Kasumi
04-06-2007, 06:31 PM
KỸ THUẬT VIẾT HAIKU CỔ ĐIỂN
Làm thơ haiku lối cổ điển, cần dựa trên một số kỹ thuật cơ bản:
- Khôi hài và chơi chữ :
Yếu tố “ hài ” là cơ sở của haiku cho nên ngay người nghiêm trang như Basho tuy không đùa cợt nhưng không vì thế mà thiếu vẻ hóm hỉnh. Ông cũng không quá nặng nề trong lối diễn tả hay thiên về lý luận, giáo huấn mà thường dùng các lối chơi chữ như đa số người viết haiku:
Thu, Futami, chia tay,
Vỏ sò cũng chẻ hai.
(Bài Hamaguri no, thơ Basho trong Oku no michi)
Ý nói ông từ giã bạn ở Futami để lên đường thăm đền Ise gặp lúc mùa thu hầu tàn, cả sò trên bãi biển đã mất xác, chỉ còn trơ vỏ.
Nguyên văn bài nầy như sau:
Hamaguri no
Futami ni wakare
Yuku aki zo
Futami ni wakare có hai nghĩa :
- Chia tay ở vùng Futami (futami còn có nghĩa là “gặp hai lần”)
- Chia ra làm hai mảnh (vỏ sò)
Yuki aki cũng có hai nghĩa:
- Mùa thu lúc ta lên đường
- Mùa thu cùng ta lên đường
Tuy trò chơi chữ không còn ý nghĩa gì trong thời đại mới nhất là đối với một độc giả ngoại quốc nhưng chủ tâm của Basho đáng được đánh giá.
- Ngắn gọn:
Sự ngắn gọn là linh hồn của haiku tuy phải chú ý đến ý nghĩa và âm điệu để bài thơ khỏi trở thành một tờ điện tín. Ngắn gọn cũng là tinh thần của Thiền tông và sự xóa bỏ các đại danh từ làm cho biên giới giữa chủ thể và khách thể xóa nhòa.
- Nghĩ âm:
Tiếng Nhật rất giàu yếu tố nghĩ âm nghĩa là sự biểu hiện trực tiếp của vật thể. Khi Buson lập lại chữ “notari notari” để nói về tiếng sóng biển tràn vào bờ hay “ochikochi ochikochi” với ý nghĩa “chỗ nầy chỗ nọ” hay khi Issa viết “yurari yurari” diễn tả đàn đom đóm lay động” đều có hiệu quả âm thanh khi đọc lên.
- Khổ 5/7:
Bài waka hay tanka với hai câu : kami no ku “ câu trên” (5/7/5) và shimo no ku “câu dưới” (7/7) thường do hai người viết để trao đổi (giữa hai người yêu hoặc trong khi tặng đáp) đã bị cắt đi còn có “câu trên” nhưng dù sao nhịp điệu 5/7 vẫn còn giữ. Có một số biến thể như 8/8/5 (trong thơ của Kikaku), 8/7/5 hay 10/7/5 hay 5/10/5 hay 6/8/5 như một số bài của Bashô. Còn có cả những bài viết theo nhịp 3/5/3/5 hay 4/4/3/3/2 vv...
- Biết ngắt câu :
Những cách ngắt câu với chữ ngắt câu (kireji) ya, kana, keri, mogana, zo, ka, na, yo… đều có ý nghĩa riêng và đặt ở một chỗ được chỉ định trong bài thơ. Ya để diễn tả sự ngạc nhiên, nghi ngờ hay nghi vấn. Keri chỉ một chuyện gì đã qua rồi còn để lại sự cảm động hay luyến tiếc. Kana là một từ thường không mang ý nghĩa gì đặc biệt nhưng cũng như từ kana hay kamo trong waka, nó có nhiệm vụ báo cho người đọc biết chữ đặt trước nó là trọng tâm của bài thơ. Các tiếp vĩ ngữ -ke, -se, -e, -re là động từ dùng ở mệnh lệnh cách (hãy, nên, đi nào).
- Mùa:
Trong haiku, yếu tố mùa rất quan trọng tuy với thời gian nó bớt đi sự quan trọng quyết định của buổi đầu.Bài haiku thường có một chữ liên quan đến mùa (kigo = quý ngữ) ngay trong câu đầu tiên (hokku = phát cú) . Nó có thể suy diễn từ khí hậu nóng lạnh, ngày dài hay ngắn, thời tiết, địa lý, tên chùa chiền, quần áo, hội hè, lễ lạc, chim chóc, hoa cỏ, cây cối.
Khi chỉ nói “trăng” (tsuki) không thôi thì phải hiểu là trăng tròn mùa thu, bằng không phải chính xác hơn như oborozuki “trăng mờ mùa xuân”, kangetsu “trăng lạnh mùa đông”. Nói “hoa” (hana) tức là hoa anh đào, “ ngủ ngày” để chỉ mùa hè, “gieo lúa mạch” để chỉ mùa đông. Những qui ước nầy giúp tiết kiệm được chữ dùng trong việc thông tin trong thơ.
Tuy vậy, trong haiku hiện đại, sự bó buộc nầy đã bớt cứng nhắc vì có những chủ trương từ bỏ nó.
Sau đây là một ví dụ đơn giản.
Bài thơ :
Mưa tháng năm, sông rộng,
Bên bờ, hai túp nhà.
nói lên cái mát mẻ của những trận mưa mùa hạ làm cho mặt nước sông đầy và cái thanh thản của cuộc sống đồng quê. Tác giả cũng chơi chữ khi đặt chữ“năm” trong “mưa tháng năm” với “hai” trong “hai túp nhà” .
Samidare ya (Mưa tháng năm)
Trong câu đầu gọi là sơ cú, sơ ngũ hay thượng ngũ này đã có một kigo (chữ về mùa) “samidare” hay “mưa tháng năm” để chỉ mùa hè. Chữ “ya” không có nghĩa, đóng vai trò ngắt câu.
Taiga wo mae ni (Trước mặt dòng sông lớn)
Câu thứ hai gọi là nhị cú, trung thất
Ie niken (Hai mái nhà)
Câu thứ ba gọi là kết cú, tọa ngũ hay hạ ngũ.
theo erct
Làm thơ haiku lối cổ điển, cần dựa trên một số kỹ thuật cơ bản:
- Khôi hài và chơi chữ :
Yếu tố “ hài ” là cơ sở của haiku cho nên ngay người nghiêm trang như Basho tuy không đùa cợt nhưng không vì thế mà thiếu vẻ hóm hỉnh. Ông cũng không quá nặng nề trong lối diễn tả hay thiên về lý luận, giáo huấn mà thường dùng các lối chơi chữ như đa số người viết haiku:
Thu, Futami, chia tay,
Vỏ sò cũng chẻ hai.
(Bài Hamaguri no, thơ Basho trong Oku no michi)
Ý nói ông từ giã bạn ở Futami để lên đường thăm đền Ise gặp lúc mùa thu hầu tàn, cả sò trên bãi biển đã mất xác, chỉ còn trơ vỏ.
Nguyên văn bài nầy như sau:
Hamaguri no
Futami ni wakare
Yuku aki zo
Futami ni wakare có hai nghĩa :
- Chia tay ở vùng Futami (futami còn có nghĩa là “gặp hai lần”)
- Chia ra làm hai mảnh (vỏ sò)
Yuki aki cũng có hai nghĩa:
- Mùa thu lúc ta lên đường
- Mùa thu cùng ta lên đường
Tuy trò chơi chữ không còn ý nghĩa gì trong thời đại mới nhất là đối với một độc giả ngoại quốc nhưng chủ tâm của Basho đáng được đánh giá.
- Ngắn gọn:
Sự ngắn gọn là linh hồn của haiku tuy phải chú ý đến ý nghĩa và âm điệu để bài thơ khỏi trở thành một tờ điện tín. Ngắn gọn cũng là tinh thần của Thiền tông và sự xóa bỏ các đại danh từ làm cho biên giới giữa chủ thể và khách thể xóa nhòa.
- Nghĩ âm:
Tiếng Nhật rất giàu yếu tố nghĩ âm nghĩa là sự biểu hiện trực tiếp của vật thể. Khi Buson lập lại chữ “notari notari” để nói về tiếng sóng biển tràn vào bờ hay “ochikochi ochikochi” với ý nghĩa “chỗ nầy chỗ nọ” hay khi Issa viết “yurari yurari” diễn tả đàn đom đóm lay động” đều có hiệu quả âm thanh khi đọc lên.
- Khổ 5/7:
Bài waka hay tanka với hai câu : kami no ku “ câu trên” (5/7/5) và shimo no ku “câu dưới” (7/7) thường do hai người viết để trao đổi (giữa hai người yêu hoặc trong khi tặng đáp) đã bị cắt đi còn có “câu trên” nhưng dù sao nhịp điệu 5/7 vẫn còn giữ. Có một số biến thể như 8/8/5 (trong thơ của Kikaku), 8/7/5 hay 10/7/5 hay 5/10/5 hay 6/8/5 như một số bài của Bashô. Còn có cả những bài viết theo nhịp 3/5/3/5 hay 4/4/3/3/2 vv...
- Biết ngắt câu :
Những cách ngắt câu với chữ ngắt câu (kireji) ya, kana, keri, mogana, zo, ka, na, yo… đều có ý nghĩa riêng và đặt ở một chỗ được chỉ định trong bài thơ. Ya để diễn tả sự ngạc nhiên, nghi ngờ hay nghi vấn. Keri chỉ một chuyện gì đã qua rồi còn để lại sự cảm động hay luyến tiếc. Kana là một từ thường không mang ý nghĩa gì đặc biệt nhưng cũng như từ kana hay kamo trong waka, nó có nhiệm vụ báo cho người đọc biết chữ đặt trước nó là trọng tâm của bài thơ. Các tiếp vĩ ngữ -ke, -se, -e, -re là động từ dùng ở mệnh lệnh cách (hãy, nên, đi nào).
- Mùa:
Trong haiku, yếu tố mùa rất quan trọng tuy với thời gian nó bớt đi sự quan trọng quyết định của buổi đầu.Bài haiku thường có một chữ liên quan đến mùa (kigo = quý ngữ) ngay trong câu đầu tiên (hokku = phát cú) . Nó có thể suy diễn từ khí hậu nóng lạnh, ngày dài hay ngắn, thời tiết, địa lý, tên chùa chiền, quần áo, hội hè, lễ lạc, chim chóc, hoa cỏ, cây cối.
Khi chỉ nói “trăng” (tsuki) không thôi thì phải hiểu là trăng tròn mùa thu, bằng không phải chính xác hơn như oborozuki “trăng mờ mùa xuân”, kangetsu “trăng lạnh mùa đông”. Nói “hoa” (hana) tức là hoa anh đào, “ ngủ ngày” để chỉ mùa hè, “gieo lúa mạch” để chỉ mùa đông. Những qui ước nầy giúp tiết kiệm được chữ dùng trong việc thông tin trong thơ.
Tuy vậy, trong haiku hiện đại, sự bó buộc nầy đã bớt cứng nhắc vì có những chủ trương từ bỏ nó.
Sau đây là một ví dụ đơn giản.
Bài thơ :
Mưa tháng năm, sông rộng,
Bên bờ, hai túp nhà.
nói lên cái mát mẻ của những trận mưa mùa hạ làm cho mặt nước sông đầy và cái thanh thản của cuộc sống đồng quê. Tác giả cũng chơi chữ khi đặt chữ“năm” trong “mưa tháng năm” với “hai” trong “hai túp nhà” .
Samidare ya (Mưa tháng năm)
Trong câu đầu gọi là sơ cú, sơ ngũ hay thượng ngũ này đã có một kigo (chữ về mùa) “samidare” hay “mưa tháng năm” để chỉ mùa hè. Chữ “ya” không có nghĩa, đóng vai trò ngắt câu.
Taiga wo mae ni (Trước mặt dòng sông lớn)
Câu thứ hai gọi là nhị cú, trung thất
Ie niken (Hai mái nhà)
Câu thứ ba gọi là kết cú, tọa ngũ hay hạ ngũ.
theo erct