PDA

View Full Version : Lịch sử Nhật Bản



pisco
21-08-2007, 03:40 PM
Sơ sử
Thời kỳ Jōmon (縄文時代 Jōmon-jidai) là thời tiền sử ở Nhật Bản, từ khoảng năm 10.000 TCN đến năm 300 sau công nguyên.

Hầu hết các học giả đều nhất trí rằng vào khoảng 40.000 năm TCN, băng hà đã nối các hòn đảo của Nhật Bản với lục địa châu Á. Dựa trên các bằng chứng khảo cổ, từ khoảng 35.000 đến 30.000 năm TCN loài người đã di cư đến các hòn đảo Nhật Bản từ phía đông và phía đông nam châu Á và đã có những cộng đồng dân cư ổn định trên đảo với các hoạt động săn bắn và chế tác đồ đá. Các dụng cụ bằng đá, những khu dân cư và hóa thạch người trong giai đoạn này đã được tìm thấy ở nhiều nơi trên các đảo Nhật Bản. Ngoài ra, một nghiên cứu di truyền học vào năm 1988 đã chỉ ra mối liên hệ về nguồn gốc giữa ngườI Nhật Bản và các cư dân Đông Á.

Từ “Jomon” trong tiếng Nhật có nghĩa là “đánh dấu bằng dây thừng” chỉ những họa tiết trên các bình bằng đất sét và những hình ảnh sử dụng các que gỗ được cột dây thừng xung quanh.


Sơ kỳ Jomon (10000 – 4000 TCN)

Những khu định cư ổn định xuất hiện vào khoảng năm 10.000 TCN tương ứng với nền văn hóa Mesolithic hoặc, theo một số tranh cãi, văn hóa Neolithic, nhưng mang những đặc điểm của cả hai nền văn hóa đó. Những tổ tiên xa của tộc người Ainu của Nhật Bản hiện đại, những thành viên đa dạng của nền văn hóa Jomon (10.000 – 300 TCN) để lại những di chỉ khảo cổ rõ ràng nhất. Nền văn hóa này cùng thời với các nền văn minh Mesopotamia, văn minh sông Nil, và văn minh thung lũng Indus.

Sơ kỳ đồ gốm

Theo các bằng chứng khảo cổ học, người Jomon có thể là người đã tạo ra những chiếc bình gốm đầu tiên trên thế giới, vào khoảng thiên niên kỷ 11 TCN, cũng như những dụng cụ bằng đá sớm nhất. Những di tích cổ này được phát hiện lần đầu tiên sau Thế chiến thứ hai bằng phương pháp phóng xạ carbon. Tuy nhiên, một số học giả Nhật Bản cũng tin rằng kỹ thuật sản xuất đồ gốm được phát minh đầu tiên ở lục địa châu Á vì ở những khu vực nay là Trung Quốc và Nga đã sản xuất ra đồ gốm lâu đời ngang với, nếu không là lâu đời hơn đồ gốm ở hang Fukui. Người thời Jomon đã chế tác ra những vật dụng và các bình gốm được trang trí bởi những họa tiết tinh vi làm bằng cách ép đất sét ướt với các sợi dây hoặc các que gỗ được tết lại hoặc không được tết lại.

Những đặc điểm của văn hóa đồ đá mới

Việc chế tác đồ gốm cho thấy một đời sống ổn định hơn bởi lẽ đồ gốm rất dễ vỡ và do đó nói chung là vô ích với các hoạt động săn bắt hái lượm vốn phải di chuyển liên tục. Do đó, người Jomon có thể là những người đầu tiên sống định cư, hoặc ít ra là bán định cư, trên thế giới. Họ dùng các công cụ bằng đá mài, bẫy và cung tên, và có lẽ là những người sống nửa theo kiểu săn bắt hái lượm, nửa theo kiểu định cư, đồng thời là những tay đánh bắt cá ở bờ biển và lặn sâu khéo léo. Người Jomon có tiến hành một số hoạt động nông nghiệp sơ khai và sống trong những hố đất nhỏ hoặc những ngôi nhà dựng trên mặt đất, để lại nhiều bằng chứng quan trọng cho nghiên cứu khảo cổ học. Vì vậy, những hình thức canh tác đầu tiên của loài người có thể đã xuất hiện ở Nhật Bản vào năm 10.000 TCN, hai nghìn năm trước khi nó lan rộng và trở nên phổ biến ở Trung Cận Đông. Tuy nhiên, một số bằng chứng khảo cổ học khác cũng cho thấy đã có hoạt động nông nghiệp diễn ra trên những ngọn đối và thung lũng ở vùng Fertile Crescent ở vùng nay là Syria, Jordan, Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq vào khoảng 11.000 năm TCN.

[sửa] Dân số gia tăng


Nền văn hóa bán định cư đã dẫn đến việc gia tăng dân số nhanh chóng khiến Jomon trở thành một trong những khu vực có mật độ dân số cao nhất thế giới vào thời bấy giờ. Một nghiên cứu di truyền học của Cavalli – Sforza đã cho thấy sự mở rộng của một mẫu di truyền điển hình từ vùng biển Nhật Bản sang vùng còn lại của Đông Á. Đây là sự di chuyển gene quan trọng thứ ba của vùng Đông Á (xếp sau “Cuộc di chuyển lớn” từ lục địa châu Phi và cuộc di chuyển gene thứ hai từ vùng bắc Siberia). Sự di chuyển này cũng đã dẫn đến sự mở rộng về mặt địa lý của loài người trong thời Jomon. Nghiên cứu này còn đi xa hơn trong việc đưa ra giả thuyết rằng sự mở rộng của loài người trong thời Jomon thậm chí đã vươn đến châu Mỹ theo con đường dọc bờ biển Thái Bình Dương.

Những giai đoạn chính

Tiền Jomon (10000 – 7500 TCN)

* Các đường vẽ trên vách đá,

* Các dấu vết vẽ bằng móng tay,

* Các đường trang ký hình xoắn thừng,

* Muroya hạ

Sơ kỳ Jōmon (7500 - 4000 BC)

* Igusa,

* Inaridai,

* Mito,

* Hạ Tado,

* Thượng Tado,

* Shiboguchi,

* Kayama.

pisco
21-08-2007, 03:42 PM
Từ đầu đến cuối thời Jomon (4000 – 400 TCN)

Nhiều di tích khai quật được trong giai đoạn này cho thấy thời kỳ đầu và trung kỳ Jomon đã diễn ra một sự bùng nổ về dân số. Hai thời kỳ này tương ứng với thời tiền sử Holocene Climatic Optimum (từ 4000 đến 2000 TCN) khi nhiệt độ cao hơn bây giờ vài độ C và mực nước biển cao hơn từ 5 đến 6 mét. Những di chỉ đồ gốm mang tính nghệ thuật cao, như các bình gốm nung lửa có trang trí, được tìm thấy trong gian đoạn này. Sau năm 1500 TCN, thời tiết trở nên lạnh hơn và dân số có lẽ đã giảm xuống nhanh chóng bởi lẽ người ta tìm thấy ít di chỉ khảo cổ tương ứng với giai đoạn 1500 năm TCN hơn nhiều so với trước đó.

Vào cuối thời Jomon, theo nghiên cứu khảo cổ học, một thay đổi quan trọng đã diễn ra. Các hình thức nông nghiệp sơ khai đã phát triển thành việc canh tác trên các ruộng lúa và xuất hiện sự kiểm soát của chính quyền. Rất nhiều nhân tố văn hóa Nhật Bản có thể khởi nguồn từ thời kỳ này và phản ánh lại những cuộc di cư từ phía nam lục địa châu Á và phía nam Thái Bình Dương. Trong những nhân tố này có các truyền thuyết về đạo Shinto, các tục lệ hôn nhân, các phong cách kiến trúc và những phát triển về kỹ thuật như đồ sơn mài, những cây cung được kéo mỏng, kỹ thuật chế tác đồ kim loại và đồ thủy tinh.

Những giai đoạn chính

Jomon thời kỳ đầu (4000 – 3000 TCN)

* Hạ Hanazumi,

* Sekiyama,

* Kurohama,

* Moroiso

* Juusanbodai

Trung kỳ Jomon (3000 – 2000 TCN)

* Katsusaka/Otamadai,

* Kasori E1,

* Kasori E2.

Hậu kỳ Jomon (2000 – 1000 TCN)

* Shyomyouji,

* Horinouchi,

* Kasori B1,

* Kasori B2,

* Angyo 1.

Cuối thời Jomon (1000 – 400 TCN)

* Angyo 2

* Angyo 3




Thời kỳ Yayoi (kanji: 弥生時代, rōmaji: Yayoi jidai, phiên âm Hán-Việt: Di Sinh Thời Đại) là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản từ khoảng năm 300 TCN đến năm 250. Thời kỳ Yayoi được đặt theo tên một vùng của Tokyo nơi các nhà khảo cổ tìm ra những di chỉ thuộc thời đại này. Theo khảo cổ học, thời kỳ Yayoi được đánh dấu bởi việc bắt đầu trồng lúa nước trên đồng ruộng và một phong cách đồ gốm mới. Nối tiếp thời kỳ Jomon (10.000 TCN đến 300 TCN), văn hóa Yayoi phát triển ở miền nam Kyushu và miền bắc Honshu.

Tuy nhiên, những phát hiện gần đây cho thấy thời kỳ Yayoi có thể bắt đầu sớm hơn nhiều, từ 900 TCN đến 800 TCN.


Những đặc điểm của văn hóa Yayoi


Những người Yayoi đầu tiên có thể đã xuất hiện ở miền bắc Kyushu và sau đó chuyển lên hòn đảo lớn nhất Nhật Bản Honshu, nơi họ nhanh chóng thay thế người thời kỳ Jomon bản địa. Mặc dù kỹ thuật chế tác đồ gốm của người Yayoi tiến bộ hon so với người Jomon (đồ gốm được sản xuất trên một chiếc bàn xoay), đồ gốm của người Yayoi lại được trang trí đơn giản hơn. Người Yayoi cũng chế tác ra những chiếc chuông dùng cho nghi lễ, gương và vũ khí bằng đồng. Vào thế kỷ 1, họ bắt đầu sử dụng các công cụ nông nghiệp và vũ khí bằng sắt.

Khi dân số người Yayoi tăng lên, xã hội của họ trở nên phức tạp hơn. Họ dệt len, sống định cư trong những ngôi làng làm nông nghiệp, xây dựng các kiến trúc bằng đá và gỗ, bắt đầu xuất hiện những người giàu có sở hữu nhiều đất và tích trưc được nhiều lương thực dẫn đến việc phân chia ra các đẳng cấp xã hội khác nhau. Sự phát triển này có thể bắt nguồn từ nền văn hóa làm thủy lợi và trồng lúa nước ở lưu vực sông Dương Tử miền nam Trung Quốc. Cho đến gần đây, người ta vẫn tin rằng cây lúa đã được đưa vào Nhật Bản qua đường Triều Tiên, nhưng những phân tích DNA gần đây đã phủ nhận điều đó. Văn hóa lúa nước dẫn đến việc phát triển của một xã hội nông nghiệp định tư tại Nhật Bản. Tuy nhiên, không giống như ở Triều Tiên và Trung Quốc, những thay đổi vế chính trị và xã hội ở quy mô địa phương tại Nhật Bản quan trọng hơn các hoạt động của chính quyền trung ương trong một xã hội phân chia đẳng cấp.

Thời Yayoi trong sách sử Trung Quốc
http://www.rekihaku.ac.jp/koohoo/journal/no121/dotaku1.jpg
Chuông đồng thời Yayoi

Những ghi chép sớm nhất về cư dân sống ở Nhật Bản là từ các thư tịch cổ của Trung Quốc trong thời đại này, Oa (倭), cách phát âm theo tiếng Nhật với một cái tên cổ mà Trung Quốc đặt cho Nhật Bản, được đề cập đến lần đầu tiên vào năm 57. Oa Quốc đã nhận được kim ấn của hoàng đế Trung Quốc thời Hậu Hán. Sự kiện này được chép lại trong Hậu Hán Thư. Con dấu đó đã được tìm thấy ở miền bắc Kyushu vào thế kỷ 18. Oa Quốc còn được nhắc đến vào năm 257 trong Ngụy Chí thời Tam Quốc.

Những sử gia Trung Quốc khi đó mô tả Oa Quốc là một vùng đất bao gồm hàng trăm các cộng đồng bộ lạc du mục, chứ không phải là một quốc gia thống nhất với lịch sử đã được 700 năm như trong tác phẩm sáng tác vào thế kỷ 8 Nihongi, một tác phẩm nửa lịch sử, nửa huyền thoại viết rằng nước Nhật Bản đã được hình thành từ năm 660 TCN. Những thư tịch cổ của Trung Quốc vào thế kỷ 3 chép rằng người dân Oa Quốc ăn cá sống, rau và cơm nấu trong ống tre hoặc các khay bằng gỗ, vỗ tay khi tiến hành các hoạt động thờ phụng (những nghi thức như vậy vẫn còn tồn tại ở các ngôi đền Shinto đến tận ngày nay) và xây những lăng mộ chôn người chết bằng đất. Họ cũng có các quan hệ vua – tôi, thu thuế, xây dựng các kho thóc và chợ ở địa phương cũng như than khóc cho người chết.

Một phụ nữ, được biết đến dưới cái tên Himiko ở Nhật Bản, cai trị một nhà nước sơ khai tên là Yamatai, đặc biệt phồn thịnh trong suốt thế kỷ 3. Himiko giữ một vị trí biểu tượng tinh thần trong nhà nước đó. Con trai bà mới là người điều hành đất nước, bao gồm cả các hoạt động ngoại giao với nhà Ngụy (220 – 265) ở Trung Quốc.

Nguồn gốc văn hóa Yayoi

Nguồn gốc văn hóa Yayoi từ lâu đã là một cuộc tranh cãi lớn. Có một số học thuyết chính được trình bày dưới đây.

Nguồn gốc Trung Quốc

Gươm bằng đồng thời Yayoi, thế kỷ 1-2, tìm thấy ở Kyushu. Dài khoảng 80cm, những lưỡi gươm này khá giống với các lưỡi dao găm được tìm thấy ở Liêu Ninh cũng trong giai đoạn này

Một học thuyết ra đời vào đầu thời Minh Trị cho rằng văn hóa Yayoi do những người di cư từ Trung Quốc mang đến Nhật Bản. Sự xuất hiện của văn hóa Yayoi rất đột ngột. Nền văn hóa Yayoi tiến bộ hơn rất nhiều so với văn hóa thời kỳ Jomon mà nó thay thế. Những kỹ năng đòi hỏi trình độ cao như chế tác đồng và vũ khí bằng đồng, gương và chuông đồng, cũng như trồng lúa và làm thủy lợi, đã xuất hiện tại Nhật Bản. Dẫn chứng quan trọng nhất của học thuyết này là ba biểu tượng lớn của văn hóa Yayoi, gương và kiếm bằng đồng cùng chiếc ấn hoàng gia, cũng chính là những biểu tượng được sử dụng dưới thời nhà Tần ở Trung Quốc.

Trong những năm gần đây, nhiều bằng chứng khảo cổ học và sinh học đã được tìm thấy ở đông Trung Quốc và tây Nhật Bản càng khẳng định học thuyết này. Từ năm 1996 đến 1999, một đoàn khảo cổ do Satoshi Yamaguchi, một nhà nghiên cứu của Bảo tàng quốc gia Nhật Bản, đã so sánh những di chỉ thời Yoyi được tìm thấy ở Yamaguchi và Fukuoka với những di chỉ từ thời nhà Hán (202 TCN – 8) ở vùng bờ biển thuộc tỉnh Giang Tô của Trung Quốc và phát hiện rất nhiều điểm tương đồng giữa hộp sọ và chi của người Yayoi và người Giang Tô. Hai chiếc hộp sọ ở Giang Tô cho thấy những dấu hiệu các răng cửa bị nhổ, một tục lệ tương tự với ở Nhật Bản vào thời Yayoi và thời kỳ Jomon trước đó. Những mẫu gene của ba trong số 36 bộ xương Giang Tô cũng phù hợp một phần với các phân tích DNA của các mẫu từ những di chỉ thời Yayoi. Theo các nhà khoa học Nhật Bản, những phát hiện này cho thấy một số trong những cư dân trồng lúa nước của Nhật Bản có thể đã di cư từ vùng lòng chảo sông Dương Tử ở Trung Quốc sang vào khoảng 2.000 năm trước.

pisco
21-08-2007, 03:44 PM
Nguồn gốc Hàn Quốc



Một học thuyết khác cũng ra đời vào đầu thời Minh Trị cho rằng văn hóa Yayoi được những cư dân di cư từ Triều Tiên mang đến Nhật Bản. Nhiều học giả phương Tây và Nhật Bản đã kết luận rằng những bằng chứng khảo cổ thời Yayoi cho thấy chắc chắn nó có nguồn gốc từ Triều Tiên. Những bằng chứng này bao gồm “các cánh đồng lúa có đập thủy lợi, dụng cụ đá mài kiểu mới, dụng cụ canh tác bằng gỗ, dụng cụ bằng sắt, kỹ thuật dệt, các bình sứ, các dây đai bằng đất sét hình thừng xoắn trong chế tạo đồ gốm, các chỗ ở được đào sâu xuống đất, chăn nuôi lợn (heo), nghi lễ nhổ răng hàm và các lăng mộ có lỗ khóa” (theo Mark J. Hudson, Ruins of Identity Ethnogenesis in the Japanese Islands. University Hawaii Press. 1999. 0-8284-2156-4).

Học thuyết này còn được hỗ trợ bởi một luận điểm quan trọng là nền văn hóa thời kỳ Yayoi bắt đầu từ bờ biển phía bắc của Kyushu, nơi Nhật Bản gần với Triều Tiên nhất. Đồ gốm thời Yayoi, những lăng mộ chôn cất người chết và cách bảo quản thực phẩm đã được phát hiện rất giống với đồ gốm ở phía nam Triều Tiên. Thêm vào đó, một số lượng khá lớn cư dân đến từ Nhật Bản được phát hiện thấy ở phía nam Triều Tiên vào khoảng năm 300, gây ra những tranh cãi dữ dội giữa Triều Tiên và Nhật Bản ngày nay về việc ai là chư hầu của ai trong giai đoạn đó.

Tuy nhiên, một ý kiến khác cho rằng việc dân số tăng lên khoảng bốn triệu người ở Nhật Bản giữa thời kỳ Jomon và Yayoi không thể chỉ đơn thuần giải thích là do hiện tượng di cư. Ý kiến đó cho rằng việc tăng dân số chủ yếu là do cư dân trên các đảo Nhật Bản chuyển từ đời sống săn bắt hái lượm sang một đời sống nông nghiệp định cư với sự ra đời của cây lúa.

Dù sao đi nữa, một số bằng chứng khảo cổ học ủng hộ cho luận điểm rằng một dòng nhập cư lớn những người làm nông nghiệp từ Hàn Quốc sang Nhật Bản đã áp đảo những cư dân bản địa sống bằng săn bắt hái lượm. So sánh trực tiếp giữa hai bộ xương của thời Jomon và Yayoi cho thấy hai cấu tạo cơ thể có nhiều khác biệt đáng chú ý. Người Jomon thường thấp hơn, với cánh tay dài hơn và chân ngắn hơn, mắt to hơn, mặt ngắn và rộng hơn. Họ cũng có chân mày xếch hơn, mũi và sống mũi cao hơn. Trong khi đó, người Yayoi trung bình cao hơn từ 2,5 đến 5cm, với mắt hẹp, mặt dài và hẹp, sống mũi phẳng. Kể từ thời kỳ Kofun, gần như tất cả các hài cốt khai quật được ở Nhật Bản, trừ những bộ xương người Ainu và Okinawa, đều giống với người Nhật hiện đại.

Những chứng cứ về di truyền học cũng ủng hộ giả thuyết này. Người Nhật hiện đại có thể là con cháu của những người di cư Yayoi và những người Jomon bản địa, trong khi người Ainu có thể là những còn cháu thuần chủng hơn của người Jomon có sự hòa trộn đôi chút về di truyền với người Nivhkh và người Yayoi di cư.

Sự pha trộn giữa người Jomon bản địa và những người di cư đến từ Trung Quốc và/hoặc Triều Tiên

Có những mảnh gốm thuộc thời Yayoi cho thấy ảnh hưởng rõ ràng của phong cách đồ gốm thời kỳ Jomon. Những ví dụ về sự tương đồng khác là các công cụ săn bắn bằng đá mài, các công cụ bắt cá bằng xương, vòng đeo làm từ vỏ sò và kỹ thuật sơn trang trí cho bình gốm và đồ trang sức. Bảo tàng khoa học quốc gia Nhật Bản từng tổ chức một triển lãm có tên “Cuộc hành trình trở về tiền sử Nhật Bản” dựa trên giả thuyết rằng người thời Yayoi đến từ miền nam Trung Quốc bởi vì những bộ xương thời giống với xương thời Yayoi đã được phát hiện ở đó.

Sự nổi lên chủ đạo của văn hóa Jomon và ảnh hưởng rất ít của làn sóng nhập cư từ Trung Quốc và/hoặc Triều Tiên

Việc trồng lúa, trước đây được cho là đã bắt đầu từ Trung Quốc sang đường Triều Tiên rồi đến Nhật Bản. Tuy nhiên, hiện có những thuyết cho rằng ngược lại, cây lúa đã bắt đầu từ nam Trung Quốc, sang Okinawa rồi mới đến nam Triều Tiên. Sự khác biệt về mặt thể chất ở những người sống tại các vùng đất khác nhau của Nhật Bản hiện nay có thể được giải thích bằng những thay đổi trong tập quán ăn uống và sinh hoạt. Bởi lẽ người Nhật là một quần thể cư dân khá đồng nhất (trừ những người Ainu và người Ryukyu), rất có thể phần lớn người Nhật không phải là có nguồn gốc từ Trung Quốc. Mặc dù giả thuyết cuối cùng này làm hài lòng phần lớn người Nhật, vốn không muốn tin rằng họ có chung nguồn gốc về mặt sinh học với những hàng xóm châu Á, đó cũng là giả thuyết cuối cùng được các nhà nhân chủng học hiện đại tính đến.
Kết thúc và di sản
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/c/c4/YoshinogariIseki.jpg/416px-YoshinogariIseki.jpg
Nhà sàn thời Yayoi ở Yoshinogari (phục chế)

Thời kỳ khảo cổ học tiếp theo trong lịch sử Nhật Bản được gọi là thời kỳ Kofun, cũng là thời kỳ mở đầu giai đoạn Yamato. Xã hội Yayoi dần phát triển thành một xã hội với sự thống trị của tầng lớp quý tộc quân đội và những lãnh địa được tổ chức theo mô hình gia tộc, đặc điểm nổi bật của thời Kofun sau đó. Sự thay đổi này rất có thể bắt nguồn từ cuộc di dân từ bán đảo Triều Tiên.

pisco
21-08-2007, 03:44 PM
Thời cổ đại

Thời kỳ Kofun (kanji: 古墳時代, rōmaji: Kofun jidai, phiên âm Hán-Việt: Cổ Phần thời đại) là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ khoảng năm 250 đến năm 538. Từ kofun trong tiếng Nhật nghĩa là mộ cổ. Nó được dùng để đặt tên cho một thời kỳ vì sự xuất hiện hàng loạt của các mộ cổ có hình dạng và kiến trúc đặc biệt trong thời kỳ này. Thời kỳ Kofun nối tiếp thời kỳ Yayoi. Thời kỳ Kofun và thời kỳ Asuka sau đó thường được gộp chung lại thành thời kỳ Yamato.

Thời kỳ Kofun được phân biệt với thời kỳ Asuka bởi những khác biệt về văn hóa. Thời kỳ Kofun điển hình bởi một nền văn hóa tôn thờ vật tổ trước khi đạo Phật xuất hiện ở Nhật Bản. Về mặt chính trị, sự ra đời của triều đình Yamato và sự mở rộng của nó sang các vùng Kyushu và Kanto là những nhân tố chính tiêu biểu cho thời kỳ này. Thời kỳ Kofun cũng là thời kỳ có sử thành văn đầu tiên ở Nhật Bản. Tuy nhiên, biên niên sử của thời kỳ này còn rất sơ sài và không có trật tự đòi hỏi sự nghiên cứu sâu sắc hơn cũng như sự hỗ trợ lớn hơn từ phía khảo cổ học.

Các tài liệu khảo cổ học và những sử sách của Trung Quốc cổ cho thấy các bộ lạc và thủ lĩnh bộ lạc, rất nhiều ở Nhật Bản trong thời gian này, vẫn chưa được thống nhất lại thành các nhà nước cho tới tận năm 300, khi những lăng mộ lớn bắt đầu xuất hiện trong khi vẫn chưa có liên hệ nào giữa miền tây Nhật Bản với Trung Quốc. "Thế kỷ huyền bí" đó còn được mô tả như một giai đoạn mà các cuộc chiến tranh tương tàn giữa các thủ lĩnh bộ lạc diễn ra để giành quyền kiểm soát Kyushu và Honshu.




Các lăng mộ thời kỳ Kofun
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/3/3f/NintokuTomb.jpg
Mộ Daisenryo, lăng mộ của Hoàng đế Nintoku, Osaka, thế kỷ 5


Kofun (cổ phần, mộ cổ) là những lăng mộ được xây cho những người thuộc tầng lớp thống trị ở Nhật Bản từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7. Thời kỳ Kofun được đặt tên theo loại lăng mộ đặc biệt này. Những ngôi mộ chỉ được dùng trong các lễ tang của những người giàu có vào thời kỳ đó. Các ngôi mộ bao gồm những tảng đá lớn tạo thành quan tài. Một số ngôi mộ còn có đường hào đào xung quanh.

Các lăng mộ cổ có nhiều hình dạng khác nhau, trong đó hình tròn và hình vuông là đơn giản nhất. Một loại đặc biệt hơn là loại mộ hình lỗ khóa (zenpo koen fun), với hình vuông ở phía trước và tròn ở phía sau. Rất nhiều ngôi mộ như thế là những ngọn đồi tự nhiên được đẽo gọt để có hình dáng cuối cùng như mong muốn. Các ngôi mộ có kích thước khác nhau từ vài mét đến hơn 400 mét chiều dài.

Vào cuối thời kỳ Kofun, loại quan tài chôn cất đặc biệt làm bằng những tảng đá lớn, lúc đầu chỉ giành cho những nhân vật quan trọng nhất trong xã hội, đã được sử dụng rộng rãi hơn.

Ngôi mộ lớn nhất của thời kỳ này có thể là những ngôi mộ của các quý tộc địa phương như Hoàng đế Ojin và Hoàng đế Nintoku. Các ngôi mộ này còn được phân loại theo việc lối vào các quan tài bằng đá là thẳng đứng (tate-ana) hay nằm ngang (yoko-ana).

Sự phát triển của các ngôi mộ
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/5d/KofunTumulus.JPG

Kofun hình nón Noge-Ōtsuka, Tokyo, đầu thế kỷ 5

Ngôi kofun lâu đời nhất ở Nhật Bản có thể là ngôi kofun của Hokenoyama ở Sakurai, Nara, được xây dựng vào thế kỷ 3. Tại quận Makimuku thuộc Sakurai, những ngôi kofun hình lỗ khóa (kofun Hashihaka, kofun Shibuya Mukaiyama) được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 4. Xu hướng xây dựng các kofun hình lỗ khóa trước tiên lan từ Yamato sang Kawachi (nơi có những kofun khổng lồ như kofun Daisen của Hoàng đế Nintoku) và sau đó ra cả nước (trừ vùng Tohoku) trong thế kỷ 5. Vào cuối thế kỷ 5, những kofun hình lỗ khóa cũng được xây dựng ở vương quốc Gaya trên bán đảo Triều Tiên. Nhiều học giả Triều Tiên muốn phủ nhận điều này, nhưng hầu hết phải thừa nhận rằng sự có mặt của những thiết kế kiểu Nhật Bản có một không hai là bằng chứng không thể chối cãi của dòng chảy văn hóa từ Nhật Bản sang Triều Tiên trong thời kỳ này.

Sự lan rộng của các kofun hình lỗ khóa được lấy làm bằng chứng cho sự mở rộng của triều đình Yamato trong giai đoạn này. Tuy nhiên, cũng có những học giả phản biện rằng đó chỉ đơn thuần là sự lan tỏa của văn hóa chứ không liên quan nhiều đến các yếu tố chính trị. Ngoài ra, việc kofun hình lỗ khóa ở Gaya là được xây cho một lãnh chúa địa phương chịu ảnh hưởng của văn hóa Nhật Bản hay cho một quý tộc Nhật Bản di cư đến Triều Tiên vẫn còn là điều gây tranh cãi.

Kofun hình lỗ khóa biến mất vào cuối thế kỷ 6, có thể do sự cải cách sâu rộng xảy ra ở triều đình Yamato, những tài liệu Nihonshoki cho biết đạo Phật đã xuất hiện ở Nhật Bản trong giai đoạn này. Hai kofun lớn cuối cùng là kofun Imashirozuka (chiều dài 190m) ở Osaka mà các học giả hiện đại cho rằng là lăng mộ của Hoàng đế Keitai và kofun Iwatoyama (chiều dài 135m) ở Fukuoka mà theo sách Fudoki Chikugo là lăng mộ của Iwai, một triều thần cao cấp của Keitai.

Triều đình Yamato
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4d/KofunCuirass.jpg

Nón và áo giáp sắt có mạ đồng, thời Kofun, thế kỷ 5. Bảo tàng Quốc gia Tokyo.

Trong khi chính thức được cho là bắt đầu vào khoảng năm 250, triều đại Yamato thực ra bắt đầu từ bao giờ vẫn còn là một cuộc tranh cãi. Sự khởi đầu của triều đình Yamato còn liên quan đến cuộc tranh cãi về triều đại Yamataikoku và sự sụp đổ của triều đại đó. Dù sao đi nữa, tồn tại một sự nhất trí chung là những người đứng đầu triều đại Yamato chính là chủ nhân của nên văn hóa kofun hình lỗ khóa và nắm quyền thống trị Yamato cho đến thế kỷ 4. Tuy nhiên, sự tự trị của các thế lực cát cứ vẫn được duy trì trong thời kỳ này, đặc biệt là ở những nơi như Kibi (nay là tỉnh Okayama), Izumo (nay là tỉnh Shimane), Koshi (nay là các tỉnh Fukui và Niigata), Kenu (nay ở phía bắc Kanto), Chikushi (nay ở phía bắc Kyushu) và Hi (nay ở trung tâm Kyushu). Chỉ đến thế kỷ 6, các lãnh chúa Yamato mới bắt đầu giành quyền kiểm soát toàn bộ nửa phía nam của Nhật Bản. Những quan hệ ngoại giao chính thức với bán đảo Triều Tiên và Trung Quốc tập trung chủ yếu ở Yamato. Sử thành văn của Trung Quốc và Triều Tiên không thấy chép lại họ có giao du với tỉnh nào khác ngoài Yamato trên quần đảo Nhật Bản. Theo những gì khắc trên Thất Chi Đao, mối quan hệ giữa Yamato và các quốc gia bên ngoài có thể đã bắt đầu vào cuối thế kỷ 4.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/a/a7/KofunTombJewelry.jpg
Trang sức thời Kofun. Bảo tàng Anh
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/7/72/KofunSwordHilts.jpg
Hình trang trí ở chuôi kiếm thời kỳ Kofun, thế kỷ 6


Những dòng họ địa phương (gōzoku) quyền lực là điển hình cho xã hội có tổ chức Yamato, nổi lên từ thế kỷ 5. Mỗi dòng họ do một tộc trưởng (ujikami) đứng đầu, cũng là người thực hiện các nghi thức hiến tế cho thần (kami) của bộ tộc đó để bảo đảm sự bình yên cho bộ tộc. Các thành viên của các dòng họ này là những nhà quý tộc và cũng là nhân tố chủ đạo lãnh đạo triều đình Yamato sau đó.

Một số học giả phương Tây cũng gọi thời kỳ Kofun ở Nhật Bản là thời kỳ Yamato vì sự xuất hiện của các thủ lĩnh địa phương làm nền tảng cho một vương triều sau đó đã bắt đầu vào cuối thời kỳ Kofun. Tuy nhiên, triều đại Yamato chỉ là một trong những xã hội có phân chia đẳng cấp trong cả thời kỳ Kofun. Các nhà khảo cổ học Nhật Bản nhấn mạnh rằng vào nửa đầu của thời kỳ Kofun, những thủ lĩnh địa phương khác, như Kibi, có thể đã có vị trí thống trị quan trọng. Kofun Tsukuriyama của Kibi là kofun lớn thứ tư ở Nhật Bản.

Triều đình Yamato đã thể hiện sức mạnh với các dòng họ khác ở Kyushu và Honshu, phong hiệu cho các lãnh chúa, một số được cha truyền con nối. Cái tên Yamato bắt đầu đồng nghĩa với toàn bộ Nhật Bản khi triều đình Yamato đánh bại các dòng tộc khác để giành lấy đất đai canh tác nông nghiệp. Trên cơ sở giống như ở Trung Quốc (bao gồm cả việc sử dụng chữ Hán), triều đình Yamato bắt đầu phát triển một hệ thống hành chính tập trung và một triều đình quân chủ có sự tham gia của những lãnh chúa lớn nhất, nhưng vẫn chưa có một thủ đô cố định. Triều đình Yamato cũng đã có lúc cầu phong triều đình Trung Quốc.

Triều đình Yamato còn có các liên hệ với vương quốc Gaya, ở Nhật Bản được gọi là Mimana. Những bằng chứng khảo cổ học từ các lăng mộ kofun cho thấy sự tương đồng trong nghệ thuật, hình dáng các đồ vật và quần áo của giới quý tộc. Theo Nihonshoki, những nhà sử học theo trường phái kokugaku ở Nhật Bản khẳng định rằng Gaya là một thuộc quốc của Yamato. Giả thuyết này ngày nay đã bị phủ nhận. Thực tế đã diễn ra có thể là, dù ở những mức độ khác nhau, các quốc gia này đều là thuộc quốc của những triều đại ở Trung Quốc.

Image resized! Click to view full-size (http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/b/b3/KofunCuirass3.jpg)
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/b/b3/KofunCuirass3.jpg
Áo giáp sắt lót da thời Kofun

pisco
21-08-2007, 03:48 PM
Sự mở rộng lãnh địa của triều đình Yamato

Một nhà kho có sàn cao của thời kỳ Kofun được dựng lại và trưng bày ngoài trời tại Bảo tàng Lịch sử Osaka, thành phố Osaka.


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/f/fc/KofunHelmet.jpg
Nón sắt thời Kofun
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/83/KofunCuirass2.jpg
Áo giáp thời Kofun

Ngoài những chứng cứ khảo cổ học chỉ ra rằng một bộ tộc tại tỉnh Kibi là một đối thủ đáng gờm của Yamato, truyền thuyết thế kỷ 4 kể về hoàng tử Yamato Takeru cũng có bóng gió nói đến những trận chiến ở biên giới tại khu vực tỉnh Kibi. Một biên giới khác cũng được định rõ có thể là nơi sau đó là tỉnh Izumo (phần phía đông của tỉnh Shimane bây giờ). Một biên giới khác, ở Kyushu, có thể đã tồn tại ở khu vực phía bắc của tỉnh Kumamoto ngày nay. Truyền thuyết đó kể lại rằng có những quốc gia ở phía đông Honshu nơi "người ta bất tuân triều đình", nơi mà Yamato Takeru đã phải đến để dẹp loạn. Những quốc gia đối thủ này có thể nằm khá gần trung tâm của Yamato, hoặc xa hơn. Khu vực thuộc tỉnh Kai ngày nay đã từng được nói đến trong huyền thoại trên rằng đó là nơi hoàng tử Yamato Takeru đã ở lại trong cuộc hành quân của mình.

Biên giới phía bắc trong thời gian này cũng được nói đến trong Kojiki trong phần truyền thuyết về chuyến thám hiểm của Shido Shogun ((四道将軍: Tứ đạo tướng quân). Trong bốn shogun, Obiku đi về phía bắc tới Koshi và con trai ông Take Nunakawawake đi về phía đông. Sau khi đến Koshi, Obiki lại đi về phía bắc trong khi con trai ông cũng chuyển sang hướng bắc sau khi gặp bờ biển và cuối cùng họ gặp nhau ở Aizu (nay là phía tây Fukushima). Mặc dù truyền thuyết đó có thể không phải là một sự thật lịch sử chính xác, Aizu khá gần với Tohoku, nơi có những kofun hình lỗ khóa cuối cùng trong thế kỷ 4.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/5f/Warehouse_%28Kofun_era%29_Osaka_JPN_001.jpg
Một nhà kho có sàn cao của thời kỳ Kofun được dựng lại và trưng bày ngoài trời tại Bảo tàng Lịch sử Osaka, thành phố Osaka.

Ōkimi - Đại vương, người cai trị thời kỳ Kofun

Trong suốt thời kỳ Kofun, một xã hội quý tộc với các lãnh tụ quân sự ngày càng trở nên phát triển.

Thời kỳ Kofun là một thời kỳ quan trọng trong việc biến Nhật Bản trở thành một nhà nước thống nhất và có tính dân tộc cao. Xã hội này phát triển nhất ở vùng Kinai, và vùng cực đông của phần biển chia cắt các đảo Honshu, Shikoku và Kyushu.

Trong khi chỉ xưng vương với bên ngoài, các lãnh chúa tự gọi mình là Ōkimi (đại vương) trong thời kỳ này. Bản khắc chữ trên hai thanh gươm, thanh gươm Inariyama và thanh gươm Eta Funayama có ghi chữ Amenoshita Shiroshimesu (治天下: trị thiên hạ) và Okimi (大王: đại vương). Những người mang các thanh gươm đó cũng là những người cai trị các nhà nước. Các cứ liệu đó cho thấy những nhà cai trị trong thợi đại này cũng là những lãnh tụ về tôn giáo đánh đồng ngôi báo của họ với sự phó thác của trời. Danh hiệu Amenoshita Shiroshimesu Ōkimi được sử dụng cho tới thế kỷ 7, cho đến khi được thay bằng Nhật hoàng.

Những lãnh chúa của triều đình Yamato
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/f/fe/KofunCrown.jpg
Vương miện hoàng gia thời Kofun. Bảo tàng quốc gia Nhật Bản

Rất nhiều lãnh chúa của các bộ lạc địa phương thuộc thể chế Yamato tin rằng họ có nguồn gốc thân thích với gia đình hoàng tộc hoặc các vị thần (kami). Những cứ liệu khảo cổ về các lãnh chúa đó được tìm thấy trên thanh kiếm Inariyama. Người mang thanh kiếm đó ghi tên tổ tiên của ông ta là Obiko. Theo Nihon Shoki thì Obiko là một con trai của hoàng đế Kogen. Ngoài ra, có khá nhiều các lãnh chúa địa phương có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc bán đảo Triều Tiên.

Vào thế kỷ 5, dòng họ Kazuraki, con cháu của hoàn đế Kogen, là thế lực mạnh nhất trong triều đình và đã kết hôn với gia đình hoàng gia. Sau khi nhà Kazuraki đánh mất quyền lực vào cuối thế kỷ 5, dòng họ Otomo nổi lên thay thế. Khi Hoàng đế Buretsu qua đời mà không có người thừa kế, chính Otomo no Kanamura đã đưa Hoàng đế Keitai, một bà con xa của hoàng tộc sống ở Koshi (nay là tỉnh Fukui), trở thành hoàng đế mới. Tuy nhiên, Kanamura sau đó đã phải từ chức vì những thất bại trong chính sách ngoại giao, và triều đình dần bị các dòng họ Mononobe và Soga kiểm soát vào đầu thời kỳ Asuka.

Xã hội Kofun
Torai-Jin – Những người nhập cư từ Trung Quốc và Triều Tiên

Những người di cư từ Trung Quốc và Triều Tiên đến Nhật Bản thời cổ được gọi là Torai-Jin. Họ đã mang rất nhiều nét văn hóa Trung Quốc đến Nhật Bản. Đánh giá cao kiến thức và văn hóa của họ, triều đình Yamato đã dành sự đối xử ưu tiên cho những Torai-Jin này.

Người nhập cư từ Trung Quốc

Nhiều nhân vật quan trọng trong xã hội là những người nhập cư từ Trung Quốc. Theo Shinsen Jōjiroku, một cuốn danh mục về các dòng họ được biên soạn vào năm 815, người nhập cư Trung Quốc cũng có ảnh hưởng đáng kể trong giai đoạn này, và đã có 163 gia tộc người Trung Quốc có tên.

Theo Nihongi, dòng họ Hata bao gồm một số hậu duệ của Tần Thủy Hoàng đến Yamato vào năm 403 dẫn theo dân chúng trong 120 tỉnh. Theo Shinsen Jōjiroku, dòng họ Hata được chia ra ở nhiều tỉnh khác nhau dưới thời trị vì của Hoàng đế Nintoku để coi sóc nghề tằm tang và sản xuất tơ lụa cho triều đình. Khi cơ quan phụ trách về thương mại được thành lập trong triều đình Yamato, Hata Otsuchichi được cử làm người đứng đầu.

Năm 409, Achi no Omi, tổ tiên của dòng họ Yamato Aya cũng đến với dân chúng thuộc 17 huyện. Theo Shinsen Jōjiroku, Achi đã được phép thành lập một tỉnh mới là Imaki. Dòng họ Kawachi no Fumi, hậu duệ của Hán Cao Tổ, đã mang chữ Hán đến cho triều đình Yamato.

Dòng họ Takamoku là hậu duệ của Tào Tháo. Takamuko no Kuromaro là một thành viên quan trọng của cuộc cải cách Taika.

Người nhập cư từ Triều Tiên

Trong số nhiều người nhập cư Triều Tiên bắt đầu định cư ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ 4, một số đã trở thành tổ tiên của các dòng họ lớn ở Nhật Bản. Theo Nihongi, người đầu tiên từ Triều Tiên di cư đến Nhật Bản được sử sách ghi lại là Amenohiboko, một hoàng tử trong truyền thuyết của vương quốc Silla, một trong ba vương quốc thuộc thời Tam Quốc trên bán đảo Triều Tiên. Amenohiboko đến Nhật Bản vào thời Hoàng đế Suinin, vào khoảng thế kỷ 3 đến thế kỷ 4. Điều kỳ lạ là theo Nihongi, Amenohiboko lại là tổ tiên bên ngoại của công chúa Jingu, người mà theo truyền thuyết đã chinh phục được Silla. Ngoài ra, dân di cư từ Triều Tiên còn có những thành viên của gia đình hoàng gia Baekje. Vua Muryeong của Baekje được sinh ra ở Nhật Bản vào năm 462 và để lại một người con trai ở đó. Trong thời trị vì của Hoàng đế Ojin, Geunchogo của gia tộc Baekje đã hiến nhiều báu vật và sách vở cho hoàng đế Nhật Bản. Những nhân tố văn hóa Trung Quốc xuất hiện trong thời kỳ Yamato này cùng với người nhập cư từ Trung Quốc và Triều Tiên được cho là có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Nhật Bản sau này.

Ngôn ngữ

Người Trung Quốc, người Triều Tiên và người Nhật đều có các văn tự cổ, sách sử cổ viết bằng chữ Hán.

Trong khi biết chữ và biết viết là một điều không thể với phần lớn người Nhật Bản bản địa trong giai đoạn này, các kỹ năng về chữ viết của người nước ngoài vẫn được những thành phần thống trị trong xã hội đánh giá cao ở nhiều vùng của Nhật Bản. Thanh kiếm Inariyama, được làm ở Trung Quốc, có những chữ Hán khắc trên đó theo một phong cách Trung Quốc, dẫn đến phỏng đoán rằng chủ nhân của nó, mặc dù là một nhà quý tộc Nhật Bản quyền thế, có thể thật ra là một người nhập cư.

Sự xuất hiện của ngựa và những thay đổi với Nhật Bản

Sử sách Trung Quốc chép rằng ở Nhật Bản không có ngựa và những con ngựa đầu tiên xuất hiện trong thời trị vì của Hoàng đế Nintoku, có lẽ là do những người nhập cư Trung Quốc và Triều Tiên mang đến. Theo Nihonshoki, ngựa là một trong những vật quý ở Nhật Bản được hoàng đế của Silla tiến cống cho Jingu. Thủy lợi, nghề tơ tằm và nghề dệt cũng do người Trung Quốc và Triều Tiên mang đến Nhật Bản.

Kỵ binh thời kỳ Kofun mặc áo giáp, mang gươm và những vũ khí khác cũng như sử dụng các kỹ thuật quân dự hiện đại giống kỵ binh ở vùng đông bắc châu Á. Bằng chứng cho kết luận này được tìm thấy trong các đồ vật dùng cho đám tang (được gọi là haniwa, nghĩa đen là vòng đất sét) được tìm thấy ở hàng nghìn kofun trên khắp Nhật Bản. Haniwa quan trọng nhất được tìm thấy ở miền nam Honshu, đặc biệt là ở vùng Kinai và xung quanh Nara, và ở phía bắc Kyushu. Những haniwa chôn theo người chết có rất nhiều hình dáng khác nhau, như hình các con vật ngựa, gà, chim, cá, hình chiếc quạt, ngôi nhà, các hình vũ khí, khiên, ô che nắng, các cái gồi và những hình người nam và nữ. Một đồ vật chôn theo người chết khác, magatama, là những biểu tượng của các gia đình hoàng tộc. Rất nhiều chất liệu văn hóa của thời kỳ Kofun có thể phân biệt được với giai đoạn cùng thời trên bán đảo Triều Tiên, cho thấy vào thời kỳ này Nhật Bản có liên hệ khá gần gũi về mặt chính trị và kinh tế với lục địa châu Á (đặc biệt là các triều đại ở phía nam trung quốc) qua đường Triều Tiên. Những tấm gương bằng đồng được đúc từ cùng một khuôn cũng đã được tìm thấy ở hai bờ eo biển Tsushima.

pisco
21-08-2007, 03:51 PM
Thời kỳ Asuka

http://www.horyuji.or.jp/kondo.jpg
国宝 <飛鳥時代>
Thời kỳ Asuka (飛鳥時代 | Phi Điểu thời đại) kéo dài từ cuối thế kỷ thứ 6 đến đầu thế kỷ thứ 8.

Thái tử Shotoku (聖徳太子, Thánh Đức Thái tử) phục hồi quyền lực của vương quốc Yamato. Các cố gắng đầu tiên để tạo nên hiến pháp và một hệ thống giai cấp chính thức. Shotoku quảng bá cho đạo Phật. Một số chùa Phật giáo được xây dựng như Shitenno-ji (四天王寺, Tứ Thiên Vương tự), Horyu-ji (法隆寺, Pháp Long tự). Gia đình Soga (曽我, Tằng Ngã) trở nên quyền lực, tuy nhiên sau này đã bị Fujiwara-no-Kamatari (藤原鎌足, Đằng Nguyên Liêm Túc) dưới quyền hoàng tử Naka-no-Oe (中大兄皇子, Trung Đại Huynh Hoàng Tử) lật đổ. Cải cách Taika (大化の改革, Đại Hóa cải cách) theo những ý tưởng trước đây của hoàng tử Shotoku. Chấm dứt sự cai trị của người Nhật Bản ở Triều Tiên. Tinh thần của cải cách Taika được thể hiện trong bộ luật gọi là Ritsuryo (律令, Luật lệnh) dưới thời Thiên hoàng Temmu (天武, Thiên Vũ), sau này được cải tiến dưới thời Mommu (文武, Văn Vũ), cháu nội của ông.

Thời trung cổ

Thời kỳ Nara (tiếng Nhật: 奈良時代 |Nara-jidai) của lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 710 đến năm 794.[1] Nữ hoàng Genmei (元明天皇 Gemmei Tennō) đặt kinh đô tại Heijō-kyō (平城京, ngày nay là Nara). Ngoại trừ 5 năm (740-745) kinh đô phải dời đi nơi khác, đó là kinh đô của Nhật bản cho đến khi Hoàng đế Kammu (桓武天皇 Kammu Tennō) đặt kinh đô tại Nagaoka-kyō (長岡京) vào năm 784 trước khi di chuyển đến Heian-kyō (平安京), hoặc Kyoto (京都), một thập niên sau vào năm 794.

Phần lớn xã hội Nhật bản lúc bấy giờ làm về nông nghiệp, tụ tập quanh các ngôi làng. Đa số dân làng theo tôn giáo Shinto dựa vào thờ cúng thiên nhiên và thần linh tổ tiên (kami).

Kinh đô Nara được xây dựng theo mô hình của Tràng An (長安, Tây An ngày nay, 西安), là kinh đô của nhà Đường, Trung quốc. Trong những lãnh vực khác, tầng lớp thượng lưu Nhật bản đã lấy người Trung quốc làm kiểu mẫu, kể cả du nhập chữ viết của Trung quốc (Nhật bản: kanji, 漢字) và Phật giáo.


Thời kỳ văn hóa Nara

Dựa vào những cố gắng của Triều đình, những tác phẩm đầu tiên của lịch sử văn hóa Nhật bản thời kỳ Nara đã được ghi chép lại. Các tác phẩm như Cổ sự kí (古事記) và Nihon shoki (日本書紀) mang tính chất chính trị nguyên thủy đã được lưu lại và do đó quyền tối cao của các Hoàng đế Nhật bản đã được xác định và thiết lập.

Nhờ vào sự truyền bá chữ viết, các bài thơ Nhật bản được bắt đầu sáng tác, như là bài waka (和歌). Theo thời gian, các bộ sưu tập thơ cá nhân được xuất bản. Bộ sưu tập thơ lớn nhất của Nhật bản là Vạn diệp tập (万葉集) vào khoảng sau năm 759. Chữ viết Trung quốc được dùng để diễn đạt âm thanh của Nhật bản (được gọi là man'yōgana (万葉仮名) cho đến khi kana được phát minh.

Sự phát triển về kinh tế, xã hội và chính quyền

Trước khi Bộ luật Taihō (大宝律令 Taihō-ritsuryō) được thiết lập, kinh đô đã được dời đi theo phong tục sau khi Hoàng đế băng hà vì người xưa tin rằng nơi có sự chết chóc là ô uế, không còn thiêng liêng nữa. Sự thay đổi và quan liêu của triều đình đã dẫn đến việc xây dựng một kinh đô cố định là Heijō-kyō (平城京), tức Nara, vào năm 710. Đáng chú ý là kinh đô đã được dời đi chỉ trong một thời gian ngắn (lý do sẽ được nhắc đến trong phần sau) giữa những năm 740 và 745; được dọn đến Kuni-kyō (恭仁京, Kizugawa) giữa những năm 740 và 744, dọn đến Naniwa-kyō (難波京, nay là Osaka) vào năm 744-745, dọn đến Shigarakinomiya (紫香楽宮, nay là Shigaraki) năm 745, nhưng lại dọn trở về Nara năm 745. Một thời kỳ mới đã được đặt tên theo kinh đô Nara, là nơi đã được thiết kế theo phong cách của người Trung quốc, nhà Đường (唐, 618–907) kinh đô là Trường an (長安). Nara là trung tâm thành thị đầu tiên của Nhật bản. Chẳng mấy chốc dân số đã tăng lên 200,000 (gần 4% dân số cả nước) và có khoảng 10,000 người làm việc cho chính phủ.

Hoạt động kinh tế và chính quyền phát triển trong thời kỳ Nara. Đường xá nối liền thủ đô các tỉng bang, và thuế má được thu có hiệu quả và đều đặn hơn. Tiền đồng được đúc mặc dù chưa được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, bên ngoài khu vực Nara, có rất ít hoạt động thương mại và trong phần đất của các tỉnh thuộc về Cựu Shōtoku, hệ thống cải tổ bị khước từ. Đến giữa thế kỷ 8, shōen (荘園, sở hữu bất động sản), là một trong những điều kiện thành lập kinh tế quan trọng của Nhật bản thời Trung cổ, bắt đầu phát triển nhờ vào kết quả của sự nghiên cứu về quản lý đất chiếm hữu dễ dàng hơn. Chính quyền địa phương trở nên có thẩm quyền hơn, trong khi sự thất bại của hệ thống phân chia đất đai cũ và thuế má tăng đã dẫn đến sự mất mát hoặc bỏ rơi đất đai của những người trở thành "vô gia cư," hoặc furōsha (浮浪者). Một vài người trong số những người "quần chúng nhân dân" này được bí mật mướn làm công cho các địa chủ lớn, và "đất công" dần dần trở lại là shōen.

Tranh chấp giữa các bè phái vẫn tiếp diễn suốt thời kỳ Nara. Thành viên các gia đình hoàng tộc, các gia đình đứng đầu trong triều đình như Fujiwara (藤原), và các tu sĩ Phật giáo đều tham gia vào cuộc tranh giành thế lực. Vào đầu thời kỳ này, Hoàng tử Nagaya đã cướp chính quyền sau khi Fujiwara no Fuhito qua đời. Bốn người con trai của Fuhito là Muchimaro, Umakai, Fusasaki, và Maro đã kế vị ông. Họ đã đưa Hoàng đế Shōmu, là cháu ngoại của Fuhito, lên ngôi. Vào năm 729, họ bắt giữ Nagaya và thu lại quyền hành. Tuy nhiên, khi dịch bệnh đậu mùa đầu tiên lan tràn từ Kyushu vào năm 735, cả bốn anh em đều mất mạng hai năm sau đó, dẫn đến quyền thống trị của Fujiwara tạm thời bị thu hẹp lại. Hoàng đế bị sốc nặng sau trận dịch này nên ông đã di dời cung điện ba lần chỉ trong vòng năm năm kể từ năm 740, cho đến cuối cùng khi ông dọn trở về Nara. Vào cuối thời kỳ Nara, gánh nặng tài chính tăng dần, và triều đình bắt đầu sa thải các viên chức không quan trọng. Vào năm 792, toàn bộ chế độ cưỡng bách tòng quân được bãi bỏ, và lãnh đạo các địa hạt được quyền thiết lập các lực lượng dân quân tư nhân cho công tác cảnh sát địa phương. Sự phân quyền của nhà chức trách đã trở nên nguyên tắc mặc cho sự cải tổ của thời kỳ Nara. Cuối cùng, để trả lại quyền lực cho triều đình, kinh đô đã được dọn đến Nagaoka-kyō (長岡京) vào năm 784 và đến Heian-kyō (平安京, Kinh đô của Hòa bình và Thanh bình), vào năm 794 cách Nora khoảng 26 kilômét về phía Bắc. Vào cuối thế kỷ thứ 11, thành phố được đổi tên là Kyoto (京都, thành phố kinh đô) kể từ đó.

pisco
21-08-2007, 03:52 PM
Sự phát triển của văn hóa và Phật giáo

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/7/73/Narano_daibutsu_1.jpg
Tượng Đức Phật tại Nara (Tōdai-ji), 752 CE.

Một vài tác phẩm văn học bất hủ của Nhật bản đã được viết trong thời kỳ Nara, bao gồm các quyển Kojiki (古事記) và Nihon shoki (日本書紀) viết về lịch sử đầu tiên của nước Nhật đã được biên soạn vào năm 712 và năm 720 theo thứ tự; các hợp tuyển thi ca Man'yōshū (万葉集, Bộ sưu tập mười ngàn chiếc lá), và Kaifūsō (懐風藻, Hồi ức yêu dấu) đã được các Hoàng đế và Hoàng tử Nhật bản viết bằng chữ Trung quốc.

Một phát triển văn hóa quan trọng khác trong thời đại này là Phật giáo đã được chính thức hóa. Vào thế kỷ thứ 6, Phật giáo đã được Baekje đưa vào Nhật bản nhưng sự tiếp thu bị pha trộn cho đến khi Hoàng đế Shōmu (聖武天皇 Shōmu Tennō) ở thời kỳ Nara thành tâm đón nhận. Hoàng đế Shōmu và thân tộc Fujiwara của ông là các Phật tử nhiệt thành đã tích cực truyền bá Phật giáo, biến Phật giáo thành "người bảo vệ đất nước" và là một phương cách làm cho thể chế Nhật bản thêm vững mạnh.

Dưới triều đại Shōmu, chùa Tōdai-ji (東大寺, lit. Đại Điện Đông phương) đã được xây cất với tượng Phật Dainichi (Phật Thái dương) cao 16 mét bằng đồng. Đức Phật này có liên quan chặt chẽ với Nữ thần Thái dương và sự hỗn tạp dần nảy sinh sau đó giữa Phật giáo và đạo Shinto. Hoàng đế Shōmu tự nhận là "Bầy tôi của Tam bảo" Phật giáo: Phật, Pháp và Tăng.

Ngoài ra chính phủ còn cho xây dựng các chùa kokubunji (国分寺) tại các tỉnh. Chùa Tōdai-ji là một kokubunji của tỉnh Yamato (大和国, ngày nay là Tỉnh Nara, 奈良県).

Mặc dù những cố gắng này đã thúc đẩy Phật giáo thành một tôn giáo của quốc gia, nhưng Phật giáo Nara đã làm tăng thêm thân thế của hoàng tộc. Thế lực của Phật tử tại triều đình đã tăng thêm dưới hai triều đại của con gái Shōmu. Nữ hoàng Kōken (孝謙天皇 Kōken Tennō trị vì từ năm 749 đến năm 758) đã triệu nhiều tu sĩ Phật giáo vào triều đình. Kōken đã thoái vị năm 758 theo lời khuyên của người anh họ Fujiwara no Nakamaro (藤原 仲麻呂). Khi bà Nữ hoàng đã thoái vị bắt đầu chiếu cố đến một tu sĩ Phật giáo tên là Dōkyō (道鏡) thì Nakamaro vũ trang chống lại vào năm 764 nhưng đã bị tiêu diệt nhanh chóng. Kōken đã buộc Hoàng đế tội thông đồng với Nakamaro và phế truất Ông. Kōken lại lên ngôi Nữ hoàng với tên hiệu là Shōtoku (称徳天皇 Shōtoku Tennō trị vì từ năm 764 đến năm 770). Nữ hoàng đã cho xuất bản kinh một triệu lời cầu nguyện —the Hyakumanto dharani (百万塔陀羅尼) —. Bản in vào năm 770 này là một trong những ấn phẩm được xuất bản sớm nhất trên thế giới. Shōtoku cho in các quyển kinh này nhằm xoa dịu giới tăng lữ Phật giáo. Bà còn mong muốn lập Dōkyō làm Hoàng đế nhưng bà đã qua đời trước khi kịp thực hiện quyết định này. Các hành vi của bà đã khích động xã hội Nara dẫn đến việc loại trừ phụ nữ trong triều đình lên nối ngôi và cách chức các tu sĩ Phật giáo có chức vụ trong chính trị.

Thời kỳ Heian

Thời kỳ Heian (平安時代 | Bình An thời đại) kéo dài từ năm 794 đến năm 1192. Thời kỳ này gồm ba giai đoạn.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/7/7c/Toshodaiji.jpg
chùa Toshodai (唐招提寺)

* Sơ kỳ Heian (Cuối thế kỷ thứ 8 đến cuối thế kỷ thứ 9)

Kinh đô được dời đến Heian-Kyo (nay là Kyoto). Thành lập các giáo phái Phật giáo mới đã Nhật Bản hóa (là Tendai (Thiên thai tông) và Shingon (Chân ngôn tông) - chủ yếu hội nhập những yếu tố tiến bộ). Hệ thống các điều luật Ritsuryo được sửa đổi. Các thể tài thơ văn theo kiểu Trung Hoa rất hưng thịnh ở triều đình và chủ yếu của các cây bút nam. Dòng họ Fujiwara nắm quyền hành đằng sau ngai vàng.

* Trung kỳ Heian (Cuối thế kỷ thứ 9 đến cuối thế kỷ 11)

Với sự gia tăng quyền lực của dòng họ Fujiwara, việc cai quản chính quyền bằng quan nhiếp chính trở thành luật lệ. Triều đình mất thực quyền kiểm soát đất nước mà chỉ còn nắm vai trò đại diện. Phúc lợi công cộng bị coi nhẹ. Người đứng đầu các tỉnh trở nên tham nhũng và lười nhác. Chủ nhân của các khu trang ấp (shoen) thành lập các nhóm võ sĩ để tự vệ, tạo ra sự mở đầu của hệ thống samurai (võ sĩ, cận vệ có vũ trang). Thơ ca Nhật Bản phát triển rực rỡ, đặc biệt là waka (thể thơ 31 âm tiết). Cổ kim tập và các tuyển tập waka khác được biên soạn. Những tác phẩm khác gồm có tiểu thuyết đầu tiên của thế giới, cuốn Truyện kể Genji do Murasaki Shikibu chấp bút, tùy bút Sách gối đầu của Sein Sonagon, cuốn Truyện kể Ise, và Nhật ký Tosa.

* Hậu kỳ Heian (Cuối thế kỷ 11 đến 1192)

Bắt đầu một thế kỷ các Nhật hoàng rời xa thế tục, đi tu nhưng vẫn gián tiếp cai quản công việc triều chính. Triều đình dần biến thành một nhà nước không có thực quyền, quan liêu xa rời thực tế, không chăm lo đến các phúc lợi công cộng mà chỉ bận tâm tới việc xây dựng chùa chiền và truyền bá tư tưởng Phật giáo. Tầng lớp quý tộc trong triều đình suy đồi và vô dụng. Giáo phái Phật giáo Jodo (Tịnh độ tông) phát triển. Quyền lực của các phe cánh địa phương với nền tảng là hệ thống samurai tăng lên. Dẫn đầu trong số họ là các gia đình Minamoto (Genji) và Taira (Heike hoặc Heishi). Các chùa chiền cũng duy trì lực lượng tự vệ. Những cuộc tranh giành quyền lực trong hoàng tộc và các yếu tố khác cuối cùng đã đem lại uy thế cho gia đình Taira, nhưng sau một phần tư thế kỷ nắm quyền, rốt cuộc Taira lại bị Minamoto đánh bại.

pisco
21-08-2007, 03:52 PM
Thời trung thế

Thời kỳ Kamkura

Thời kỳ Kamakura (鎌倉時代 | Liêm Thương thời đại) kéo dài từ năm 1185 đến năm 1333.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/c/c7/Mokoshuraiekotoba.jpg
Samurai Nhật Bản tấn công thuyền chiến Mông Cổ năm 1281.

Minamoto-no-Yoritomo được bổ nhiệm làm Seiji-Taishogun (Chinh di đại tướng quân). Thành lập Mạc phủ ở Kamakura. Phát triển nông nghiệp nhờ sử dụng súc vật kéo. Thu hoạch vụ mùa nửa năm một lần. Bổ nhiệm chức vụ shugo và jito. Giáo phái Phật giáo Jodo phát triển. Giáo phái Thiền tông du nhập từ Trung Quốc. Sau cái chết của Yoritomo, gia đình Hojo trở thành các quan nhiếp chính trong chế độ shogun. Dòng dõi Minamoto chẳng bao lâu kết thúc, nhưng gia đình Hojo vẫn tiếp tục làm các quan nhiếp chính, kiểm soát cả các Nhật hoàng lẫn các shogun. Giáo phái Phật giáo Nichiren (hoặc Hokke) phát triển. Truyện kể Heike với âm hưởng về lẽ sinh tử vô thường của cuộc đời được viết. Samurai ngày càng trở nên có nhiều quyền lực ở các vùng trang ấp. Vào giai đoạn cuối của thời kỳ này, Nhật hoàng Godaigo nhanh chóng khôi phục lại luật lệ hoàng gia nhưng thất bại trong việc đạt được quyền kiểm soát thích đáng và bị lật đổ bởi người trước đó đã từng giúp ông là chiến binh Ashikaga Takauji - người đã đưa Komyo lên ngai vàng thay thế Godaigo. Godaigo bỏ trốn và lập ra một triều đình ở Yoshino kình địch với triều đình Komyo ở Kyoto. Hai triều đình, Bắc và Nam, sau đó tiếp tục tồn tại trong 57 năm.

Năm 1272 và 1281, quân Mông Cổ hai lần tấn công Nhật Bản. Yêu cầu thống nhất lòng dân để bảo vệ lãnh thổ trở nên cấp thiết. Lần thứ nhất, với sự dũng cảm của các chiến binh, sự vững trãi của các thành trì duyên hải và sự giúp đỡ của thời tiết, quân Mông Cổ đổ bộ lên bờ đều bị đánh bại. Lần thứ hai, khi các thành trì đã có thể bị chọc thủng, hạm đội hùng mạnh của quân Mông Cổ trên biển lại bị trận bão cực lớn đánh chìm, kết thúc mộng chinh đông của hoàng đế Nguyên Mông. Người Nhật sau tôn kính gọi trận bão này bằng một cái tên sẽ khắc ghi mãi mãi vào lịch sử là Thần Phong (kamikaze).


Thời kỳ Nanbokuchō

Thời kỳ Nanbokuchō (南北朝時代 | Nam - Bắc triều)
http://www.h3.dion.ne.jp/~siro/goryuujyou/image891.jpg


Kéo dài từ năm 1336 đến năm 1392. Dù thành công trong nỗ lực chống quân Nguyên Mông giai đoạn trước, nhưng cuộc chiến với kẻ thù không cân sức đến từ lục địa đã đẩy đất nước tới những khó khăn và phân rã sau này, khi phải giải quyết những vấn đề của giai đoạn hậu chiến. Lòng dân ly tán, triều đình phân liệt. Bắc triều do Ashikaga Takauji thành lập ở Kyoto. Nam triều do hoàng đế Godai-go cai trị đầu tiên ở Yoshino (Nara). Giữa hai triều đình liên tục nổ ra những cuộc chiến nhằm duy trì và củng cố quyền lực, về sau Nam triều thất bại.

Thời kỳ Muromachi

Thời kỳ Muromachi (室町時代 | Thất Đinh thời đại) kéo dài từ năm 1392 đến năm 1573.
http://www.k3.dion.ne.jp/~rittu/LOVELOG_IMG/89D48CE48F8A.jpg
室町時代の学者である中原康富の

Chế độ shogun Ashikaga (hoặc Muromachi) bắt đầu bằng việc triều đình phía Bắc phong cho Ashikaga Takauji tước hiệu Seii-Taishogun. Tổng hành dinh được thành lập tại Muromachi ở Kyoto. Với việc hai triều đình Bắc - Nam hợp nhất lại vào năm 1392, chế độ tướng quân này cuối cùng hoàn toàn được thừa nhận. Samurai vẫn tiếp tục làm xói mòn quyền lực của giai cấp quý tộc tại các thái ấp (shoen). Chính quyền shogun bổ nhiệm một số người giữ chức shugo như đã có từ thời chính quyền shogun Kamakura. Tuy nhiên, những người này không phải là tùy tùng của Ashikaga, họ hành động vì lợi ích của chính họ, phát triển thành các thủ lĩnh shugo-daimyo của samurai địa phương với quyền hành riêng. Uy quyền của chế độ shogun không ngừng bị giảm sút do ảnh hưởng bởi sự yếu kém của triều đình. Tuy vậy, các môn nghệ thuật như cắm hoa, trà đạo, v.v. lại phát triển. Các bộ môn Kịch Nô, Kyogen ở giai đoạn cực thịnh. Nghệ thuật thư họa bằng cây cọ và mực Tàu, nghệ thuật tranh nhiều màu sắc rực rỡ theo trường phái Kano phát triển. Kết thúc thời kỳ này là cuộc chiến tranh Onin. Sau đó chế độ shogun hầu như mất toàn bộ quyền kiểm soát, dẫn đến thời kỳ của các cuộc nội chiến. Mặc dù vậy, thời kỳ này đã chứng kiến sự phát triển của nghề cá, khai thác mỏ, buôn bán, v.v. Các thị trấn phát triển xung quanh các thành trì, đền chùa và hải cảng.

Thời kỳ Senkoku

Thời kỳ Senkoku (戦国時代 | Chiến quốc thời đại) kéo dài từ năm 1493 đến năm 1573.
https://bookweb.kinokuniya.co.jp/imgdata/large/4054032818.jpg
戦国時代用語辞典

Đây là thời kỳ đầy rẫy những bất ổn định chính trị, xã hội và chiến sự. Khắp Nhật Bản, các lãnh chúa đều chiêu mộ võ sĩ, xây dựng lực lượng riêng và đánh chiếm lẫn nhau. Các tổ chức tôn giáo có những tín đồ sẵn sàng tử vì đạo cũng nổi dậy chiêu mộ nông dân, và chiến đấu giành quyền lực với các daimyo.

Quyền lực dần dần chuyển từ trên xuống dưới: từ Shogun đến gia đình Hosokawa (cấp dưới của shogun), đến gia đình Miyoshi (cấp dưới của Hosokawa) và cuối cùng là gia đình Matsunaga (cấp dưới của Miyoshi). Quyền lực của shugo-daimyo tăng lên, thay thế tầng lớp quý tộc cũ kiểm soát các thái ấp. Họ cố thủ trong các khu vực của mình và tìm cách mở rộng quyền lực.

Thời kỳ Azuchi-Momoyama
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/86/NanbanGroup.JPG
Một nhóm người Bồ Đào Nha ở Nhật Bản, thế kỷ 17.

Thời kỳ Azuchi-Momoyama (安土桃山時代 | An Thổ - Đào Sơn thời đại) kéo dài từ năm 1573 đến năm 1603. Đây là thời kỳ thống nhất đất nước. Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi là hai nhà quân sự lỗi lạc có công đầu.

Oda Nobunaga trục xuất viên shogun Ashikaga cuối cùng và thành công trong việc thống nhất một khu vực quan trọng của đất nước. Sau khi ông chết do bị phản bội, công việc của ông được người tùy tùng trung thành tên là Toyotomi Hideyoshi kế nghiệp và hoàn thành.

Trong thời kỳ này, những người châu Âu đầu tiên đã đến Nhật Bản, mang theo súng ống và Cơ đốc giáo. Việc buôn bán với nước ngoài bắt đầu. Đạo Cơ đốc và việc buôn bán với nước ngoài phát triển mạnh mẽ dưới thời Oda và vào đầu thời Toyotomi, nhưng cuối cùng Toyotomi nghi ngờ những tham vọng về đất đai của người châu Âu và đã ra lệnh trục xuất những người truyền giáo. Mặc dù vậy, việc buôn bán vẫn tiếp tục.

Toyotomi Hideyoshi đưa quân xâm chiếm Triều Tiên. Cuộc viễn chinh sau những thành công lớn bước đầu đập tan các đạo quân kháng cự yếu ớt và kiểm soát nhiều phần rộng lớn thuộc lãnh thổ Triều Tiên, cuối cùng lại thất bại nặng nề. Sự thất bại này, bên cạnh nguyên nhân do Triều Tiên, đương thời là phiên thuộc Trung Hoa, đã nhờ quân đội Trung Hoa giúp sức, thì nguyên nhân lớn là do lực lượng hải quân Nhật Bản giai đoạn này còn yếu. Những chiến thuyền còn nhỏ và kinh nghiệm hải hành còn thiếu, kế hoạch đổ bộ của các đạo quân lên bán đảo Triều Tiên không khớp nhau đã dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong phối hợp giữa các cánh quân. Sau này người Nhật đã rút kinh nghiệm và lưu ý đến việc xây dựng hải quân hùng mạnh hơn.

Trường phái hội họa Kano và trà đạo đạt tới giai đoạn hoàng kim.

Sau khi Toyotomi Hideyoshi chết, quyền lực bị Tokugawa Ieyasu thâu tóm.

pisco
21-08-2007, 03:53 PM
Thời cận thế

Thời kỳ Edo



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4d/Tokyo_Edo_Castle_base.jpg
Nền đá của tháp chính trong thành Edo, nơi các Shogun Tokugawa ở.

Thời kỳ Edo (江戸時代 | Giang Hộ thời đại), còn gọi là thời Tokugawa, kéo dài từ năm 1603 đến năm 1868.

* Sơ kỳ Edo (1603 đến đầu thế kỷ 18)

1600, Tokugawa Ieyashu đánh bại liên quân 40 Daimyo miền Tây tại Shekigahara và nắm chính quyền. Tokugawa được bổ nhiệm làm shogun (cả Oda Nobugana lẫn Toyotomi Hideyoshi đều không cố gắng trở thành shogun mà chỉ duy trì quyền lực qua các vị trí chính thức tại triều đình). Các daimyo chống đối gia đình Tokugawa đều bị chuyển tới các thái ấp ở những vùng xa trung tâm và bị ép phải dùng phần lớn của cải của họ để làm đường và các dự án khác, bị buộc phải luân phiên di chuyển hàng năm giữa Edo và thái ấp của mình, để lại gia đình làm con tin lâu dài ở Edo. Các thái ấp được những người tùy tùng của shogun cai quản, tuy nhiên quyền lực ở đây rất lớn. Thành lập bộ luật hợp pháp cho các gia đình quý tộc, tạo điều kiện cho chế độ shogun kiểm soát triều đình và hoàng đế. Hệ thống 4 đẳng cấp shinokosho(sĩ nông công thương) được thừa nhận, cùng với việc hôn nhân giới hạn trong những người ở cùng một đẳng cấp. Ở từng đẳng cấp, mối quan hệ chủ-tớ phong kiến được thiết lập. Chế độ shogun Tokugawa được cấu thành vững chắc từ hệ thống này và được biết tới dưới tên gọi bakuhan (kết hợp shogun và chủ thái ấp). Buôn bán và đạo Cơ đốc một lần nữa lại phát triển thịnh vượng trong thời gian ngắn, tuy nhiên, cũng như Hideyoshi, Ieyasu ngày càng e ngại đạo Cơ đốc và bắt đầu những biện pháp đàn áp với mức độ ngày càng tăng. Tới thời kỳ của shogun Tokugawa thì đạo Cơ đốc hoàn toàn bị cấm tại Nhật Bản. Những người Nhật Bản theo đạo Cơ đốc bị hành hình. Các thương gia, trừ người Hà Lan và người Trung Hoa, đều bị cấm tới Nhật Bản, và người Hà Lan bị hạn chế chỉ cho phép đến một hòn đảo nhỏ ở cảng Nagasaki.

Cùng với việc thống nhất đất nước, quyền lực của chế độ shogun được củng cố, việc cai trị tập trung, công nghiệp và nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, giao thông được cải thiện, đem lại sự thịnh vượng cho buôn bán và thương mại nội địa. Các thị trấn mọc lên ngày càng nhiều và rất hưng thịnh, đặc biệt là các đô thị quanh cung điện. Giới thương gia trở nên giàu có, và từ tầng lớp này xuất hiện những hình thức nghệ thuật mới, bao gồm thơ haiku mà Matsuo Basho là người khai sáng, tiểu thuyết bình dân của Ihara Saikaku, kịch của Chikamatsu Monzaemon, các bản tranh khắc gỗ, kịch Ca vũ kỹ được dàn dựng lần đầu tiên ở Kyoto vào đầu thời kỳ này, sau đó hạn chế chỉ dành cho diễn viên nam, bắt đầu được diễn ở Edo và Osaka vào cuối thế kỷ 17.

* Trung kỳ Edo (Đầu thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19)

Hệ thống bakuhan không ngừng suy yếu do sự tập trung của cải vào tay giới thương gia. Chế độ shogun gặp phải những khó khăn tài chính, samurai và nông dân rơi vào cảnh nghèo khó. Đã có các nỗ lực nhằm cải cách chế độ shogun, nhưng do vẫn duy trì chính sách thả lỏng việc tư nhân kinh doanh nên tình trạng suy vong ngày càng nặng nề. Nạn đói kém và thảm hoạ thiên nhiên, cộng thêm sưu cao thuế nặng (đối với lúa gạo) mà chế độ shogun và daimyo bắt người dân gánh vác đã biến những người nông dân và các tầng lớp dân thường khác thành nghèo khổ. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân xuất hiện. Lĩnh vực văn hoá chứng kiến sự nở rộ cuối cùng của nền văn hoá Edo. Các truyện ngắn theo xu hướng phóng đãng, truyện tình lịch sử, nghệ thuật đóng kịch Kabuki, các loại tranh và bản in gỗ gồm nishiki-e (bản in tranh nhiều màu) được phát triển. Giáo dục được truyền bá vào tầng lớp thương gia và thậm chí cả những nông dân tại terakoya. Phát triển các trường kokugaku (Quốc học), một xu hướng giáo dục thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa và trở lại các truyền thống quốc gia. Rangaku (Lan học) - việc nghiên cứu các tác phẩm khoa học khác nhau du nhập từ phương Tây qua các thương nhân Hà Lan như địa lý, y học, thiên văn, vật lý, hoá học cũng dần dần phát triển.

* Hậu kỳ Edo (Đầu thế kỷ 19 đến 1868)

Suốt giai đoạn đầu Edo, những người nước ngoài đủ loại đã đặt chân lên đất Nhật Bản, nhưng phải đến sau chuyến viếng thăm của thuyền trưởng Perry năm 1853 nhân danh Tổng thống Mỹ đề nghị mở cửa đất nước để buôn bán, các lực lượng trong và ngoài Nhật Bản mới dần dần ép nhà nước phải từ bỏ chính sách bế quan tỏa cảng. Chế độ shogun quyết định buôn bán với các dân tộc khác. Mặc dù xung đột quyền lực giữa shogun và các lực lượng hoàng gia đã đem lại thắng lợi cho những người ủng hộ Nhật hoàng - những người đã công khai chống đối chính sách này - nhưng sau khi shogun sụp đổ, họ đã ủng hộ chính sách buôn bán với nước ngoài và việc đổi mới đất nước.


Thời cận đại

Thời kỳ Meiji

Thời kỳ Minh Trị

Thời kỳ Meiji (明治時代 | Minh Trị thời đại) kéo dài từ năm ngày 25 tháng 1 năm 1868 đến ngày 30 tháng 7 năm 1912, gần như tương ứng với thời kỳ tại vị của Thiên hoàng Minh Trị.

* Cải cách Minh Trị

http://www6.ocn.ne.jp/~kohryoh/album/pica002.jpg
明治時代の予備門展望

Các thái ấp phong kiến bị bãi bỏ và thay thế bằng hệ thống quản lý hành chính theo cấp tỉnh. Quyền lực tập trung trong tay Thiên hoàng. Các đẳng cấp trong xã hội phong kiến bị huỷ bỏ. Quân đội quốc gia và việc tuyển quân, chế độ thuế mới, hệ thống tiền tệ theo hệ thập phân, mạng lưới đường sắt, cùng các hệ thống thư tín, điện thoại, điện báo được thiết lập. Công nghiệp hiện đại được khởi đầu với các nhà máy do nhà nước xây dựng và điều hành, sau này được chuyển sang sở hữu tư nhân. Việc cải cách gặp phải sự chống đối đáng kể nhưng đều bị dẹp yên. Quan hệ buôn bán với Triều Tiên và Trung Quốc được thiết lập. Nhà nước đã nỗ lực hết sức để sửa đổi những hiệp ước bất bình đẳng đã được ký kết với các nước phương Tây.

* Phong trào tự do dân quyền

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/c/ce/Battle_of_Pyongyang_by_Mizuno_To.jpg
Quân Nhật đánh bại quân Triều Tiên năm 1894

Đạo Phật và Thần đạo, sau thời gian dài hợp nhất, đã chính thức tách ra. Thần đạo được lấy làm nền tảng tư tưởng của hoàng gia. Việc cấm đạo Cơ đốc được huỷ bỏ. Các trường học mới theo phong cách phương Tây được lập nên ở khắp nơi, không phân biệt đẳng cấp, tài sản hay giới tính. Các lý tưởng về tự do, chủ nghĩa xã hội, bình đẳng cũng du nhập vào từ phương Tây và khá hưng thịnh trong một thời gian ngắn. Nhu cầu ăn mặc và nhiều vấn đề khác trong đời sống hàng ngày chịu ảnh hưởng của phương Tây.

Năm 1885, Nội các được thành lập. Thủ tướng đầu tiên là Ito Hirofumi. Việc kêu gọi thành lập một chính phủ lập hiến dẫn tới sự ra đời của Nghị viện quốc gia và việc ban hành hiến pháp. Nghị viện tuy nhiên chỉ có ít quyền lực thực tế.

Năm 1889, Hiến pháp Đại đế quốc Nhật Bản được quốc hội thông qua và có hiệu lực vào năm sau.

* Hoạt động quân sự

Năm 1874, do tranh cãi với Đài Loan ở quần đảo Ryukyu năm 1871, Nhật Bản xuất binh đánh chiếm Đài Loan. Năm 1875, đánh Triều Tiên, buộc nước này phải mở cửa cho hàng hóa của Nhật Bản. Do Trung Quốc tranh chấp ảnh hưởng của Nhật đối với Triều Tiên, tháng 7 năm 1894, chiến tranh Thanh-Nhật nổ ra tại bán đảo Triều Tiên; đến tháng 4 năm sau thì kết thúc với thắng lợi thuộc về Nhật.

Năm 1894, hiệp ước bất bình đẳng với Anh trong buôn bán được sửa đổi và các hiệp ước với những quốc gia khác cũng sửa đổi theo cho phù hợp.

Sau thắng lợi của Nhật trước Trung Quốc, Nga, Đức và Pháp ép Nhật phải từ bỏ một số quyền lợi do lo ngại Nhật bành trướng lấn Nga, tạo ra mâu thuẫn lâu dài và sâu sắc giữa Nhật và các nước trên. Liên minh Nhật - Anh hình thành. Năm 1904, Chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ tại Mãn Châu và kết thúc năm 1905 sau Hải chiến Tsushima với thắng lợi thuộc về người Nhật.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/c/c0/Port_Arthur_MTB_attack.jpg
Chiến hạm Nhật đánh chìm Hạm đội Nga ở Port Athur 1904

Năm 1909, Nhật Bản quyết định chiếm Triều Tiên và thực hiện điều đó ngay trong năm 1910.
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi Thế chiến thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần 5 lần diện tích quốc gia.
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi Thế chiến thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần 5 lần diện tích quốc gia.

pisco
21-08-2007, 03:54 PM
Thời kỳ Taishō


http://faculty.washington.edu/tmack/images/taisho.gif
The Taishô Emperor, whose reign (1912-26) determines this dubious framing of literary history.


大正時代の日本に
ジャズボーカルを響かせた男

 二村定一は下関に生まれ、大正時 、アメリカン

ジャズを日本語で歌った歌を日本で 初にレコード
きみこい
に吹き込みました。「君恋し」など 、当時20万枚を

こ超える大ヒットをとばし、「日本 性流行歌手第

一号」としての地位を固めています
じんじょう
 定一は、養治尋常小学校に入学の 、名池尋常小
tp://www.city.shimonoseki.yamaguchi.jp/kyoiku/shidoka/hurusato/www00/image/j2_fut04.jpg
学校開校のため転校、下関高等小学 (現在の日新

中学校)を卒業しました。どの教科 成績もとても
ゆうしゅう
優秀だったそうです。

 小さい頃は、やたら大きな声で歌 歌ったりする

「変わり者」呼ばわりされることも りました。し
  のうぶたい ようきょく
かし、当時亀山八幡宮の能舞台で行 れていた謡曲
  てい
の大会では、いつも「定ちゃん」が うとみんなが

その素晴らしさにため息をついてい そうです。
どくがく
 定一の素晴らしさは、音楽の力を 学で身につけ

その才能を開花させたことです。レ ードを持って

いる近所の友達の家によく通ってい という話があ
しがん
ります。浅草オペラに弟子入り志願 る前にギター

を弾いている写真があるということ 、その頃より

独学で音楽のことを勉強していたの しょう。当時
がくふ
楽譜の読める歌手というのは少なか たようです。

外国の曲に日本語の歌詞をつけて歌 流行歌手第一

号になったのも、「定一が楽譜を読 ことができた

から。」という話があります。



名池尋常小学校時代
http://www.city.shimonoseki.yamaguchi.jp/kyoiku/shidoka/hurusato/www00/image/j2_fut03.jpg
浅草オペラに入る前



Thời kỳ Taishō (大正時代 | Đại Chính thời đại) (1912 – 1926) là thời kỳ Nhật hoàng Taishō trị vì. Trong chính sử thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ dân chủ Taishō, theo tên kỷ nguyên và chính sách của chính quyền ban hành nhằm nỗ lực cởi mở hơn với phương Tây.

Thời kỳ này chứng kiến Thế chiến thứ nhất. Cuộc chiến tranh này đã thúc đẩy kinh tế và buôn bán của Nhật Bản phát triển. Nhật Bản đồng thời cũng chiếm được đất đai ở Trung Hoa và Nam Thái Bình Dương, nhưng lại làm cho các quốc gia phương Tây ngờ vực. Nhật Bản đầu tư vốn vào Trung Hoa. Trong chiến tranh, các cuộc thương lượng ngoại giao quốc tế được tiến hành để cố gắng duy trì sự cân bằng quyền lực. Ở Nhật Bản, các đảng phái chính trị trở nên mạnh hơn, ngoại trừ Đảng Cộng sản Nhật Bản bị khủng bố buộc phải rút vào hoạt động bí mật, các lý tưởng dân chủ chiếm ưu thế. Sau cùng, dù sao, sự khủng hoảng của nền kinh tế hậu chiến trên thế giới đã ảnh hưởng bất lợi tới các nhà kinh doanh Nhật Bản, đồng thời trận động đất Kanto dữ dội vào năm 1923 đã làm cho nên kinh tế thêm khó khăn. Tình trạng thất nghiệp, đồng lương sụt giảm và tranh chấp việc làm luôn xảy ra. Phong trào xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế.



Thời hiện đại

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/e/e6/Japanese_Empire.png

Sơ kỳ Shōwa

Giai đoạn đầu thời kỳ Shōwa (昭和時代 | Chiêu Hòa thời đại) tính từ lúc Nhật hoàng Showa lên trị vì năm 1926 đến khi Thế chiến thứ hai kết thúc năm 1945.

Suy thoái kinh tế và bế tắc ngoại giao. Xuất khẩu giảm sút. Phá sản xảy ra thường xuyên, nhiều người thất nghiệp. Chính sách kiềm chế của Mỹ đối với Nhật Bản gia tăng gây nỗi bất bình lớn ở Nhật. Hiệp định Ishii-Lansing, thừa nhận quyền lợi đặc biệt của Nhật Bản ở Trung Hoa đã chấm dứt. Các dự thảo luật chống người nhập cư Nhật Bản ra đời và phong trào trục xuất người Nhật ở Trung Hoa lan rộng. Nội các không thể đối phó được vì các nhà chính trị và các Daibatsu đã chiếm độc quyền, bị thu hút bởi các lợi ích tài chính, mà quên mất quyền lợi quốc gia và sự đau khổ của nhân dân. Rắc rối lên đến đỉnh điểm ở cánh hữu gây ra những vụ ám sát và các hoạt động quân sự, dẫn tới chính sách mở rộng xâm lược ở Trung Hoa, rút khỏi Hội Quốc Liên và chủ nghĩa bành trướng của những người theo chủ nghĩa quân phiệt cánh hữu gia tăng. Sau này họ đã liên kết với chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã.

Từ năm 1940, Đế quốc Nhật đã xâm chiếm thêm các nước Đông Nam Á, bao gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Myanmar (Miến điện) và Brunei. Cuộc xâm lược này là nguyên khởi của chiến tranh Thái Bình Dương.

Hậu kỳ Shōwa (1945-1989)

Sự thất bại trong chiến tranh và sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt. Hứng chịu thảm họa bom nguyên tử lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Bắt đầu thời kỳ Nhật Bản bị chiếm đóng lần đầu tiên trong lịch sử. Vị trí tối cao của Thiên Hoàng không còn khi chế độ quân chủ nghị viện được thiết lập và Hiến pháp hòa bình ra đời. Tiến hành các cải cách dân chủ, xây dựng lại nền công nghiệp bị tàn phá. Hiệp ước San Francisco có hiệu lực.

Sau khoảng 10 năm hậu chiến, Nhật Bản đã đạt được các kỳ tích về kinh tế và đời sống của nhân dân được nâng cao. Kỷ niệm 100 năm (1868-1968) Duy Tân Minh Trị Kawabata Yasunari, nhà văn Nhật Bản, được trao giải Nobel văn học. Bước phát triển kinh tế ngoạn mục đem đến cho Nhật Bản vai trò quốc tế như một quốc gia thương mại và dần dần trở thành nước có tiềm lực kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, sau Mỹ. Xảy ra vụ bê bối Lockheed, chính trường xáo trộn, đồng yên tăng giá và buôn bán thặng dư trở thành một vấn đề quốc tế. Đã diễn ra những sự kiện trọng đại trong đời sống kinh tế, xã hội Nhật Bản: Khai trương mạng lưới tàu Shinkansen (Tokaido, San'yo, Tohoku, Kan'etsu), chia tách và tư hữu hoá đường sắt quốc gia, mở đường hầm Seikan, khai trương cầu Sento Ohashi, vụ bê bối Recruit.

Thời kỳ Heisei

Thời kỳ Heisei (平成時代 | Bình Thành thời đại) bắt đầu từ năm 1989. Một số học giả Tây phương cho rằng Heisei đánh dấu mốc Nhật Bản bước vào kỷ nguyên hậu hiện đại.

Chiến tranh vùng Vịnh, hoạt động chính trị bị hỗn loạn, vụ bê bối Sagawa Kyubin (佐川急便) đã xảy ra. Hoạt động giữ gìn hoà bình của Liên hiệp quốc được triển khai. Lực lượng phòng vệ được cử đến Campuchia và Mozambique. Xảy ra trận động đất Hanshin-Awaji (阪神淡路大震災). Đây là thời kỳ ghi dấu bởi những giai đoạn trì trệ kinh tế và những bước hồi phục chậm chạp. Nhật Bản bước vào thế kỷ XXI với những thay đổi vị thế trên trường quốc tế, nhấn mạnh hơn đến vị trí chính trị và quân sự, đặc biệt là việc đưa quân ra nước ngoài và thành lập Bộ quốc phòng thay cho Cục phòng vệ quốc gia vào ngày 9 tháng 1 năm 2007.











*********** Bài viết có tham khảo tại http://vi.wikipedia.org và www.google.com.vn ******************************

KHA
21-08-2007, 05:09 PM
Thank đã post kỳ công vậy :D
Lần sau ảnh to quá bạn chỉ nên để link thôi - hoặc up vào host nào có thumb thì sẽ dễ nhìn hơn, load cũng nhanh hơn.

pisco
21-08-2007, 09:19 PM
ok!



Mình sẽ rút kinh nghiệm cho lấn sau.

lao_con_phong_d
31-08-2007, 12:09 PM
Đọc mấy thời kỳ sau còn thấy hay chứ, mấy thời kì đầu đầu j ấy, trước công nguyên đến Việt Nam còn chẳng nhớ được nữa là Nhật.
Dù sao cũng cảm ơn bác đã góp công sức cho diễn đàn. Tổ quốc ghi tên bác

yuki_yuki_93
31-08-2007, 12:15 PM
pisco post kỳ công thật, hồi kỳ vô nhà sách Nguyễn Văn Cừ cũng thấy 1 cuốn về lịch sử Nhật, nội dung cũng tựa tựa mí bài pác Pisco post, đọc cũng được vài trang thì phải về, giá khoảng 50k thì phải, định để dành tiền mua thử về coi.

yummy_lady
03-01-2011, 05:57 PM
ko hiểu sao ng` nhật lại có thể khai quật được lịch sử nước họ lâu đến vậy nhỉ?

meomaydrmi
13-12-2012, 05:43 PM
Mình định học tiếng Nhật, mà bước đầu tiên vấp phải cái lịch sử hoành tráng quá, mình lịch sử Việt Nam còn chưa sõi, giờ lại ngồi đọc lịch sử Nhật Bản thế này:18-hot:

kenlove86
12-01-2013, 02:38 PM
bài viết rất công phu , mình mới học tiếng nên sẽ đọc hết bài viết của bạn. thanks