ZenG
24-05-2007, 03:46 PM
Bashō là bút hiệu của Matsuo Munefusa (1644-1694), một nhà thơ Nhật bổn, được xem là người viết haiku Nhật bản thanh lịch nhất trong lúc khởi đầu loại thơ này. Sinh ra trong gia đình hiệp sĩ đạo nổi t
Sau năm 1600 không bao lâu, những hỗn loạn do nội chiến kéo dài qua hàng nhiều thế kỷ đã đi đến kết thúc; Tokugawa Ieyasu thiết lập Shogunate, một chính phủ quân phiệt không chấp nhận có đối thủ và, trước Hoàng Đế, chỉ là thuộc hạ trên danh nghĩa. Năm 1638, dưới nền shogun đệ tam, một nước Nhật hoàn toàn bình định đã chính thức tách rời khỏi thế giới, và năm 1644, Matsuo Bashō ra đời.
Có thể ở một tuổi đời nào đó, Bashō đã là thi sĩ; nhưng ông chỉ thực sự khám phá tự thân trong khả năng thuận lợi dị thường cho sức phát triển và nhãn thức thiên tài của ông. Với mọi người, cuộc sống một lần nữa trở nên an ổn hơn, tầng lớp bourgeoisie (tư sản) giàu có và nhàn rỗi đang sinh thành; và samurai - những người thuộc tầng lớp chiến binh - không thể hướng năng lực của mình vào thuật chiến tranh lâu hơn nữa, có khuyng hướng chuyển dịch chúng vào các nghệ thuật của hoà bình, trong đó thi ca trở thành phổ biến nhất.
http://vietsciences.free.fr/biographie/artists/writers/images/basho-statue.jpg
Có vẻ như Bashō đã khởi sự sáng tác vào năm lên chín. Nhưng bài thơ được ghi chép đầu tiên của ông - thật ra, cũng khó có thể xem đây là thơ cho dù theo bất kỳ tiêu chuẩn nào - lại chỉ có lúc ông ở vào khoảng ba mươi tuổi. Bài thơ viết cho năm Dậu, là một thứ jeu d'esprit (lời dí dỏm), mừng năm mới rơi vào giữa hai năm Tuất và Thân theo như cách sắp xếp địa chi của lịch Nhật Bản :
Bầy bạn
Của chó và khỉ
Năm Dậu
Nỗ lực này, trong thể thức của nó, hầu như là một biếm họa về thi ca đương thời, vì nó phụ thuộc lối nói bóng gió "văn chương" để gây hiệu quả. Duy trường hợp này ám chỉ một cổ tích mà trẻ em Nhật nào cũng biết : truyện kể về Momotaro, một cậu bé đã diệt trừ nhiều ma qủy nhờ sự hỗ trợ của đám tùy tùng gồm một con chó, một con gà lôi và một con khỉ.
Năm 1666, Lord Sengin đột ngột từ trần. Không đầy hai tháng sau; Bashō vào tu viện ở Koyasan, ông " xuất gia đi tu ". Nơi đây, không nghi ngờ gì ông đã suy sụp hoàn toàn vì cái chết của người chủ thân yêu, và ấn tượng do cái chết để lại sẽ ảnh hưởng lên toàn bột cuộc đời ông. Hơn hai mươi năm sau, ông trở lại Iga giữa mùa xuân, đứng dưới những cội anh đào, nơi Sengin và ông từng học hành và nô đùa suốt một thời gian dài đến thế, với trái tim ngập tràn cảm xúc để làm một bài thơ bình thường, tất cả những gì ông có thể nói là :
Hoa đào hoa đào
Trong tâm tưởng gieo rắc
Biết bao điều
Tuy nhiên, cho dù Bashō đã khước từ " thế sự " thì điều này cũng không có nghĩa ông tự hãm mình trong tu viện : sau đó người ta được biết ông đã có mặt ở Kyoto, đang nghiên cứu hài cú dưới sự hướng dẫn của Kigin và bắt đầu nổi tiếng. Khi Kigin đi Edo (Tokyo), Bashō đi theo. Và hai năm sau, vào cái tuổi tam thập, Bashō tách riêng một trường phái, nhận một người con trai của một thương gia giàu có làm môn đệ đầu tiên, một chàng trai về sau sẽ nổi tiếng với bút hiệu Kikaku.
Vào thời kỳ này, Bashō chưa đạt tới đỉnh điểm tài năng của ông, nhưng có một giai thoại đã minh họa quan điểm của ông về thi ca. Một hôm, lúc Kikaku và ông băng qua cánh đồng, trông thấy những con chuồn chuồn đang lao vụt, chàng trẻ tuổi đã làm một bài thơ mười-bảy-âm-tiết :
Hỡi chuồn chuồn đỏ
Đôi cánh rứt
Ồ những trái ớt
"Không !" Bashō nói. " Đó không phải là hài cú. Nếu muốn làm một bài hài cú về đề tài này, con phải nói :
Những trái ớt son
Đôi cánh chắp
Tung toé lũ chuồn chuồn
Dần dần, trường phái Bashō tăng trưởng về số lượng thơ và tiếng tăm, và ít năm sau, thêm vào hài cú, Bashō đã góp phần mình trong nhiều thiên sách về renga (thơ liên hoàn). Vào năm 1679, ông viết bài thơ đầu tiên theo phong cách mới vẫn làm liên tưởng đến tên tuổi ông và được nhiều nhà thơ hài cú đi sau xem là mẫu mực :
Trên tiều tụy cành
Bóng qụa
Rũ chiều thu
Có ít nhất hai trọng điểm kỹ thuật làm cho bài thơ trở thành mẫu mực. Một, cả tâm cảnh hay niềm cảm xúc được biểu hiện bởi miêu tả dung dị - một trình bày đơn sơ về sự vật đã hoàn thành bức tranh. Hai, hai phần đã cấu thành cái toàn thể được đối chiếu với nhau, không bằng các biện pháp tu từ so sánh hoặc ẩn dụ, mà như hai hiện tượng đơn lập. Có thể gọi đây là "nguyên lý đối chiếu nội tại" trong đó những biệt dị thì cũng hệ trọng như những tương đồng. Ở đây, không đơn thuần là "trên cái héo hắt tàn tạ của cảnh vật chiều thu, hoàng hôn rũ xuống tựa hồ ủ rũ một bóng quạ", đó là sự tương phản giữa hình hài đen đủi nhỏ nhoi của con quạ với cái âm u của mộ cảnh, và bất kỳ những gì người đọc có thể tìm thấy trong đó. Qủa là dễ hiểu được làm thế nào việc xử dụng kỹ thuật này đã khiến cho hài cú trở nên sâu thẳm, biến nó thành điểm khởi cho tư lự và tưởng tượng.
Bản thân Bashō cũng không luôn luôn đi theo mẫu mực này, nhưng trong hài cú về sau của ông - cả những bài không hoàn toàn khách quan đến thế - ít ra thì phép "đối chiếu nội tại" vẫn được nội hàm. Trừ phi ẩn ý này được nhận thấy, phần nhiều hiệu quả của thơ đều thất lạc. Một minh họa cho nhận định này là hài cú " Hoa Đào " đã dẫn ở trên, với hình tượng anh đào (biểu tượng của cái đẹp mong manh) được xử dụng vừa như một phông cảnh, vừa có mục đích đối chiếu với những gì mà ,"trong tâm tưởng", hoa đã "gieo rắc".
Vào thời kỳ viết bài thơ "Con Qụa, Bashō đang tìm kiếm một cách có ý thức cái đẹp thi ca phải được tìm thấy trong những gì tự nó không đặc biệt đẹp. Ông còn đang khai thác kỹ thuật viết đồng thời phát triển sức thấu thị của thơ. Hai năm sau, vào năm 1681, một biến cố nào đó đã đột ngột xảy đến với ông. Ông tuyên bố rằng cuộc đời ông, thuần phác là vậy, vẫn có tính chất "quá thời lưu", và ông khởi sự nghiên cứu nghiêm mật về Thiền - một tông phái Phật giáo chuyên chú vào sự chiêm nghiệm. Sau biến cố đó, trong mười năm cuối đời, chừng như tất cả thơ hay nhất của ông được viết ra.
Khoảng đầu năm 1686, Bashō viết một hài cú có lẽ được biết đến nhiều nhất trong Nhật văn và cũng được chính ông xem như đã đánh dấu bước ngoặt hệ trọng trong đời thơ của ông. Bài thơ tự nó có vẻ dễ gây ngộ nhận là mộc mạc :
Ao hoang
Ếch nhảy vào
Tiếng nước
Nhiều nhà phê bình có thẩm quyền đã khám phá trong hài cú này một ảo nghĩa bí truyền; những người khác lại xem nó như quá u huyền để có thể cảm thức được gì. Tuy nhiên, do sự kiện hai dòng cuối lại được sáng tác trước, một nguồn sáng nào đó đã soi vào tác phẩm. Trường hợp này chừng như đã được chứng thực. Bashō đang ngồi với bằng hữu và môn đệ trong khu vườn của ngôi nhà nhỏ của ông ở Edo thì, chắc hẳn sau một quãng trầm mặc dài, bất chợt nghe một tiếng động. Không nghĩ ngợi trước, Bashō ngước mặt nói : " Kawazu tobikomu mizu no oto ". ( ếch-nhảy-vào tiếng-nước). Ngay lập tức lời nói được nghe ra như là phần kết khả dung của một hài cú. Và sau nhiều gợi ý của bằng hữu và môn đệ, Bashō đã hoàn thành bài thơ với dòng đầu : " Ao hoang ".
hài cú này, về hình thức, có lẽ hoàn toàn giống bài thơ "Con Quạ", nhưng chắc chắn sự "đối chiếu nội tại" giữa ao hoang và tiếng động bất chợt thì ẩn áo vi diệu hơn nhiều so với giữa con qụa và chiều thu. Và tâm cảnh do bài thơ biểu hiệu chắc hẳn phản ảnh một nhân sinh quan đã sai biệt.
Sau năm 1600 không bao lâu, những hỗn loạn do nội chiến kéo dài qua hàng nhiều thế kỷ đã đi đến kết thúc; Tokugawa Ieyasu thiết lập Shogunate, một chính phủ quân phiệt không chấp nhận có đối thủ và, trước Hoàng Đế, chỉ là thuộc hạ trên danh nghĩa. Năm 1638, dưới nền shogun đệ tam, một nước Nhật hoàn toàn bình định đã chính thức tách rời khỏi thế giới, và năm 1644, Matsuo Bashō ra đời.
Có thể ở một tuổi đời nào đó, Bashō đã là thi sĩ; nhưng ông chỉ thực sự khám phá tự thân trong khả năng thuận lợi dị thường cho sức phát triển và nhãn thức thiên tài của ông. Với mọi người, cuộc sống một lần nữa trở nên an ổn hơn, tầng lớp bourgeoisie (tư sản) giàu có và nhàn rỗi đang sinh thành; và samurai - những người thuộc tầng lớp chiến binh - không thể hướng năng lực của mình vào thuật chiến tranh lâu hơn nữa, có khuyng hướng chuyển dịch chúng vào các nghệ thuật của hoà bình, trong đó thi ca trở thành phổ biến nhất.
http://vietsciences.free.fr/biographie/artists/writers/images/basho-statue.jpg
Có vẻ như Bashō đã khởi sự sáng tác vào năm lên chín. Nhưng bài thơ được ghi chép đầu tiên của ông - thật ra, cũng khó có thể xem đây là thơ cho dù theo bất kỳ tiêu chuẩn nào - lại chỉ có lúc ông ở vào khoảng ba mươi tuổi. Bài thơ viết cho năm Dậu, là một thứ jeu d'esprit (lời dí dỏm), mừng năm mới rơi vào giữa hai năm Tuất và Thân theo như cách sắp xếp địa chi của lịch Nhật Bản :
Bầy bạn
Của chó và khỉ
Năm Dậu
Nỗ lực này, trong thể thức của nó, hầu như là một biếm họa về thi ca đương thời, vì nó phụ thuộc lối nói bóng gió "văn chương" để gây hiệu quả. Duy trường hợp này ám chỉ một cổ tích mà trẻ em Nhật nào cũng biết : truyện kể về Momotaro, một cậu bé đã diệt trừ nhiều ma qủy nhờ sự hỗ trợ của đám tùy tùng gồm một con chó, một con gà lôi và một con khỉ.
Năm 1666, Lord Sengin đột ngột từ trần. Không đầy hai tháng sau; Bashō vào tu viện ở Koyasan, ông " xuất gia đi tu ". Nơi đây, không nghi ngờ gì ông đã suy sụp hoàn toàn vì cái chết của người chủ thân yêu, và ấn tượng do cái chết để lại sẽ ảnh hưởng lên toàn bột cuộc đời ông. Hơn hai mươi năm sau, ông trở lại Iga giữa mùa xuân, đứng dưới những cội anh đào, nơi Sengin và ông từng học hành và nô đùa suốt một thời gian dài đến thế, với trái tim ngập tràn cảm xúc để làm một bài thơ bình thường, tất cả những gì ông có thể nói là :
Hoa đào hoa đào
Trong tâm tưởng gieo rắc
Biết bao điều
Tuy nhiên, cho dù Bashō đã khước từ " thế sự " thì điều này cũng không có nghĩa ông tự hãm mình trong tu viện : sau đó người ta được biết ông đã có mặt ở Kyoto, đang nghiên cứu hài cú dưới sự hướng dẫn của Kigin và bắt đầu nổi tiếng. Khi Kigin đi Edo (Tokyo), Bashō đi theo. Và hai năm sau, vào cái tuổi tam thập, Bashō tách riêng một trường phái, nhận một người con trai của một thương gia giàu có làm môn đệ đầu tiên, một chàng trai về sau sẽ nổi tiếng với bút hiệu Kikaku.
Vào thời kỳ này, Bashō chưa đạt tới đỉnh điểm tài năng của ông, nhưng có một giai thoại đã minh họa quan điểm của ông về thi ca. Một hôm, lúc Kikaku và ông băng qua cánh đồng, trông thấy những con chuồn chuồn đang lao vụt, chàng trẻ tuổi đã làm một bài thơ mười-bảy-âm-tiết :
Hỡi chuồn chuồn đỏ
Đôi cánh rứt
Ồ những trái ớt
"Không !" Bashō nói. " Đó không phải là hài cú. Nếu muốn làm một bài hài cú về đề tài này, con phải nói :
Những trái ớt son
Đôi cánh chắp
Tung toé lũ chuồn chuồn
Dần dần, trường phái Bashō tăng trưởng về số lượng thơ và tiếng tăm, và ít năm sau, thêm vào hài cú, Bashō đã góp phần mình trong nhiều thiên sách về renga (thơ liên hoàn). Vào năm 1679, ông viết bài thơ đầu tiên theo phong cách mới vẫn làm liên tưởng đến tên tuổi ông và được nhiều nhà thơ hài cú đi sau xem là mẫu mực :
Trên tiều tụy cành
Bóng qụa
Rũ chiều thu
Có ít nhất hai trọng điểm kỹ thuật làm cho bài thơ trở thành mẫu mực. Một, cả tâm cảnh hay niềm cảm xúc được biểu hiện bởi miêu tả dung dị - một trình bày đơn sơ về sự vật đã hoàn thành bức tranh. Hai, hai phần đã cấu thành cái toàn thể được đối chiếu với nhau, không bằng các biện pháp tu từ so sánh hoặc ẩn dụ, mà như hai hiện tượng đơn lập. Có thể gọi đây là "nguyên lý đối chiếu nội tại" trong đó những biệt dị thì cũng hệ trọng như những tương đồng. Ở đây, không đơn thuần là "trên cái héo hắt tàn tạ của cảnh vật chiều thu, hoàng hôn rũ xuống tựa hồ ủ rũ một bóng quạ", đó là sự tương phản giữa hình hài đen đủi nhỏ nhoi của con quạ với cái âm u của mộ cảnh, và bất kỳ những gì người đọc có thể tìm thấy trong đó. Qủa là dễ hiểu được làm thế nào việc xử dụng kỹ thuật này đã khiến cho hài cú trở nên sâu thẳm, biến nó thành điểm khởi cho tư lự và tưởng tượng.
Bản thân Bashō cũng không luôn luôn đi theo mẫu mực này, nhưng trong hài cú về sau của ông - cả những bài không hoàn toàn khách quan đến thế - ít ra thì phép "đối chiếu nội tại" vẫn được nội hàm. Trừ phi ẩn ý này được nhận thấy, phần nhiều hiệu quả của thơ đều thất lạc. Một minh họa cho nhận định này là hài cú " Hoa Đào " đã dẫn ở trên, với hình tượng anh đào (biểu tượng của cái đẹp mong manh) được xử dụng vừa như một phông cảnh, vừa có mục đích đối chiếu với những gì mà ,"trong tâm tưởng", hoa đã "gieo rắc".
Vào thời kỳ viết bài thơ "Con Qụa, Bashō đang tìm kiếm một cách có ý thức cái đẹp thi ca phải được tìm thấy trong những gì tự nó không đặc biệt đẹp. Ông còn đang khai thác kỹ thuật viết đồng thời phát triển sức thấu thị của thơ. Hai năm sau, vào năm 1681, một biến cố nào đó đã đột ngột xảy đến với ông. Ông tuyên bố rằng cuộc đời ông, thuần phác là vậy, vẫn có tính chất "quá thời lưu", và ông khởi sự nghiên cứu nghiêm mật về Thiền - một tông phái Phật giáo chuyên chú vào sự chiêm nghiệm. Sau biến cố đó, trong mười năm cuối đời, chừng như tất cả thơ hay nhất của ông được viết ra.
Khoảng đầu năm 1686, Bashō viết một hài cú có lẽ được biết đến nhiều nhất trong Nhật văn và cũng được chính ông xem như đã đánh dấu bước ngoặt hệ trọng trong đời thơ của ông. Bài thơ tự nó có vẻ dễ gây ngộ nhận là mộc mạc :
Ao hoang
Ếch nhảy vào
Tiếng nước
Nhiều nhà phê bình có thẩm quyền đã khám phá trong hài cú này một ảo nghĩa bí truyền; những người khác lại xem nó như quá u huyền để có thể cảm thức được gì. Tuy nhiên, do sự kiện hai dòng cuối lại được sáng tác trước, một nguồn sáng nào đó đã soi vào tác phẩm. Trường hợp này chừng như đã được chứng thực. Bashō đang ngồi với bằng hữu và môn đệ trong khu vườn của ngôi nhà nhỏ của ông ở Edo thì, chắc hẳn sau một quãng trầm mặc dài, bất chợt nghe một tiếng động. Không nghĩ ngợi trước, Bashō ngước mặt nói : " Kawazu tobikomu mizu no oto ". ( ếch-nhảy-vào tiếng-nước). Ngay lập tức lời nói được nghe ra như là phần kết khả dung của một hài cú. Và sau nhiều gợi ý của bằng hữu và môn đệ, Bashō đã hoàn thành bài thơ với dòng đầu : " Ao hoang ".
hài cú này, về hình thức, có lẽ hoàn toàn giống bài thơ "Con Quạ", nhưng chắc chắn sự "đối chiếu nội tại" giữa ao hoang và tiếng động bất chợt thì ẩn áo vi diệu hơn nhiều so với giữa con qụa và chiều thu. Và tâm cảnh do bài thơ biểu hiệu chắc hẳn phản ảnh một nhân sinh quan đã sai biệt.