Kasumi
16-05-2007, 11:32 PM
Với tư cách nhà văn, ông truyền đạt một sự am hiểu văn hóa, đạo đức - mỹ học bằng một nghệ thuật độc nhất vô nhị, qua đó góp phần vào việc xây dựng cây cầu nối tinh thần giữa phương Đông với phương Tây.
Kawabata Yasunari (11/6/1899 - 16/4/1972)
Giải Nobel văn học 1968
* Nhà văn Nhật Bản
* Nơi sinh: Osaka (Nhật Bản)
* Nơi mất: Kamakura (Nhật Bản)
http://img441.imageshack.us/img441/8017/images1310801kawabata1wg2.jpg (http://imageshack.us)
Kawabata Yasunari
Kawabata Yasunari được trao giải vì những tác phẩm xuất sắc trong đó kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống nghệ thuật Nhật Bản với các thủ pháp cách tân hiện đại của Phương Tây để truyền tải bản chất của ý thức Nhật Bản. Các tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô là những kiệt tác tiêu biểu cho sáng tác của ông, lấy nỗi cô đơn của con người làm chủ đề chính, được đánh giá rất cao ở trong và ngoài nước.
Kawabata Yasunari, theo âm Hán Việt là Xuyên Đoan Khang Thành, sinh ra trong một gia đình học thức và giàu có. Cha ông là bác sĩ, nhưng mất khi ông mới 2 tuổi. Một năm sau mẹ ông cũng qua đời, Kawabata phải sống với ông bà. Sau khi ông bà mất, ông sống với họ hàng.
Năm 1920 Kawabata vào học ở khoa Văn học Anh của trường Đại học Tổng hợp Tokyo, lên năm thứ hai ông chuyển sang nghiên cứu văn học Nhật Bản. Ông ra tạp chí sinh viên và viết bài phê bình cho các báo Tokyo.
Sau tốt nghiệp đại học (1924) Kawabata trở thành một trong những nhà sáng lập tạp chí văn học Văn nghệ thời đại (Bungei Jidai), đại biểu cho trào lưu Cảm giác mới (Shinkankakuha) theo định hướng văn học và văn hóa tiên phong Châu Âu, phủ nhận chủ nghĩa tự nhiên, cổ xúy cho những thử nghiệm phong cách và đặt cảm xúc và cảm giác vào trung tâm chuyện kể.
Năm 1927 truyện ngắn Vũ nữ Izu là thành công văn chương đầu tiên của Kawabata, kể về mối tình lãng mạn của một chàng sinh viên với nàng vũ nữ trẻ - biểu tượng của cái đẹp trinh bạch, vô tội.
Mặc dù tự thừa nhận mình chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực phương Tây, Kawabata vẫn lấy văn chương cổ điển Nhật Bản làm nền tảng. Từ những năm 1930 sáng tác của Kawabata trở nên truyền thống hơn. Năm 1934 ông bắt đầu viết Xứ tuyết (hoàn thành năm 1947) kể về mối tình vô vọng của một cô geisha với một chàng trai thành phố. Qua tác phẩm này và tiểu thuyết xuất sắc Ngàn cánh hạc (1949), Kawabata thể hiện nghệ thuật bậc thầy trong miêu tả tâm lí phụ nữ. Bằng văn phong đặc biệt xúc cảm với những miêu tả trữ tình về cuộc sống thiên nhiên và số phận con người u ẩn nỗi buồn tinh tế, nhà văn gợi nên sự thoáng chốc và ngắn ngủi của cuộc đời.
Những năm Thế chiến II nhà văn cố gắng không quan tâm đến các vấn đề chính trị, dành nhiều thời gian đi du lịch và nghiên cứu. Các tác phẩm quan trọng thời kì sau chiến tranh Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1954) và Cố đô (1962) đã tôn vinh Kawabata như một nhà văn lớn của Nhật Bản thời hiện đại.
Năm 1948 đến 1965 Kawabata giữ chức vụ chủ tịch Hội Văn bút Nhật Bản, sau năm 1959 ông là phó chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế.
Năm 1953 Kawabata trở thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nhật Bản. Năm 1959 ông được tặng Huân chương mang tên Goethe tại Frankfurt.
Năm 1968 Kawabata là nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel Văn học vì "với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mĩ và đạo đức cao bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông - Tây theo cách của ông" (Giới thiệu giải Nobel Văn học năm 1968 của Viện Hàn lâm Thụy Điển).
Bốn năm sau, nhà văn 72 tuổi tự sát bằng khí gas tại nhà riêng. Đây là một điều bất ngờ và trớ trêu của số phận, bởi vì Kawabata luôn phê phán việc tự sát. Do Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh nên người ta không biết động cơ thực sự trong cái chết của ông.
Trong số tác phẩm Kawabata để lại, ngoài tiểu thuyết, truyện ngắn, còn có nhiều "truyện ngắn trong lòng bàn tay”.
Kawabata là một trong những nhà văn Nhật Bản được dịch nhiều nhất ở Việt Nam; có những tác phẩm của ông có đến vài bản dịch.
* Tác phẩm:
- Lễ chiêu hồn (Shokogai ikai, 1920), truyện ngắn.
- Thư gửi mẹ cha (Fubo e no tergami), tự truyện.
- Cảm giác của cô nhi (Koji no kanjou), tự truyện.
- Bậc thầy tang lễ (Soshiki no meijin), tự truyện.
- Thiếu niên (Shonen), tự truyện.
- Tên cha (Chichi no na), truyện ngắn.
- Dầu lửa (Abura), truyện ngắn.
- Cái nhìn cuối cùng (Matsugo no me), tùy bút.
- Người tái hôn (Saikonsha), tùy bút.
- Thanh âm trong suốt (Junsui no koe), tùy bút.
- Nhật kí tuổi mười sáu (Jurokusai no nikki, viết 1914, in 1925), nhật kí.
- Vũ nữ Izu (Izu no odoriko, 1927), truyện ngắn .
- Hồng đoàn Asakusa (Asakusa Kurenai-dan, 1930), tiểu thuyết.
- Cầm thú (Kinju, 1933), truyện ngắn.
- Xứ tuyết (Yukiguni, 1937), tiểu thuyết [Snow country].
- Ngàn cánh hạc (Sembazuru, 1949), tiểu thuyết [Thousand cranes].
- Tiếng rền của núi (Yama-no oto, 1949), tiểu thuyết [The sound of the mountain].
- Hồ (Mizuumi, 1954), (The lake, 1955), tiểu thuyết
- Người đẹp ngủ say (Nemu reru bijo, 1960), tiểu thuyết [The sleeping beauty].
- Cố đô (Kyoto, 1962), tiểu thuyết [The old capital].
- Cánh tay (Kataude, 1964), truyện ngắn.
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
- Rập rờn cánh hạc (nguyên tác: Sembazuru, tiểu thuyết), Nguyễn Tường Minh dịch, NXB Sông Thao, 1970.
- Ngàn cánh hạc, Trùng Dương dịch, NXB Trình Bày, 1969.
- Xứ tuyết, Chu Việt dịch, NXB Trình Bày, 1969.
- Vùng băng tuyết (nguyên tác: Yukiguni, tiểu thuyết), Giang Hà Vỵ dịch, NXB Mũi Cà Mau, 1988.
- Xứ tuyết, Vũ Đình Bình - Ngô Văn Phú dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1995.
- Cố đô, Thái Văn Hiếu dịch, NXB Hải Phòng, 1988.
- Tiếng rền của núi (tiểu thuyết), Ngô Quý Giang dịch, NXB Thanh Niên, 1989.
- Người đẹp say ngủ (tiểu thuyết), Vũ Đình Phòng dịch, NXB Văn Học, 1990.
- Kawabata cuộc đời và tác phẩm, Giang Hà Vị - Thái Văn Hiếu biên soạn, NXB Giáo Dục, 1997.
- Người đàn ông không cười, Vương Trí Nhàn dịch, in trong Con đường dưới ánh trăng, NXB Phụ Nữ, 1984; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997.
- Trăng soi đáy nước, Nguyễn Đức Dương dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1998.
- Sự sống dưới tấm mặt nạ, Xuân Tước dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004.
- Vịnh cánh cung, Vũ Đình Bình dịch, in trong 100 truyện ngắn hay thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004.
- Tuyển tập Kawabata, Ngô Quý Giang dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2001.
- Tiếng tre, hoa đào, Nguyễn Hòa dịch, in trong tập truyện ngắn Đồng đô la bất hạnh, NXB Lao Động, 1982; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997; Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004.
- Kẻ trộm hồ đào, Chiếc nhẫn, Trang điểm, Tình yêu đáng sợ, Cố hương, Gương mặt, Cao xanh lộng gió, Hiện hữu thần linh, Bình dễ vỡ, Miền ánh sáng, Tuyết, Gương mặt người chết, Hoàng Long dịch, in trong Truyện dịch Đông Tây (tập 5, tập 6), NXB Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005.
- Kawabata. Tuyển tập tác phẩm, nhiều người dịch, NXB Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005.
[I]© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
VNN
Kawabata Yasunari (11/6/1899 - 16/4/1972)
Giải Nobel văn học 1968
* Nhà văn Nhật Bản
* Nơi sinh: Osaka (Nhật Bản)
* Nơi mất: Kamakura (Nhật Bản)
http://img441.imageshack.us/img441/8017/images1310801kawabata1wg2.jpg (http://imageshack.us)
Kawabata Yasunari
Kawabata Yasunari được trao giải vì những tác phẩm xuất sắc trong đó kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống nghệ thuật Nhật Bản với các thủ pháp cách tân hiện đại của Phương Tây để truyền tải bản chất của ý thức Nhật Bản. Các tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô là những kiệt tác tiêu biểu cho sáng tác của ông, lấy nỗi cô đơn của con người làm chủ đề chính, được đánh giá rất cao ở trong và ngoài nước.
Kawabata Yasunari, theo âm Hán Việt là Xuyên Đoan Khang Thành, sinh ra trong một gia đình học thức và giàu có. Cha ông là bác sĩ, nhưng mất khi ông mới 2 tuổi. Một năm sau mẹ ông cũng qua đời, Kawabata phải sống với ông bà. Sau khi ông bà mất, ông sống với họ hàng.
Năm 1920 Kawabata vào học ở khoa Văn học Anh của trường Đại học Tổng hợp Tokyo, lên năm thứ hai ông chuyển sang nghiên cứu văn học Nhật Bản. Ông ra tạp chí sinh viên và viết bài phê bình cho các báo Tokyo.
Sau tốt nghiệp đại học (1924) Kawabata trở thành một trong những nhà sáng lập tạp chí văn học Văn nghệ thời đại (Bungei Jidai), đại biểu cho trào lưu Cảm giác mới (Shinkankakuha) theo định hướng văn học và văn hóa tiên phong Châu Âu, phủ nhận chủ nghĩa tự nhiên, cổ xúy cho những thử nghiệm phong cách và đặt cảm xúc và cảm giác vào trung tâm chuyện kể.
Năm 1927 truyện ngắn Vũ nữ Izu là thành công văn chương đầu tiên của Kawabata, kể về mối tình lãng mạn của một chàng sinh viên với nàng vũ nữ trẻ - biểu tượng của cái đẹp trinh bạch, vô tội.
Mặc dù tự thừa nhận mình chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực phương Tây, Kawabata vẫn lấy văn chương cổ điển Nhật Bản làm nền tảng. Từ những năm 1930 sáng tác của Kawabata trở nên truyền thống hơn. Năm 1934 ông bắt đầu viết Xứ tuyết (hoàn thành năm 1947) kể về mối tình vô vọng của một cô geisha với một chàng trai thành phố. Qua tác phẩm này và tiểu thuyết xuất sắc Ngàn cánh hạc (1949), Kawabata thể hiện nghệ thuật bậc thầy trong miêu tả tâm lí phụ nữ. Bằng văn phong đặc biệt xúc cảm với những miêu tả trữ tình về cuộc sống thiên nhiên và số phận con người u ẩn nỗi buồn tinh tế, nhà văn gợi nên sự thoáng chốc và ngắn ngủi của cuộc đời.
Những năm Thế chiến II nhà văn cố gắng không quan tâm đến các vấn đề chính trị, dành nhiều thời gian đi du lịch và nghiên cứu. Các tác phẩm quan trọng thời kì sau chiến tranh Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1954) và Cố đô (1962) đã tôn vinh Kawabata như một nhà văn lớn của Nhật Bản thời hiện đại.
Năm 1948 đến 1965 Kawabata giữ chức vụ chủ tịch Hội Văn bút Nhật Bản, sau năm 1959 ông là phó chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế.
Năm 1953 Kawabata trở thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nhật Bản. Năm 1959 ông được tặng Huân chương mang tên Goethe tại Frankfurt.
Năm 1968 Kawabata là nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel Văn học vì "với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mĩ và đạo đức cao bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông - Tây theo cách của ông" (Giới thiệu giải Nobel Văn học năm 1968 của Viện Hàn lâm Thụy Điển).
Bốn năm sau, nhà văn 72 tuổi tự sát bằng khí gas tại nhà riêng. Đây là một điều bất ngờ và trớ trêu của số phận, bởi vì Kawabata luôn phê phán việc tự sát. Do Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh nên người ta không biết động cơ thực sự trong cái chết của ông.
Trong số tác phẩm Kawabata để lại, ngoài tiểu thuyết, truyện ngắn, còn có nhiều "truyện ngắn trong lòng bàn tay”.
Kawabata là một trong những nhà văn Nhật Bản được dịch nhiều nhất ở Việt Nam; có những tác phẩm của ông có đến vài bản dịch.
* Tác phẩm:
- Lễ chiêu hồn (Shokogai ikai, 1920), truyện ngắn.
- Thư gửi mẹ cha (Fubo e no tergami), tự truyện.
- Cảm giác của cô nhi (Koji no kanjou), tự truyện.
- Bậc thầy tang lễ (Soshiki no meijin), tự truyện.
- Thiếu niên (Shonen), tự truyện.
- Tên cha (Chichi no na), truyện ngắn.
- Dầu lửa (Abura), truyện ngắn.
- Cái nhìn cuối cùng (Matsugo no me), tùy bút.
- Người tái hôn (Saikonsha), tùy bút.
- Thanh âm trong suốt (Junsui no koe), tùy bút.
- Nhật kí tuổi mười sáu (Jurokusai no nikki, viết 1914, in 1925), nhật kí.
- Vũ nữ Izu (Izu no odoriko, 1927), truyện ngắn .
- Hồng đoàn Asakusa (Asakusa Kurenai-dan, 1930), tiểu thuyết.
- Cầm thú (Kinju, 1933), truyện ngắn.
- Xứ tuyết (Yukiguni, 1937), tiểu thuyết [Snow country].
- Ngàn cánh hạc (Sembazuru, 1949), tiểu thuyết [Thousand cranes].
- Tiếng rền của núi (Yama-no oto, 1949), tiểu thuyết [The sound of the mountain].
- Hồ (Mizuumi, 1954), (The lake, 1955), tiểu thuyết
- Người đẹp ngủ say (Nemu reru bijo, 1960), tiểu thuyết [The sleeping beauty].
- Cố đô (Kyoto, 1962), tiểu thuyết [The old capital].
- Cánh tay (Kataude, 1964), truyện ngắn.
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
- Rập rờn cánh hạc (nguyên tác: Sembazuru, tiểu thuyết), Nguyễn Tường Minh dịch, NXB Sông Thao, 1970.
- Ngàn cánh hạc, Trùng Dương dịch, NXB Trình Bày, 1969.
- Xứ tuyết, Chu Việt dịch, NXB Trình Bày, 1969.
- Vùng băng tuyết (nguyên tác: Yukiguni, tiểu thuyết), Giang Hà Vỵ dịch, NXB Mũi Cà Mau, 1988.
- Xứ tuyết, Vũ Đình Bình - Ngô Văn Phú dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1995.
- Cố đô, Thái Văn Hiếu dịch, NXB Hải Phòng, 1988.
- Tiếng rền của núi (tiểu thuyết), Ngô Quý Giang dịch, NXB Thanh Niên, 1989.
- Người đẹp say ngủ (tiểu thuyết), Vũ Đình Phòng dịch, NXB Văn Học, 1990.
- Kawabata cuộc đời và tác phẩm, Giang Hà Vị - Thái Văn Hiếu biên soạn, NXB Giáo Dục, 1997.
- Người đàn ông không cười, Vương Trí Nhàn dịch, in trong Con đường dưới ánh trăng, NXB Phụ Nữ, 1984; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997.
- Trăng soi đáy nước, Nguyễn Đức Dương dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1998.
- Sự sống dưới tấm mặt nạ, Xuân Tước dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004.
- Vịnh cánh cung, Vũ Đình Bình dịch, in trong 100 truyện ngắn hay thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004.
- Tuyển tập Kawabata, Ngô Quý Giang dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2001.
- Tiếng tre, hoa đào, Nguyễn Hòa dịch, in trong tập truyện ngắn Đồng đô la bất hạnh, NXB Lao Động, 1982; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997; Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004.
- Kẻ trộm hồ đào, Chiếc nhẫn, Trang điểm, Tình yêu đáng sợ, Cố hương, Gương mặt, Cao xanh lộng gió, Hiện hữu thần linh, Bình dễ vỡ, Miền ánh sáng, Tuyết, Gương mặt người chết, Hoàng Long dịch, in trong Truyện dịch Đông Tây (tập 5, tập 6), NXB Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005.
- Kawabata. Tuyển tập tác phẩm, nhiều người dịch, NXB Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005.
[I]© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
VNN