoa nguệch ngoạc chạy suốt bức tường hậu:
VITRIOL
- Từ ngữ gì mà vớ vẩn thế, - Sato lên tiếng trong khi ánh nến chiếu rõ một cái bóng đáng sợ hình đầu lâu vắt ngang dãy chữ cái.
- Nói cho đúng thì đó là một cụm từ viết tắt. - Langdon nói - Nó được viết trên tường hậu của hầu hết những gian buồng kiểu này, một dạng tốc ký của câu thần chú thiền định của Hội Tam điểm: Visita interiora terrae, rectificando invenies occultum lapidem
Sato nhìn anh, vẻ rất thán phục.
- Nghĩa là gì?
- Hãy ghé thăm lòng đất, và bằng cách chỉnh sửa. anh sẽ tìm thấy hòn đá được cất giấu.
Ánh mắt Sato sáng ngời.
- Thế hòn đá được cất giấu có liên hệ gì với một kim tự tháp được giấu kín không nhỉ?
Langdon nhún vai, không muốn gợi ra sự so sánh.
- Những kẻ thích thêu dệt về kim tự tháp bí mật ở Washington sẽ bảo bà rằng occultum lapidem là nói đến kim tự tháp đá. Những người khác sẽ bảo nó ám chỉ Hòn đá Triết học - một chất mà các nhà giả kim tin rằng có thể mang lại cho họ cuộc sống vĩnh hằng hoặc biến chì thành vàng. Những người khác nữa thì lại bảo nó nhắc đến Điện Thánh, một gian phòng bằng đá được giấu kín ở trung tâm Đại Đền(55). Một số lại nói nó mang ý nghĩa Thiên Chúa giáo, chỉ những lời dạy được giấu kín của Thánh Peter. Tất cả các truyền thống bí truyền đều diễn giải “hòn đá” theo cách của mình, nhưng occultum lapidem luôn là một nguồn sức mạnh và sự khai sáng.
Anderson hắng giọng.
- Có thể Solomon nói dối gã điên kia? Biết đâu ông ấy bảo gã rằng dưới này có gì đó… song thật sự là chẳng có gì.
Langdon cũng đang có những ý nghĩ tương tự.
Đột nhiên, ánh nến chao đảo như bị gió tạt. Nó lụi đi trong chốc lát rồi cháy sáng trở lại.
- Chết rồi. - Anderson nói - Tôi hy vọng không ai đóng lối cửa cầu thang - Anh ta sải bước khỏi gian buồng và tiến ra hành lang tăm tối - Ai đấy?
Langdon không để ý nhìn anh ta đi ra. Mắt anh đột nhiên bị hút vào bức tường hậu. Cái gì thế nhỉ?
- Ông trông thấy không? - Sato hỏi, mắt cũng đăm đăm nhìn bức tường.
Langdon gật đầu, tim đập rộn lên. Mình vừa nhìn thấy cái gì nhỉ?
Chỉ mới khoảng khắc trước đó, bức tường hậu dường như lung lay, cứ như thể có một làn sóng năng lượng quét qua nó.
Giờ Anderson lại sải bước vào phòng.
- Không có ai ngoài kia - Khi anh ta bước vào, bức tường lại lay động - Trời ơi! - anh ta kêu lên và nhảy bật trở lại.
Cả ba đứng bất động một lúc lâu, trân trối nhìn bức tường hậu. Langdon cảm thấy cơn ớn lạnh chạy suốt toàn thân khi nhận ra những gì vừa nhìn thấy. Anh ngập ngừng vươn tay, cho tới khi đầu ngón tay chạm vào bề mặt bức tướng hậu của gian buồng.
- Không phải là tường, - anh nói.
Anderson và Sato bước lại gần hơn, chăm chú nhìn.
- Nó là một tấm toan, - Langdon nói.
- Nhưng nó gợn sóng, - Sato nói nhanh.
Phải, một cách rất kỳ lạ. Langdon kiểm tra lại bề mặt tấm toan.
Lớp óng ánh trên mặt toan đã khúc xạ lại ánh nến một cách rất lạ bởi vì tấm toan vừa gợn sóng lùi xa khỏi căn phòng… bay về phía sau qua mặt phẳng bức tường hậu.
Langdon duỗi các ngón tay rất nhẹ nhàng ấn lớp toan về phía sau.
Giật mình, anh rụt phắt tay lại. Có một chỗ hổng!
- Kéo sang một bên đi, - Sato ra lệnh.
Tim Langdon đập loạn lên. Anh vươn tay và nắm lấy mép tấm toan, từ từ kéo lớp vải sang một bên. Anh trân trối nhìn những gì ẩn giấu sau đó, không tin nổi vào mắt mình. Lạy Chúa.
Sato và Anderson đứng lặng đờ khi nhìn qua chỗ hổng ở bức tường hậu.
Cuối cùng, Sato lên tiếng.
- Rõ ràng chúng ta đã tìm thấy kim tự tháp.

Chú thích:
(55) Theo quan niệm Do Thái, thế giới của Chúa rất vĩ đại và thiêng liêng. Mảnh đất thiêng liêng nhất trên thế giới là đất Israel. Ở Israel, thành phố thiêng liêng nhất là Jerusalem. Tại đây, nơi thiêng liêng nhất là Đại Đền, và trong Đại Đền, vị trí thiêng liêng nhất là Điện Thánh. Nơi này từng cất giữ hai tấm thẻ ghi lại Mười điều răn. Những tấm thẻ này đã biến mất khi người Babylon phá huỷ Đại Đền. Sau này, Điện Thánh chỉ là một gian phòng nhỏ, không có gì, nơi mỗi năm một lần, Đại Tư tế vào để thay mặt Israel cầu khấn Chúa Trời - ND.
hết Chương 38

kiemanh
10-10-2010, 05:23 PM
Chương 39


Robert Langdon đăm đăm nhìn chỗ hổng ở bức tường hậu gian buồng. Ẩn sau tấm toan là một lỗ hổng vuông vức được trổ lõm vào tường. Chỗ hổng đó, mỗi chiều khoảng gần 1 mét, có vẻ như được tạo ra bằng cách gỡ bỏ một vài hàng gạch. Trong bóng tối. Langdon thoáng nghĩ cái lỗ đó là ô cửa sổ mở sang một gian buồng khác.
Còn giờ thì anh thấy không phải như vậy.
Chỗ hổng chỉ ăn sâu vào tường tầm 1 mét thì hết. Nhìn cái hốc khoét vội vàng. Langdon nhớ tới hốc tường được thiết kế để đặt một pho tượng trong viện bảo tàng, và ô tường này cũng bày một vật nhỏ nhắn vừa in.
Vật ấy cao khoảng 23 centimet, đẽo từ đá hoa cương đặc. Bề mặt nó láng bóng với bốn mặt được mài nhẵn, sáng rõ trong ánh nến.
Langdon không hiểu nổi nó có tác dụng gì ở đây. Một kim tự tháp bằng đá?
- Trông vẻ ngạc nhiên của ông, tôi đoán thứ này không hề phổ biến trong một Gian buồng Suy niệm - Sato lên tiếng, vẻ rất hả hê.
Langdon lắc đầu.
- Có lẽ ông nên xem xét lại những lời kể trước đây về truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm được cất giấu ở Washington chăng? - Giọng bà ta đầy tự mãn.
- Bà Giám đốc, - Langdon đáp trả tức thì - cái kim tự tháp nhỏ bé này không phải là Kim tự tháp Tam điểm.
- Nhưng trùng hợp làm sao khi chúng ta tìm thấy một kim tự tháp cất giấu tại trung tâm Điện Capitol, trong một gian phòng bí mật thuộc về một thủ lĩnh Hội Tam điểm?
Langdon dụi mắt và cố gắng suy nghĩ.
- Thưa bà, kim tự tháp này không giống truyền thuyết tí nào cả. Kim tự tháp Tam điểm được mô tả là rất lớn, với phần chóp đúc bằng vàng đặc.
Hơn nữa, Langdon biết rằng cái kim tự tháp nhỏ bé này - với đỉnh bằng phẳng - thậm chí còn không phải là một kim tự tháp đích thực. Không có chóp, nó chỉ là một biểu tượng khác mà thôi. Vẫn được biết đến bằng tên gọi Kim tự tháp Dang dở, nó là một biểu tượng nhắc nhở rằng hành trình tiến tới tiềm năng đầy đủ của con người luôn là một công việc đang phải thực hiện. Mặc dù ít người nhận ra, nhưng biểu tượng này là biểu tượng phổ biến nhất trên Trái đất. Hơn hai mươi tỉ bản in. Xuất hiện trên tất cả các tờ tiền 1 đô la đang lưu hành, Kim tự tháp Dang dở kiên nhẫn chờ đợi cái chóp sáng ngời của nó, nằm lơ lửng phía bên trên như lời nhắc nhở về định mệnh vẫn chưa hoàn thành của nước Mỹ, về công việc còn phải tiến hành, vừa với tư cách một quốc gia vừa với tư cách của những cá nhân.
- Nhấc nó xuống đi. - Sato bảo Anderson, mắt dán chặt vào cái kim tự tháp - Tôi muốn nhìn kỹ hơn - Bà ta bắt đầu dọn chỗ trên bàn bằng cách thô bạo gạt hết cái sọ và những khúc xương sang một bên.
Langdon bắt đầu cảm thấy họ như những kẻ cướp lăng mộ, mạo phạm linh đường của một con người.
Anderson thận trọng bước qua Langdon, chui vào trong hốc tường và bấu chặt hai bàn tay hộ pháp vào hai mặt kim tự tháp. Sau đó, cảm thấy khó nhấc lên được ở góc đứng bất tiện này, anh ta kéo cái kim tự tháp về phía mình và nặng nề hạ nó xuống mặt bàn gỗ, rồi lùi lại để nhường chỗ cho Sato.
Vị Giám đốc OS nhấc cây nến lại gần kim tự tháp và săm soi bề ngoài nhẵn bóng của nó. Bà ta chậm rãi rê những ngón tay nhỏ thó trên bề mặt, kiểm tra kỹ từng phân phần chóp bằng, và sau đó là các mặt. Bà ta vòng tay xung quanh để sờ phía sau, rồi cau mày vẻ thất vọng thấy rõ.
- Giáo sư, lúc trước ông nói người ta xây Kim tự tháp Tam điểm để bảo vệ các thông tin bí mật nhỉ!
- Truyền thuyết nói thế.
Vậy thì, giả sử kẻ bắt cóc Peter tưởng đây là Kim tự tháp Tam điểm, chắc chắn gã sẽ tin rằng nó chứa đựng những thông tin rất ghê gớm.
Langdon cau có gật đầu.
- Phải, cứ cho là hắn tìm thấy thông tin ấy thì nội dung cũng đã được mã hoá, và rất khó giải… trừ phi gặp được người thích hợp nhất.
- Nghĩa là sao?
Mặc dù càng lúc càng thấy sốt ruột nhưng Langdon vẫn trả lời bằng giọng từ tốn.
- Các kho báu trong truyền thuyết luôn được bảo vệ bằng các cuộc kiểm tra mức độ thích hợp. Như các vị còn nhớ, theo truyền thuyết Thanh gươm cắm trong đá, tảng đá không chịu nhả thanh gươm ra cho đến khi gặp Arthur, người được thiên định là sẽ đủ sức điều khiển sức mạnh ghê gớm của nó. Kim tự tháp Tam điểm dựa trên ý tưởng tương tự. Trong trường hợp này, thông tin là kho báu, và người ta nói rằng nó được viết bằng một ngôn ngữ mã hoá, một ngôn ngữ bí ẩn với những từ ngữ thất truyền, chỉ người thích hợp mới đọc được.
Môi Sato thoáng một nụ cười.
- Điều đó lý giải vì sao ông bị triệu tới đây tối nay.
- Xin lỗi tôi không hiểu?
Rất thản nhiên, Sato xoay tròn cái kim tự tháp tại chỗ, rồi xoay ngược nó lại đúng 180 độ. Mặt thứ tư của kim tự tháp được ánh nến chiếu rõ.
Robert Langdon tròn mắt nhìn với vẻ kinh ngạc.
- Xem ra, có kẻ tin rằng ông là người thích hợp - Sato nhận xét.
hết Chương 39
Chương 40


Tại sao Trish đi lâu thế nhỉ?
Katherine Solomon lại xem đồng hồ lần nữa. Cô đã quên không thông báo với bác sĩ Abaddon về lộ trình đi tới phòng thí nghiệm của mình, nhưng cô không nghĩ rằng quãng đường tối tăm đó lại khiến hai người đi chậm đến vậy. Lẽ ra giờ này họ phải tới đây rồi chứ?
Katherine bước lại phía cửa chính, ráng sức mở cánh cửa bọc chì và đăm đăm nhìn vào khoảng tối vô định. Cô lắng nghe một lúc, nhưng chẳng thấy gì cả.
- Trish? - cô gọi, tiếng chìm nghỉm trong bóng tối đặc quánh.
Im lặng.
Bối rối, Katherine đóng cửa lại, lấy điện thoại di động và gọi ra sảnh.
- Tôi Katherine đây. Trish có ở ngoài đó không nhỉ?
- Không, thưa cô, - người bảo vệ ở sảnh đáp - Cô Dunne và vị khách đã quay vào được mười phút rồi mà.
- Thế à? Thậm chí họ còn chưa tới Khoang 5 ấy, tôi nghĩ thế.
- Chờ chút. Tôi sẽ kiểm tra - Katherine nghe rõ tiếng ngón tay của người bảo vệ gõ lách tách trên bàn phím máy tính - Cô nói đúng. Theo dữ liệu thẻ của cô Dunne thì cô ấy vẫn chưa mở cửa Khoang 5. Lần truy cập cuối cùng của cô ấy là khoảng 8 phút trước… ở Khoang 3. Tôi đoán cô ấy muốn dẫn khách của cô tham quan một chút trên đường đi.
Katherine cau mày. Rõ rồi. Tin báo có phần hơi kỳ cục nhưng ít nhất cô biết Trish không mấy khi ở lâu trong Khoang 3. Mùi ở đó rất kinh khủng.
- Cảm ơn anh. Anh trai tôi đến chưa nhỉ?
- Chưa, thưa cô, chưa thấy ạ.
- Cảm ơn anh.
Katherine tắt máy, và bỗng thấy lòng trào lên một nỗi lo lắng. Cảm giác khó chịu ấy khiến cô chững lại, nhưng chỉ trong chốc lát. Nó chính là tâm trạng bất an xâm chiếm tâm khảm cô lúc bước vào nhà bác sĩ Abaddon. Trực giác phụ nữ của cô đã không có tác dụng ở nơi đó Thật tệ.
Chẳng có gì đâu, Katherine tự nhủ.
hết Chương 40
Chương 41


Robert Langdon chăm chú nhìn cái kim tự tháp bằng đá. Không thể nào tin nổi.

- Một ngôn ngữ cổ đã được mã hoá, - Sato nói mà không hề nhìn lên - Hãy cho tôi biết, điều này có ý nghĩa gì không?

Trên bề mặt mới lộ ra của kim tự tháp, một loạt 16 ký tự được khắc rất ngay ngắn trên lớp đá nhẵn thín.
4241


Ở bên cạnh, Anderson đứng há hốc miệng, như phản ánh lại chính sự bất ngờ của Langdon. Trông bộ dạng viên Chỉ huy an ninh, dễ tưởng anh ta vừa nhìn thấy một loại bàn phím máy tính rất lạ lẫm.

- Giáo sư? - Sato lên tiếng - Tôi nghĩ là ông đọc được những chữ này?

Langdon ngó lại.

- Tại sao bà lại nghĩ thế?

- Bởi vì ông được mang tới đây, Giáo sư ạ. Ông được lựa chọn. Những chữ khắc này có vẻ là một dạng mật mã nào đó, và căn cứ vào tiếng tăm của ông, tôi thấy rõ ràng là người ta đưa ông tới để giải mã nó.

Langdon phải thừa nhận rằng sau những trải nghiệm ở Rome và Paris, anh liên tục nhận được đề nghị nhờ hoá giải các mật mã vẫn trong vòng tranh cãi, từ Đĩa Phaistos(56), Mật mã Dorabella(57), tới di cảo Voynich bí hiểm(58).

Sato rờ tay trên những dòng khắc.

- Ông cho tôi biết ý nghĩa của những tiêu ký này đi!

Đây không phải là những tiêu ký, Langdon nghĩ. Chúng là các biểu tượng. Anh đã nhận ra ngôn ngữ này, một loại ngôn ngữ mật mã từ thế kỷ XVII, và anh biết rất rõ cách giải mã nó.

- Thưa bà, kim tự tháp này là tài sản riêng của Peter. - anh ngập ngừng nói.

- Nếu thực tế đoạn mật mã này chính là lý do đưa ông tới Washington, thì tôi sẽ không cho ông cơ hội bàn đến chuyện của riêng hoặc của chung. Tôi muốn biết nó nói gì.

Chiếc Blackberry bật kêu to, Sato móc ngay ra khỏi túi, xem tin nhắn vừa gửi tới. Langdon rất ngạc nhiên vì mạng không dây nội bộ của Điện Capitol vẫn có thể hoạt động tít sâu dưới này.

Sato lầm bầm và nhướng mày, ném về phía Langdon một cái nhìn là lạ.

- Chỉ huy? - bà ta quay sang Anderson - Trao đổi riêng một chút, được không?

Giám đốc OS ra hiệu cho viên Chỉ huy an ninh đi theo, và họ biến mất ngoài hành lang tối đen như mực, bỏ Langdon lại một mình trong ánh nến chập chờn của Gian buồng Suy niệm.

***

Chỉ huy Anderson tự hỏi không biết khi nào thì buổi tối hôm nay mới kết thúc. Một bàn tay bị chặt đứt trong Nhà tròn của mình?Một linh đường chết chóc ngay trong tầng hầm của mình? Rồi những hình khắc kỳ quái trên một kim tự tháp đá? Trận đấu của đội Redskins giờ không còn ý nghĩa gì nữa.

Vừa theo Sato tiến vào bóng tối hành lang. Anderson vừa gõ nhẹ cây đèn pin. Quầng sáng đã yếu hẳn nhưng vẫn còn tốt hơn là chẳng có đèn đóm gì. Sato dẫn anh ta men theo hành lang vài thước, khuất khỏi tầm nhìn của Robert Langdon.

- Hãy xem cái này, - bà ta thì thào và đưa cho Anderson chiếc Blackberry của mình.

Anderson cầm lấy và chăm chú nhìn màn hình sáng rực. Nó hiển thị một bức hình đen trắng - hình X quang chiếc túi của Langdon mà Anderson đã yêu cầu gửi tới cho Sato. Ở tất cả các máy chụp X quang, những đồ vật có tỷ trọng lớn nhất sẽ xuất hiện với màu trắng sáng rõ nhất. Trong cái túi của Langdon có một vật nổi bật so với tất cả những thứ khác. Rõ ràng vật này cực kỳ đặc biệt vì nó hiện rõ như một món đồ trang sức sáng chói giữa cả mớ đồ linh tinh. Hình dáng của nó không lầm lẫn vào đâu được.

Anh ta đeo cái đó suốt buổi tối ư? Anderson nhìn Sato với vẻ ngạc nhiên.

- Sao cái tay Langdon này không nhắc đến nó nhỉ?

- Câu hỏi vớ vẩn quá, - Sato thì thào.

- Hình dạng… không thể là sự trùng hợp được.

- Không hề, - Sato đáp, giọng bà ta bừng bừng giận dữ - Tôi khẳng định là không.

Có tiếng lạo xạo mơ hồ trong hành lang khiến Anderson phải chú ý. Giật mình, anh ta quét cây đèn pin dọc theo lối đi tối đen. Luồng ánh sáng yếu ớt soi lên dãy hành lang vắng ngắt, các cánh cửa hai bên mở toang.

- Ai đó? - Anderson nói - Ai ở đó không?

Im lặng.

Sato ném cho viên Chỉ huy một cái nhìn kỳ quái, tỏ rõ rằng bà ta chẳng hề nghe thấy gì.

Anderson nghe ngóng một lúc nữa rồi mới bỏ cuộc. Mình phải chuồn khỏi đây thôi.

***

Còn lại một mình trong gian phòng thắp nến, Langdon dùng ngón tay rờ các viền sắc cạnh của dòng chữ trên kim tự tháp. Anh rất muốn biết bức thông điệp này nói gì, nhưng anh sẽ không xâm phạm bí mật riêng tư của Peter Solomon thêm nữa. Mà tại sao gã điên kia lại quan tâm đến cái kim tự tháp nhỏ này chứ?

- Chúng ta có một vấn đề, thưa Giáo sư, - giọng Sato vang lên rõ to ngay phía sau anh - Tôi vừa nhận được một thông tin mới, và tôi có đủ bằng chứng về những lời khai dối trá của ông.

Langdon xoay người lại. Vị Giám đốc OS đang bước vào với chiếc Blackberry trên tay, đôi mắt như bốc lửa. Langdon giật lui, liếc nhìn Anderson như cầu xin giúp đỡ, nhưng viên Chỉ huy lúc này đang đứng chắn ở cửa, vẻ mặt không hề có chút cảm thông.

Sato bước tới trước mặt Langdon và gí chiếc Blackberry của mình vào sát mặt anh.

Langdon kinh ngạc nhìn bức ảnh đen trắng như một âm bản phim trên màn hình. Bức hình hiển thị đủ thứ linh tinh, và một trong số đó rất sáng. Mặc dù không chính diện, nhưng vẫn có thể nhận ra đấy là một cái kim tự tháp nhỏ, đầu nhọn.

Một cái kim tự tháp bé xíu? Langdon nhìn Sato.

- Cái gì thế?

Câu hỏi dường như khiến Sato điên tiết.

- Ông giả vờ giả vịt đấy hả?

Cơn giận của Langdon bùng phát.

- Tôi chẳng vờ vịt gì hết! Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ này!

- Vớ vẩn! - Sato cáu kỉnh, giọng bà ta xuyên qua màn không khí ẩm ướt - Suốt cả tối. Ông đã mang theo nó trong cái túi kia!

- Tôi… - Langdon chững lại nửa chừng. Mắt anh từ từ dịch chuyển xuống chiếc túi trên vai mình. Sau đó, anh lại ngước lên nhìn màn hình Blackberry. Lạy Chúa… cái gói. Anh ghé sát vào bức hình. Giờ anh đã nhận ra. Một cái hộp vuông có chứa kim tự tháp. Thì ra đây là bức hình chụp X quang túi vải của anh… và cả gói nhỏ hình hộp bí ẩn của Solomon. Khối hộp rỗng lòng… chứa một ngọn kim tự tháp.

Langdon toan phân trần, nhưng mọi ngôn từ bỗng bay biến đâu hết. Nhận thức giáng cho anh một đòn chí mạng, buồng phổi như không còn chút không khí nào nữa.

Đơn giản. Rõ ràng. Tàn phá.

Lạy Chúa. Anh nhìn lại cái kim tự tháp đá cụt ngọn nằm trên bàn. Đỉnh nó phẳng lì - một mặt cắt vuông vức nho nhỏ - một không gian bỏ trống đang chờ đợi cấu phần cuối cùng của mình… Cấu phần sẽ biến cải nó từ một Kim tự tháp Dang dở thành một Kim tự tháp Đích thực.

Giờ Langdon đã vỡ lẽ, cái kim tự tháp nhỏ xíu mà anh mang theo người không phải là một kim tự tháp hoàn chỉnh. Nó là phần chóp.

Trong khoảnh khắc đó, anh hiểu rõ tại sao chỉ mình anh mới đủ khả năng mở khoá những bí ẩn của kim tự tháp này.

Chính mình giữ phần chóp.

Và trên thực tế đó là một… lá bùa.

Khi Peter bảo Langdon rằng cái gói có chứa một lá bùa (talisman), Langdon đã không nhịn được cười. Giờ đây anh hiểu bạn mình nói đúng. Cái đỉnh kim tự tháp bé xíu này là một lá bùa, chứ không phải phép màu. Rất lâu trước khi từ bùa chú mang ý nghĩa phép thuật, nó đã có một nghĩa khác - “hoàn chỉnh”, Bắt nguồn từ telesma trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là “hoàn chỉnh”, một lá bùa là bất cứ thứ gì hoặc ý tưởng gì hoàn tất thứ khác và làm cho thứ ấy trở thành chỉnh thể.

Nó là nhân tố hoàn thiện. Một cái chóp, nói một cách hình tượng, là lá bùa cuối cùng, biến Kim tự tháp Dang dở thành một biểu tượng của sự hoàn hảo trọn vẹn.

Lúc này, Langdon cảm thấy một sự pha trộn kỳ quái buộc anh phải chấp nhận một sự thật rất lạ: nếu không xét đến kích cỡ, thì kim tự tháp đá trong Gian buồng Suy niệm của Peter dường như đang dần biến đổi thành một thứ giống với Kim tự tháp Tam điểm trong huyền thoại.

Căn cứ vào độ sáng mà cái chóp thể hiện trên máy X quang, Langdon tin rằng nó được làm bằng kim loại… một thứ kim loại rất đặc. Liệu nó có phải là vàng khối hay không thì anh chưa biết và cũng không định để tâm trí đánh lừa chính mình. Cái kim tự tháp này quá nhỏ. Mật mã quá dễ đọc, và… nó là một huyền tích, lạy Chúa!

Sato vẫn quan sát anh.

- Là người hiểu biết mà Giáo sư lại xử sự rất dở tối nay. Định nói dối một Giám đốc tình báo ư? Hay cố tình cản trở cuộc điều tra của CIA?

- Tôi có thể giải thích, nếu bà cho phép.

- Ông sẽ phải giải thích tại trụ sở CIA. Còn lúc này, tôi bắt giữ ông.

Người Langdon cứng đờ.

- Bà không thể làm như vậy được.

- Hoàn toàn được. Tôi đã nhấn mạnh rằng ván bài tối nay rất lớn, và ông đã chọn nước bài không chịu hợp tác. Tôi khuyên ông nên nghĩ đến việc giải thích dòng chữ khắc trên kim tự tháp này, bởi vì khi chúng ta đến CIA… - Bà ta giơ chiếc Blackberry lên và chụp cận cảnh nội dung chữ khắc trên cái kim tự tháp đá - Các chuyên gia phân tích của tôi sẽ tiến hành trước đấy.

Langdon toan mở miệng phản đối, nhưng Sato đã ngó ra cửa, bảo Anderson.

- Chỉ huy, - bà ta ra lệnh - hãy cho cái kim tự tháp đá vào túi ông Langdon và xách lấy. Tôi sẽ bắt giữ ông Langdon. Vũ khí của anh đâu?

Anderson tiến vào phòng với bộ mặt lạnh lùng, rút khẩu súng của mình đưa cho Sato. Bà ta lập tức chĩa súng vào Robert Langdon.

Langdon tưởng đâu tất cả như không thật. Sao lại thế này chứ?

Bấy giờ Anderson tiến tới chỗ Langdon, nhấc cái túi khỏi vai anh, mang nó tới bên bàn và đặt lên ghế. Anh ta mở khoá, vạch miệng túi ra và nhét cái kim tự tháp đá nặng trịch trên bàn vào túi, cùng với sổ sách của Langdon và cái gói nhỏ.

Đột nhiên, có tiếng động ngoài hành lang. Bóng một người hiện ra ở ô cửa, lao bổ vào phòng và xẹt đến phía sau Anderson. Viên Chỉ huy chưa kịp phát giác thì đã bị người đó rùn vai huých mạnh vào lưng. Anderson chúi về phía trước, đầu va mạnh vào mép hốc tường.

Anh ta ngã sụp xuống bàn, làm cho mấy khúc xương cùng các đồ vật bắn tung lên. Chiếc đồng hồ cát vỡ tan dưới sàn. Cây nến đổ nghiêng trên nền nhà nhưng vẫn cháy.

Sửng sốt trước cảnh rối loạn này, Sato giơ ngay súng lên, nhưng người vừa đến đã chụp lấy một đoạn xương đùi và quật mạnh vào vai bà ta. Sato rú lên đau đớn và bật ngửa, đánh rơi cả vũ khí. Người kia đá văng khẩu súng đi rồi quay về phía Langdon. Đó là một người da đen cao dong dỏng, ăn vận rất lịch sự mà Langdon chưa gặp mặt bao giờ.

- Chụp lấy cái kim tự tháp! - người đàn ông ra lệnh - Theo tôi!

Chú thích:

(56) Đĩa Phaistos là một chiếc đĩa bằng đất sét nung lấy từ cung điện Phaistos từ thời Minoa, có lẽ từ giai đoạn giữa hoặc cuối Thời kỳ đồ đồng (thế kỷ II trước Công nguyên). Nó có đường kính khoảng 15 cm và cả hai mặt đều phủ kín một vòng xoáy ốc gồm các biểu tượng được đóng dầu. Mục đích và ý nghĩa của nó, cũng như nơi sản xuất ra nó vẫn là một điều gây tranh cãi, làm cho nó trở thành một trong những bí ẩn nổi tiếng nhất của ngành khảo cổ. Hiện vật độc đáo này hiện được trưng bày tại bảo tàng khảo cổ Heraklion ở Crete, Hy Lạp. Đĩa do nhà khảo cổ người Italia là Luigi Pernier tìm ra năm 1908. Đặc điểm của nó là 241 dấu hiệu, hình thành lên 45 dấu hiệu độc đáo, rõ ràng được tạo thành bằng cách đóng những “con dấu” tượng hình đã tạo sẵn vào một chiếc đĩa đất sét còn mềm, xoáy trôn ốc thuận chiều kim đồng hồ về phía tâm đĩa - ND.

(57) Mật mã Dorabella là một bức thư mã hoá do Tòng Nam tước Edward Elgar, nhà soạn nhạc người Anh, viết cho cô Dora Penny. Cho đến giờ ý nghĩa của bức thư vẫn là điều bí mật. Bức mật mã này gồm 87 ký tự chia làm 3 dòng, có vẻ như được tạo thành từ một bảng chữ cái gồm 24 biểu tượng, mỗi biểu tượng gồm 1, 2, hoặc 3 hình bán khuyên, xoay theo một trong 8 hướng - ND.

(58) Di cảo Voynich là một cuốn sách có minh hoạ bí ẩn vẫn chưa được giải mã. Người ta nghĩ rằng nó được viết trong khoảng thế kỷ XV-XVI. Vẫn chưa rõ về tác giả, kiểu chữ viết và ngôn ngữ trong di cảo. Cuốn sách được đặt theo tên thương nhân bán sách người Mỹ gốc Ba Lan là Wilfrid M. Voynich, người có được nó vào năm 1912. Hiện di cảo được lưu giữ tại Thư viện Di cảo và Sách hiếm Beinecke thuộc Đại học Yale với số hiệu “MS 408”. Người ta ước đoán sách gốc có 272 trang chia thành 17 tay sách, mỗi tay sách 16 trang. Hiện nay chỉ còn 240 trang bằng giấy da cừu, có một vài trang đã bị thất lạc khi Voynich có được cuốn sách - ND.
hết Chương 41

kiemanh
10-10-2010, 05:28 PM
Chương 42


Người đàn ông da đen đang dẫn Langdon qua mê cung ngầm của Điện Capitol rõ ràng là một nhân vật quyền thế. Ngoài việc thông thuộc đường đi lối lại giữa những hành lang và phòng ốc, ông ta còn mang theo một chiếc chìa khoá dường như mở được tất cả mọi cánh cửa trên đường họ đi.

Langdon theo sau, mau chóng chạy lên một cầu thang lạ hoắc. Quai da của chiếc túi đang đeo thít chặt vào vai anh theo mỗi bước đi Kim tự tháp đá nặng đến nỗi Langdon chỉ sợ nó sẽ làm quai túi đứt tung.

Những phút vừa qua thật phi lý, và giờ Langdon thấy hành động của mình hoàn toàn thuần bản năng. Lòng anh mách bảo rằng hãy tin tưởng người lạ này. Không chỉ cứu Langdon khỏi bị bắt giữ, ông ta còn mạo hiểm bảo vệ kim tự tháp bí ẩn của Peter Solomon cho dù cái kim tự tháp có là gì đi nữa. Tuy chưa rõ động cơ của người lạ, nhưng Langdon đã kịp nhận ra chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên tay ông ta, một chiếc nhẫn của Hội Tam điểm với con phượng hoàng hai đầu cùng chữ số 33. Người đàn ông này và Peter Solomon không chỉ là những người bạn đáng tin cậy của nhau mà còn là huynh đệ Tam điểm ở cấp độ cao nhất.

Langdon theo người nọ lên đến đỉnh cầu thang, bước vào hành lang khác, băng qua một cánh cửa không có biển đề để tới lối đi dành cho nhân viên phục vụ. Họ chạy qua hàng dãy hộp nhu yếu phẩm và những túi rác, thình lình rẽ sang một cánh cửa dẫn tới một rạp chiếu phim sang trọng. Người dẫn đường đi theo lối ngách, qua những ô cửa chính để tới một tiền sảnh rất lớn. Giờ thì Langdon nhận ra họ đang ở trung tâm khách tham quan mà anh đã đi qua hồi tối.

Thật không may, ở đó có một nhân viên an ninh Điện Capitol.

Khi hai bên chạm mặt cả ba người đều dừng lại, đăm đăm nhìn nhau. Langdon nhận ra anh chàng gốc Tây Ban Nha này chính là người có mặt bên máy chiếu X quang.
- Nhân viên Nunez - người Mỹ da đen lên tiếng - Đừng nói gì. Hãy theo tôi.
Anh chàng cảnh vệ có vẻ băn khoăn nhưng vẫn làm theo mà không hỏi gì.
Người này là ai nhỉ?

Cả ba vội vã đi về góc đông nam của trung tâm du khách, tới một phòng giải lao nhỏ và một dãy cửa nặng nề với nhiều cột màu cam. Các cửa này đều được dán băng dính, rõ ràng để khỏi dính bụi từ khu vực tham quan bên ngoài. Người đàn ông bước tới và gỡ băng dính trên một cánh cửa. Sau đó, ông lục tìm chùm chìa khoá và nói với anh chàng nhân viên an ninh.
- Chỉ huy Anderson của chúng ta đang ở tầng đáy. Có lẽ anh ấy bị thương. Anh nên xuống xem tình hình thế nào.
- Vâng, thưa ngài - Trông Nunez thiểu não y như vấp phải tình huống báo động vậy.
- Điều quan trọng nhất là anh không hề gặp chúng tôi - Người đàn ông lựa ra một chiếc chìa khoá, tháo rời khỏi chùm và dùng nó để mở một cánh cửa đã cũ. Ông kéo cánh cửa thép và ném chiếc chìa cho anh chàng nhân viên - Hãy khoá cánh cửa này lại sau khi chúng tôi qua. Dán băng dính như cũ. Cho chìa khoá vào túi và đừng nói gì với bất kỳ ai. Kể cả Chỉ huy. Rõ chưa, nhân viên Nunez?
Anh chàng kia nhìn chiếc chìa khoá như thể vừa được tin tưởng giao phó một viên đá quý.
- Rõ, thưa ngài.
Người đàn ông bước vội qua cửa, Langdon đi theo. Anh nhân viên an ninh khoá cánh cửa nặng nề, Langdon còn nghe rõ tiếng anh ta dán lại băng dính.
- Giáo sư Langdon, - người đàn ông lên tiếng, đồng thời sải bước theo một hành lang khá hiện đại đang xây dở - Tên tôi là Warren Bellamy, bạn chí thân của Peter Solomon.
Langdon giật mình nhìn người đàn ông lịch lãm. Ông ta là Warren Bellamy ư? Tuy chưa từng gặp mặt, nhưng anh đã nghe nhắc nhiều đến tên tuổi vị kiến trúc sư Điện Capitol này.
- Peter đánh giá anh rất cao - Bellamy nói - và tôi thật tiếc vì chúng ta gặp nhau trong hoàn cảnh không vui vẻ gì.
- Peter đang gặp rắc rối. Tay ông ấy…
- Tôi biết - Giọng Bellamy đanh lại - Tôi sợ rằng thế chưa phải đã hết đâu.
Họ đến cuối hành lang khá sáng sủa, và lối đi đột ngột ngoặt sang trái, phía ấy tối như mực.
- Đi nào, - Bellamy nói và biến mất trong một phòng điều khiển điện gần đó, có cả mớ dây nhợ màu cam bò ra từ phòng này rồi chạy vào bóng tối hun hút của hành lang. Langdon chờ đợi, còn Bellamy dò dẫm bên trong. Chắc ông định tìm công tắc điện, bởi cả đãy hành lang trước mặt họ đột nhiên sáng trưng.
Langdon đứng đờ ra nhìn.
Washington D.C. - cũng như Rome - là một thành phố có nhiều lối đi bí mật và nhiều đường hầm dưới lòng đất. Lúc này, lối đi trước mặt khiến Langdon nhớ tới đường hầm Passetto(59) nối Vatican với Lâu đài Sant’Angelo(60). Rất dài. Tối tăm. Chật hẹp. Tuy nhiên, khác với Passetto cổ kính, lối đi này còn mới và vẫn chưa hoàn thiện. Đây là một khu vực xây dựng dài đến mức dường như không có điểm cuối. Thứ ánh sáng duy nhất là một dãy bóng đèn bố trí cách quãng càng làm nổi bật chiều sâu hun hút của đường hầm.
Bellamy đã tiến vào hành lang.
- Theo tôi. Cẩn thận khi bước đấy.
Langdon theo sát dấu chân Bellamy, lòng băn khoăn không rõ đường hầm này dẫn tới đâu.
***
Cùng lúc đó, Mal’akh bước ra khỏi Khoang 3 và rảo chân theo hành lang chính vắng hoe của SMSC để tiến về phía Khoang 5. Gã nắm chặt tấm thẻ của Trish trong tay và khẽ lẩm bẩm.
- Không-tám-không-bốn.

Trong đầu gã còn lởn vởn ý nghĩ gì đó. Mal’akh vừa nhận được một tin nhắn khẩn từ Điện Capitol. Tay trong của ta vướng phải những trở ngại ngoài dự đoán. Thế nhưng vẫn có những tin khá thú vị: Rober Langdon đã nắm giữ cả kim tự tháp và cái chóp. Cho dù mọi việc diễn ra ngoài dự liệu thì các đồ vật quan trọng đều đã tụ về một chỗ. Số phận đang an bài mọi sự kiện tối nay, bảo đảm cho thắng lợi của Mal’akh.

Chú thích:
(59) Đường hầm Passetto di Borgo, gọi tắt là Passetto, là một lối đi trên cao nối giữa Vatican và Lâu đài Sant’Angelo. Đây là một hành lang dài gần 800 m, được Giáo hoàng Nicholas III cho xây năm 1277. Trong một số trường hợp, nó được dùng làm lối thoát hiểm cho Giáo hoàng - ND.
(60) Bảo tàng Hadrian, thường được đến với tên gọi Lâu đài Sant’Angelo, là một toà nhà hình tròn cao vút ở Rome, nguyên thuỷ được Hoàng đế La Mã Hardian xây dựng làm bảo tàng cho mình và gia đình. Sau này, công trình được sử dụng như một pháo đài, thậm chí là nơi giam cầm, còn nay là một bảo tàng. Lâu đài Sant’Angelo xuất hiện trong tiểu thuyết Thiên thần và ác quỷ của Dan Brown với tư cách là hang ổ bí mật của Hội Hassassin Và là thánh đường cuối cùng còn tồn tại của tổ chức Illuminati - ND.
hết: Chương 42
Chương 43


Langdon vội vã bước cho kịp Warren Bellamy, cả hai cùng im lặng di chuyển dọc đường hầm dài dằng dặc. Cho đến giờ, Kiến trúc sư Điện Capitol quan tâm đến việc mang kim tự tháp đi thật xa khỏi chỗ Sato hơn là giải thích cho Langdon về những điều đang xảy ra.

Langdon càng lúc càng hiểu rằng sẽ có nhiều biến cố vượt quá mọi hình dung của anh.

Nào là CIA? Rồi Kiến trúc sư Điện Capitol? Hai hội viên Tam điểm ở cấp 33?
Điện thoại di động của Langdon chợt ré lên. Anh móc nó ra khỏi túi áo khoác và ngập ngừng nghe máy.
- A lô?
Đầu bên kia là tiếng thì thào kỷ quái quen thuộc.
- Giáo sư, tôi nghe nói ông có một người bạn đồng hành bất ngờ.
Langdon bỗng ớn lạnh.
- Peter đâu rồi?! - anh hỏi, giọng vang vọng trong đường hầm kín bưng. Warren Bellamy lo lắng liếc sang và ra hiệu cho Langdon tiếp tục đi - Đừng lo, - gã kia đáp - Tôi đã nói với ông rồi. Peter ở một chỗ rất an toàn.
- Mày đã chặt đứt tay ông ấy, lạy Chúa? Ông ấy cần bác sĩ!
- Ông ấy cần giáo sĩ. - gã kia đáp - Nhưng ông có thể cứu Peter. Nếu ông làm theo lời tôi, Peter sẽ sống. Tôi thề đấy.
- Lời thề của một thằng điên chẳng nghĩa lý gì với tao hết.
- Điên ư? Giáo sư. Ông hãy ngẫm lại sự trân trọng tôi dành cho những nghi thức cổ xưa tối nay xem. Mật Thủ đã dẫn ông tới một cánh cổng, chính là cái kim tự tháp có thể hé mở những tri thức cổ xưa. Tôi biết là giờ ông đã có nó.
- Mày tưởng đây là Kim tự tháp Tam điểm ư? - Langdon hỏi lại - Nó chỉ là một cục đá thôi.
Đầu bên kia im lặng.
- Langdon, ông đừng giả ngốc nữa. Ông hiểu rất rõ những gì vừa khám phá tối nay. Một nhân vật Tam điểm rất quyền thế… giấu một kim tự tháp bằng đá… ở trung tâm Washington D.C.…?
- Mày đang theo đuổi một câu chuyên hão huyền? Cho dù Peter đã nói gì với mày thì đó cũng là vì ông ấy buộc phải nói. Truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm chỉ là hư cấu. Hội Tam điểm chưa bao giờ xây dựng bất kỳ kim tự tháp nào để bảo vệ tri thức bí truyền cả, và cho dù họ có xây đi chăng nữa thì cái kim tự tháp này cũng quá nhỏ, không thể là cái mà mày nghĩ đâu.
Gã đàn ông cười khùng khục.
- Tôi thấy là Peter tiết lộ rất ít với ông. Tuy nhiên, cho dù ông có chịu chấp nhận rằng mình đang giữ Kim tự tháp Tam điểm hay không, thì ông cũng phải làm theo những điều tôi yêu cầu. Tôi biết rất rõ rằng cái kim tự tháp ông mang theo bên người có một dòng chữ khắc ông sẽ giải mã dòng chữ ấy hộ tôi. Sau đó, nhớ là chỉ sau đó nhé, tôi sẽ trả Peter Solomon về cho ông.
- Dù dòng chữ khắc tiết lộ điều gì đi nữa thì nhất định nó cũng không phải là những Bí mật cổ xưa - Langdon nói.
- Dĩ nhiên là không phải rồi, - gã kia đáp - Những bí mật đó quá đồ sộ nên không thể viết lên bề mặt một cái kim tự tháp đá nhỏ xíu được.
Câu trả lời khiến Langdon phải chú ý.
- Nhưng nếu dòng chữ khắc không phải là Bí mật cổ xưa thì cái kim tự tháp này cũng không phải là Kim tự tháp Tam điểm. Truyền thuyết nói rất rõ Kim tự tháp Tam điểm được xây dựng để bảo vệ những Bí mật cổ xưa mà.
Giọng gã kia chợt nhũn nhặn hẳn.
- Thưa ông Langdon, Kim tự tháp Tam điểm được xây dựng để gìn giữ những Bí mật cổ xưa, nhưng với một dụng ý mà rõ ràng là ông vẫn chưa nắm được. Chẳng lẽ Peter lại chưa kể với ông ư? Sức mạnh của Kim tự tháp Tam điểm không phải ở chỗ nó tiết lộ các bí mật… mà là cho biết vị trí chôn giấu các bí mật ấy.
Langdon hết sức hoang mang.
- Hãy giải mã dòng chữ khắc đi - gã kia tiếp tục - và nó sẽ cho ông biết nơi cất giấu kho tàng vĩ đại nhất của nhân loại - Gã cười - Lão Peter không tin tưởng giao cho ông kho báu rồi, thưa Giáo sư!
Langdon đứng sững lại trong hầm.
- Này. Y anh nói, kim tự tháp này là một… bản đồ ư?
Bellamy cũng dừng bước, vẻ mặt bất ngờ và cảnh giác. Rõ ràng, kẻ gọi tới vừa tạo một ấn tượng mạnh. Kim tự tháp là một tấm bản đồ.
- Tấm bản đồ này, - gã kia thì thào - hay kim tự tháp, cánh cổng, hoặc bất kỳ tên gọi nào ông thích… được tạo ra từ rất lâu về trước để bảo đảm rằng vị trí cất giấu những Bí mật cổ xưa sẽ không bị quên lãng… và nó sẽ không bao giờ chìm nghỉm trong lịch sử.
- Một chuỗi 16 biểu tượng trông chẳng giống một bản đồ tí nào.
- Vẻ ngoài dễ gây nhầm lẫn đấy, thưa Giáo sư. Nhưng chỉ mình ông mới có đủ quyền năng để đọc những dòng chữ khắc đó.
- Anh nhầm to rồi, - Langdon vặc lại, cố hình dung ra dòng mật mã giản dị kia - Bất kỳ ai cũng có thể giải mã dòng chữ khắc này. Nó chẳng có gì phức tạp cả.
- Tôi cho rằng kim tự tháp còn nhiều ý nghĩa khác ẩn sâu. Nhưng dù sao thì cũng chỉ mình ông mới có phần chóp.
Langdon nhớ lại cái chóp nhỏ nằm trong túi mình. Trật tự từ trong hỗn loạn? Anh không biết tin vào điều gì nữa, cứ mỗi thời khắc qua đi cái kim tự tháp đá trong túi anh dường như nặng thêm.
Mal’akh áp chặt di động vào tai, khoái trá nghe tiếng thở đầy nôn nóng của Langdon ở đầu bên kia.
- Bây giờ tôi có việc phải làm, thưa Giáo sư, và ông cũng vậy. Hãy gọi cho tôi ngay khi ông giải mã được tấm bản đồ. Chúng ta sẽ cùng tới chỗ cất giấu và làm công việc của chúng ta. Mạng sống của Peter… đổi lấy toàn bộ tri thức của mọi thời đại.
- Tôi sẽ là làm gì hết, - Langdon tuyên bố - Đặc biệt là nếu không có bằng chứng rằng Peter vẫn còn sống.
- Tôi khuyên ông đừng thử thách tôi. Ông là một bánh răng rất quan trọng trong một cỗ máy đồ sộ. Nếu ông không nghe tôi, hay cố gắng truy tìm tôi, thì Peter sẽ chết. Tôi thề đấy.
- Theo tất cả những gì tôi biết thì Peter đã chết rồi.
- Peter vẫn còn sống, thưa Giáo sư, nhưng ông ấy rất cần sự giúp đỡ của ông đấy.
- Thực sự thì mày đang mong muốn điều gì? - Langdon quát vào điện thoại.
Mal’akh im lặng chốc lát rồi đáp.
- Rất nhiều người truy tìm các Bí mật cổ xưa và tranh giành sức mạnh của những bí mật ấy. Tối nay, tôi sẽ chứng minh những bí mật ấy là có thật.
Langdon im lặng.
- Tôi khuyên ông hãy xử lý cái bản đồ ngay đi, - Mal’akh nói - Tôi cần thông tin này trong ngày hôm nay.
- Hôm nay ư? Đã hơn 9 giờ tối rồi.
- Chính xác. Thời gian không còn nhiều đâu.
hết: Chương 43
Chương 44


Jonas Faukman, biên tập viên Thời báo New York, vừa tắt đèn trong văn phòng của mình ở Manhattan thì điện thoại đổ chuông.

Anh không hề có ý định nghe máy giờ này - nhất định thế, cho tới khi nhìn thấy danh tính người gọi. Hay ho đây, anh nghĩ bụng và với tay nhấc ống nghe.
- Cậu sẽ xuất bản chứ - Faukman hỏi, vẻ nghiêm túc.
- Jonas! - Giọng Robert Langdon đầy lo lắng - ơn Chúa là cậu vẫn còn đó. Tớ cần cậu giúp đỡ.
Tinh thần Faukman phấn chấn hẳn.
- Cậu đã xong bản thảo cho tớ biên tập rồi phải không Robert? Xong rồi hả?
- Không, tớ cần thông tin. Năm ngoái, tớ có giới thiệu cậu với một nhà khoa học tên là Katherine Solomon, em gái Peter Solomon ấy?
Faukman cau mày. Không có bản thảo.
- Cô ấy tìm một nhà xuất bản để ra cuốn sách về Lý trí học? Cậu còn nhớ cô ấy không?
Faukman đảo mắt.
- Rồi. Tớ nhớ, và vô cùng biết ơn vì vụ giới thiệu đó. Cô ấy không những từ chối cho tớ xem kết quả các nghiên cứu của mình mà còn không muốn xuất bản bất kỳ thứ gì cho tới một ngày quái nào đó trong tương lai cơ.
- Jonas, nghe tớ này, tớ không có thời gian đâu. Tớ cần số điện thoại của Katherine. Ngay bây giờ. Cậu có không?
- Tớ phải cảnh báo cậu rằng… cậu đang làm một việc vô vọng đấy Cô ấy trông rất tuyệt, nhưng cậu không gây ấn tượng cho cô ấy bằng…
- Đừng đùa, Jonas, tớ cần số điện thoại của cô ấy ngay.
- Được rồi… chờ nhé - Faukman là bạn thân của Langdon đã nhiều năm, đủ để biết khi nào thì Langdon nghiêm túc. Anh gõ tên Katherine Solomon vào cửa sổ tìm kiếm và bắt đầu rà máy chủ e-mail của công ty.
- Tớ đang tìm đây, - Faukman nói - Nhưng để làm gì chứ, khi gọi cho cô ấy, có thể cậu sẽ không muốn gọi từ bể bơi Harvard đâu. Như thế thì chẳng khác gì cậu đang ở trong trại tâm thần.
- Tớ không ở bể bơi. Tớ đang ở trong một đường hầm bên dưới Điện Capitol.
Nghe giọng Langdon. Faukman cảm nhận được rằng bạn mình không hề đùa cợt. Có chuyện gì với thằng cha này vậy nhỉ?
- Robert, sao cậu không ở nhà và viết sách nhỉ? - Máy tính của Faukman dừng lại - Được, nào… tớ có đây rồi - Anh lật qua danh sách e-mail dài dằng dặc - Hình như tớ còn số di động của cô ấy.
- Tớ sẽ ghi lại ngay.
Faukman đọc số điện thoại cho Langdon.
- Cảm ơn nhé, Jonas, - Langdon nói, giọng cảm kích - Tớ nợ cậu lần này.
- Cậu nợ tớ một bản thảo, Robert. Cậu định bao lâu nữa…
Máy ngắt.

Faukman đăm đăm nhìn ống nghe và lắc đầu. Xuất bản sách sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu không có các ông bà tác giả.

hết: Chương 44
Chương 45


Katherine Solomon ngạc nhiên khi nhìn thấy tên người gọi. Cô cứ nghĩ cuộc gọi tới là của Trish để giải thích lý do tại sao hai người họ lại đi lâu đến vậy. Nhưng người gọi không phải là Trish.

Hoàn toàn không phải.

Một nụ cười bẽn lẽn thoáng hiện trên môi Katherine. Liệu tối nay còn chuyện gì lạ lùng hơn nữa không?
Cô mở máy.
- Đừng nói với tôi là - giọng cô vui vẻ - Một anh chàng độc thân suốt ngày chúi mũi vào sách vở lại tìm kiếm một nhà Lý trí học chưa lập gia đình nhé?
- Katherine! - giọng Robert Langdon vang lên - ơn Chúa, chị vẫn ổn.
- Dĩ nhiên là tôi vẫn ổn, - Katherine đáp, vẻ bối rối - Chỉ phiền lòng vì anh chẳng chịu gọi cho tôi từ sau bữa tiệc ở nhà Peter mùa hè năm ngoái.
- Tối nay có một sự cố. Xin hãy nghe đây - Giọng nói trơn tru ngày thường của Langdon bỗng như vấp váp - Tôi lấy làm tiếc phải nói với chị chuyện này… nhưng anh Peter đang gặp rắc rối lớn.
Nụ cười của Katherine biến mất.
- Anh đang nói gì vậy?
- Anh Peter… - Langdon chần chừ như muốn lựa lời - Tôi không biết phải nói sao, nhưng anh ấy đã bị… bắt cóc. Tôi không rõ như thế nào và do ai, nhưng…
- Bị bắt cóc ư? - Katherine hỏi lại - Robert, anh doạ tôi đấy à? Bắt đi đâu?
- Bị bắt làm con tin - Giọng Langdon đầy bối rối - Chắc sự việc xảy ra sớm hôm nay hoặc từ hôm qua.
- Đừng đùa thế, - Katherine giận dữ - Anh trai tôi vẫn ổn. Tôi vừa nói chuyện với anh ấy mười lăm phút trước?
- Thật không?! - Giọng Langdon đầy sửng sốt.
- Thật! Anh ấy gửi tin nhắn cho tôi nói rằng đang trên đường tới phòng thí nghiệm.
- Anh ấy gửi tin nhắn cho chị… - Langdon kêu to - Nhưng chị không hề nghe thấy tiếng anh ấy phải không?
- Không, nhưng…
- Nghe tôi nói này. Tin nhắn chị nhận được không phải của anh trai chị. Có kẻ đã lấy điện thoại của Peter. Hắn rất nguy hiểm. Chính hắn là kẻ đã lừa tôi tới Washington tối nay.
- Lừa anh ư? Chẳng ra làm sao cả.
- Tôi biết, tôi xin lỗi - Langdon có vẻ hoang mang khác thường - Katherine, tôi nghĩ chị đang gặp nguy hiểm đấy.
Katherine Solomon biết chắc rằng Langdon không bao giờ đùa cợt kiểu này, nhất là với giọng điệu như mất trí ấy.
- Tôi ổn mà, - cô đáp - Tôi đang ở trong một toà nhà rất an toàn!
- Đọc cho tôi nghe tin nhắn chị nhận từ điện thoại của Peter. Nào!
Hết sức bối rối, Katherine mở lại tin nhắn và đọc cho Langdon nghe, cô thấy châu thân ớn lạnh khi đọc đến phần nhắc tới bác sĩ Abaddon. “Nếu được, mời bác sĩ Abaddon cùng tham gia với chúng ta. Anh tin anh ấy hoàn toàn…”
- Ôi lạy Chúa… - Giọng Langdon đầy sợ hãi - Chị đã mời người này vào đó chưa?
- Rồi! Trợ lý của tôi đã ra sảnh dẫn anh ta vào. Tôi nghĩ họ sẽ quay lại bất kỳ…
- Katherine, thoát ra ngay đi! - Langdon hét lên - Ngay bây giờ!

***

Phía bên kia SMSC, điện thoại phòng an ninh bỗng đổ chuông, át hẳn tiếng trận đấu của đội Redskins. Người bảo vệ chần chừ tháo tai nghe một lần nữa.
- Phòng chờ đây, - anh ta lên tiếng - Tôi là Kyle.
- Kyle, Katherine Solomon đây! - Katherine hổn hển gọi, giọng đầy thảng thốt.
- Thưa cô, anh trai cô vẫn chưa…
- Trish đâu rồi? - cô hỏi - Anh có thấy cô ấy trên màn hình không?
Người bảo vệ xoay ghế về phía dãy màn hình.
- Cô ấy vẫn chưa trở lại Khối hộp ạ?
- Chưa! - Katherine hét lên như báo động.
Lúc này, người bảo vệ mới nhận ra rằng Katherine Solomon hoàn toàn mất bình tĩnh, hình như cô ấy đang chạy. Có chuyện gì ở đó không biết? Anh ta nhanh chóng điều khiển cần máy quay, lướt qua các khuôn hình với tốc độ nhanh.
- Đây rồi, vâng, tôi đang tua lại… tôi thấy Trish cùng vị khách của cô rời phòng khách… họ đi xuống hành lang… tua nhanh nhé… rồi, họ vào Thuỷ trì tua nhanh nhé… rồi, đây họ vừa rời Thuỷ trì chừng một phút trước… đi về phía… - Anh ta gõ gõ vào trán, cho máy chạy chậm lại - Chờ chút. Không ổn rồi.
- Sao cơ?
- Chỉ có mình quý ông ra khỏi Thuỷ trì thôi.
- Trish vẫn ở bên trong à?
- Vâng, có vẻ như vậy. Tôi thấy vị khách của cô… anh ta ở trong sảnh một mình.
- Trish đâu rồi? - Katherine hỏi, giọng càng cuống hơn nữa.
- Tôi không thấy cô ấy trên video, - người bảo vệ đáp, giọng thoáng lo lắng. Anh ta xem lại màn hình và nhận ra tay áo khoác người kia bị ướt… lên đến tận khuỷu. Thằng cha này làm quái gì trong Thuỷ trì không biết? Hắn ta bắt đầu bước dọc hành lang chính về phía Khoang 5, tay cầm chặt một thứ trông giống… tấm thẻ.
Người bảo vệ cảm thấy tóc ở sau gáy dựng đứng.
- Cô Solomon, chúng ta gặp phải một chuyện rất nghiêm trọng rồi.

***

Tối nay là một buổi tối dị thường đối với Katherine Solomon.
Hai năm qua, cô chưa hề sử dụng điện thoại di động trong bóng tối cũng chưa bao giờ phải băng qua khoảng tối ấy bằng cách chạy thục mạng cả. Tuy nhiên, lúc này, Katherine đang áp chặt điện thoại di động vào tai và quáng quàng lao vội dọc chiều dài lớp thảm vô định. Mỗi lần cảm thấy chân chệch ra khỏi thảm, cô lại nhích vào giữa, hối hả băng qua bóng tối mịt mùng.
- Gã ta đâu rồi? - Katherine hỏi người bảo vệ.
- Tôi đang kiểm tra, - người bảo vệ đáp - Tua lên đây… được rồi, gã đang đi xuống đại sảnh… về phía Khoang 5…
Katherine guồng mạnh chân, hy vọng kịp ra tới cửa để khỏi bị kẹt lại trong này.
- Còn bao lâu nữa thì gã tới được cửa Khoang 5?
Người bảo vệ nín lặng.
- Thưa cô, cô không hiểu sao? Tôi đang tua đi mà. Đây là chế độ xem lại. Mọi việc đã xảy ra rồi - Anh ta ngừng lời - Chờ chút, để tôi kiểm tra màn hình lối vào - Dừng chốc lát, anh ta nói tiếp - Thưa cô, thẻ của cô Dunne đã nhập lệnh vào được một phút rồi.
Katherine khựng lại ngay giữa khoảng tối mịt mùng.
- Gã đã mở cửa Khoang 5 rồi à? - cô thì thào trên điện thoại.
Người bảo vệ vội vã gõ bàn phím.
- Vâng, hình như gã đã vào… 90 giây trước.
Toàn thân Katherine cứng đờ. Cô nín thở. Bóng tối xung quanh đột nhiên như có sự sống.
Gã đã vào trong này cùng với mình.
Trong khoảnh khắc, Katherine nhận ra rằng thứ ánh sáng duy nhất trong khoảng không gian tối om này chính là từ điện thoại di động của cô, soi rõ gương mặt cô.
- Gọi hỗ trợ ngay - cô thì thào với người bảo vệ - Và tới Thuỷ trì giúp Trish - Rồi cô vội tắt điện thoại.
Bóng tối mịt mùng phủ kín xung quanh.
Katherine đứng im lìm và thở thật khẽ. Sau vài giây, mùi. ethanol toả ra từ khoảng tối trước mặt cô. Mùi đó càng lúc càng đậm. Cô có thể cảm nhận được sự hiện diện của kẻ kia, gã chỉ ở cách cô vài bước.
Trong im lặng, tiếng tim đập nghe sao rõ đến vậy. Rất khẽ khàng, Katherine rút chân khỏi giày và nhích sang trái, bước lệch khỏi tấm thảm. Nền xi măng lạnh ngắt dưới chân cô. Cô dịch ra khỏi tấm thảm thêm một bước.
Một ngón chân cô bỗng miết két xuống sàn nhà.
Chẳng khác gì tiếng súng giữa thinh không.
Tiếng quần áo sột soạt vang lên cách đó vài bước. Katherine phản ứng quá trễ, một cánh tay chắc khỏe sượt qua cô, quờ quạng trong bóng tối như cố túm lấy cô. Katherine vùng mạnh ra khi bàn tay lạ nắm được áo choàng, kéo cô trở lại.
Katherine duỗi thẳng hai tay ra sau để tuột khỏi áo choàng và thoát đi. Đột nhiên, chẳng cần biết đâu là lối ra nữa, cô quáng quàng lao về phía trước, băng qua bóng tối vô định mịt mùng.
hết: Chương 45

sarujun
29-01-2011, 01:25 AM
Chương 46


Mặc dù sở hữu “không gian đẹp nhất thế giới”, như nhiều người thường nói, nhưng Thư viện Quốc hội lại được biết đến nhờ bộ sưu tập sách đồ sộ hơn là nhờ kiến trúc tráng lệ mê hồn. Với những giá sách kéo dài đến hơn 500 dặm - một khoảng cách tương đương từ Washington D.C. đến Boston - nó dễ dàng giành được danh hiệu thư viện lớn nhất thế giới, và vẫn đang tiếp tục mở rộng với tốc độ hơn 10.000 đầu mục sách mỗi ngày.

Thư viện Quốc hội là nơi cất giữ bộ sưu tập cá nhân sách khoa học và triết học của Thomas Jefferson, giờ đây nó đã trở thành biểu tượng cho lời cam kết của nước Mỹ về sự nghiệp phổ biến tri thức. Là một trong những toà nhà đầu tiên ở Washington được mắc điện, thư viện thực sự toả sáng như ngọn đèn hiện trong bóng u minh ở Tân Thế giới.
Đúng như tên gọi của nó, Thư viện Quốc hội được thành lập để phục vụ các nghị sĩ đáng kính làm việc trong Điện Capitol ngay bên kia đường. Mối liên hệ lâu đời giữa thư viện và Điện Capitol gần đây lại được củng cố thêm nhờ việc xây dựng một cầu nối hữu hình - một đường hầm dài ngay bên dưới Đại lộ Độc Lập, nối liền hai toà nhà.

Đêm nay, trong đường hầm tăm tối này, Robert Langdon theo Warren Bellamy băng qua khu vực đang xây dựng dở, cố gắng chế ngự tâm trạng lo lắng mỗi lúc một tăng về Katherine. Gã điên đang ở phòng thí nghiệm của chị ấy! Langdon thậm chí còn không muốn hình dung xem vì sao lại như vậy. Khi gọi đến để cảnh báo, Langdon đã cho Katherine biết chính xác địa điểm để cô tới gặp anh. Cái đường hầm quái quỷ này còn kéo dài bao xa nữa đây? Đầu anh đau như búa bổ vì những ý nghĩa chồng chéo, đan xen quay cuồng: Katherine, Peter, Hội Tam điểm. Bellamy, kim tự tháp, lời tiên tri cổ xưa và một tấm bản đồ.

Langdon lắc đầu, cố xua đuổi những ý nghĩ ấy và rảo bước đi tới.

Bellamy đã hứa sẽ giải đáp cho mình.

Tới đầu bên kia của đường hầm, Bellamy dẫn Langdon đi qua một dãy cửa hai cánh vẫn đang trong quá trình xây dựng. Chưa thể khoá được cửa, Bellamy đành ứng biến bằng cách lấy một chiếc thang nhôm trong đống dụng cụ xây dựng, dựa hờ nó vào mé ngoài cánh cửa. Sau đó, ông đặt một cái xô bằng kim loại lên đỉnh thang. Nếu có ai mở cửa, cái xô sẽ rơi loảng xoảng xuống sàn.

Hệ thống báo động đây hả? Langdon ngó cái xô đặt chênh vênh, hy vọng Bellamy có một kế hoạch toàn diện hơn để bảo đảm an toàn cho họ tối nay. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, tới lúc này Langdon mới bắt đầu xem xét hậu quả của việc tẩu thoát. Mình là một kẻ đang trốn chạy CIA.

Bellamy đi trước quành qua một góc tường, từ đây họ bắt đầu leo lên một cầu thang rộng rãi nằm giữa hai hàng cột màu cam. Cái túi da kéo trĩu vai Langdon theo từng bước tiến.

- Về kim tự tháp đá, - anh đánh tiếng - tôi vẫn chưa hiểu…

- Không phải ở đây, - Bellamy ngắt lời - Chúng ta sẽ xem xét nó ở chỗ sáng. Tôi biết một nơi an toàn.

Langdon băn khoăn, liệu có nơi nào đủ an toàn cho kẻ vừa đánh trọng thương Giám đốc Phòng An ninh của CIA hay không.

Lên hết cầu thang, hai người bước vào một hành lang rộng xây bằng đá cẩm thạch Italia, vữa trang trí và vàng lá. Đại sảnh có tám cặp tượng dàn thành hai hàng, tất cả đều là tượng nữ thần Minerva. Bellamy vẫn rảo bước, dẫn Langdon đi về phía đông, qua một cửa vòm để tiến vào một không gian rộng lớn hơn nhiều.

Dù đèn đóm chỉ còn lờ mờ do đã hết giờ làm việc, đại sảnh thư viện vẫn hiện lên rực rỡ trong dáng vóc cổ điển của một toà dinh thự sang trọng kiểu châu Âu. Ở độ cao 22 mét, những ô cửa sổ lắp kính màu lấp lánh giữa viền khung thếp nhôm lá hiếm - thứ kim loại có thời còn quý hơn vàng. Đỡ bên dưới là một dãy cột đôi sừng sững chạy dọc ban công tầng hai, dẫn đến hai cầu thang xoắn rất lộng lẫy, mỗi chấn song lại đỡ một bức tượng thiếu nữ bằng đồng đang giơ cao ngọn đuốc khai sáng.

Vừa cố gắng thể hiện chủ đề khai tâm thời hiện đại vừa nỗ lực bảo lưu phong cách kiến trúc trang trí thời Phục hưng, các lan can đều chạm hình thiên sứ kháu khỉnh, dáng dấp tựa thần ái tình nhưng tư thế lại mô phỏng khoa học gia, chẳng hạn kỹ sư điện thiên thần cầm điện thoại hoặc nhà côn trùng học ngây thơ bưng mẫu vật… Langdon tự hỏi không biết Bernini(61) sẽ nghĩ gì khi trông thấy cảnh này.

- Chúng ta lại đằng kia nói chuyện - Bellamy gọi, dẫn Langdon đi qua dãy tủ trưng bày lắp kính chống đạn, bên trong chứa hai cuốn sách quý nhất của thư viện: cuốn Đại Kinh thánh Mainz, bản viết tay năm 1450, và bản sao cuốn Kinh thánh Gutenberg của Mỹ, một trong ba bản sao bằng da cừu hoàn hảo nhất the giới. Thật thích hợp là phần vòm trần phía trên thể hiện bức vẽ sáu mảnh nhan đề Lịch sử tiến hoá Sách của John White Alexander.

Bellamy bước thẳng tới hai ô cửa cánh đôi rất trang nhã trổ chính giữa mặt sau bức tường hành lang phía đông. Langdon biết rõ loại phòng nằm sau mấy cánh cửa ấy, nhưng chọn nơi này để trao đổi thì quả có hơi lạ lùng. Thật hài hước vì họ sẽ nói chuyện trong một không gian đầy những tấm biển “Giữ im lặng”, chưa kể đó còn là một nơi rất thiếu an toàn. Nằm chính giữa mặt bằng hình thập giá của thư viện, căn phòng này chẳng khác gì trung tâm toà nhà. Ẩn mình ở đây cũng tương tự đột nhập vào một thánh đường và núp sau bàn thờ.

Vậy mà Bellamy vẫn mở khoá cửa. Ông bước vào khoảng tối rồi lần mò tìm đèn điện. Công tắc vừa bật lên, một trong những kiệt tác kiến trúc vĩ đại của nước Mỹ thình lình hiện ra.
Phòng đọc sách nổi tiếng này thực sự thoả mãn mọi giác quan. Đây là một không gian hình bát giác đồ sộ với chóp đỉnh chạm tới độ cao 48 mét, tám cạnh đều “ốp đá cẩm thạch, nào là Tenessee màu nâu sô-cô-la, Siena màu kem, rồi Algeria màu táo đỏ. Vì được chiếu sáng từ cả tám góc nên bóng tối không có nơi hiện hữu, tạo cảm giác rằng gian phòng tự phát quang.

- Có người nhận xét đây là gian phòng ấn tượng nhất Washington, - Bellamy lên tiếng, giục Langdon bước vào.

Có khi nhất thế giới ấy, Langdon nghĩ thầm và đưa chân qua ngưỡng cửa. Như thường lệ, trước tiên ánh mắt anh lướt ngược lên dọc thân cột trung tâm, tới chỗ những ô trần lõm uốn cong theo mái vòm xuống một ban công tầng trên. Tại đây, mười sáu pho tượng “chân dung” bằng đồng đứng quây tròn theo viền phòng, đăm đăm nhìn xuống. Phía dưới cũng là một ban công, do dãy cong tò vò tạo thành. Ở phần sàn, những chiếc bàn gỗ láng bóng xếp thành ba đường tròn đồng tâm, toả ra quanh một chiếc bục bát giác rất
lớn.

Bellamy đẩy mạnh cho hai cánh cửa phòng mở rộng hơn. Langdon chuyển sự chú ý sang ông, anh thắc mắc.

- Chúng ta đang lẩn trốn cơ mà.

- Tôi muốn phát hiện động tĩnh nếu chẳng may có ai vào toà nhà - Bellamy nói.

- Nhưng họ sẽ mau chóng tìm thấy chúng ta ở đây thôi.

- Nhất định họ sẽ tìm thấy, dù chúng ta trốn ở đâu. Nhưng nếu bị bao vây, anh sẽ lấy làm mừng vì tôi đã chọn căn phòng này.

Langdon chưa hiểu vì sao, nhưng rõ ràng Bellamy không định thảo luận tiếp. Ông tiến thẳng vào giữa phòng, chọn một trong những chiếc bàn đặt sẵn ở đó, kéo hai chiếc ghế lại, bật đèn bàn lên và trỏ cái túi của Langdon.

- Được rồi, Giáo sư, chúng ta cùng xem xét kỹ hơn nào.
Không muốn mạo hiểm để khối đá hoa cương thô cứng làm xước mặt gỗ nhẵn bóng, Langdon đặt cả túi lên bàn, mở khoá và gấp hết mép túi xuống cho lộ cái kim tự tháp bên trong ra. Warren Bellamy chỉnh lại đèn và cẩn thận xem xét kim tự tháp. Ông rờ tay lên những dòng chữ khắc dị thường.

- Tôi đồ rằng anh nhận ra thứ ngôn ngữ này chứ? - Bellamy hỏi.

- Dĩ nhiên rồi, - Langdon đáp, mắt nhìn mười sáu ký tự.


http://i766.photobucket.com/albums/xx306/pjnkje_jun/Ch41.jpg

Thứ ngôn ngữ mã hoá, thường được gọi là Mật mã Tam điểm này, là phương tiện liên lạc riêng giữa các huynh đệ Tam điểm thời kỳ đầu. Sau này họ không dùng phương pháp mã hoá ấy nữa, vì một lý do hết sức đơn giản là quá dễ phá giải. Hầu hết các sinh viên môn biểu tượng học của Langdon đều có thể giải loại mật mã này trong vòng năm phút. Còn chính anh thì chưa cần đến 60 giây, chỉ với cây bút chì và tờ giấy.

Xét từ đặc tính dễ giải nổi tiếng của loại mật mã đã có lịch sử hàng trăm năm này, câu chuyện tối nay bộc lộ vài điều phi lý. Thứ nhất, thật ngớ ngẩn nếu cho rằng Langdon là người duy nhất trên Trái đất hoá giải được nó. Thứ hai, bảo mật mã Tam điểm là vấn đề an ninh quốc gia (như lời Sato) chẳng khác nào bảo mật mã phóng tên lửa hạt nhân được khoá bằng chiếc khuyên giải mã trong gói bim bim Cracker Jack(62). Langdon vẫn nghi hoặc về hai điểm trên. Kim tự tháp là một bản đồ? Nó sẽ chỉ đường tới kho tri thức đã thất truyền của mọi thời đại?

- Robert, - Bellamy lên tiếng, giọng nghiêm trang - Giám đốc Sato đã cho anh biết lý do vì sao bà ta quan tâm đến vụ này phải không?

Langdon lắc đầu.

- Không cụ thể. Sato chỉ nói đây là vấn đề an ninh quốc gia. Tôi ngờ bà ta nói dối.

- Có lẽ thế, - Bellamy nói và xoa xoa gáy, vẻ đang băn khoăn điều gì. - Nhưng còn một khả năng đáng ngại hơn thế - ông quay sang nhìn Langdon - Chưa chừng Giám đốc Sato đã phát hiện ra tiềm năng thật sự của kim tự tháp này.


--hết chương--
------------------------
Chú thích:
(61) Gian Lorenzo Bernini (1598 -1680) là một nghệ sĩ Italia làm việc tại Rome trong thế kỷ XVII. Ông là nhà điêu khắc trường phái Cổ điển hàng đầu của thời đại mình và cũng là một Kiến trúc sư nổi tiếng. Ngoài ra, ông cũng vẽ, viết kịch và thiết kế sân khấu - ND.
(62) Bộ giải mã bí mật, dưới dạng phù hiệu hoặc cái khuyên, là một trò chơi rất phổ biến cho trẻ em từ những năm 1930 và trong suốt thế kỷ XX. Nó thường được đặt trong các hộp ngũ cốc và bim bim, chẳng hạn của hãng Cracker Jack, làm phần thưởng. Đây là một cách khá lý thú để phát huy trí tưởng tượng của trẻ em rằng chúng có những loại mật mã dùng để gửi các thông điệp bí mật cho nhau - ND.

sarujun
18-02-2011, 12:26 AM
Chương 47


Bóng tối vây kín quanh Katherine Solomon.

Tách xa khỏi vùng an toàn quen thuộc của lớp thảm, cô chỉ còn nước dò dẫm bước, loạng choạng đi sâu vào khoảng không trống trải, tay vươn thẳng không nơi bấu víu. Dưới hai bàn chân đi tất của Katherine là nền xi măng lạnh giá vô tận như hồ nước đóng băng… một môi trường hung hiểm mà giờ đây cô cần phải thoát ra.

Không còn ngửi thấy mùi ethanol nữa, Katherine dừng bước và chờ đợi trong bóng tối. Cô đứng bất động, nghiêng tai lắng nghe, chỉ mong sao tim mình đừng đập mạnh như vậy. Những bước chân nặng trịch phía sau cô dường như đã dừng lại. Mình thoát được hắn rồi ư?

Katherine nhắm mắt, cố hình dung vị trí đang đứng. Mình đã chạy theo hướng nào? Cửa ở đâu? Vô ích. Cô đã chạy lòng vòng nên giờ lối ra có thể ở bất kỳ chỗ nào.

Katherine từng nghe nói nỗi sợ hãi chính là chất kích thích làm trí não suy nghĩ thêm sắc bén. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi hiện thời khiến tâm trí cô quay cuồng vì hoảng loạn và bối rối. Cho dù tìm được cửa thì mình cũng không thể ra ngoài. Tấm thẻ đã bị mất khi cô thoát khỏi chiếc áo choàng. Hy vọng duy nhất của cô là lúc này là gã sẽ không tên được cô Mặc dù rất muốn chạy trốn, nhưng trí não quen phân tích của Katherine mách bảo cô hành động hợp lý nhất là không di chuyển đi đâu hết. Cứ ở yên một chỗ. Dừng gây ra tiếng động. Bảo vệ đang trên đường tới, và vì một lý do không rõ nào đó, kẻ tấn công cô toả ra mùi ethanol rất mạnh. Nếu hắn đến gần, mình sẽ phát hiện ra.

Đứng yên lặng giữa bóng tối, Katherine điểm lại trong trí những lời Langdon nói. Anh trai chị… bị bắt cóc. Cô cảm thấy giọt mồ hôi lạnh ngắt rơi xuống cánh tay và chảy xuôi xuống chiếc điện thoại di động vẫn nằm gọn nơi bàn tay phải. Cô quên bẵng mối nguy này.

- Nếu điện thoại đổ chuông, nó sẽ chỉ ra vị trí của Katherine, và cô không thể tắt được nó mà không mở ra và làm màn hình sáng lên.

Đặt điện thoại xuống… tránh xa khỏi nó.

Nhưng đã quá muộn. Từ bên phải, mùi ethanol đang lan dần lại phía cô, mỗi lúc một nồng hơn. Katherine gắng trấn tĩnh, cố chế ngự bản năng muốn bỏ chạy. Rất cẩn thận, rất chậm rãi, cô bước một bước sang trái. Tiếng quần áo sột soạt khe khẽ chính là điều mà kẻ tấn công đang cần. Cô nghe rõ hắn chồm lại, mùi ethanol ào tới khi một bàn tay tóm lấy vai cô. Katherine xoay người đi, vô cùng khiếp hãi.

Xác suất toán học hoá ra vô ích, cô bung người chạy quáng quàng. Cô nhớn nhác lao sang trái, đổi hướng, chạy nháo nhào trong khoảng không vô định.

Tường nhà đột ngột xuất hiện.

Katherine va mạnh vào tường, tay và vai đau buốt, nhưng cô vẫn cố đứng vững. Nhờ đụng phải góc vát của bức tường nên lực va chạm có giảm bớt, nhưng cũng không dễ chịu mấy. Tiếng động vang vọng khắp nơi. Hắn biết mình ở chỗ nào. Quên cả đau. Katherine ngoảnh đầu và nhìn xoáy vào khoảng tối và cảm nhận rõ gã kia đang trừng trừng nhìn lại.

Đổi vi trí ngay thôi! Vừa cố điều hoà hơi thở, Katherine vừa nhích xuôi theo bức tường, dùng tay trái lần từng cái núm thép trên đường di chuyển. Cứ theo sát bức tường. Luồn qua hắn trước khi hắn dồn được mình. Katherine vẫn nắm chặt chiếc điện thoại di động trong tay phải, sẵn sàng dùng nó để ném nếu cần thiết.

Đột ngột, có tiếng sột soạt rất rõ của quần áo cọ vào tường ngay phía trước, Katherine hoàn toàn bất ngờ, cô cứng người, và nín thở.

Làm sao mà hắn áp sát được tường thế? Một luồng không khí thoáng qua, mang theo mùi ethanol tanh tưởi. Hắn đang di chuyển dọc theo tường về phía mình!

Katherine lùi lại vài bước. Sau đó, lặng lẽ xoay 180 độ, cô bắt đầu di chuyển thật nhanh theo hướng ngược lại men theo tường. Cô di chuyển được khoảng sáu mét thì một điều bất ngờ lại xảy ra. Lại một lần nữa, ngay trước mặt cô, sát tường, có tiếng sột soạt của quần áo.

Tiếp đến là một luồng không khí quạt đến như lúc nãy, mang theo mùi ethanol. Katherine Solomon cứng đờ tại chỗ.

Chúa ơi, hắn khắp mọi nơi!

***

Cởi trần trùng trục, Mal’akh nhìn xoáy vào bóng tối.

Mùi ethanol trên tay áo dễ khiến gã bị phát hiện, gã bèn biến nó thành một thứ hữu dụng bằng cách cởi áo sơ mi và áo khoác rồi dùng chúng để dồn ép con mồi của mình. Ném chiếc áo khoác vào tường phía bên phải, gã nghe thấy tiếng Katherine dừng lại và đổi hướng.

Lúc này, vừa ném xong chiếc áo sơ mi sang phía trái, Mal’akh lại nghe thấy Katherine dừng lại. Gã đã dồn được cô vào sát tường bằng cách tạo ra những ranh giới mà cô không dám vượt qua.

Giờ thì gã chờ đợi, tai căng ra trong im lặng. Mụ chỉ còn một hướng để đi thôi - đó là tiến thẳng về phía ta. Thế nhưng, Mal’akh vẫn chẳng nghe thấy gì cả. Katherine đã sợ đến mức tê liệt chăng, hay cô đã quyết định đứng yên và đợi cứu viện vào Khoang 5. Dù thế nào thì mụ cũng thua cuộc thôi. Sẽ chẳng kẻ nào vào được Khoang 5 nhanh chóng cả, Mal’akh đã vô hiệu hoá ổ khoá ngoài bằng một kỹ thuật rất thô sơ nhưng lại hiệu quả. Dùng xong thẻ của Trish, gã nhét một đồng xu vào khe đút thẻ để ngăn không cho ai khác dùng được trừ phi phải dỡ bỏ toàn bộ hệ thống.

Chỉ có bà và tôi thôi. Katherine… bao lâu tuỳ thích.

Mal’akh im lặng nhích lên phía trước, lắng nghe từng cử động. Đêm nay, Katherine Solomon sẽ chết trong bóng tối tại cái bảo tàng của anh trai mụ. Một kết cục thật nên thơ. Mal’akh mong đợi giây phút được chia sẻ thông tin về cái chết của Katherine với anh trai mụ. Nỗi đau đớn của lão già chính là sự trả thù gã chờ đợi bao lâu nay.

Đột nhiên, trong bóng tối, Mal’akh vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một đốm sáng ở phía xa và nhận ra Katherine vừa phạm phải một sai lầm chết người. Mụ gọi điện cầu cứu ư? Màn hình điện tử vừa sáng lên ở độ cao ngang hông, cách đó khoảng 20 thước, như một ngọn đèn toả sáng trên đại dương tăm tối mịt mùng. Mal’akh đã sẵn sàng đợi Katherine tiến ra, nhưng giờ thì gã không phải đợi nữa.

Mal’akh hành động ngay, gã lao về phía có ánh sáng, biết rằng phải tới nơi trước khi con mồi kịp hoàn tất cuộc gọi kêu cứu. Chỉ mất vài giây là tới nơi, và gã nhảy xổ lại, hai cánh tay dang rộng bao lấy hai bên chiếc điện thoại đang bật sáng, sẵn sàng ôm chặt lấy con mồi.

Những ngón tay của Mal’akh va mạnh vào bức tường rắn chắc, dội ngược trở lại và gần như gãy lìa. Tiếp đến, đầu gã va mạnh vào một cái dầm thép. Gã rú lên đau đớn và đổ sụp xuống cạnh tường. Vừa chửi rủa, gã vừa lồm cồm bò dậy, bám vào thanh giằng nằm ngang tầm thắt lưng mà Katherine Solomon đã khôn ngoan đặt chiếc điện thoại mở sẵn lên đó.

Katherine lại chạy, lần này không còn phải lo sợ tiếng động phát ra khi tay chạm vào những núm thép bố trí đều đặn của Khoang 5. Chạy! Nếu cứ bám theo bức tường chạy vòng quanh khoang, cô biết rằng sớm muộn gì cũng sẽ tìm thấy cửa ra.

Bảo vệ đâu rồi nhỉ?

Khoảng cách đều đặn của những núm thép vẫn cứ xuất hiện trên đường chạy, Katherine dùng tay trái lần theo bức tường còn tay phải giơ ra trước mặt để đề phòng nguy hiểm. Khi nào thì mình mới tới góc phòng? Bức tường dường như cứ chạy mãi, nhưng đột nhiên các núm thép hẫng đi. Tay trái Katherine hụt vào khoảng trống trơn kéo dài vài bước liền, và sau đó lại thấy các núm thép. Katherine dừng phắt rồi quay trở lại, cảm thấy rõ mình đi qua một tấm thép nhẵn nhụi, trơn láng. Tại sao lại không có núm thép ở chỗ này?

Bấy giờ, cô nghe thấy tiếng kẻ tấn công đang lết tới, dò dẫm men theo tường tìm đường tiến về phía mình. Nhưng còn một thứ âm thanh khác khiến Katherine kinh hãi hơn, tiếng một nhân viên an ninh đang nện cây đèn pin vào cửa Khoảng 5 ở phía xa.

Bảo vệ không vào được đây.

Mặc dù ý nghĩ trên thật hãi hùng nhưng chính vị trí của tiếng đập - hơi chếch về bên phải - lập tức giúp Katherine xác định được phương hướng. Giờ đây cô có thể hình dung ra mình đang ở chỗ nào trong Khoang 5. Một tia sáng lóe lên kéo theo một nhận thức bất ngờ.

Giờ thì cô biết rõ tấm thép phẳng lỳ trên tường là gì rồi. Tất cả các khoang đều có một ô mẫu vật - một bức tường di động có thể kéo sang bên để chuyên chở những tiêu bản quá khổ vào và ra khỏi khoang. Cũng giống như trong các ga ra chứa máy bay, cánh cửa này rất lớn, và Katherine chưa bao giờ nghĩ đến việc cần phải mở nó ra cả. Nhưng lúc này, dường như đó lại là hy vọng duy nhất của cô.

Chẳng rõ có mở nổi không đây?

Katherine sờ soạng trong bóng tối, cố lần tìm cánh cửa cho tới khi sờ thấy tay nắm bằng thép rất lớn. Tóm lấy nó, cô dồn hết trọng lượng ra phía sau, cố đẩy cánh cửa trượt ra. Vô ích. Cô thử lại lần nữa. Nó không hề nhúc nhích.

Giờ thì cô nghe rõ kẻ tấn công mình đang tiến lại rất nhanh, nhắm thẳng về phía có tiếng động do cô tạo ra. Cửa bị khoá rồi! Hoảng loạn, cô đưa hai tay sờ khắp cánh cửa, cố tìm một cái chốt hoặc đòn bẩy. Đột nhiên tay cô vấp phải thứ gì đó giống như một cái cọc nằm dọc. Cô lần xuống tận nền nhà, luồn tay theo cọc và thấy nó gài vào một cái lỗ trên nền xi măng. Then an toàn! Cô đứng lên, nắm chặt cái cọc cố kéo mạnh để nâng cái chốt ra khỏi lỗ.

Hắn gần tới nơi rồi

Katherine dò dẫm tìm tay nắm cửa. Vừa thấy nó, cô cô gắng dồn hết sức kéo nó sang bên. Cả tấm thép đồ sộ dường như không nhúc nhích, nhưng một tia sáng bất ngờ lọt vào Khoang 5. Katherine lại kéo mạnh. Cột ánh trăng từ bên ngoài toà nhà chiếu vào rõ hơn.

Thêm chút nữa thôi!

Cô kéo lần cuối cùng, cảm thấy rõ kẻ tấn công mình chỉ còn cách đó vài bước chân.

Tung người về phía có ánh sáng. Katherine cố lách thân hình mảnh mai của mình qua khe hở. Một bàn tay hiện ra trong bóng tối, bấu chặt lấy cô, cố kéo cô trở lại. Katherine gồng người lách qua khe hở, một cánh tay trần phủ kín những hình xăm bám theo sát. Cánh tay khủng khiếp đó chờn vờn như một con rắn đang nổi điên cố gắng tóm lấy cô.

Katherine xoay người và chạy nhanh dọc theo bức tường dài dằng dặc bên ngoài Khoang 5. Nền đá dăm chạy quanh toàn bộ khuôn viên SMSC cứa vào gan bàn chân đi tất mỏng trong khi cô chạy, nhưng cô vẫn tiếp tục lao thẳng về phía lối ra vào chính. Đêm đen như mực, nhưng mắt cô đã quá quen với bóng tối mịt mùng trong Khoang 5 nên giờ cô có thể nhìn rất rõ - chẳng khác gì giữa ban ngày. Phía sau cô cánh cửa nặng nề mở ra, và tiếng bước chân thình thịch đang tăng tốc đuổi theo dọc toà nhà. Tiếng bước chân dường như rất nhanh.

Không tới kịp lối vào chính mất. Cô biết mình đang đến gần chiếc Volvo, nhưng cũng vẫn còn quá xa. Không kịp mất.

Sau đó Katherine nhận ra chỉ còn một con bài duy nhất.

Khi đến gần góc tường Khoang 5, cô nghe rõ tiếng bước chân kẻ tấn công đang bắt kịp mình rất nhanh trong bóng tối. Lúc này hoặc không bao giờ nữa. Thay vì vòng qua góc tường, Katherine đột ngột ngoặt ngang sang bên trái, rời khỏi toà nhà, chạy ra bãi cỏ. Cô nhắm chặt hai mắt, đặt cả hai bàn tay lên mặt và bắt đầu chạy băng qua bãi cỏ.

Hệ thống chiếu sáng cảm ứng quanh Khoang 5 lập tức bị kích hoạt, làm đêm đen sáng rực như ban ngày. Katherine nghe thấy tiếng thét đau đớn phía sau mình. Cả luồng sáng chói chang với cường độ tương đương 25 triệu cây nến rọi thẳng vào đôi mắt đang quen bóng tối của Katherine nghe rõ tiếng gã ngã vật ra trên đá dăm.

Cô vẫn nhắm nghiền hai mắt, lao mình qua bãi cỏ. Khi cảm thấy đã đủ xa toà nhà và những ngọn đèn, cô mới mở mắt, xác định lại phương hướng và chạy thục mạng qua bóng tối.

Chìa khoá chiếc Volvo vẫn ở nguyên chỗ cất bình thường, trong hộc giữa. Thở không ra hơi, cô vồ lấy chìa khoá mà tay vẫn còn run bắn và lần tìm ổ điện. Động cơ xe nổ giòn, ánh đèn pha xe bật sáng, soi rõ một cảnh tượng hãi hùng.

Một hình nhân gớm guốc đang lao bổ về phía cô.

Katherine chết sững trong giây lát.

Cái sinh vật xuất hiện trong ánh đèn pha của cô là một con thú trần trùng trục, đầu trọc lốc, da dẻ phủ kín những hình vẽ, biểu tượng và văn tự xăm trổ. Gã vừa gầm rống vừa chạy bổ vào quầng sáng đèn, hai tay giơ cao trước mắt như một con thú chuyên sống trong hang lần đầu tiên nhìn thấy ánh mặt trời. Katherine với tay cài số nhưng không kịp, gã kia đã tới tận nơi, xô mạnh vai qua cửa bên của chiếc xe, làm cả một trận mưa kính trút tới tấp xuống lòng cô.

Một cánh tay phủ kín hình xăm thò qua cửa sổ, quờ quạng điên loạn, cố tìm cách thít lấy cổ Katherine. Cô cho xe chạy lùi lại, nhưng kẻ tấn công đã bám được cổ họng cô và siết chặt với một sức mạnh ghê gớm. Cô cố xoay đầu nhằm thoát khỏi bàn tay gọng kìm của gã, nhờ đó trông thấy gương mặt gã trừng trừng nhìn mình. Ba vệt đen thẫm, như những vết cào do móng tay, rạch qua lớp hoá trang trên mặt gã, đe lộ ra những hình xăm bên dưới. Đôi mắt gã toát lên vẻ hoang dại và tàn độc.

- Lẽ ra ta đã phải giết chết ngươi từ mười năm về trước, - gã gào lên - Vào cái đêm ta giết mụ già mẹ ngươi ấy.

Khi những lời ấy vọt ra, một ký ức hãi hùng ập đến Katherine: chính ánh mắt hung dữ kia - cô đã từng nhìn thấy. Chính là hắn.

Có lẽ cô đã kêu thét lên nếu như không có bàn tay đang bấu chặt cổ họng.
Katherine dận mạnh bàn đạp ga, chiếc xe ngoằn ngoèo chạy lùi lại, gần như làm cổ cô tắc nghẹn vì kẻ tấn công vẫn bám chặt lấy sườn xe.

Chiếc Volvo đảo từ bên này sang bên kia, Katherine cảm thấy cổ họng mình sắp đứt lìa trước sức nặng của gã. Đột nhiên, có mấy cành cây tạt mạnh vào sườn xe, quất qua mấy ô cửa bên, và sức nặng kia biến mất.

Chiếc xe rồ qua mấy hàng cây và lao vào tầng trên bãi đậu xe.

Katherine đạp mạnh chân phanh. Dưới kia, gã đàn ông cởi trần gượng đứng lên, nhìn chòng chọc vào đèn pha của cô. Với vẻ bình thản đến lạnh người, gã giơ cánh tay xăm trổ đầy hăm doạ lên và trỏ thẳng vào cô.

Máu trong người Katherine sôi sục vì sợ hãi và căm hận. Cô xoay mạnh vô lăng rồi nhấn ga. Chỉ vài giây sau, cô đã ra tới đường Silver Hill.


--hết chương--