KHA
04-11-2006, 11:32 PM
Kenzaburo Oe
Nhật Bản, sự nhập nhằng, và bản thân tôi
Diễn từ Nobel năm 1994
Trần Tiễn Cao Đăng hiệu đính
Phùng Thanh Phương dịch
Trong thời gian diễn ra cuộc Thế chiến thứ nhất tàn khốc, tôi hãy còn là một cậu bé sống ở một thung lũng xa xôi vây quanh bởi những khu rừng trên hòn đảo Shikoku thuộc quần đảo Nhật Bản, cách nơi đây hàng ngàn dặm. Ngày đó có hai quyển sách mà tôi hết sức say mê: đó là Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn [1] và Những cuộc phiêu lưu kỳ thú của Nils [2] . Rồi sau đó thế giới bị vây bọc bởi những làn sóng hoảng sợ. Bằng việc đọc câu truyện về Huckleberry, tôi cảm thấy tôi có thể lý giải việc mình đi vào rừng vào ban đêm và ngủ giữa đám cây rừng với cảm giác an toàn không thể nào có nổi khi ở trong nhà. Nhân vật chính trong tác phẩm Những cuộc phiêu lưu kỳ thú của Nils biến hình thành một sinh vật nhỏ, hiểu được tiếng nói của loài chim và phiêu lưu mạo hiểm. Từ câu chuyện đó tôi đã tìm được rất nhiều niềm vui. Thứ nhất, là một cậu bé sống tại chốn rừng sâu xa xôi của đảo Shikoku như tổ tiên tôi vốn sống từ bao đời nay, tôi đã khám phá ra rằng thế giới này và lối sống này thật sự cho ta tự do. Thứ hai, tôi đồng cảm và tự coi mình cũng như cậu bé Nils kia, một cậu nhỏ hư nết, trong lúc rong ruổi khắp nơi trên đất nước Thụy Ðiển đã cùng chung sống và chiến đấu bảo vệ loài ngỗng trời, rồi trở thành một chàng trai, vẫn nguyên vẹn tính ngây thơ song đầy tự tin và cũng rất khiêm nhường. Cuối cùng khi trở về nhà, Nils chuyện trò với cha mẹ. Tôi cho rằng niềm vui sướng lớn lao nhất mà tôi có được từ câu chuyện xuất phát từ ngôn ngữ của nó, bởi tôi như được thanh lọc và nâng cao lên khi tôi cùng nói với Nils những lời sau:
"Cha ơi, Mẹ ơi! Con lớn rồi. Con lại được làm người rồi!"
Ðặc biệt, tôi vô cùng thích thú câu "Con lại được làm người rồi". Khi lớn lên, tôi liên tiếp phải đối mặt với những khó khăn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống - trong gia đình, trong mối quan hệ với xã hội Nhật Bản và trong lối sống tự do của tôi ở thời kỳ nửa sau thế kỷ 20 này. Tôi đã sống sót được nhờ tái hiện những đau khổ và khó khăn đó dưới hình thức tiểu thuyết. Trong quá trình đó, tôi tự thấy mình nhắc đi nhắc lại, gần như là với những tiếng thở dài câu "Con lại được làm người rồi". Tại đây, trong lúc này, có lẽ tự nói về mình như vậy thật không được phù hợp lắm. Tuy vậy, hãy cho phép tôi nói rằng về căn bản, phong cách viết của tôi khởi nguồn từ những vấn đề cá nhân, sau đó gắn kết chúng với xã hội, với cuộc đời và với thế giới này. Tôi hy vọng các bạn sẽ tha thứ cho tôi nếu tôi nói thêm chút nữa về những vấn đề của cá nhân mình.
Gần nửa thế kỷ trước đây, khi sống trong chốn rừng sâu đó, tôi đọc Những cuộc phiêu lưu kỳ thú của Nils và dự cảm được hai điều. Một là, có thể một ngày nào đó tôi sẽ hiểu được tiếng của loài chim. Hai là, một ngày nào đó tôi sẽ có thể bay cùng loài ngỗng trời yêu mến của mình, thích hơn cả là đến được xứ Scandinavia.
Sau khi lập gia đình, con trai đầu lòng của chúng tôi bị thiểu năng trí tuệ. Chúng tôi đặt tên cháu là Hiraki, tiếng Nhật có nghĩa là "ánh sáng". Hồi còn nhỏ cháu chỉ đáp lại những tiếng chiêm chiếp của loài chim và không có phản ứng gì với tiếng người. Mùa hè nọ, khi cháu lên sáu, cháu nghe thấy tiếng một cặp chim sẻ nước líu lo từ một khu hồ bên kia rừng, và cháu nói với giọng giống như một người đọc lời bình cho đoạn ghi tiếng chim: " Ðó là tiếng chim sẻ nước". Ðây là lần đầu tiên con trai tôi nói được. Và cũng kể từ đó tôi và vợ tôi bắt đầu có thể trò chuyện được với cháu.
Hikari hiện đang làm việc tại một trung tâm dạy nghề cho người khuyết tật, một cơ sở xây dựng dựa trên những ý tưởng chúng tôi học tập được từ Thụy Ðiển. Cháu cũng sáng tác nhạc. Chính loài chim đã khơi nguồn cho những sáng tác nhạc của cháu. Thay cho tôi, Hiraki đã biến thành sự thật điều dự cảm thứ nhất của tôi là một ngày nào đó tôi có thể hiểu được tiếng chim. Tôi cũng phải nói rằng tôi cũng sẽ không thể sống được nếu không có vợ tôi, với sức mạnh và sự khôn ngoan vốn có của người phụ nữ. Cô ấy chính là hiện thân của nhân vật Akka, con chim đầu đàn dẫn đường cho Nils. Cùng với vợ tôi, tôi đã bay tới Stockholm và điều dự cảm thứ hai của tôi, vui sướng làm sao, cũng đã trở thành hiện thực.
Kawabata Yasunari, nhà văn Nhật Bản đầu tiên đứng trên diễn đàn này với tư cách người đoạt giải Nobel văn học, đã đọc bài phát biểu có tiêu đề "Nhật Bản, cái Ðẹp và bản thân tôi". Tiêu đề đó thực đẹp và đồng thời rất mơ hồ. Tôi dùng từ "mơ hồ" ("vague" trong tiếng Anh) có nghĩa giống như từ "aimaina" trong tiếng Nhật. Tính từ này trong tiếng Nhật có vài cách dịch khác nhau sang tiếng Anh. Sự mơ hồ ấy được Kawabata chủ ý thể hiện trong chính tiêu đề bài phát biểu của mình. Nó có thể được hiểu là "Cái tôi của nước Nhật Bản xinh đẹp". Sự mơ hồ của toàn bộ tiêu đề xuất phát từ hư từ "no" trong tiếng Nhật, (nghĩa đen là "của") nối giữa hai chữ "cái tôi" và "nước Nhật Bản xinh đẹp".
Sự mơ hồ của tiêu đề khiến người ta có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể được hiểu là "Bản thân tôi với tư cách một phần của nước Nhật Bản xinh đẹp", trong đó hư từ "no" thể hiện quan hệ sở hữu cách giữa danh từ đứng trước và danh từ đứng sau. Tiêu đề đó cũng có thể được hiểu là "Nước Nhật xinh đẹp và bản thân tôi,", trong trường hợp này hư từ "no" liên kết hai danh từ đồng vị, và thực tế các danh từ này cũng được một trong những chuyên gia người Mỹ hàng đầu về văn hóa Nhật dịch sang tiếng Anh theo cách đồng vị như vậy. Ông dịch "Nhật Bản, cái Đẹp và bản thân tôi". Có thể thấy đây quả là một cách xử lý bậc thầy và không hề có chuyện "dịch là phản" (dịch làm sai lệch nghĩa) như người ta vẫn e sợ.
Dưới tiêu đề đó, Kawabata nói về một dạng thức đặc thù của huyền học không chỉ tồn tại trong tư tưởng Nhật Bản mà còn là một tư tưởng phương Ðông rất phổ biến. Dùng chữ "đặc thù", tôi muốn nói đến xu hướng Thiền tông trong Ðạo Phật. Là một nhà văn của thế kỷ XX, nhưng Kawabata mô tả trạng thái tinh thần của mình bằng những bài thơ viết theo lối của các thiền sư thời trung cổ. Phần nhiều các bài thơ này đều nói tới sự bất lực của ngôn từ trong việc mô tả chân lý. Theo những bài thơ đó, ngôn từ bị hạn chế bởi vỏ bọc khép kín của nó. Ðộc giả không thể trông đợi từ ngữ sẽ thoát ra khỏi những bài thơ này và đến được với mình. Ta sẽ không bao giờ hiểu nổi và đồng cảm được với những bài thơ Thiền này trừ khi ta từ bỏ những hạn định của bản thân và sẵn sàng thâm nhập vào thế giới khép kín của những ngôn từ đó.
Tại sao Kawabata lại dũng cảm quyết định đọc những bài thơ vô cùng bí ẩn đó bằng tiếng Nhật trước khán giả ở Stockholm? Tôi nhìn lại hầu như với một nỗi u hoài sự dũng cảm tuyệt vời đó, sự dũng cảm ông đã thụ đắc được vào cuối sự nghiệp xuất chúng của mình, và với sự dũng cảm đó ông đã khẳng nhận niềm xác tín của mình. Kawabata từng là tín đồ hành hương trên con đường sáng tạo nghệ thuật dài hàng thập kỷ, trên con đường đó ông đã sản sinh được vô vàn kiệt tác. Sau những tháng ngày hành hương đó, chỉ bằng cách thú nhận niềm say mê tột cùng của mình với những bài thơ Nhật Bản bí ẩn kia, từng làm đau đầu bất cứ ai cố gắng thấu hiểu chúng, ông mới diễn tả được về "Nhật Bản, cái Ðẹp và Bản thân tôi", nghĩa là, diễn tả về cái thế giới trong đó ông sống và về những văn chương ông sáng tạo.
Nhật Bản, sự nhập nhằng, và bản thân tôi
Diễn từ Nobel năm 1994
Trần Tiễn Cao Đăng hiệu đính
Phùng Thanh Phương dịch
Trong thời gian diễn ra cuộc Thế chiến thứ nhất tàn khốc, tôi hãy còn là một cậu bé sống ở một thung lũng xa xôi vây quanh bởi những khu rừng trên hòn đảo Shikoku thuộc quần đảo Nhật Bản, cách nơi đây hàng ngàn dặm. Ngày đó có hai quyển sách mà tôi hết sức say mê: đó là Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn [1] và Những cuộc phiêu lưu kỳ thú của Nils [2] . Rồi sau đó thế giới bị vây bọc bởi những làn sóng hoảng sợ. Bằng việc đọc câu truyện về Huckleberry, tôi cảm thấy tôi có thể lý giải việc mình đi vào rừng vào ban đêm và ngủ giữa đám cây rừng với cảm giác an toàn không thể nào có nổi khi ở trong nhà. Nhân vật chính trong tác phẩm Những cuộc phiêu lưu kỳ thú của Nils biến hình thành một sinh vật nhỏ, hiểu được tiếng nói của loài chim và phiêu lưu mạo hiểm. Từ câu chuyện đó tôi đã tìm được rất nhiều niềm vui. Thứ nhất, là một cậu bé sống tại chốn rừng sâu xa xôi của đảo Shikoku như tổ tiên tôi vốn sống từ bao đời nay, tôi đã khám phá ra rằng thế giới này và lối sống này thật sự cho ta tự do. Thứ hai, tôi đồng cảm và tự coi mình cũng như cậu bé Nils kia, một cậu nhỏ hư nết, trong lúc rong ruổi khắp nơi trên đất nước Thụy Ðiển đã cùng chung sống và chiến đấu bảo vệ loài ngỗng trời, rồi trở thành một chàng trai, vẫn nguyên vẹn tính ngây thơ song đầy tự tin và cũng rất khiêm nhường. Cuối cùng khi trở về nhà, Nils chuyện trò với cha mẹ. Tôi cho rằng niềm vui sướng lớn lao nhất mà tôi có được từ câu chuyện xuất phát từ ngôn ngữ của nó, bởi tôi như được thanh lọc và nâng cao lên khi tôi cùng nói với Nils những lời sau:
"Cha ơi, Mẹ ơi! Con lớn rồi. Con lại được làm người rồi!"
Ðặc biệt, tôi vô cùng thích thú câu "Con lại được làm người rồi". Khi lớn lên, tôi liên tiếp phải đối mặt với những khó khăn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống - trong gia đình, trong mối quan hệ với xã hội Nhật Bản và trong lối sống tự do của tôi ở thời kỳ nửa sau thế kỷ 20 này. Tôi đã sống sót được nhờ tái hiện những đau khổ và khó khăn đó dưới hình thức tiểu thuyết. Trong quá trình đó, tôi tự thấy mình nhắc đi nhắc lại, gần như là với những tiếng thở dài câu "Con lại được làm người rồi". Tại đây, trong lúc này, có lẽ tự nói về mình như vậy thật không được phù hợp lắm. Tuy vậy, hãy cho phép tôi nói rằng về căn bản, phong cách viết của tôi khởi nguồn từ những vấn đề cá nhân, sau đó gắn kết chúng với xã hội, với cuộc đời và với thế giới này. Tôi hy vọng các bạn sẽ tha thứ cho tôi nếu tôi nói thêm chút nữa về những vấn đề của cá nhân mình.
Gần nửa thế kỷ trước đây, khi sống trong chốn rừng sâu đó, tôi đọc Những cuộc phiêu lưu kỳ thú của Nils và dự cảm được hai điều. Một là, có thể một ngày nào đó tôi sẽ hiểu được tiếng của loài chim. Hai là, một ngày nào đó tôi sẽ có thể bay cùng loài ngỗng trời yêu mến của mình, thích hơn cả là đến được xứ Scandinavia.
Sau khi lập gia đình, con trai đầu lòng của chúng tôi bị thiểu năng trí tuệ. Chúng tôi đặt tên cháu là Hiraki, tiếng Nhật có nghĩa là "ánh sáng". Hồi còn nhỏ cháu chỉ đáp lại những tiếng chiêm chiếp của loài chim và không có phản ứng gì với tiếng người. Mùa hè nọ, khi cháu lên sáu, cháu nghe thấy tiếng một cặp chim sẻ nước líu lo từ một khu hồ bên kia rừng, và cháu nói với giọng giống như một người đọc lời bình cho đoạn ghi tiếng chim: " Ðó là tiếng chim sẻ nước". Ðây là lần đầu tiên con trai tôi nói được. Và cũng kể từ đó tôi và vợ tôi bắt đầu có thể trò chuyện được với cháu.
Hikari hiện đang làm việc tại một trung tâm dạy nghề cho người khuyết tật, một cơ sở xây dựng dựa trên những ý tưởng chúng tôi học tập được từ Thụy Ðiển. Cháu cũng sáng tác nhạc. Chính loài chim đã khơi nguồn cho những sáng tác nhạc của cháu. Thay cho tôi, Hiraki đã biến thành sự thật điều dự cảm thứ nhất của tôi là một ngày nào đó tôi có thể hiểu được tiếng chim. Tôi cũng phải nói rằng tôi cũng sẽ không thể sống được nếu không có vợ tôi, với sức mạnh và sự khôn ngoan vốn có của người phụ nữ. Cô ấy chính là hiện thân của nhân vật Akka, con chim đầu đàn dẫn đường cho Nils. Cùng với vợ tôi, tôi đã bay tới Stockholm và điều dự cảm thứ hai của tôi, vui sướng làm sao, cũng đã trở thành hiện thực.
Kawabata Yasunari, nhà văn Nhật Bản đầu tiên đứng trên diễn đàn này với tư cách người đoạt giải Nobel văn học, đã đọc bài phát biểu có tiêu đề "Nhật Bản, cái Ðẹp và bản thân tôi". Tiêu đề đó thực đẹp và đồng thời rất mơ hồ. Tôi dùng từ "mơ hồ" ("vague" trong tiếng Anh) có nghĩa giống như từ "aimaina" trong tiếng Nhật. Tính từ này trong tiếng Nhật có vài cách dịch khác nhau sang tiếng Anh. Sự mơ hồ ấy được Kawabata chủ ý thể hiện trong chính tiêu đề bài phát biểu của mình. Nó có thể được hiểu là "Cái tôi của nước Nhật Bản xinh đẹp". Sự mơ hồ của toàn bộ tiêu đề xuất phát từ hư từ "no" trong tiếng Nhật, (nghĩa đen là "của") nối giữa hai chữ "cái tôi" và "nước Nhật Bản xinh đẹp".
Sự mơ hồ của tiêu đề khiến người ta có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể được hiểu là "Bản thân tôi với tư cách một phần của nước Nhật Bản xinh đẹp", trong đó hư từ "no" thể hiện quan hệ sở hữu cách giữa danh từ đứng trước và danh từ đứng sau. Tiêu đề đó cũng có thể được hiểu là "Nước Nhật xinh đẹp và bản thân tôi,", trong trường hợp này hư từ "no" liên kết hai danh từ đồng vị, và thực tế các danh từ này cũng được một trong những chuyên gia người Mỹ hàng đầu về văn hóa Nhật dịch sang tiếng Anh theo cách đồng vị như vậy. Ông dịch "Nhật Bản, cái Đẹp và bản thân tôi". Có thể thấy đây quả là một cách xử lý bậc thầy và không hề có chuyện "dịch là phản" (dịch làm sai lệch nghĩa) như người ta vẫn e sợ.
Dưới tiêu đề đó, Kawabata nói về một dạng thức đặc thù của huyền học không chỉ tồn tại trong tư tưởng Nhật Bản mà còn là một tư tưởng phương Ðông rất phổ biến. Dùng chữ "đặc thù", tôi muốn nói đến xu hướng Thiền tông trong Ðạo Phật. Là một nhà văn của thế kỷ XX, nhưng Kawabata mô tả trạng thái tinh thần của mình bằng những bài thơ viết theo lối của các thiền sư thời trung cổ. Phần nhiều các bài thơ này đều nói tới sự bất lực của ngôn từ trong việc mô tả chân lý. Theo những bài thơ đó, ngôn từ bị hạn chế bởi vỏ bọc khép kín của nó. Ðộc giả không thể trông đợi từ ngữ sẽ thoát ra khỏi những bài thơ này và đến được với mình. Ta sẽ không bao giờ hiểu nổi và đồng cảm được với những bài thơ Thiền này trừ khi ta từ bỏ những hạn định của bản thân và sẵn sàng thâm nhập vào thế giới khép kín của những ngôn từ đó.
Tại sao Kawabata lại dũng cảm quyết định đọc những bài thơ vô cùng bí ẩn đó bằng tiếng Nhật trước khán giả ở Stockholm? Tôi nhìn lại hầu như với một nỗi u hoài sự dũng cảm tuyệt vời đó, sự dũng cảm ông đã thụ đắc được vào cuối sự nghiệp xuất chúng của mình, và với sự dũng cảm đó ông đã khẳng nhận niềm xác tín của mình. Kawabata từng là tín đồ hành hương trên con đường sáng tạo nghệ thuật dài hàng thập kỷ, trên con đường đó ông đã sản sinh được vô vàn kiệt tác. Sau những tháng ngày hành hương đó, chỉ bằng cách thú nhận niềm say mê tột cùng của mình với những bài thơ Nhật Bản bí ẩn kia, từng làm đau đầu bất cứ ai cố gắng thấu hiểu chúng, ông mới diễn tả được về "Nhật Bản, cái Ðẹp và Bản thân tôi", nghĩa là, diễn tả về cái thế giới trong đó ông sống và về những văn chương ông sáng tạo.