Kasumi
11-02-2007, 09:40 PM
Setsuwa (Thuyết thoại) là cách gọi chung cho thể loại thần thoại, truyền thuyết và truyện kể dân gian Nhật Bản. Trong kho tàng Thuyết thoại Nhật Bản, Nihonreiki (thế kỷ thứ 9) và Konjakumonogatarishu (thế kỷ thứ 12) được coi là hai tác phẩm tiêu biểu, ra đời vào thời kỳ Phật giáo và văn học Trung Quốc được du nhập và phát triển rực rỡ tại Nhật Bản. Sau khi chữ Kana ra đời, Thuyết thoại ngày càng phát triển và chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Nhật Bản. Tuy số lượng không nhiều song giá trị mà nó đem lại vô cùng to lớn, không chỉ cho việc nghiên cứu văn học Nhật Bản, mà cho cả việc nghiên cứu lịch sử văn học so sánh ở Đông Á.
I. Vài nét về Setsuwa của Nhật Bản
1. Về khái niệm Thuyết thoại 說 話(Setsuwa).
Setsuwa (từ đây chúng tôi gọi là Thuyết thoại) theo định nghĩa của Từ điển chuyện cổ tích Nhật Bản 日 本 昔 話 事 典 (Nihon muka shibana shi jiden)(1) là cách gọi chung cho các chuyện được kể theo một chủ đề nhất định. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong giới nghiên cứu. Trong văn học Nhật Bản, người ta phân loại văn học tự sự thời Thượng đại (khoảng trước sau thời đại Nara, 71- 784) thành thần thoại, truyền thuyết, thuyết thoại. Thuyết thoại, ngoài thần thoại và truyền thuyết còn được quan niệm là thể loại có dây mơ rễ má với văn xuôi tự sự. Hoặc, người ta coi thuyết thoại là các câu chuyện ngắn, không tuân theo những quy định nghiêm ngặt, khác xa với thể loại monogatari là dòng chủ lưu của tản văn thời kì Heian (khoảng 400 năm từ thời Thiên hoàng Kanmu 737 - 806 cho đến Kamakura Bakufu 1206). Sau thời kỳ Heian, các sưu tập về thuyết thoại chủ yếu là các truyền thuyết về kinh Phật ở các chùa chiền, tuy được kể thành từng chuyện, nhưng vẫn như trước, thuyết thoại chỉ được coi là một thể loại tản văn mang tính "đoản thiên" và "sắp xếp các tình tiết câu chuyện" mà thôi. Hơn thế nữa, trong văn học Nhật Bản, thuyết thoại được dùng để gọi chung không hạn định cho loại hình truyện kể dân gian, truyện truyền miệng đã được văn bản hóa. Cũng có nghĩa trong văn học Nhật bản, Thuyết thoại được sử dụng một cách khá linh hoạt. Trong lĩnh vực Dân tục học Nhật Bản, các nhà nghiên cứu ít dùng thuật ngữ thuyết thoại, nhưng đối với những truyện kể dân gian được định hình bằng chữ Hán, thì mọi người lại thường xuyên sử dụng thuật ngữ thuyết thoại. Với nghĩa rộng, nó bao gồm cả truyện kể Phật giáo, truyền thuyết dân gian, truyện cổ tích và truyện thế tục, trong đó có cả truyện cười, truyện châm biếm...
2. Các sưu tập thuyết thoại nổi tiếng Nhật Bản.
Theo nhà nghiên cứu Nhật Bản Kono Tatsu 今 野 達 (trong Từ điển truyện cổ tích Nhật Bản), sưu tập thuyết thoại cổ nhất trên thế giới có thể kể đến các tác phẩm như Truyện kể AEdop, thời cổ đại Bồ Đào Nha, ra đời vào khoảng thế kỷ 6 trước công nguyên; Nghìn lẻ một đêm, Truyện kể Jataka (Phạn ngữ), thời Ấn Độ cổ đại; hay các truyện chí quái thời Hán, Ngụy, Lục triều của Trung Quốc. Thuyết thoại cổ nhất của Nhật Bản hiện còn là Nihonreiiki (Nhật Bản linh dị ký) 日 本 靈 異 記 , ra đời vào năm Konin 14 (823), tác giả là nhà sư Kekai 景 戒 (sẽ được giới thiệu cụ thể dưới đây). Cùng hệ phả với Nhật Bản linh dị ký còn có Nihon kanrei roku (Nhật Bản cảm linh lục) 日 本 感 靈 錄, do nhà sư Gisho 僧 義 詔 soạn vào năm Kasho 嘉 祥 thứ 3 (850); Sanbo eji (Tam bảo hội từ) 三 寶 繪 詞 do Gentame Nori 源 為 憲 biên soạn vào năm Eikan 永 觀 thứ 2 (984); Nihon ojyo kyorakuki (Nhật Bản vãng sinh cực lạc ký 日 本 往 生 極 樂 記 do Yoshishige Yasutane 慶 滋 保 胤 soạn vào Kan wa 寬 和 thứ 2 (986) Các truyện vãng sinh, tín ngưỡng Pháp Hoa kinh như Nihon hotsuke genki (Nhật Bản pháp hoa nghiệm ký) 日 本 法 華 驗 記 (1044) hay Uchigikishu (Đả khai tập) 打 開 集 (1134) đều do nhà sư Chingen 僧 鎮 源 biên soạn. Tất cả các tác phẩm kể trên đều là truyện kể Phật Giáo. Cùng hệ phả này đến đầu thế kỷ 12 (1110) còn có tác phẩm Hotsuke shuho itsuhyaku kikigaki sho (Pháp Hoa tu pháp nhất bách tòa văn thư pháp) 法 華 修 法 一 百 座 聞 書 抄 , được coi là tư liệu quan trọng để tìm hiểu về tình hình thuyết kinh (giảng giải kinh Phật) thời bấy giờ. Sang đầu thế kỷ thứ 10, nở rộ phong trào sưu tầm, ghi chép truyện cổ tích, truyện lạ trong dân gian. Đi đầu là tác phẩm Zengehiki (Thiện gia bí kí) 善 家 秘 記 của Miyoshiki Kyotsura 三 善 清 行 ; thứ hai là Kike kaii jitsu roku (Kỉ gia quái dị thực lục) 紀 家 怪 異 寔 錄 . Cả hai tác phẩm đều là sưu tập truyện quái dị được viết bằng Hán văn và đều là tác phẩm chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái thời Lục triều, thời Đường. Có thể nói, sự ra đời của thuyết thoại Nhật Bản, bao gồm cả truyện kể Phật giáo đều xuất phát từ việc coi trọng các cuộc tiếp xúc với các sách vở đến từ Trung Quốc.
Sau khi chữ Kana ra đời, phong trào ghi chép truyện kể dân gian ngày một phát triển. Đầu thế kỷ thứ 12, Konjakumonogatarishu (Kim tích vật ngữ tập) 今 昔 物 語 集 - tác phẩm ghi chép truyện dân gian đồ sộ ra đời. Kim tích vật ngữ tập không chỉ là sưu tập truyện kể Phật giáo mà còn là tác phẩm mang tính thế giới, bao quát vào nó cả truyện thế tục không chỉ của Nhật Bản, mà còn có cả truyện kể dân gian Ấn Độ và Trung Quốc (xin giới thiệu dưới đây). Đến sau thời kì Kamakura 鐮 鎗 thuyết thoại tuy không ra khỏi khuôn khổ cơ bản đã được định hình từ thời Heian 平 安 đó là ghi chép truyện kể Phật giáo và thế tục, nhưng số lượng tác phẩm đã tăng một cách mạnh mẽ, nội dung cũng phong phú hơn rất nhiều. Có thể nói từ thời kì đầu Kamakura đến Trung kì là thời đại của thuyết thoại... trong đó nổi tiếng có Kojidan (Cổ sự đàm) 古 事 談 , Zoku kojidan (Tục cổ sự đàm) 續 古 事 談, Kokon cho mon jyu (Cổ kim trứ văn tập) 古 今 著 聞 集 là những sưu tập truyện kể Phật giáo và dân gian của tầng lớp quý tộc quan nhân có hứng thú với thuyết thoại và cổ thư. Một số tác phẩm thuyết thoại được viết theo lối Kana như Uji shu i monogatari (Vũ trị thập di vật ngữ) 宇 治 拾 遺 物 語 , Kohon setsuwa shu (Cổ bản thuyết thoại tập) 古 本 說 話 集 , Kon monogatari (Kim vật ngữ) 今 物 語 ; Một số tác phẩm như Hasshin shu (Phát tâm tập) 發 心 集 , Shen jyu sho (Soạn tập sao) 撰 集 抄... ra đời do nhu cầu học đạo, tìm đến cuộc sống tu thân thanh tịnh của những người muốn xuất gia lánh đời. Những thuyết thoại mang nội dung giáo huấn, dạy cách ứng xử, nổi tiếng có sưu tập thuyết thoại của ba nước Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản như Shi ju hyaku in nen shu (Tư tụ bách nhân duyên tập) 私 聚 百 因 緣 集 , Chu ko sen jyu (Chú hảo soạn tập) 注 好 撰 集 , và các tác phẩm khác như Ho butsu shu (Bảo vật tập) 寶 物 集 , Sha seki shu (Sa thạch tập) 沙 石 集 , So tan shu (Tạp đàm tập) 雜 談 集 . Trong đó đáng chú ý có Shin do shu (Thần đạo tập) 神 道 集 , được chùa Angu biên soạn vào thời Nam Bắc triều (1336-1392); Ngoài ra còn có San goku ten ki (Tam quốc truyện ký) 三 國 傳 記 được biên soạn vào đầu thời Muromachi (1392-1573) vừa là sưu tập thuyết thoại nối theo truyền thống của Kon jakumonogata ri shu (Kim tích vật ngữ tập) 今 昔 物 語 集 và Shi ju hyaku in nen shu (Tư tục bách nhân duyên tập) 私 聚 百 因 緣 集 , vừa là thuyết thoại của thời Tam quốc. Từ cuối thời Mu romachi đến sơ kì thời Cận thế đã xuất hiện các truyện quái dị và tiếu lâm như Ki i so tan shu (Kì dị tạp đàm) 奇 異 雜 談 và Sei sui sho (Tỉnh thụy tiếu) 醒 睡 笑 , tuy nhiên những sưu tập thuyết thoại truyền thống ngày càng thưa, và mai một dần trong phong trào văn học mới Genre (Janru) (thơ, tiểu thuyết, hí khúc). Người ta đã đưa một phần của thuyết thoại thời cận thế vào Kanajoshi (đoản biên tiểu thuyết thời kỳ Edo)và Hanashiban, một phần được đưa vào Tùy bút. Độ dày của các sưu tập thuyết thoại thời cận thế đã được tổng hòa một cách thực chất hơn ở các thuyết thoại được biên soạn tiếp sau này cho đến thời cận đại và chiếm một vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Nhật Bản. Số lượng các tác phẩm cũng nhiều hơn, trong đó đáng chú ký có Do dan sho (Giang đàm sao) 江 談 抄 , Fu ke go (Phú gia ngữ) 富 家 語 , Chu gai sho (Trung ngoại sao) 中 外 抄... là các thuyết thoại ghi chép truyện kể của các gia tộc lớn; Kyo gun sho (Giáo huấn sao) 教 訓 抄 , Zoku kyo gun sho (Tục giáo huấn sao) 續 教 訓 抄... là các thuyết thoại bằng tranh vẽ cuộn thu thập các truyện lợi sinh và duyên khởi của thần phật. Về thuyết thoại kỹ nghệ có các tác phẩm Kyogun sho (Giáo huấn sao) 教 訓 抄 , Zoku kyogun sho (Tục giáo huấn sao) 續 教 訓 抄 ; hay các tập xướng đạo có Gen sen shu (Ngôn tuyền tập) 言 泉 集 và Ten bo rin sho (Truyền pháp luận sao) 轉 法 論 抄 . Đây là những tác phẩm không thể thiếu khi nghiên cứu Setsuwashu của Nhật Bản. Quả thực số lượng các sưu tập thuyết thoại của Nhật Bản chỉ nói một lời là hết nhưng giá trị mà nó đem lại vô cùng lớn, đặc biệt cho việc nghiên cứu về truyện kể dân gian mà đầu tiên là truyện cổ tích Nhật Bản (Nihon muka shibana shi). Tuy nhiên các thuyết thoại cho đến nay vẫn chưa được chỉnh lý và sử dụng một cách có hiệu quả. Việc phân loại tuy dựa vào tính cách và nội dung của thuyết thoại nhưng vẫn chưa đi đến được cách phân loại có tính tổ chức, tính tổng hợp để có thể bao quát được toàn bộ những thủ pháp nghệ thuật, hình thức biên tập hay ý đồ biên tập với đối tượng là toàn bộ tác phẩm. Việc khảo sát các sưu tập thuyết thoại mới chỉ dừng ở việc khảo sát một bộ phận như cốt truyện, motip, và đó vẫn còn là vấn đề tồn tại của tương lai.
I. Vài nét về Setsuwa của Nhật Bản
1. Về khái niệm Thuyết thoại 說 話(Setsuwa).
Setsuwa (từ đây chúng tôi gọi là Thuyết thoại) theo định nghĩa của Từ điển chuyện cổ tích Nhật Bản 日 本 昔 話 事 典 (Nihon muka shibana shi jiden)(1) là cách gọi chung cho các chuyện được kể theo một chủ đề nhất định. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong giới nghiên cứu. Trong văn học Nhật Bản, người ta phân loại văn học tự sự thời Thượng đại (khoảng trước sau thời đại Nara, 71- 784) thành thần thoại, truyền thuyết, thuyết thoại. Thuyết thoại, ngoài thần thoại và truyền thuyết còn được quan niệm là thể loại có dây mơ rễ má với văn xuôi tự sự. Hoặc, người ta coi thuyết thoại là các câu chuyện ngắn, không tuân theo những quy định nghiêm ngặt, khác xa với thể loại monogatari là dòng chủ lưu của tản văn thời kì Heian (khoảng 400 năm từ thời Thiên hoàng Kanmu 737 - 806 cho đến Kamakura Bakufu 1206). Sau thời kỳ Heian, các sưu tập về thuyết thoại chủ yếu là các truyền thuyết về kinh Phật ở các chùa chiền, tuy được kể thành từng chuyện, nhưng vẫn như trước, thuyết thoại chỉ được coi là một thể loại tản văn mang tính "đoản thiên" và "sắp xếp các tình tiết câu chuyện" mà thôi. Hơn thế nữa, trong văn học Nhật Bản, thuyết thoại được dùng để gọi chung không hạn định cho loại hình truyện kể dân gian, truyện truyền miệng đã được văn bản hóa. Cũng có nghĩa trong văn học Nhật bản, Thuyết thoại được sử dụng một cách khá linh hoạt. Trong lĩnh vực Dân tục học Nhật Bản, các nhà nghiên cứu ít dùng thuật ngữ thuyết thoại, nhưng đối với những truyện kể dân gian được định hình bằng chữ Hán, thì mọi người lại thường xuyên sử dụng thuật ngữ thuyết thoại. Với nghĩa rộng, nó bao gồm cả truyện kể Phật giáo, truyền thuyết dân gian, truyện cổ tích và truyện thế tục, trong đó có cả truyện cười, truyện châm biếm...
2. Các sưu tập thuyết thoại nổi tiếng Nhật Bản.
Theo nhà nghiên cứu Nhật Bản Kono Tatsu 今 野 達 (trong Từ điển truyện cổ tích Nhật Bản), sưu tập thuyết thoại cổ nhất trên thế giới có thể kể đến các tác phẩm như Truyện kể AEdop, thời cổ đại Bồ Đào Nha, ra đời vào khoảng thế kỷ 6 trước công nguyên; Nghìn lẻ một đêm, Truyện kể Jataka (Phạn ngữ), thời Ấn Độ cổ đại; hay các truyện chí quái thời Hán, Ngụy, Lục triều của Trung Quốc. Thuyết thoại cổ nhất của Nhật Bản hiện còn là Nihonreiiki (Nhật Bản linh dị ký) 日 本 靈 異 記 , ra đời vào năm Konin 14 (823), tác giả là nhà sư Kekai 景 戒 (sẽ được giới thiệu cụ thể dưới đây). Cùng hệ phả với Nhật Bản linh dị ký còn có Nihon kanrei roku (Nhật Bản cảm linh lục) 日 本 感 靈 錄, do nhà sư Gisho 僧 義 詔 soạn vào năm Kasho 嘉 祥 thứ 3 (850); Sanbo eji (Tam bảo hội từ) 三 寶 繪 詞 do Gentame Nori 源 為 憲 biên soạn vào năm Eikan 永 觀 thứ 2 (984); Nihon ojyo kyorakuki (Nhật Bản vãng sinh cực lạc ký 日 本 往 生 極 樂 記 do Yoshishige Yasutane 慶 滋 保 胤 soạn vào Kan wa 寬 和 thứ 2 (986) Các truyện vãng sinh, tín ngưỡng Pháp Hoa kinh như Nihon hotsuke genki (Nhật Bản pháp hoa nghiệm ký) 日 本 法 華 驗 記 (1044) hay Uchigikishu (Đả khai tập) 打 開 集 (1134) đều do nhà sư Chingen 僧 鎮 源 biên soạn. Tất cả các tác phẩm kể trên đều là truyện kể Phật Giáo. Cùng hệ phả này đến đầu thế kỷ 12 (1110) còn có tác phẩm Hotsuke shuho itsuhyaku kikigaki sho (Pháp Hoa tu pháp nhất bách tòa văn thư pháp) 法 華 修 法 一 百 座 聞 書 抄 , được coi là tư liệu quan trọng để tìm hiểu về tình hình thuyết kinh (giảng giải kinh Phật) thời bấy giờ. Sang đầu thế kỷ thứ 10, nở rộ phong trào sưu tầm, ghi chép truyện cổ tích, truyện lạ trong dân gian. Đi đầu là tác phẩm Zengehiki (Thiện gia bí kí) 善 家 秘 記 của Miyoshiki Kyotsura 三 善 清 行 ; thứ hai là Kike kaii jitsu roku (Kỉ gia quái dị thực lục) 紀 家 怪 異 寔 錄 . Cả hai tác phẩm đều là sưu tập truyện quái dị được viết bằng Hán văn và đều là tác phẩm chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái thời Lục triều, thời Đường. Có thể nói, sự ra đời của thuyết thoại Nhật Bản, bao gồm cả truyện kể Phật giáo đều xuất phát từ việc coi trọng các cuộc tiếp xúc với các sách vở đến từ Trung Quốc.
Sau khi chữ Kana ra đời, phong trào ghi chép truyện kể dân gian ngày một phát triển. Đầu thế kỷ thứ 12, Konjakumonogatarishu (Kim tích vật ngữ tập) 今 昔 物 語 集 - tác phẩm ghi chép truyện dân gian đồ sộ ra đời. Kim tích vật ngữ tập không chỉ là sưu tập truyện kể Phật giáo mà còn là tác phẩm mang tính thế giới, bao quát vào nó cả truyện thế tục không chỉ của Nhật Bản, mà còn có cả truyện kể dân gian Ấn Độ và Trung Quốc (xin giới thiệu dưới đây). Đến sau thời kì Kamakura 鐮 鎗 thuyết thoại tuy không ra khỏi khuôn khổ cơ bản đã được định hình từ thời Heian 平 安 đó là ghi chép truyện kể Phật giáo và thế tục, nhưng số lượng tác phẩm đã tăng một cách mạnh mẽ, nội dung cũng phong phú hơn rất nhiều. Có thể nói từ thời kì đầu Kamakura đến Trung kì là thời đại của thuyết thoại... trong đó nổi tiếng có Kojidan (Cổ sự đàm) 古 事 談 , Zoku kojidan (Tục cổ sự đàm) 續 古 事 談, Kokon cho mon jyu (Cổ kim trứ văn tập) 古 今 著 聞 集 là những sưu tập truyện kể Phật giáo và dân gian của tầng lớp quý tộc quan nhân có hứng thú với thuyết thoại và cổ thư. Một số tác phẩm thuyết thoại được viết theo lối Kana như Uji shu i monogatari (Vũ trị thập di vật ngữ) 宇 治 拾 遺 物 語 , Kohon setsuwa shu (Cổ bản thuyết thoại tập) 古 本 說 話 集 , Kon monogatari (Kim vật ngữ) 今 物 語 ; Một số tác phẩm như Hasshin shu (Phát tâm tập) 發 心 集 , Shen jyu sho (Soạn tập sao) 撰 集 抄... ra đời do nhu cầu học đạo, tìm đến cuộc sống tu thân thanh tịnh của những người muốn xuất gia lánh đời. Những thuyết thoại mang nội dung giáo huấn, dạy cách ứng xử, nổi tiếng có sưu tập thuyết thoại của ba nước Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản như Shi ju hyaku in nen shu (Tư tụ bách nhân duyên tập) 私 聚 百 因 緣 集 , Chu ko sen jyu (Chú hảo soạn tập) 注 好 撰 集 , và các tác phẩm khác như Ho butsu shu (Bảo vật tập) 寶 物 集 , Sha seki shu (Sa thạch tập) 沙 石 集 , So tan shu (Tạp đàm tập) 雜 談 集 . Trong đó đáng chú ý có Shin do shu (Thần đạo tập) 神 道 集 , được chùa Angu biên soạn vào thời Nam Bắc triều (1336-1392); Ngoài ra còn có San goku ten ki (Tam quốc truyện ký) 三 國 傳 記 được biên soạn vào đầu thời Muromachi (1392-1573) vừa là sưu tập thuyết thoại nối theo truyền thống của Kon jakumonogata ri shu (Kim tích vật ngữ tập) 今 昔 物 語 集 và Shi ju hyaku in nen shu (Tư tục bách nhân duyên tập) 私 聚 百 因 緣 集 , vừa là thuyết thoại của thời Tam quốc. Từ cuối thời Mu romachi đến sơ kì thời Cận thế đã xuất hiện các truyện quái dị và tiếu lâm như Ki i so tan shu (Kì dị tạp đàm) 奇 異 雜 談 và Sei sui sho (Tỉnh thụy tiếu) 醒 睡 笑 , tuy nhiên những sưu tập thuyết thoại truyền thống ngày càng thưa, và mai một dần trong phong trào văn học mới Genre (Janru) (thơ, tiểu thuyết, hí khúc). Người ta đã đưa một phần của thuyết thoại thời cận thế vào Kanajoshi (đoản biên tiểu thuyết thời kỳ Edo)và Hanashiban, một phần được đưa vào Tùy bút. Độ dày của các sưu tập thuyết thoại thời cận thế đã được tổng hòa một cách thực chất hơn ở các thuyết thoại được biên soạn tiếp sau này cho đến thời cận đại và chiếm một vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Nhật Bản. Số lượng các tác phẩm cũng nhiều hơn, trong đó đáng chú ký có Do dan sho (Giang đàm sao) 江 談 抄 , Fu ke go (Phú gia ngữ) 富 家 語 , Chu gai sho (Trung ngoại sao) 中 外 抄... là các thuyết thoại ghi chép truyện kể của các gia tộc lớn; Kyo gun sho (Giáo huấn sao) 教 訓 抄 , Zoku kyo gun sho (Tục giáo huấn sao) 續 教 訓 抄... là các thuyết thoại bằng tranh vẽ cuộn thu thập các truyện lợi sinh và duyên khởi của thần phật. Về thuyết thoại kỹ nghệ có các tác phẩm Kyogun sho (Giáo huấn sao) 教 訓 抄 , Zoku kyogun sho (Tục giáo huấn sao) 續 教 訓 抄 ; hay các tập xướng đạo có Gen sen shu (Ngôn tuyền tập) 言 泉 集 và Ten bo rin sho (Truyền pháp luận sao) 轉 法 論 抄 . Đây là những tác phẩm không thể thiếu khi nghiên cứu Setsuwashu của Nhật Bản. Quả thực số lượng các sưu tập thuyết thoại của Nhật Bản chỉ nói một lời là hết nhưng giá trị mà nó đem lại vô cùng lớn, đặc biệt cho việc nghiên cứu về truyện kể dân gian mà đầu tiên là truyện cổ tích Nhật Bản (Nihon muka shibana shi). Tuy nhiên các thuyết thoại cho đến nay vẫn chưa được chỉnh lý và sử dụng một cách có hiệu quả. Việc phân loại tuy dựa vào tính cách và nội dung của thuyết thoại nhưng vẫn chưa đi đến được cách phân loại có tính tổ chức, tính tổng hợp để có thể bao quát được toàn bộ những thủ pháp nghệ thuật, hình thức biên tập hay ý đồ biên tập với đối tượng là toàn bộ tác phẩm. Việc khảo sát các sưu tập thuyết thoại mới chỉ dừng ở việc khảo sát một bộ phận như cốt truyện, motip, và đó vẫn còn là vấn đề tồn tại của tương lai.