-
CHƯƠNG 28
CÁI CHONG CHÓNG
Musashi ngồi yên lặng đợi đò ngang dưới mái hiên hẹp của một quán bán hải vị trông ra biển.
Ăn xong đĩa nghêu luộc mà người hắn nhờ đi mua dép cỏ vẫn chưa về, sốt ruột, hắn cởi miếng vải buộc vết thương ở chân ra. Chỗ đau đã xẹp nhiều, da xung quanh bàn chân bây giờ màu tím hồng và hơi nhăn. Không bị vướng víu khó chịu như trước, Musashi đứng dậy đi ra phía ghềnh đá vốc nước rửa. Buộc lại vết thương xong, trở về quán, hắn đã thấy dép và xà-cạp mới mua để ở đó từ bao giờ, bên túi hành trang chỗ hắn ngồi cũ.
Chủ quán nướng nghêu trong bếp, trông ra nhắc:
- Bác chân sào tìm khách quan đấy. Thuyền sắp rời bến rồi.
- Ồ vậy ư ? Để ta trả tiền và ra ngay bây giờ. Hôm nay ngày mấy rồi quán chủ ?
Chủ quán cười:
- Khách quan thật là hạnh phúc. Nghe hỏi, biết ngay chẳng nợ nần ai. Hôm nay hăm bốn, sắp hết năm rồi còn gì.
- Chà ! Thế mà ta cứ tưởng muộn, hăm bảy hăm tám gì đó !
Chủ quán lắc đầu:
- Thanh niên có khác, vô tư quá !
Musashi trả tiền xong, xỏ chân vào đôi dép mới, buộc vội dây xà-cạp rồi hối hả chạy ra bến. Hắn thấy dễ chịu quá, có thể đi bộ thêm được đến vài chục dặm. Từ tình trạng tàn tật bỗng nhiên trở thành khỏe mạnh, hắn yêu đời hẳn lên. Nhất là sự thành công của hắn trên đỉnh Đại Bàng sơn ngày hôm qua khiến hắn vô cùng tin tưởng vào ý chí mãnh liệt hắn có. Musashi hít mạnh một hơi dài:
không khí dường như nhẹ và thơm hơn, những bước chân trên cát của hắn vững vàng như những bước chân con tuấn mã.
Đò đã đầy người nhưng bác chân sào vẫn cố xếp cho hắn một chỗ ngồi gần mũi.
Biển lặng. Mặt nước trong xanh phẳng lỳ tựa tấm gương soi phản chiếu vài cụm mây lờ lững. Musashi nhìn về phía bến:
dẫy quán ven bờ, ngôi chợ cũ khuất dần trong tàn trắc xanh đen và xa xa là sơn đạo đi Matsuzaka, ngoằn ngoèo giữa những đám tuyết trắng chưa tan. Giá có thì giờ, có lẽ hắn cũng đi gặp Trúc Tử Hãn ở Matsuzaka, nhưng bây giờ thì muộn mất rồi. Hắn cần phải về Kyoto trước tết nguyên tiêu, nên tự hẹn sẽ tìm gặp vị kiếm sỹ này vào một dịp khác.
Vừa từ trên thuyền bước xuống, Musashi chú ý tới ngay một gã đàn ông trung niên đi trước, lưng giắt đoản côn, ngang hông đeo kiếm bao bằng da trâu. Gã trạc độ bốn mươi bốn hai, mày rậm, mắt lồi, mặt lại rỗ chằng chịt. Mớ tóc đỏ quạch buộc ngược về phía sau thành một túm, dáng điệu dữ dằn. Nếu không có thằng bé trạc độ trên mười tuổi vác túi đồ nghề thợ rèn theo sau thì ai cũng ngỡ là kẻ cướp.
Thằng bé má còn dính vệt than và mồ hóng, chắc là thợ phụ. Chân nó ngắn, đuổi không kịp bước của thầy nên thỉnh thoảng phải chạy. Chiếc túi vải gai đeo trên lưng to gần bằng mình nó kêu lịch kịch theo bước đi. Mỗi khi chạy, nó phải lấy tay đỡ túi cho khỏi va vào lưng. Đột nhiên thằng bé khựng lại la hoảng:
- Ý ! Thầy đợi con với. Con quên cái búa rồi !
Musashi phì cười. Nhưng gã đàn ông quay lại trừng mắt:
- Thật hay bỡn ?
- Dạ thật ! Con để quên trên thuyền.
- Hà ! Bây giờ mày lại quên cả đồ nghề độ nhật nữa. Muốn sống đi lấy ngay ! Bận sau mà quên nữa thì chết với ông !
Đứa bé líu ríu vâng lời, cắm cổ chạy.
Con đường từ bến tàu đến chợ chẳng thiếu gì quán bán các vật dụng linh tinh, nhất là đồ kỷ niệm. Thằng bé đi tìm búa quay trở lại không thấy thầy đâu, lo lắng nhìn quanh. Khi thấy gã đàn ông trong tiệm bán đồ chơi bước ra, tay cầm cái chong chóng bằng giấy sặc sỡ, mắt nó sáng lên vui sướng.
- Iwa !
Nghe gọi, thằng bé chạy vội lại.
- Mang cái này cho ta ! Có tìm thấy búa không.
- Dạ có. Con để trong túi rồi !
- Thầy mua cho bé Hồ nhi đấy à ?
- Ừ.
Hai thầy trò gã thợ rèn đi trước Musashi tuồng như dẫn đường cho hắn, vì hắn thấy hắn định rẽ phía nào thì họ cũng đã rẽ trước về phía ấy. Trông dáng điệu, y phục và những đồ nghề thằng bé mang theo, Musashi đoán mười phần chắc chín gã đàn ông là Tsujikaze Kohei, người thợ rèn xóm Ujii, nổi tiếng về ngón đòn với thứ võ khí cổ quái như cái hái do gã chế ra.
Muốn kiểm chứng và nhân thể tìm cơ hội làm quen, hắn rảo bước đến gần, niềm nở hỏi:
- Chào đại hiệp. Đại hiệp cũng đi Ujii đấy à ?
- Phải. Ngươi hỏi gì ?
- Phải chăng đại hiệp là Kohei ?
- Chính thị. Thế ngươi là ai ?
- Tại hạ tên Miyamoto Musashi, đi tìm thầy học võ. Mới đây qua quý xá, có được gặp lệnh khổn ...
- Á à ! Vậy ngươi đã gặp chuyết kinh đấy. Thế ngươi có phải là khách trọ Ở Yamada không ?
- Phải
Kohei mỉm cười ngạo mạn:
- Có người cho biết ngươi muốn tìm ta để học vài ngón sở trường. Vô ích ! Vô ích !
Thủ pháp của ta ngươi chẳng dùng được vào việc gì đâu.
- Sao vậy ?
- Vì vừa nhìn ra thì ngươi đã thành người thiên cổ rồi ! Ta phát lạc nhanh lắm !
Gã nói xong cười ha hả. Tiếng cười vang động cả khu rừng vắng. Musashi đã từng nghe vợ Tsujikaze thốt ra những lời như vậy, tuy lời không hẳn là thế, nhưng ý khinh miệt tương tự. Mụ vợ có vẻ hống hách, song chồng mụ xem ra còn kiêu căng hơn nhiều.
Hắn muốn dạy gã thợ rèn này một bài học ngay tại đây, nhưng nghĩ lại chẳng việc gì mà vội. Takuan đã cho hắn kinh nghiệm đầu tiên về cuộc đời:
đừng tưởng mình là nhất, gầm trời này thiếu gì kẻ hơn ta. Tự cao tự đại chỉ chuốc lấy những thất bại đau đớn. Trước khi thử sức với ai, hãy tìm hiểu và đánh giá kỹ địch thủ.
Nghe tiếng cười ngạo mạn của Tsujikaze vang động bên tai, Musashi chỉ lặng thinh. Lát sau hắn mới khiêm tốn:
- Tại hạ đã hiểu. Nhưng may mắn được gặp đại hiệp ở đây, tại hạ không muốn để lỡ dịp hạnh ngộ. Chỉ xin chỉ bảo cho vài điều về thứ binh khí kỳ dị.
- Ha ha ! Vậy ra ngươi cũng đã biết đến thứ võ khí ấy của ta sao ? Ai dạy ngươi biết ?
- Lệnh khổn đã chỉ cho một chiêu ...
- Được lắm ! Ta cũng thương ngươi thật lòng cầu học. Nếu chỉ muốn nghe ta nói thôi thì về nhà, ta nói rõ cho nghe.
- Đa tạ đại hiệp. Và cũng xin cho tá túc qua đêm.
- Được ! Nhưng ngươi phải ngủ trong bếp với thằng Iwa. Nhà ta không có chỗ dư.
Trời chiều đỏ rực, cả ba đến chân núi Suzuka. Xóm Ujii hiền lành nằm ở cuối con đường nhỏ, ráng hoàng hôn nhuốm hồng các mái tranh như trong một bức cổ họa.
Iwa chạy vội về nhà báo tin trước nên khi Tsujikaze đến ngõ đã thấy vợ bế con nhỏ ra cửa đứng đón, tay cầm chiếc chong chóng gió thổi quay tít.
Vợ Kohei vừa nựng con vừa chỉ vào chồng:
- Hồ nhi ! Bố kìa ! Bố đã về kìa !
Tsujikaze nhìn đứa bé, nét mặt tươi hẳn lên, vẻ thô lỗ kiêu căng biến mất. Gã bế đứa nhỏ trong tay, đong đưa rồi rúc đầu vào nách nó. Nó cười khanh khách. Tsujikaze cầm cái chong chóng dứ dứ trước mặt con. Nó nhoài người ra, tay quơ chân vẫy, và người mẹ cũng cười như nắc nẻ. Gã bế đứa nhỏ đi vào nha trong, vợ theo sau, để mặc cho Musashi đứng một mình ở ven cổng.
Cảnh gia đình êm ấm, tiếng cười rộn rã hồn nhiên của vợ con người thợ rèn làm hắn vui lây, nhưng sao hắn cảm thấy lẫn lộn một chút gì chua xót. Hình như trong tiềm thức, hắn đã được hưởng cảnh này. Kiếp này hay tiền kiếp, hẵn cũng không biết nữa.
Thấy trong nhà gần bếp lò có lửa, Musashi bỏ nón, tháo túi đeo lưng tiến đền gần ngồi sưởi. Cửa hàng vẫn thế, vẫn những nông cụ lặt vặt để trên kệ, vẫn những dây mồ hóng đen rủ lòng thòng từ trên trần xuống như thạch nhũ. Bên ngoài bóng tối phủ đầy. Ánh lửa bật bùng của khúc củi gần tàn chiếu bóng Musashi rung rinh trên vách.
Tsujikaze tắm gội xong sắp ăn cơm mới sực nhớ đến người khách trẻ. Gã gọi vợ:
- Dọn thêm phần nữa cho khách. Ở nhà ngoài ấy, ta ra bây giờ !
Vợ Kohei bưng khay rượu ra. Mụ đặt bình sa-kê lên hâm trên bếp than, liếc nhìn Musashi rồi đi vào trong nhà, lầu bầu khó chịu:
- Lần trước đã tới rồi, giờ lại tới nữa.
Tsujikaze đến ngồi bên bếp. Bộ mặt rỗ của gã trông hiền hậu hơn, không biết vì mới tắm xong hay vì ánh lửa không soi rõ hết những vết lồi lõm. Gã hất hàm hỏi Musashi:
- Uống chút rượu nhá ?
- Vâng, đại hiệp đã cho thì xin nhận.
Tsujikaze cầm bình rượu rót ra đĩa đưa Musashi. Hắn uống một hơi cạn, mím môi lại chép chép miệng. Rượu hơi chua nhưng hắn cũng cảm thấy dễ chịu.
Máu nóng chạy râm ran trong người. Hắn vui vẻ:
- Để tại hạ rót mừng đại hiệp một lần.
- Không sao. Ta có đĩa riêng đây rồi !
Cả hai im lặng ngồi nhìn lửa và những cục than hồng trong lò. Lúc sau, Tsujikaze mới hỏi:
- Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi ?
- Hăm hai.
- Quê quán ở đâu ?
- Mimasaka.
Mắt Tsujikaze đột nhiên lộ vẻ chú ý. Gã quan sát Musashi từ đầu đến chân rồi nói:
- Lúc nãy ngươi bảo tên ngươi là gì nhỉ ?
- Tại hạ là Miyamoto Musashi.
- Hừ. Musashi. Viết như Takezo chứ gì ?
Vừa lúc ấy vợ Kohei mang thức ăn ra, một bát canh, một đĩa cá muối, một liễn cơm, mụ đặt cả vào cái khay lớn trên chiếu. Mụ nói với Musashi, không khách sáo:
- Ăn đi.
Musashi cúi đầu cảm ơn. Tsujikaze vẫn thắc mắc, nhưng gã làm bộ tự nhiên rót thêm sa-kê vào đĩa:
- Uống chút rượu nữa đã. Thế khi còn nhỏ người ta gọi tên ngươi là gì. Phải Takezo không ?
- Dạ phải.
- Tên đó ngươi giữ cho đến khi mười bảy mười tám chứ gì ?
- Đúng vậy.
- Năm mười bảy, ngươi có dự trận Sekigahara cùng với một thanh niên nữa cùng trạc tuổi ngươi phải không ?
Đến đây thì Musashi ngạc nhiên thật sự. Hắn chậm rãi đáp:
- Phải. Sao đại hiệp biết ?
Tsujikaze cười xòa:
- Ta biết nhiều chuyện vì ngày đó ta cũng dự trận Sekigahara. Thảo nào trông ngươi quen quen, có lẽ chúng ta đã gặp nhau ở trận tiền.
Bản tính trung trực, Musashi tin ngay và trong lòng chớm nở một mối hảo cảm với gã thợ rèn.
- Chắc đại hiệp thuộc cánh quân của Ukita ?
- Phải rồi. Ta ở gần đó nên đầu quân với các Samurai địa phương. Không may mà phe mình thua trận.
Hai người nhìn nhau, mỗi người một ý nghĩ.
- Thế người bạn đồng ngũ với ngươi bây giờ đâu ?
- Cũng không rõ vì đã lâu không gặp lại.
- Ngay từ sau trận chiến ấy sao.
- Không hẳn thế. Tại hạ với nó phải lẩn trốn một thời gian tại vùng chân núi Ibuki chờ vết thương lành thì chia tay. Về sau nó đi đâu, tại hạ không biết.
Tsujikaze gọi vợ lấy thêm rượu nhưng người đàn bà đã vào nằm với con ở trong phòng. Mụ nói vọng ra:
- Hết rượu rồi !
- Hết thì đi mua, ta muốn uống nữa.
- Sao bữa nay uống nhiều thế ?
- Có chuyện vui muốn uống, được không ?
- Bây giờ khuya rồi, tiệm đầu xóm đã đóng cửa, mua khó lắm.
Tsujikaze lộ vẻ tức giận, cao giọng gọi:
- Iwa !
Không nghe tiếng đáp. Gã gọi lần nữa, to hơn. Một lát mới thấy cửa sau mở, Iwa thò đầu ra hỏi, giọng ngái ngủ:
- Thầy gọi con ?
- Ờ, chạy đến nhà Onosaku vay bình rượu mang về đây ! Bảo nhà có khách.
Musashi đã say. Hắn không uống được nhiều nên gạt đi:
- Thôi thôi, nếu vì tại hạ mà đi vay rượu thì chẳng nên.
- Không được. Phải uống với ta thêm vài bình nữa. Vả lại ta chưa cho ngươi chút biết những điều ngươi hỏi ta mà.
Iwa mang rượu về. Tsujikaze đặt lên bếp. Trong khi đợi rượu nóng, gã thao thao kể lại những võ công đã trải ở chốn giang hồ, không quên thêm thắt cho câu chuyện được hứng thú. Rồi rượu rót ra, gã vừa uống vừa ép Musashi, thành ra tuy đã cẩn thận, đề phòng, hắn cũng không thể từ chối được.
Khi luận đến thứ võ khí cổ quái gã chế ra, Tsujikaze say, nói không còn gãy gọn. Tuy vậy Musashi chú ý theo dõi cũng hiểu được đôi phần:
nào cách dùng quả cầu sắt ném vào mặt địch thủ, dùng dây xích đoạt võ khí, dùng lưỡi hái móc tay chân ...Lại thuật phối hợp dây xích với quả cầu làm địch hoa mắt để dễ bề giương đông kích tây cùng các yếu quyết và phương vị của chân đứng, tay ném ...
Nghe những lời Tsujikaze dẫn giải, Musashi nghĩ thầm gã thợ rèn này cũng khá, đã cố công nghiên cứu và chắc khai triển được nhiều chiêu thức lợi hại. Người ta có hai tay, nếu lúc chiến đấu chỉ sử dụng một tay cầm kiếm thì uổng phí. Để rồ i có dịp hắn sẽ lưu tâm học thêm song kiếm.
Bình rượu mới mang về chẳng mấy chốc đã cạn. Cả hai cùng say mèm. Trong đời Musashi chưa bao giờ say đến thế. Tsujikaze lè nhè gọi vợ:
- Này mẹ nó ! Bế con vào ngủ ở phòng trong đi. Để giường cho khách.
Vợ Kohei không trả lời. Mụ nghe rõ lời chồng, song không muốn rời chỗ ấm.
Tiếng lè nhè của Tsujikaze lớn hơn:
- Nghe ta nói không ? Khách mệt rồi, phải để cho người ta nghỉ. Bế con vào phòng trong !
- Sau không để chú ấy ngủ ngoài đó ?
- Đừng nhiều chuyện. Ta bảo phải nghe.
Nói xong, gã chống tay đứng lên, đi vào phòng lôi vợ dậy. Tiếng gã thở khò khè.
Mụ Kohei cau có buộc lại tóc trong khi gã thợ rèn bế đứa nhỏ nói vọng ra:
- Ngươi nghỉ tạm đây nghe ! Nếu khát, có sẵn ấm nước trên bếp và trà ở đầu giường ấy.
Musashi ngồi bên bếp lửa, trí óc tan loãng không còn suy nghĩ gì được nữa.
Hắn với tay cầm ấm nước, rót một chén uống. Nước trà nguội ngắt, chan chát đắng làm hắn tỉnh đôi chút. Hắn nghe tiếng đàn bà văng vẳng:
- Vào trong phòng ngủ đi. Ta mang gối mới ...Trượng phu ta say chắc. Mai dậy trễ...làm bữa sáng nóng cho ăn.
Musashi lẩm bẩm “cảm ơn, cảm ơn” rồi đi vào trong phòng. Hắn quên cả cởi dép. Ngồi trên chiếu, hắn mới sực nhớ ra, đưa tay tháo dép, ngả mình lên giường và kéo chăn trùm kín mặt. Hơi chăn ấm lẫn với mùi sữa thơm thoang thoảng khiến đầu óc hắn lâng lâng. Trước khi nhắm mắt, hình như Musashi thoáng thấy mụ Kohei thổi tắt đèn và lẩn vào trong bóng tối sập xuống dầy đặc.
Musashi có cảm giác như ai đã dùng vòng sắt đánh đai vào đầu mình và siết chặt. Đầu hắn nhức vô cùng, mạch máu hai bên thái dương đập thình thịch. Muốn ngồi nhưng chân tay rời rã, hắn không còn làm chủ được những cử động của chính mình nữa. Ánh sáng từng vòng, vàng, đỏ, xanh lẫn lộn thi nhau nhảy múa trước mặt.
Giữa lằn biên giới của tỉnh thức và hôn mê ấy, Musashi bỗng thấy hiện ra một thiếu phụ, hắn không nhìn rõ dung nhan, nhưng dáng đi nhẹ nhàng như những vệt sương trên sóng nước.
“À ơi ...Cái ngủ mày ngủ cho say ...”. Điệu ru quen thuộc văng vẳng bên tai đưa hắn trở về dĩ vãng:
một căn nhà gỗ nhỏ, bức tường đá rêu phong với những dây leo, rễ bám chằng chịt mang nhiều chùm hoa tím nhỏ li ti. Cạnh hàng rào, rặng cây rậm rạp cành rủ la đà, mỗi khi đêm xuống, ôm ấp bao nhiêu bí mật. Mẹ hắn bế hắn trên tay, hát ru khe khẽ. Ngọn đèn trên vách, ánh sáng không đủ chiếu khắp gian phòng, nhưng cũng cho thấy những giọt nước mắt long lanh trên gò má mẹ hắn. Mặt bà hiện ra lờ mờ trong ký ức, trắng lắm mà lại phơn phớt xanh, như màu hoa lê mới nở.
Từ phòng trong, giọng ông Munisai, cha hắn, vọng ra giận dữ:
“Cút đi ! Cút về nhà mày đi !”. Mẹ hắn nấc lên, áp má hắn vào mặt. Những giọt nước mắt nóng hổi chả y vào miệng hắn, mằn mặn. Hắn cũng khóc theo. Khối óc thơ ngây ấy không đoán được chuyện gì đã xảy ra trong gia đình và ngay đến bây giờ hắn vẫn không hiểu tại sao cha hắn lại đuổi mẹ hắn đi. Hắn thấy mẹ Ôm chặt mình vào lòng, chạy ra ngoài. Gió thổi ào ào bên tai làm hắn khóc to hơn. Mẹ hắn càng ôm chặt. Đến một nơi hình như là bờ sông, hắn nghe tiếng mẹ hỏi trong nức nở:
“Takezo ! Con là con mẹ hay con cha?”. Mẹ hắn đặt hắn xuống ven sông, bên những hòn đá cuội. Bà lội ra giữa dòng, mặc hắn gào thét giữa bụi cỏ hoang, cạnh những đám bồ công anh hoa vàng lấm tấm. Cơn gió lạnh thổi, hắn rùng mình, mở mắt.
Musashi ú ớ trong miệng, khẽ cựa mình. Thiếu phụ ấy là ai, có phải mẹ hắn không ? Hắn cố vận dụng ký ức để nhớ lại nhưng vẫn không sao mường tượng được nét mặt của bà. Qúa mệt mỏi, Musashi lại em đi trong bóng tối.
Bóng người thiếu phụ hiện ra lúc xa lúc gần, lãng đãng. Bà giơ tay vẫy. Ô hay ! Sao đêm nay, hắn mộng thấy mẹ hắn luôn vậy ! Hắn gọi, nhưng tiếng gọi tắc nghẹn trong cổ họng. Hắn vùng vẫy, và đột nhiên mở mắt.
Cơn say đã tan. Miệng khô đắng, Musashi nằm yên nhìn lên trần. Lửa phòng ngoài tắt từ lâu, ánh than hồng hắt lên các vì kèo loang lổ mồ hóng mang một vẻ mơ hồ quái dị.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng ấy, đột nhiên Musashi chú ý đến cái chong chóng giấy cắm trên trần. Mùi da thịt, mùi sữa thơm ngòn ngọt của đứa trẻ và mẹ nó còn như quyện vào chăn gối. Chiếc chong chóng quay nhè nhẹ. Chong chóng quay thì có gì lạ vì người ta làm chong chóng để cho ...nó quay. Nhưng muốn quay phải có gió. Musashi nằm yên, đoán chắc có người vừa mở cửa.
Quả nhiên, hắn nghe tiếng cửa khép nhẹ, rất nhẹ rồi những bước chân rón rén mỗi lúc một xa. Cái chong chóng thôi quay.
Trong một thoáng, Musashi ý thức ngay được nguy cơ sắp xảy ra. Hắn đã hiểu tại sao vợ chồng người thợ rèn lúc đầu tỏ vẻ lãnh đạm thờ ơ, sau lại vồn vã với hắn, để hắn ngủ trong căn phòng êm ấm kín đáo như thế này. Hắn đã hiểu tại sao người chồng nhất quyết đòi mua thêm rượu và phục cho hắn uống say. Hắn tự giận mình không cảnh giác sớm để suýt nữa thì mất mạng.
Musashi tỉnh rượu hẳn. Bản năng tự vệ thức dậy, hắn lắng nghe động tĩnh như một con sâu nằm dưới lá nghe thời tiết xung quanh. Hệ thần kinh bén nhạy của hắn căng thẳng cực độ. Musashi tự hỏi:
Đây là đâu, ổ đạo tặc hay hắc điếm ? Gã thợ rèn này có thù gì với mình ? Soát lại ký ức, hắn chắc chắn chưa bao giờ gặp gã này. Vậy lý do gì ... Nhưng bây giờ không phải lúc tìm hiểu, suy luận. Phải phản ứng ngay, khẩn cấp lắm rồi.
Musashi trườn mình xuống cuối giường, khều đôi dép xỏ vào chân, buộc quai, sửa lại chăn đắp cho ra vẻ vấn còn người nằm ngủ rồi len lén cầm thanh kiếm lẩn vào trong bóng tối dày đặc sau đống củi, than xếp hỗn độn.
Tàn nén hương, đã nghe tiếng chân người bước ngoài hiên và tiếng xì xào khe khẽ.
Cánh cửa lùa hé mở. Dưới ánh sáng lờ mờ của bếp than gần lụi, cái chong chóng quay tít.
Bên tấm màn cửa mỏng, đôi mắt trắng dã của một kẻ mặc y phục lối dạ hành ló ra, tay lăm lăm lưỡi kiếm tuốt trần. Theo sau là một người cao lênh khênh, cầm giáo. Cả hai men theo vách, đến trấn hai đầu giường. Gã thợ rèn vào sau chót, một tay cầm lưỡi hái, một tay giữ quả cầu.
Chúng đưa mắt nhìn nhau, rồi như cùng theo một mật hiệu, quát lớn:
- Takezo !
Đồng thời phóng chiêu ra như chớp xẹt. Giá Musashi còn nằm đó chắc trở tay không kịp mà có chết cũng chẳng toàn thây. Nhưng không một ai trông thấy phản ứng gì hết. Ba loại võ khí đã đánh vào quãng không, hay đúng ra, đã đánh vào một đống chăn gối bỏ không. Tiếng thét làm rung chuyển căn nhà gỗ chỉ đánh thức đứa nhỏ dậy làm nó khóc ré lên ở trong phòng.
Gã thợ rèn phóng cước đá tung chiếc chăn đắp. Không thấy Musashi, gã chửi thề một câu tục tĩu, chạy vội ra ngoài:
- Bọn ngươi đứng đây có thấy nó trốn không ?
- Không ! Sao ! Nó trốn rồi à ?
- Còn hỏi gì nữa ? Toàn đồ ăn hại, không được việc gì hết.
- Nhưng nó trốn đi đâu ? Bọn tiểu đệ canh ở đây ngay từ khi đại ca bảo, có thấy gì đâu !
- Kia kìa, cái cửa mở hé kia kìa. Đồ ngu, ở đó chứ đâu nữa !
Tsujikaze giận sùi bọt mép, đi đi lại lại bên bếp lửa như con thú dữ trong cũi.
Gã cao giọng:
- Anh em lại đây ! Tất cả ! Ta nói chuyện !
Mọi người tề tựu xung quanh gã, lố nhố có đến chục tên chứ không ít. Gã thợ rèn tiếp tục:
- Thằng này nguy hiểm lắm, tên Takezo. Nó khỏe vô địch. Trước đây năm năm, chém bào huynh ta là Tenma một kiếm vỡ sọ trên đồi Ibuki. Mà bào huynh ta thì các ngươi đã biết, đâu phải kém cỏi gì ! Bây giờ nó trốn rồi. Chỉ có hai đường về trấn, ta phải chia ra thành hai toán, đuổi bắt bằng được. Tên này có súng - gã chỉ một người vác cây hỏa mai - dẫn đầu toàn năm người đi về hướng nam, còn lại bao nhiêu theo ta qua cầu, hướng đền Arakida. Gặp nó, bắn phát súng làm hiệu, chúng ta sẽ đến giúp sức.
Mọi người y kế thi hành, rầm rộ ra đi, đuốc thông đốt khét lẹt. Tụi này chính là tay chân của Tsujikaze Kohei, em Tsujikaze Tenma, tên tướng cướp bị Musashi giết khi hắn còn ẩn náu tại nhà Oko trên đồi Ibuki năm nào. Kohei giờ tuy bên ngoài làm ra vẻ làm ăn lương thiện, nhưng vẫn cùng lâu la tụ tập giết người cướp của. Khách vãng lai vô ý sa vào ổ chúng thường bị thủ tiêu, xác vất cho quạ rỉa trong rừng sâu hoặc bên khe suối.
Đêm mỗi lúc một khuya. Căn nhà gỗ tối đen, vắng lặng, đìu hiu như cảnh vật xung quanh. Gà đã hai lần gáy, vẫn chưa thấy toán nào trở lại.
Mãi sau, lâu lắm, khi sương đã xuống mờ mờ bao phủ cả vùng rừng núi, khí hậu bắt đầu lạnh buốt và các vì sao cũng run rẩy ở trên cao, mới thấy chúng lục tục kéo nhau về. Đầu tiên là toán của tên mang súng hỏa mai, sau đến Kohei và đồng bọn. Chúng lẳng lặng mở cửa vào nhà, ngồi la liệt trên sàn, gây lửa cháy to thêm. Mệt nhọc và chán nản lộ trên nét mặt, Kohei là người đầu tiên lên tiếng:
- Thằng nào đi lấy rượu uống chứ !
Một kẻ chạy đi. Cả bọn lại đăm đăm ngồi nhìn ngọn lửa.
- Thằng đó thật hên. Nếu ta tóm được ...
- Đại ca chắc nó là Takezo không ?
- Sao lại không ? Ta đã hỏi kỹ lai lịch. Vả trông vóc dáng cao lớn và trạc tuổi thì đúng nó. Có lẽ hương hồn bào huynh ta đã run rủi cho nó tới ...
- Bây giờ đại ca tính sao ?
- Còn tính sao nữa ? Ta chỉ tiếc đã không ra tay ngay. Vì muốn ăn chắc nên gọi anh em đến giúp sức.
Tsujikaze rót hết chén này đến chén khác. Bình rượu lớn cạn dần. Mặt xám lại, đôi mắt lạc thần nhìn ngọn lửa như bị thôi miên, gã có vẻ muốn gục xuống chiếu.
Bọn đàn em xúm đến đơ, gã gạt tay ra, lè nhè:
- Thôi bọn ngươi về cả đi. Để mặc ta. Chưa say ...chưa say mà ...
Trời sắp sáng. Tiếng gà văng vẳng trong khe núi. Nhiều bóng người từ căn nhà lò rèn bước ra, lầm lũi tản mát trên các đường mòn trong xóm. Tsujikaze ngủ em trên chiếu rượu, tiếng ngáy vang làm rung động cả những dây mồ hóng rủ trên trần.
Ngoài hiên, lẩn sau bóng tối của đống than, gỗ chất cao lên đến tận nóc, một cái áo vải sơn đen bỗng nhiên chuyển động. Cái áo vươn cao từng chút, từng chút, rồi khuôn mặt đen nhẻm của Musashi lộ ra, đôi mắt long lanh như mắt vọ.
Thì ra Musashi vẫn còn đây, chưa lúc nào rời căn nhà gỗ. Sau khi bước khỏi giường, hắn đã cẩn thận mở hé cánh cửa hông, núp ngay sau đống than ngoài hiên, dùng chiếc áo vải sơn treo ở đó ngụy trang và lắng nghe hết mọi động tĩnh trong nhà.
Êm như ru, hắn rón rén đến gần bếp. Tsujikaze vẫn ngáy như sấm.
Musashi đứng lặng nhìn gã thợ rèn, mỉm cười thương hại. Trong cuộc gặp gỡ này, rõ ràng hắn thắng. Tuy nhiên, gã thợ rèn có một điểm đáng khen, đã vì mối thù giết anh mà ra tay. Vậy có nên giết gã không ? - Musashi tự hỏi - Nếu không, có thể còn nhiều hậu hoạn. Khôn ra thì phải giết. Nhưng một câu hỏi khác lại được đặt ra:
Gã có đáng giết không ? Musashi cứ phân vân mãi. Lúc sau, hắn nghĩ được một cách cho là hay nhất. Với tay lấy món võ khí quái dị treo gần đó, hắn bật nút bấm cho lưỡi bung ra, dùng giẻ bọc lại rồi đặt nó gần cổ gã thợ rèn, quả cầu một bên và lưỡi hái một bên.
Hắn giật lùi lại ngắm công trình của mình. Khi thức giấc, gã thợ rèn chắc phải ngạc nhiên lắm, nhưng lưỡi hái đã được bao lại rồi cũng như cái chong chóng đã bọc lại thì còn quay sao được ! Năm năm về trước, khi giết Tsujikaze Tenma, Musashi đang trong cơn say máu. Hắn như con thú hoang, giết là một bản năng tranh sống, nhưng nay, đứng trước gã thợ rèn nằm im vô hại dưới chân, hắn thấy thật vô ích. Và biết đâu, nếu giết gã, tiểu chủ nhân của chiếc chong chóng kia sẽ lại để cả đời mình đi tìm hắn trả thù cho bố. Oan nghiệt sẽ chập chồng, bao giờ mới dứt ?
Đứng trước căn phòng ấm cúng, mùi sữa mẹ còn như thoang thoảng từ trong chăn gối bay ra, Musashi cảm thấy ghen tức và hơi tiếc vì phải từ giã nơi này.
Hắn nói thầm trong bụng:
“Ta xin lỗi đã làm rộn. Xin cứ ngủ bình yên”.
Rồi nhẹ nhàng mở cửa bước ra.
-
CHƯƠNG 29
CON NGỰA BAY
Đến đồn kiểm tra gần biên giới quận thì trời đã tối, Jotaro và Otsu vào nghỉ chân qua đêm tại một quán trọ. Hôm sau, mới hửng sáng, sương mù chưa tan, nàng đã đánh thức Jotaro dậy để lên đường sớm, tránh cái nắng gay gắt buổi trưa.
Đường đèo khấp khểnh, nhưng không khí tươi mát lúc ban mai làm hai người dễ chịu. Trên bầu trời trong phớt xanh, các vì sao thưa dần rồi những dải mây hồng ở đỉnh núi đằng xa bắt đầu vàng ánh lên như mới được rắc một lượt kim nhũ. Mặt trời hiện ra đỏ rực làm bừng sáng cả một khu sơn lĩnh.
Otsu đứng sững trước cảnh thiên nhiên mới tỉnh giấc, lòng nôn nao, rộn rã. Nàng cho rằng đây là một trong những lúc kỳ diệu nhất tạo hóa đã ban cho chúng sinh, kể cả những sinh vật nàng vẫn thường gọi là vô tri vô giác như cây cỏ. Tự nhiên nàng thấy sung sướng và hãnh diện được sống trên thế gian này.
Nhìn mặt trời to và đỏ như cái đèn ***g lớn do một bàn tay vô hình nào đó thắp lên, lừ lừ hiện ra khỏi rặng núi xanh lam, Jotaro vui mừng nhảy cẫng, vỗ tay reo:
- Đẹp quá ! Chị trông kìa, đẹp quá !
Otsu khẽ suỵt, bảo Jotaro đừng kêu lớn, dường như sợ sự vui vẻ thái quá của thằng bé làm mất vẻ trang trọng của cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Hai chị em đứng lặng ngắm cảnh mặt trời mọc, một lúc lâu Jotaro mới lên tiếng:
- Chị em mình là người đầu tiên đi trên đường ngày hôm nay đấy !
- Sao em biết ?
- Chị xem có ai đi trước mình đâu !
- Ừ nhỉ. Nhưng đi đầu thì ích gì ? Đường ngắn hơn chăng ?
- Không phải. Nhưng khỏi đi sau ngựa với cáng, đỡ hít bụi !
Otsu liếc nhìn Jotaro thấy thằng bé quả nhiên láu thật.
- Hơn nữa, đi đầu thích thú hơn chứ. Vì chẳng có ai trên đường, em có cảm tưởng như cả con đường thuộc về em, muốn làm gì thì làm, sướng lắm !
Otsu mỉm cười. Để chọc thằng bé, nàng nói đùa:
- Vậy sao em không tự coi như một tướng quân quyền uy, được mọi người trọng vọng đương cưỡi ngựa đi thị sát lãnh thổ của mình ? Ta đóng vai người hầu dắt ngựa.
Jotaro cười phụ họa:
- Ờ phải đấy ! Phải đấy ! Em làm tướng công, chị dắt ngựa. Chị đi trước đi !
Otsu ngó quanh không thấy ai, bèn bẻ cành tre làm roi chỉ sang hai bên đường, vừa đi vừa nhại giọng lính tuần vệ:
- Qùy xuống ! Tất cả quỳ xuống ! Jotaro tướng công đi tuần sát !
Jotaro tháo ống quyển trên vai, cười lên giả làm ngựa và cười như nắc nẻ. Nó nhảy chân sáo, dường như cái trò chơi giản dị này đã cho hai chị em những phút vui hồn nhiên và sung sướng thật sự.
Nghe tiếng léo nhéo bên ngoài, một ông già mở hé cửa ra nhìn. Otsu hơi thẹn, vất roi xuống đất, lầm lũi đi. Jotaro ngạc nhiên:
- Ô hay, sao chị làm thế ? Chị không sợ tướng công giận có thể phạt chém đầu à ?
- Thôi, không chơi nữa.
- Sao vậy ? Mình đang chơi vui mà !
- Thôi ! Kỳ quá ! Có người ở quán nhìn kia kìa. Chắc họ cho mình là hai đứa khùng!
Jotaro quay lại thấy một quán ăn nhỏ, vách ván đã cũ, bên một đống rơm lớn, người dân vùng sơn cước thường đắp lên dành cho gia súc ăn về mùa đông. Cạnh đó buộc một con ngựa.
Nhìn quán ăn, Jotaro bống thấy đói bụng.
- Chị, hay ta vào quán nghỉ đi.
- Vào làm gì ?
- Em đói ! Ta vào uống trà rồi lấy cơm nắm ra ăn.
- Khoan đã. Mới đi được vài dặm mà đã đói. Cứ thế này thì phải ăn năm bữa một ngày chắc.
Jotaro giận dỗi:
- Nhưng em chạy bộ chứ đâu được cưỡi ngựa như chị !
- Thì hôm qua ta mới thuê ngựa đi một lần, chỉ vì trời tối mà mình lại vội. Nếu em không bằng lòng thì hôm nay ta đi bộ với em cả ngày.
- Không ! Hôm nay đến phiên em cưỡi ngựa.
- Trẻ con không cưỡi ngựa được !
Jotaro phụng phịu:
- Nhưng em muốn tập !
- Để lúc khác. Hay chốc nữa, khi nào mệt hãy hay. Bây giờ còn đi được, thuê ngựa cưỡi phí tiền.
Jotaro không đáp mà cũng chẳng nói gì thêm. Nó cung cúc đi trước, bỏ mặc Otsu lẽo đẽo theo sau.
- Jotaro ! Em giận ta đấy à ?
Jotaro đứng lại đợi. Một lúc au, khi Otsu đến gần, nó mới nói:
- Chị thừa biết em đi bộ cả ngày cũng chẳng mệt. Đợi mệt thì bao giờ mới có ngựa cưỡi !
Otsu cười làm lành:
- Ừ thì cưỡi, nhưng một lần này thôi nhé !
Jotaro chỉ đợi có thế. Nó mừng rỡ chạy ngược lại, đập cửa quán rầm rầm. Chủ quán mở cửa thò đầu ra, thấy Jotaro, gắt:
- Cái gì mà ầm lên thế ? Hỏi gì ?
- Chị ta cần một con ngựa đi Minakuchi, bao nhiêu tiền ? Nếu giá phải chăng, ta mướn đến tận Kusatsu.
- Mày con cái nhà ai ?
- Con bố mẹ ta !
Jotaro vênh mặt đáp.
- Ta tưởng mày con bà La Sát !
- Chắc vợ lão là bà La Sát còn lão là ông Thiên Lôi. Sao lão dữ quá thế ?
- Dữ hay không dữ ta không cần biết. Ngựa ta không cho thuê.
Muốn thuê ngựa, Jotaro đành phải làm lành:
- Thôi, lão trượng cho cháu thuê đi. Cháu trả tiền đàng hoàng mà !
- Không được !
- Sao không được ?
- Không có mã phu đi kèm dắt về.
Vừa lúc ấy, Otsu tới. Nàng hỏi rõ sự tình, đề nghị xin trả tiền trước rồi khi đến Kinakuchi sẽ nhờ người dắt ngựa hoàn lại tử tế. Thấy Otsu có dáng nhu mì thực thà, chủ quán phân vân một lúc rồi nói:
- Thôi cũng được. Nể chị lắm đấy, xong việc nhớ trả lại ngựa cho lão.
Nàng hỏi giá, trả tiền rồi cầm cương dắt ngựa đi. Ra đến đường, Jotaro vẫn chưa nguôi cơn tức:
- Lão già dịch !
- Ô hay Jotaro ! Sao hỗn thế ? Lão ta có làm gì em đâu ?
- Chị không biết, lão coi em như rác, nhất định không cho thuê ngựa. Thế mà thấy chị đến lại bằng lòng ngay. Thấy con gái đẹp thì híp mắt lại ...
Otsu cười thầm trong bụng. Nàng cảnh cáo thằng bé:
- Này, nói nho nhỏ chứ. Con ngựa này nó nghe hết đấy. Nó dám hất ngã em để trả thù cho chủ nó lắm !
- Thật hả chị ? Để em thử ...
Dứt lời, Jotaro trèo lên ngựa.
- Em không biết cưỡi ngựa phải không ?
- Biết chứ ! Em thấy người ta cưỡi nhiều lần rồi !
- Thế sao em lại trèo đằng sau ?
Jotaro thẹn nói chữa:
- Tại cái bàn đạp này cao quá. Chị đỡ em chút !
Otsu xốc nách bế Jotaro ngồi lên yên. Con ngựa đi bước một, Jotaro hơi nghiêng ngả theo nhịp bước chân ngựa, nhưng nó hài lòng lắm. Mặt tươi rói, nó lấy vẻ nghiêm trang, một tay giữ bờm ngựa, một tay chống nạnh, nhìn Otsu mỉm cười.
- Chị đi trước đi.
- Nhưng em ngồi chưa vững, ta phải đi bên cạnh ...
- Không sao, em để chân được vào hai bàn đạp mà. Cái yên vải bố này tuy hơi ráp nhưng buộc chắc lắm !
Otsu đi trước, tay cầm cương. Tiếng lộp cộp của chân ngựa đạp trên đá lẫn với tiếng nhạc ngựa long coong bấy giờ đối với Jotaro thật là một tiết điệu vui tai lần đầu tiên nó được hưởng.
Mặt trời đã lên cao nhưng trên con đường đèo, nhiều chỗ sương còn đọng từng mảng mờ mờ xám nhạt. Đi được chừng một quãng khá xa, bỗng nghe phía sau có tiếng chân người vội vã và tiếng gọi lớn. Hai chị em nép vào vệ đường. Jotaro lo lắng hỏi:
- Hình như họ gọi chúng ta !
- Không biết có phải không. Chờ xem.
Lúc sau, thấy hiện ra mờ mờ trong màn sương một bóng người. Bóng đó rõ dần và khi còn cách Otsu một trượng thì cả hai nhận ra đấy là một người đàn ông trung niên, mặt rỗ và dữ dằn, chân quấn xà cạp, đi hài xảo bằng cỏ bện. Xung quanh gã còn như bọc một lớp sương gã kéo theo từ đêm, chiếc áo dày gã mặc bên ngoài ướt nhẹp.
Gã đàn ông đến gần Otsu, giật mạnh dây cương từ tay nàng làm Otsu chúi xuống suýt ngã rồi quát như sấm động:
- Tiểu tử này ! Xuống !
Con ngựa nghe tiếng quát giật mình lùi lại giơ hai cẳng trước hí một tiếng dài.
Jotaro sợ quá, suýt bị hất xuống đất, vội nắm chặt lấy bờm ngựa. Hoàn hồn, nó tức giận đáp:
- Bác này ! Làm gì kỳ vậy ? Ngựa của ta thuê mà !
- Mặc kệ, có xuống không ?
- Không ! Tráng sĩ là ai ?
- Ta là Tsujikaze Kohei ở xóm Ujii, bên kia ranh quận. Ta cần ngựa để đuổi theo một người tên Musashi. Hắn đi về phía này từ sớm. Đưa ngựa đây.
Gã nói nhanh như bắp rang, vừa nói vừa thở hổn hển. Trong sương sớm lạnh, những giọt nước nhỏ li ti đọng trên râu và chân tóc gã bắn ra cùng một lúc với hơi thở mờ mờ như khói. Trên cành khô, sương còn đọng giá, vậy mà cổ hắn bóng nhẫy mồ hôi, mạch máu ở hai bên cổ nổi cao lên như hai chiếc đũa.
Otsu đứng lặng tựa trời trồng, mặt tái mét, dường như bao nhiêu máu đã bị đất dưới chân nàng hút đi mất cả. Môi nàng run run, nàng muốn hỏi lại cho rõ những điều vừa nghe được, nhưng chẳng thốt ra lời nào.
- Tráng sĩ nói đi tìm Musashi à ?
Jotaro hỏi mà tay run lập cập, chân để vào bàn đạp không còn vững nữa.
Tsujikaze hình như không để ý đến dáng điệu kỳ lạ của cả hai người, chỉ gắt:
- Có xuống ngay không ? Nếu không ta nắm cổ lôi xuống.
- Không ! Ngựa này chị ta thuê.
- Mặc kệ chị mày. Ta nói tử tế vì thấy chúng mày chỉ là đàn bà con nít. Ta vội nên mượn tạm ...
- Chị ! Em nói có phải không ? Ngựa này mình thuê, sao cho ông ấy mượn được ...
Otsu muốn ôm lấy Jotaro. Điều nàng quan tâm nhất không phải là chuyện thuê con ngựa mà chính là không muốn cho gã này có phương tiện đi nhanh hơn, đuổi kịp được Musashi, gây khó cho chàng. Otsu bèn đáp ngay:
- Đúng vậy ! Ngựa bọn ta thuê. Tráng sĩ vội thì chúng ta cũng vội, không nhường cho tráng sĩ được !
- Em nhất định không xuống ! Chết cũng không xuống !
- À, tiểu tặc chó đẻ này ! Mày nhất định không xuống phải không ?
Vừa nói, Tsujikaze vừa nắm chân Jotaro định lôi nó xuống ngựa. Đây là cơ hội hãn hữu để Jotaro dùng đến thanh kiếm gỗ đeo trên lưng, nhưng trong lúc bối rối, nó quên mất. Vả cả hai tay nói còn bận ôm chặt cổ ngựa nên dù có nhớ cũng không làm gì được. Chỉ còn cách đánh miếng võ nó vẫn thường sử dụng là nhổ nước bọt vào mặt địch thủ. Nghĩ đến, làm liền. Jotaro bụm một bãi nước bọt lớn, ra sức bình sinh nhổ đánh bẹt một cái vào mắt Tsujikaze, đồng thời thuận chân đạp mạnh vào ngực gã. Tsujikaze bị tấn công bất ngờ, giơ tay ôm mặt. Mất thăng bằng, gã ngã ngồi xuống đất.
Gã chửi thề một tiếng tục. Vừa lúc ấy, Otsu rút thanh gươm ngắn nàng vẫn mang theo để tự vệ ra khỏi vỏ, xông tới đâm Tsujikaze. Gã lăn một vòng tránh. Otsu mất đà chúi về đằng trước, nhưng vẫn cảm thấy hình như múi gươm chạm phải vật gì. Otsu ngã sóng soài bên vệ đường, một tia máu phun vào mặt rồi tiếng con ngựa hí vang. Thì ra lưỡi gươm Otsu đâm trượt Tsujikaze nhưng lại chạm vào mông ngựa. Con vật giơ cao hai chân trước hí một tiếng dài nữa, lao đi như tên bắn. Trên lưng nó, Jotaro hết cả hồn vía, hai tay giữ chặt cổ ngựa, chân quặp vào bất cứ sợi dây gì nó khều được ở dưới yên, miệng la như mất cướp:
- Chị cứu em ! Chị ...cứu ...u ...u ...
Tsujikaze đuổi theo, định ghìm con ngựa lại nhưng không kịp. Ngựa bị đau, phóng ào ào xuống núi, bất kể cây cối, trở ngại ; trên lưng nó Jotaro đeo cứng, tựa như cái hình nộm mới bị đứt giây, vật vờ theo gió.
Tsujikaze lảo đảo trở lại chỗ Otsu ngã, thì không thấy nàng đó nữa. Nháo nhác nhìn quanh, chỉ thấy thanh gươm ngắn nàng dùng định đâm gã lúc nãy lăn lóc bên bụi gai, gã nhặt lên, ngắm kỹ, chùi vết máu rồi giắt vào thắt lưng. Một ý tưởng thoáng hiện ra trong trí. Gã đoán nàng này hẳn có liên hệ gì với Musashi, nếu tìm bắt được, dùng nàng làm cái mồi dụ hắn sa bẫy thì tốt lắm. Hay ít ra cũng biết hắn đi đường nào hoặc trốn ở đâu.
Bèn sục sạo khắp nơi. Đến một trang trại nghèo, không có ai, ngoài một bà lão còng đang quay tơ, gã chạy vào hỏi, kéo cả màn cửa, lật cả đống củi ra tìm, làm bà lão sợ chết khiếp. Không thấy Otsu, gã thất vọng giận dữ bước ra. Vừa đi khỏi ngõ, chợt thấy bóng một thiếu nữ thoáng lẩn vào rặng bách xanh um, Tsujikaze kêu một tiếng mừng rỡ, đuổi như bay, chẳng mấy chốc đã gần bắt kịp. Quả nhiên là Otsu.
Otsu sợ cuống cuồng, chân ríu lại, ngã lăn ra. Đám cỏ lún xuống như một cái hố.
Kinh hãi, nàng kêu thất thanh, may có cái rễ lớn đâm ngang, vội bám chặt lấy. Dưới kia là vực thẳm tối đen, sâu bao nhiêu nàng cũng chẳng biết. Otsu nhờ bám vào rễ cây lơ lửng trên vực. Sỏi, đá, đất đổ rào rào trên đầu. Ngẩng lên, thấy Tsujikaze đã tới, đôi mắt hung dữ chăm chú nhìn nàng. Gã cười gằn độc ác:
- Hà ! Thử xem cô em có thoát khỏi tay ta không nào !
Nhìn xuống, Otsu chỉ thấy tối đen. Nếu muốn khỏi bị bắt, nàng buông tay ra là xong, nhưng buông tay ra là chết. Tâm thần bất định, Otsu mê đi. Nàng nhìn thấy Musashi. Hình ảnh Musashi rõ ràng lắm, sáng như vầng trăng trong một đêm giông bão.
Tsujikaze không đợi phản ứng, quỳ xuống bờ vực kéo tay Otsu lôi lên. Otsu vùng vẫy kêu cứu, nhưng những tiếng kêu thất thanh của nàng chỉ làm gã thợ rèn giữ nàng thêm chặt. Gã lôi Otsu khỏi vực, vứt xuống cỏ như vứt một mớ giẻ. Giận dữ và tuyệt vọng ứ nghẹn cổ, Otsu ngất đi, trên gò má trắng bệch, xanh xao, vết gai cào còn rướm máu.
Tiếng gọi Tsujikaze và tiếng chân người rầm rập chạy trên triền núi. Gã thợ rèn bắc loa tay hét lớn:
- Hồ, Tích ! Xuống cả đây ! Ta ở dưới này !
Bọn lâu la ào ào đổ dốc như đàn lợn rừng đuổi mồi, thở hồng hộc, đao kiếm đeo bên sườn chạm nhau loảng xoảng. Đến gần chủ soái, chúng khựng lại, ngạc nhiên nhìn Otsu nằm thiêm em trên cỏ. Tsujikaze kể qua tự sự rồi ra lệnh:
- Trói nó lại. Còn chúng bay, có được tin tức gì của thằng đó không ?
- Có. Lão chủ điếm trà bảo sáng nay có một kiếm khách đến mua cơm sớm lắm rồi đi ngay. Chắc là hắn. Hắn đi về phía quận Tsuchi. Nhưng không hề gì, đi đường nào cũng thế, vì hai đường Fusuka và Tsichi sẽ gặp nhau ở ngã tư Ishibe. Nếu ta nhanh chân đến trước mai phục ở Ishibe thì thế nào cũng gặp.
- Được rồi. Ta đi tắt đến đấy ngay bây giờ. Bọn ngươi canh chừng con bé đừng để nó chạy thoát.
Nghĩ một lúc, gã nói tiếp:
- Sẽ gặp nhau ở Yasugawa. Bọn ngươi cứ đường thẳng mà đi, nhớ để ý đến những thằng cao lớn có dáng dấp lãng tử.
Dứt lời, Tsujikaze xốc lại áo, chạy như bay lên núi. Một loáng đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Trên đường đồi khấp khểnh, con ngựa phi nước đại vùn vụt, vó nện lộp cộp, bụi cát bay mù. Vết thương ở mông nó cùng những tiếng kêu thét của Jotaro hình như kích thích nó chạy nhanh hơn. Gió thổi ù ù, mấy lần Jotaro tưởng bị hất ngã vì những cành cây thấp chắn ngang, nhưng nhờ nhanh trí, nó cúi xuống tránh được.
Jotaro càng kêu, ngựa càng chạy khỏe. Khản cổ, lạc giọng, tiếng kêu của nó sau chỉ còn là những tiếng rên đứt quãng. Nó ôm chặt cổ ngựa, áp má vào bờm, nhắm chặt mắt mặc cho số phận. Dần dần Jotaro nhận ra rằng nếu mình cứ nằm bò trên lưng ngựa rồi nhấp nhỏm theo đà ngựa chạy thì đỡ ê đít, nhưng chẳng thú vị gì. Nhớ lúc trước khi đòi cưỡi ngựa, nó mong làm sao được ngồi trên lưng một con tuấn mã, giật cương cho phóng như bay, băng rừng băng suối mới thật sướng ! Bây giờ có sướng gì đâu, chỉ thấy sợ.
Loáng một cái, đã đến làng Mikumo. Thấy có người đi ngược chiều, Jotaro tiếp tục kêu cứu. Nhưng ngựa chạy nhanh, người bộ hành tưởng là khoái mã của quan quân, nép vào vệ đường tránh vạ. Qua làng, gà kêu quang quác, chó sủa râm ran, vài người hé cửa nhìn nhưng chẳng ai giúp được gì. Tâm lý chung, chẳng ai muốn dính vào những chuyện không đâu, nhất là lại nguy hiểm như chuyện ghìm một con ngựa bất kham, không chết người cũng bị thương tật.
Đường đèo vắng vẻ. Nắng đã lên cao, người ngựa mồ hôi nhễ nhại. Xa xa một cây sồi cổ thụ vươn cành thấp xòe ra che cả lối đi. Jotaro nhìn thấy. Sống chết ở lúc này. Nó chuẩn bị. Khi lá sồi vừa chạm mặt, Jotaro lập tức níu ngay lấy, đánh đu lên như con nhái bén bám cành tre, cả người lủng lẳng đong đưa cách mặt đất chừng ba thước. Ngựa tiếp tục phóng đi, dường như không chú ý gì đến kỵ mã tí hon bất đắc dĩ vừa rời khỏi lưng nó.
Jotaro nhìn xuống đất. Sâu thăm thẳm, nó không dám bỏ tay ra, chỉ vùng vẫy co chân cố quắp lấy cành đu lên, định bụng sẽ chuyền vào thân cây. Không ngờ cành nhỏ gãy cái “rắc”, kéo theo nó ngã lăn ra đất.
Jotaro ngạc nhiên thấy không đau đớn gì, chỉ hơi ê ẩm. Đứng dậy phủi quần áo, sực nhớ đến Otsu, nó vội chồm lên, chạy ngược lại con đường đã qua, mắt tìm nháo nhác. Cứ chạy một quãng nó lại dừng lại gọi:
- Chị ! Chị ! Chị ở đâ ...âu ...
Sự bấn loạn lộ trên nét mặt ngơ ngác của nó.
- Không biết cô ấy có thoát được không ? Nếu bị thằng giặc đó bắt thì khổ quá !
Jotaro lo lắng, tự trách đã không bảo vệ được người thiếu nữ yếu đuối. Mồm nó méo xệch, vừa đi vừa lấy tay áo chùi nước mắt. Bỗng có người từ ven rừng bên trái đi đến. Tới gần thì ra là một thanh niên, tuổi chừng hăm bảy hăm tám, da ngăm ngăm đen, vận y phục lữ hành, chân đi giầy cỏ, lưng đeo kiếm. Thanh niên nhìn Jotaro hỏi:
- Bé này con cái nhà ai, phải ở làng Mikumo không ? Sao lại vừa đi vừa khóc ?
- Cháu lạc mất chị em !
- Cô ngươi là ai ?
- Otsu ! Đại hiệp ở phía rừng lại có thấy chị em không ? Chị em trạc hai mươi tuổi, nhỏ nhắn, vận áo chẽn ...
- À ...à ...có ! Nhưng tay bị trói, có hai nông dân lực lưỡng dẫn đi.
- Đi với hai nông dân ? Không ! Chúng cháu bị một tên mặt rỗ cướp ngựa. Chị em mặc áo chẽn trắng chấm đen ...
- Vậy đúng rồi. Ta chắc đây là bọn Tsujikaze. Hắn làm thợ rèn ở quận gần đây, nhưng nghe nói thỉnh thoảng có tụ tập lâu la đi ăn cướp.
- Thế thì cháu phải đi ngay cứu chị em mới được !
- Khoan ! Cả hai chị em người đi chung với nhau hay sao ? Câu chuyện thế nào kể ta nghe.
Jotaro bèn thuật lại. Thanh niên gật đầu:
- Vậy chúng làm loạn quá rồi, chẳng coi quan quân ra gì nữa. Nhưng bọn chúng dữ lắm, chớ nên khinh xuất. Ngươi còn bé, không làm gì được đâu, để ta giúp ...Otsu...phải tên chị ngươi là Otsu không ?
Tự nhiên Jotaro thấy tin người thanh niên lạ mặt. Nó gật đầu, ngây thơ hỏi:
- Đại hiệp bắt chúng giao chị Otsu lại cho cháu hay sao ?
Thanh niên mỉm cười:
- Ừ, để ta xem. Cứ đợi ở đây, nấp vào bụi đằng kia, đừng làm ồn lên, thế nào chúng cũng đi qua. Ta sẽ liệu.
Jotaro nghe lời, chạy vào ẩn trong bụi nhìn ra thấy chàng thanh niên theo đường dốc đi xuống núi.
Đợi mãi mà không thấy gì, hơi sốt ruột, nó thầm nghĩ tráng sĩ kia muốn đánh lừa nó, chỉ nói vậy cho qua rồi chuồn êm chứ chắc gì cứu được Otsu. Jotaro định bụng nhảy ra, tự mình đi tìm lấy. Đột nhiên nghe tiếng chân lạo xạo trên lá khô, nó dừng lại.
Bóng ba người hiện ra:
hai nông dân dáng lực lưỡng, râu ria xồm xoàm kèm một thiếu nữ mặc áo trắng bị trói tay đi ở giữa.
Đúng là Otsu rồi không còn hồ nghi gì nữa. Jotaro định cất tiếng gọi, bỗng sực nhớ đến lời khuyên của chàng thanh niên, khựng lại kịp. Nó còn nhỏ quá, không những không giúp ích được gì cho cô nó mà còn nguy hiểm nữa.
Đợi cả ba đi khuất, Jotaro mới len lén bò ra theo hút, vừa đi vừa lẩn vào các thân cây mọc rải rác trong rừng thưa.
Thình lình, chàng thanh niên ban nãy, lần này đội nón nan che kín mặt, tay cầm gậy ra vẻ một khách bộ hành đi đường xa, ở chân núi hiện ra. Thanh niên vừa đi vừa nói khá lớn, dường như cốt để cho Otsu và hai kẻ kia nghe rõ:
- Ghê quá ! Thật đáng sợ !
- Chuyện gì mà đáng sợ ?
- Dưới chân núi có một tên kiếm khách giang hồ tự xưng Musashi đứng chắn lối, gặp ai cũng nhìn, kiếm tuốt trần, mắt dữ tợn trông phát khiếp.
- Thật hả. Thế sao ngươi đi thoát ?
- Hắn gọi ta lại, hỏi tên tuổi. Khi biết ta là Tsuge Sannojo thì cho đi. Hắn nói hắn chỉ cần tìm giết Tsujikaze Kohei và lâu la của gã thôi. Không biết thù hằn gì mà ghê thế !
- Hai nông dân lực lưỡng đưa mắt nhìn nhau. Otsu mặt trắng bệch, run rẩy muốn ngất tại chỗ.
- Nhà ngươi có chắc như vậy không ?
- Thì chính mắt ta nhìn thấy, chính tai ta nghe, sao lầm được. Các bác phải cẩn thận, nên đi đường khác !
Nói xong gã chống gậy lầm lũi đi, miêng còn lẩm bẩm:
- Không biết thù hằn gì mà ghê thế !
Hai tên lâu la của Tsujikaze kéo Otsu vào ngồi bên đường bàn nhau khe khẽ.
Lúc sau, một đứa trở lại canh chừng Otsu, đứa kia chạy theo gọi Tsuge Sannojo.
Chúng ta muốn nhờ ngươi giúp một tay.
- Sao phải nhờ ta giúp ? Tsuge Sannojo đáp. Các bác là đàn em Tsujikaze hả ?
- Không. Chúng ta muốn bắt tên cướp hỗn láo đó !
- Chịu thôi. Ta không giúp được. Trông dáng dấp nó khỏe lắm, bốn người chưa chắc địch nổi chứ đừng nói ba. Nhất là lại còn cô này vướng chân vướng cẳng, làm gì được ?
- Thế ngươi bảo bây giờ phải làm sao ?
- Theo ta nghĩ thì chỉ có cách này là thượng sách. Trói cô bé vào gốc cây đằng kia rồi hai bác với ta xuống núi tìm mẹo mà bắt nó. Xong việc trở lại dẫn cô bé này đi.
Hai tên gật gù cho là phải. Bèn sẵn dây, trói Otsu vào gốc cây. Một tên còn cẩn thận xé vạt áo bịt miệng để nàng khỏi kêu cứu.
- Thôi được rồi. Đi mau mới kịp.
Dứt lời, cả ba theo nhau xuống núi.
Jotaro chờ cho cả bọn đi khuất mới chạy ra. Nó ôm lấy Otsu, nước mắt tràn đầy má:
- Chị ! Chị !
Đôi mắt Otsu cũng sáng lên vui mừng nhưng nàng chỉ ú ớ. Bấy giờ Jotaro mới sực nhớ, vội cởi miếng giẻ bịt miệng và dây trói Otsu ra. Hai chị em ôm nhau. Jotaro khóc tấm tức, Otsu vỗ lưng nó nhè nhẹ. Trong đời Jotaro, chưa lúc nào nó thấy sung sướng bằng lúc ấy. Nó lẩm bẩm một câu cảm ơn đức Phật linh thiêng học mót được khi còn ở đền Arakida. Otsu nghe, thấy sai, cười thầm trong bụng, định sửa lại cho nó, nhưng lại thôi. “Ồ, hà tất ! Miễn lòng thành thực thì đức Phật ngài cũng chứng giám”.
-
CHƯƠNG 30
BƯỚM ĐÔNG
Akemi tung chăn ngồi dậy. Phòng trọ vắng vẻ, ánh chiều nhạt dần. Bóng một cành thông thấp thoáng lay động in lên khugn giấy vàng úa trên song cửa, và con chim gáy sau nhà cũng thôi không còn buông những tiếng kêu cúc cu đều đều buồn bã.
Một mình trong phòng, Akemi cảm thấy cô đơn tràn ngập. Vết thương Seijuro để lại trong lòng nàng thật sâu đậm, Akemi càng nghĩ càng tủi thân, khóc rấm rứt.
Thôi thế là hết. Tấm thân giữ gìn bấy lâu nay, giờ đây hoen ố, nàng biết làm sao giải thích cho người yêu trong mộng.
Vừa thoát chết, Akemi mất hết can đảm, không dám nghĩ đến chuyện ra bãi biển lần nữa. Với tay lấy cái lược chải sơ mái tóc, thắt lại chiếc “obi” rồi bò ra khỏi chiếu nằm, nàng kéo cửa lùa rón rén bước khỏi phòng trọ.
Gió lạnh bên ngoài làm Akemi dễ chịu. Cơn nóng trong người đột nhiên giảm bớt, nàng có cảm tưởng như vừa được uống một chén nước lạnh.
Như con chim mới sổ ***g còn e sợ không dám vỗ cánh bay cao, Akemi dựa lưng vào hàng hiên, ngồi suy nghĩ. Đi đâu ? Về đâu ? Mẹ nàng đã bỏ đi theo Toji, nàng chẳng tìm làm gì, mà ví dù có tìm được, nàng cũng quyết không để cho mẹ bán mình lần nữa. Tứ cố vô thân, cánh bướm mong manh lạc giữa mùa đông, biết nơi nào an toàn mà nương tựa. Akemi kéo vạt áo lau nước mắt, đứng dậy:
Thôi thì cũng liều ! Và men theo hàng giậu thấp, lẻn ra cửa sau trốn.
Ở bến đò, người đi lại tấp nập, gồng gánh chen đẩy. Akemi nhìn đám đông, trông ai cũng thẹn, tưởng như họ đều đã biết rõ cảnh ngộ mình. Giống như chim bị tên sợ cây cong, nàng né tránh hết mọi người và ngồi ẩn trong một bụi rậm chờ trời tối.
Những ngày cuối năm, tại bến đò chỗ nào cũng đông nghẹt khách vãng lai thuộc đủ mọi giai tầng xã hội:
tăng lữ, Samurai, thương nhân, kẻ chợ người quê, chen nhau mua sắm hoặc đáp thuyền về quê quán.
Akemi chẳng biết đi đâu. Bầu trời xám nặng như chì, nước sông cuồn cuộn chảy.
Lòng nàng còn nặng gấp mấy bầu trời, mà khối nước của dòng sông kia giá đem rửa những vết nhơ trên thân thể nàng thì cũng khó mà sạch. Mối tình u uẩn của nàng, tuy Musashi không hay biết, nhưng đã ăn sâu vào tâm khảm người thiếu nữ. Nó là bông hoa dại, khi ở đồi Ibuki mới còn là nụ, theo năm tháng nay đã đến độ mãn khai, được chăm bón bằng thương yêu, mong nhớ và cảm phục. Thân nàng dù bị dày xéo, bông hoa yêu đương vẫn nguyên vẹn. Nàng chỉ tiếc nó chẳng được hoàn toàn như lòng mong ước.
Nghĩ đến Musashi, Akemi sực nhớ đến lời chàng nhắn Matahachi qua miệng tên tiểu đồ:
chân dưới chân cầu Gojo, ngày nguyên đán. Một tia hy vọng lóe lên, Akemi lau vội nước mắt. Tay run run, nàng lấy trong bọc ra cái túi đựng số bạc vụn dành dụm bấy lâu nay, lẩm nhẩm tính, rồi cả quyết theo chân bọn khách thương bước xuống thuyền đi Kyoto.
Đối với Akemi, Kyoto chẳng xa lạ gì. Ở bến tàu bước lên, trời đã chạng vạng tối.
Nàng không muốn về xóm cũ, nơi có quán Yomogi của mẹ nàng khi trước, sợ gặp người quen, nên theo đường nhỏ vòng ra phía cổ thành đến khu Teramachi. Ở đó nhiều đền miếu, Akemi hy vọng tìm được ngôi chùa nào có vị trụ trì nhân từ cho nàng tá túc qua đêm, rồi sáng hôm sau hãy tính.
Giữa hàng liễu úa, cành rủ lưa thưa, Akemi lủi thủi đi. Gió sông thổi lạnh căm, nàng xuýt xoa run rẩy kéo vạt áo giữ hơi ấm.
- Cô em ! Này cô em, đi đâu vội thế ?
Akemi giật mình quay lại. Một người vừa gầy vừa cao, không đoán được tuổi, quần áo rách rưới bẩn thỉu, theo chân nàng từ bao giờ. Râu tóc gã lởm chởm gớm ghiếc, bên hông đeo song kiếm, dáng điệu nửa hành khất, nửa giang hồ lãng tử. Akemi hơi sợ, cắm cúi đi, chân bước nhanh hơn.
- Cô em ! Giải “obi” của cô tuột rồi đó, có muốn thắt lại, ta giúp !
Nàng không nói gì, chỉ rảo bước. Qua mấy năm sống ở Cổ thành, nàng nghe đồn có nhiều tên du đãng nghèo đói thường hay la cà ở các quán rượu, hoặc núp tại các khu đường vắng chờ khách cô thế đi qua xông ra ăn cướp. Akemi đoán tên này chắc cũng thuộc vào loại ấy.
- Xinh đẹp như vậy sao không bới tóc cho cao, đến những nơi thanh lịch chứ ở chỗ hoang vắng này làm gì ? Hay chán cảnh gia đình rồi bỏ nhà đi hoang đấy ? Để ta đưa về...
- ...
- Em nên cẩn thận, đêm khuya thân gái, thiếu gì đứa vô lại rình mò, nó bắt đem bán cho lái buôn, gái Kyoto có giá lắm ! Ở Edo bây giờ nhiều thanh lâu, hay em về ở với ta, mình tính kế làm ăn ...
Gã cười hô hố, lúc đe dọa lúc dụ dỗ. Akemi bực mình vì những lời lải nhải, gắt:
- Ngươi là ai ? Đi đi, ta không dễ gì dụ dỗ.
- Á à ! Nói thật đó. Ta thương cô em, thật tình muốn giúp ...
- Cút đi !
Bị mắng, gã chỉ cười, hàm răng khấp khểnh cáu bẩn trông gớm chết.
- Cút đi ! Không ta ném hòn đá này thì bỏ mạng.
Tuy bên ngoài nói cứng nhưng trong lòng Akemi sợ lắm. Ven đường cây cỏ um tùm. Thấy lẩn trong những bụi cây cỏ ấy, vài gốc tùng trắc mọc hoang, lùn tè, trong bóng tối, mới dâng, có thể tạm làm chỗ ẩn thân được, Akemi cúi xuống vờ nhặt hòn đá, vung tay ném, gã kia né tránh. Thừa dịp tốt, Akemi lẩn ngay vào bụi rậm. Trên cao, nền trời sẫm xuống dần. Vài ngôi sao mới mọc lấp lánh. Tiếng ễnh ương lẻ loi kêu trong đám cỏ. Con đường mòn ven sông vắng vẻ mờ mờ sau màn sương mỏng xanh lam, nhẹ như khói.
Akemi cúi rạp người, như một con chồn, lủi giữa các bụi cây thấp. Chỗ này chắc xưa kia cũng là vườn tược của đền chùa chi đây, bây giờ hoang phế, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn di tích những lối đi lát gạch. Nàng thở thật khẽ, cố di chuyển nhẹ nhàng như bơi giữa biển lau sậy.
Đột nhiên, một bóng người từ trong bụi cây vụt nhảy ra đẩy nàng ngã sấp. Akemi chỉ kịp kêu một tiếng ngắn, bóng đen đã đè lên người nàng, ôm chặt, một tay bịt miệng, một tay giật dải thắt lưng. Akemi vùng vẫy, chân đạp tay tát.
Thì ra gã du đãng lúc nãy. Nó thông thuộc đường lối khu này nên nấp sắn một chỗ đón đầu, chờ đợi.
Gã thở hổn hển. Mùi rượu và mùi hôi thối từ miệng gã xông ra nồng nặc làm Akemi muốn ngất xỉu. Những sợi râu ngắn cứng đâm vào má, vào cổ nàng như những cái gai nhọn sắc. Akemi đau muốn kêu cứu nhưng những tiếng kêu chỉ là những tiếng ú ớ trong cổ họng.
Tên này gầy mà sao khỏe quá, nàng dùng tay cố đẩy mặt gã ra khỏi mặt mình nhưng không nổi. Trong lúc bối rối, bất ngờ một ngón tay nàng thò vào lỗ mũi nó. Nàng chọc mạnh một cái.
- Á !
Tiếng kêu ngạc nhiên đau đớn của tên du đãng làm Akemi giật mình. Gã lăn người sang bên, hai tay ôm mặt.
- Đồ chó đẻ ! Ông giết mày !
Akemi ngồi dậy, chống hai tay giật lùi về phía sau. Thấy chỗ rắn, nàng đoán chừng là một hòn đá, dựa lưng vào đó thở hổn hển. Akemi kinh hãi tột độ. Vạt áo nàng rách toạc một miếng, để lộ lần áo lót bên trong và phần ngực trần, trắng nõn dưới ánh sao đêm. Akemi chỉ kịp làm một phản ứng tự nhiên:
kéo vạt áo kia che lại rồi hai tay giữ chặt lấy ngực, tự vệ. Nàng lắp bắp:
- Ngươi ...ngươi muốn gì ?
Gã kia đã đứng lên, cười gằn độc ác. Nhìn người thiếu nữ yếu đuối trước mặt, không cách gì thoát khỏi nanh vuốt của gã, gã khoái trá, đi đi lại lại, tựa như con mèo vờn con chuột trước khi ăn thịt.
- Muốn gì ? Hề hề ...Muốn gì thì nàng biết đấy !
Và chồm tới định đè sấn nàng xuống.
Akemi nhanh mắt, lăn một vòng tránh được. Gã vồ hụt, ngã sóng soài. Cái ngã này làm gã đau điếng, vì sau tiếng “hự” va vào đá, không thấy gã trở dậy nữa.
Akemi lóp ngóp đứng lên, hai tay giữ áo, chạy thục mạng. Trong đêm tối, như một bóng ma, tà áo trắng bay phần phật giữa những bụi đỗ quyên và tử dương hoa đã tàn và lá xơ xác.
Akemi vừa chạy vừa kêu:
- Trời ơi ! Cứu tôi ! Cứu tôi với !
Tiếng kêu đứt quãng của nàng lạc trong hơi gió. Trong cái hoang tịch của cánh đồng Teramachi đêm đó, mảnh trăng hạ tuần cũng chưa mọc. Một tiếng cú rúc xa xa nhại lời kêu cứu của nàng và càng làm tăng thêm vẻ hoang vu, vắng lặng.
Tên côn đồ tỉnh dậy, giận uất người. Nghe tiếng kêu của Akemi, gã loạng choạng đuổi theo, miệng lầm bầm chửi rủa. Gã đuổi theo mỗi lúc một nhanh, những tiếng chửi tục tằn càng ngày càng gần lại và tiếng chân chạy nặng nề của gã làm Akemi rối ruột. Bước chân Akemi không còn vững, nàng thở hồng hộc, đến bên một vũng lầy thì kiệt sức quỵ xuống. Lá lau khô cứa vào mặt vào môi, nàng thấy xót và ở miệng có vị mằn mặn.
Akemi thở dốc tuyệt vọng. Lạnh, lạnh quá. Máu trong người nàng dường như chảy đi đâu hết. Akemi nhìn những ngôi sao lấp lánh đằng xa như trong giấc mơ, nhỏ dần, nhỏ dần rồi bóng tối chụp xuống toàn thân nàng, đen và sâu thăm thẳm. Nàng không còn biết gì nữa.
oo Tiếng gọi văng vẳng bên tai làm Akemi sực tỉnh. Chân tay nàng lạnh giá và trên mặt hình như có ai lấy nước lã vã vào. Akemi mở mắt lờ đờ nhìn xung quanh. Một bóng đen đang cúi xuống, giật tóc mai nàng và gọi khe khẽ:
- Này cô ! Cô ! Tỉnh dậy !
Akemi cựa mình, thở dài. Tiếng người kia vui mừng:
- Mô Phật !
Và tiếp theo, giọng ái ngại:
- Cô khát không ?
- Đây là đâu ? Phải bãi biển Symiyoshi không ?
Bóng đen lắc đầu:
- Hãy còn mê sảng. Giá có lửa sưởi thì tốt.
Đoạn cởi áo ngoài đắp lên mình Akemi. Nhưng nàng vùng dậy, hốt hoảng:
- Không ! Không !
Ngươi đừng sợ ! Tên đó chết rồi !
Và lấy tay chỉ người nằm cách đấy chừng một thước.
Akemi nhìn xác chết, giật lùi lại rồi nhìn người ngồi bên cạnh không hiểu. Giữa bóng đen âm u của những lùm cây rậm rạp, nàng không phân biệt được người đó thuộc thành phần nào trong xã hội, nhưng theo giọng nói, đoán chừng thuộc loại trung niên trở lên, và nghèo khổ. Tấm áo người ấy vừa đắp lên mình nàng làm bằng vải gai, chỉ những người bần cùng hoặc giai cấp đạo sĩ mới mặc.
- Lão ...lão là ai ?
- Ta là Tanzaemon đi khất thực qua đây, nghe tiếng chị kêu cứu, chạy lại thì đúng lúc tên côn đồ này định làm hỗn. Ta đập gậy lên đầu nó, tưởng đâu dọa cho nó bỏ, nào ngờ trúng chỗ phạm làm nó chết tốt.
- Mô Phật. Đa tạ lão trượng đã cứu tiểu nữ.
- Thế còn chị ? Nhà ở đâu ? Đêm hôm khuya khoắt đến chỗ này làm gì ?
- Thưa lão trượng ...
- Gọi ta là đạo sĩ. Ta là kẻ tu hành.
- Thưa lão đạo sĩ, tiểu nữ không có nhà và cũng không thân thích. Tiểu nữ ở xa đến, trời tối, không tìm được nơi quán xá nào hợp với túi tiền nên định vào khu Teramachi, xem cảnh chùa nào rộng cho tiện nữ ở qua đêm thì tá túc. Không ngờ ...
- Chị thật bất cẩn. Vùng Kyoto bây giờ nhiễu nhương lắm, bọn đãng tử hoành hành khắp nơi, đàn bà con gái ban ngày còn không dám ra chỗ vắng, huống chi ban đêm.
Nghe giọng nói và xem cách xử sự của đạo sĩ, Akemi yên tâm phần nào. Tuy nhiên nàng vẫn dè dặt:
- Gần đây có ngôi chùa nào không, lão đạo sĩ ?
- Không ! Ngôi chùa gần nhất cũng cách đây chừng một dặm. Chị sức còn yếu, không đi nổi đâu. Hay chị đến ngụ tạm chỗ ta ở ?
Akemi không nói gì, lòng lo lắng. Biết rõ ý nghĩ của nàng, đạo sĩ trấn an:
- Ấy là ta khuyên như thế, còn tùy chị quyết định.
- Thưa, thế nhà lão đạo sĩ ở đâu ?
Lão già mỉm cười:
- Ta cũng như chị, không có nhà. Ta ở nhờ một ngôi đền gần đây, cùng với một lão khất cái nữa. Nếu chị chẳng chê là hủ lậu thì cứ tự tiện.
- Đa tạ lão đạo sĩ.
- Vậy chị ngồi nghỉ, chờ ta một lát. Ta đọc bài kệ vãng sinh và lấy đá lấp cái xác kia lại, kẻo để quạ rỉa tội nghiệp.
Khi đạo sĩ làm xong việc thì trời đã khuya. Mảnh trăng lưỡi liềm vàng úa nhô lên khỏi đám tùng bách đen sẫm. Một con chim đêm bay ngang, cánh vỗ phành phạch, tiếng “quác” buông khô khan trong đêm tối vắng lặng.
Lão đạo sĩ đưa cho Akemi mượn cây thiền trượng chống tạm, rồi cả hai, kẻ trước người sau, theo con đường hẹp đi sâu mãi vào cảnh hoang dã.
Đến một nơi lau sậy rậm rạp cao quá đầu người, đạo sĩ dừng lại nói:
- Sắp đến rồi !
Nhưng Akemi nhìn trước nhìn sau chẳng thấy nhà cửa gì cả, chỉ thấy bốn bề lau lách mọc đầy, tiếng côn trùng ri rỉ trong đám cỏ. Nàng ngạc nhiên hỏi:
- Lão đạo sĩ ở đây sao ?
- Sau rừng kia là ngôi đền ta ở. Đối với chị chắc chẳng đủ tiện nghi, nhưng đối với ta thế cũng đủ.
Đi hết rừng lau, quả nhiên thấy một căn nhà. Một căn nhà gỗ hoang tàn, đổ nát hơn là một cảnh đền miếu. Lão đạo sĩ trèo lên thềm. Hàng lan can gỗ nghiêng ngả từ khi Matahachi bị lão dùng thế nhu đạo hất ra ngoài, vẫn còn nguyên đó, không sửa chữa.
Lão già kéo tấm liếp sang bên, đàn dơi thấy động bay tới tấp. Akemi giật mình, do dự không dám bước vào.
- Không sao đâu, bên trong ấm hơn nên dơi làm tổ. Chúng sinh cả, mình trọng nó, nó chẳng hại mình. Ta với nó sống hòa hợp chẳng bên nào cảm thấy phiền lụy. Để ta mồi chút lửa cho ấm.
Đạo sĩ nói đoạn đánh đá vào bùi nhùi, bẻ cành khô gây lửa. Chẳng bao lâu, gian phòng sáng hẳn lên, ngọn lửa vàng tươi bập bùng, nổ lách tách, tàn bắn ra xung quanh như những chiếc pháo bông nhỏ xíu.
- Chị có sợ ta giống như tên côn đồ lúc nãy không ?
Akemi lắc đầu. Đạo sĩ Tanzaemon này hình dung kỳ dị, nhưng phong cách nhân hậu, vả dưới ánh lửa trông lão già lắm, có lẽ đến ngoài sáu mươi. Râu tóc bạc nhiều, da mặt nhăn nheo, dáng dấp mang một vẻ gì phiền muộn, chắc ở tuổi thanh niên lão gặp nhiều đau khổ.
Nàng đưa mắt nhìn quanh phòng. Cảnh bần hàn không còn có thể nào hơn được, nhưng những đồ dùng cần thiết hàng ngày lão thu góp để hỗn độn làm nàng ngạc nhiên:
hai cái nồi đất, một cái đã mẻ miệng, cái hỏa lò, vài chiếc bát đĩa, mấy đôi đũa cắm trong cái ống tre treo trên vách. Gần đấy là một manh chiếu cũ, một cái gối cáu bẩn.
- Để ta đi nấu cháo. Chắc chị cũng đói rồi.
- Cảm ơn đạo sĩ, tiểu nữ không đói. Chỉ thấy sốt và mệt.
- Cảm hàn rồi đấy. Chị ra chỗ kia nằm nghỉ đi. Nghỉ là cách tốt nhất giữ sức khỏe chống bệnh. Đợi ta nấu cháo xong, ăn bát cháo nóng là khỏi.
Akemi cảm động. Nàng thấy lão đạo sĩ này dễ thương quá và đột nhiên nhìn căn phòng dơ bẩn của lão không còn ghê tởm nữa.
Lão đạo sĩ đổ gạo, nước vào nồi, bắc lên bếp rồi lấy ở góc nhà ra một mảnh gỗ. Lão tìm được ở đâu mấy cọng hành lá, rút dao găm ra, dùng mảnh gỗ làm thớt thái hành trên đó. Thái xong, lão trút vào bát, lau thớt đặt sang bên, lẩm bẩm:
- Để làm cái khay cũng tiện.
Akemi xin phép đi nằm nghỉ. Đạo sĩ mỉm cười:
- Vẽ. Mệt thì đi ngủ. Có cái màn rách đắp tạm, khi nào cháo được ta gọi dậy ăn.
Akemi không nề hà, nàng ngả mình xuống chiếu, định quơ tấm màn đắp thì một con vật gì nhảy vụt ra. Akemi giật mình ôm mặt kêu lớn. Lão đạo sĩ chồm dậy:
- Gì thế ? Cái gì thế ?
- Không biết vật gì trong đống chăn nhẩy ra.
- Chắc là chuột.
- Không phải. Nó to như con mèo, màu vàng ...
- Vậy chắc là con sóc. Khu này nhiều sóc và cầy cáo ...Thảo nào ta thấy gạo vương vãi.
Akemi vẫn còn lo sợ, đảo mắt nhìn quanh:
- Kia kìa ! Nó kia kìa ! ...
Lão đạo nhìn theo tay chỉ, trông lên cái kệ xiêu vẹo gần nóc nhà, thấy có đôi mắt tròn xoe, long lanh nhìn xuống không chớp. Đôi mắt nấp sau pho tượng Phật cụt đầu, loang lổ và ám khói mang một vẻ gì vừa tinh nghịch vừa chế nhạo làm pho tượng trở nên sinh động một cách kỳ dị. Lão vỗ tay, dậm chân, đôi mắt bỏ bức tượng chạy sang bên.
Thì ra đó là một con khỉ nhỏ. Nó đánh đu vào xà nhà, đuôi quắp lên xà gỗ, bỏ thõng mình đu đưa, nhe răng kêu khèn khẹc, da mặt nhăn nheo như quả táo phơi nắng.
- Cái con quỷ này không biết ở đâu đến. Từ trước ta có thấy nó bao giờ đâu ?
- Trong rừng không có khỉ à ?
- Đây là rừng lau, làm gì có. Chắc của ai nuôi đi lạc. Không sao đâu, ngươi cứ nằm nghỉ. Để cho nó vài cái hạt dẻ. Chúng sinh cả, chẳng nên đuổi nó làm gì !
- Nó phá lắm đấy !
- Trông thì cũng có vẻ thuần rồi, không ngại.
Lão đạo sĩ đem mấy quả thông và hạt dẻ ra để lên kệ rồi ngồi xuống mở nồi cháo ra khuấy nhè nhẹ. Mùi cháo nóng bốc lên thơm nức, tỏa khắp gian phòng. Lão hít hà, nuốt nước bọt ừng ực. Trông lão bấy giờ sung sướng, bồn chồn, tưởng như nồi cháo hoa kia chứa đựng tất cả cái tuyệt đích của khoái lạc trong cõi nhân sinh mà lão sắp được hưởng.
Chuông chùa Kiyomi từ xa vọng đến. Năm cũ sắp qua, năm mới gần kề, trong tháng này, chùa nào cũng thỉnh chuông lúc sang canh như để cảnh tỉnh chúng sinh ôn việc đã qua, tránh cảnh trầm luân trong biển u mê, hư vọng. Tiếng ngân nga theo gió thoảng đưa, êm êm như những tiếng vỗ về từ cõi cao cả xa xôi nào vọng tới, thay lời đức Phật từ bi xoa dịu nỗi đau khổ trong lòng người thiếu nữ. Akemi lắng nghe tiếng chuông, thiêm em dần rồi đắm mình vào giấc mộng.
- Đồ súc vật ! Bỏ ta ra !
Tiếng kêu thất thanh của Akemi trong giấc chiêm bao khiến đạo sĩ giật mình bỏ dở bài kinh. Lão đến bên chiếu, lay thiếu nữ. Nàng ngồi dậy ngơ ngác. Nỗi sợ hãi còn như ngưng lại trên đôi mắt lạc thần và trên đôi môi run rẩy trắng bệch của Akemi.
- Sao vậy ? Chuyện gì kinh động ngươi quá vậy ? Nói ta biết, họa chăng ta giúp ngươi được gì chăng ?
Akemi khóc òa. Đạo sĩ khẽ vỗ lưng nàng:
- Chuyện gì rồi cũng qua. Cứ nói đi. Nói đi thì vơi được sầu khổ. Ngẫu nhiên ta gặp ngươi, âu cũng là tiền định. Biết đâu những kinh nghiệm của ta chẳng giúp ngươi được phần nào.
Akemi lắc đầu thổn thức.
- A di đà Phật ! Xin đấng Vô Lượng cứu vớt chúng sinh.
- Đạo sĩ có thương con không ? Đạo sĩ khuyên con phải làm gì bây giờ ?
Thì ngươi phải nói cho ta biết chuyện gì chứ ?
Akemi cắn môi. Nàng đã tự nhủ không hở chuyện này cho ai biết nhưng sao đêm nay, cái đêm gần hết năm, chấm dứt một chặng đường trong cõi vô thủy vô chung, nàng không còn can đảm một mình mang gánh nặng tội lỗi và khổ đau ấy trên vai nữa.
Nàng muốn làm lại tất cả. Cũng như cây cỏ sang xuân đâm chồi nảy lộc, nàng thấy cần phải trút bỏ hết mọi ưu phiền cũ để cho dòng nhựa mới luân lưu trong cơ thể.
Nghĩ thế, Akemi lau nước mắt. Và nàng kể hết cho Tanzaemon nghe cuộc đời của mình, những chuyện xảy ra từ khi còn thơ ấu trên đồi Ibuki, phải vâng lời mẹ lột xác chết trên bãi hoang bán lấy tiền cung phụng mẹ, rồi gặp Takezo, theo mẹ mở trà thất, sông những năm sa đọa ở Kyoto, bị Yoshioka Seijuro cưỡng hiếp, nàng tự tử và được cứu sống ra sao, nhất nhất thuật lại. Nhiều đoạn không dằn được xúc động, Akemi nức nở.
Lão đạo sĩ ngồi nghe, không nói gì chỉ thỉnh thoảng lắc đầu. Nước mắt Akemi thấm ướt vạt áo gai trên đùi lão. Thương cho Akemi bao nhiêu, lão không khỏi không ghen tức với Seijuro. Ôi chao ! Lòng trần còn nặng, dứt đi thật khó. Nhìn đầu Akemi gục trên gối mình, phô làn da gáy trắng ngần, mịn màng. Tanzaemon giơ tay vuốt nhè nhẹ. Lão tự nhủ lòng:
“À thì ra da thịt này hắn đã làm chủ !”.
Mùi thơm da thịt quyện mùi phấn sáp thoang thoảng đưa lên ngây ngất. Hơi thở Tanzaemon nặng nề hơn. Đã lâu lắm lão không ngửi mùi này, bây giờ gần Akemi, lòng ham muốn của lão trỗi dậy. Tấm thân suy nhược tưởng khô cằn, giờ đây sống lại.
Một ý tưởng tội lỗi vụt hiện. Nhưng lão vẫn ngồi yên, vẻ trầm mặc, mục quang dán vào làn gáy đầy, trắng có những sợi tóc đen mướt chải thẳng hàng của Akemi. Trong phút hôn mê của lý trí ấy, màu trắng dường như mở rộng mãi ra, bao bọc lấy lão làm lão ngộp thở.
Một tiếng “kịch” ở đằng sau. Lão đạo sĩ quay lại. Con khỉ đã ngồi đấy từ bao giờ, loay hoay đang tìm cách mở nồi cháo. Đạo sĩ như tỉnh giấc, đẩy đầu Akemi ra, đến bên bếp lửa. Tưởng có người đến đuổi, con khỉ chạy vội ra hiên. Lão quỳ xuống, đầu cúi rạp, miệng lẩm bẩm chẳng hiểu là một đoạn kinh, một bài sám hối hay một lời cảm tạ.
Lúc sau, lão quay vào, Akemi vẫn còn phủ phục trên chiếu. Lão ôn tồn nói:
- Con ạ, đời người là bể khổ. Nhưng cái khổ của con so với cái khổ của bao nhiêu người khác vẫn chưa phải là to lớn. Đức Phật từ bi thương xót tất cả, cứu vớt tất cả. Con chỉ là nạn nhân của dục vọng. Quan trọng là tấm lòng. Tấm lòng con trong trắng thì con vẫn trong trắng. Múc cháo ăn đi con, cháo có lẽ khê rồi đó.
Nói xong, lão đạo sĩ nhặt bồ đoàn, cầm gậy lặng lẽ bước ra cửa. Đêm tàn, trăng lụn. Một tiếng vạc trên từng không vọng xuống, báo hiệu bình minh sắp rạng.
oo Cuối đông, vùng hoang địa quanh khu Teramachi lạnh buốt. Sương mù chỗ xanh lam, chỗ trắng đục, trên những ngọn lau khô còn vương vất chưa tan mặc dầu bấy giờ là cuối giờ thìn sang giờ tỵ.
Một tiếng “choét” sắc, gọn, vài cái lông rơi lả tả, tiếng vỗ cánh bay đi của con chim cắt. Thế là hết. Cuộc đời một sinh vật vừa được cáo chúng. Cắt tha mồi bay đến đậu trên cườm tay của Kojiro. Hắn giơ con mồi lên, quay gọi Seijuro:
- Đại huynh ! Bữa nay mình đi săn thế là hên đấy chứ ! Mới sáng mà đã được chú chim gáy này rồi. Cắt này khá lắm !
Con chó săn theo sau, cất tiếng sủa vang, đuôi ve vẩy.
Kojiro bỏ mồi vào bị đeo bên hông, lấy tay đập nhẹ nhẹ lên đầu chim cắt, đậy chiếc mũ da nhỏ xíu che mắt nó lại rồi tiếp tục len lỏi giữa hàng lau.
Hôm qua cũng gần chỗ này đây, con chó cắn đuôi con khỉ khiến nó bỏ chạy.
Không biết bây giờ đâu, đệ đoán nó trốn ở trong tàn cây đằng kia thôi ...
Không nghe trả lời. Ngạc nhiên, Kojiro ngoái cổ nhìn, không thấy Seijuro đâu, bèn quay trở lại.
Nửa tháng nay, ngụ tại võ đường Yoshioka, Kojiro chẳng có việc gì làm, bày trò tiêu khiển, thường cùng với chưởng môn nhân Yoshioka mang cắt đi săn bắn. Bữa trước qua đây, chẳng may con khỉ của hắn sợ hãi bỏ đi, bữa nay hắn muốn trở lại tìm.
Seijuro chẳng có lòng dạ nào đi săn, chỉ vì cần đến võ tài Kojiro mà hắn phải chiều. Hai tuần chung sống với gã thiếu niên, nhiều khi hắn bực mình thấy rõ sự trưởng thành không đi đôi với tuổi trẻ. Kojiro ưa rong chơi, tính nết phóng đãng gần như buông thả, y phục sặc sỡ không ra thế nào. Seijuro đôi khi dùng lời bóng gió nhắc nhở, Kojiro chỉ cười, không để ý.
- Tiểu đệ còn trẻ, để khi nào lập gia đình, sống vào khuôn phép cũng còn kịp chán.
Nhìn Seijuro cau có, buồn rầu ngồi trên tảng đá, Kojiro đến bên vồn vã:
- Đại huynh trong người không được khỏe chăng ?
- Không, tại hạ vẫn bình thường.
Một lát lại nói:
- Dạo này ta với thiếu hạ làm điều đó thật lầm.
- Điều gì ?
- Đi săn. Cứ rong chơi mãi chẳng luyện tập, ngày nguyên tiêu gần đến rồi, sao đủ sức địch với hắn !
Kojiro cười để lộ hàm răng trắng bóng:
- Không sao. Theo ý đệ, ta chẳng nên lo lắng vô ích.
- Nhưng thiếu hạ phải biết hắn là tay ghê gớm, chẳng nên khinh thường. Binh pháp có nói không bao giờ được khinh địch. Trước khi tranh đua, phải chuẩn bị và tập luyện kỹ càng.
- Đệ biết chứ. Nhưng bây giờ trễ rồi. Cách tốt nhất là giữ cho lòng bình thản thoải mái. Thắng địch tùy thuộc nhiều yếu tố ...
Tuy nói thế, nhưng trong thâm tâm Kojiro coi thường Seijuro lắm. Hắn cho Seijuro hẹp hòi, không biết nhìn xa trông rộng và thiếu những dự phóng tương lai.
Tài năng lại kém cỏi, mấy lần thử so gươm với Seijuro, hắn lấy làm lạ một người như vậy mà giữ chức chưởng môn một môn phái danh tiếng. Chả trách gì Yoshioka càng ngày càng lụn bại.
Theo ý riêng hắn, có lẽ em Seijuro là Denshichiro nhiều khả năng hơn, nhưng nghe nói Denshichiro rượu chè be bét, lại vô trách nhiệm, việc gì cũng phó mặc ông anh nên chưa chắc Denshichiro bảo vệ được gia phong. Vả có muốn tìm cũng khó. Hạc nội mây ngàn, biết tung tích hắn đâu mà tìm về cho kịp.
Kojiro lắc đầu, thương hại Seijuro và cả phái Yoshioka. Nếu chưởng môn nhân Yoshioka đọc được những điều Kojiro đang nghĩ, chắc hắn mất tinh thần lắm.
Có tiếng chó sủa dữ dội đằng xa. Kojiro nói:
- Chó thấy mồi rồi. Để đệ ra xem sao.
- Thiếu hiệp cứ đi săn, nếu muốn. Ta về đây !
Kojiro sửng sốt định nói gì, nhưng nghĩ lại thôi. Hắn mặc kệ Seijuro, theo hướng chó sủa, vạch lau xăm xăm đi tới.
Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần. Đến nơi, thấy con chó săn đứng trước thềm một căn nhà đổ nát, vươn mình sủa dữ dội. Hắn đá con chó một cái, ghé mắt nhìn vào trong nhà tối như hũ nút. Hắn giơ tay kéo liếp. Con chó nhảy xổ vào nhanh như tên bắn. Tiếng kêu thét hãi hùng, tiếng chó sủa ủng oẳng, đồ đạc đổ vỡ rầm rầm lẫn với tiếng la hét thất thanh của một thiếu nữ làm căn vách ván rung rinh như sắp sập.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng, Kojiro nhìn con chó đè lên hình thù một người nằm trên chiếu. Mõm nó ngoạm vào cánh tay người ấy, lắc đi lắc lại định rứt đứt tay áo. Con khỉ lông vàng của hắn nhảy choi choi trên cái kệ gỗ, nhe răng kêu khẹc khẹc.
Không suy nghĩ, Kojiro nhẩy xổ đến, hai tay nắm hai hàm răng con chó bửa mạnh. Một tiếng rắc, tiếp theo là những tiếng ằng ặc, máu tuôn xối xả, bắn cả vào mặt mũi hắn. Con chó dẫy đành đạch, máu lẫn với rãi rớt phun ra ướt đầm mảng lông cổ trước ngực. Một lát sau thì tắt thở hẳn.
Kojiro quỳ bên Akemi nằm thiêm em. Hắn vạch tay áo nàng lên, vết răng chó cắn sâu vào tận trong thịt, máu loang ướt cánh tay trần. Áng sáng bên ngoài hắt qua khe liếp hé, trông nàng như một đóa phù dung bị xéo nát.
Kojiro ghé miệng hút máu từ vết thương ra, nhổ đi mấy lần, rồi xé vạt áo buộc lại. Hắn lượm xác con chó vất ra sân, đoạn xốc Akemi lên vai.
Gió lạnh bên ngoài làm hắn rùng mình. Hắn kéo vạt áo che cho người thiếu nữ.
oo Đến khuya, lão đạo sĩ trở về. Cảnh hoang vắng của căn nhà thê lương hơn và tự nhiên lão linh cảm có một chuyện gì ghê rợn vừa xẩy ra. Lão hốt hoảng gọi:
- Chị ! Chị còn đấy không ?
Không có tiếng trả lời. Chỉ thấy lão hành khất già ở phía sau lê bước tới.
- Nàng bị bắt đi rồi.
- Ai bắt ?
- Một tráng sĩ cao lớn còn trẻ lắm, mặc áo đỏ viền xanh, đeo trường kiếm.
- ...
- Chà ! Con người mới khỏe và đẹp làm sao ! Đẹp trai hơn ta và lão nhiều ! Sức lão chẳng giữ được nàng đâu !
Nói xong như rất vừa ý về câu pha trò đó, lão hành khất cười hềnh hệch.
-
CHƯƠNG 31
TÌNH HUYẾT NHỤC
Seijuro về đến võ đường, mặt cau có. Hắn ném con cắt cho một đệ tử bảo nhốt vào ***g rồi ngồi phịch xuống ghế.
- Kojiro tráng sĩ không về cùng với tiểu chủ ư ?
- Không. Nhưng chắc hắn cũng sắp lại.
Seijuro vào nhà tắm thay áo rồi ra ngồi ở đại sảnh.
Võ đường đóng cửa từ ngày hăm lăm, phần lớn võ sinh đã tản mát về quê ăn Tết cả. Những tiếng đao kiếm không còn rộn rã như mọi ngày và lò sưởi cũng không nhóm vì tiết kiệm than củi. Không khí lạnh lẽo càng thêm giá buốt và làm tăng vẻ rộng lớn của gian đại sảnh. Sàn gỗ đen im lìm. Đây đó vài giá binh khí đứng trơ trọi. Seijuro bước vào, nhận ngay thấy cái cảnh hoang vắng ghê người ấy. Ngồi bên chiếc bàn thấp, hắn bất giác thấm thía nỗi cô đơn của chính lòng mình và sự bất lực của cả môn phái. Hắn rùng mình, mất hết ý chí chiến đấu. Sự trụy lạc trong tâm hồn của Seijuro còn đáng sợ gấp mươi lần sự trụy lạc của võ phái hắn đang đảm trách.
Seijuro rung chuông gọi đệ tử hầu cận. Chẳng thấy ai tới, hắn uể oải đứng dậy vén màn cửa nhìn ra ngoài.
Bên kia vườn, trước gian nhà gỗ dùng làm văn phòng của viên tổng quản, vô số người ngồi đứng lố nhố. Đủ các hạng. Thợ mộc, thợ nề, lái buôn, chủ tiệm rượu, thấp thoáng có cả bóng phụ nữ. Họ là những khách thương và phu phen bấy lâu nay vẫn thường cung cấp nhu yếu phẩm hoặc sửa chữa võ đường đến đòi nợ cuối năm. Ai nấy nếu không bồn chồn thì cũng lo lắng, vẻ giận dữ hiện ra nét mặt.
- Không biết bao giờ ông quản mới đến ? Nợ bác nhiều không ?
- Cũng đến vài ngàn.
- Của tôi thì số nợ năm trước coi như xong, nhưng năm nay chưa được đồng nào cả.
- Lúc sinh tiền Kempo lão gia, đâu có bao giờ phải chầu chực thế này. Chẳng biết các ngài trong ấy ăn tiêu ra sao mà ông quản này chậm chạp đến thế ?
Họ hỏi han nhau, trao đổi những lời than phiền. Tuy thế một phần lớn vẫn còn giữ lễ độ. Danh vọng các bậc tiền bối Yoshioka còn để lại trong lòng họ một sự tôn kính mà hậu duệ của phái, dù hèn kém, chưa làm mai một.
Mãi đến trưa, khi mặt trời đứng bong, một toán chừng sáu bảy người, dẫn đầu là Ueda, mới khệnh khạng đến. Ueda nhìn đám chủ nợ, thấy toàn là thứ dân, bèn lên tiếng hách dịch:
- Tổng quản đi vắng, chưa về.
Quả thật, tổng quản Toji đã trốn rồi, ẵm luôn cả số tiền hắn quyên được của những đồ đệ và thân hữu, cùng với Oko đi biệt tích. Một chủ nợ đứng lên trần tình:
- Anh em tiểu nhân bất đắc dĩ phải đến đây. Năm cùng tháng tận rồi, xin các ngài trong quý phái trả nợ cho. Nếu không được hết thì cũng chi cho mỗi người một ít để bọn tiểu nhân lo trang trải nợ nần.
- Đúng rồi ! Bọn tiểu nhân không đợi lâu hơn được nữa.
Người khác nói.
- Nếu ngài không trả được thì cho bọn tiểu nhân gặp chưởng môn.
Ueda ghé tai đồ đệ nói nhỏ. Hắn chạy đi, lát sau trở lại thì thầm:
- Tiểu chủ bảo nói tiểu chủ không có nhà.
Ueda cau mặt. Tiến thoái lưỡng nan, hắn phân vân không biết xử trí ra sao, nhưng vì thân danh là một trong mười cột trụ của phái, hắn cao giọng:
- Bản chưởng môn không có nhà. Để thư thả, ta sẽ hoàn trả chu tất.
- Thư thả là đến bao giờ ? Hôm nay cuối năm rồi, không trả ngay không được !
Nghe giọng nói có vẻ hỗn xược, Ueda nóng mặt:
- Đứa nào nói không được ?
Mọi người im thin thít.
- Ta đã nói trả là trả. Bây giờ các ngươi về đi, ta còn nhiều việc khác.
Nhưng chẳng ai nhúc nhích. Một chủ nợ than phiền:
- Vay thì năn nỉ, trả thì khó khăn, còn lên mặt mục hạ vô nhân, không biết nhục !
- Đứa nào nói đấy.
- Ta nói !
Ueda đứng dậy, xăm xăm đến bên người vừa cất tiếng, xuất kỳ bất ý, thoi cho một quả. Mọi người ồ lên một tiếng kinh ngạc và bất nhẫn. Ueda nắm cổ áo người đó nhấc bổng lên ném ra cửa.
- Trông đấy ! Đứa nào còn nói hỗn sẽ biết tay ta !
Rồi đưa mắt cho đàn em:
- Dồn chúng nó ra cổng trước, đóng cửa lại !
Đồ đệ Yoshioka nhất tề xắn tay áo, mặt hầm hầm. Mọi người nhìn nhau cung cúc bước ra. Khỏi bờ mới quay lại chửi mắng thậm tệ Ueda và đồng bọn.
Seijuro ngồi trong sảnh, nghe tiếng ồn ào đã biết chuyện gì rồi nhưng vẫn cúi mặt làm ngơ. Vấn đề chi tiêu trong nhà, hắn chẳng bao giờ lý tới, mặc quản gia lo liệu.
Từ khi Toji bỏ đi, tất cả mọi việc đều do Ueda quán xuyến, cho nên thấy đàn em làm bậy, hắn cũng chẳng nói năng gì. Bản tính rụt rè, ưa hưởng thụ, hắn sợ, không muốn làm mất lòng kẻ tay chân.
Ueda bước vào thấy Seijuro vẫn còn ngồi thờ thẫn bên chiếc bàn thấp.
- Tiểu chủ, có chuyện gì không vui thế ?
Nhìn bọn thuộc hạ, Seijuro vững dạ. Hắn đáp:
- Không. Chẳng có chuyện gì. Sắp đến ngày rồi phải không Ueda ?
- Sắp rồi ! Bọn tiểu đệ đến đây cũng vì việc ấy. Tiểu chủ phải tính chỗ và giờ hẹn đi chứ, để còn thông báo cho nó biết, không chần chờ được nữa đâu.
- Ờ ...ờ ... chỗ nào tiện nhỉ. Ngươi nghĩ cánh đồng Rendaiji phía bắc Cổ Thành có được không ?
- Chỗ đó được. Đệ nghĩ chẳng còn chỗ nào hơn. Thế còn ngày giờ, tiểu chủ định ra sao ?
- Ngươi tính nên hẹn trước hay sau ngày hạ nêu ?
- Đệ cho là càng sớm càng tốt. Đừng để nó kiếm cớ trốn mất.
- Mùng tám được không ?
- Mùng tám là kỵ nhật lão tiền bối tổ khảo, tiểu chủ quên rồi sao ?
- Ừ nhỉ, vậy vào ngày mùng chín đi. Đầu giờ thìn, bấy giờ sương chưa tan, mình dễ xoay sở.
- Dạ. Bọn tiểu đệ sẽ cho yết bảng ngay tối nay dưới chân cầu.
- Vậy tốt !
- Tiểu chủ sẵn sàng cả rồi chứ ?
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên !
Nói thế nhưng Seijuro không an tâm. Tuy Musashi chỉ là một tên kiếm khách, nhưng gần đây có tin đồn đại gã đã giao đấu với nhiều cao thủ võ lâm và đều thắng cả. Seijuro hơi sợ. Hắn không muốn tự nhận mình tư chất kém cỏi, không đủ khả năng bảo vệ danh dự một môn phái lớn, mà chỉ cho là hiện giờ tâm không tĩnh, một phần vì tình hình tài chính của Yoshioka kiệt quệ quá, một phần cũng vì Akemi. Trong vụ Sumiyoshi, Akemi cự tuyệt hắn làm lòng tự ái của hắn thương tổn, hắn càng nghĩ càng giận. Lại Toji bỏ đi. Tất cả những biến cố ấy khác nào những mũi thương ác độc đâm thủng lòng tự tin của hắn, giảm nhuệ khí của hắn không ít.
Seijuro gọi người hầu, hỏi tin Kojiro. Thấy trình Kojiro chưa về, hắn ngạc nhiên. Nắng xiên khoai đã đổ dài bóng những gốc tùng, bách cao lớn sau nhà mà người hắn mong đợi tiếp tay vẫn còn mãi mê săn bắn làm hắn khó chịu, cảm thấy như bị phản bội.
Ueda trở lại, theo sau là một đệ tử mang tấm bảng gỗ mới cắt, chữ viết còn đen nhánh nét mực chưa khô. Seijuro nhìn tấm bảng, lẩm nhẩm đọc:
“Cáo yết Musashi lãng nhân kiếm khách, Phúc đáp yêu cầu của ngươi, bản phái quyết định ngày giờ gặp gỡ như sau:
Địa điểm:
Đồng Rendaiji, phía bắc Cổ Thành Ngày giờ:
đầu giờ thìn, ngày mùng chín tháng một xuân năm mùi.
Bản chưởng môn sẽ hiện diện. Nếu vì lý do gì ngươi không đến, bản phái giành toàn quyền điếu mạ ngươi trước công chúng. Phần bản phái, nếu không giữ lời hứa, xin quỷ thần tru diệt.
Làm tại sảnh đường Yoshioka ngày quý đông năm Ngọ
Chưởng môn:Yoshioka Seijuro”.
Seijuro đọc xong, gật gù:
- Được đấy !
Lời văn rõ ràng trong cáo thị làm hắn hết do dự. Ít nhất, tình thế đã ngã ngũ rồi, hay có lẽ bây giờ hắn mới ý thức được như vậy.
Ueda ra lệnh cho đồ đệ mang bảng ra cắm ngay dưới chân dưới chân cầu Gojo và trở vào ngồi cùng Seijuro bàn các việc sắp tới.
oo Dưới chân đồi Yoshida, Musashi len lỏi giữa những ngôi nhà nghèo nàn của các Samurai vọng tộc nhưng ít tiền. Những Samurai này phần lớn mang tư tưởng bảo thủ, cầu an, không ưa hay không thể làm được những việc xuất chúng, đành cam phận sống tầm thường như mọi người.
Musashi vừa đi vừa đảo mắt đọc những tấm bảng gỗ nhỏ đề tên gia chủ treo trước cửa mỗi nhà. Hắn tìm gia đình người dì, vì hắn chỉ còn có bà dì này với Ogin, chị hắn, là hai người thân duy nhất. Dì hắn lấy chồng Samurai, phục thị dưới trướng Tôn Điền. Có điều hắn không ngờ chú dượng hắn cũng chẳng giàu có gì, tư thất ở hỗn độn trong khu gia cư thanh bạch này, tìm được thật khó. Nhà nào cũng nhỏ chỉ hai gian, chen chúc nhau, co ro như sợ cái lạnh mùa đông, nấp sau mấy thửa vườn hẹp xơ xác, cây cối khẳng khiu, tuyết trong trận bão vừa qua vẫn còn đọng trên cành cây gầy guộc.
Cửa đóng kín mít. Ngày ba mươi Tết, tuy có đôi nhà trang trí trúc và cành thông theo tục lệ cổ truyền ở trước hàng hiên, nhưng thiếu hẳn cái không khí rộn rịp ngoài đại lộ.
Đi mãi không tìm được nhà, mà tứ bề vắng vẻ không biết ai hỏi thăm, Musashi tự nhủ:
“Chắc di mẫu ta dọn đi nơi khác rồi”. Bèn đi ngược trở lại. Đến gần chợ, sương chiều phủ kín khắp nơi nhưng phố xá ngày Tết vẫn còn tấp nập. Đèn đường nhòe nhoẹt rung rinh giữa những vòng ánh sáng vàng úa. Khách bộ hành mang xách đi lại vội vàng, lúc ẩn lúc hiện.
Một phụ nữ đứng tuổi bước ngang trước mặt Musashi. Đột nhiên hắn có cảm giác kỳ lạ, hình như đã thấy người này ở đâu rồi. Những nét quen thuộc lắm. Người đàn bà đi đã xa mà hắn vẫn còn ngẩn ngơ nhìn theo. Đứng một lúc, hắn sực nhớ :
nét mặt này là nét mặt của mẹ hắn, hắn vẫn mường tượng trong giấc mơ. Đúng rồi, chắc bà đó là di mẫu hắn. Tuy không gặp dì mười năm nay, nhưng cái vẻ mặt và cái dáng đi ấy, hắn không sao quên được.
Musashi chạy theo gọi. Bà kia dừng lại, nhìn hắn ngạc nhiên tột độ, nhưng trong khóe mắt nhăn nheo và trong tròng mắt bắt đầu mờ đục vì cuộc sống khó khăn, thoáng một niềm nghi kỵ:
- Ngươi là Musashi, con ông Munisai phải không ?
Đến lượt Musashi ngạc nhiên. Hắn tự hỏi không hiểu sao dì hắn lại gọi hắn là Musashi mà không là Takezo. Trực giác bén nhậy của hắn cho biết rõ ràng hắn không được tiếp đón nồng nhiệt. Nhưng vẫn thành thật đáp:
- Vâng, con là Takezo, dòng họ Shinmen.
Bà dì nhìn Musashi từ đầu đến chân, không một lời mừng rỡ:
“Ồ ! Con đã lớn thế này rồi cơ à !” hoặc “con đấy ư, lâu lắm dì chẳng gặp con” ... Bà chỉ lạnh nhạt nói:
- Mày đến đây làm gì ?
- Thưa di mẫu, cũng không có lý do gì đặc biệt. Nhân đi qua Kyoto, con tạt vào thăm di mẫu và chúc di mẫu cùng di trượng sang năm mới an khang.
Hắn nhìn nét mặt, chân tóc bà dì. Nhiều nếp nhăn ở đuôi mắt, vành môi, chân tóc cũng đã bắt đầu nhuốm bạc. Nếu mẹ hắn còn sống, bà cũng tuổi này và chắc còn nhiều vết nhăn hơn. Giọng nói hẳn cũng thế.
Bà dì tỏ vẻ không tin:
- Mày đến thăm ta ư ?
- Dạ, con cáo lỗi đã không báo trước.
Bà giơ tay đuổi Musashi:
- Vậy bây giờ đã gặp ta rồi thì thôi, đi đi !
Kinh ngạc về lời nói quá vô tình ấy, Musashi giận dữ:
- Tại sao di mẫu lại đối với con như thế ? Nếu di mẫu đuổi con, con xin đi ngay chẳng dám làm phiền, nhưng con muốn biết tại sao. Hay con đã làm điều gì để di mẫu phật ý. Ít nhất di mẫu cũng cho con biết chứ !
Dường như hối hận vì thái độ lạnh nhạt của mình, bà đi quay đi, không trả lời vào câu hỏi. Bả nói lảng:
- Ừ, thôi đã đến đây thì về nhà, chào dượng mày một câu. Ta là dì mày, cũng không muốn mày đi khỏi nơi này rồi đem lòng oán giận ta.
Musashi theo bà về nhà. Hắn đợi ở phòng ngoài chờ bà vào báo cho dượng hắn biết. Tiếng ho khan và thở khò khè của một người bị bệnh suyễn ở phòng trong vọng ra cùng với lời nói bực tức:
- Sao ? Con ông Munisai à ? Nó đến đây làm gì thế ? Sao bà để nó vào nhà mà không báo cho tôi biết trước ?
Tiếng dì hắn nói thầm những gì không rõ, rồi tiếng lục đục của người ở trên giường bước xuống tìm dép. Sau cùng, cánh cửa lùa mở và ông Kaname bước ra, mắt hấp háy.
Kaname là dượng hắn, dáng thấp lại hơi gù, hai vai so lại vì bệnh hoạn. Nhìn Musashi, ông tỏ vẻ khinh rẻ ra mặt, một sự khinh rẻ thường thấy ở những người tình thành nhìn bà con thô lỗ của họ Ở quê ra thăm:
- Thằng Takezo đấy à ? Mày đến làm gì thế ?
- Con nhân có việc đi qua Kyoto, đến thăm di trượng.
- Láo !
- ...
- Mày trí trá lắm, ta lạ gì. Đừng tìm cách dối gạt. Ở Mimasaka người ta đuổi mày nên mày trốn lên đây chứ gì ?
Musashi đứng sững. Hắn không ngờ dượng hắn lại có thái độ như vậy.
Dưới ánh đèn lờ mờ, dì hắn ngồi lặng thinh trong góc phòng, đầu hơi cúi.
- Mày giết người, dụ dỗ con dâu người ta, làm bại hoại gia phong, thật đáng xấu hổ, bây giờ còn đến đây định bêu xấu chúng ta nữa ư ?
Nói xong dượng hắn thở hổn hển. Dường như câu nói dài và sự tức giận làm ông mệt nhọc, ông giơ tay đỡ ngực. Musashi buồn rầu, tuy biết bị hàm oan nhưng trước cảnh ấy không giữ được lòng thương xót.
- Thưa di nương di trượng, con biết đã làm nhiều điều không phải, nhưng bấy giờ con còn dại. Bây giờ xin sửa đổi.
Ông lão hình như không để ý đến lời hắn nói. Ông ngồi xuống chiếu tiếp tục mắng nhiếc:
- Dân làng ruồng bỏ mày, chắc mày phải bỏ đi cũng vì thế. Gieo gió gặt bão, ông Munisai dưới mồ hẳn không được nằm yên.
Musashi thấy di trượng, di mẫu tỏ ra phiền lòng và giận dữ quá, bèn cáo thoái:
- Thôi, con chỉ đến để chào di trượng và di mẫu. Bây giờ xin cho con được kiếu ...
- A ! Không được ! - Ông Kaname giận dữ cắt ngang - Mày không đi bây giờ được. Mày biết ai đợi mày ngoài ấy không ? Mụ Honiden. Mày mà gặp mặt mụ thì phiền lắm.
- Ô ! cụ Osugi đến đây ư ?
- Chứ gì nữa. Tháng trước mụ tới đây, kể cho chúng ta nghe hết về mày. Nếu không phải vì tình huyết nhục thì ta đã trói mày giao cho mụ ấy rồi. Nhưng mày là cháu, chúng ta nghĩ tình đối với ông Munisai và mẹ mày nên giữ mày lại. Mày nên đợi đến khuya hãy trốn đi.
Musashi buồn phiền khôn tả, biết có trần tình cũng vô ích nên chỉ ngồi cắm mặt xuống đất. Những lầm lỗi của hắn trong tuổi thiếu thời không ngờ đã bị cụ Osugi thổi phồng lên và đã gieo vào lòng di mẫu và di trượng hắn một ấn tượng xấu xa đến thế.
Dì hắn nhìn hắn thương hại, bảo hắn ra nhà sau nằm nghỉ. Một mình trong bóng tối, dựa lưng vào đống củi, một lần nữa, Musashi lại thấm thía nỗi đơn độc của mình. Hắn cởi cây gươm đeo bên sườn, vuốt nhẹ lên bao gỗ nhẵn bóng. Cảm giác mát rượi của vỏ gươm làm hắn thoải mái như những lời an ủi của người bạn cố tri.
Musashi ngồi đã lâu, không một ai hỏi han gì. Không khí trong vựa củi ẩm ướt lạnh tanh. Đói, mệt và buồn ngủ, hắn em đi lúc nào không biết.
Tiếng chuông giao thừa đổ hổi làm Musashi bừng thức giấc. Năm mới rồi, năm mới rồi đấy ! Giấc ngủ vừa qua đã đem lại cho hắn sự sảng khoái. Tâm trí lâng lâng thư thái, những bắp thịt sau một thời gian nghỉ ngơi như được dãn nở thêm ra và một luồng sinh lực mới chu lưu khắp thân thể.
Musashi đứng dậy vươn vai. Chuông chùa vẫn thong thả buông những tiếng ngân nga, uy nghi đĩnh đạt, đủ một trăm lẻ tám tiếng cho một trăm lẻ tám mê vọng của người đời, mỗi tiếng là một lời nhắc nhở họ về tính chất phù ảo của kiếp nhân sinh.
Musashi tự hỏi có bao nhiêu người trong đêm nay, cái đêm trừ tịch này, đã nói được:
“Ta đã làm xong điều ta phải làm, ta chẳng có điều gì hối tiếc”. Riêng đối với hắn, mỗi tiếng chuông lại làm hắn rùng mình nghĩ đến những tư tưởng, những hành động xấu xa hắn đã phạm phải trong năm qua, năm trước và những năm trước nữa.
Không năm nào không có những điều hắn không hối tiếc. Người đời thay vợ đổi chồng, đối đãi với tổ tiên, cha mẹ, anh em, con cái, ai dám tự hào đã không có điều gì xúc phạm ?
“Ta vẫn tự nhủ:
nhất định không mong nhờ ai điều gì mà sao vẫn còn hy vọng ở họ lòng thương yêu ? Thật là ngu xuẩn và dại dột. Ta phải quyết tâm và ghi điều này lên giấy mới được !”. Musashi mở hành trang, lấy ra một mẩu nến, đánh lửa thắp lên rồi rút ra quyển sổ giấy đã vàng trong đó hắn ghi những điều nhận xét về võ công, về địa lý cũng như những ý tưởng hỗn độn của hắn trên bước đường giang hồ, kèm theo với cây bút nhỏ. Hắn nhổ nước bọt vào cái nghiên con, mài mực, viết câu khai bút:
“Ta muốn không có điều gì phải hối tiếc”. Nhưng viết thôi, không đủ, hắn cần tìm một câu ngắn, gọn, ý nghĩa súc tích như một thành ngữ để có thể nhắc đi nhắc lại hàng ngày. Có thế hắn mới không quên. Bèn sửa:
“Ta sẽ không hối tiếc những điều ta làm”. Nhưng vẫn chưa vừa ý, hắn lại sửa lần nữa:
“Không làm những gì phải hối tiếc”. Musashi lẩm nhẩm nhắc đi nhắc lại câu này giữa những tiếng chuông lớn ngân nga và những tiếng chuông nhỏ đổ hồi báo hiệu một năm mới vừa điểm.
Cửa lùa xịch mở. Dì hắn thò đầu vào và nói, giọng run run thì thầm:
- Takezo ! Mày ở đây không được nữa rồi. Mụ Honiden đến ngoài kia và đòi chúng ta phải điệu mày ra. Chúng ta đã nói mày không có đây nhưng mụ không nghe. Đầu năm, đừng để xảy ra chuyện không hay.
Giọng bà dì hạ thấp hơn:
- Takezo, trốn đi mau. Dượng mày đang giữ mụ ngoài nhà khách.
Bà lẻn vào, cầm nón đội lên đầu Musashi và đẩy hắn ra phía cửa bếp.
Hắn vừa đi vừa khoác vội túi hành trang lên vai:
- Con ân hận và xin lỗi đã làm phiền di mẫu.
Bà tạt vào bếp lấy năm cái bánh dầy nhỏ, gói vào vuông vải trắng dúi vào tay hắn.
Musashi cung kính giơ bánh lên ngang trán tỏ dấu cảm ơn và đi vội ra cửa:
- Con xin vĩnh biệt di mẫu.
-
CHƯƠNG 32
DƯỚI CHÂU CẦU GOJO
Như cánh chim bạt gió, Musashi lầm lũi đi trong đêm tối, dưới trời giá buốt. Chiếc nón nan mong manh không đủ che đầu, gió lạnh lùa qua lần khăn mỏng quấn quanh trán, hắn phải cắn chặt hai hàm răng cho khỏi và vào nhau kêu lập cập. Hơi hắn thở ra trắng tựa khói, vướng vào hàng lông tơ trên mép chẳng mấy chốc đã đọng thành những giọt sương nhỏ li ti.
“Chà, lạnh dữ !”. Trước nay, lạnh như thế này đối với hắn có nghĩa gì đâu, sao đêm nay hắn run rẩy như chiếc lá ? Chắc chẳng phải vì cái lạnh bên ngoài mà vì lòng hắn nhu nhược. Như đứa trẻ nhỏ thích được mẹ ôm ấp nâng niu, hắn vẫn còn trông cậy vào tình thương của người khác. Trong thâm tâm, hắn chưa gạt bỏ được sự mong ước nắm một bàn tay trắc ẩn, nghe một lời âu yếm, hay nhận một cử chỉ vuốt ve, hắn vẫn còn bị tình cảm ràng buộc. Sự thất vọng vừa qua tại nhà người dì đã như một gáo nước dội vào dập tắt tất cả những mong ước ấy làm hắn lạnh tê, nhưng đồng thời cũng khích động lòng tự ái của hắn không ít. Hắn chẳng trách người dì và ông chú dượng, chỉ giận mình chưa đủ trưởng thành để sống một đời tự lập. Tự lập ! Trong cơn phẫn nộ với chính mình, Musashi nói to như hét:
- Tự lập ! Ta phải sống cuộc đời tự lập ngay tự trong lòng ta !
Tiếng kêu giận dữ phát xuất từ tâm khảm hắn vang lên tựa sấm động bên tai.
Trong giờ khắc trang nghiêm của buổi nguyên đán, giữa những tiếng chuông chùa dõng dạc uy nghi, tiếng kêu bi thiết ấy là lời hứa long trọng với chính mình, Musashi sung sướng như người vừa được giải thoát. Hắn bước nhanh hơn, hơi thở dồn dập, một thay đổi sâu xa đương làm đảo lộn cả tâm hồn và thể chất hắn.
“Kiếm đạo không phải là con đường dành cho những kẻ yếu hèn, không lý tưởng.
Người mang kiếm không lý tưởng chỉ là kẻ ăn mày lang bạt. Sự khác biệt giữa một kẻ ăn mày lang bạt và một hiệp sĩ giang hồ nằm trong đáy lòng mình chứ không ở nơi nào khác”. Musashi vừa lòng với những suy tư ấy. Hắn bước những bước dài, mạnh trên đường cỏ ướt sương và không còn thấy tê cóng trên đầu ngón chân như trước nữa.
Hồi lâu, cảnh trí xem chừng đổi khác. Rặng liễu ven đường nhiều thêm ra và nhà cửa cũng thưa dần. Dưới chân Musashi đã có những vũng nước đóng váng. Đôi lúc, hắn phải tránh đường mòn, đi lên bờ cỏ cho khỏi ướt chân.
Ngoài xa, một dải sương trắng đục mờ mờ, có lẽ là sông Kamo. Không ngờ hắn đến bờ sông Kamo chóng đến thế ! Trời còn tối lắm. Lau sậy và cỏ lác mọc rậm rạp ven sông càng làm cho bờ sông tối thêm, hắn không phân biệt được đâu là bờ, đâu là nước nữa.
Musashi men theo rặng liễu đến chỗ lũng cao. Trời chưa sáng, vả hẵn cũng không gấp nên quyết định ngồi nghỉ chân trên lũng. Nhìn quanh, vô số cành lá gãy, lá khô, hắn nhặt gom lại thành đống, mồi lửa đốt. Gió sông thổi ào ào, mấy lần lửa đã bắt lại tắt ngấm. Kiên nhẫn, hắn lấy nón che, thả từng chiếc lá làm mồi, đến khi lửa bốc cao, hắn xoa hai tay vào nhau khoan khoái và cởi hài xảo hong bên đống lửa. Ngọn lửa theo gió thổi tạt vào mặt nóng rát. Musashi lùi lại, bỗng tay chạm vào một túi nặng đeo bên mình. Sực nhớ đến mấy chiếc bánh dì hắn cho lúc sang canh, cơn đói ở đâu kéo đến khiến hắn ứa nước rãi. Hắn tháo túi, lấy bánh ra bày trước mặt, dùng cành khô xiên từng chiếc hơ lên lửa.
Bánh dầy gặp lửa phồng to tựa quả cam, vàng ngộm, nhắc hắn nhớ đến những ngày Tết nguyên đán xưa, khi còn nhỏ, hắn cũng nướng bánh ăn như thế này. Bánh dầy nhạt, không tẩm đường và cũng không có muối, nhưng dẻo và thơm, càng nhai càng có vị. Bất giác, hắn so sánh những chiếc bánh thuần hậu với cuộc đời hành hiệp hắn đang theo đuổi, đạm bạc mà cao khiết.
Musashi vui vẻ, vừa ăn bánh vừa ngó ngọn lửa bập bùng. Cơn gió thổi, ngọn lửa rạp sang bên rồi lại tỏa ra cháy xuê xoang hơn trước. Những tiếng nổ lách tách reo vui, một chút vui nhỏ trong niềm vui lớn sáng tạo của vũ trụ.
“Năm nay ta ăn một cái Tết nguyên đán của riêng ta ...giang hồ lãng tử như ta mà cũng có bánh ăn đầu năm thì chắc Trời Phật chẳng để ai đói lòng. Này sông Kamo là bạn, băm sáu ngọn Hải Nhai Sơn làm bối cảnh trang trí cho cây tùng xanh tốt ngoài kia !
Thật là hùng vĩ ! Ta phải làm cái gì mới được ! Ờ ờ ...ăn xong, ta sẽ xuống sông tắm gội cho thân thể thanh khiết đợi ánh sáng đầu tiên của năm mới.” Musashi lần ra bờ sông, cởi bỏ quần áo, xếp cùng với hành trang bên gốc liễu rồi nhảy xuống tắm. Nước lạnh quất vào da thịt làm cho bắp thịt hắn săn lại nhưng Musashi thấy sảng khoái vô cùng. Hắn vùng vẫy bơi lội, bọt nước bắn tứ tung chẳng khác gì một loài thủy cầm đang đùa nghịch.
Musashi vừa tắm xong, chân trời phía đông cũng vừa hửng sáng. Hắn bước lên bờ, linh cảm làn dương quang mới hé chiếu trên lưng, quay lại thì đúng lúc mặt trời vừa ló.
Xúc động trước vẻ đẹp bao la của cảnh vật, bóng tối lui dần dưới bầu trời rạng rỡ, sông dài, trời rộng trải thênh thang, Musashi cứ để nguyên thân thể trần truồng như kẻ cổ sơ, dạng chân giơ tay hít một hơi dài bầu không khí trong lành buổi ban mai vào ngực.
Giây phút huyền diệu ! Đột nhiên, hắn cảm thấy tâm hồn lâng lâng bay bổng, bừng lên một sự cảm thông với vô cùng và hòa đồng cùng vạn vật. Hắn không còn là hắn nữa, hắn là cái cây, là đám mây, là ngọn núi. Hơi thở của hăn, những tế bào trong cơ thể hắn chỉ là những mắt xích của vô cùng, ảo giác mà thôi, hiện ra rồi lại tan loãng vào thiên nhiên để mà luân lưu mãi. Không ngờ trong giây phút linh thiêng này, hắn vừa lý hội được cái nghĩa sắc, không của nhà Phật.
Musashi lau khô mình, sắp sửa mặc quần áo thì vừa hay nhìn lên lũng cao, thấy bóng một bà già bên đống lửa. Bà đó không ai khác hơn là cụ Osugi.
Cụ Honiden Osugi trông thấy hắn cũng không khỏi kinh ngạc:
- Đúng rồi ! Đúng hắn rồi !
Mới kêu được có thế, bà đã hụt hơi vì xúc động, hai tay giữ ngực rồi sụp xuống.
Chân tay run rẩy, bà thều thào:
- Lạy Trời lạy Phật, vong hồn cậu sống khôn thác thiêng run rủi cho ta gặp thằng ác tặc đây rồi !
Từ khi cậu Gon gặp nạn chết đi, bà luôn luôn đem theo trong mình một cái túi nhỏ đựng vài sợi tóc và lóng xương của người em bạc mệnh như một giải bùa để những khi trái gió trở trời, hoặc gặp chuyện gì phiền não, bà mang ra cầu nguyện. Tuy cậu mới chết chẳng bao lâu, nhưng không ngày nào bà không khấn vái vong linh cậu. Bà nguyền sẽ trả mối thù cho dòng họ đến hơi thở cuối cùng, giết cho bằng được tên đại gian đại ác, cho dù có phải tan xương nát thịt cũng cam lòng.
Nghe đồn có bảng cáo thị dưới chân đường Gojo của Yoshioka phái hẹn Musashi tỉ võ ngày nguyên tiêu, cụ Osugi không ngần ngại, vội vàng đến Kyoto xem hư thực. Bà chỉ sợ trễ, Musashi mà chết dưới tay Yoshioka rồi thì còn đâu để bả trả hận. May sao Trời Phật và đức Quan Âm bồ tát đã chứng giám lời cầu xin thành khẩn của bà, lại nhờ vong hồn cậu Gon linh thiêng, bà bắt gặp nó ở đây.
Thấy ánh lửa ven sông, bà đinh ninh cho là lửa của kẻ ăn xin nào đó đốt lên sưởi ấm, không ngờ lại chính là Musashi. Khi nhìn dáng dấp cao lớn của người dưới nước bước lên, dám khinh thường cái lạnh, tắm sông về mùa này, bà không còn hồ nghi gì nữa.
Musashi trần truồng là một dịp rất tốt cho bà tấn công, chờ lúc hắn đang mãi bận quần áo, xuất kỳ bất ý xông ra đâm cho một nhát, tất hắn tránh không kịp.
Nhưng bộ Óc già nua của bà không cho thế là phải. Bà nhắm mắt chắp tay cảm ơn Thần Phật, tin rằng Thần Phật sẽ phù hộ bà cho đến lúc chết. Mà có Thần Phật phù hộ thì lo gì bà không giết được nó ?
Khi cụ Osugi mở mắt ra, Musashi đã mặc xong quần áo. Túi hành trang trên vai, song kiếm giắt lưng, thoắt cái hắn đã nhảy qua vũng nước lớn, rảo bướ c đi về phía dưới chân cầu Gojo.
Cụ Osugi há hốc miệng, không ngờ hắn nhanh quá đến thế. Rút kiếm ra rồi, bà lại tra kiếm vào vỏ, chạy theo. Bà cũng khôn ngoan không lên tiếng thách thức, chỉ men theo hàng liễu và lẩn sau những bụi lau sậy, dõi bước chân hắn.
Bóng chiếc cầu gỗ đã bắt đầu hiện ra lờ mờ trong sương sớm cùng với những mái nhà rêu màu xám nhạt. Còn một thôi nữa thì đến chân cầu, Musashi bước nhanh. Hắn dư biết cụ Osugi đang đuổi theo nhưng hắn không quay lại. Vì quay lại, tất nhiên phải đối đầu với bà. Hắn phải tự vệ nhưng lại không muốn làm bà lão bị thương. “Thật là khó xử !”. Hắn tự nhủ thầm, và mỉm cười:
“Thật là một đối thủ lợi hại!”.
Nếu như hắn vẫn là thằng Takezo xưa kia, khi còn ở Miyamoto thì dễ quá:
hắn chỉ đấm cho một quả, bà sẽ nằm liệt giường hàng tháng. Nhưng nay hắn là người khác rồi.
Thực ra Musashi chẳng ưa gì cụ Osugi, nhưng hắn không căm thù bà như bà căm thù hắn. Hắn cho rằng lòng căm thù của bà sinh ra từ một điều ngộ nhận.
Hắn muốn trần tình, nhưng cái thế không cho phép. Chắc chắn hắn nói thế nào bà cũng chẳng nghe, bà vẫn nổi tiếng là người bướng nhất làng. Chỉ Matahachi nói, may ra bà mới để vào tai, vì thực ra ngoài Matahachi, còn ai có thể chứng minh chính con bà đã viết thư từ hôn với Otsu ?
Đến đầu cầu đường Gojo, Musashi chậm bước. Dịp may để cụ Osugi đuổi mau hơn. Trăm thước. Năm chục thước. Ba chục thước. Trông dáng đi của Musashi, sao bà ghét lạ ! Đến những vết chân hắn in trên đất, bà cũng ghét cay ghét đắng. Bà ngoảnh mặt đi, nhổ bọt, rồi không giữ nổi kiên nhẫn, hét lớn:
- Takezo !
Nhưng Musashi không chú ý, làm như không nghe tiếng.
- Takezo ! Mày điếc à ? Sao không nghe ta gọi ?
Musashi vẫn điềm tĩnh tiến bước.
Cụ Osugi tức uất, hai tay nắm chặt, cổ bạnh ra, chạy lên chặn đường hắn.
- Đứng lại !
Musashi giả vờ ngạc nhiên:
- Chà ! Ai như cụ Osugi ? Sao bà lại ở đây ?
- Tiểu tặc gian ác, đừng vờ vịt ! Sao ta lại ở đây ! Đáng lẽ ta phải hỏi mày câu ấy.
Ta đã để mày chạy khỏi tay ta trên sơn đạo chùa Phổ Quang, bây giờ không thể cho mày trốn thoát được. Ta phải lấy đầu mày !
Mặt cụ Osugi đỏ gay, gân cổ nổi lên như chiếc đũa. Giọng bà the thé phun ra từ cái miệng nhăn nheo có hàm răng vổ, thưa làm Musashi thấy sợ hãi hơn là tiếng thét xung trận của một đối thủ lợi hại.
Sự sợ hãi của hắn bắt nguồn từ hồi nhỏ, khi hắn và Matahachi đang mãi hái trộm dâu trong vườn thì bị bà bắt được. Bấy giờ hắn tám chín tuổi gì đó. Tiếng hét của bà làm hắn sợ hãi quá chừng, bỏ chạy mà trống ngực đập thình thịch. Thời gian trôi qua, cường độ của sự sợ hãi giảm bớt nhưng âm hưởng tiếng hét vẫn còn vang dội bên tai làm hắn giật mình khó chịu.
Phần cụ Osugi, tuy bây giờ Musashi đã thành niên, nhưng ấn tượng một đứa bé hỗn láo và man dại vẫn còn ghi trong ký ức. Khi Matahachi đăng lính, rồi Otsu, con dâu tương lại của bà bỏ đi, bà đều quy tội cho Musashi dụ dỗ. Vì những lời đàm tiếu trong làng, sự tức giận của bà mỗi ngày một tăng và nay trở thành thù hận.
Bây giờ, tất cả kỳ vọng của bà trước khi nằm xuống là được cắt đầu Takezo cáo gia tiên để trả mối hận đó.
Cụ Osugi giơ tay quệt mép, nhổ bọt vào gan bàn tay rồi rút kiếm đánh soạt:
- Takezo ! Thằng vô lại du đãng kia ! Rút kiếm ra nếu không đừng trách ta không báo trước.
Tích xưa, chuyện con bọ ngựa đá xe không biết có từ đời nào nhưng so vớ i cảnh này thì thật hợp. cụ Osugi chân tay khô đét chẳng khác gì càng bọ ngựa, mắt lồi, da mặt nhăn nhúm, chiếc áo chẽn bà mặc ngắn đến lưng, gió thổi phồng lên như hai cái cánh. Còn Musashi chẳng nói chẳng rằng, lừng lững như cỗ xe vững chãi, đưa mắt nhìn lão bà bọ ngựa múa kiếm chạy quanh. Cảnh tượng thật nực cười, nhưng Musashi không cười được. Hắn chỉ thấy thương.
Khi cụ Osugi đến gần, giơ kiếm định đâm, hắn không tránh, giơ tay nắm chặt lấy khuỷu tay bà.
- Thôi mà, bà bớt giận để con nói.
Giọng hắn cầu khẩn. Đang đà, cụ Osugi ngã xô vào người hắn. Hắn nhẹ nhàng đẩy ra.
- Bà hiểu lầm con rồi !
- Mày đừng tìm cách lừa gạt. Ta từng này tuổi đầu, ăn hơn mày bốn mươi cái Tết, mày chỉ đáng con cháu ta, chuyện gì ta phải nghe mày nói ?
Mặt bà đỏ gay, bọt sùi ra bên mép qua hai hàm răng vổ và thưa. Musashi lắc đầu:
- Bướng quá sức ! Thật chẳng hổ danh dòng Honiden.
- Tiểu tặc đừng hỗn. Ta không nghe những lời tán tụng của mày đâu. Bỏ tay ta ra !
- Bà hãy nghe con giải thích ...
- Không ! Không giải thích gì cả. Đọc kinh sám hối đi là vừa, trước khi ta chặt cổ mày !
Cụ Osugi vùng vẫy giằng tay ra, dáng điệu hung hăng như con gà chọi.
- Bà không nghe con nói thì con phải đoạt thanh kiếm này.
- Hứ ! Đoạt đi ! Nó là đồ gia bảo nhà ta. Mày giết ta mới lấy được. Đừng hòng !
- Xin bà bớt giận. Tuổi bà đã cao, giận dữ không tốt. Hãy để Matahachi nói bà rõ.
- Á ! Mày nói gì thằng Matahachi ?
- Con có hẹn hôm nay gặp Matahachi ở chân cầu. Nó biết rõ chuyện, bà đợi nó nói hết cho bà nghe.
- Xì ! Chỉ láo ! Thật xấu hổ, mày có phải con ông Munisai dòng họ Shinmen không ? Ông ấy có dạy mày khì phải chết thì chết cho đĩnh đạt không ? Đừng tìm cách gạt ta để rồi trốn như lần trước !
Mắt bà long sòng sọc ngước nhìn Musashi. Thấy hắn lặng thinh, bèn giật mạnh tay, nhưng vì dùng quá sức, bà bắn ra xa, ngã ngồi xuống. Musashi định đến nâng dậy song bà đã đứng lên kịp, cầm gươm xông tới:
- Nam mô quan thế âm bồ tát !
Cụ Osugi vừa niệm kinh vừa phóng ra một chiêu. Kiếm chiêu vừa run lại vừa chậm. Musashi khẽ nghiêng mình né tránh. Bỗng thấy nhói bên mí mắt, hắn đưa tay lên sờ. Không có máu, chỉ thấy cay và hơi ngứa.
Cụ Osugi quay lại tấn công lần nữa. Hắn nheo mắt nhìn. Mắt bên trái hắn cay như xát ớt, nước mắt chảy ra ràn rụa, hắn không hiểu tại sao.
- Nam mô a di đà Phật !
- Nam mô quan thế âm bồ tát !
Mỗi câu niệm Phật lại kèm theo một chiêu kiếm. Cụ Osugi điên cuồng chạy xung quanh Musashi, phóng kiếm đâm chém liên tiếp. Đôi dép da trâu dưới chân bà kêu lép nhép, mà hắn chỉ nghiêng mình tránh né.
Musashi phiền lòng quá. Nếu muốn, hắn chỉ giơ tay bà sẽ ngã ngay nhưng thấy bà yếu, hắn không nỡ. Mắt hắn bị thương, bây giờ cộm và ngứa. Hắn muốn giải quyết vụ này cho chóng xong mà chưa biết phải làm thế nào.
Đột nhiên, cụ Osugi giả chạy quá đà, quay ngược lại dùng thế hồi mã chém một nhát vào đầu Musashi. Musashi giơ tay đỡ. Soạt ! Lưỡi kiếm cắt đứt miếng áo ngoài và chạm vào cườm tay hắn. Cụ Osugi thấy đã chém trúng địch thủ, mừng rỡ nhảy lên:
- Mô Phật ! Phen này mày chết với ta !
Musashi cau mặt. Từ trước hắn vẫn coi thường bà lão, không quan tâm điều thắng bại, nhưng bây giờ biết là lầm. Binh thư cũng như kinh nghiệm đều dậy không bao giờ được khinh địch. Theo luật giang hồ, như vậy là hắn bại rồi. Vết thương ở cườm tay tuy nhẹ, nhưng chứng tỏ hắn đã bất cẩn, một điều hết sức tránh trong khi giao đấu.
Musashi hét một tiếng, chờ cho Cụ Osugi đến gần, vòng tay ra sau lưng bà điểm mạnh một cái. Bà lão ngã sấp, kiếm văng sang bên. Bà không đứng dậy được nữa, mặt nhăn nhó. Musashi dùng cầm nã thủ pháp khóa tay bà lại, đồng thời móc vào nẹp áo xách bà lên như xách con mèo. Tay kia hắn nhặt thanh gươm, cầm lăm lăm.
Cụ Osugi rên rỉ:
- Thằng này hỗn, thằng này hỗn ! Mày làm gì ta vậy ? Ối chao, đau ! Bỏ ta ra !
Không còn Thần Phật gì nữa hay sao ? Takezo. Thằng súc sinh này, mày hỗn quá!
Cụ Osugi giẫy đạp như điên, mồm la bai bải. Mặc ! Musashi làm như không nghe gì hết. Hắn giơ bà ra xa để bà khỏi đạp vào chân hắn rồi lầm lũi đi về phía cầu.
Đang phân vân không biết xử trí ra sao, bỗng xa xa gần bờ sông có chiếc thuyền nhỏ neo bên gốc liễu. Thuyền dường như bỏ trống. Một ý nghĩa thoáng hiện. Hắn xăm xăm xách cụ Osugi đến bên thuyền, tìm dây trói chặt chân tay bà lại.
- Trời ời ! Takezo, mày làm gì ta thế này ? Mày định trôi sông ta hay sao ?
Ừ giết ta đi, mày làm nhục ta quá rồi !
Musashi không đáp. Nét mặt hắn đăm chiêu, vẻ buồn và hối hận thoáng lộ trên khóe mắt.
- Qúa lắm rồi ! Thật không còn Thần Phật trời đất gì nữa ! Takezo ! Sẵn gươm kia sao mày không cho ta một nhát ?
Musashi nhẹ nhàng đặt bà lão lên thuyền.
- Bà nằm tạm đây, con đi tìm Matahachi.
Rồi hắn bỏ đi.
Nhưng cụ Osugi không chịu. Bà la hét, gọi tên Musashi chửi rủa, dùng hai chân bị trói đạp lung tung khiến chiếc thuyền nhỏ chòng chành tưởng sắp lật.
Đi một quãng, nghĩ thế nào, Musashi quay trở lại. Hắn tìm giây chão buộc chặt hai đầu thuyền vào gốc liễu. Lại nhặt thanh kiếm gia bảo nhà Honiden tra vào bao rồi cẩn thận đặt lên thuyền bên bà lão.
Lần này hắn bỏ đi hẳn, giữa những tiếng mắng nhiếc và câu nói sau cùng nghe được của cụ Osugi:
- Takezo ! Mày nói theo kiếm đạo mà ngu quá, có biết gì về kiếm đạo. Lại đây ta dạy cho, thằng tiểu tặc ...
Musashi mỉm cười, lẩm bẩm:
- Để rồi sẽ học sau.
oo Mặt trời đã lên cao, đỏ chói trên bầu trời xanh nhạt không vẩn mây. Musashi tưởng như những tia nắng mới của vầng thái dương xuyên thấu tâm can.
Hắn nghĩ đến điều dân gian thường tin tưởng:
mỗi năm vào ngày mồng một, đúng lúc bình mình, tia sáng đầu tiên của mặt trời sẽ làm tiêu tán con sâu tư kỷ nó đục khoét tâm ta và ràng buộc ta vào những ham muốn ti tiện. Ai bắt gặp tia sáng đó, suốt năm sẽ hưởng hạnh phúc, an vui.
Musashi phanh ngực áo, hít một hơi dài. Hắn hy vọng.
-
HỒI 33
CỐ NHÂN
"Rendaiji, bắc Cổ Thành, đầu giờ thìn tháng mạnh xuân, ngày mồng chín ...”.
Musashi vẻ tư lự, lẩm nhẩm đọc ngày giờ và điểm hẹn cáo yết trên bảng gỗ dựng dưới chân cầu rồi thong thả lui vào một chỗ khuất đứng ngó mông lung.
Thấy mắt còn cộm, hắn đưa tay dụi, không ngờ chạm phải một vật cứng dính gần cổ áo. Rút ra xem, ra là một cây châm nhỏ bằng sắt giống như cái kim khâu nhưng không có lỗ chỉ, một đầu nhọn, đầu kia hơi loe buộc vài sợi tơ ngắn.
- À ra cái này đây !
Musashi không ngờ bà già ghê gớm thế ! Trên bước đường giang hồ, hắn đã từng nghe nói nhiều đến thuật phóng châm của một số phụ nữ. Hắn không tin mấy, mặc dầu cho rằng thuật đó không hẳn là vô căn cứ. Nhưng dù có thật đi chăng nữa, chắc cũng chỉ là một tiểu kỹ của những kẻ yếu thế, gặp lúc cùng thì dùng để tự vệ, hắn chẳng quan tâm. Song qua kinh nghiệm vừa rồi, Musashi thấy thuật phóng châm quả là một đòn nguy hiểm không thể coi thường. Cây châm nếu được phóng trúng vào con ngươi và chiêu kiếm của bà già nhanh hơn chút nữa thì trong lúc lúng túng dụi mắt, hắn đã bị khốn rồi. Hơn nữa, nếu cây châm lại được tẩm thuốc độc, kết quả còn đáng sợ gấp mấy ! Nghe nói người sử dụng tuyệt kỹ này có thể giấu rất nhiều châm trong tay áo hoặc trong miệng rồi xuất kỳ bất ý phóng ra có khi hai ba cái một lúc. Châm phóng bằng miệng phải luyện tập công phu và nếu không phải tay lão luyện, không dám dùng châm độc.
Chẳng biết cụ Osugi đã sử dụng tuyệt kỹ nào, nhưng may cho hắn, châm của bà không tẩm độc chất, hắn chỉ thấy mí mắt ngứa xoàng và hơi cộm. Hắn vận khí thấy kinh mạch vẫn điều hòa không có triệu chứng gì tỏ ra bị ngộ độc thì yên dạ. Musashi mở bọc định lấy lọ thuốc bột rắc vào chỗ ngứa, thình lình nghe sột soạt phía sau lưng.
Một thiếu nữ đã đứng đó tự bao giò, tay cầm giải lụa trắng đưa cho hắn, nói:
- Chớ dụi. Càng dụi mắt càng ngứa thêm. Takezo, chàng hãy lấy giải lụa này mà buộc !
Musashi ngạc nhiên:
- Cô là ai ? Sao biết tại hạ ?
Thiếu nữ không đáp, chỉ đăm đắm nhìn. Lát sau thấy hắn vẫn đứng im như phỗng thì ra vẻ bối rối. Không giấu được vẻ buồn đượm chút tủi thân, nàng cúi đầu nói khẽ:
- Takezo ...à ...à ...Musashi ! Chàng thật không nhận ra em sao ?
Musashi nhìn kỹ. Thiếu nữ này chắc thuộc hạng quyền quí trong xã hội.
Lối trang phục xa xỉ, áo bằng hàng lụa đắt tiền thêu hoa chim, nhưng nếp áo xô lệch.
Cửa tay và thân áo nhiều chỗ đã rách, vạt áo loang lổ những vết bùn dường như chưa được gột rửa kỹ. Da mặt nàng hơi xanh dưới lớp phấn thoa vội. Đôi môi nàng mọng, tô son đỏ thắm run run như sắp khóc hay định nói điều gì song cố giữ.
Trông nàng như con chim non bị bão, vậy mà trong cái tơi tả ấy, diện mạo thiếu nữ vẫn còn giữ được một vẻ đẹp lạ kỳ. Những đường cong của môi, của má, của cằm nàng mang một sức quyến rũ đặc biệt, đầy nữ tính. Musashi so sánh thiếu nữ đứng trước mặt với Otsu. Hai người xấp xỉ cùng trạc tuổi như nhau, nhưng Otsu đẹp thanh cao, trang nhã và quý phái còn nàng này cũng đẹp nhưng đẹp cách khác. Ở khóe mắt bờ môi có một vẻ gì nồng nàn nó lôi kéo, thu hút người khác phái như một thứ nam châm hút sắt. Thiếu nữ trông quen lắm, hình như hắn đã gặp ở đâu rồi mà không tài nào nhớ ra được.
Sự im lặng của Musashi làm thiếu nữ càng bối rối thêm. Sau cùng không nhịn được nữa, nàng òa lên khóc, giang tay ra ôm chặt lấy hắn:
- Takezo.
Cử chỉ tự nhiên và tiếng kêu xuất phát tự đáy lòng có một cái gì khích động làm bừng dậy trong tiềm thức Musashi những kỷ niệm cũ tưởng đã quên lãng từ lâu.
Văng vẳng, hắn nghe đâu đây tiếng nhạc khánh leng keng như khi ở trên đồi Ibuki, hắn còn là tên lính bại trận phải trốn tránh trong vựa củi của một căn trại đổ nát.
Và hắn sửng sốt kêu lớn:
- Akemi ! Ồ Akemi ! Nàng đã lớn từng này rồi đấy !
Nụ cười sung sướng nở trên môi, Akemi gật đầu, trong khi mắt vẫn còn long lanh hai hàng lệ:
- Phải rồi ! Chàng đã nhớ ra người cũ ! Hơn năm năm rồi còn gì ...
Nàng ôm chặt lấy Musashi hơn và nói như trong giấc mộng:
- Em đợi mãi mới có ngày nay. Takezo, chàng có nhớ em không ?
Musashi chẳng biết trả lời sao. Đối với hắn, những ngày ẩn nấp trên đồi Ibuki là một giai đoạn kỳ thú trong cuộc đời trôi nổi của hắn. Mang ơn Oko, thanh mộc kiếm đen bóng như mun vẫn còn đeo bên sườn đây là kỷ niệm Oko tặng, nhưng hắn cũng không quên vì người phụ nữ đa tình ấy mà Matahachi đã bỏ đi, gây cho hắn không biết bao nhiêu phiền lụy với gia đình nhà Honiden. Còn Akemi, nàng chỉ là một cô bé ngây thơ ngẫu nhiên gặp trong những ngày đầu của cuộc đời phiêu bạc, rồi tan biến với thời gian, chẳng để lại một cảm tình gì sâu đậm trong lòng hắn. Đột nhiên bây giờ nàng lại hiện ra, đôi vai thổn thức, ánh mắt dậy thì đam mê trông hắn như van lơn, như cầu khẩn. Hắn biết trả lời sao đây ?
Musashi không muốn làm phật lòng người thiếu nữ đáng thương kia, nhưng cũng không muốn nói dối. Bèn đánh trống lảng:
- Sao nàng biết ta ở đây mà tìm ? Nàng còn ở Ibuki không ? Mẹ nàng đâu rồi ?
Nghe hỏi đến mẹ, Akemi như bị tổn thương, chỉ thổn thức mà không đáp.
- Còn Matahachi nữa ? Ngày đó Matahachi cũng bỏ đi với mẹ con nàng mà.
Bây giờ còn ở chung với mẹ nàng không ? Ta có hẹn gặp Matahachi ở đây hôm nay, nàng biết chứ ?
Mỗi câu hỏi lại nhưng một mũi dao đâm sâu vào vết thương phiền muộn của Akemi. Áp mặt vào ngực Musashi, nàng chỉ biết nức nở lắc đầu.
- Matahachi đâu, Akemi ? Chuyện gì vậy ? Nàng không trả lời ta thì ta biết làm sao mà giúp nàng được ?
Akemi nói qua nước mắt:
- Matahachi không đến đâu. Em đâu có nhắn cho ông ấy biết.
Musashi gỡ tay Akemi ra, nhìn thẳng vào mặt nàng. Nước mắt chan hòa nhòe nhoẹt cả son phấn. Hắn lấy tay áo lau mặt cho nàng. Akemi giữ chặt tay hắn, muốn kể rõ mọi chuyện từ khi bỏ Ibuki đi ra sao và thổ lộ hết tâm sự với Musashi nhưng có một cái gì làm nghẹn cổ họng. Nàng chỉ đứng lặng nhìn hắn, nước mắt chứa chan.
oo Trời đã sáng rõ. Tiết trời đầu năm bỗng ấm hẳn. Nắng xuân chan hòa loang loáng trên những cành tùng xanh biếc, vẽ loang lổ từng miếng ánh sáng màu nâu tươi trên nền đất ẩm. Gần bờ sông, ở một vài chỗ cỏ còn ướt, tia nắng rọi qua những giọt sương đọng trên lá chiếu thành những vòng hào quang ngũ sắc óng ánh như những chiếc cầu vồng nhỏ.
Người đi trên cầu mỗi lúc một đông:
phụ nữ mặc áo mới hoa sặc sỡ, thoa cài đầu lóng lánh dưới ánh nắng mai; đàn ông đứng tuổi trang nghiêm trong những bộ y phục sẫm hồ bột cứng nhắc. Họ đến chùa hoặc đi thăm bạn hữu ngày nguyên đán. Lẩn trong đám đông ấy, Jotaro cũng lên cầu, mắt nhớn nhác nhìn ngược nhìn xuôi tìm sư phụ.
Bỗng Jotaro reo lên một tiếng vui mừng. Nó vừa trông thấy Musashi.
Nhưng này, ồ, lạ quá ! Sao thầy nó lại ôm trong lòng một thiếu nữ ? Mà thiếu nữ này không phải Otsu. Ai thế nhỉ ? Jotaro nhăn mặt khó chịu. Nó nheo mắt, lấy tay che nắng nhìn cho rõ. Đúng rồi ! Người đứng dưới chân cầu là Musashi, sư phụ nó.
Cái dáng dấp cao lớn, ngang tàng, đôi song kiếm giắt bên hông, túi hành trang màu chàm đã bạc vì sương nắng, Jotaro không thể lẫn. Nhưng Otsu đâu ? Mà thiếu nữ kia là ai, sao thầy nó lại ôm nàng vào lòng giữa chỗ đông người qua lại như thế này mà không biết ngượng ?
Nó thường được dạy dỗ người tự trọng phải biết kềm chế dục tính, không bày tỏ tình cảm một cách thái quá trước công chúng, sao vị tôn sư khả kính của nó lại có thái độ tồi bại như vậy ? Jotaro mím môi, vừa mừng vừa giận, lại ghen hộ cho cô Otsu. Nó muốn chạy đến níu áo thầy. Đã lâu không gặp, thầy nó thấy nó chắc vui lòng, nhưng còn thiếu nữ kia, nó e dè không dám. Jotaro tuy nhỏ, nhưng cũng đã biết thế nào là tế nhị, không muốn làm người khác phải lúng túng.
Ít lâu nay, Jotaro và Otsu tạm nương náu trong khuôn viên lâu đài của Karasumaru Mitsuhiro. Khi hai chị em mang tranh của viện chủ viện Arakida đến làm quà, Karasumaru thấy Otsu đang trong cảnh lưu lạc, người thân không có mà năm cũ sắp hết, bèn ngỏ ý lưu lại. Jotaro và Otsu bằng lòng ngay vì nghĩ không còn nơi nào an toàn hơn nữa.
Mới tối hôm trước, tin rằng thế nào Musashi cũng có mặt tại dưới chân cầu Gojo ngày nguyên đán, Otsu đã sắp sẵn bộ y phục nàng ưng ý nhất và tính những chuyện gì cần phải nói với chàng. Mới canh ba, Otsu đã dậy gội đầu chải tóc thật kỹ, lòng rộn ràng vui sướng như đứa trẻ sắp sửa được đi trẩy hội. Jotaro cũng đòi đi cùng, song Otsu không muốn. “Lần này ta để em cùng đi, nhưng lần này ta muốn gặp thầy em nói câu chuyện riêng. Thế nào em cũng gặp thầy mà, nhưng đến sau đi, ta và thầy em hứa sẽ đợi”.
Jotaro phụng phịu. Nó lơ mơ hiểu cảm tình của Otsu đối với thầy nó, có điều nó không biết tại sao một thiếu nữ đẹp, tài hoa và khôn khéo như Otsu lại cứ khóc mỗi khi nhắc đến Musashi. Chắc có điều gì làm nàng phiền muộn lắm nên nó thương và bằng lòng để nàng có cơ hội giải bày tâm sự với thầy nó.
Jotaro ngó nháo nhác tìm quanh. “Kỳ thật ! Không lẽ cô Otsu không biết đường ?
Đáng lý ra phải đến đây lâu rồi chứ ! Hay lại tạt vào đền chùa nào cầu khấn gì chăng ?”.
Nó đi ngược đám đông quay trở lại, lòng bồi hồi lo lắng.
Trên cầu, khách vãng lai càng lúc càng tấp nập. Musashi kéo Akemi đến một chỗ khuất nẻo hơn.
Dưới gốc liễu ngay bờ sông, chỗ mọi ngày đàn sếu trắng vẫn thường đến đậu chờ mồi, hôm nay chẳng thấy có con nào. Một thanh niên còn trẻ lắm, y phục sặc sỡ, đứng ngay ở đó, lưng dựa vào cành liễu cỗi có đầu cành vặn vẹo sà trên mặt nước giống con rắn lớn. Gã thanh niên khoanh tay trước ngực, mắt chăm chú hướng về phía Musashi và Akemi.
Bên Musashi, thiếu nữ vẫn sụt sùi, giọng thành khẩn kể lể nỗi niềm. Nàng đã quyết rũ bỏ hết lòng tự ái, không giấu Musashi điều gì, chỉ mong mối tình vô vọng nàng ấp ủ bấy lâu nay được đáp ứng.
Tội nghiệp cho nàng ! Những lời kể lể ấy chẳng biết có lọt tai chàng thanh niên lãng tử kia không mà chỉ thấy hắn ừ hử hoặc gật đầu cho qua hay trả lời gióng một.
Mối tình thơ dại đẹp bao nhiêu cũng chỉ như đám bọt nước kia tung lên trắng xóa dưới chân cầu. Mà chân cầu thì hờ hững. Mà bọt nước thì tan đi, còn gì đâu dấu vết ?
Như linh cảm thấy mình đang bị dò xét, Musashi chú ý nhìn quanh. Mục quang hắn quét từ gần ra xa, soi mói những bụi sậy xơ xác ven bờ, kín đáo dừng ở từng tảng đá. Sau cùng, nó ngưng lại, chăm chú vào gã thanh niên trang phục sặc sỡ đứng bên gốc liễu.
Musashi mắt nâu. Lúc sinh tiền, ông Munisai vẫn bảo hắn:
“Thằng Takezo này mắt nâu, không như mắt ta, đen. Chắc nó giống cụ tổ cữu cũng có đôi mắt sắc như thế, tàn nhẫn lắm !”. Bây giờ, dưới ánh nắng chênh chếch, mắt Musashi hồng lên rồi đỏ rực như hổ phách.
Hắn nhìn gã thanh niên. Gã thanh niên cũng nhìn lại hắn. Hai làn mục quang chạm nhau tưởng chừng tóe lửa.
Binh pháp có dạy trước khi lâm trận, hãy xét khả năng địch thủ trên đầu kiếm.
Đúng vậy, hai gã này đang thủ thế với nhau, không phải bằng kiếm mà bằng mắt. Như hai con dã thú gờm gờm nhìn nhau trước khi xông vào nhau cắn xé.
“Hừ !”. Gã thanh niên bên gốc liễu nghĩ thầm. “Chắc thằng này là Musashi đây. Một địch thủ ta phải cẩn thận !”.
Musashi càng lúc càng chú mục. Mắt hắn lộ hung quang xoáy về phía thanh niên thách đố. Và gã thanh niên không vừa, dường như gật đầu chấp nhận.
Bây giờ cường độ mục quang của cả hai không phải do mắt phóng ra nữa mà tự tâm khảm phát xuất. Nó là cường độ của ý chí, của quyết tâm không cần lời nói và cũng không gì lay chuyển.
Cả hai tuổi tác tương đương, Musashi chỉ hơn gã kia chừng hai tuổi, cùng ở vào cái tuổi ngang tàng, không biết e sợ là gì, đầy tự tin và ngạo mạn đến liều lĩnh. Hai cá tính đó đối nhau, tất không khỏi va chạm. Và như hai con thú dữ, bản năng của chúng đều ngầm bảo chúng:
đối phương trước mắt là một kẻ thù nguy hiểm và đáng sợ !
Một lúc, thanh niên y phục sặc sỡ quay mặt đi, tránh tia mắt của Musashi, khẽ nhếch mép. Musashi thấy rõ nụ cười ngạo mạn ấy, nhưng hắn tin chắc trong trận vừa rồi, hắn đã thắng.
Cúi nhìn thiếu nữ đứng trước mặt, Musashi để tay lên vai nàng:
- Akemi !
Thiếu nữ ngước trông lên, lệ còn hoen má.
- Người đó là ai ?
Akemi ngạc nhiên, nhìn về phía Musashi hất hàm chỉ. Bỗng giật mình.
- Người đó có vẻ biết nàng. Hắn đã theo nàng đến đây để dò xét ta phải không, Akemi ?
Akemi lau nước mắt:
- Em không rõ, nhưng người đó em chỉ mới biết đây. Y là ân nhân của em.
- ...
- Hai hôm trước em bị chó cắn, nhờ y cứu và gọi thầy thuốc đến chữa cho mới được thế này.
- Thế bây giờ nàng ở với hắn phải không ?
Akemi cúi mặt.
- Tên hắn là gì ?
- Sasaki Kojiro. Người ta còn gọi là Ganryu.
- Ganryu ?
- Phải. Ganryu là ngoại hiệu của y. Sao ?
- Ta nghe cái tên quen lắm, hình như trong giang hồ đã có nhiều người nhắc đến tên hắn.
Musashi lại đưa mắt nhìn về hướng Kojiro đứng và hỏi:
- Có phải hắn sử dụng một cây trường kiếm hỗn danh là cây sào phơi không ?
- Em không biết, nhưng thanh kiếm của y quả có dài hơn kiếm thường.
Thấy Musashi nhìn mình, Kojiro mỉm cười, đôi má lúm đồng tiền.
Một điều lạ, Musashi cũng mỉm cười đáp lại, nhưng nụ cười của cả hai chẳng giống nụ cười của đức Phật khi thấy đệ tử mình là A Nan bóp cánh hoa trong tay. Nụ cười Sasaki ngạo mạn và mỉa mai; nụ cười của Musashi ẩn một ý chí tranh đấu mãnh liệt, đầy thách thức.
Akemi đưa mắt nhìn hết người này đến người kia, không hiểu. Musashi khẽ vỗ vào vai nàng:
- Akemi, thôi bây giờ hãy về phòng trọ đi. Ta sẽ lại thăm nàng sau.
Akemi khóc nấc. Hắn phải cầm tay an ủi:
- Đừng ngại. Ta sẽ lại thăm nàng mà !
- Takezo ! Thật nhé, em đợi.
Musashi gật.
- Em trọ Ở thương điếm Hải Âu, trước thiền viện đường Quan Ngoại.
Musashi lại gật.
Dường như không được hài lòng về thái độ của hắn, Akemi nắm tay Musashi bóp chặt, giọng run run qua hai hàng lệ:
- Nhé ! Takezo ! Chàng nhớ đến nhé ! Nhớ đấy !
Kojiro cất tiếng cười vang, trở gót. Akemi vừa bước đi vừa ngoái lại.
Musashi tần ngần đứng một mình dưới chân cầu, nhìn theo hai người, lòng buồn vô hạn.
oo Len lỏi giữa dòng người đi lễ tết đầu năm, Jotaro tìm mãi không thấy Otsu. Trên cầu hẳn là không có rồi. Nó chắc như thế vì đã đi lên đi xuống mấy lượt. Chỉ còn góc phố đằng kia, chỗ ngã ba cầu tiếp giáp với đường lên đền thờ đức Quan Âm là chưa tới.
Nó đến nơi, đang đứng ngơ ngác nhìn lên đền thì nghe tiếng gọi khẽ:
- Jotaro !
Quay lại, thấy Otsu ngồi nấp sau chiếc xe bò chở cỏ. Jotaro vui mừng quá sức, chạy ngay lại ôm chầm lấy nàng, vội vàng thế nào suýt đâm phải chiếc càng xe.
Hôm nay Otsu bới tóc cao, có thoa phân và bôi sáp môi đỏ. Nàng trang điểm trau chuốt, nhưng không được tinh luyện lắm. Nàng lại mặc bộ kimono mới có thêu những bông mẫu đơn trắng trên nền lụa nõn màu hoa đào cho hợp với cảnh tươi đẹp mùa xuân và lòng nàng bấy giờ.
Otsu giơ tay đón Jotaro vào lòng. Nhưng nó kéo nàng đứng dậy, liến thoắng:
- Sao chị lại nấp ở đây. Chị theo em, sư phụ đằng kia kìa. Không ra ngay, sư phụ bỏ đi mất.
- Không ! Em vào đây với ta, ta không ra đâu !
Jotaro ngạc nhiên, mở to mắt nhìn Otsu:
- Sao vậy ?
- Đừng hỏi tại sao. Em ngồi đây với ta.
- Chà ! Sao chị kỳ quá vậy ? Chị nói bao nhiêu lần là muốn gặp sư phụ, bây giờ thầy em ngoài kia, chị lại trốn nấp ở đây. Chị mặc đẹp thế này để ngồi dưới gầm xe bò hả ?
Lời nói ngây thơ của thằng bé như roi quất những vết hằn đau đớn trong lòng Otsu. Nàng lắc đầu, mắt rưng rưng lệ:
- Jotaro ! Em đừng nói thế, đau lòng ta. Em mà cũng tàn ác với ta đến thế ư ?
Jotaro ôm lấy vai Otsu. Nó không dám để đầu gần tóc nàng sợ hư mái tóc chải công phu. Thấy vạt áo Otsu ướt, nó biết nàng đã khóc nhiều:
- Em xin lỗi, em không có ý ấy. Nhưng em không biết tại sao ...
Otsu lau nước mắt:
- Tìm hiểu làm gì, em !
- Thế chị có trông thấy sư phụ Ở dưới chân cầu không ?
Otsu gật đầu.
- Vậy em biết rồi nhé ! Chị ghen phải không ? Chị trông thấy thầy em ôm người con gái ấy chứ gì ?
Otsu thấm nước mắt, lắc đầu.
- Chị không biết gì hết, chỉ biết khóc thôi. Mình nghi ngờ thì phải đến hỏi cho ra lẽ chứ ! Đi ! Đi với em mau lên, không sư phụ em không còn ở đó nữa.
Jotaro cầm tay Otsu kéo ra khỏi chỗ nấp. Nàng giằng lại. Thằng bé phân vân một lúc rồi rảo bước lên cầu đứng trông xuống, không thấy thiếu nữ kia đâu. Bỗng nó reo lên như chợt nhớ ra điều gì, chạy ngược lại chỗ Otsu:
- Akemi ! Phải rồi ! Đi mau chị, Akemi không còn ở đấy nữa !
- Akemi là ai ?
- Là cô gái đứng nói chuyện với sư phụ đó. Em nhớ ra rồi. Một lần em gặp cô ấy giặt áo ở ven sông, có nhờ cô ấy chuyển lời nhắn ông Matahachi mà. Đúng rồi ! Đúng rồi !
Otsu lính quýnh theo Jotaro. Khi nhìn rõ không còn Akemi ở đó nữa, nàng mới yên dạ. Nhưng nàng cũng trở lại chỗ cũ sửa lại mái tóc và nếp áo xô lệch, thoa thêm chút phấn lên mặt.
- Trời ơi ! Chị ! Giờ này mà chị còn làm dáng thì trễ mất !
Jotaro vừa kêu vừa dậm chân xuống đất bành bạch.
Quả nhiên, Musashi đã không còn ở dưới chân cầu. Biết chắc Matahachi không tới, hắn vội vàng men theo bờ sông, đến chỗ buộc thuyền giữ cụ Osugi.
Bà già thấy hắn đến, đưa mắt nhìn lo sợ. Musashi rút đoản kiếm, nhưng hắn chỉ nói:
- Matahachi không đến.
- Bây giờ mày giết ta phải không ?
- Không. Con cởi trói cho bà để bà đi tìm Matahachi hỏi cho ra lẽ, dẫn hắn về nhà. Con nghĩ như thế hơn là bà tìm cách cắt cổ con.
Musashi vừa nói vừa cười. Hắn đưa mũi kiếm cắt dây trói. cụ Osugi lúng túng ngồi dậy:
- Ta biết phải làm gì. Ta không cần mày khuyên !
Thời gian bà cởi được hết dây trói thì Musashi đã đến chỗ khúc sông hẹp, nhảy qua các ghềnh đá sang bờ bên kia, lẩn vào những bụi lau sậy mất dạng.
Trên lũng cao, Jotaro thoáng thấy bóng thầy. Nó kêu lớn:
- Chị ! Chị ! Ở dưới lũng, sư phụ Ở dưới lũng gần bờ sông !
Jotaro ba chân bốn cẳng đổ dốc. Nó còn nhỏ, nhanh như con sóc. Nhưng Otsu vướng áo, chỉ bước được những bước ngắn. Đến gần bờ sông nàng ngừng lại, lên tiếng gọi.
Trên mặt sông rộng, tiếng nàng bay bổng vang xa. Cơn gió thoảng đưa đôi lúc dội lại nghẹn ngào tha thiết như tiếng hò trong đêm vắng.
- Otsu !
Âm thanh nhọn hoắt, the thé bỗng làm nàng giật mình. Ngoảnh lại, cụ Osugi đã đứng chỉ cách chỗ nàng chừng vài chục bước. Otsu kinh hãi vô cùng. Trong lúc thảng thốt, toàn thân như bị tê liệt, nàng đứng sững. Khi hoàn hồn, cụ Osugi đã tiến tới gần ? Bấy giờ Otsu mới kịp phản ứng. Tim nàng đập mạnh, máu dồn lên mặt, Otsu quay phắt đầu, cắm cổ bỏ chạy.
Cụ Osugi nhìn theo, gọi:
- Otsu ! Đứng lại ! Ta muốn nói câu chuyện !
Trong bộ Óc đa nghi của bà, dần dần hiện ra một ý nghĩ. Bà đã hiểu tại sao Musashi lại trói bà bỏ lên thuyền. À thì ra hai đứa nó có hẹn với nhau, nó trói mình lại để tự do gặp nhau. Chắc con này đã làm gì phật lòng thằng kia nên nó bỏ đi. Ta biết mà, chúng nó lừa ta thế nào được. Con Otsu này thật bất trị !
Trong thâm tâm, cụ Osugi còn ghét Otsu hơn Musashi. Nó đáng lẽ là con dâu bà mà thành ra vì nó mà gia đình bà mất cả thanh danh. Bà cất giọng giận dữ:
- Otsu !
Tiếng kêu chưa dứt, bà đã bị một cái đạp vào bắp chân suýt ngã. Jotaro đứng đằng sau, hai tay chống nạnh:
- Bà là ai, làm gì mà lại đuổi cô Otsu ?
- A ! Thằng ranh con, mày ở đâu tới ?
Otsu chạy được một quãng, không thấy chân người đuổi theo, bèn dừng lại thở.
Nhìn về phía sau, xa xa, thấy Jotaro và cụ Osugi đứng đối diện nhau tự a hai con gà chọi, nàng hơi lo. Otsu chẳng lạ gì tính bà lão, già nhưng còn hung hăng lắm mà Jotaro thì nàng thừa biết, nó loắt choắt nhưng nhanh nhẹn vô cùng. Nếu cả hai cùng xông vào quần thảo nhau, tất Jotaro rút cây kiếm gỗ ra. cụ Osugi cũng đến phải dùng thanh gươm gia bảo. Dám một hay có khi cả hai bị thương hoặc vong mạng cũng chưa biết chừng.
- Ranh con, mày đi cùng với con Otsu phải không ?
- Phải ! Bà là ai ?
- Ta là mẹ nó !
Jotaro giật mình. Bà già này là mẹ Otsu à ? Sao không bao giờ thấy Otsu nói đến. Nhưng nghe xưng danh, Jotaro cũng khựng lại, không dám hỗn.
- Thế sao bà lại đuổi cô Otsu cháu ?
Thấy thái độ thằng bé đổi khác, bản tính quỷ quyệt của cụ Osugi nổi dậy. “Phải dùng mưu mới được”, bà tự nhủ. “Đối với thằng Takezo có lẽ nó chẳng tin ta đâu, nhưng con Otsu và thằng nhỏ này, chắc lừa không khó. Mình cứ vui vẻ tử tế dụ chúng vào tròng, sau làm thịt mấy chốc !”. Nghĩ đoạn, bà làm bộ tươi cười:
- Ờ ! Tại ta bảo nó không nghe. Nhưng mẹ nào chả thương con, ta muốn gọi nó về, để nó lang bạt tội nghiệp.
- ...
- Thế còn cháu ! Sao cháu biết Otsu ? Cháu con cái nhà ai ?
Jotaro thấy bà lão vui vẻ, lại ngồi xuống bên gốc cây nói năng hòa nhã, cũng nhẹ nhàng đáp lại:
- Tên cháu là Jotaro. Cháu không có nhà, gặp cô Otsu cùng đi tìm sư phụ.
- Ồ ! Vậy ư ? Cháu ngoan quá. Cháu lên mấy rồi ?
- Thưa mười hai.
- Ta muốn nhờ cháu một việc, cháu làm giúp ta được không ?
Jotaro phân vân. cụ Osugi kéo tay áo chấm nước mắt rồi nói giọng buồn bã:
- Otsu là con dâu ta đấy. Từ ngày nó bỏ đi, ta thương nhớ lắm, mấy lần bảo nó về mà nó chẳng nghe.
Cụ Osugi sụt sịt:
- Ta nhờ cháu đến bảo Otsu lại đây ta nói chuyện !
Jotaro mủi lòng. Bà này chắc nói thật. Nếu cô Otsu không muốn về thì trở lại nói chuyện với bà lão một lúc cũng chẳng hề gì. Bèn nói:
- Thật hả bà. Thế để cháu đi gọi !
Cụ Osugi vui vẻ gật đầu, nhìn Jotaro chạy đi, cười thầm trong bụng.
Lát sau, Jotaro dắt Otsu trở lại. Tuy còn nghi hoặc, nhưng nghe lời Jotaro, Otsu thấy đây cũng là dịp tốt để nói cho cụ Osugi biết hết mọi sự, hầu đánh tan những hiểu lầm từ trước.
Bà già cười hí hí:
- Otsu đấy à ? Sao gặp ta con lại chạy ?
Otsu phủ phục xuống đất:
- Bà tha lỗi cho con.
Cụ Osugi đưa tay đỡ Otsu dậy, bảo nàng ngồi cạnh:
- Con dâu ta có lỗi gì đâu ! Lỗi ở thằng Matahachi cả. Trước ta giận con lắm, nhưng nay ta biết, ta thương con. Dễ đã đến năm năm rồi đấy nhỉ, từ bấy đến nay, bao nhiêu nước chảy qua cầu ...
- Nếu bà biết như thế thì may cho con lắm.
Cụ Osugi giơ tay lên má, đập mạnh:
- Chà ! Cái con muỗi quỷ này. Mới nắng lên đã thấy muỗi ! Ở, nhưng mà này Otsu ạ ! Ta là mẹ thằng Matahachi, có tha lỗi cho con thì cũng phải dàn xếp để đẹp lòng nó chứ. Mặc dầu nó bỏ con đi với người khác nhưng nay đã biết hối trở vể. Ta muốn con về nhà, rồi cả hai vợ chồng con ngồi trước mặt ta để ta khuyên bảo. Như thế ta mới yên lòng làm mẹ.
Otsu muốn nói một lời phản đối, nhưng nghĩ có lẽ chưa phải lúc. Nàng chỉ ấp úng:
- Dạ, con hiểu.
Cụ Osugi cũng đoán biết ý nghĩ thầm kín của Otsu. Đã khôn lại ngoan, bà chặn ngay:
- Nếu con không muốn chung sống với nó nữa thì ta tưởng đây cũng là dịp tốt, trước mặt ta, nói thẳng cho nó biết. Như thế thì dứt khoát và ta nghĩ, vậy có lẽ lợi cho tương lai của con hơn.
Otsu thấy bà lão nói phải. Nhưng chưa vững tin, nàng hỏi vặn:
- Thưa bà, nếu con bằng lòng thì biết tìm Matahachi ở đâu ?
Cụ Osugi cười:
- Dễ quá mà. Ta lạ gì chỗ nó ở. Nếu con bằng lòng, ta chỉ cho người đến gọi vài ngay là nó trở về ngay. Nó là con ta, ta bắt nó làm gì nó chả phải làm ?
Một con cáy càng đỏ tía từ trong cái hốc nhỏ ở bờ sông bò ra. Jotaro rình chộp ngay được. Nó cầm con cáy rón rén bước đến đằng sau cụ Osugi bỏ nhẹ lên khăn đội đầu.
Otsu muốn chắc có kết quả, đề nghị:
- Con xin tiếp tay bà, đi tìm Matahachi.
Cụ Osugi nắm ngay lấy cơ hội:
- Vậy còn gì bằng. Thế con đến trọ cùng với ta. Năm nào đến Kyoto ta cũng ở trọ tại một quán nhỏ trên đồi Sĩ Miên. Ở đó tĩnh, lễ Phật không ai làm rộn mà lại rẻ tiền, con ạ !
Cụ Osugi thấy nhột sau lưng giữa hai lần áo. Ngoái tay ra sau, bà vớ được con cáy giơ lên.
- Con quỷ này, sao lại bò vào áo ta được kìa !
Jotaro đứng sau gốc liễu, bưng miệng cố nín cười. Otsu cúi mặt vờ như không thấy nhưng cũng mỉm cười. Thằng bé tinh nghịch quá !
Cả ba người, Jotaro, Otsu và cụ Osugi, rời bờ sông theo đường mòn ra đại lộ.
Otsu bảo cụ Osugi đi trước. Nàng muốn lui lại phía sau nói với Jotaro vài lời để nó biết chuyện và trấn an nó:
- Em cứ trở về chờ ta ở khuôn viên lâu đài tướng công Mitsuhiro. Nếu ngài có hỏi thì bảo một hai hôm ta sẽ trở lại. Ta phải đi dàn xếp việc riêng nhé !
- Dạ ! Chị đừng ngại. Em sẽ chờ cho đến khi nào chị về.
- Nếu em rỗi, thử dò xet tin tức Musashi hộ cho ta.
- Thế lúc sáng sao thấy sư phụ, chị lại trốn.
Otsu thở dài:
- Ta dại quá !
Đến đầu cầu trời đã gần trưa. Người đi lại trên cầu vẫn tấp nập. Một đám đông lố nhố đứng vây quanh tấm bảng gỗ dựng ở dưới chân cầu, bàn tán:
- Miyamoto Musashi, tôn huynh có biết là ai không ?
- Có, tại hạ có nghe nói. Chắc tay này cũng phải là một tay cao thủ mới dám đơn thương độc mã chống với phái Yoshioka chứ.
Jotaro cũng chen vào đọc bảng cáo yết. Tin Miyamoto Musashi - một Ronin - đương đầu với phái Yoshioka được truyền đi nhanh như mồi thuốc súng !
-
CHƯƠNG 34
ĐỒNG CỎ ÚA
Rendaiji là một đồng cỏ, trước kia dành cho hoàng cung dùng làm mục trường nuôi gia súc. Đồng rộng bao la nhưng không bằng phẳng, đồi nọ tiếp đồi kia trải dài đến tận chân núi. Đây đó vài khu rừng phong thưa, lẫn với nhiều gốc tùng cổ thụ điểm những nét xanh đen trên nền cỏ úa. Đường mòn ngang dọc khắp nơi, ngoằn ngoèo ẩn hiện giữa những hàng lau già xơ xác mà hoa lau muộn từ cuối thu năm ngoái vẫn còn bạc phau, nghiêng ngả.
Vào thế kỷ trước, đồng này có một cái giếng lớn lộ thiên, nước luôn luôn trong và ngọt nên mới có tên là đồng Rendaiji (guếng lớn). Giếng sau bị cạn không hiểu vì lẽ gì, cỏ cũng kém xanh dần, thành ra đồng bị bỏ phế. Hoàng cung sai người mang gia súc đi chăn nơi khác, từ đấy đồng Rendaiji trở thành hoang địa.
Đồ đệ Yoshioka khoảng chừng hai chục người tụ tập dưới chân đồi từ sáng sớm, gần sơn đạo đi Nara. Sau vài ngày nắng dịu đầu năm, tiết trời bỗng trở lại lạnh. Gió đông bắc thổi nhiều, chúng ngồi sát vào nhau quây quần bên đống lửa, mặt ai nấy đăm chiêu tư lự. Về phía nam cổ thành, đỉnh núi Vân Sơn, tuyết phủ trắng phau, lấp lánh giữa những cành phong trơ trụi. Thỉnh thoảng một tiếng chim sớm lảnh lót vang lên nhưng rồi tắt phụt, thê lương như cánh đồng hoang phế.
Chúng ngồi như vậy dường đã lâu lắm, chẳng ai nói với ai câu gì. Bỗng Ueda lên tiếng phá tan bầu không khí yên lặng:
- Mấy giờ rồi ?
Bọn đàn em cùng ngửng lên nhìn trời, đồng thanh đáp:
- Dễ đến cuối giờ thìn.
- Sương tan gần hết rồi. Sao không thấy tiểu chủ đâu nhỉ ?
- Tiểu chủ bảo cứ ngồi đây chờ. Chắc cũng sắp tới !
Một người nóng ruột, chạy ra phía sơn đạo, nhìn xuống dưới dốc. Đường đất đỏ vắng tanh, gió thổi rạp đầu những ngọn bông lau hiu quạnh. Bóng một con sóc đen vụt qua, lẩn vào bụi cây, êm và nhẹ như chiếc lá rụng. Ueda bồn chồn. Hắn sửa lại y phục, xắn cao tay áo, buộc cổ tay bằng hai sợi dây da cho gọn rồi nói:
- Ta nóng ruột quá ! Giờ hẹn qua đã lâu ...
- Huynh trưởng có nghĩ là tiểu chủ ở phía gần giếng không ? Mình hẹn gặp nhau ở khu Rendaiji mà !
- Có thể lắm. Đứa nào chạy ra đó coi xem sao !
Nhưng chẳng ai động tĩnh, vì chẳng ai muốn một mình làm chuyện nguy hiểm ấy mà Ueda xem ra cũng không có chủ ý gì nhất định. Cả bọn vẫn ngồi lẳng lặng nhìn ngọn lửa lụi dần, khói đen cuồn cuộn bốc cao rồi tản theo chiều gió. Một đứa nói bâng quơ:
- Không biết tiểu chủ bảo đợi ở đây hay bên ấy ?
- Ở đây ! Chắc chắn ở đây !
Xác nhận xong, Ueda đưa mắt nhìn thuộc hạ:
- Thằng Musashi đó bây giờ ở chỗ nào thì mình không biết, nhưng tiểu chủ bảo mình đợi ở đây thì cứ đợi ở đây. Chúng ta không thể phân tán ra nhiều nơi được, nguy hiểm lắm. Vả cũng không nên đi tìm, giang hồ sẽ bảo mình ỷ chúng hiếp cô, còn gì là danh dự của bản phái ?
Ngồi yên một lúc, hắn lại tiếp:
- Mà thằng đó là cái gì mà mình phải quan tâm ? Chẳng qua chỉ là một tên nhà quê có chút sức mạnh. Dù nó có học mót được vài đường kiếm thì cũng khó mà địch được tiểu chủ ...
Tuy một số trong bụng không đồng ý vì đã chứng kiến trận đấu kiếm năm trước giữa Miyamoto Musashi và môn đệ bản phái tại võ trường Yoshioka, nhưng lời nói của Ueda tựa như liều thuốc an thần, nếu không làm phấn khởi bọn đàn em thì nhất thời cũng giữ vững được tinh thần của chúng.
Vẻ mặt đa số bây giờ trông tươi hơn. Chúng bàn tán xôn xao:
- Ueda lão huynh nói phải lắm ...
- Phải rồi ! Chúng ta nên nhớ trong cuộc tỷ võ này, tiểu chủ sẽ cho thằng ấy một bài học để nó câm cái mõm chó má của nó lại, đừng huênh hoang khoác lác nữa.
- Lần này võ lâm thế nào cũng có người theo dõi. Ta phải cẩn thận lắm mới được.
Nếu không trực tiếp trợ giúp tiểu chủ ta cũng nên đi theo để cổ võ ...
- Tiểu chủ đã căn dặn đợi ở đây. Dù sao cũng cứ chờ lệnh đã.
Mặt trời lên cao. Giờ thìn qua từ lâu, sang đến giờ tỵ, rồi cuối tỵ mà Seijuro vẫn chưa đến. Miyamoto Musashi cũng chẳng thấy tăm hơi đâu. Vẻ lo lắng hiện trên nét mặt của cả bọn.
Dọc theo sơn đạo đi Nara, ở ven suối cũng như trong các lùm cây rải rác đã thấy lỗ nhố bóng người. Đấy là những kẻ hiếu kỳ nghe nói có cuộc tỷ võ thì đến coi cho biết.
Tiếng bàn tán theo gió thoảng đưa đến tai bọn đồ chúng Yoshioka:
- Miyamoto Musashi đâu ?
- Không biết ! Cả Seijuro hình như cũng không có mặt.
- Lạ nhỉ ! Thế đám ngồi kia là những ai ?
- Nếu không phải là phe bên này thì cánh bên kia. Đến để ủng hộ chứ gì ?
- Lạ ! Tỷ kiếm gì mà đối thủ chả thấy đâu, chỉ thấy có người cổ võ.
Ueda và thuộc hạ nghe những lời bàn tán tiếng còn tiếng mất không rõ ràng nhưng cũng đoán được ý chính. Hắn bực lắm, định bảo một tên đàn em ra đuổi bọn đó đi nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Dù sao, những điều họ nói ra đều là sự thật. Vả chăng, họ cũng khôn ngoan đứng ở phía xa, nấp sau bụi cây nói lén, mình đến dọa nạt chỉ tổ mua cười cho thiên hạ. Đám người hiếu kỳ mỗi lúc một đông thêm, thấp thoáng có cả bóng phụ nữ.
Jotaro cũng là một trong số những kẻ hiếu kỳ đó. Nó đội nón nan rộng vành, chữ “giường cho thuê” viết trên đó nay đã nhạt màu, trông lờ mờ không rõ nét. Chân nó đi đôi hài xảo cũ, lưng đeo kiếm gỗ, dài như cái đòn gánh, bên hông lủng lẳng túi hành trang vải thô lớn trông thật tức cười, nhưng ra phết giang hồ lãng sĩ lắm. Jotaro len lỏi đi từ toán người này đến toán người khác, chú ý nhìn khắp mặt phụ nữ.
“Quái nhỉ, chị Otsu đâu sao không thấy ? Cô cũng đã đọc bảng cáo yết rồi mà !
Hay là bà cụ già lại không cho đi !”.
Hôm nay Jotaro ra đây, hy vọng thế nào cũng tìm được sư phụ. Nó không sợ sư phụ nó gặp nguy hiểm vì nó đã mấy lần chứng kiến tài năng của ông, khi ở cánh đồng Hannya cũng như khi giao đấu với ba cao thủ nhà Yagyu. Nó tin tưởng vào sức mạnh cũng như những chiêu kiếm thần tốc của thầy nó, những chiêu kiếm mà Jotaro ước mong một ngày nào rảnh rỗi, thầy nó sẽ truyền thụ lại cho nó. Điều làm Jotaro lo lắng nhất là sự không có mặt của Otsu. Nó không biết nàng đang gặp những trở ngại gì.
Trong trí tưởng tượng ngây thơ và phong phú của nó, Jotaro hình dung ra Otsu bị yếu đau không ai săn sóc. Bà già kia tuy nói là mẹ nhưng không làm nó yên tâm. Không hiểu sao Jotaro linh cảm bà tìm cách lừa dối và ly gián cô cháu nó. Thâm tâm, Jotaro coi bà già kia nhưng một con mẹ phù thủy nham hiểm hiện ra để bắt cô Otsu đi, như trong các chuyện thần tiên nó đã thường được nghe kể, những bà lão mũi khoằm răng vổ bắt các thiếu nữ xinh đẹp đem đi giết chết. Nghĩ đến Otsu bị giết chết, Jotaro sợ hãi quá chừng. Nó kêu lên một tiếng nhỏ rồi tự trấn an:
“Chắc không có chuyện ấy đâu !”.
Nhưng rồi nó vẫn lầm bầm nguyền rủa bà già độc ác.
Mãi suy nghĩ không để ý, Jotaro đâm sầm vào một thanh niên cao lớn. Nó giật mình, lí nhí một lời xin lỗi. Thanh niên kia nhìn nó từ đầu đến chân, nói:
- Hà ! Bé con ! Mấy hôm nay sao ta không thấy mày ở đầu cầu đường Gojo ?
Jotaro ngạc nhiên, trố mắt:
- Tráng sĩ là ai, sao gặp cháu ở đó ?
Nhưng nói xong, nó đã sực nhớ ra ngay người vừa gọi nó:
- À, phải rồi. Tại hôm nay tráng sĩ không mặc áo đỏ nên cháu không nhận ra !
Thanh niên mỉm cười:
- Ờ ! Hôm đó ta gặp mày đi với một thiếu nữ kia mà. Thiếu nữ đâu rồi ?
- Đấy là cô Otsu.
- Thiếu nữ đó tên Otsu à ?
- Dạ phải.
- Có bà con gì với Miyamoto Musashi không ?
Nghe hỏi, Jotaro bực mình, đáp lơ lửng:
- Dạ, dạ ...
- Dạ dạ cái gì ? Nàng là em họ Miyamoto Musashi phải không ?
- Dạ không.
- Em gái ?
- Cũng không phải.
- Vậy bà con ra sao ?
- Cô Otsu yêu Miyamoto Musashi.
- Vậy là ý trung nhân hả ?
- Cháu không biết. Musashi tiên sinh là sư phụ cháu.
Lần đầu tiên Jotaro gọi Miyamoto Musashi bằng tiên sinh vì cô Otsu đã dạy nó phải trọng thầy. Nó vênh mặt nhìn gã thanh niên. Gã nhìn lại nó, quắc mắt:
- Thảo nào mày ra đây. Sư phụ mày đâu, sao không thấy. Mọi người đang chờ.
Jotaro tức giận thật sự:
- Sao tráng sĩ hỏi vậy ? Cháu không biết, cháu không cùng đi với sư phụ.
Chợt một bọn ba người chạy đến, dẫn đầu là Ueda. Nhìn gã thanh niên, hắn reo lên:
- Kojiro ! Chà ! Bữa nay mới thấy đại hiệp đấy !
- Ueda huynh ! Tại hạ cũng vừa tới.
Ueda mừng rỡ dắt tay thanh niên đến bên đống lửa. Đồ đệ Yoshioka đứng cả dậy thi lễ.
Thấy mọi người vây chung quanh một trang thanh niên dáng cao lớn, đeo trường kiếm, khách bàng quan truyền miệng nhau ra vẻ hiểu biết:
- Chắc là Miyamoto Musashi. Trông người khí phách đấy chứ !
- Chắc không ?
- Thì còn ai vào đấy nữa ?
- Ờ, dáng dấp hiên ngang thế kia. Phải cái y phục hơi diêm dúa !
- Không ! Không phải Miyamoto Musashi đâu. Jotaro vội cải chính. Miyamoto Musashi gì mà ăn mặc như kép tuồng vậy.
Mọi người cười ồ, chưa rõ thằng bé này là con cái nhà ai thì Jotaro đã phưỡn ngực đáp:
- Ta là học trò của Musashi tiên sinh !
Đám đông xúm lại hỏi han, Jotaro hãnh diện tả hình dáng sư phụ, nhưng đến khi bị hỏi sư phụ đâu, sao không đến, nó lúng túng chẳng biết trả lời làm sao. Mọi người bán tín bán nghi, nghểnh cổ nhìn. Có kẻ kiên nhẫn chờ, có kẻ chán nản bỏ về không quan tâm đến vụ tỷ thí nữa.
Kojiro đến ngồi bên Ueda. Từ sau ngày nguyên đán, hắn không còn lui tới võ đường Yoshioka, mà Seijuro thì buồn bực có ý giận ông khách kém nhã nhặn và vô tâm nên cũng chẳng sai người đi tìm. Phần Kojiro, hắn chẳng chú ý đến cuộc tranh chấp nữa, vì kể từ khi gặp Miyamoto Musashi dưới chân cầu đường Gojo, đối phó với tia mắt đầy hung quang và quyết liệt của gã, Kojiro đã biết kết quả ra sao rồi. Nhìn bọn đồ đệ Yoshioka, kể cả những tay trụ cột trong phái như Ueda chẳng hạn, ngồi ỳ ra bên đống lửa chờ lệnh, Kojiro đem lòng thương hại. Hắn đã định chẳng nói ra nhưng không dằn được bất nhẫn:
- Miyamoto Musashi không đến, thật là phúc cho Yoshioka lắm. Các vị còn ngồi đây làm gì. Sao chẳng chia nhau ra đi đón tiểu chủ các vị dẫn về võ đường thôi, kẻo mà mất mạng sớm !
Mọi người ồ lên một tiếng. Có người giận quá định cất tiếng thóa mạ thì Kojiro đã chặn ngang:
- Tại hạ nói như vậy cũng chỉ có ý mưu cầu an lạc cho chưởng môn quý phái chứ chẳng có hậu ý gì khác. Trong cuộc giao đấu này, Seijuro không thủ thắng được. Nếu y không bị Miyamoto Musashi giết thì cũng mang thương tật suốt đời.
Ueda đứng phắt dậy, tay để vào đốc kiếm, trừng mắt hét lớn:
- Thằng con nít này, sao dám buông những lời ngông cuồng quá sức, không coi ai ra gì cả ?
Kojiro cười khẩy:
- Tại hạ biết những lời nói thẳng của tại hạ sẽ làm quý vị mếch lòng. Trung ngôn nghịch nhĩ. Nếu quả thật các vị không ưa, tại hạ xin rút lại lời nói ấy vậy ! Có điều, tại hạ cũng xin kiếu, không thể tiếp tay các vị được !
- Ai nhờ ngươi tiếp tay ?
- Thì Yoshioka Seijuro và cả các vị nữa. Các vị đã mặc nhiên có thái độ ấy !
- Láo !
- Vậy nếu không thì tại sao các vị lại đãi ngộ tại hạ như đã làm trong mấy tuần nay?
- Đó chỉ là vì lòng hiếu khách. Chúng ta muốn xử tốt với ngươi. Thế thôi !
- Ha ha ! Nếu chỉ có thế thì tại hạ cám ơn ! Nhưng này, tại hạ cảnh cáo:
nếu các vị bỏ ngoài tai lời tiên đoán của tại hạ, các vị sẽ hối không kịp. Miyamoto Musashi không phải con người tầm thường. Y rất nguy hiểm. Nguy hiểm không những cho chưởng môn các vị mà còn cho cả phái Yoshioka nữa. Tại hạ đã có dịp nhìn đôi mắt y, quyết liệt vô cùng mà cũng tàn nhẫn vô cùng ...
- Thôi ! Đủ rồi ! Giờ này không phải lúc để ngươi nói những lời làm nhụt nhuệ khí bọn ta !
Nhưng Kojiro làm như không nghe tiếng. Hay hắn chẳng coi những lời ấy vào đâu. Hắn tiếp, còn cay độc hơn nữa:
- Những kẻ trong cảnh suy tàn thường không chịu nhận lời nói thẳng.
Và chế giễu:
- Tấm cáo thị các vị cho cắm dưới chân cầu là bảng cáo phó của phái Yoshioka !
Thật đáng buồn tại hạ phải chứng kiến cảnh trụy lạc của một môn phái vẫn được coi là có nhiều hảo thủ.
Ueda nhổ bọt vào Kojiro và soạt một tiếng, đã rút kiếm ra khỏi vỏ.
Đồ chúng Yoshioka cũng nhất tề đứng dậy, đao kiếm cầm tay, mặt đằng đằng sát khí.
Nhưng như cắt, Kojiro phóng cước đá đống lửa bắn tung, xoay mình một vòng. Người ta chỉ thấy tấm thanh bào của hắn rung động, lưỡi kiếm dài như cây sào phơi đã lăm lăm trong tay, sáng lấp lánh và lưng hắn đã dựa vào gốc cổ thụ gần đó.
Kojiro cười gằn. Hiển nhiên nếu bọn Yoshioka cùng xông lại công kích thì hắn đã sẵn sàng.
Nhìn cục diện đột nhiên biến chuyển, người tinh ý biết ngay gã thanh niên tuy trẻ người mà mánh lới thâm độc. Hắn đã dùng những lời khiêu khích để, trước mặt bọn đồ đệ Yoshioka và bao nhiêu khách bàng quan gần đó, có cơ hội chứng tỏ tài năng. Nếu cần, hắn sẽ ra tay tàn sát hầu làm lu mờ và áp đảo cả phái Yoshioka lẫn Miyamoto Musashi.
Thật là một hành động cao ngạo và liều lĩnh, nhưng là một sự liều lĩnh có tính toán.
Kojiro chậm rãi đưa tay kiếm lên ngang mặt, mũi kiếm trỏ thẳng về đằng trước.
Giữa lúc ấy, tiếng một thiếu nữ vang lên lanh lảnh từ phía sơn đạo:
- Kojiro !
Mặt gã thanh niên vẫn lạnh như tiền. Gã chăm chú nhìn bọn Yoshioka, không bỏ sót một cử chỉ. Ueda đứng trước mặt hắn, hai tay nắm chuôi kiếm, lưỡi kiếm chênh chếch chúc xuống, mũi kiếm chĩa vào hông địch thủ. Thế kiếm thật vững vàng, thủ không sơ hở mà lúc công chỉ cần xoay nhẹ cườm tay, mũi kiếm đã sát bên sườn, làm địch thủ lúng túng.
Tiếc thay, thế kiếm không thi triển được, vì đột nhiên hàng ngũ Yoshioka rối loạn.
Một môn sinh vừa chạy tới vừa kêu thảng thốt:
- Các vị hãy dừng tay ! Ueda lão huynh ! Mau đi cứu tiểu chủ. Nguy lắm.
Mọi người quay cả lại. Môn sinh này tên Miike Jurozaemon, là võ sinh mới nhập môn được Seijuro cho theo hầu để sai vặt. Miike Jurozaemon vừa chạy đến trước mặt Ueda đã phục xuống. Gã thở hổn hển:
- Ueda lão huynh ! Tiểu chủ nguy rồi !
- Làm sao ? Chuyện gì ? Tiểu chủ bây giờ ở đâu ?
Đứng trước cảnh bối rối của nội bộ Yoshioka, Kojiro không nói và cũng không có hành động gì. Hắn thong thả tra kiếm vào vỏ rồi lui ra xa chừng và i trượng đến gặp thiếu nữ vừa gọi tên hắn:
- Akemi ! Nàng đến đây làm gì ?
Thiếu nữ chẳng những không đáp còn hỏi ngược lại:
- Miyamoto Musashi đâu ?
Kojiro trừng mắt:
- Akemi, ta đã bảo nàng không được đến đây, sao còn đến ?
- Ngươi là gì của ta mà có quyền cấm ?
- Câm mồm ! Về ngay nhà trọ đường Quan Ngoại chờ ta ở đấy !
- Không về ! Ta muốn gặp Miyamoto Musashi, ngươi đừng tìm cách ngăn cản, vô ích!
Kojiro khó chịu. Càng bảo, Akemi càng bướng mà người hiếu kỳ, thấy to tiếng xúm lại mỗi lúc một đông. Hắn đấu dịu:
- Thôi được. Tùy nàng muốn làm gì thì làm. Để ta đến nghe tin tức Seijuro xem sao.
Đồ chúng Yoshioka với Ueda quây xung quanh Miike Jurozaemon mới nghe được vài câu đã mặt cắt không còn hột máu, rầm rập kéo nhau chạy về hướng bắc như đàn mãnh thú trốn lửa cháy rừng. Kojiro cũng đi theo. Hắn đoán sơ sơ chắc Seijuro trúng thương nặng, nhưng không hiểu Miyamoto Musashi thế nào. Dù sao, Seijuro cũng là chưởng môn nhân một phái, tất phải thi triển một vài chiêu kiếm. Hai cọp đánh nhau, cọp này thương tích nặng thì cọp kia cũng chẳng vẹn toàn. Cứ đến xem sao, tùy cơ ứng biến, nếu diệt được cả hai thì càng tốt. Nghĩ đến đây, Kojiro khoan khoái, cười thầm trong bụng.
Ueda và bọn thuộc hạ chạy chừng một quãng khá xa đến ven bờ giếng cạn.
Cỏ cháy vàng loang lổ bao quanh, loạn thạch đủ cỡ đủ màu, ngổn ngang xếp thành vô số hình cổ quái. Tới chân một đồng đất nổi lên như cái gò, cỏ gianh cao tới vai, Miike Jurozaemon vạch cỏ cúi xuống gọi:
- Tiểu chủ !
Đồ đệ Yoshioka kẻ trước người sau cũng vừa tới. Nhìn Seijuro nằm dài thiêm thiếp, mặt gục trên đám cỏ khô, chúng vừa kinh ngạc vừa đau lòng. Seijuro mặc kimono hoa xanh, tay áo xắn cao buộc bằng hai sợi dây da màu nâu thẫm, đầu quấn giải lụa trắng viết hai chữ “Yoshioka”. Hắn như bất tỉnh, không còn cử động gì, hơi thở thoi thóp. Trên đầu cũng như ngực áo không có vết máu, nhưng sắc mặt Seijuro trắng bệch, môi tái nhợt mang vẻ đau đớn vô hạn.
- Còn thở mà !
Một người để tay lên mũi Seijuro, hơi thở nhẹ như tơ, không đủ làm rung động sợi chỉ mảnh.
- Còn, nhưng yếu lắm.
- Đỡ tiểu chủ ngồi dậy !
Miike Jurozaemon quỳ xuống cùng với một tên đồ đệ nhấc tay Seijuro lên định quàng vào vai mình thì Seijuro choàng mở mắt. Mắt hắn lạc thần, da mặt co rúm lại, mồ hôi ra lấm tấm trên trán.
- Ôi chao, đau !
Hắn chừng muốn kêu to, nhưng người ngoài nghe tiếng hắn như tiếng dế. Đôi con ngươi lờ đờ nhìn phía trước. Hai giọt nước mắt hiện ra lăn dài trên má. Seijuro rướn người lên, đầu ngoẹo sang bên rồi im lặng, bất động. Hắn đã hôn mê mất rồi !
- Phải kiếm cái gì làm cáng khiêng tiểu chủ về. Ngươi chạy đi mời y sư ngay, nói tiểu chủ bị nội thương nguy kịch lắm.
Ueda vừa ra lệnh vừa cởi áo đắp lên mình người chưởng môn thất thế. Đồ chúng hối hả chạy đi chặt cành cây, Ueda cạy miệng Seijuro bỏ vào mấy viên chỉ thống đơn rồi quỳ bên cạnh nghe động tĩnh.
Một lúc sau, sắc mặt Seijuro đã bớt nhợt nhạt, bắp thịt bên mép giật liên hồi.
Ueda thở dài như vừa trút được gánh lặng:
- Tiểu chủ ! Tiểu chủ có nhận ra đệ không ?
Seijuro từ từ mở mắt. Hắn khẽ chớp hai hàng mi như nhận biết người vừa gọi rồi nhắm mắt lại.
Cáng được mang đến, làm bằng hai cành phong xỏ vào tay chiếc kimono bằng vải dày của một tên đệ tử. Mọi người xúm lại nhấc Seijuro để lên cáng, cánh tay phải hắn lủng lẳng tựa một vật thừa sắp rời khỏi thân thể. Seijuro cau mặt nghiến răng không kêu la nhưng ai cũng thấy rõ hắn đang cố vật lộn với sự đau đớn. Mồ hôi ở chân tóc và trên mép chảy rỏ giọt, Ueda phải dùng khăn thấm bớt. Nhiều người quay mặt đi không dám nhìn cảnh ấy, vì nó thương tâm quá và sợ xúc phạm đến vị tiểu chủ họ hằng kính trọng.
Bốn người khiêng chiếc cáng bước đi, theo sau là đồ chúng Yoshioka lặng lẽ và buồn thảm như một đám tang.
Nhờ mấy viên thuốc, Seijuro đã tỉnh đôi chút. Hắn rên khe khẽ:
- Đau quá ! Trời ơi đau quá ! Đứa nào chặt tay này đi cho ta ! Đau quá.
Phu cáng đi nhanh hơn. Đường đất đỏ gập ghềnh. Seijuro càng nhăn mặt:
- Chặt tay này đi ! Trời ơi ! Ta bảo đứa nào chặt tay này đi hộ ta nếu không ta chết mất !
Một đệ tử chạy trở lại nói với Ueda:
- Ueda lão huynh ! Tiểu chủ đau quá không chịu nổi, bảo phải chặt tay đi. Bây giờ làm thế nào ?
- Đồ ngu. Tiểu chủ đau nhưng không chết. Nếu chặt tay mà không có thuốc rịt thì máu chảy ra hết, tiểu chủ sẽ chết ngay. Thôi đi đi, đừng có nhiễu sự. Tốt hơn là ngươi ba chân bốn cẳng chạy về võ đường bảo y sinh đem thuốc cầm máu đến đây lập tức để rồi ta liệu !
Thấy có người lố nhố trong những bụi cây đằng xa, Ueda bực tức bảo:
- Gọi anh em đuổi những tên kia đi. Đừng để tiểu chủ làm trò cười cho chúng !
Bọn đồ đệ chạy đi rồi, Ueda vẫy Miike Jurozaemon lại. Jurozaemon tưởng huynh trưởng mình quở phạt, len lén đến bên dập đầu xin lỗi.
- Ngươi đi với tiểu chủ từ sáng sớm phải không ?
- Dạ.
- Tiểu chủ gặp Miyamoto Musashi ở đâu ?
- Dạ, vừa tới chân gò thì Miyamoto Musashi xuất hiện.
- Miyamoto Musashi đi một mình hay với nhiều người khác ?
- Dạ, hắn đi một mình.
- Chuyện xảy ra thế nào, kể lại ta nghe ! Tiểu chủ biết chúng ta chờ ở gần sơn đạo mà !
Thấy Ueda ôn tồn, Miike Jurozaemon bớt lo.
- Trước khi đến đồng Rendaiji, tiểu chủ có nói nếu vạn nhất tiểu chủ bị bại về tay Musashi thì phải đem xác tiểu chủ đến chỗ các huynh trưởng chờ ở đồng bên cạnh. Tiểu chủ không muốn đệ cho ai biết trước khi cục diện ngã ngũ. Tiểu chủ nói có những lúc người lãnh tụ phải biết nhận trách nhiệm và không muốn cho võ lâm chê cười mình đã dùng những hành động nhơ nhuốc và hèn hạ để thủ thắng. Tiểu chủ có vẻ buồn nhưng rất dũng cảm và tự tin.
- Rồi sao nữa ?
- Lúc Miyamoto Musashi đột xuất, hắn hơi mỉm cười. Đệ tử trông rõ lắm tuy lúc bấy giờ sương chưa tan hẳn. Hai bên cúi chào nhau, không ai nói một lời. Bỗng có tiếng thét, thanh kiếm của tiểu chủ bắn tung lên, tiểu chủ ngã chúi xuống cỏ, còn Miyamoto Musashi nhảy lùi lại, đứng trên một phiến đá trong đám loạn thạch, tóc dựng đứng.
- Sao lúc bấy giờ ngươi không nhảy vào đỡ tiểu chủ ?
- Dạ, vì nhanh quá. Vụt một cái, không đầy nháy mắt. Sau đó, tên kia nhìn đệ tử, mắt hắn đỏ như rực lửa, đệ tử sợ quá. Quay lại, không thấy hắn đâu nữa !
Miike Jurozaemon kể xong như trút được gánh nặng. Ueda mắt đăm đăm nhìn về phía xa, vẻ tư lự. Chòm râu lão lốm đốm bạc, gió thổi dạt quấn cả vào mang tai.
Kojiro đứng bên Akemi dưới gốc thông già, nhìn bọn đệ tử Yoshioka khiêng chủ soái đi qua. Một niềm trắc ẩn hiển lên thay cho nụ cười khinh mạn trên môi hắn, nhưng nghe tiếng rên rỉ của Seijuro, hắn cau mặt.
Hắn bước đến bên cáng. Đồ đệ Yoshioka khựng lại thủ thế. Kojiro tới gần khẽ gọi:
- Yoshioka đại huynh !
Seijuro nhọc mệt hé mắt. Nhìn thấy Kojiro, hắn nở nụ cười héo hắt:
- Trễ mất rồi !
Kojiro trông bàn tay phải xám ngoẹt của chưởng môn nhân phái Yoshioka, lắc đầu:
- Gẫy xương bả vai. Thế là cánh tay này bị phế bỏ ...Đại huynh chẳng nên nằm, máu dồn lên óc không tốt.
- Ối chao ! Đau ! Giá ai cắt cánh tay này hộ ta ...
- Trước sau gì thì cánh tay này cũng phải bỏ. Nếu tâm phế không bị chấn động tất còn cứu vãn được. Đại huynh còn cánh tay trái, thiết nghĩ nên bảo tồn lấy tính mệnh và giữ vững hào khí. Khi bình phục sẽ tìm cách rửa hận.
Seijuro chớp chớp mắt, ra vẻ đồng ý.
- Bây giờ đừng để tâm đến nỗi đau vật chất nữa ...
Seijuro cau mặt:
- Túc hạ ...túc hạ ...không ở địa vị ta ...
- Tại hạ biết lắm chứ. Nhưng phải khắc phục. Quan trọng là nỗi đau tinh thần.
Đại huynh phải nghĩ đến danh dự và lòng kỳ vọng của môn phái, của cha ông. Có thể nào đại huynh cứ nằm thế này cho môn đệ khiêng về Kyoto, dưới mắt khinh rẻ và chế giễu của mọi người được à ?
Seijuro quay hẳn đầu sang nhìn Kojiro. Ánh kiêu ngạo lóe lên trong khóe mắt nhưng tắt ngay. Hắn rên rỉ.
- Nếu cần, tại hạ xin giúp ...
Tiếng Seijuro thều thào:
- Phải rồi ! Các người để ta xuống. Túc hạ đỡ ta ...
Kojiro giơ tay dìu Seijuro. Hắn rú lên:
- Trời ơi ! Đau ! Chết mất. Cho ta mượn lưỡi kiếm. Ueda đâu, chặt cái tay vô dụng này đi !
Nhưng Kojiro đã rút cây chủy thủ trong áo:
- Nếu đại huynh không ngại ...
- Ờ ! Túc hạ giúp ta ...
Xoẹt ! Cánh tay Seijuro đứt lìa đến tận bả vai. Máu tuôn xối xả. Hắn gục xuống ngất đi.
Vừa hay hai khoái mã mang thuốc phong tới như bay. Đồ chúng xúm quanh rịt thuốc rồi lấy vải buộc chặt vết thương. Seijuro tỉnh lại, muốn một mình trở về võ sảnh đường Shijo, nhưng mới đi được vài bước đã quỵ xuống. Đồ đệ vực hắn lên ngựa, cắt y sinh ngồi giữ. Hắn cũng chẳng con hơi sức đâu mà phản kháng nữa.
Kojiro trở lại bên gốc thông, đến bên Akemi:
- Nàng nhìn rõ không ? Chắc nàng vui lòng lắm !
Akemi mặt tái xanh, nghẹn họng không nói nên lời. Nàng thấy hắn tàn ác và bất nhân. Chưa kịp phản ứng, Kojiro đã tiếp:
- Nàng vẫn nói nếu trả thù được y, sẽ sung sướng lắm. Bây giờ y như thế, nàng đã toại nguyện chưa ?
Akemi nhướng mắt nhìn Kojiro. Không hiểu sao, lúc này nàng thấy ghê tởm hắn. Xem ra, tâm địa hắn còn đáng khinh và đáng sợ hơn Seijuro nữa. Seijuro đã làm hại đời nàng, nhưng không đến nỗi là một con người độc ác. Tên Kojiro này, dưới cái lớp vỏ trẻ trung dễ thương, thật là giống ngạ quỷ nham hiểm. Hắn không phạm những điều lầm lỗi mà thế nhân thường phạm, không gian dối, không ăn cắp, không tà dâm, nhưng là một con quỷ gian ác có những ý nghĩ lệch lạc, thấy người khác đau khổ thì thích thú, khoái chí. Hắn còn nguy hiểm hơn những kẻ tội lỗi thường tình nhiều. Akemi muốn chạy trốn, thoát khỏi sự kềm tỏa của giống ác quỷ này nhưng không đủ can đảm.
Kojiro kéo tay nàng, nàng líu ríu theo sau. Con hoàng hầu trên vai Kojiro quay lại nhe răng kêu khèng khẹc chế giễu. Nàng muốn mắng nó nhưng không thể. Akemi có cảm tưởng nàng và con khỉ kia cùng chung số phận. Nàng ghét Seijuro và Kojiro nhưng hai người đó sao cứ thu hút nàng như ngọn lửa thu hút những con thiêu thân đến gần để đốt chết.
-
CHƯƠNG 35
HƯƠNG TRÀ
Miyamoto Musashi men theo bờ suối tìm đường ra khỏi đồng Rendaiji. Lau sậy cao quá đầu người, dầy chi chít, hắn phải vạch lối mà đi, chân đạp lên những lớp lá khô nghe rào rạo.
Một con chim nhỏ trong bụi bay vụt lên, bụng trắng phau như bụng cá thoáng quẫy trong đám rong trước khi lẩn đi biệt tích.
Musashi không ngờ cuộc tỷ đấu dễ dàng và kết thúc nhanh như vậy. Quay nhìn gò đất cao gần đám loạn thạch, hắn lẩm bẩm:
“Mình mới phóng một chiêu, sao y không đỡ. Lẽ nào chưởng môn một danh phái mà tồi tàn đến thế !”. Nhưng nghĩ cho cùng, hắn chẳng lấy làm lạ. Ở đời kẻ bất tài thường hay huênh hoang. Khi may mắn được thừa hưởng cái hào quang của đảng tộc để lại, họ được đàn em đua nhau xu nịnh, lâu ngày lộng giả thành chân, họ tưởng mình có tài cán thật. Sống trong ảo tưởng như thế, đến khi hữu sự, họ không ngờ mình quá kém và đã phải trả giá đắt sự ngu dại của mình. Trường hợp Yoshioka Seijuro này là một. Y không huênh hoang nhưng nhu nhược. Vì không có một khả năng gì đáng kể, y đã làm cho chính bản thân và cả môn phái y thân bại danh liệt.
Rút mộc kiếm ra xem kỹ, Miyamoto Musashi không thấy một vết máu, một chỗ trầy nào. Lưỡi kiếm đạo đen như mun vẫn bóng mịn, chuôi kiếm nằm trong tay hắn chắc, gọn. Hắn có cảm tưởng lưỡi kiếm với thân thể hắn là một, sinh động, vững vàng, sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách.
Nhớ lại lúc mới gặp nhau, Seijuro hơi giật mình. Phản ứng đó tuy rất nhẹ nhưng không qua được tia mắt sắc bén của Miyamoto Musashi. Hai bên cúi chào. Dáng điệu Seijuro rụt rè, có đôi chút hoa mỹ, rõ ràng là phong thái của người chỉ tập luyện trong võ sảnh, ít bôn tẩu giang hồ. Dưới mắt Miyamoto Musashi, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã tố giác võ công và ý chí của Seijuro.
Sau đường kiếm độc nhất làm Seijuro quỵ ngay tại chỗ, Miyamoto Musashi thất vọng vô cùng. Hắn mong đợi một đối thủ khá hơn, ít nhất cũng thi triển được vài cao chiêu để hắn mở rộng kiến thức và không uổng công chuẩn bị. Nhưng đối thủ ấy đã không nhiệt thành, mà ngay đến lòng tự tin cũng không có. Nếu biết trước, có lẽ hắn đã tìm cách hủy bỏ cuộc gặp gỡ. Hắn chỉ muốn có cơ hội thử nghiệm tài năng chứ đâu phải muốn tìm hư danh trong cuộc tranh chấp.
Miyamoto Musashi bất giác sinh lòng lân mẫn:
“Thật đáng tiếc !”. Nhưng đã muộn.
Mũi tên bắn đi không thu về được nữa. Hắn thở dài, ngồi xuống tảng đá bên bờ suối, cúi đầu thành tâm cầu cho Seijuro không đến nỗi tử thương. Và rút quyển sổ nhỏ, lẳng lặng ghi niềm hối tiếc đầu tiên trong năm về một hành động hắn cho là vô ích.
Trời gần trưa, Miyamoto Musashi lầm lũi đi. Con suối cạn về mùa đông, giờ đây tuyết tan, đã có nước chảy róc rách. Gặp phiến đá chắn ngang, nước phân ra hai dòng, đổ bọt trắng phau, kéo theo cành gãy lá khô bít cả một quãng lòng suối.
Tần ngần nhìn nước chảy miên miên, Miyamoto Musashi liên tưởng đến cuộc đời hắn, những trở ngại hắn đã vượt qua như phiến đá kia ngăn chặn dòng nước và rồi còn bao nhiêu trở ngại trong tương lai nữa.
Dòng nước chảy đi đâu ? Có lợi ích gì cho ai không ? Nhìn dòng nước, hắn nhớ đến lời Lão Tử trong Đạo Đức Kinh đọc được khi còn ở thạch thất:
“Bậc thượng thiện giống như nước, làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Bản thể của Đạo cũng như nước, không làm gì cả mà kỳ thực không có gì là không do cái làm của nó mà ra”. Trước đây, hắn không hiểu ý ấy, bây giờ có lẽ đã lý hội được phần nào.
Bước chân Miyamoto Musashi rào rạo trên đường sỏi làm một bà lão đang lúi húi hái rau giật mình ngửng đầu lên. Bà lão người bé nhỏ, tay xách giỏ tre đan, mặc một bộ kimono đơn giản, bên ngoài khoác chiếc áo ngắn màu nâu sẫm. Y phục bà là y phục của người thế tục, nhưng bà lại trùm trên đầu một vuông khăn xám như các ni sư. Bà già có dáng thanh tú của những người sống ở thị thành, quen nhàn nhã từ tấm bé.
Miyamoto Musashi xuất hiện thình lình khiến bà mở to mắt kinh hãi. Một tay để lên ngực, những ngón tay nhỏ, trắng xanh run run, mặt bà tái đi. Chuỗi tràng hạt đeo bên mình theo nếp áo rung động.
Miyamoto Musashi cũng không ngờ chỗ này có người, nhưng trấn tĩnh được ngay.
Hắn tươi cười hỏi:
- Lão bá làm gì thế ?
Bà già không trả lời, ngó trước ngó sau, quay đầu chạy, chiếc giỏ tre rớt xuống cỏ bà cũng không biết. Bà vừa chạy vừa kêu:
- Koetsu ! Koetsu !
Miyamoto Musashi chẳng hiểu sao bà lão lại sợ mình đến thế, đứng ngẩn ngơ nhìn theo. Rồi cúi xuống nhặt chiếc giỏ tre lên. Trong giỏ toàn một thứ rau khúc, chắc do bà già hái được từ sớm. Sợ bỏ đi thì uổng, hắn xách lẵng rau rảo bước theo sau.
Đến một khu rừng thưa trên sười đồi thoai thoải, chợt thấy bóng hai người đàn ông, một người ngồi trên tấm vải thay chiếu trải lên cỏ và một hình như đang lúi húi nhóm lửa. Vài sợi khói lam tỏa nhẹ lên cao trong bầu thinh không trong vắt. Khung cảnh thật yên tĩnh và êm đềm một cách lạ !
Miyamoto Musashi đến gần. Bên tấm vải, bày la liệt những đồ dùng để uống trà, nào khay, nào chén, nào ấm sành. Trên bếp lửa lại treo sẵn một cái ấm sắt đun nước. Rõ ràng đây là cuộc du ngoạn của một nhóm người thấy trời đẹp, cảnh trí vui tươi thì dừng lại pha trà thưởng thức.
Người đàn ông ngồi trên tấm vải dường như đang vẽ tranh. Ông trạc ngũ tuần, nước da mịn và trắng hồng nhưng tóc đã lốm đốm bạc. Nhìn Miyamoto Musashi, ông không tỏ vẻ gì ngạc nhiên. Dáng điệu vẫn bình tĩnh và ung dung, ông lên tiếng:
- Có chuyện gì thế, tráng sĩ ?
- Vãn bối mang hoàn lại giỏ rau.
Ông vội bỏ bút, cúi đầu thi lễ:
- Giỏ rau này của gia mẫu. Người đã có tuổi, chắc bỏ quên. Xin đa tạ tráng sĩ.
Miyamoto Musashi vội quỳ xuống:
- Vậy té ra là lệnh đường. Vãn bối thật đắc tội, đã làm lão bá sợ hãi. Vãn bối đột nhiên đi tới, lão bá kinh hãi đánh rơi giỏ rau nên vãn bối mang lại trả chứ không có chuyện gì.
Vừa hay người lão bộc dẫn bà cụ đến. Trông thấy giỏ rau, mặt bà tươi hẳn lên.
- Mẫu thân ! Tráng sĩ đem trả giỏ rau đây này !
Bà cụ cúi đầu cảm tạ:
- Già thật hồ đồ quá. Xin cảm ơn tráng sĩ.
Người đàn ông trung niên tự giới thiệu:
- Tiện danh là Koetsu, nhà ở ngõ Honami.
Nghe tên Koetsu, Miyamoto Musashi ngạc nhiên. Trên giang hồ, hắn đã nghe nhiều người nhắc đến tên này. Ông không phải là kiếm sĩ, nhưng nổi danh suốt một dải trung nam nước Nhật là một nhà luyện kiếm vô song. Học lực về kiếm phổ của ông uyên bác, đức hoàng đế có khi còn phải triệu ông vào cung để hỏi xuất xứ và tiểu sử của những thanh kiếm lạ. Riêng về tài năng này, giới học giả và kiếm sĩ cầm quyền rất khâm phục. Nghe nói trước đây, đại danh Toyotomi Hideyoshi, thân phụ Hideyori, đã viết di chúc dặn người thừa kế phải trích ra hàng năm ba ngàn gia. lúa để tặng gia đình ông chi dụng.
Với số lợi tức ấy, ông thừa sức sống phong lưu. Căn nhà ông ở tại ngõ Honami của tổ phụ để lại, rộng như một trang trại, thiết bị đủ thứ dụng cụ để đúc và mài dũa gươm quý.
Nhưng quan trọng và đầy đủ nhất, phải kể cái thư khố đựng toàn sách chuyên môn về kỹ thuật luyện kiếm và kiếm phổ do tổ phụ Ông sưu tập và truyền lại. Không những thế, Koetsu còn là một nghệ sĩ tài hoa về nhiều phương diện. Ông làm đồ gốm và đồ sơn mài, vẽ tranh thủy mặc, viết bút thiếp và hiểu biết rất sâu rộng về cổ họa Nhật.
Honami Koetsu vang danh khắp nơi đến nỗi nhiều kẻ hậu sinh quá ngưỡng mộ Ông, khi đi qua ngõ Honami, tự động xuống ngựa để tỏ lòng cung kính.
Tuy vậy mà nếp sống của ông rất giản dị. Ông không ưa lụa là, cái ăn cái mặc chỉ vừa đủ cần thiết. Cùng với bà mẹ già xấp xỉ bảy mươi, ông thích du ngoạn đó đây, hòa mình với thiên nhiên và như hôm nay, dùng nơi hoang vu này làm bối cảnh cho một buổi uống trà và vẽ tranh để di dưỡng tính tình.
Lần đầu diện kiến, nếu ông không xưng danh, có lẽ Miyamoto Musashi không ngờ con người trung niên có cái dáng quan chức ngồi kia lại là Koetsu, nhà kiếm học và nghệ sĩ tài danh lừng lẫy.
Miyamoto Musashi hỏi lại:
- Phải chăng tiên sinh chính là nhà luyện kiếm nổi tiếng tại ngõ Honami ở cố đô.
Koetsu mỉm cười:
- Đa tạ tráng sĩ quá khen. Lão phu chẳng qua nhờ phúc trạch mà nên, có tài cán gì. Tiện danh bất quá chỉ được một số ít bằng hữu biết đến.
Đoạn tươi cười nói với bà mẹ:
- Lúc nãy, mẫu thân có vẻ kinh hãi. Con thấy tráng sĩ đây rất thuần nhã, có gì đáng e ngại đâu !
Bà lão vui vẻ, lấy tay che miệng:
- Nói ra thì xấu hổ. Lúc bấy giờ nhìn tráng sĩ đột nhiên xuất hiện, ta thấy sát khí bừng bừng, nên sợ quá. Già này hồ đồ, tráng sĩ thứ lỗi.
Trực giác hết sức linh mẫn của bà lão khiến Miyamoto Musashi kinh ngạc. Bà đã nhìn rõ hơn, hay đúng hơn, cảm thấy nội lực phi thường toát ra từ thân thể hắn, y như là trước kia, Ozoin lão tăng ở vườn rau chùa Quanh Minh đã cảm thấy. Gần một năm rồi, công lực sung mãn ấy vẫn chưa kiềm chế được, trách gì chẳng làm cho bà sợ hãi.
Koetsu có lẽ cũng có được sự cảm nhận mẫn nhuệ như thế, nhưng ông điềm tĩnh hơn và có lẽ ông đã chỉ chú ý đến khía cạnh tốt, cái phần thiện trong con người Miyamoto Musashi mà thôi. Ông giơ tay mời:
- Tráng sĩ vừa chiến đấu xong, hãy lưu lại nghỉ một chút cho thoải mái. Trời trong và đẹp như thế này, cảnh trí lại tịch mịch, vội gì ?
Miyamoto Musashi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thế ra ông cũng đã rõ mình vừa tỷ kiếm với Seijuro. Sao ông không có phản ứng gì. Có lẽ ông cho đó là những sinh hoạt của một giới khác với giới của ông chăng. Hắn nghĩ thế, nhưng không để lộ ra, chỉ vắn tắt cảm ơn rồi tháo dép ngồi xuống:
- Vãn bối tên Miyamoto Musashi ở Mimasaka..
- Lão phu cũng đã đoán biết vậy.
Bà cụ thân mẫu cũng ngồi xuống hỏi han gia cảnh và sở học của hắn. Bây giờ bà vui vẻ tươi cười, coi Miyamoto Musashi như một đứa cháu nên hắn thích thú vô cùng. Hắn đem tâm sự ra kể, những thất vọng và kinh nghiệm đã trải qua cùng những ước mơ hắn thường ấp ủ.
Không biết cơ duyên nào đưa đẩy cho hắn gặp hai mẹ con nhà kiếm học Koetsu ngày hôm nay, nhưng hắn có cảm tưởng hai người này cảm thông với hắn từ bao giờ và tự nhiên hắn tin cậy họ. Không phải vì Koetsu danh vọng lẫy lừng mà hắn có cảm tưởng ấy. Giá ông đừng xưng danh, có lẽ hắn còn thấy thoải mái hơn.
Bà cụ hỏi con trai:
- Con thử đoán xem Musashi bao nhiêu tuổi ?
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi, mỉm cười đáp:
- Khoảng hăm lăm hăm sáu.
Miyamoto Musashi vội chữa:
- Vãn bối năm nay mới hăm ba.
- Chà ! Thế ra lão phu trông tráng sĩ già hơn tuổi ! Chắc phong sương nhiều cho nên thế ! Nhưng không sao, những vết phong sương ấy là chứng tích của sự từng trải đấy!
Mọi người cười ồ, vui vẻ.
Chuyện vãn hồi lâu, Koetsu ngỏ ý muốn ra bờ suối vẽ tranh còn bà cụ giúp người lão bộc làm bánh lá khúc.
Một mình Miyamoto Musashi ngồi ngó mông lung ra phía xa. Trời đã quá trưa.
Nắng không còn thịnh nhưng khí hậu ấm áp. Tuy nhiên mới là đầu xuân, cây cỏ chưa xanh tốt, du ngoạn lúc này quả hơi sớm. Hắn nghĩ hai mẹ con Koetsu phải là người yêu thích thiên nhiên lắm, bị bó cẳng suốt mùa đông không ra ngoài được nên mới vội vàng thế. Riêng đối với thanh niên hiếu động như hắn, ngồi mãi cũng chán. Hắn bèn đứng dậy đi quanh.
Một gốc mai già khẳng khiu mọc nghiêng bên bờ suối. Đầu cành, có bông mai độc nhất nở, trắng muốt, rung rinh theo gió. Hắn nhìn cành mai, thấy đẹp vô cùng, đứng sững ngắm không biết chán. Không biết cái cảnh “trúc phong, mai vũ” như thế nào, nhưng bông mai độc nhất trong cái khung cảnh hoang vu ngày đầu xuân này khích động hắn lạ thường.
Men theo bờ suối, đến gần chỗ Koetsu ngồi, Miyamoto Musashi lẳng lặng nhìn nhà nghệ sĩ dùng ngọn bút lông ghi lại những nét động của dòng nước đương chảy.
Ông vẽ nhiều lần, nhưng có lẽ không lần nào vừa ý nên tranh để la liệt bên cạnh.
Vẽ xong một bức, cho là chưa được, ông lại vẽ lại, không nản chí.
Hừ, Miyamoto Musashi nghĩ thầm. Vẽ cũng không phải là dễ. Ngọn bút trong tay nghệ sĩ chỉ là dụng cụ, cũng như thanh gươm trong tay kiếm sĩ. Quan trọng là cái tâm, phải để tâm mình hòa hợp với thiên nhiên thì mới diễn tả được thiên nhiên. Phải cảm thông trước đã. Cũng như hắn, khi chiến đấu, kiếm và tâm hợp nhất thì mới đạt tới mức siêu hóa. Ông vẽ nước chảy mà vẫn coi nước là đối nghịch thì không thể nào thành công được.
Miyamoto Musashi lững thững trở về chỗ cũ. Sợ nhàn rỗi quá thành ra u trệ, hắn ngỏ ý cáo từ hai vị chủ nhân. Koetsu giữ lại:
- Tráng sĩ lưu lại chút nữa, chờ uống trà với lão phu. Trà là thứ di dưỡng tình tình tốt nhất.
Nghỉ một lúc ông lại nói:
- Vả lại theo thiển ý, động là cao điểm của tĩnh. Tráng sĩ muốn giữ cao điểm mãi cũng không thể được. Có động thì có tĩnh. Tĩnh bây giờ để chuẩn bị cho cái động về sau.
Chắc tráng sĩ hiểu ý lão.
- Đa tạ tôn ý. Nếu quả vãn bối không làm phiền gì thì xin ở lại.
Koetsu thu xếp giấy bút và đậy nắp bình mực. Vàng, bạc ánh lên cùng với xà cừ cẩn trên nắp bình lóng lánh làm Miyamoto Musashi chú ý. Hắn xin phép cầm xem.
Nắp bình mực sơn then bóng lộn, vẽ hai bông Sumigiku bên một hàng giậu nhỏ. Nét vẽ xương kính, cánh bố cục chặt chẽ. Tuy là tranh tĩnh vật nhưng hai bông hoa sinh động lạ thường, nhờ cách rắc bột vàng và bạc, điểm những miếng xà cừ và cách mài sơn tuyệt khéo.
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi. Hắn không giấu lòng thán phục, hai tay bưng bình mực trả chủ nhân và nói:
- Đẹp quá ! Tác giả tạo nên bảo vật này là ai, tiền bối có biết không ?
- Bảo một mình lão phu làm thì không đúng hẳn, vì cũng còn một người nữa là Vương Tích đề thơ và tự tay viết thủ bút, cho nên phải nó Vương tiên sinh và lão phu cùng làm mới phải.
- Vương Tích có liên hệ gì với Vương Trung, quan nhiếp chính đại thần tiền triều không ?
- Vương tiên sinh chính là trưởng tử quan đại thần Vương Trung.
- Chả trách được ! Vãn bối có được nghe đại danh ngài là người viết bút thiếp nổi tiếng nhất kinh thành.
Thân mẫu Koetsu đặt bộ đồ trà lên chiếu vải, nói:
- Già chẳng có gì đãi tráng sĩ, chỉ lưu tráng sĩ lại dùng trà.
Đoạn, mở nắp hộp, lấy trà cho vào bát, dùng gáo tre đong nước sôi, đánh trà nổi bọt. Cử chỉ của bà gọn gàng và chính xác, chứng tỏ bà rất thành thạo. Những ngón tay nhỏ nhắn thoăn thoắt lướt trên các đồ dùng, nhẹ nhàng linh hoạt mà vẫn thanh lịch tự nhiên một cách lạ. Tuổi đã thất tuần, dáng điệu bà không có vẻ già, vẫn nhanh nhẹn, trang nhã và kín đáo, thật đáng tiêu biểu cho vẻ đẹp phụ nữ cùng lứa tuổi.
Càng nhìn hắn càng thấy cảm mến. Nói theo ngôn ngữ kiếm đạo thì những thủ pháp của bà hoàn toàn, không chỗ nào sơ hở. Khi bà giơ cao chiếc gáo nhỏ đong nước vào bát, hắn có cảm tưởng nhìn một tay kiếm tuyệt luân vừa xuất thủ. Hắn nghĩ thầm:
“Đó mới chính là đạo, đó mới là tinh hoa của nghệ thuật, luôn luôn tìm sự tận thiện, tận mỹ !”.
Miyamoto Musashi ngồi yên quỳ gối, hai tay để lên đùi, trịnh trọng ngắm bà lão bưng trà và xếp bánh ra đãi khách. Ở giữa chốn hoang vu, những chiếc bánh mướt xanh như ngọc thạch trên tấm lá màu nõn chuối đã được cắt vuông vắn để trong cái khay sơn then, trông sao mà ngon mắt thế ! Hắn tưởng mình đang ngồi trong trà thất của một đại gia mà chủ nhân, tuy ưa thích cảnh thiên nhiên nhưng vẫn còn lưu luyến với những nghi lễ của trà đạo. Hắn đâm ngại.
Nhìn Koetsu và bà thân mẫu uống trà, đĩnh đạt, thư thả, hắn lúng túng:
- Vãn bối sinh trưởng nơi cô lâu, không rõ lề lối uống trà ở kinh đô, chẳng biết phải làm thế nào ?
Bà cụ cười mà nói:
- Già này thật mến cái tính ngay thẳng của tráng sĩ ! Thì có gì quan trọng đâu !
Nghệ thuật uống trà chẳng bí mật hay phiền toái gì. Tráng sĩ sinh trưởng ở nhà quê thì cứ uống như người nhà quê ...
- Lão bá nói như vậy, ra uống trà dễ lắm sao ?
- Dĩ nhiên ! Chân lịch sự phát xuất tự trong lòng. Nếu ta quá chú trọng đến cái vỏ bề ngoài thì mất thú đi. Muốn tận hưởng hương vị của trà, cứ để cho lòng ta thoải mái tự nhiên. Cũng như khi sử kiếm, tráng sĩ đâu có giữ cho thân mình quá gò bó. Làm thế, sự hòa hợp giữa kiếm và người không còn nữa, phải vậy không tráng sĩ ?
- Dạ thưa phải.
Bà già lại cười, tiếng trong như thủy tinh:
- Ấy đấy ! Già này lại lộng ngôn rồi. Tráng sĩ tha lỗi, đáng lẽ ta chẳng nên bàn về cách sử kiếm là một môn ta chẳng biết gì cả ...
- Nhưng Miyamoto Musashi đã cúi đầu, hai tay nâng bát trà lên:
- Vãn bối xin thất lễ.
Vị trà đắng ngắt. Dù có lịch sự đến đâu, hắn cũng không thể cho là ngon được.
Không hiểu tại sao bao nhiêu người đua nhau ca tụng cái hương vị mà họ gọi là thanh lương ấy. Chắc trong cách pha trà, uống trà phải có những điều gì khác cao quý, hắn còn ít tuổi chưa tìm ra hoặc chưa biết thưởng thức, chứ nếu không, sao nó lại được coi như một triết lý sống và được nâng lên hàng trà đạo ? Hắn nghĩ đến Yagyu và Takuan, hai người trọng cách uống trà lắm. Takuan tán dương đức tính thâm trầm của nó, còn Yagyu thì dành những năm tàn của mình trong việc nghiên cứu trà đạo.
- Tráng sĩ dùng thêm chút nữa ?
- Đa tạ lão bá, xin đủ.
Miyamoto Musashi miên man nghĩ đến vị dật sĩ dùng kiếm cắt cành mấu đơn dạo nào và đột nhiên chú ý nhìn bát trà trước mặt, hắn ngạc nhiên và khích động đến cùng cực. Không biết lúc đó hắn có thốt ra tiếng kêu nào không ?
Cầm chiếc bát sành lên ngắm nghía, mắt hắn sáng rạng rỡ:
chiếc bát cân đối, màu men tươi, không tì vết, nét vẽ sắc sảo, giản dị mà không tầm thường. Dưới trôn bát, chú ý nhìn những vết bay gọn gàng, vững mạnh của người nghệ sĩ đã tạo ra nó, hắn như lại được nhìn thấy một lần nữa sự tinh vi, sắc bén khác thường của đường kiếm Yagyu.
Thật là sản phẩm của một vị kỳ nhân, hàm chứa niềm giao cảm huyền diệu giữa tâm linh và vật chất. Hắn không hiểu tại sao, chỉ cam thấy như vậy. Có lẽ trực giác của hắn bén nhậy hơn trực giác của những người khác chăng ? Miyamoto Musashi vuốt ve thành bát. Hắn muốn được tiếp xúc lâu hơn nữa với mỹ tác tuyệt kỹ này.
- Tiền bối ! Vãn bối không biết gì về cách uống trà và những đồ dùng để uống trà, nhưng đây là một chiếc bát hết sức tinh xảo. Ai làm ra nó hẳn phải là một nghệ sĩ siêu đẳng.
- Sao tráng sĩ lại nói thế ?
Lời Koetsu dịu dàng nhưng nghiêm trang. Ông nhìn chàng thanh niên, hình như trên mặt ông thoáng một chút kiêu hãnh.
- Vãn bối không giải thích được, chỉ nói ra điều mình cảm thấy.
- Tráng sĩ cảm thấy đích thực những gì ?
Musashi suy nghĩ một lát rồi nói:
- Vãn bối không thể nói rõ được. Nhìn những vết bay dưới trôn bát thì cảm thấy có một cái gì phi thường làm khích động vãn bối vô cùng.
- Hừ ...
Koetsu là một nghệ sĩ tài hoa, ai cũng biết. Ông lại nhã nhặn nữa nên ai cũng mến yêu. Nhưng dưới cái lớp vỏ nhã nhặn ấy, ông vẫn tự cho không mấy người hiểu được nghệ thuật của ông. Miyamoto Musashi này chắc gì hơn những người khác. Ông cắn môi:
- Những vết bay ấy thế nào ?
- Mạnh và sắc. Rất sắc.
- Có thế thôi ư ?
- Không ...Còn nữa, còn có một cái gì cao cả và táo bạo như muốn vươn lên, thoát ra ngoài khuôn sáo.
- Gì nữa ?
- Người làm nó có một kinh nghiệm và hiểu biết sâu xa về mỹ thuật nên đã đem sở học và tài thiên phú ra tạo nên chiếc bát, toàn thể đẹp thanh thoát như thế này. Trông thì giản dị mà thật ra rất cầu kỳ. Nhìn những vết bay quét ngược, vãn bối còn thấy người này kiêu ngạo, mục hạ vô nhân, có thể rất danh tiếng mà cũng có thể cô đơn lắm. Tiền bối mua bát này ở đâu hay có biết ai đã tạo ra nó chăng ?
Koetsu cười ha hả:
- Biết ! Tên người tạo ra nó là Koetsu. Nhưng lão phu chỉ làm đồ gốm để tiêu khiển những khi rảnh rỗi mà thôi.
Miyamoto Musashi nghe đồn nhà chuyên môn về kiếm học này nhiều tài năng, nhưng không ngờ môn gì ông cũng hơn người. Hắn hơi hối đã nói thẳng ra những điều hắn nghĩ, vì có vài ý xúc phạm. Hắn lúng túng:
- Vì tiền bối hỏi nên vãn bối thưa thực. Tiền bối tha lỗi nếu có điều gì chẳng lọt tai.
- Chà ! Chàng thanh niên này khách sáo quá ! Có gì mà không lọt tai ? Xem ra tráng sĩ cũng ưa đồ gốm lắm nhỉ ?
- Trước vẻ đẹp, ai mà không xúc động. Tuy nhiên, vãn bối chẳng biết gì mấy về đồ gốm.
- Dĩ nhiên rồi. Tạo nên một tác phẩm đắc ý, có khi phải dùng đến kinh nghiệm cả đời người. Làm sao mong tráng sĩ biết nhiều về kỹ thuật ấy được ? Nhưng tráng sĩ quả có khiếu thẩm mỹ, một sự hiểu biết về mỹ thuật thiên bẩm. Luyện kiếm đã giúp tráng sĩ phát triển khiếu này, có đúng không ?
Ông dừng lại, không nói thêm mà Miyamoto Musashi cũng không hỏi gì nữa.
Trời sắp chiều. Hai chiếc bánh nhỏ không đủ dằn bụng một thanh niên đang tuổi lớn. Thể chất và tinh thần hắn đều cần đến những thực phẩm bổ dưỡng hơn, tuy nhiên hôm nay dừng chân trên khu đất hoang dã này, hắn đã được dịp thưởng thức hương vị thanh đạm của một nếp sống xa lạ đối với hắn. Có lẽ hắn còn phải học hỏi nhiều ở Koetsu và mẹ ông. Miyamoto Musashi quay lại cáo từ hai vị chủ nhân:
- Bây giờ cũng đã muộn. Xin nhị vị cho vãn bối được kiếu. Vãn bối đa tạ lòng yêu mến của nhị vị và những lời chỉ bảo hai vị đã ban cho.
Bà lão nhìn Miyamoto Musashi trìu mến:
- Nếu có dịp nào tráng sĩ qua ngõ Honami, xin nhớ ghé thăm tệ xá.
- Phải đấy ! Koetsu tiếp. Chúng ta sẽ nói chuyện nhiều.
Ông thêm:
- Có nhiều thứ lão phu tin chắc tráng sĩ sẽ rất ưa thích.
Đi một quãng xa, Miyamoto Musashi còn quay lại nhìn hai người ngồi trên tấm vải.
Con đường gai góc hắn quyết theo chắc không bao giờ đưa đến cảnh giới bình yên như hai người đang sống.
Nét mặt đăm chiêu, hắn lặng lẽ đi trong đồng cỏ hoang như một chiếc bóng.
-
QUYỂN 4 : Fu no Maki
CHƯƠNG 36
CÓ QUÁ NHIỀU KOJIRO
Trong quán rượu ven đô, mùi cá nướng nồng nặc bốc lên lẫn với mùi củi đun khét lẹt.
Quán rượu tồi tàn:
nền đất nện, mồ hóng với bụi lâu năm đóng lem nhem trên vách. Vài cái ghế đẩu đặt không hàng lối xung quanh một tấm ván mộc kê làm bàn trên đôi ngựa gỗ. Sát bếp, chiếc tủ cũ đựng đủ thứ linh tinh, nào đũa tre, bát sành, khay trà, chén ấm phần nhiều đã sứt mẻ, thô kệch.
Ngoài kia ráng chiều đỏ khé. Về phương đông, ngọn tháp chuông chùa Kiyomi đen sẫm nổi như cắt trên nền trời sáng rực tựa có đám cháy. Vài con quạ bay lượn quanh tháp:
những đốm đen nhỏ li ti như những tàn than gió thổi bốc cao trong bầu trời dữ dội.
Trong quán, hai gã đàn ông trung niên dáng khách thương ngồi uống rượu. Bốn gã khác xúm nhau đánh cò quay ở một góc. Cò quay là thanh gỗ có cái đinh đóng lên mặt tấm ván có viết chữ và vẽ những hình thô sơ. Chiếu bạc tuy nghèo nhưng cũng đủ làm khích động người chơi. Họ nói to, cãi nhau, vỗ đùi, đập tay cười ha hả.
Tít trong cùng, một du tăng cúi đầu ngồi yên lặng dường như không quan tâm gì đến việc chung quanh. Gần bếp là một bóng đen dựa lưng vào đống củi ngáy khò khò.
Bóng đen ngồi ngược sáng, lại bị đống củi khá lớn che khuất nên chẳng ai để ý.
Bỗng tiếng một khách thương gọi to, hách dịch:
- Quán ! Mang thêm rượu !
Sau tiếng “dạ” khan, tiếng chén hũ va chạm lách cách, chủ quán bước ra, hai tay bưng khay rượu. Chủ quán vừa lùn vừa mập. Giải khăn rằn ri vắt trên vai buông dài tới gối không làm cho gã trông cao hơn chút nào. Người ta vẫn thấy gã giống như quả dưa bở.
- Tối quá ! Sao không có đèn đóm gì cả thế này quán chủ ? Chẳng biết rượu đưa vào mồm hay vào mũi nữa.
Bọn đánh bạc cười ồ, quay ra phụ họa:
- Ờ phải đấy, tối quá rồi ! Đốt lửa lên chứ.
Lật đật đặt khay rượu lên bàn, chủ quán cơi lửa trong bếp cho bốc cao hơn rồi mang ra một đĩa đèn dầu thông đặt lên giá gỗ. Ngọn lửa vàng khè tỏa khói đen khét lẹt.
Gian quán ấm hơn. Câu chuyện bắt đầu râm ran vui vẻ. Hai gã khách thương nói chuyện làm ăn:
- Năm ngoái đi đòi nợ Yoshioka. Con mẹ nó, đã không lấy được đồng nào còn bị nắm cổ tống ra ngoài. Tổ cha quân khốn kiếp.
- Bác không tính kỹ. Ta ấy à, chỉ mất một lần, thấy không trả được thì thôi liền không bán chịu nữa.
- Ai biết đâu ! Tưởng võ đường bề thế như vậy, ngờ đâu toàn đồ ăn quỵt !
Rồi như sực nhớ ra điều gì, gã hạ thấp giọng:
- Này ! Nghe nói Seijuro chết rồi phải không ?
- Ủa vậy hả ? Sao bác biết ?
Gã chưa kịp đáp đã có tiếng cắt ngang:
- Đâu có ! Chưa chết !
Mọi người cùng quay lại nhìn về phía kẻ vừa nói, ai nấy đều tỏ ra khích động hết sức.
- Phải, chưa chết. Chính mắt ta trông thấy người ta khiêng hắn từ đồng Rendaiji về. Máu loang ra tận áo ngoài, hắn vẫn còn rên rỉ. Nghe đâu gãy tay, chắc tàn tật suốt đời rồi. Võ công thế là bị phế !
- Đáng kiếp ! - Gã khách thương nhổ đánh bẹt bãi nước bọt xuống đất - Nó ăn quỵt thì trời phạt nó !
- A di đà Phật ! Vị du tăng bỗng lên tiếng. Các vị đừng nói thế phải tội. Những việc xảy ra kiếp này đều là quả nghiệp kiếp trước. Có nhiều căn duyên lắm. Nếu chỉ vì ăn quỵt mà suốt đời tàn phế, chẳng hóa ra hình phạt của Trời Phật nặng quá ru ?
- Dù sao, như vậy cũng là rồi đời phái Yoshioka.
- Như bảng cáo yết nói thì hắn tỷ kiếm với Miyamoto Musashi. Bác biết Miyamoto Musashi là ai không ?
- Nghe đồn là một tay kiếm khách giang hồ còn trẻ mà công lực ghê gớm lắm.
Hắn đả bại Seijuro bằng một kiếm, cái mới làm cho Yoshioka thêm nhục.
Cả quán im lặng bùi ngùi. Tin ấy như gợi ở họ một chút tình thương xót. Họ đăm đăm nhìn lửa cháy, sau mới có người lên tiếng:
- Thế đồ đệ Seijuro tính sao ?
- Còn tính sao nữa. Phải trả thù chứ, mất mặt quá mà !
- Yoshioka còn ai nữa mà trả thù ?
Chủ quán từ trước vẫn dỏng tai nghe, đứng trong bếp nói vọng ra góp chuyện:
- Còn chứ ! Còn Denshichiro !
Đang uống rượu, khách bỗng ho sặc sụa phun cả rượu ra ngoài. Khách dằn mạnh chén lên bàn, cười hăng hắc:
- Con mẹ nó ! Denshichiro thì làm gì được ! Thằng đó ngỗ nghịch, rượu chè bê tha, vùng này ai còn lạ ! Nó chỉ dựa tiếng tổ phụ để lừa đảo vay mượn.
- Ấy thế mà là tay khá nhất đấy - Chủ quán đáp, giọng nghiêm trang - Hắn tuy là út nhưng có khí phách và võ nghệ lại còn cao hơn Seijuro, phải cái ham hưởng lạc quá!
Bóng đen bên đống củi ngồi đã lâu không động tĩnh, bỗng cựa mình. Bóng đen này vào quán từ chiều, ít nói, gọi rượu uống say túy lúy mà chủ quán không thắc mắc.
Gần đây thiếu gì những bậc kỳ nhân, cao thủ chán cảnh bon chen hoặc bị thất sủng, đi phiêu bạc giang hồ qua lại vùng này như cơm bữa. Gặp những người tính tình kỳ lạ, chủ quán cũng cho là thường. Vả cũng ngại, lỡ dây vào tay hung hãn thì chỉ thiệt thân, cho nên cùng lắm mới dám hỏi vài câu cần thiết.
Nhìn áo bóng đen sắp chạm vào lửa trong bếp, gã đến bên lay dậy:
- Khách quan ! Khách quan !
Bóng đen mở mắt đỏ ngầu nhìn. Gương mặt hốc hác, ánh lửa bập bùng soi hai má trũng sâu càng làm đôi gò má cao thêm. Bóng đen đáp buông sõng:
- Gì ?
- Khách quan ngồi tránh ra một chút. Lửa bén vào áo bây giờ !
Bóng đen vén áo, đổi cách ngồi. Dưới ánh lửa sáng, bây giờ mặt bóng đen trông rõ từng nét, phô ra một gương mặt còn trẻ, nhưng gầy và da mặt đen xạm. Nhìn kỹ thì là Matahachi, nhưng một Matahachi chán nản và bệ rạc vô cùng, trán hằn nhiều vết nhăn, mắt lờ đờ đục ngầu đờ đẫn vì rượu.
Chủ quán hơi giật mình, hỏi giọng lo lắng:
- Khách quan sao vậy ? Trong mình có được khỏe không ?
- Không. Ta không sao.
- Trông khách quan xanh quá.
- Đã bảo không sao mà ! Đem cho ta bình rượu nữa.
Nói xong, Matahachi gục đầu xuống ngực. Hắn thấy nóng, chẳng biết vì ngồi lâu gần lửa hay vì uống nhiều rượu. Bèn phanh áo ra nhưng vẫn không hết bực bội. Lòng hắn chán nản và buồn rầu không kể xiết.
Từ Osaka, nghe tin Miyamoto Musashi sẽ tỉ đấu với Seijuro, hắn lần mò tìm tới để xem cuộc đấu ra sao và cũng hy vọng gặp thằng bạn cũ. Nhưng đến nơi đã muộn. Trên đường đi, ở quán, điếm nào cũng thấy có người nói đến tin Seijuro bị thương hoặc chết và tài sử kiếm thần tốc của Miyamoto Musashi. Matahachi đã cạn tiền, lại thấy mình thua kém bạn quá sức, càng tỏ ra buồn phiền ganh tị. Lòng đố kỵ đưa đến sự căm ghét, hắn mong phái Yoshioka trả thù.
“Yoshioka đông người, toàn những tay cao thủ. Thằng Takezo kiêu ngạo quá, thế nào cũng có lúc bị hạ. Ai cũng cho nó là kiếm sĩ, nhưng kiếm sĩ thì làm cóc gì. Cốt là có tiền. Có tiền mới hơn người. Ta sẽ làm ra tiền bất cứ bằng cách gì. Nó với ta còn trẻ, con đường còn dài, ai biết sau này ai sẽ hơn ai !”. Nghĩ đến đây, Matahachi cảm thấy tinh thần phấn khởi hơn đôi chút. Nhưng sao miệng hắn khô và đắng quá. Hắn liếm môi:
- Khát quá !
Bèn đứng dậy vịn tay lên vách men ra chỗ để khạp nước múc uống ừng ực. Chiếc gáo tre run run trên tay, nước lạnh làm hắn dễ chịu. Nỗi buồn rầu dường như tiêu tan, hắn thấy trong người sảng khoái hơn, bèn đến bên cửa vén màn bước ra, chân vẫn còn loạng choạng.
Trong bếp, chủ quán đảo mắt nhìn quanh, ngạc nhiên không thấy khách. Nhìn ra ngoài, sương buông mờ mờ. Đằng xa, bóng một người chân nam đá chân chiêu, nghiêng ngả đi trong màn sương giữa những hàng cây âm u như ẩn như hiện.
- Khách quan ! Khách quan !
Không có tiếng trả lời. Bóng người cứ lầm lũi đi. Chủ quán chạy theo:
- Khách quan ! Khách quan chưa trả tiền !
- Hả ? Cái gì ?
- Khách quan quên ...
- Quên gì ? Chẳng quên gì hết !
- Khách quan quên chưa trả tiền rượu.
- Vậy hả ? Nhưng ta không có tiền !
- Không có tiền !
Chủ quán tức giận lập lại.
- Ừ. Không có ! Không có một đồng dính túi.
- Nói bậy ! Không được ! Không tiền sao dám vào quán ?
Chủ quán đổi giọng, nhảy tới nắm áo Matahachi. Nhưng hắn nhanh chân đã nhảy lùi lại mấy bước, thò tay lấy cái hộp đựng kim đơn trong bọc ném tới trước mặt người chủ quán. Hộp kim đơn này hắn đoạt được của người thanh niên lẹm cằm chết trên đồi Mokoyama ngày trước.
- Này giữ lấy ! Ta trả tiền rượu đó !
Không may, cái hộp đập trúng ngay vào mặt chủ quán. Gã ôm mặt kêu váng lên.
Mọi người chạy ùa ra bao quanh lấy Matahachi.
Cũng như phần đông các sâu rượu khác, thấy kẻ nào uống quỵt thì phẫn nộ làm như kẻ đó làm mất danh giá của giới lưu tinh, hai khách thương cũng xông ra hoa tay múa chân chửi rủa rầm rĩ.
Matahachi sợ hãi tỉnh rượu nhưng vẫn làm ra vẻ anh hùng, hắn để tay vào đốc kiếm hét lớn:
- Chúng mày biết ta là ai không ?
Có tiếng cười gằn, chửi thề:
- Là đồ ăn quỵt chứ còn ai nữa !
- Ta là Kojiro, thuộc kiếm phái Chujo, đồng đạo với Ito, học trò Kanemaki Jisai.
Matahachi nêu một hơi những danh tính hắn cho là lừng lẫy võ lâm, hy vọng làm bọn kia phải sợ hãi mà tháo lui. Không ngờ chỉ nghe tiếng cười và chế giễu đáp lại:
- Đó là những tên chó nào, chúng ta không cần biết. Anh em ! Xông vào bắt lấy nó!
Một kẻ nhảy đến định ôm Matahachi. Hắn rút gươm đánh soạt, thuận tay chém một nhát. Lưỡi gươm hớt qua tay kẻ kia, máu tuôn xối xả. Gã bèn lùi lại kêu ầm ĩ:
- Trời ơi ! Nó chặt cụt tay ta rồi !
Nghe tiếng kêu, trông máu chảy, cả bọn sợ hãi tưởng đâu chính máu mình tuôn ra.
Không ai bảo ai, tất cả cùng tản ra xa đến hàng trượng.
Matahachi được thể vác gươm xông tới, đâm dứ người này một chiêu, chém giả kẻ kia một nhát. Cả bọn hè nhau chạy như vịt.
- Ha ha ! Chúng mày tưởng ta không phải Kojiro chăng ? Kojiro là ta đây ! Vô địch ! Vô địch !
Hắn vung kiếm veo véo, chém dọc phạt ngang, đắc ý như chưa bao giờ được thế, rồi ngửa mặt nhìn trời cười khanh khách, răng trắng bóng dưới ánh sao. Đột nhiên lòng hắn buồn rười rượi, miệng cười mà hai hàng lệ chứa chan. Hắn vụng về tra kiếm vào vỏ, loạng choạng bước.
Dưới đất, chiếc hộp sơn then nằm trơ trọi. Miếng xà cừ cẩn trên nắp hộp phản chiếu ánh sao, lóe sáng như con đom đóm.
Tò mò, lão du tăng nhặt cái hộp lên. Lão ngạc nhiên, tay mân mê chiếc hộp sơn then rồi trở ngược lại quán, ghé vào chỗ ánh sáng gần cửa, quan sát kỹ.
- Hừ ! Hộp này là hộp đựng kim đơn của sư huynh ta đây mà. Triện son đóng dưới đáy còn rõ. Nhưng ông chết rồi, sao cái hộp lại ở đây ?
Bèn chạy theo Matahachi:
- Kojiro ! Kojiro !
Matahachi vẫn thản nhiên đi. Trong cơn chán nản, hắn chẳng nhớ tên mình đã mạo nhận là gì nữa. Cho đến khi lão tăng ở đằng sau kéo áo hắn mới sực tỉnh:
- Đại sư muốn gì ?
- Ngươi có phải là Kojiro không ?
Giọng vị tăng nghiêm nghị khiến Matahachi chột dạ:
- Phải. Ta là Kojiro.
- Ta muốn hỏi một câu, ngươi phải nói thật.
- ...
- Ngươi lấy hộp kim đơn này ở đâu ?
- Hộp kim đơn nào ?
Matahachi làm bộ lơ đãng.
- Hộp này.
Vừa nói, lão tăng vừa giơ chiếc hộp sơn then cẩn xà cừ ra trước mặt, tay kia nắm chắc cây thiền trượng. Chiếc nón nan hất ngược về phía sau, gương mặt lão dưới ánh sao tuy trông không rõ nhưng rắn rỏi, gương mặt của một tráng niên chứ không phải của một người tu hành đã có tuổi.
Matahachi giật mình:
- Ngươi là ai ?
- Không cần nói tên ... Hãy trả lời câu ta hỏi:
Hộp này ngươi lấy ở đâu ?
- Không ở đâu cả. Ta vẫn mang trong mình từ trước.
- Nói láo ! Ngươi không thú nhận hả ?
Matahachi ra vẻ ngây thơ:
- Thú nhận cái gì ?
- Ngươi không phải là Kojiro !
Câu nói vừa dứt, cây thiền trượng đã vụt đánh véo một cái. Tránh không kịp, Matahachi bị trượng đập trúng, ngã lăn quay. May không trọng thương, hắn bật dậy cắm đầu chạy.
Du tăng đuổi, nhặt gậy phóng theo. Chiếc thiền trượng lướt qua tai hắn rớt xuống đất. Matahachi kinh hãi, gia tăng cước lực. Hắn cứ chạy như thế, chạy thục mạng, chẳng biết phương hướng trời đất gì nữa. Đằng sau, nhà sư đuổi theo phóng gậy liên tiếp. Theo những ngõ hẻm ngoằn ngoèo, may mắn hắn mấy lần tránh được chiếc gậy phóng tới.
Đến một chỗ cỏ rậm cao, nhà cửa thưa thớt, quay lại nhìn không thấy ai, hắn mới liều ngồi xuống thở dốc. Matahachi bị một phen vừa mệt vừa sợ. “Ghê quá ! Cây trượng thật lợi hại. May nhờ mấy cái hẻm mình mới tránh được. Chẳng biết tên hòa thượng giả đó là ai, có thù gì với mình. Thời buổi này, quả không còn biết tin ai nữa !”.
Matahachi khát quá. Bả vai đau, hắn đưa tay nắn, không thấy có triệu chứng gì gãy xương, chỉ ê ẩm, chắc bầm bắp thịt vai thôi. Mừng thầm, hắn đi sâu vào trong ngõ, chú ý tìm nước. Gặp cái giếng lộ thiên, thành xây đá ong cao tới bụng, lại sẵn gầu để gần, hắn thả gầu xuống múc nước uống một hơi rồi lấy nước vã vào mặt.
Mồ hôi nhễ nhại, nước lạnh làm hắn rùng mình khoan khoái. Đã khát, Matahachi ngồi nghỉ, dựa lưng ngay vào thành giếng. Nhìn lên trời, sao thưa lấm tấm. Sương chiều tan từ bao giờ. Mảnh trăng thượng tuần nhô lên khỏi đầu hồi căn nhà gỗ, chiếu ánh sáng mờ đục trên mái ra. tồi tàn vào những khung cửa sổ nhỏ xíu dán giấy.
Đám mây đen kéo qua mặt trăng trông như hình người, rìa đám mây vàng úa. Matahachi mường tượng nhìn thấy bộ mặt hấp hối của người thanh niên lẹm cằm, đôi mắt lạc thần, cái miệng méo xệch trông thật ghê sợ và dòng nước rãi lẫn máu trào ra bên khóe mép. Hắn lấy tay dụi mắt, lắc lắc đầu như để xua đuổi hình ảnh thương tâm vừa hiện ra. Hắn hối hận đã tiêu hết cả số tiền của người chết, nhưng tự hứa khi nào thành công sẽ hoàn lại đủ số cho gia đình kẻ bất hạnh và sẽ dựng cho y một bia mộ bằng đá nữa.
Liên tưởng đến tờ chứng thư đề tên Kojiro, hắn đưa tay vào bọc tìm cuộn giấy dầu, thấy nó vẫn còn ở nguyên đó thì yên dạ. Dù sao, tờ chứng thư và cái tên giả cũng đã giúp hắn rất nhiều. Mấy tháng gần đây, hắn thường lang thang đến các nhà giàu xứ quê, trưng tấm chứng thư ra hoặc dùng cái tên Kojiro bịp những anh ngốc nghếch muốn học võ để kiếm bữa ăn và chỗ ngủ qua ngày.
“Tấm giấy này thế mà đắc dụng đáo để !”. Hắn tự nhủ, “Tội gì mà bỏ !”. Matahachi nhìn những căn nhà tồi tàn trong xóm. Dân khu này nghèo quá, nhà cửa xập xệ, đổ nát, mái ra. lồi lõm chắc đã lâu không được lợp lại, chẳng biết có đủ che mưa che nắng không. “Nhưng họ cũng còn hơn ta, ít nhất họ cũng có một chỗ trú !”. Hắn nghĩ vậy.
Qua khung cửa sổ, một gia đình đang ngồi ăn cơm. Hai vợ chồng, mấy đứa con cùng bà mẹ già quây quần xung quanh cái liễn sành độc nhất đựng món ăn trong ngày !
Người nghèo hình như lại càng thương nhau hơn, hắn nhận thấy vậy. Nghĩ đến mẹ già hắn đã giận dữ bỏ lại một mình trong cái quán nhỏ bên bờ biển vào một chiều lộng gió, hai hàng nước mắt hắn lại chực tuôn rơi. Hắn thế mà nhiều tình cảm lắm. Bà cụ nóng tính nhưng thương hắn vô cùng. Hắn còn kém cả những người nghèo kia, tuy nghèo mà vẫn nặng tình người và vẫn còn được xum họp. Bất giác, hắn đưa tay lên chùi nước mắt !
Matahachi nhớ lại lời mẹ dặn, những khi buồn rầu hay thất vọng hãy đến cầu đức Phật Bà Quan Âm, ngài sẽ phù hộ cho qua cơn đau khổ. Mẹ hắn thường lui tới cửa Phật. Tối nay chẳng biết ngủ nhà ai, hay là hắn cũng đi tìm một ngôi chùa nào đó để tá túc, nhân thể lễ Phật cầu xin và biết đâu lại gặp được mẹ.
Men theo những ngõ tối trong xóm, Matahachi bị hai ba con chó đói theo sau gầm gừ, thỉnh thoảng sủa những tiếng vu vơ. Quen với sự xua đuổi, hắn cũng chẳng thèm để ý, cứ mặc kệ.
Hết ngõ hẻm, ra chỗ thoáng, đến ven một cái miễu nhỏ với nhiều lùm cây rậm rạp, âm u, đen sẫm, lại có đàn chó nữa vây quanh một gốc cây lớn.
Sao nhiều chó thế. Chúng chạy lui chạy tới, sủa ẩm ĩ. Con thì quào chân trước vào thân cây định trèo, con tung mình nhẩy lên. Mấy con chó theo hắn cũng bỏ đi nhập bọn với lũ chó dưới gốc cây, thi nhau sủa, hú vang động cả một vùng.
Tò mò, Matahachi đến gần nhìn lên. Trên cây dường có người mà hình như là một thiếu nữ. Hắn nhặt hòn đá ném đàn chó. Chúng cúp đuôi chạy tản ra xa, nhưng vẫn quay đầu lại sủa. Chẳng bao lâu lại trở lại xúm quanh Matahachi, sủa còn dữ dội hơn trước. Matahachi nhặt đá ném lia lịa. Chẳng ăn thua gì. Đàn chó đuôi cúp vào bụng, nhe nanh gầm gừ. Matahachi trông rõ lông chúng dựng đứng, thân hình gầy guộc, xương sườn phô ra từng rẻ như sóng gợn.
Nghe nói tụi chó đói này khó đuổi lắm. Muốn trị chúng, phải bắt chước chúng đi bốn chân và sủa như chúng. Matahachi bèn quỳ xuống thử hành ngay ý định, nhưng cũng không kết quả. Tiếng sủa của hắn lạc lõng chẳng giống tiếng sủa của lũ chó thật kia chút nào. Một lúc, hắn bỗng thấy mình khôi hài và trơ trẽn. Mình làm cái gì thế này ? Ít ra cũng là một kiếm sĩ mang song kiếm, sao lại quỳ mà hú như chó ? Thiếu nữ trên cây nhìn xuống còn coi mình ra gì nữa ? Bèn vùng dậy, rút trường kiếm phóng một chiêu vào con chó gần nhất. Chiêu kiếm trượt. Chó vụt chạy. Lại phóng chiêu nữa vào con chó thứ hai. Lần này trúng, con chó ngã lăn ra, kêu oẳng một tiếng, giãy đành đạch. Những tiếng thở hằng hặc, rồi khò khè của con vật sắp chết làm đồng loại nó sợ hãi chạy xa nhưng vẫn không ngớt sủa.
Matahachi dậm chân đuổi xong con này đến con khác, một lúc sau chúng mới tản hết. Quay lại gốc cây nhìn lên, Matahachi vẫn thấy thấp thoáng còn bóng người.
- Ai ở trên đó, xuống được rồi đấy !
Không nghe đáp. Chỉ thấy tiếng nhạc khánh mơ hồ kêu lanh canh như giọt nước rơi vào vại sành.
- Ồ, ai như Akemi ! Phải Akemi không ?
- Ai đấy ?
- Matahachi. Nàng không nhận được tiếng ta sao ?
- Ồ, Matahachi. Thúc thúc đi đâu thế ?
- Nàng làm gì trên ấy. Sợ chó hả.
- Không !
- Vậy xuống đi.
Ở trên cây, Akemi đưa mắt nhìn bốn phía. Trăng suông mờ mờ. Cây cỏ chỗ nào cũng như phủ đầy sương khói, nhưng trong những bụi rậm ở ven đường dẫn đến miếu, giá có ai ẩn nấp thật khó mà biết.
- Thúc thúc đi đi. Đừng đứng đấy, nó thấy. Nó đang tìm tiểu nữ.
- Nó là ai ?
- Một người thúc thúc không biết đâu. Năm ngoái nó giúp tiểu nữ nhưng tiểu nữ không ngờ nó làm thế chỉ để lợi dụng. Nó hành hạ tiểu nữ đủ điều. Không chịu nổi tiểu nữ phải trốn đi.
- Ai ? Toji hả ?
- Không phải. Người đó thì tiểu nữ chả sợ. Ối ! Kìa, nó đã tới kia kìa ...Chạy đị..Thúc thúc chạy đi ...Nó thấy thì khốn.
Akemi rối rít, luống cuống. Từ trên cây tiếng nhạc khánh vang xuống nhanh và rõ mồn một:
lanh canh, lanh canh ...rồi bỗng ngưng hẳn. Có lẽ nàng đã tìm cách buộc chặt chùm khánh nhỏ vào tay áo.
- Đừng sợ ! Sao phải chạy ? Ta không bảo vệ được nàng ư ?
Vừa khi ấy, một bóng đen hiện ra trên đường hẻm. Matahachi mặc kệ Akemi trên cây, xốc kiếm xăm xăm đi tới.
- Ai ?
Tiếng hét đồng thanh cùng thoát ra một lúc trên cửa miệng hai người. Bóng đen vừa tới nhìn lưỡi kiếm tuốt trần còn dính máu trên tay Matahachi, hỏi lớn:
- Ngươi là ai ? Muốn gì ?
Matahachi lặng thinh. Lúc nãy, nghe giọng nói cuống quýt của Akemi hắn có đôi chút e ngại, nhưng bây giờ nhìn kỹ bóng đen mới đến, hắn thấy không có gì đáng sợ.
Bóng đen cao lớn thật nhưng dáng điệu không hiên ngang, quần áo sặc sỡ như con nít, chắc chẳng tài cán gì. Nhà sư vừa rồi còn làm hắn hoảng chứ với tên thiếu niên này hắn đâu ngán ! Bèn lấy bộ mặt khinh mạn, cười khẩy mà không đáp.
Bóng đen quát hỏi lại:
- Ngươi là ai ?
Matahachi cười trêu cợt:
- Ta ấy à ? Ta là người.
- Ha ! Là người ! Một tên vô danh. Được lắm, nếu danh tính ngươi xấu xa, nói ra phải hổ thẹn ...
- Đừng láo ! Ta không muốn nói chỉ vì chẳng muốn xưng danh với đứa tiểu tốt.
- Này, hãy giữ mồm miệng, đừng để ta nổi giận. Bây giờ thì chờ đấy, ta đến chỗ kia kéo con bé trên cây xuống đã.
- Ha ha ha ...Matahachi cười khanh khách - Ngươi tưởng dễ lắm sao ? Ta là dượng nó, động đến nó ta băm nát thịt.
Bóng đen nhìn Matahachi từ đầu đến chân, gằn giọng:
- Hừ ! Ra thế đấy ! Nhà ngươi muốn chơi trò hiệp sĩ ? Nhưng này, ta bảo thật:
cây sào phơi trên lưng ta đây đã lâu chưa được uống máu ai. Nó khát lắm đó. Mà ta cũng cần thử xem nó còn sắc không. Bấy giờ thì cẩn thận, ngươi chạy không kịp đâu !
Matahachi nghe mà không lường được tầm nghiêm trọng của câu nói. Hắn không ngờ bóng đen đứng trước mặt hắn tuy nhỏ tuổi nhưng là một kỳ tài trong võ lâm, kiếm thuật tinh vi và thần tốc đến độ chỉ một cái vẫy tay nhẹ, chưa đầy nháy mắt, đã có thể chém bay đầu hắn lăn lông lốc. Vì không ngờ nên hắn vẫn lên giọng kẻ cả:
- Khoan ! Chú bé hãy nghĩ kỹ. Bây giờ còn kịp, tạ lỗi đi, ta sẽ cho chạy thoát.
Chậm chút nữa đừng trách ta tàn nhẫn.
Bóng đen mở tròn mắt ngạc nhiên. Không biết tên này là ai mà có thái độ mục hạ vô nhân ngu xuẩn đến thế. Nhưng thấy trò chơi hay hay, tính trẻ nít nổi dậy, hắn chỉ buồn cười không giận. Lại cũng tò mò muốn trêu chọc địch thủ, bèn đổi giọng lễ phép:
- Cám ơn các hạ. Nhưng biết tạ lỗi ai, ít ra các hạ cũng phải cho tại hạ biết quý danh tính là gì chứ ? Đó là lề luật võ lâm, chắc các hạ rõ.
- Cũng được. Nhưng ta nói tên, ngươi chớ có giật mình.
Bóng đen cười như nắc nẻ:
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên ! Nhân thể các hạ cũng nên cho biết thuộc môn phái nào ?
Kiếm sĩ mà lắm mồm như tên này chắc chẳng đáng sợ. Matahachi càng đánh giá địch thủ thấp hơn nữa.
- Ta theo Chujo kiếm pháp.
Bóng đen sửng sốt:
- Chujo kiếm có chiêu thức gì đặc biệt ?
- Tất nhiên phải có. Như chiêu Mãn Thiên Hoa Vũ và Trảm Nhạn Kiếm chẳng hạn.
- A !
Thấy bóng đen thốt kêu có vẻ ngạc nhiên, Matahachi cho là mình đã áp đảo được tinh thần địch thủ. Bèn hỏi ngược lại:
- Còn ngươi ? Theo môn phái nào ?
- Khoan ! Những thế kiếm vừa rồi như Hoa Vũ và Trảm Nhạn ngươi được ai truyền thụ ?
- Sư phụ ta chứ còn ai nữa.
- Tôn sư tên gì ?
- Kanemaki Jisai ! Toda Seigen Kanemaki Jisai.
Bóng đen tỏ ra phân vân cực độ:
- Thế ngươi có biết Ito Yagoro không ?
- Dĩ nhiên là biết. Ito là sư huynh ta, tuy đồng môn nhưng thuộc hàng tiền bối vì niên kỷ y cao hơn ta nhiều. Sao ngươi hỏi thế ?
Bóng đen lờ đi như không nghe tiếng. Gã nghiêm giọng:
- Vậy tên ngươi là gì ?
- Kojiro.
- Là gì ?
Matahachi vênh mặt:
- Thằng này điếc. Ta là Kojiro !
Bóng đen trừng trừng nhìn Matahachi.
- Tại sao ngươi nhìn ta như vậy ? Ngạc nhiên lắm chăng ?
- Có lẽ.
- Vậy cút đi cho rồi, đứng đấy làm gì nữa ?
Bóng đen vẫn không rời mắt khỏi Matahachi. Bỗng gã phá lên cười, tiếng cười thoải mái nhưng đầy vẻ chế giễu. Gã đã hiểu.
- Này các hạ, từ khi bôn tẩu giang hồ đến nay, chưa bao giờ ta được chứng kiến một chuyện quái gở như chuyện này ! Ha ...ha ...ha ... ! Thật là hãn hữu. Bây giờ ta biết tên các hạ rồi, vậy bằng hữu hãy đoán tên ta là gì ?
Matahachi chột dạ. Nhưng hắn vẫn tin Kojiro thật chết rồi, gã lẹm cằm rỗ mặt có bản chứng thư hắn còn giữ trong bọc đây, không thể nào là tên này được. Hắn nói cứng:
- Ai biết tên ngươi là gì ? Ngươi định nhạo ta chăng ?
- Không. Ta hỏi đứng đắn. Tên ta là gì ?
- ...
- Nếu ngươi không biết, ta sẽ nói cho biết. Tên ta cũng là Sasaki Kojiro, ngoại hiệu Ganryu.
Nói xong hắn cười ha hả. Matahachi mồ hôi vã đầy trán.
- Ha ha ! Ta với ngươi thế là cùng danh tính. Vậy hãy kết làm bằng hữu.
Rồi tiến đến bên Matahachi, giơ tay vỗ vai hắn. Nhưng Matahachi nhảy vội ra xa, vung gươm chém xuống.
“Vù !”. Lưỡi gươm của Matahachi bị cước của Kojiro đá bắn tung và trong tay gã ỡ cây sào phơi ữ đã được rút ra từ bao giờ, hàn quang lấp lánh.
Kojiro cười gằn:
- Ngươi mà chạy là mất mạng !
Tiếng gã sắc như dao, nhọn như kiếm xoáy vào tai Matahachi. Mồ hô Matahachi thấm ướt áo trong, toàn thân hắn run lẩy bẩy. “Xoẹt” ! Cây trường kiếm tựa con rắn bạc phóng tới bay qua đầu hắn. Hắn cảm thấy đau nhói sau lưng, đồng thời một sức mạnh vô hình đẩy hắn bắn đi, rơi xuống như chiếc lá gió thổi bay lúc trời giông bão.
Hắn lăn ra đất bất tỉnh.
Thanh trường kiếm của Kojiro đã được tra vào vỏ.
Đến dưới gốc cây lớn, Kojiro nhìn lên. Chẳng có ai. Akemi lại một lần nữa vuột khỏi tay gã.
Xa xa, tiếng chó tru vọng lại dưới ánh trăng suông.
Kojiro đi sâu vào trong miếu. Tàng cây ẩm ướt, âm u dưới ánh trăng khuya, sương mờ đục khiến miễu có không khí rờn rợn như trong truyện liêu trai.
Tìm mãi không thấy Akemi, Kojiro trèo lên cây thông cao, ngồi dựa lưng vào thân cây, đảo mắt nhìn tứ phía. Gió đêm thổi nhẹ rì rào đưa hắn vào giấc mộng. Thế là con chim non tưởng như đã nhốt được trong ***g, giờ đây bay mất. Kojiro nhớ lại những giờ khắc êm đềm bên cô bé. Nàng đa cảm và đam mê, nhưng cũng bướng bỉnh làm sao ! Đôi mắt ngây thơ che giấu những ý nghĩ phức tạp gì, hắn không rõ, nhưng quả đã huyễn hoặc hắn, làm hắn như ngây như dại. Hắn dâng cả tình yêu nồng nàn nhất của tuổi trẻ cho cô bé. Vậy mà trời ơi, sao nàng không hiểu ? Hay trong cơn say mê, có lẽ hắn đã quá thô bạo, có những hành động khiến con chim non ấy phải sợ hãi chăng ? Nhưng biết làm sao khác ? Bản tính hắn thế. Ngay từ khi hãy còn là môn sinh của Jisai, Kojiro đã tỏ ra là một thiếu niên tàn nhẫn, lì lợm.
Lúc giao đấu, hắn chỉ cần thủ thắng, không quan tâm gì đến phương cách mà hắn chẳng phân biệt thế nào là phải, trái nữa, cho nên nhiều lần đã dùng những thủ thuật đê hèn mà không biết.
Một bữa kia, bấy giờ hắn mới nhập môn, vì có thái độ khinh bạc nên bị bạn đồng môn lớn tuổi ghét, xúm lại đánh cho một trận thừa sống thiếu chết bên bìa rừng. Một người trong bọn thương tình cứu tỉnh, đem về rịt thuốc cho, nhưng hắn đã thừa cơ đoạt gươm của người ấy, xuất kỳ bất ý giết chết ân nhân tại đương trường không hối hận.
Chuyện đó tới tai tôn sư. Ông không nói nhưng cũng không đuổi Kojiro đi, vì tiếc một môn sinh có tài. Hơn nữa, lại có chủ ý coi sự lì lợm của Kojiro là đức tính kiên trì cần thiết cho người học kiếm. Bọn đồng môn cũng dần lảng tránh, không ai muốn tranh thắng với Kojiro làm gì vì thắng hắn là tự chuốc lấy thù hận cả đời.
Chẳng biết rồi đức tính kiên trì ấy đi đôi với bản năng tàn ác, ưa áp chế của Kojiro sẽ đưa hắn tới danh vọng, chức vị gì trong võ lâm, nhưng ở tình trường, hắn thất bại. Không tiếp xúc nhiều với nữ phái, hắn thiếu kinh nghiệm nên vẫn chưa hiểu tại sao Akemi không ưa hắn.
Ngồi trên cây, mãi suy nghĩ miên man, Kojiro không để ý đến một bóng đen đang đi tới miễu.
Nhìn xác người nằm sóng soài trên cỏ, bóng đen tiến lại gần lật lên. “A ! Thằng uống rượu quỵt đây mà ! Sao nó lại nằm đây ?”. Thì ra gã du tăng đuổi theo Matahachi khi nãy.
Nghe tiếng kêu, Kojiro bừng tỉnh. Hắn đưa mắt nhìn xuống nhưng vẫn giữ im lặng. Du tăng vạch áo Matahachi ra xem và lẩm bẩm:
“Không sao ! Thân thể còn nóng, chắc mới bị điểm huyệt”. Bèn liên tiếp phóng chỉ, giải những huyệt đạo khả nghi bị bế tắc. Quả nhiên lát sau, Matahachi đã cựa quậy được, miệng ú ớ.
Du tăng vực Matahachi lên vai, đem đặt dưới gốc cây, đá cho một cước rồi lại bồi thêm nhát gậy để nạn nhân mau tỉnh. Đức Phật bao dung ngài trông thấy cảnh ấy chắc cũng không bằng lòng về cách hành xử của người đệ tử.
- Đứng dậy !
Matahachi lờ đờ mở mắt, ngơ ngác nhìn không biết đang ở âm ty hay dương thế.
Nhà sư rút trong bọc ra sợi dây lòi tói, bẻ quặt hai tay gã về phía sau thân cây buộc chặt lại, rồi như một phán quan lên án tội nhân, y chống nạnh đứng trước mặt gã, nghiêm khắc hỏi:
- Hà, thằng này ! Nhận ra ta là ai không ? Ngươi làm ta đuổi theo hụt hơi.
Matahachi lặng thinh, nét mặt đờ đẫn.
Nhà sư nắm tóc gã, đập đầu vào gây nghe cộp cộp.
- Ngươi lấy hộp kim đơn ấy ở đâu ? Khai thật, không ta giết chết !
Matahachi không nói, chỉ lặng lẽ cúi đầu. Hình như gã vẫn chưa ý thức được rõ ràng cảnh huống gã đương phải chịu.
- À, thằng này gan ! Này gan !
Nhà sư đưa hai ngón tay thọc vào mũi Matahachi cấu mạnh. Gã thét lên một tiếng đau đớn, nước mắt ràn rụa. Nhìn gã thở hổn hển, nhà sư mới buông tay. Dưới ánh trăng, hai dòng nước đen ở mũi trào ra rỏ giọt xuống ngực áo. Matahachi liếm môi cảm thấy mằn mặn.
- Có nói không ?
- Dạ dạ ...Xin đại sư nhẹ tay, tiểu nhân xin nói ...Giọng Matahachi lạc đi, lắp bắp. Số là ...số là ...mùa hè năm ngoái khi tiểu nhân còn làm phu vác đá ở công trường Mokoyama ...
Và gã đem chuyện gặp tráng sĩ mặt rỗ kể lại, lúc tráng sĩ ấy bị ném chết ra sao, trước khi chết gã lấy túi tiền thế nào, nhất nhất tường thuật đầy đủ.
- Trong túi tiền còn có hộp kim đơn và một chứng thư ...
- Bản chứng thư ấy bây giờ ở đâu ?
- Dạ, ở áo tiểu nhân.
Lão tăng thò tay vào bọc Matahachi, lôi cuộn giấy dầu mở ra. Trăng mờ không để lão trông rõ nét chữ nhưng dấu triện son lớn đúng là triện của Chujo kiếm phái kèm theo thủ bút của Toda Seigen Kanemaki Jisai.
- Tiểu nhân thật đắc tội. Vậy xin hoàn lại bản chứng thư, còn tiền thì phần đã trót tiêu hết, phần bị lừa, không có ngay được, xin đại sư cho khất, tiểu nhân sẽ trả sau.
- Những điều ngươi nói có thật không ?
- Dạ, tiểu nhân đâu dám nói dối.
Trút hết những điều u uẩn giữ trong lòng bấy lâu nay, Matahachi cảm thấy nhẹ nhàng như người có vết thương nung mủ vừa mới vỡ. Gã khoan khoái cho là đã thoát nạn, hay ít ra cũng tưởng thế.
Lão tăng yên lặng, nét mặt tư lự. Lát sau mới lên tiếng:
- Nhà ngươi tên gì ?
- Dạ, Matahachi.
Đột nhiên nghe soạt một tiếng, ánh bạc lóe lên, nhà sư đã lăm lăm cây đoản kiếm.
- Đại ...đại sư làm gì thế ? Định giết tiểu nhân chăng ?
Du tăng thong thả gật đầu:
- Phải ! Ngươi phải chết.
- Tiểu nhân đã nói hết sự thật và hoàn lại bản chứng thư. Đại sư không tin sao ?
Du tăng điềm tĩnh:
- Tin ! Nhưng ta ở vào cái thế khó xử. Kusanagi Tenki là huynh trưởng ta. Tenki là danh tính của tráng sĩ rỗ mặt ngươi đã gặp. Còn ta tên Ichinimiya Gempachi, tuy mặc tăng bào nhưng ta chính là một kiếm sĩ được ủy thác cho đi điều tra về cái chết của Tenki.
Matahachi cuống quýt lo sợ. Gã van lạy:
- Đại sư ...à ...à ...đại hiệp ! Xin đại hiệp tha mạng. Tiểu nhân biết đã làm bậy, nhưng quả thật không giết Tenki, chỉ đoạt số tiền và mạo danh để kiếm sống. Đại sư ...
đại hiệp cởi trói cho, tiểu nhân xin làm giấy cam kết ...
Gempachi thở dài. Hình như y cũng có đôi phần xúc động và phân vân, nhưng nghĩ một lúc y vẫn lắc đầu:
- Ta chẳng quan tâm đền tiền bạc và cũng rất tiếc phải giết ngươi. Trước khi gặp ngươi, ta đã đến lâu đài Fushimi dò la tin tức, quả đúng như lời ngươi nói, huynh trưởng ta bị ném đá chết.
- Dạ, đúng như vậy.
- Nhưng gia đình ông không tin như thế đâu ! Tenki là một kiếm sĩ kinh nghiệm, tài ba vào bậc thượng thừa, sao lại có thể chết về tay những người thợ tầm thường được ?
Ông chết không chiến đấu thì còn ra thể thống gì nữa ?
- Dạ dạ. Xin đại hiệp xét kỹ, tiểu nhân không giết Tenki.
Gempachi mỉm cười:
- Ngươi không giết nhưng Kojiro giết. Ta mang cái đầu ngươi và bản chứng thư này về để làm tin ...
Matahachi sợ run người. Gã thều thào:
- Tiểu nhân tên là Matahachi, không phải Kojiro !
- Ngươi phải giúp ta. Vả chăng ngươi sống cũng bằng vô dụng mà thôi. Uống rượu đã không có tiền trả thì lấy đâu mà tự chu cấp trong cái xã hội nghiệt ngã này được. Ta cho ngươi nằm xuống nghỉ ngơi để khỏi chết vì đói khát. Rồi ta sẽ gửi tiền về giúp đỡ cha mẹ ngươi trong việc ma chay, hơn nữa còn dựng cho ngươi cái bia mộ bằng đá ...
Matahachi nghe không chịu nổi. Gã tức giận rống lên:
- Đại ... đại hiệp ... Ta không cần tiền ! Không muốn chết ! Thả ta ra ! Ai cứu ta với!....Cứu ta ... t ... a ... a ...
Tiếng kêu của gã vang xa trong đêm tịch mịch cùng với tiếng chó tru ở bìa rừng dội lại. Gempachi cười hăng hắc:
- A di đà Phật ! Muốn hay không, ta cũng sẽ cho ngươi tiêu diêu miền lạc cảnh.
Hãy cứ coi đây như là chuyện được, mất ở đời !
Nói đoạn, y lùi ba bước, thanh đoản kiếm nắm chắc trong tay sẵn sàng đâm tới.
- Khoan !
Tiếng thét đột nhiên, sắc và cực mạnh từ trên cao vọng xuống làm Gempachi khựng lại.
- Ai ?
- Kojiro !
Gempachi nhảy vội ra xa rút trường kiếm:
- Kojiro ! Lại Kojiro nữa ! Ngươi có giả mạo không đấy ?
Tiếng cười khanh khách vang lên, nửa đứng đắn nửa giễu cợt:
- Không ! Ta chính là Kojiro thật ! Gempachi, ngươi định chặt ta ra làm hai đoạn chăng ?
- Đúng ! Nếu ngươi là tên giả mạo thì hãy coi chừng lưỡi gươm của ta !
- Hay lắm ! Nhưng ngươi sẽ không phân biệt được chân giả đâu. Vì khi “cây sào phơi” này ra chiêu, ngươi đâu còn ở dương thế !
Nghe nói đến “cây sào phơi”, Gempachi chột dạ:
- Nếu đúng là Kojiro thì ngươi làm gì trên đó ?
- Chuyện còn dài, sẽ nói sau !
Vừa dứt lời, một bóng đen đã phi thân như chớp xẹt, đáp xuống gần chỗ Gempachi đứng, êm như lá rụng, kéo theo cành khô và lá thông rơi lả tả.
Lại một lần nữa Kojiro xuất hiện bất ngờ làm Matahachi co rúm người lại vì sợ hãi. Gã rủa thầm số mệnh khốn kiếp, run rủi gã gặp cả hai tên này một lúc thì thoát làm sao được !
Gã lầm rầm khấn đức Phật Bà Quan Âm phù hộ, mong mẹ đến cứu. Trong lúc vô tình, tay gã cựa quậy, nhưng chỉ thấy sợi dây lòi tói quá chặt cứa vào da thịt đau rát.
Nhìn thanh niên đứng trước mặt, Gempachi ngạc nhiên. Y không rõ đây có phải là Kojiro thực không, vì theo chỗ hắn biết, môn đồ Chujo kiếm phái sống cuộc đời khổ hạnh, quần áo thường mặc chỉ là vải gai, không như thanh niên này, sang trọng và diêm dúa quá. Nhưng nhìn thanh trường kiếm quá khổ đeo trên vai thì có thể là Kojiro lắm, vì thanh kiếm mệnh danh “cây sào phơi” này rất phù hợp với lời đồn đại trong võ lâm; và ngoài Kojiro ra, không ai xử cây kiếm dài như thế, vừa không chính xác lúc công lại vừa không gọn lúc thủ.
Gempachi phân vân hỏi lại:
- Thiếu hiệp quả thật là Sasaki Kojiro, biệt danh Ganryu đấy chăng ?
Kojiro cười:
- Đã không tin thì trả lời cũng vô ích.
Bèn tự động ngồi xuống một gốc cây, tháo kiếm để bên và mời Gempachi ngồi cạnh. Thấy thế, Gempachi không do dự gì nữa, lập tức làm theo. Kojiro lên tiếng trước:
- Tại hạ ngồi trên cây đã nghe hết mọi chuyện. Được biết huynh đài đi điều tra về cái chết của Tenki, mà Tenki là bạn đồng môn của tại hạ thì huynh đài và tại hạ cũng coi như bằng hữu. Huynh đài có ý giết tên chó má kia, tại hạ cho là vô ích. Nếu quả huynh đài vì sợ gia đình Tenki không tin, cần phải có bằng chứng thì để tại hạ xin viết một lá thư nói rõ đầu đuôi. Như thế vừa xác nhận những điều huynh đài đã điều tra được mà cũng tránh cho tại hạ khỏi phải dính vào chuyện này, sinh thù oán, mặc dầu cái tên tại hạ chỉ là do sự mạo danh mà ra.
Gempachi gật gù khen phải. Y cho câu chuyện đã có người thứ ba biết rồi thì khó mà che đậy được, nên đồng ý với Kojiro.
- Còn tên mạo danh tại hạ, huynh đài hãy nhường cho tại hạ xử trí.
Thấy lời yêu cầu hợp lý, Gempachi không phản đối.
- Vậy tùy thiếu hiệp. Chuyện này như vậy là giải quyết xong.
Kojiro đứng dậy đeo kiếm lên vai.
- Tại hạ có chút việc cần, chờ dịp khác sẽ tương hội.
- Thiếu hiệp quên gì không ?
- Chẳng có gì quên ...Huynh đài có ý gì vậy ?
- Bản chứng thư ...
Gempachi vừa nói vừa lấy cuộn giấy dầu ra trao cho Kojiro.
- Nghĩ cho cùng, có lẽ anh linh sư huynh tại hạ đã run rủi để chúng ta gặp nhau ở đây và hoàn lại thiếu hiệp bản chứng thư ...
Nhưng Kojiro mỉm cười:
- À, bản chứng thư ! Huynh đài cứ giữ lấy.
Gempachi ngạc nhiên:
- Sao vậy ?
- Tại hạ không cần.
- ... ?
- Tại hạ chẳng dùng mảnh giấy ấy vào việc gì được !
- Coi kìa ! Sao thiếu hiệp lại nghĩ thế ? Lệnh sư trong lúc lâm chung đã quyết định cấp cho thiếu hiệp bản chứng thư này, lại sai Tenki trao tận tay thiếu hiệp. Chẳng may dọc đường ông ấy tử nạn. Bấy nhiêu là ưu ái, thiếu hiệp phải biết ơn chứ !
- Sư phụ quyết định những gì, tại hạ đâu biết. Tại hạ có những hoài bão riêng.
- Trời ơi ! Sao thiếu hiệp lại có những ý tưởng khinh mạn như thế ?
- Huynh đài đừng hiểu lầm ý tại hạ. Tại hạ chỉ nói là có hoài bão muốn tiến xa hơn sư phụ, thế thôi. Chưởng môn một kiếm phái vô danh nơi lậu hạng không phải mục đích tại hạ.
- Thiếu hiệp không nói chơi đấy chứ ?
- Tại hạ nói hoàn toàn đứng đắn.
Gempachi lắc đầu như không tin lời mình vừa nghe.
- Tại hạ biết ơn tôn sư nhưng quả thật thấy tờ chứng thư này vô dụng. Ito Yagoro nhận chứng thư do tôn sư cấp nhưng sau đó đã khai triển nhiều chiêu kiếm lạ. Tại hạ cũng có ý ấy và muốn lập một kiếm phái riêng:
Sasaki Kiếm phái. Rồi đây huynh đài sẽ nghe danh Sasaki Kiếm phái lừng lẫy. Cho nên tại hạ không cần bản chứng thư này.
Phiền huynh đài mang về trả cho Chujo phái, bảo họ lưu trữ cùng với những sổ bộ khai sinh, khai tử tại đền.
Nghe Kojiro giương giương tự đắc nêu những tham vọng của hắn ra mà không một lời khiêm tốn hoặc nhún nhường, Gempachi không còn biết nói sao nữa.
- Huynh đài chuyển đến gia đình Tenki lời phân ưu của tại hạ. Sau này có dịp, tại hạ sẽ tới thăm huynh đài.
Lời hắn kiêu ngạo, hàm ý bao bọc che chở. Gempachi không vui, muốn trách hắn mấy câu, nhưng nghĩ kỹ lại thôi vì thấy vô ích. Y bỏ cuộn giấy dầu vào bọc, xốc túi hành trang lên vai, nhặt thiền trượng bỏ đi sau lời từ biệt khô khan.
Kojiro nhìn theo, không giấu nụ cười chế nhạo. “Chắc y giận lắm !”.
Đến gần gốc cây, hắn nhìn Matahachi vẫn còn bị trói, gục đầu ủ rũ:
- Còn thằng này ! Đồ vô tích sự ! Ngươi mạo danh ta làm điều xằng bậy, thật đáng hổ thẹn. Ngươi muốn nói gì không ?
Matahachi lặng thinh. Dĩ nhiên, hắn chẳng có gì để nói.
- Ta đã nghe ngươi xưng danh là Matahachi. Nhưng họ gì ?
- Honiden.
- Có phải là Ronin không ?
- Dạ phải.
- Để ta dạy ngươi bài học. Ngươi đã trông ta trả lại bản chứng thư đấy. Nếu một kẻ mệnh danh là kiếm sĩ mà không đủ kiêu hãnh để tự lập, tự tạo cho mình một cái tên thì kẻ đó kể như vất đi, không đáng nói tới. Ngươi hèn hạ mạo danh ta thì còn gì đáng khinh bỉ hơn nữa.
Kojiro lấy mũi kiếm hất cằm Matahachi lên:
- Ngươi nên nhớ: cáo đội lốt hùm ở đâu cũng chỉ là cáo.
- Dạ dạ ! Từ nay tiểu nhân xin nhớ.
- Ta chẳng giết ngươi làm gì, bẩn gươm. Kệ ngươi ở đây cho chó nó ăn thịt. Làm sao thoát được thì làm !
Hắn định bước đi, nghĩ sao lại rút đoản kiếm phạt một miếng vỏ cây trên đầu Matahachi.
- Ta cần bút mực, ngươi có không ?
- Dạ, trong bọc áo tiểu nhân.
Kojiro mài mực, chấm bút viết lên thân cây:
“Tên này mạo danh ta đi khắp nơi làm nhiều điều vô sỉ. Ta bắt trói nó ở đây cho mọi người phỉ nhổ. Ta, Sasaki Kojiro, ngoai hiệu Ganryu, quyết định trừng phạt nó để cảnh cáo những kẻ mạo danh ta”.
Hắn bỏ bút xoa tay đắc ý.
Đêm đã khuya. Gió thổi mạnh qua tàn thông và cành khô rào rào như nước triều đổ vào ghềnh đá. Tiếng chó tru dữ dội hơn trước.
Kojiro mắt đổ lửa, rảo bước biến vào màn sương dầy đặc tựa con báo đen mất hút trong rừng rậm.
HẾT CHƯƠNG 36.
-
CHƯƠNG 37
ĐÃNG TỬ
Chiếc cáng do bốn người khiêng chạy phăng phăng trong đêm, dự trù tới giờ dần thì có thể đến rừng tùng đầu đường Shijo. Cáng là một phương tiện di chuyển có từ lâu, nhưng trước đây chỉ dùng cho các bậc quyền thế và phụ nữ. Sau này, nó được phổ cập trong dân gian, nhà giàu không mấy ai là không có cáng và phu cáng riêng để dùng khi cần đến.
Bây giờ chỗ nào cũng có cáng. Ở kẻ chợ cũng như thôn quê gần các trấn không lấy gì làm sầm uất, nếu vội hay mệt mỏi không muốn đi bộ, khách du vẫn có thể thuê cáng hai hoặc bốn người khiêng tùy theo túi tiền mình có. Cáng thuê thường xấu và thô sơ, đan bằng mây hoặc đóng bằng ván mỏng treo dưới cái đòn tre. Trong cáng, lủng lẳng nhiều sợi dây da sống để khách giữ cho khỏi ngã. Phu cáng đi nhanh thường hát những bài hát bình dân cho bước chân đều nhịp và quên mệt nhọc. Khách ngồi cáng không muốn bị xóc phải giữ chặt những sợi dây da treo ấy và nhún nhảy theo.
Chiếc cáng này đã bốn người khiêng lại còn thêm tên bộc đeo ống tre, mang đèn ***g và bốn phu dự phòng chạy theo. Cả bọn thở hồng hộc. Mặc dầu chiếc đèn ***g mang tên hiệu của một thanh lâu nổi tiếng vùng Osaka, người ta không thấy dấu hiệu gì khác chứng tỏ khách ngồi cáng là một gái giang hồ. Trong đêm lạnh, hơi thở của họ trắng như khói.
Bỗng có tiếng từ trong cáng vọng ra:
- Quách Minh ! Đem rượu !
Tên bộc vội vã chạy vượt lên, tháo ống tre khoác trên vai đưa vào.
- Còn sớm. Hãy dừng chân nghỉ chút đã.
Không ai bảo ai, bốn phu cáng đều chậm bước. Đến chỗ khoảng khoát, họ dừng cả lại, để cáng xuống, rút khăn lau mồ hôi nhễ nhại trên trán.
Trong cáng, Yoshioka Denshichiro nằm dài, đầu gối lên chiếc gối nhỏ, xung quanh quần áo ngổn ngang lẫn lộn với nhiều ống tre đựng rượu mới uống hết.
- Chà, sương lạnh quá. Đây là đâu thế ?
- Đồng Matsubara rồi ! Còn chừng mười dặm nữa thì đến chân cầu Gojo.
- Nhanh đấy. Bây giờ mới đầu giờ sửu.
- Seijuro tiểu chủ đang nóng ruột chờ. Xin huynh trưởng gấp cho.
Mới tu được vài hớp, rượu đã hết, Denshichiro vứt ống tre xuống đất. Hắn trút cơn bực dọc lên đầu tên bộc:
- Biết rồi ! Đã bảo mua kha khá rượu vào mà chỉ được có chút thế này !
Yoshioka Denshichiro, em Seijuro, uống rượu như cái hũ chìm, càng uống mặt càng tái đi. Tính hắn nóng như lửa, khác xa với tính tình Seijuro, nhưng kiếm thuật của hắn cũng tinh vi hơn Seijuro một bậc. Lúc còn sinh thời Yoshioka Kempo, có người dám cả gan so sánh kiếm kỹ của hắn với của lão nhân gia và thấy nhiều chỗ kiếm chiêu của hắn, nếu được khai triển và luyện tập công phu hơn, còn có phần ảo diệu hơn cả của Kempo. Trong võ đường, khi hai anh em giao đấu với nhau, Denshichiro đôi lúc nhường Seijuro mà Seijuro không biết. Điều đó khiến hắn kiêu ngạo. Khi Yoshioka Kempo quy tiên, giao võ đường lại cho Seijuro, Denshichiro không bằng lòng, nhưng chỉ để bụng và từ đấy thôi không tham gia vào bất cứ sinh hoạt gì của phái Yoshioka nữa.
Hắn bỏ mặc, phủi tay coi mình không có trách nhiệm, vung tiền rong chơi những nơi trà đình tửu quán, có khi vắng mặt hàng năm không lai vãng gì đến đường Shijo.
Năm ngoái, sau khi rời khỏi vùng Nara, hắn đến ngụ tại một khách điếm thuộc tỉnh Yamato. Tin Seijuro bị hạ nhục tại đồng Rendaiji làm hắn vô cùng tức giận và dù bất mãn với anh, hắn cũng lập tức trở về võ đường, xem sự thể ra sao để tìm cách rửa hận.
Denshichiro thuê cáng đi bất kể ngày đêm, thay đổi phu cáng đã mấy lần. Mỗi khi tinh thần bị căng thẳng hoặc chấn động như thế, hắn lại phải mượn rượu trấn an. Lần này có lẽ vì tửu lượng không đủ nên sự nóng nẩy đã bắt đầu ló dạng.
Tiếng chó sủa gần bìa rừng về phía miễu mỗi lúc một nhiều. Phu cáng có người lấy làm lạ. Denshichiro nói:
- Khiêng ra đấy coi xem chuyện gì !
Sau khi Kojiro bỏ đi, Matahachi vùng vẫy tìm hết cách cởi dây trói.
Nhưng sợi dây buộc quá bền chặt mà cách trói của tên du tăng giả kia quả đã tinh tế, gã không làm sao thoát ra được. Thấy vắng người, đàn chó đến mỗi lúc một đông, vây xung quanh gã, xù lông nhe nanh, sủa rầm rĩ.
Matahachi càng sợ càng vùng vẫy, mồ hôi toát ra như tắm. Đêm nay, Matahachi đã hai lần suýt chết trong gang tấc, nay bị trói cả tay chân, bất lực trước đàn chó đói này, gã thấy tình thế còn nguy ngập hơn gấp mấy lần.
Như đánh hơi được mồi ngon, đàn chó xông vào càng lúc càng gần. Có con nhảy tới cắn xé áo, gã phải hét lên nó mới lui ra gầm gừ. Tay chân bị trói chặt, không còn cách gì khác, Matahachi chỉ còn bộ mặt là cử động được. Gã trợn mắt, lè lưỡi, gào bằng mọi thứ giọng của dã thú mà gã tưởng tượng ra lúc bấy giờ, kể cả những câu chửi rủa tục tằn để mắng nhiếc ba đời giống chó. Máu ở lỗ mũi tuôn ra, Matahachi chẳng biết đau là gì, nhưng chảy vào mồm làm phiền gã quá. Gã sủa ăng ẳng, gâu gâu rồi hú lên, hy vọng đàn chó sẽ lầm gã với đồng loại. Chẳng biết đàn chó có lầm không, nhưng lúc ấy gã sủa hăng quá tưởng chỉ còn thiếu mọc đuôi ra mà vẫy.
Denshichiro và bọn phu cáng đến gần miễu. Matahachi vẫn còn sủa, nhắm mắt vào mà sủa. Trông Matahachi thật thảm hại:
chân tay trói quặt vào gốc cây, quần áo xốc xếch rách bươm, mặt mũi đầy máu, mồm há hốc ra mà gào, tiếng ằng ặc trong cổ họng không ai phân biệt được là tiếng người hay tiếng chó nữa.
Phu cáng đuổi chó đi, đến bên gốc cây. Gã đã ở trong tình trạng gần như hôn mê rồi. Cắt dây, vã nước vào mặt một lúc, Matahachi mới tỉnh.
- Ai như chồng bà chủ quán Yomogi đây mà !
- Chồng Oko hả ? Oko làm gì có chồng !
- Ờ ờ ! Denshichiro đáp. Ta nghe nói nàng ở với Toji !
Matahachi mệt nhọc lắc đầu. Ai hỏi gì, gã cũng mặc kệ. Gã không còn hơi sức đâu mà xác nhận hay chối cãi điều gì nữa chứ đừng nói đến giải thích.
Mọi người chán quá, để yên gã ngồi dựa gốc cây. Họ có việc cần kíp phải làm, chỉ khuyên gã cẩn thận đừng để chó tới gần nữa. Denshichiro bước vào cáng. Y thèm rượu, bảo phu cáng chạy nhanh cho chóng đến Kyoto rồi nhắm mắt thiu thiu ngủ, quên hẳn chuyện vừa qua như không có việc gì xảy ra cả.
oo Seijuro mở mắt. Cây đèn cạnh chỗ nằm, qua chiếc ***g giấy màu xanh nhạt, tỏa ánh sáng mờ dịu làm căn phòng thêm ấm cúng. Seijuro cảm thấy dễ chịu.
Đã bốn ngày nay, Seijuro nằm liệt giường. Hết mê lại tỉnh, bây giờ sốt đã bớt nhưng cơn đau vẫn còn râm ran, đôi khi buốt nhói đến tận óc. Bốn bề vắng lặng. Tiếng ngáy nho nhỏ của một võ sinh túc trực ngoài cửa vọng vào càng làm tăng sự yên tĩnh.
Không biết giờ này là giờ gì, đêm khuya hay sắp sáng, Seijuro định gọi gia nhân hỏi nhưng lại thôi.
Y sinh chữa cho hắn nói vết thương quan trọng nhất vào những ngày đầu. Xương bả vai vỡ vụn, nếu chỗ dập nát ấy có triệu chứng làm độc thì khó cứu lắm. Một nửa mình bên phải hắn cuốn băng kín mít, vết máu loang ra tận ngoài đã khô thành từng mảng nâu thẫm trên nền vải trắng.
Seijuro run run giơ tay kéo tấm chăn đắp lên ngang ngực. Cử động nhỏ ấy cũng làm hắn đau xét thịt, hắn cắn răng giữ cho khỏi kêu, nước mắt ràn rụa.
“Thôi thế là hết ! Nhưng còn tổ phụ, còn môn phái ! Trời ơi !” Seijuro hét lên căm phẫn, nhưng tiếng hét dường như tắt nghẹn lại trong cổ họng.
Gà gáy sang canh. Ngọn đèn dầu lụi dần rồi tắt phụt trong tiếng”xèo” của dây bấc rớt vào lòng đĩa. Gian phòng tối sầm lại, khung cửa sổ dán giấy trắng hơn. Hình như bên ngoài trời đã bắt đầu hửng sáng. Seijuro nằm lặng nhìn trần nhà. Hồi tưởng lại lúc đối diện Miyamoto Musashi ở đồng Rendaiji, hắn còn như trông thấy trước mặt đôi mắt dữ đội đỏ như hổ phách của địch thủ.
“Đáng lẽ chẳng nên gặp hắn. Ta chưa sẵn sàng. Giá tránh mặt một thời gian và luyện tập thì may ra còn có cơ hội cứu vãn được thanh danh. Ta vội quá !” Lại nghĩ đến những năm dài mê mãi truy hoan, Seijuro hối hận vô cùng, tự giận mình ươn hèn và đánh giá quá thấp địch thủ.
Những bước chân di động ngoài hiên cùng với nhiều tiếng ồn ào cắt đứt dòng tư tưởng của hắn. Hắn đưa mắt nhìn ra cửa. Người võ sinh túc trực bên ngoài bước vào, nét mặt hết sức khích động:
- Tiểu chủ ! Thiếu gia đã về !
Nỗi vui mừng hiện lên nét mặt, Seijuro chớp chớp mắt nhìn bọn gia nhân chạy nhốn nháo, đổ thêm than vào lò và thay đèn mới. Than chưa kịp bắt lửa đã nghe Denshichiro oang oang:
- Thế nào ! Tiểu chủ tỉnh chưa ?
Seijuro vừa mừng vừa tủi. ”Rồi ! Giờ khắc trông đợi đã đến !” Hắn mong được gặp em, muốn nói mấy câu mừng rỡ nhưng lại vô cùng ngần ngại. Mặc dầu chính hắn là người ra lệnh cho đi gọi Denshichiro về nhưng trong thâm tâm hắn sợ, chẳng biết giải thích ra sao về sự thất bại này, nhất là đối với Denshichiro, người em đã nhiều lần coi thường hắn. Nỗi mừng gặp em không che lấp được sự lo lắng ấy. Gương mặt Seijuro trông thiểu não.
- Hà ! Đi suốt đêm mệt quá ! Tiểu chủ thấy chưa, khi gặp khó khăn thì thằng đãng tử này đâu có bỏ tiểu chủ ! Bây giờ tiểu đệ đã về đây rồi, thách đứa nào dám đụng đến bản phái.
Seijuro mỉm cười hài lòng. Denshichiro đến ngồi bên, xoa tay hơ lên mặt lò sưởi.
Nhìn tên gia nhân bưng trà đến, gã cau mặt:
- Gì thế ?
- Dạ, xin mời thiếu gia dùng trà !
- Ta không uống trà ! Hâm cho ta bình rượu !
Ngắm Seijuro nằm dài trên chiếu, da mặt xanh như tàu lá, Denshichiro mủi lòng.
Xa nhau mới hơn một năm, gã thấy anh mình già đi có đến hàng chục tuổi. Gã hỏi, giọng thương cảm, nhưng không giấu vẻ kiêu ngạo che chở:
- Sao tiểu chủ lại để đến nỗi thế này ? Khi gặp nó tiểu chủ sử chiêu kiếm gì ? Thằng ấy chỉ là một tên vô danh, sao để nó tập kích thình lình như vậy ?
Gia nhân mở hé cửa thò đầu vào:
- Trình thiếu gia, rượu đã hâm xong.
- Đâu ?
- Tiểu nhân để ở phòng bên. Xin thiếu gia đi tắm rồi giải khát.
- Ta không cần tắm. Mang rượu vào đây !
- Vào phòng tiểu chủ đang dưỡng thương hay sao ?
- Chứ còn gì nữa ! Đồ ngu ! Bao lâu nay ta không gặp anh ta, bây giờ hàn huyên, để ta uống với anh ta một chút rượu không được à ?
- Dạ dạ ...
Rượu bưng vào, Denshichiro hối hả rót, uống, rót, uống ...
- Khà ! Cái này đáng gọi mỹ tửu đây. Tiểu chủ dùng một chút không ?
Seijuro mệt nhọc lắc đầu, khe khẽ nói:
- Hiền đệ ...Hiền đệ đừng uống rượu trước mặt ta được không ?
- Tiểu chủ bảo gì ?
- Hiền đệ đừng uống rượu. Rượu gợi cho ta nhiều kỷ niệm không vui ...
- Chà, tiểu chủ không đùa đấy chứ ?
Seijuro nghiêm mặt:
- Ta nghĩ đến tiên nghiêm. Nếu người còn sống, chắc chẳng muốn chúng ta sống buông thả thế này đâu !
Denshichiro cười ha hả:
- Tiểu chủ sảng rồi !
- Không, ta không sảng. Bây giờ hiền đệ chưa thấy, còn ta, ta thật hết sức hối tiếc những việc đã làm.
Denshichiro nhếch mép cười chế giễu:
- Đấy là ý riêng tiểu chủ. Tiểu chủ tính tình đa cảm, chí không quyết thì hỏng việc.
Uống vài chung rượu, sao gọi là buông thả ?
Rồi nghiêm giọng, gã tiếp:
- Nếu tiểu chủ muốn biết sự thật thì đây đệ xin nói:
Tiểu chủ giao chiến với Miyamoto Musashi là lầm lẫn. Không phải vì nó giỏi giang gì nhưng vì tiểu chủ không có máu kiếm sĩ.
Đã nhiều lần, đệ yêu cầu tiểu chủ phong kiếm quy ẩn, để chức chưởng môn lại cho đệ, nhưng tiểu chủ không nghe, cứ khăng khăng bảo đó là nghiêm mệnh. Bây giờ nếu võ đường này giao cho đệ xử lý thì đoan chắc với tiểu chủ, nó sẽ phát triển gấp mười lần lúc trước ...
Denshichiro dốc ngược bình rượu, rót những giọt cuối cùng vào chén.
Seijuro nhăn mặt:
- Denshichiro !
Hắn gượng ngồi dậy, nhưng đau quá phải dùng tay trái nắm cổ tay em:
- Này ! Đổ rượu bây giờ !
Denshichiro giữ tay Seijuro, chuyển chén rượu sang tay kia. Seijuro thều thào:
- Thì ta ...thì ta sẵn sàng nhường võ đường lại cho ngươi. Bây giờ còn biết làm sao khác được ! Ngươi thay ta điều khiển bản phái, cố làm rạng danh ...
Chưa nói hết câu, dường như không chịu nổi mệt nhọc, Seijuro để rơi đầu xuống gối, quay đi tránh tia mắt em, hai giọt lệ lăn trên đôi gò má xanh xao.
Im lặng nặng nề bao trùm cả gian phòng. Một lúc lâu mới nghe Denshichiro cất tiếng:
- Được ! Nếu tiểu chủ chỉ muốn có thế ...
- Hiền đệ ! Đừng coi thường lời ta nói. Hiền đệ nên nghĩ kỹ, địch thủ của chúng ta rất lợi hại. Nếu hiền đệ lại tái phạm vào những lỗi lầm ta đã phạm thì thà đóng cửa võ đường còn hơn. Ta ...ta không muốn danh dự tiên phụ bị Ô nhục thêm lần nữa.
- Tiểu chủ yên tâm. Tiểu đệ không như tiểu chủ đâu.
- Hiền đệ hứa tu tỉnh chứ ?
- Tu tỉnh cái gì ? Nếu phải bỏ rượu thì tiểu đệ không nghe lời tiểu chủ được. Tiểu chủ miễn chấp, khi nào cần, tiểu chủ không thể không có rượu ...
Seijuro thở dài:
- Ừ, thôi cũng được. Miễn điều độ. Vả lại rượu chẳng phải là lỗi lầm duy nhất.
Denshichiro hơi mỉm cười:
- Nhược điểm của tiểu chủ là nữ sắc, đệ biết rồi. Khi nào bình phục, có lẽ tiểu chủ nên lập gia đình đi là vừa, để sống vào khuôn phép ...
- Không ! Ta không còn muốn bon chen gì trên trường danh lợi thị phi, nhưng lấy vợ lập gia đình thì chưa phải lúc.
Nghĩ một lúc, hắn tiếp:
- Thế nhưng có một người ta nghĩ ta có trách nhiệm phải cưu mang. Nếu người đó sung sướng thì thật ta không còn mong gì hơn nữa. Ta sẽ sống cuộc đời tàn còn lại, đơn độc, trong một gian nhà cỏ ở ven rừng cũng đủ ...
- Ai thế ?
- Ngươi biết mà làm gì ? Đấy là chuyện riêng, ta sẽ gắng chuộc lỗi. Thôi, ra ngoài đại sảnh gặp anh em đi, ta muốn nằm nghỉ.
- Tiểu chủ yên tâm. Đệ hứa sẽ trả mối thù không đội trời chung này. Thằng Musashi bây giờ ở đâu ?
- Denshichiro ! Seijuro chằm chằm nhìn em. Thì ra hiền đệ vẫn chưa hiểu ý ta sao ? Ta vừa cảnh cáo ngươi đừng phạm vào những lỗi lầm ta đã phạm ...
- Thằng đó là kẻ thủ không đội trời chung với bản phái. Chính tiểu chủ sai người đi tìm tiểu đệ về, nếu không phải để rửa hận ngay thì tại sao lại phải vội vàng thế ?
Seijuro lắc đầu, nghiêm giọng:
- Không hấp tấp được. Lúc này ...lúc này ...ta cấm hiền đệ giao đấu với nó ...
Denshichiro ngạc nhiên, bực tức. Sự cấm cản của người anh trong thâm tâm gã không phục chỉ làm gã khó chịu.
- Tại sao ?
- Vì ngươi không thắng được nó !
Denshichiro mặt xám lại:
- Tại sao không ? Một kiếm phái lẫy lừng như Yoshioka phái mà không thắng nổi tên vô danh tiểu tốt ấy à ?
- Không !
Thanh âm Seijuro tuy nhỏ nhưng đầy xác tín và bi phẫn.
Denshichiro cười ha hả, rung động cả hai vai. Gã uống nốt chén rượu, chống tay đứng lên, đá chiếc bình không lăn lông lốc trên sàn, hét lớn:
- Mang bình rượu khác vào đây. Hết rồi !
Người nhà mang rượu đến, nhưng Denshichiro đã bỏ đi. Seijuro nằm nghiêng, đầu lệch sang bên. Tên người nhà hoảng hốt quỳ xuống đỡ đầu chủ đặt ngay ngắn lên gối và kéo chăn đắp. Seijuro mệt nhọc bảo:
- Thiếu gia đâu, mời trở lại, ta còn muốn nói câu chuyện.
Yên tâm vì tình trạng Seijuro không có gì đáng ngại, tên người nhà lùi ra ngoài đi tìm Denshichiro.
oo Ngoài đại sảnh, bọn Ueda Ryohei, Miike Jurozaemon, Nampo Yoichibei, Otaguro Hyosuke và hai ba người khác vào hàng cao cấp của phái Yoshioka đang họp nhau bàn bạc, nét mặt nghiêm trọng.
Thấy Denshichiro đến, cả bọn đứng dậy thi lễ.
- Thiếu gia đã gặp tiểu chủ chưa ?
- Ta vừa ở đó ra.
- Tiểu chủ có vui mừng được tái ngộ thiếu gia không ?
- Cũng vậy thôi. Ta với anh ta tính tình xung khắc, ít khi đồng ý về việc gì, nên gặp nhau mà chẳng mãn ý.
- Tiểu chủ nói những gì về chuyện bản phái ?
- Tiểu chủ trao quyền chưởng môn cho ta. Hiện nay bào huynh ta còn mệt, chắc sẽ có văn thư sau ...
- Thế còn việc trả hận ? Chúng đệ phải làm gì ?
- À ...à ...việc đó chưa quyết định rõ ràng ...và cũng chính là điều bất đồng ý kiến giữa anh em ta.
Mọi người yên lặng, mỗi người theo đuổi một ý kiến riêng. Ueda lấy tư cách người có niên kỷ cao nhất trong bạn, đưa ra lời khuyên:
- Thiếu gia với tiểu chủ tính tình xung khắc ai cũng biết. Nhưng chẳng may tiểu chủ thương tích trầm trọng chưa hồi phục, thiển nghĩ thiếu gia chẳng nên tranh luận làm gì...
Denshichiro hơi bực mình nhưng nể Ueda, gã chỉ ôn tồn vỗ vai lão:
- Ueda đệ không biết, bào huynh ta có ý chê ta không đủ tài thắng tên đó nên cấm ta giao đấu với nó ...
Ueda gật gù:
- Đệ hiểu.
Denshichiro chăm chú nhìn lão:
- Hiểu là hiểu thế nào ?
Ueda không giải thích nhưng rõ ràng lão cho Seijuro nói phải. Bầu không khí trở nên ngột ngạt.
Vừa may tên người nhà mở cửa bước vào:
- Xin mời thiếu gia trở lại. Tiểu chủ có lệnh muốn được đàm đạo thêm với thiếu gia.
Denshichiro cau mặt:
- Rượu đâu ?
- Dạ ! Để ở phòng tiểu chủ.
- Mang đến đây !
Jurozaemon ngập ngừng:
- Thế thiếu gia không muốn trở lại xem tiểu chủ muốn ...
Gã chưa kịp nói hết câu, Denshichiro đã cắt ngang:
- Không cần !
Rồi quay sang hất hàm bảo tên người nhà:
- Đi lấy rượu ! Đứng đấy à ?
Mọi người nhìn nhau, vẻ ngạc nhiên hiện trên nét mặt. Denshichiro giận dữ:
- Các ngươi sao thế ? Sợ tên khốn kiếp ấy cả chăng ?
Mấy ngày nay, đồ chúng Yoshioka họp nhau lại từng nhóm, bàn tán rất nhiều về mối nhục thất trận của chưởng môn. Không ai không uất hận, nhưng đến khi tìm cách trả thù thì ý kiến chia thành hai phái:
một phái muốn giết Miyamoto Musashi ngay. Phái này có những phần tử cực đoan, đòi hạ thủ hắn ngay tức khắc, dù bằng những phương tiện không chính thống, không được võ lâm coi trọng, tỷ như dò la chỗ ở của Musashi rồi đặt người phục kích quăng lưới bắt sống, hoặc lấy câu liêm giật cho ngã. Thậm chí có kẻ còn đề nghị dùng ngụy kế lừa gạt và đầu độc nữa. Phái kia ôn hòa hơn, chủ trương rửa hận trong danh dự, kêu gọi anh em nhẫn nhục một thời gian để cải tổ và tập luyện cho hoàn chỉnh rồi mới hành động. Đứng đầu phái này là Jurozaemon, có Ueda ủng hộ và chưởng môn Seijuro mặc nhiên chấp thuận.
- Bào huynh ta nhát như cáy ngày, trúng thương một lần đã rụt vòi lại. Chim bị tên sợ cây cong, chẳng nói làm gì, nhưng ta đâu phải kẻ khiếp nhược mà phải nghe lời bào huynh ?
Rượu mang đến, Denshichiro tự tay rót uống rồi đẩy khay sang cho mọi người.
Không khí cởi mở hơn.
- Ueda đệ có mặt tại đồng Rendaiji ngày hôm đó, thấy những gì kể lại ta nghe.
- Thưa thiếu gia, ngày hôm đó tuy đệ có mặt ở đồng Rendaiji thật nhưng không được tận mắt mục kích trận đấu. Tuy nhiên theo lời tên võ sinh Miike Jurozaemon theo hầu tiểu chủ thì dường như tiểu chủ bị tập kích.
Và Ueda thuật lại hết những chuyện đã xẩy ra như lời Miike Jurozaemon nói.
- Hừ ! Denshichiro gật gù. Bào huynh ta rõ ràng bị tập kích rồi, nhưng bảo là bị đánh lén thì cũng không đúng. Hai bên đã trực diện nhau. Bào huynh ta chí không quyết nên bị sơ hở.
Hắn cầm chén rượu uống cạn:
- Ta sẽ tìm Miyamoto Musashi quyết tử với nó.
Jurozaemon vội cất tiếng can:
- Thưa thiếu gia ! Không ai ngờ vực tài năng của thiếu gia, nhưng ...
Vừa định rót thêm rượu, Denshichiro khựng lại:
- Nhưng cái gì ?
- Theo thiển ý, giao đấu với Miyamoto Musashi không phải là chuyện quan trọng.
Quan trọng là danh dự của môn phái nằm trong kết quả của sự giao đấu ấy. Xin thiếu gia nghĩ đến hiểm họa ...
Denshichiro dằn mạnh chén rượu xuống bàn:
- Hiểm họa ! Hiểm họa ta thua nó chăng ?
- Tiểu đệ không có ý nghi ngờ ...Jurozaemon lắp bắp. Tiểu đệ xin rút lại ...
Nhưng mũi tên đã bắn đi, hậu quả không ngăn lại được nữa. Denshichiro đứng phắt dậy nắm áo Jurozaemon đẩy mạnh vào tường.
- Cút ! Đồ hèn. Ta không muốn có những tên đồ đệ nhát như cáy. Cút đi cho khuất mắt.
Mặt Jurozaemon xám lại vì ngạc nhiên và căm giận. Nhưng gã tự kềm chế. Gã chỉ xốc lại áo, cúi đầu điềm đạm:
- Xin đa tạ thiếu gia đã lưu tình.
Rồi đến trước bàn thờ tổ ở cuối phòng thắp hương làm lễ và lặng lẽ bỏ đi.
Không ai nói câu gì. Bầu không khí trong phòng tưởng như có phiến đá ngàn cân đè nặng. Denshichiro một mình ngồi rót rượu uống hết chén này đến chén khác, một lúc lâu mới cất tiếng:
- Nào, chúng ta cùng nâng chén rồi giải tán thôi. Ta chắc thằng Musashi chưa rời khỏi Kyoto này đâu. Nó còn quanh quẩn đâu đó để khoe khoang thành tích. Anh em hãy trở về võ đường dượt lại và hướng dẫn võ sinh tập luyện. Bảo họ phải hết sức và nói cho họ biết ta sẽ không nhẹ tay như bào huynh ta đâu !
Đúng một tuần sau, một võ sinh hớt hải về báo cáo:
- Đã biết chỗ nó trốn rồi !
Trong thời gian ấy, Denshichiro cũng không xao lãng việc luyện tập. Buổi tối, gã ôn lại những bí kíp võ công, những chiêu thức bí mật chỉ truyền cho người cầm đầu môn phái. Ban ngày, sau ba bữa rượu thường lệ, gã ra võ đường tiếp cận đại sảnh cùng với đồ chúng Yoshioka dượt lại những chiêu kiếm của môn phái. Sức mạnh của gã cùng cách sử dụng tinh xác những chiêu kiếm bình thường này mà hàng ngày võ sinh vẫn đem ra tập luyện với nhau làm mọi người ngạc nhiên và hãnh diện vô cùng. Mọi hy vọng phục thù đều đặt trong tay Denshichiro.
Denshichiro ngưng tập dượt. Gã gác kiếm lên giá, gỡ mặt nạ, lau tay, quay ra hỏi tên võ sinh đứng cúi đầu chờ lệnh.
- Hay lắm. Ngươi thấy nó ở đâu ?
- Trình thiếu gia, ở ngõ Honami. Miyamoto Musashi tới ngõ Honami thì đi thẳng vào tư thất Koetsu.
Denshichiro nhìn về phía trước, mặt đăm chiêu:
- Quái ! Sao tên quê mùa ấy lại biết Koetsu ?
- Tiểu nhân không rõ.
- Thôi được, đi ra !
Đoạn Denshichiro quay ra nói với mọi người:
- Anh em chuẩn bị ! Ta đến ngõ Honami bây giờ !
Nhưng Ueda và Yoichibei vội chạy theo:
- Thiết nghĩ làm thế không ổn. Người ngoài sẽ cho mình sinh chuyện gây hấn. Nếu có thắng cũng không tránh khỏi dị nghị.
- Cần quái gì ! Nghi lễ là để dùng ở võ đường. Trên chốn giang hồ, trong những cuộc tranh phong, kẻ nào thắng là thắng, xá gì đến nghi lễ.
- Đúng vậy ! Nhưng xin thiếu gia nghĩ kỹ, tên đó đâu có thắng tiểu chủ bằng cách ấy. Mình là chưởng môn một danh môn chính phái phải thủ lễ chứ. Thiếu gia khoan đã, hãy gửi cho nó một phong thư định ngày tháng và nơi hẹn, rồi đường đường chính chính mà thắng nó chẳng hơn ư ?
- Ừ, Ueda đệ nói có lý. Chúng ta làm thế cũng được !
Đoạn thêm:
- Ueda đệ bảo người viết thư ngay. Mà ta không muốn bào huynh ta hay bất cứ người nào ngăn cản ta làm việc này. Ta nhất định phải giết nó, không trì hoãn lâu được !
- Thiếu gia không ngại.
Yoichibei nói trấn an:
- Chúng đệ sẽ không để xảy ra chuyện như vụ Jurozaemon và Toji. Thiếu gia thấy có cần phải trình tiểu chủ về việc này không ?
- Dĩ nhiên phải cho tiểu chủ biết. Nhưng chuyện đó để ta làm.
Cả hai theo chân Denshichiro. Đến phòng Seijuro, họ đứng ngoài chờ, thầm cầu nguyện cho hai anh em nhất trí hành động, đừng mỗi người một ý. Một lúc sau thấy vẫn im lặng, đồ chừng câu chuyện đã dàn xếp xong, Ueda và Yoichibei bắt đầu bàn bạc về ngày giờ thuận tiện nhất cho cuộc gặp gỡ. Thì bỗng nghe tiếng Denshichiro gọi lớn:
- Ueda, Yoichibei, vào cả đây ! Cần lắm !
Cả hai đẩy cửa ùa vào, thấy Denshichiro đứng sững giữa phòng, mặt tái mét. Gã cầm phong thư dài, tay run run cố kìm sự giận dữ chỉ chực nổ tung:
- Này ! Các ngươi xem ! Thật u mê cực độ ! Ra lệnh chỉ cấm ta và toàn phái đối đầu với nó lúc này. Đóng triện son rồi bỏ đi không biết nơi nào nữa. Hèn nhát thế này thì làm sao nghe lời được.
Hết chương 37.
-
CHƯƠNG 38
NGƯỜI MẸ
Otsu đặt giỏ khâu xuống lắng nghe. Hình như có tiếng chân người bước nhẹ ngoài vườn.
- Ai đó ?
Nàng đứng dậy đẩy cửa nghiêng đầu nhìn ra. Bên ngoài vắng lặng, chỉ thấy gió thổi xào xạc và tiếng những chiếc lá phong khô theo nhau lăn nhanh trên sàn gỗ.
Otsu quay trở vào, buồn bã. Đã mấy ngày nay, nàng đợi Jotaro nhưng không thấy tăm hơi thằng bé, không biết chuyện gì đã xảy ra cho nó ? Bà Honiden rời khỏi nhà trọ từ sáng sớm. Cuộc đời của bà bây giờ chỉ còn quanh quẩn ở mấy việc:
tìm Miyamoto Musashi, gặp lại con trai và đi chùa lễ Phật.
Một mình trong phòng vắng, nỗi cô đơn và phiền muộn bao quanh, Otsu không còn lòng dạ nào chú tâm đến việc kim chỉ.
Làng Sannen này thuộc trấn Kiyomi thật là hẻo lánh. Khách phần đông vãng lai chỉ vì mục đích hành hương và viếng thăm cổ tích. Con đường băng qua làng gập ghềnh khó đi, mùa đông tuyết phủ đến mắt cá chân, mùa xuân lầy lội. Tuy vậy cảnh Sannen quyến luyến lòng người, vì sau con đường lầy lội ấy là những căn nhà tranh gọn ghẽ lẩn bên giậu trúc xanh với những khóm trà đơm hoa trắng, đỏ. Cuối xuân, hoa mận hoa mơ rụng đầy. Cảnh vật kém phần tươi đẹp nhưng mang một sắc thái riêng, gây cho khách du một nỗi buồn man mác.
Bà Honiden không lần hành hương nào qua trấn Kiyomi mà không đến trọ Ở quán Đại Lộc trong làng Sannen. Chủ quán biết ý khách ưa tĩnh, bao giờ cũng dành cho bà một căn thảo ốc riêng biệt phía sau vườn, bên gốc đào cổ thụ. Bấy giờ mới chưa hết tháng giêng, hoa đào đang rộ nở, rực rỡ vô cùng. Những cánh hoa mỏng run run trước gió, cạnh mấy cái mầm non mới nhú ở đầu cành xanh như ngọc.
Mùa xuân trở lại, đáng lẽ phải vui tươi, nhưng sao Otsu cảm thấy bồn chồn lo lắng quá. Nàng ngồi thừ người bên chiếc giỏ khâu nghĩ ngợi, không để ý đến vợ người chủ quán từ dưới bếp gọi vọng lên. Mãi sau, nghe tiếng đập cửa, nàng mới giật mình.
- Gần ngọ rồi, cô nương muốn dùng cơm chưa để cho người mang tới ?
- Ô ! Đã đến giờ ăn rồi đấy ! Thôi ta đợi lão bá về ăn một thể.
- Lão bá dặn hôm nay về trễ. Cô nương chẳng đợi được đâu !
- Nhưng ta không đói.
- Không đói cũng phải ráng, chứ ngày một bữa thì sao đủ sống ?
- Cảm ơn bác, thật tình ta không đói mà.
Sau nhà, bác thợ gốm đã đốt lò. Khói củi thông bốc cao, cuồn cuộn đen trong bầu trời trong vắt. Mùi nhựa thông thơm và hơi cay thoang thoảng đưa vào tận phòng Otsu.
Ngoài đường, tiếng ngựa hí, tiếng chân người đi lẫn với những tiếng cười nói lao xao.
Cùng với những câu chuyện buôn bán trong vùng, chuyện thờ cúng ở đền miếu còn cả chuyện Denshichiro, kẻ đãng tử mới trở về làm chưởng môn Yoshioka phái. Otsu chú ý lắng tai nghe. Hôm xảy ra cuộc giao đấu ở đồng Rendaiji, nàng đã cố tìm cách đến đó nhưng không được. Bà Honiden đi, giao nàng cho vợ chồng chủ trọ canh giữ. Mỗi khi nàng cất bước ra ngoài hoặc chỉ mở cửa nhìn ra đường cũng đã có người trông chừng để mắt dòm ngó.
“Cô nương đi đâu ? Có về ăn cơm trưa không ?” hoặc “Hôm nay trời lạnh, cô nương phải cẩn thận đừng ra ngoài !”. Lời nói xem ra tự nhiên, nhưng Otsu đã hiểu ngụ ý.
Nàng muốn viết phong thư gửi cho Jotaro ở lâu đài tướng công Mitsuhiro nhưng lại thôi, vì dự đoán thế nào rồi thư cũng bị chận lại, chắc gì đến tay nó được.
Dân làng Sannen thuần hậu, cả tin và bảo thủ. Họ cho lão bà Honiden giữ con dâu ở đây tất có lý do chính đáng nên không dám trái ý bà, một người đối với họ là tượng trưng của uy quyền đảng tộc.
Otsu thở dài. Nàng nghĩ đến Miyamoto Musashi. Như con chim bị nhốt, nàng bất lực. Sự so sánh tình trạng hiện nay với con chim bị giam giữ, nàng thấy thật chua chát.
Otsu nghĩ đến thân phận mình, phải rồi, nàng còn bị giam trong cái ***g lễ giáo nữa, vì mặc dầu bị từ hôn, xã hội vẫn coi nàng là con dâu nhà Honiden.
Otsu mang chiếc áo lụa của bà cụ ra khâu những đường chỉ sứt và xếp gọn lại. Có bóng người thấp thoáng ngoài song rồi tiếng nói trong trẻo của một thiếu nữ:
- Chẳng biết phải đây không ?
Thiếu nữ trạc hai mươi, đôi mắt đẹp não nùng, đứng bên hàng giậu trúc phía vườn sau. Thấy Otsu, nàng hỏi vọng vào:
- Nhà này phải quán trọ không tỷ tỷ ?
Otsu nhìn, ngạc nhiên. Nàng đã nhận ra cô bé này trong vòng tay Miyamoto Musashi dưới chân cầu đường Gojo mà Jotaro gọi tên là Akemi thì phải. Kỷ niệm đau thương nổi dậy làm nghẹn lời, Otsu trừng trừng nhìn Akemi không chớp. Akemi tưởng mình lầm, xin lỗi và hỏi chữa:
- Thưa tỷ tỷ có biết quán trọ chỗ nào, chỉ em ...
Nhìn cây đào nở rộ, nàng suýt soa:
- Trời ơi đẹp quá ! Tỷ tỷ ở đây thật thích.
Một nữ tỳ chạy đến:
- Cô nương tìm chỗ trọ ?
- Phải.
- Vậy mời cô nương đi lối này. Cổng vào ở phía trước.
- Quán này trông ra đường à ?
- Vâng, nhưng yên tĩnh lắm.
- Ta thích ở chỗ xa mặt đường riêng biệt, đi về không ai để ý. Căn nhà nhỏ này dễ thương quá, có cho thuê không ?
- Dạ có, nhưng nhà đã có người thuê rồi.
- Cô nương ngồi kia đó hả. Để ta ở chung với cô được không ?
- Chắc không được đâu, vì còn bà mẹ già nữa. Bà cụ khó tính lắm. Nhưng bây giờ bà đi vắng, để khi về cô nương hỏi xem.
- Vậy cho ta mướn căn phòng ở tạm. Ngươi dẫn ta đến gặp chủ nhân.
- Vâng. Cô nương theo cháu.
Cả hai thoăn thoắt men hàng rào ra phía đường, để Otsu ngồi ngẩn ngơ tiếc đã bỏ lỡ dịp tốt hỏi thiếu nữ vài câu. Nàng thẫn thờ tự trách:
“Mình thật chậm chạp. Cơ hội thế mà bỏ qua. Bận sau phải nhanh trí hơn mới được !”.
Để dẹp những ý tưởng ghen tuông nhen nhúm, Otsu đã nhiều lần tự nhủ Miyamoto Musashi chẳng phải người trăng hoa. Chàng gặp Akemi dưới chân cầu chưa chắc đã là vì có tình ý. Nhưng bây giờ ... bây giờ ... nhìn Akemi, những điều nàng tự nhủ hầu như sụp đổ. Cái dáng đi quyến rũ ấy, đôi mắt buồn não nùng ấy, làm sao mà Miyamoto Musashi có thể vô tình được ! Nàng lại khôn khéo hơn ta. Trời ơi ! Và Otsu đột nhiên như thấy muôn ngàn cây kim đâm vào tim đau nhói. “Chẳng qua mình không đẹp bằng, mình lại là đứa mồ côi, không gia đình thân thuộc, hy vọng gì Miyamoto Musashi để ý.
Thật là mơ ước hão huyền !”. Hơn lúc nào hết, Otsu mong găp Jotaro vì bây giờ, nàng nghĩ, chỉ có nó là người có thể giúp nàng được mà thôi.
Hồi tưởng đến ngày còn ở chùa Shippoji và khi cứu Miyamoto Musashi khỏi cây đại bách trong một ngày dông bão, Otsu thở dài, hai hàng nước mắt rưng rưng. Nàng kéo tay áo lên thấm:
“Mình nhiều tuổi rồi, chẳng còn vô tư như nó mà cũng không còn can đảm làm gì nữa”.
- Otsu ! Ngươi có trong phòng không ? Làm gì mà để tối thui không thắp đèn đóm gì cả thế này ?
Tiếng bà Honiden the thé ngoài hiên khiến Otsu giật mình. Hoàng hôn xuống từ bao giờ nàng cũng chẳng hay. Nàng vội vàng đi thắp đèn, mang lại đặt bên cạnh chỗ ngồi của bà Honiden. Bà nhìn nàng, lạnh lùng.
- Hôm nay chắc bà mệt. Bà gặp Matahachi không ?
- Ngươi trông ta khắc biết, hỏi gì nữa.
Bà nhăn mặt kêu đau. Otsu vội quỳ xuống:
- Để con bóp chân cho.
- Không, chân không đau, nhưng vai thì mỏi lắm. Có lẽ tại trời ẩm, bệnh thấp nó hành. Ngươi bóp vai cho ta.
Otsu vòng ra sau lưng, dùng tay bóp và đấm nhè nhẹ lên vai bà lão. Bà thở ra khoan khoái, cười nói:
- Con dâu ta khéo quá !
Nhưng trong thâm tâm, bà nghĩ:
“Chẳng còn bao lâu đâu con ạ. Chờ ta tìm được thằng Matahachi rồi mày sẽ biết”.
- Bắp thịt trên vai bà sao cứng thế ! Bà thở có thấy đau ngực không ?
- Ờ đau. Đôi khi như có cục đá đè lên. Chắc ta cũng sắp hết lộc trời rồi.
- Chỉ nói gở. Bà còn khỏe lắm, thanh niên cũng chẳng hơn đâu !
- Ở đời biết thế nào được. Như cậu Gon đấy, hôm trước mạnh hôm sau đã ra người thiên cổ. Nên ta phải cố tìm thằng Takezo trước khi ta chết.
Thấy bà Honiden nhắc đến Miyamoto Musashi, Otsu rụt rè hỏi dò:
- Con xem ra Miyamoto Musashi cũng không phải là người xấu.
Bà Honiden khẽ nhếch mép, liếc nhìn Otsu:
- Hừ ! Cô thương nó hơn thằng Matahachi phải không ?
- Không phải thế !
- Thế sao lại ruồng rẫy con ta ?
Otsu lặng thinh. Nàng chẳng muốn nhắc đến thư từ hôn của Matahachi làm gì vì biết nói ra, bà Honiden cũng chẳng tin nào.
- Ta sẽ tìm thằng Matahachi dẫn về đây rồi tùy nó và ngươi định liệu. Về làng cáo gia tiên xong, chúng bây muốn đi đâu thì đi. Nhưng ta chắc ngươi và nó lại đi rêu rao kể xấu ta khắp nơi chứ gì ?
- Sao bà ngờ con vậy ? Con đâu phải hạng người như thế. Khi ở làng bà đối với con thế nào con nhớ chứ !
- Cha ! Các cô thời nay ăn nói khéo quá. Ta cổ hủ thật nhưng thật thà nghĩ sao nói vậy. Này ta bao thật, nếu ngươi lấy thằng Takezo, ta sẽ không đội trời chung với ngươi, bấy giờ thì đừng trách.
Otsu lặng thinh.
- Sao ngươi khóc ?
- Con khóc đâu ?
- Thế nước gì rỏ vào gáy ta thế ?
- Con xin lỗi. Con không cầm được cảm xúc.
- Ừ thôi, bỏ chuyện ấy đi. Đừng nghĩ đến nữa. Bóp mạnh mạnh lên một chút, phía bả vai ấy.
Ngoài vườn, thấp thoáng ánh đèn. Otsu ngỡ con hầu giờ này thường mang cơm tới, nhưng khi ánh đèn đến gần thì ra là một nhà sư. Trên ***g đèn nhà sư cầm thấy đề chữ “Sơn Thần Miếu”.
- A di đà Phật.
Bà Honiden chạy ra.
- Xin cho bần tăng hỏi thăm, quý thí chủ phải chăng là Honiden lão bá ?
- Dạ phải, đại sư có điều chi dạy bảo ?
- Bần tăng ngụ Ở miếu Sơn thần. Chiều nay có kiếm khách đến hỏi thí chủ. Biết thí chủ thường lên lễ miếu, vị đó để lại thư này nhờ chuyển cho thí chủ. Nhân có việc vào thành, bần tăng mang đến giao cho thí chủ đây.
Nói đoạn, móc trong bọc ra một cuộn giấy niêm kỹ đưa cho bà Honiden. Bà cúi đầu đỡ cuộn giấy, mời nhà sư vào trong nhà dùng trà. Nhưng nhà sư thoái thác, viện lẽ trời tối, sợ vào thành khuya quá rồi lui bước.
“Chẳng biết thư của ai đây ?”. Bà Honiden vào phòng, cởi dây buộc và bật dấu sáp niêm. Bà ghé thư vào ánh đèn đọc. Càng đọc mặt bà càng tái nhợt, tay cầm tờ giấy mỏng run lật bật.
- Otsu !
- Con đây ! Tiếng nàng đáp từ trong phòng vọng ra.
- Thôi khỏi cần pha trà. Nhà sư đi rồi !
- Con pha xong rồi đây. Nếu khách đi rồi thì bà con ta uống.
- Hừ, con này hỗn. Ta có phải là cái ống cống đâu mà ngươi muốn đổ nước gì vào thì đổ. Để trà đấy, mặc áo đi với ta.
Otsu ngạc nhiên:
- Đi đâu ?
- Đi giải quyết cái việc ngươi đang mong chứ đi đâu !
- À thế thư là của Matahachi đấy hả bà ?
- Không việc gì đến ngươi !
Otsu tiu nghỉu. Nàng không hiểu sao bà Honiden đối với nàng hay giận dữ như thế. Nàng cho là vì tuổi già, bà dễ buồn bực.
- Để con gọi người dọn cơm.
- Vậy ngươi chưa ăn cơm à ?
- Chưa, con đợi bà về.
- Ta ăn cơm ngoài tiệm rồi. Thật con này ngu chẳng ai bằng. Vậy xuống bếp bảo họ dọn cơm mà ăn. Mà nhanh nhanh lên đấy.
Otsu mở cửa bước ra, bà còn gọi với:
- Đêm nay chắc lạnh. Ngươi đã khâu xong áo cho ta chưa ?
- Dạ xong cái kimono rồi.
- Ta không nói cái kimono. Ta nói cái áo khoác ngoài kia. Ta đã lấy ra để ngươi khâu cùng một lúc với chiếc kimono mà. Lại còn đôi bít-tất nữa, giặt chưa ? Và chiếc quai dép cũng sắp đứt rồi, bảo họ đi mua cho ta đôi khác ...
Những lời sai bảo của bà Honiden đổ lên đầu Otsu dồn dập như mưa bấc, đến trả lời còn không kịp, nói gì làm xong. Otsu vâng dạ liên hồi. Lòng sợ hãi bà Honiden bắt nguồn từ khi nàng còn ở làng khiến nàng tê dại không còn biết phản ứng ra sao, chẳng khác gì con ếch nhỏ bị thôi miên trước đôi mắt sắc lạnh của con rắn.
Cơm dọn ra, Otsu không còn muốn ăn nữa. Nàng nhịn luôn. Tàn nén hương, bà Honiden ở trên nhà đã giục lên đường. Otsu mang áo khoác, gậy và dép của bà đặt trước cửa.
- Thế đèn đâu ?
- Phải mang đèn nữa ư ?
- Mô Phật ! Sao lại có người ngu đến thế ! Tối thu thế này mà ngươi để ta lần mò trên núi không đèn đóm gì hay sao ?
- Con quên mất. Để con đi lấy.
Otsu không dám hỏi bà Honiden đi đâu, về hướng nào, sợ lại làm bà nổi giận.
Nàng chạy đi mượn chiếc đèn ***g rồi cắm cúi đi trước, theo con đường nhỏ dẫn đến chân núi Sannen. Cả hai lặng lẽ bước. Sương đêm lùa vào áo. Otsu lạnh nhưng trong lòng nàng mừng rỡ vì sắp gặp Matahachi. Trước mặt bà Honiden, nàng sẽ mạnh dạn trình bày những điều u uẩn, những điều ray rứt nàng bấy lâu nay và sẽ giúp nàng giải quyết êm đẹp vấn đề tình cảm của hai người, Matahachi và nàng. “Xong rồi, ta sẽ đến lâu đài Mitsuhiro tướng công gặp Jotaro. Ta phải gặp nó mới được”.
Nghĩ đến đây Otsu vui hẳn lên, không thấy lạnh và cũng không còn đói nữa.
Đêm khuya trèo núi thật chẳng dễ gì, nhất là đối với một bà già và một thiếu nữ yếu đuối như Otsu. Cả hai phải thận trọng từng bước để khỏi ngã trẹo chân hay sa xuống hố.
Thỉnh thoảng tiếng cú rúc đằng xa làm đêm vắng càng thêm tịch mịch. Trời cao đen thẫm, vài ngôi sao thưa nhấp nháy.
Đi được một lúc khá lâu, bà Honiden dừng lại lắng tai nghe. Hình như có tiếng rì rào, gió đưa vẳng tới khi xa khi gần, không phân biệt được về hướng nào.
- Otsu ! Tai người còn thính, nghe phải tiếng suối không ? Về phía nào vậy ?
Otsu chú ý rồi lấy tay chỉ:
- Về phía này.
- Đúng rồi. Ta chắc đấy là suối sau phía miếu Sơn thần.
Quả nhiên đi một thôi nữa, tiếng suối nghe rõ mồn một. Suối không lớn nhưng tiếng kêu rào rào của dòng nước đổ vào ghềnh đá trong đêm vắng nghe gần như chỉ cách chỗ hai người đứng chừng vài chục trượng. Bà Honiden và Otsu lại cắm cúi đi. Đến bên một cây anh đào thật lớn cành xòe ra như tán, hoa rụng đầy đất, thấy chiếc bảng gỗ lợp mái. Otsu giơ đèn soi, thấy trên bảng viết sáu chữ:
“Sơn thần miếu, anh đào thụ”. Bà Honiden giằng lấy đèn trên tay Otsu, kề sát bảng đọc cho rõ.
Đọc xong bà gọi, tiếng vang động cả sơn lũng:
- Matahachi ! Ma ... ta … ha ... chi ... Mẹ đây !
Bà run run chứng tỏ bị khích động đến cùng cực. Sắc mặt bà nhợt nhạt nhưng ánh mắt long lanh. Lòng mẹ thương con toát ra trên khắp cơ thể bà, từ cánh tay gầy guộc run rẩy vịn vào tấm bảng bên gốc đào đến những lời lắp bắp bà nói, chẳng biết với Otsu hay với chính bà:
- Nó bảo đợi ta ở đây mà ! Ma ... ta … ha ... chi ...
Otsu gần bà Honiden đã lâu nhưng chưa bao giờ thấy bà bị khích động sâu xa đến thế.
- Otsu ! Chớ để đèn tắt.
Bà đưa đèn cho Otsu cầm, bảo nàng đi vòng quanh thân cây rồi theo bà trèo những bậc thềm đá lên miếu.
- Trong thư nó nói sẽ đợi ta cạnh gốc anh đào gần miếu Sơn thần.
- Matahachi nói đợi bà tối nay sao ?
- Không nói tối nay mà cũng chẳng nói rõ tối nào cả. Cái thằng ! Bao giờ cũng như con nít, có lớn mà chẳng có khôn. Không hiểu tại sao nó không đến gặp ta tại nhà trọ ?
Otsu kéo tay áo bà lão:
- Yên ! Con nghe hình như có người đang đi lên.
Bà Honiden run rẩy:
- Con trai ta đấy ư ?
Rồi xăm xăm bước xuống. Nhưng người đi lên không phải Matahachi. Đó là một thanh niên cao lớn, y phục màu xanh, vai đeo trường kiếm. Gã bước nhanh qua mặt hai người, vòng ra sau miếu, một lát lại trở lại chỗ hai người đứng.
- Lão bá và cô nương có gặp một thiếu nữ ở trên này không ?
Bà Honiden lắc đầu. Otsu nhìn gương mặt thanh niên khi mờ khi tỏ dưới ánh đèn thì ngờ ngợ đã gặp ở đâu mà không nhớ.
- Thiếu nữ tại hạ đang tìm cũng trạc tuổi cô nương, nhưng thấp hơn cô nương một chút và gương mặt tròn hơn. Nàng tên Akemi, trước làm tại một phòng trà ở ngoại thành. Lão bá và cô nương có thấy thiếu nữ ấy quanh vùng này không ?
Cả bà Honiden lẫn Otsu đều lắc đầu.
- Quái lạ. Có người nói nàng trốn ở miếu sơn thần.
Nói đoạn, thanh niên hối hả rẽ sáng ngả khác. Bà Honiden nhìn theo lẩm bẩm:
- Lại một thằng vô tích sự ! Lưng đeo trường kiếm trông ra vẻ kiếm khách lắm nhưng đêm tối đi săn gái.
Otsu cúi đầu đăm chiêu. Nàng không nói gì với bà Honiden về việc người thiếu nữ hồi chiều đến tìm chỗ trọ Ở quán Đại Lộc, nhưng nàng đoán mười phần chắc chín chính là Akemi. Akemi đang tìm cách trốn chạy khỏi tay gã này. Đột nhiên nàng sực nhớ ra. Gã thanh niên vừa rồi là người đứng cạnh gốc liễu dưới chân cầu đường Gojo hôm Tết. Nhưng nàng không hiểu Akemi, gã thanh niên ấy và Miyamoto Musashi có liên quan gì với nhau. Nàng tự nhủ sẽ hỏi lại Jotaro cho rõ khi có dịp.
Đi quanh quẩn một lúc bên gốc đào, không thấy Matahachi ló mặt, bà Honiden thất vọng cùng Otsu xuống núi. Trên đường về quán trọ, cả hai lại gặp gã thanh niên áo xanh đi lên. Gã trừng trừng nhìn bà và Otsu. Bà quay mặt đi:
- Đôi mắt nó dữ quá ! Như mắt thằng Takezo.
Bỗng bà linh cảm hình như có người đang theo dõi rình rập. Đôi lúc, bà nghe sột soạt, khi thì bên trái, khi bên phải.
Trong đêm tối, bóng chiếc đèn ***g Otsu cầm đi phía trước lung lay theo nhịp bước. Vòng ánh sáng nhỏ, vàng úa hắt lên những cành cây thấp giống như những cánh tay quỷ sứ đen đủi, khẳng khiu lúc vươn ra, khi thu lại làm bà nổi gai ốc. Một tiếng cú rúc rất gần. Bà Honiden quay lại, bỗng giật nẩy mình. Một bàn tay từ sau gốc cây thò ra vẫy.
- Matahachi ! Mô Phật !
Bà vội đưa tay lên miệng cho khỏi kêu to. Con bà chắc chỉ muốn gặp riêng bà thôi nên nó đợi Otsu đi trước xa xa mới bắt chước tiếng cú rúc làm hiệu. Bà vội gọi Otsu:
- Ngươi cứ cầm đèn đi trước đi. Đợi ta chỗ ngã ba rẽ về quán, ta có chút việc, sẽ gặp lại ngươi sau.
Đoạn chạy ngay tới gốc cây:
- Matahachi, mày đấy ư ?
- Vâng, con đây.
Bà Honiden nắm chặt lấy tay con trai:
- Mày làm gì dưới gốc cây thế ? Mô Phật ! Sao tay con lạnh thế này con ?
Sự ân cần của bà làm Matahachi cảm động. Hắn ghé tai mẹ thì thầm:
- Con phải trốn cái thằng mặc áo xanh vừa lên núi, mẹ trông thấy chứ ?
- Gã đeo trường kiếm trên lưng ấy hả ?
- Vâng !
- Con biết nó à ?
- Biết. Tên nó là Kojiro.
- Cái gì ? Ngoại hiệu của mày là Kojiro mà ?
- ...
- Ở Osaka, mày đưa ta coi bản chứng thư đề tên Kojiro. Mày bảo ta mày lấy ngoại hiệu là Kojiro phải không ?
- À à ... con bảo thế hả ?
- Còn gì nữa. Cả cậu Gon cũng nghe thấy ...
Matahachi lấp liếm:
- Không phải. Thằng đeo kiếm trên lưng mới là Kojiro. Mấy ngày trước đây nó suýt giết chết con, bây giờ gặp nó thì khốn ...
Bà Honiden ngạc nhiên đến sững sờ. Nhưng sờ má con trai, thấy nó gầy quá. Quần áo Matahachi ban đêm bà trông không rõ nhưng bà đoán cũng chẳng lành lặn gì, bất giác quá thương cảm, bà ôm lấy con mà khóc. Bà cũng không muốn hỏi thêm, chỉ nói:
- Thôi chẳng hề gì. Này Matahachi, con có biết cậu Gon mất rồi không ?
- Cậu Gon ? Cậu Gon mất rồi hả ?
- Ừ ! Ngay sau khi mày bỏ đi trên bãi biển Sumiyoshi. Cậu mất vì sao mày biết không ?
- ...
- Cậu mất trên đường đi trả hận. Cậu Gon với ta già rồi, đáng lẽ được quyền ở nhà nghỉ ngơi, thế mà vẫn phải bôn ba. Chắc mày đã hiểu sao rồi !
- Đã ! Mẹ đã cho con biết khi ở Osaka.
- Vậy tốt ! Mày đã nhớ. Giờ ta có tin vui cho mày.
- Tin gì vậy ?
- Tin con Otsu.
- Người cầm đèn đi với mẹ lúc nãy là Otsu đấy ư ? Bây giờ lớn thế rồi đó ? Để con đi gặp nó.
Chưa dứt lời Matahachi định vùng chạy đuổi theo. Nhưng bà Honiden đã giữ hắn lại:
- Khoan. Ta dẫn nó lên đây là để mày gặp nó. Nhưng ta muốn biết khi gặp nó mày sẽ làm gì ?
- Con sẽ bảo nó con rất tiếc đã để nó phải chờ đợi lâu và mong nó tha lỗi.
- Rồi sao nữa ?
- Con hứa sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện như thế nữa. Mẹ ! Mẹ cũng bảo nó như thế hộ con ...
- Rồi sao ?
- Rồi sao hả ? Ờ ... Ờ ... rồi ... rồi lại vẫn như xưa. Con với nó sẽ về làng làm lễ cưới.
Mẹ tính nó có bằng lòng không ?
Bà Honiden giơ tay tát đánh bốp vào mặt Matahachi:
- Thằng ngu độn, vô sỉ.
Matahachi xoa má. Hắn không hiểu tại sao mẹ hắn lại đột nhiên giận dữ như thế, nhưng chưa kịp hỏi, bà Honiden đã the thé:
- Ta bảo mày xin lỗi nó bao giờ ? Sao mày lại có thể có ý tưởng đi cưới một đứa đã ruồng bỏ mày để đi với thằng khác về làm vợ ? Sao mày ngu thế ? Ta sẽ cho mày gặp nó nhưng không phải để xin lỗi nó. Nghe chưa ?
Bà nắm vai áo Matahachi lắc mạnh:
- Mày khóc hả ? Mày còn thương cái con bé đĩ thõa ấy đến độ khóc vì nó được hả?
Như vậy mày không phải là con ta !
Nhưng mắng Matahachi, bà cũng không ngăn được nước mắt mình ràn rụa. Hai mẹ con ôm nhau phục xuống gốc cây âm thầm khóc cùng với những tiếng côn trùng than vãn xung quanh.
Lát sau, giọng bà Honiden bình tĩnh hơn:
- Này con ! Mẹ chẳng còn sống bao lâu nữa. Rồi khi mẹ nằm dưới ba tấc đất, con có muốn nói với mẹ câu gì hay làm vui lòng mẹ cũng chẳng được. Matahachi, nghĩ kỹ đi con, Otsu chẳng phải là đứa con gái độc nhất trên đời này ...
Tiếng bà càng dịu dàng:
- Con chẳng nên quyến luyến đứa phản bội ấy làm gì. Con ưng ai, mẹ sẽ đi hỏi cho, dù phải trăm lần nghìn lần mang lễ vật đến cầu cạnh, dù phải đi đi về về đến kiệt sức ...
Nhưng Matahachi vẫn ngồi yên lặng ủ rũ.
- Matahachi ! Con hãy quên nó đi. Dù tình cảm con thế nào, nó cũng không xứng đáng được chấp nhận vào dòng họ Honiden. Nếu thật con còn thương nhớ nó thì giết ta đi cho rồi. Sau đó làm gì thì làm chứ chừng nào mẹ còn sống ...
- Mẹ im đi !
Bà Honiden sửng sốt:
- A ! Thằng này láo ! Dám lớn tiếng với ta hả ?
- Con hỏi mẹ:
mẹ lấy vợ hay con lấy vợ ?
- Thằng này điên ! Sao mày hỏi vậy ?
- Thế tại sao con không được tự chọn lấy người con ưa thích. Mẹ đòi hỏi quá đáng!
Sự bất hòa giữa hai mẹ con đã diễn ra. Lần nào cũng thế, nó bắt đầu bằng những thành kiến, những ý kiến đối kháng va chạm nhau, rồi tính bướng bỉnh của bà Honiden, cảm tưởng uất hận vì bị chèn ép của Matahachi thêm vào khiến hai người chỉ sau vài câu đã trở thành thù nghịch.
- Qúa đáng ? Tiếng bà Honiden rít lên the thé. Qúa đáng chỗ nào ? Mày là con ai, ở chỗ nào chui ra, thằng kia ?
- Cái đó không quan hệ. Con muốn cưới Otsu. Con yêu nó !
Matahachi tự thấy mình liều hết sức. Hắn không dám nhìn mẹ, hắn ngước mắt lên trời.
- Mày nói thật không, thằng kia ?
Bà Honiden rút phắt thanh kiếm nhỏgidấu trong bọc ra, quay ngược mũi kiếm lại dí vào cổ họng. Matahachi hét lên:
- Mẹ làm gì thế ?
- Ta không nhịn được nữa rồi. Mày có thương ta thì đâm cho ta một nhát. Ta không còn muốn sống nữa !
Matahachi ôm chầm lấy bà:
- Mẹ ! Mẹ ! Mẹ đừng làm thế. Con là con của mẹ đây mà. Mẹ bảo gì con cũng xin nghe hết.
- Vậy mày có bỏ con Otsu không ? Bỏ ngay lập tức ?
- Nếu mẹ muốn thế, sao lại dẫn nó đến đây ? Con không hiểu ...
- Mô Phật ! Tại vì ... tại vì ta giết nó thì dễ, nhưng nó đã làm nhục mày, ta muốn để chính tay mày trả thù. Mày phải ơn ta mới phải chứ !
Matahachi trợn mắt, giật lùi:
- Mẹ muốn con giết Otsu ?
- Ừ ! Nếu mày không chịu thì nói ngay. Chịu hay không chịu ?
- Mẹ ! Mẹ !
- Vậy là mày không chịu. Cũng được. Mày không phải là con ta nữa. Nếu mày không đủ can đảm cắt đầu con bé trơ tráo khả ố ấy thì hãy cắt đầu ta đi ! Cắt đầu ta đi !
Matahachi đờ đẫn cả người. Con cái thường gây phiền lụy cho cha mẹ, nhưng đây chính mẹ hắn lại đặt hắn vào một tình trạng đau thương và khó xử nhất đời ! Sự tàn ác đến dã man của bà Honiden làm hắn rùng mình. Matahachi thấy ớn lạnh đến xương tủy. Hắn lẩm bẩm một mình:
- Con sẽ làm ! Con sẽ làm ! Con sẽ giết nó !
Bà Honiden nắm vai hắn cười thỏa mãn. Đoạn tra kiếm vào vỏ, bà nói:
- Thế mới đáng mặt con ta, đáng mặt truyền nhân họ Honiden. Tổ tiên nhà ta sẽ hãnh diện ...
Matahachi ôm đầu, thiểu não:
- Mẹ có chắc không ?
- Con đi ngay đi. Nó đợi dưới kia ... Nhanh lên.
- Hừ ...
- Để ta viết sẵn phong thư. Khi chặt đầu nó xong, gửi ngay về làng. Mối hận nhà ta thế là trả được nửa. Còn thằng Takezo nữa, được tin con Otsu chết, thế nào nó cũng tìm đến. Thật là Trời Phật giúp ta, anh linh cậu Gon phù hộ ... Nhanh lên con ... Nhanh lên, đừng để nó chạy mất.
- Mẹ đợi ở đây hả ?
- Không, ta theo mày nhưng không để nó biết. Ta mà lộ diện nó lại khóc lóc xin xỏ và bảo ta trái lời hứa với nó, không được.
- Nó yếu đuối, không có gì tự vệ, giết nó dễ quá mà - Matahachi vừa nói vừa thong thả đứng dậy - Mẹ cứ ngồi đây, con sẽ chặt đầu nó mang lại.
- Mày dại lắm. Phải đề phòng chứ. Nó tuy là con gái nhưng thấy dao đâm tất cũng biết phản ứng. Cứ để ta đi sau trông chừng.
Matahachi chậm rãi xuống đồi. Bóng cây chỗ đậm chỗ nhạt, lòng hắn rối bời, chẳng biết xử trí ra sao.
- Nhớ đấy ! Phải cẩn thận.
Matahachi dừng lại.
- Ngã ba đường mãi tít dưới kia. Sao mày đi chậm thế ?
- Mẹ cứ để yên, con biết rồi. Nếu mẹ muốn đi, sao không đi đi. Con người ta chứ đâu phải con chó con mèo mà giết dễ dàng. Phải tìm kế chứ.
- Được rồi ! Ừ thì mày tìm kế. Ta ngồi đợi đây vậy.
Một con chim lợn bay ngang, kêu “éc”. Vài tiếng cú rúc đằng xa. Matahachi lặng lẽ lẩn vào bóng tối.
oo Otsu ngồi đợi ở ngã ba đường. Vòng ánh sáng chiếc đèn ***g để bên soi rõ tảng đá chỗ nàng ngồi và làm đêm tối xung quanh nàng càng sâu thẳm. Mượn cơ hội này, nàng định bỏ trốn, nhưng thấy hành động như thế chẳng giải quyết được gì, lại uổng công chờ đợi bao nhiêu ngày nay để gặp Matahachi, nên thôi.
Một mình nghĩ miên man, Otsu nhớ đến Miyamoto Musashi, hồi tưởng lúc còn ở trên đồi Nakayama và bên cầu Hanada. Dễ có đến bốn năm năm qua rồi, nhưng mối tình của nàng đối với Miyamoto Musashi không phai nhạt, có phần còn sâu đậm hơn. Mặc dầu đôi khi Otsu buồn giận vì tưởng như bị ruồng rẫy, nhưng trong thâm tâm, nàng vẫn hy vọng và tin tưởng vào lòng chung thủy của người yêu. Sự tin tưởng ấy giúp nàng thêm can đảm, nhờ vậy lúc này ngồi giữa rừng trong đêm tối, nàng không chút sợ hãi. Mối tình của nàng đối với Miyamoto Musashi chẳng khác gì những vì sao kia, mây âm u dù có che khuất, nhưng vì sao vẫn còn đó.
- Otsu !
Otsu giật mình:
- Ai đó ?
Nàng nhớn nhác nhìn quanh. Đêm đen vẫn dày đặc. Nàng cầm đèn giơ cao, banh mắt soi mói từng lùm cây trong bóng tối. Không thấy gì khác lạ mà cũng không có tiếng đáp. Otsu tưởng mình mê và tiếng gọi vừa rồi chỉ là ảo giác. Tuy vậy nàng cũng cứ hỏi lại:
- Ai đó ?
- Matahachi ! Honiden Matahachi !
Otsu thở phào mừng rỡ:
- Matahachi hả ? Chàng ở đâu, tối quá chẳng thấy gì hết !
- Otsu quên giọng nói của ta rồi sao ?
- Quả có khác. Chàng đứng đâu, sao không ra chỗ đèn sáng này ?
Tiếng thở dài rồi một bóng người từ sau gốc cây bước tới:
- Ta thẹn quá, chẳng muốn gặp. Không biết Otsu có tha thứ cho ta không ?
Otsu không đáp. Nàng trừng trừng nhìn Matahachi:
- Chàng gầy đi nhiều nhỉ ? Chàng đã gặp bá mẫu chưa ?
- Đã. Bà đang đợi trên kia. Ta nhớ Otsu lắm, không ngày nào không nghĩ đến nàng.
- Bá mẫu có nói chuyện gì cho chàng biết không ?
- Có, nói cả rồi.
Otsu mừng thầm. Như vậy, Matahachi đã biết ý định của nàng, khỏi phải giải thích lôi thôi và tránh được bối rối cho cả hai người. Nàng vui vẻ:
- Thế thì hay lắm. Chúng ta quên chuyện cũ đi, chẳng qua đó chỉ là điều nhầm lẫn lúc thiếu thời ...
- Otsu ! Sao nàng lại nói thế ?
Matahachi ngạc nhiên lắc đầu và hơi nghi mẹ đã không kể hết cho mình nghe những điều xảy ra. Tuy vậy, hắn cứ tiếp:
- Làm sao quên được ! Hình ảnh nàng luôn luôn hiện ra trong trí óc ta. Cả khi ngủ, ta cũng chiêm bao thấy nàng !
Otsu cúi đầu, nhỏ nhẹ:
- Matahachi ! Chàng với thiếp không cùng một tâm sự. Chàng nên hiểu. Hai ta cách biệt nhau xa quá.
- Ừ ! Năm năm rồi còn gì, thời gian ấy chẳng bao giờ trở lại.
- Phải rồi ! Đã năm năm. Chúng ta không còn những tình cảm như xưa nữa.
- Không ! Nàng lầm ! Chúng ta vẫn có thể tìm lại được những tình cảm như xưa chứ, nếu ta muốn. Năm năm qua, thôi coi như bỏ, bây giờ hãy bắt đầu lại ...
- Không được. Sợi dây đứt nối lại vẫn còn có cái gút. Tình yêu không còn nữa, vĩnh viễn không còn. Thiếp nói đến cách biệt không phải chỉ thời gian mà là cái hố sâu, cái vực thẳm nó ngăn cách chàng và thiếp, không tài nào lấp được, không cầu nào bắc qua được.
- Ta hiểu nàng còn giận ta lắm. Ta có lỗi với nàng rất nhiều, nhưng tuổi thanh niên bồng bột, mấy ai không thế !
Otsu thở dài.
- Otsu ! Otsu ! Ta xin lỗi. Ta là nam nhi mà phải quỳ xin lỗi nàng như thế này, nàng chẳng thương ta ư ?
Nhìn con người không có khí phách quỳ bên cạnh, lòng khinh rẻ khiến Otsu lúng túng.
- Là nam nhi mà chàng xử sự không đáng nam nhi.
- Otsu ! Ở đây nói chuyện lâu không tiện. Nàng hãy theo ta, trốn bà cụ đi, chúng ta đến một nơi khác làm lại tất cả ...
Nói đoạn cầm tay Otsu, nhưng nàng giật ra:
- Đừng chạm vào thiếp ! Thiếp thà chết ...
Trước lời nói quyết liệt và nét mặt lạnh lùng của Otsu, Matahachi sửng sốt, nghẹn lời. Cơn giận tràn đến.
- Nàng nhất định không đi ?
- Không !
- Không theo ta ?
- Không.
- Vậy nàng yêu thằng Takezo hả ?
- Dĩ nhiên ! Mẫu thân chàng đã nói cho chàng biết rồi. Ta yêu Takezo ở kiếp này và còn ở những kiếp sau nữa, mãi mãi ...
Matahachi run bần bật, mặt tái nhợt:
- Nàng sẽ hối hận vì câu nói ấy.
Một lúc sau, lấy lại được bình tĩnh, hắn tiếp:
- Có phải Takezo bảo nàng nói câu ấy cho ta biết không ?
- Lầm ! Takezo không bảo ta phải làm gì hết.
- Otsu ! Sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn. Nó có lòng tự ái thì ta cũng có lòng tự ái. Ta cấm nàng gặp nó.
- Quyền gì ngươi cấm ?
- Nàng là con dâu nhà Honiden. Cả làng Miyamoto, ai cũng biết.
- Thế a ? Vậy ai gửi thư từ hôn năm năm trước ?
- Ta không biết. Ta đâu có viết thư gì ! Đấy là Oko tự tay viết rồi gửi.
- Matahachi ! Không ngờ ngươi vô sỉ, hèn mạt đến thế. Một trong hai lá thư rõ ràng mang bút tích và chữ ký của ngươi, bảo ta quên ngươi đi và hãy lấy người khác.
- Bằng chứng đâu, đưa xem ...
- Vất đi rồi. Takuan đọc xong lấy hỉ mũi và vất thùng rác rồi !
- Vậy là vô bằng cớ ! Cả làng đều biết nàng là vị hôn thê của ta. Nàng phải là vợ ta !
- Matahachi ! Ngươi tự hào là nam nhi mà gian dối bất nghĩa. Không người đàn bà nào muốn lấy một đứa gian dối làm chồng !
- Nàng hãy giữ mồm miệng !
Rồi nắm vạt áo Otsu.
- Bỏ ra !
Matahachi rút kiếm. Khi kiếm đã rút khỏi vỏ, hắn không còn tự chủ được nữa.
Mắt lộ hung quang, Matahachi tựa con thú dữ, vung tay chém xuống. Otsu vô cùng kinh hãi, giật mạnh vạt áo, lưỡi kiếm chém hụt dội vào thân cây tuột khỏi tay hắn. Cây đèn tắt ngấm. Bóng tối như tấm màn che chụp lên mọi vật. Nhất thời không ai trông thấy gì cả, chỉ nghe tiếng Matahachi văng tục, cành khô gãy rào rạo và tiếng chân sột soạt.
Khi Matahachi nhặt được kiếm lên thì Otsu đã biến mất.
Theo con đường đá dốc, bà Honiden lật đật chống gậy xuống núi, gặp con trai đang hớt hải trèo lên, tay còn lăm lăm cây kiếm.
- Mày chưa giết được nó à ?
- Nó chạy mất rồi.
- Thằng vô tích sự ! Đồ vô dụng !
Vừa hét bà vừa vung gậy đánh Matahachi. Matahachi trốn sau gốc cây. Thấy có bóng đen thấp thoáng giữa những lùm bụi, nhanh mắt, hắn trông thấy la lớn:
- Kìa ! Nó kia kìa ! Con đuổi theo, mẹ đón đầu nó phía này.
Bóng đen phân vân, đổi hướng. Cả hai mẹ con lại hè nhau đuổi, bỗng mất hút không thấy bóng đen đâu nữa.
Chỗ ấy cành nhỏ dày chi chít, cỏ gianh mọc cao đến gần đầu mà đất lại ẩm ướt.
Có lẽ là bờ suối vì tiếng nước đổ ào ào nghe gần lắm. Đột nhiên bà Honiden reo lên:
- Matahachi ! Đúng nó đấy ! Cái gì trăng trắng sau mày đấy ?
Matahachi quay lại, quả nhiên thấy có hình người nằm sóng soài bên đám sậy.
- Giết đi ! Phóng gươm ra còn đợi gì nữa, thằng vô tích sự !
Matahachi như cái máy, nắm đốc kiếm vào hai tay đâm mạnh xuống. Phụp !
Máu phun có vòi bắn cả vào mặt.
Hắn rút kiếm đâm thêm nhát nữa.
- Này hèn ! Này bất nghĩa ! Quân yêu nữ ! Dâm phụ !
Cứ mỗi câu, Matahachi lại đâm một nhát. Hắn say máu, phóng kiếm loạn xạ không còn biết vào những chỗ nào nữa.
Hình người nằm dưới đất chẳng phản ứng gì mà cũng chẳng kêu la. Chỉ nghe tiếng bà Honiden hô:
“Giết ! Giết !” và tiếng hắn thở hổn hển. Đến khi tay hắn tê chồn và thanh kiếm gẫy đôi, Matahachi mới ngưng lại.
Toàn thân hắn run lẩy bẩy, mắt đổ hào quang. Matahachi trừng trừng nhìn cái xác dưới chân. Thế là hết. Xong.
Bà Honiden cũng không một lời. Im lặng. Im lặng hoàn toàn, không cả tiếng côn trùng khóc dưới cỏ. Đêm sâu càng thêm sâu và trên trời, sao vẫn nhấp nháy.
Lát sau, khi bà Honiden tìm được cây nến đánh lửa châm lên, Matahachi mới như người tỉnh mộng. Nhìn tay và ngực áo nhớp nháp, mùi máu tanh nồng nặc, hắn kinh sợ lạc thần:
- Trời ơi ! Otsu ! Otsu ! Ta giết nàng rồi !
Rồi vứt kiếm, bưng mặt khóc rưng rức.
Con gió thổi qua, ngọn nến tắt phụt. Bà Honiden rùng mình. Trong một thoáng, nhìn Matahachi ôm mặt bê bết máu đứng dưới ánh lửa giữa đêm sâu, bà có cảm tưởng như vừa thấy quỷ hiện hình. Bất giác bà lẩm nhẩm một câu chú, khi định thần lại mới lên giọng nói cứng:
- Cái thằng này, nhát như thỏ đế. Giết nó là tốt còn khóc nỗi gì ? Nó phá hạnh phúc, danh dự của mày thì mày phải giết chứ ! Này, cầm lấy gươm, cắt đầu nó đi cho ta!
Nhưng Matahachi vẫn đứng im như phỗng. Đêm tối, có lẽ bà không nhìn thấy những nét hằn học trên mặt con nên bà vẫn tiếp tục đay nghiến.
- Mày không xứng đáng với dòng họ. Mày không cắt đầu nó thì ta cắt !
Đoạn xăm xăm vạch cỏ cúi xuống.
- Mẹ làm gì vậy ? Matahachi hét lớn.
- Cái gì ? Nó không đáng bị lấy đầu hay sao ? Mày còn thương nó hả ?
- Giết nó chưa đủ, bà còn định cắt đầu nó ư ? Sao tàn nhẫn dã man đến thế ?
Bà lão rít lên, sấn lại đánh Matahachi. Hắn tránh khỏi, phẫn nộ la lớn:
- Bà nhân danh những điều đẹp tốt mà giết người, hành động như đồ mọi rợ. Bà cắt đầu nó đi, mang về làng mà lấy tiếng. Tôi đi đây, tôi không nghe bà nữa.
- Mô Phật ! Matahachi ! Mày điên rồi ! Ta vì danh giá nhà mày mà trả thù. Tao sẽ cắt đầu nó để rồi mày xem có khác gì đầu đứa khác không. Chỉ xương với da chứ có gì đâu mà sao mày mê muội đến thế ?
Matahachi định giằng thanh kiếm trong tay mẹ, bỗng khựng lại. Thấp thoáng đằng xa có ánh đèn giữa những lùm cây, tiếng gậy khua và tiếng gọi nhau í ới. Hắn hoảng sợ, lau mau tay vào vạt áo rồi bỏ bà lão, vội vã lẩn vào bóng tối.
- Matahachi ! Mày đi đâu ?
Bà Honiden chạy theo, nhưng nghĩ sao lại quay lại. Hối hả quỳ xuống chân cái xác người bà lờ mờ thấy nằm sóng soài trong đám cỏ bị dẫm nát lẫn với lá khô, cành gẫy. Bà lẩm bẩm:
- Otsu, đừng oán ta. Bây giờ ngươi đã về cõi vô minh thì ta với ngươi không còn thù hằn nữa. Ta cầu cho vong hồn ngươi được siêu sinh tịnh độ. A di đà Phật !
Rồi tay nắm tóc, tay cầm kiếm, bà cắt ngay lấy thủ cấp người bạc mệnh.
oo Tiếng chân người mỗi lúc một gần. Lính quýnh không biết xoay sở ra sao, bà Honiden đứng lên xách chiếc thủ cấp chạy. Nhưng đã muộn. Mới vài bước đã có kẻ trông thấy, rồi ba bốn bóng đen đuổi theo vây quanh lấy bà kêu lớn:
- Đây rồi ! Có người trên này. Mang đèn lại đây mau !
- Cái gì thế ? Bà Honiden quát. Tránh ra ! Các ngươi làm gì vậy ?
- Ủa, ai nhưng tiếng lão bá trọ Ở quán ?
- Chính thị.
- Lão bá làm gì trên này ?
Người mang đèn tới, theo sau là một nhà sư dáng quắc thước, áo chùng màu nâu già, nón nan che kín mặt.
- A di đà Phật ! Bà Honiden ở Miyamoto đó phải không ?
- Đại sư là ai, sao biết tên ta ?
Nhưng thay vì trả lời, nhà sư lại hỏi:
- Otsu đâu ?
Nghe nhắc đến tên Otsu, bà Honiden mới sực nhớ. Trông xuống, tay bà vẫn giữ chiếc thủ cấp máu còn rỏ giọt. Chiếc thủ cấp da mặt xám ngoét, mắt trắng dã, loang lổ những máu và đất. Mọi người giật mình kinh hãi lùi xa mấy bước.
Bà Honiden giơ cao thủ cấp lên, nhếch mép định nói câu gì, bỗng ngừng bặt trợn mắt:
- Ối ! Không phải đầu con Otsu.
Rồi vất thủ cấp xuống, bà trừng trừng nhìn theo run lẩy bẩy:
- Matahachi ! Lầm rồi ! Lầm rồi ! Người này là ai thế này ?
Tiếng bà lẫn trong hơi thở khò khè như người suyễn. Bà nhìn lên. Nhà sư đã bỏ nón ra từ bao giờ, sừng sững đứng trước mặt. Ông nghiêm khắc hỏi:
- Thí chủ nhận ra bần tăng là ai không ?
Như kẻ mất hồn, bà ú ớ:
- Takuan ! Sao thầy lại ở đây ?
- A di đà Phật ! Bần tăng ngẫu nhiên đi qua làng Sannen này và tình cờ cũng được biết thí chủ và Otsu cùng ở quán Đại Lộc. Thí chủ dẫn Otsu đi đâu, phải chăng có ý định giết nàng.
- Phải.
- A di đà Phật ! Lòng từ bi của Đức Phật vô bờ, nhưng tội nghiệt này của thí chủ thật khó tha thứ. Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Thí chủ hãy nghĩ kỹ:
giết Otsu có vãn hồi được danh dự của thí chủ không, hay chỉ làm cho danh dự ấy thêm nhơ nhuốc ? Giết Otsu có mang lại hạnh phúc cho con thí chủ không hay chỉ làm cho nó thêm đau khổ ? Ý định sát nhân của thí chủ không phải là phương cách vẹn toàn, huống chi còn gây thêm cái chết tức tưởi cho kẻ vô tội này nữa. A di đà Phật ! Bần tăng xin Đức Phật nhiệm mầu ban ơn soi sáng để thí chủ sơm hối ngộ.
Lời thuyết nghiêm nghị của Takuan thiền sư vang lên trong đêm tịch mịch khiến mọi người im lặng cúi đầu. Nhưng chẳng lung lạc được bà Honiden. Quan niệm về gia đình, hạnh phúc, danh dự đảng tộc là những thành kiến thâm căn cố đế, nó đã ăn sâu vào tâm thức bà từ nhỏ, không thể nhất đán một sớm một chiều bỏ đi được. Miyamoto Musashi và Otsu, hai kẻ đã xâm phạm vào bức thành trì kiên cố ấy, đã làm nhục dòng họ bà, bà coi như kẻ thù không đội trời chung. Nên bà phản ứng quyết liệt:
- Xì ! Thầy biết gì về gia đình với hạnh phúc ? Thầy có gia đình không ? Ở thì ở chùa, ăn cơm thí, ỉa đồng, áo quần vá táp nham tứ thời một manh, thầy biết gì về tình mẹ con, về danh dự gia tộc mà nói ? Có bao giờ thầy biết đến những khó khăn của người dân mang cơm cho thầy ăn đâu ! Trước khi thuyết cho người khác nghe, thầy hãy tự kiếm sống lấy cái đã. Nói thì hay lắm, nhưng vô tích sự.
Lời đối đáp của bà Honiden làm mọi người mỉm cười, kể cả Takuan. Tuổi tác đã không làm bà bớt đi sự ác độc trong lời nói. Bà vẫn cay nghiệt như xưa. Takuan lắc đầu bảo người trong bọn:
- Bác nào dẫn bà lão về quán. Nhớ cầm đèn theo kẻo vấp ngã.
- Cám ơn, ta không cần. Ta về một mình cũng được. Cho ta mượn cái đèn.
Một số người ở lại, bọc chiếc thủ cấp, rồi lần theo vết máu tìm đến thi thể kẻ bất hạnh.
- Quán chủ có biết người này là ai không ?
Takuan hỏi.
- Bây giờ còn tối không rõ được. Nhưng trông dáng dấp gầy mà cao thế này thì có lẽ là tên say rượu vẫn đến ngủ nhờ ở cổng ngoài miếu sơn thần. Hắn tên Akakabe Yasoma, trước sống ở chợ, ngoại thành Kyoto, ưa lừa đảo ăn quỵt nên ai cũng ghét.
- Chúng sinh thật nhiều oan nghiệt, không hiểu vì cớ gì lại để cho bà Honiden cắt đầu như vậy. Quán chủ hãy vì bần tăng cho người khiêng giúp lên miếu, sáng mai ta sẽ xin vị trụ trì một cái lễ và chôn cất hắn tử tế kẻo tội nghiệp.
Bỗng có tiếng kêu rối rít:
- Đại sư ! Đại sư ! Đậy lại có xác chết nữa !
Mọi người lật đật cầm đèn chạy đến.
- Ô ! Một thiếu nữ. Nàng chết rồi à ?
- Không. Chưa. Chỉ mới ngất đi thôi.
Hết chương 38.
-
CHƯƠNG 39
ÁNH TUYẾT
Miyamoto Musashi đi bộ dọc theo bờ sông, lững thững hướng về phía Kyoto. Hắn nghĩ tới lời cha dặn. Cho đến lúc chết, cha hắn, ông Munisai luôn luôn nhắc hắn phải ghi nhớ công nghiệp hiển hách của tiền nhân. “Ta tuy chỉ là kiếm sĩ quê mùa ở một làng hẻo lánh miền chân núi, nhưng con chớ quên con thuộc dòng dõi Shinmen, một dòng dõi đã từng nêu nhiều chiến tích anh dũng và góp phần xây dựng nên xứ sở này. Con nên tự hào về công nghiệp ấy và phải cố noi theo”.
Những lời trối trăn ấy của cha lúc lâm chung còn như vang vọng bên tai Miyamoto Musashi vừa bùi ngùi vừa cảm khái. Lại nghe nói tại ngã ba sông Kogawa, chỗ hợp lưu của hai dòng suối lớn trước khi đổ vào đại hà chảy ra biển, còn lưu lại di tích một căn nhà và một ngôi cổ miếu. Căn nhà này thuộc dòng họ Shinmen do tổ phụ hắn dựng lên đã lâu đời, có đến hàng mấy trăm năm trước.
Tiện dịp qua đây, hắn muốn viếng thăm cảnh cũ để biết thêm về nguồn gốc của mình, xem những di vật của tiền nhân và vào miếu thắp hương tưởng niệm. Nhưng đến nơi chẳng thấy nhà cửa gì. Hỏi thăm, không ai rõ. Có lẽ nhà xưa, miếu cũ, không chịu nổi sự tàn phá của thời gian, đã sụp đổ rồi; người ta dọn dẹp cày bừa san bằng thành ruộng.
Sự thay đổi sao mà nhanh chóng quá ! Cả một quá khứ oai hùng tan đi không dấu vết. Còn lại, họa chăng chỉ mình hắn, kẻ thừa kế độc nhất và cô đơn của một dòng họ bị quên lãng.
Miyamoto Musashi tần ngần đứng nhìn dòng nước chảy miên man. Rồi thất vọng, hắn bỏ đi, tiếp tục men theo đường ven sông đến khu ngoại thành, không chủ đích.
Lững thững tản bộ trên những con đường ngoại ô vắng vẻ, Miyamoto Musashi đảo mắt nhìn quanh. Rặng liễu trông bên con lạch nhỏ thưa dần. Thay vào đấy, một vài căn nhà gỗ ẩn hiện sau những mảnh vườn xinh xắn bên hàng dậu xanh hoặc sau những cây tùng thấp lè tè thân uốn éo như trong tranh vẽ.
Đến gần một gốc liễu to mọc trên bờ lạch, rễ xù xì bò ngoằn tựa đàn rắn, Miyamoto Musashi tháo hành trang ngồi nghỉ.
Cuối xuân, lá liễu dài xanh biếc rủ xuống trước mặt như tấm mành. Cơn gió thoảng qua, mành liễu rung động. Một mình ngồi không biết làm gì, hắn phóng kiếm cắt từng lá liễu, trước chậm sau mau, rồi xoay cườm tay hươi kiếm ngược lên chẻ đôi nhành liễu. Bất giác hắn nghĩ đến chiêu “hiết liễu kiếm”, một chiêu kiếm được truyền tụng trên giang hồ, do một cao thủ phát huy và khai triển. Nếu quả thật có chiêu kiếm như vậy thì cũng đáng công nghiên cứu lắm, vì nếu ta coi những nhành liễu rung động kia là kẻ địch bao vây tứ phía thì chẻ đôi chúng ra đúng lúc mà chính xác chẳng phải dễ dàng gì. Hắn tự hứa có dịp sẽ tìm hiểu rõ hơn về chiêu thức ấy và người đá phát minh ra nó.
Nhìn con lạch nông, nước lờ đờ chảy dưới chân, Miyamoto Musashi ngạc nhiên.
Nước con lạch như phân đôi ra hai luồng, bên trong bên đục. Hắn đồ chừng phía thượng nguồn có người làm nghề phiếu lụa hoặc mài kiếm nên xả nước đục ra như vậy.
Đang phân vân, bỗng thấy một bà lão đi qua. Hắn nhận ra thân mẫu Koetsu, nhà luyện kiếm đã gặp và cùng uống trà trên đồng Rendaiji ngày nào. Vừa hay, bà cụ cũng nhận ra hắn. Bà mừng rỡ kêu lên:
- Ồ tráng sĩ ! Hân hạnh quá ! Chắc tráng sĩ đương muốn tìm ngõ Honami ?
Bà tưởng Miyamoto Musashi muốn đến thăm bà và Koetsu, nên không để cho hắn kịp đáp, bà tiếp ngay:
- Tệ xá cũng gần đây thôi. Mời tráng sĩ theo lão.
Trước sự ân cần ấy, hắn không muốn và cũng chẳng có lý do gì từ chối, bèn cúi đầu cảm ơn rồi vui vẻ đeo hành trang lên vai theo bà cụ.
Trại Honami bên ngoài trong khiêm nhượng, nhưng bên trong càng vào sâu càng rộng. Ngay cổng vào là một khu vườn trồng toàn trúc xanh, tùng biếc lẫn với những hàng phong, cành dày chi chít đan nhau như một khu rừng nhỏ. Bấy giờ, trên cành, lá non mới nhú, nhưng theo lời bà cụ, đến mùa thu lá phong rực rỡ ánh lên dưới nắng, trông chẳng khác gì rắc vàng. Bởi thế mới có tên “Honami” (ngõ phong vàng) và chủ nhân trại còn được gọi là Honami tiên sinh.
Trong trại có nhiều nhà, chia thành từng khu vực thuộc gia đình Koetsu và gia đình các biểu huynh, biểu đệ Ông. Họ quây quần với nhau, cùng làm nghề đúc và mài kiếm.
Một con suối từ chân núi chảy sát khuôn viên, Koetsu lợi dụng tiện nghi ấy, khơi thêm nhiều mạch nước dẫn quanh co khắp trại. Mạch dùng lấy nước pha trà, mạch dùng nấu ăn tắm giặt, mạch dùng cho lò luyện kiếm.
Kiến thức luyện kim của Koetsu thâm diệu, kinh nghiệm của ông ít người bì kịp, ông lại có tài tổ chức, nên tuy khách đặt hàng nhiều mà ông vẫn đủ thì giờ rảnh rỗi, lúc uống trà, khi ngắm cảnh, đọc sách. Cũng như phần đông các nhà kỹ nghệ và thương gia đương thời, ông xuất thân từ một gia đình kiếm sĩ. Trong cuộc tranh chấp sứ quân, vì không muốn đứng hẳn về phe phái nào, một số kiếm sĩ đã rửa tay treo kiếm, theo đường doanh nghiệp. Riêng Koetsu chọn kỹ thuật luyện kim và chuyên hẳn về ngành đúc kiếm.
Lẽ dĩ nhiên, làm nghề tự do thì địa vị xã hội không được bằng địa vị kiếm sĩ, nhưng cuộc sống đỡ bấp bênh và nguồn lợi dồi dào hơn. Vả nhờ tại học và tiền bạc, đám thương gia tuy không nắm được những địa vị then chốt, lại rất có thế lực và được trọng nể.
Thấy mẹ dẫn Miyamoto Musashi vào, Koetsu chạy ra nghênh tiếp. Hàn huyên xong, ông tạ khách:
- Tráng sĩ thứ lỗi. Lão phu hiện đương bận trông thợ đúc một thanh kiếm đặc biệt nên xin để mẫu thân hướng dẫn tráng sĩ đi xem trang trại. Xin tráng sĩ cứ tự nhiên, chiều nay xong, ta tha hồ chuyện phiếm.
Lời nói của Koetsu thành thật, khách dù dễ mếch lòng đến đâu cũng không thể giận.
Miyamoto Musashi theo Koetsu lão bà, đi một vòng quan sát xưởng đúc kiếm, xưởng nung đồ gốm, thư khố, phòng làm sơn mài. Hắn rất thích thú, không ngờ danh bất hư truyền, Koetsu là người đa tài mà ngành gì ông cũng tỏ ra xuất sắc.
Bà cụ còn pha trà, làm bánh, vừa làm vừa trò chuyện với hắn, coi hắn như người nhà. Trong bầu không khí cởi mở ấy, hắn thấy dễ chịu vô cùng. Những lời thân mật đầm ấm của Koetsu lão bà gây trong lòng hắn một cảm giác yên vui, cái cảm giác hắn chỉ có xưa kia khi còn ở bên cạnh mẹ và chị.
Thấm thoắt đã bốn ngày trôi qua, Miyamoto Musashi ở trại Honami. Ban ngày sau buổi tập dượt sáng, hắn ưa ra vườn tản bộ, vào thư khố đọc sách hoặc có khi đến xưởng luyện kim xem xét và đàm luận kiếm học với Koetsu. Kiến thức của hắn vì thế cũng phong phú thêm, và điều làm hắn sảng khoái hơn cả là luôn luôn hắn có sự quân bình về tinh thần với thể chất.
Nhưng sợ Ở lâu không tiện, Miyamoto Musashi ngỏ ý cáo từ. Thì Koetsu đã khoát tay ngăn lại:
- Trạng sĩ chẳng nên làm thế, phụ lòng hiếu khách của lão phu. Nếu tráng sĩ ở đây thấy buồn, muốn ra đi, lão phu chẳng dám giữ. Nhưng nếu không chê nơi này hủ lậu, xin lưu lại ít lâu nữa. Trên kệ thư phòng còn nhiều sách đáng đọc. Vài ngày nữa, lão phu lại định nung đôi cái bát sành để thử nghiệm chất men mới chế. Tráng sĩ ở lại mà xem.
Nặn đồ gốm cũng thú vị đáo để, chẳng kém gì rèn kiếm. Nếu muốn, tráng sĩ cũng nên làm vài cái cho vui.
Ai mà có thể từ chối những lời mời mọc chí tình đến thế ? Miyamoto Musashi chỉ còn biết cúi đầu vâng lệnh.
Trong thư phòng treo nhiều tranh đẹp, cổ họa thời Kamakura, liễn mang thủ bút của Vương Hi Chi đời Tấn. Có một bức, Miyamoto Musashi ngắm mãi không chán. Bức tranh nhan đề “Hạt dẻ” do Tống Lương Khải vẽ. Nó nhỏ thôi, chỉ bằng cái mặt bàn thấp, giấy cũ, có lẽ trước đây màu vàng nhưng bây giờ đã thành nâu sẫm. Nhưng Miyamoto Musashi thích quá chừng, gần như bị mê hoặc. Hắn nói với Koetsu:
- Tiền bối vẽ tranh, chưa chắc mấy người được bằng. Riêng tại hạ, chỉ mong sao có được những nét bút đơn giản như trong tranh này mà thôi.
Koetsu cười:
- Lão phu lại nghĩ khác. Tranh lão phu, ai học cũng có thể vẽ được, miễn tập cho thuần. Nhưng riêng nét bút của Tống Lương Khải thì khác lắm. Tập không được mà phải có thiên phú. Nét vẽ Tống Lương Khải sinh động vô cùng mà ý tưởng thâm trầm, dùng kỹ thuật không, không đạt được.
Miyamoto Musashi xem lại bức tranh. Trên tranh vẽ một con sóc trầm ngâm nhìn hai trái hạt dẻ, một trái còn nguyên vỏ, một trái vỏ đã nứt đôi để hở nhân bên trong. Con sóc dáng sợ hãi, phân vân. Nỗi băn khoăn của nó lộ trên đôi mắt đen nhánh, đôi chân trước chụm vào nhau và cái đuôi dựng ngược. Bộ lông mềm gió tạt sang bên. Tất cả những ý đó được thể hiện bằng vài nét thủy mặc đơn sơ, thoạt trông thì ngây ngô, nhưng càng nhìn càng linh hoạt và buộc người xem phải suy nghĩ về ý nghĩa tác giả muốn phô diễn.
Miyamoto Musashi gật gù:
- Tiền bối nói rất phải !
Hôm sau, Koetsu vào thư phòng, lại bắt gặp hắn đang ngồi trước bức tranh ấy. Ông cười:
- Vẫn còn mê bức tranh của Tống Lương Khải ? Có vẻ tráng sĩ thích họa phẩm này lắm ? Vậy lão phu xin tặng đấy, khi nào đi thì cuốn lại mang theo.
Miyamoto Musashi phản đối:
- Tiền bối nói đùa. Đây là một tác phẩm vô giá, không chừng là vật gia bảo, tại hạ đâu dám vô lễ thế.
Nhưng Koetsu nghiêm trang:
- Lão phu nói thật. Tráng sĩ thích thì cứ lấy. Thực ra lão phu còn nhiều tranh khác.
Tranh phải để cho người thích thưởng ngoạn nó sở hữu mới đúng. Lão phu chắc họa sĩ khi vẽ tranh này cũng muốn thế.
- Vậy tại hạ lại càng không nên lấy - Hắn cười - thích thì có thích nhưng thì giờ đâu mà ngắm và treo ở đâu mà ngắm ? Tại hạ chỉ là một lãng tử nay đây mai đó, chẳng biết đâu là định sở, đến thân này còn không chắc bảo toàn được thì một họa phẩm quý giá như tranh kia mang đi càng thêm bận !
Koetsu thở dài ảo não:
- Có lẽ tráng sĩ chẳng muốn điều gì hệ lụy. Ở tuổi tráng sĩ, chắc cũng chẳng muốn có nhà làm gì, nhưng theo ý lão phu, ai cũng nên có một chỗ ở riêng biệt, dù đó chỉ là một túp lều. Không có nó, ta sẽ cảm thấy trơ trọi, như bị ruồng bỏ. Sự trơ trọi về vật chất cũng có thể dồn ta vào sự cô đơn tinh thần đấy ...
- Tại hạ chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy. Ước mong của tại hạ là được đi đây đi đó, khắp nơi trên xứ sở này, ngủ dưới bóng cao sơn, nằm trên bờ đại hải, trau dồi kiếm đạo và khi cần, đem chút tài mọn của mình ra giúp người cô thế. Có lẽ trong thâm tâm, tại hạ chỉ muốn làm một kẻ suốt đời phiêu lãng.
- Cũng là thường tình ! Tuổi trẻ nào mà chẳng vậy. Nhưng không nên tưởng rẳng giấc mơ của mình chỉ thực hiện được ở những vùng xa xôi, chân trời góc bể. Nếu nghĩ như thế, ta sẽ xao lãng việc giải quyết ngay những vấn đề trước mắt. Đa số thanh niên đều có những ý tưởng không thực tế, lão phu sợ rằng vì thế mà khi thất bại, họ bất mãn với cuộc sống.
Rồi Koetsu cười ha hả:
- Lão phu e đã lạm bàn mất rồi ! Thôi ta quên chuyện ấy đi. Hôm nay lão phu đến đây là có ý muốn mời tráng sĩ đi giải sầu một chút.
- ... ?
- Tráng sĩ đã đến kỹ viện bao giờ chưa ?
- Kỹ viện ở ngoại ô thành Kyoto này ư ?
- Phải. Lão phu có người bạn tên Haiya Shoyu. Ông ta đã có tuổi nhưng tính tình còn trẻ trung ưa đùa cợt. Mới nhận được thư ông ấy hẹn tối nay xuống xóm Rokujo.
Tráng sĩ đi không ?
- Không, tại hạ không hứng.
- Nếu tráng sĩ không muốn đi, lão phu chẳng ép. Nhưng thiển nghĩ chỗ đó cũng có cái hay.
Koetsu lão bà mới bước vào, nghe chuyện, lên tiếng:
- Sao không đi ? Đi đi chứ ! Đi cho biết những điều mình chưa biết ! Haiya Shoyu vui vẻ cởi mở nhưng phong nhã, không làm tráng sĩ thất vọng đâu !
Giọng bà vừa như thúc giục vừa như bắt buộc. Bà sang phòng bên mở tủ lấy hai ba chiếc kimono khác nhau kèm theo thắt lưng hợp với màu áo mang sang. Thường thì các bậc già cả không muốn con cháu mình đến vui chơi ở những nơi trà đình, kỹ viện, nhưng Koetsu lão bà khác hẳn, lại có vẻ hân hoan. Bà háo hức hỏi:
- Nào, mấy màu này tráng sĩ thích màu nào ? Cái này được không ?
Miyamoto Musashi lúng túng:
- Vì lão bá và tiên sinh đã muốn, tại hạ không dám trái ý. Nhưng xin cứ để cho vận y phục cũ. Tại hạ quen rồi, mặc thế này thoải mái hơn.
- Không được ! Tráng sĩ thấy thoải mái, nhưng phải nghĩ đến người khác nữa chứ.
Trong chốn ăn chơi như thế, phải làm như mọi người. Ai đến đó cũng là để quên những điều buồn bực, họ muốn mọi thứ xung quanh đều đẹp mắt, vui tai. Không ai muốn thấy những gì luộm thuộm. Tráng sĩ đừng cho đây là một sự giả trá để che đậy giấu diếm con người thật của mình. Vả lại, những bộ quần áo này có gì là diêm dúa ? Chỉ sạch và đứng đắn thôi. Tráng sĩ mặc vào cho lão coi thử.
Khi Miyamoto Musashi ở phòng ra, Koetsu lão bà cười hớn hở. Bà nghiêng cổ ngắm nghĩa, đi quanh hắn một vòng rồi nói:
- Được lắm. Trông điển trai lắm rồi !
Bà đưa hắn một cây kiếm vỏ nạm ngọc, một cái túi gấm đựng mấy đồng tiền vàng và bỏ vật gì vào tay áo hắn không rõ. Đoạn đẩy hắn ra cửa.
Koetsu thắp hương trên bàn thờ tổ, vái mấy vái rồi cũng ra theo. Koetsu lão bà tiễn chân hai người đến tận sân.
Ngoài hiên, họ xỏ chân vào dép mới do Koetsu lão bà để sẵn và gọi gia nhân ra chờ đóng cổng. Tên gia nhân đến gần lão bà nói nhỏ. Bà giật mình ngước mắt nhìn Koetsu.
- Có chuyện gì vậy thưa mẫu thân ?
- Có ba người ăn mặc theo lối kiếm sĩ đứng chờ ở đầu cổng. Liệu đáng ngại gì không ?
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi có ý hỏi. Hắn đáp:
- Không sao. Chắc họ Ở võ đường Yoshioka. Có thể họ chờ tấn công tại hạ, nhưng tiên sinh thì không can gì. Để tại hạ ra trước.
Tên gia nhân nói thêm:
- Lúc nãy, một trong ba người có hỏi dò tiểu nhân về tráng sĩ Musashi ...
Koetsu nhướng lông mày:
- Thế ngươi bảo sao ?
- Dạ, theo lệnh chủ nhân, tiểu nhân đáp ở đây không có ai tên vậy. Hắn tỏ vẻ giận dữ thì một kẻ trong bọn vội kéo ngay hắn đi, vừa đi vừa bàn với nhau những chuyện gì không rõ.
Miyamoto Musashi đề nghị:
- Vậy để tại hạ đi sau một quãng. Nếu xảy ra chuyện gì liên luỵ đến tiền bối, tại hạ thật ân hận lắm !
Nhưng Koetsu gạt ngang:
- Khách sáo ! Tráng sĩ đừng quan tâm. Bọn đệ tử đường Shijo ấy, lão phu chẳng coi vào đâu đâu ! Thôi ta đi kẻo trễ.
Trời về chiều còn sáng. Cả hai thong dong trên đường nhỏ, men theo lạch nước đến bờ sông chẳng gặp chuyện gì bất trắc. Gió xuân nhẹ mơn man. Mặt nước gợn sóng lăn tăn phản chiếu ráng chiều tím nhạt, hàng liễu xanh biếc, rủ lá tha thướt ven sông, thanh bình và diễm lệ. Cảnh trí tươi mát gây lòng khoái hoạt, Koetsu hát một bài, liên tưởng đến Haiya Shoyu, con người lúc nào cũng vui vẻ cợt đùa như cánh nhạn mùa xuân. Bèn hỏi người bạn trẻ:
- Tráng sĩ nghe danh Haiya Shoyu bao giờ chưa ?
- Chưa. Chỉ mới được tiền bối cho biết lúc nãy. Vị đó thân thế ra sao ?
- Ông ta là bạn của lão phu, tính tình phóng khoáng không câu chấp. Lại ưa đùa cợt và sính làm thơ nữa.
- Ồ ! Vậy ra là một thi sĩ ?
Koetsu mỉm cười:
- Gọi như vậy cũng được, nhưng ông ta không sống bằng nghề cầm bút. Ông ta xuất thân từ một gia đình buôn bán và cũng làm nghề ấy. Nói cách khác, ông ta là lái buôn !
- Cái tên Haiya Shoyu (“chính hành”) không mang nghĩa đó. Chính hành là làm việc chính đính, hành vi của người quân tử ...
- Thì ai cũng nghĩ thế, nhưng hành đây là hành thương. Âu cũng là tiền định. Tổ phụ Ông mang hàng hóa đi bán đây đó và đặt cho ông tên ấy. Ông giữ nghiệp cũ, gặp cơ may, phất lên và tích lũy được một gia sản khá lớn. Bây giờ ông thôi không hoạt động thương mại nữa, mặc cho con cái tự ý điều khiển cơ nghiệp, lui về làm thơ, chơi cây cảnh. Gần đến nhà ông ta rồi đấy. Cái cổng đá lớn bề thế kia chính là cổng nhà Haiya Shoyu.
Mãi trò chuyện với Koetsu, Miyamoto Musashi không ngờ có bọn chừng bốn năm người, y phục ra dáng kiếm sĩ đi xa xa phía sau theo dõi. Ngẫu nhiên ngoảnh lại hắn mới để ý bọn họ chạy nấp vào gốc liễu. Gió chiều bỗng trở lạnh và ẩm. Phía đông, mây đen từng đám đùn lên báo hiệu một sự thay đổi thời tiết đột ngột. Áo hai người bộ hành bay phần phật. Miyamoto Musashi ngạc nhiên thấy tay áo bên trái của hắn không nhẹ nhàng tung bay như tay áo bên phải. Nó nặng nề dường như có đựng vật gì ở trong.
Hắn thò tay vào áo lấy ra một sợi dây da thuộc màu nâu mềm, thứ dây da các kiếm sĩ vẫn dùng để buộc cửa tay trước khi lâm chiến. Hắn sực nhớ đến Koetsu lão bà khi trao áo cho hắn, đã bỏ vật gì vào đó. Chắc là cái này đây. Chỉ có bà mới tế nhị như thế. Lòng yêu thương và sự ân cần của bà khiến hắn cảm động. Nhìn Koetsu, ông vẫn điềm nhiên trò chuyện, Miyamoto Musashi quay lại phía sau mỉm cười bâng quơ với những kẻ theo dõi.
Đến trước nhà Haiya Shoyu, Koetsu gọi cổng. Một tiểu bộc tay còn cầm cái chổi bước ra, mời vào. Ông theo tên bộc đi một quãng ngắn, bỗng có cảm giác khác lạ, quay lại thấy Miyamoto Musashi đang bị bốn kẻ lạ mặt bao vây. Ông dừng lại gọi.
- Tiên sinh cứ đi trước, đừng chờ. Tại hạ theo vào ngay đây !
Koetsu nhíu mày. Nhưng nhìn Miyamoto Musashi, ông chỉ đáp gọn:
- Vậy lão phu đợi tráng sĩ trong nhà. Khi dàn xếp xong việc riêng, xin cứ đi thẳng vào đại sảnh.
Bọn kia gườm gườm nhìn vóc dáng cao lớn của nhà kiếm sĩ trẻ tuổi.
- Các ngươi là ai, muốn gì ?
Miyamoto Musashi điềm tĩnh hỏi.
Một kẻ nói:
- Phải chăng ngươi là Miyamoto Musashi ở Miyamoto ?
- Phải.
- Ta là Yoichibei, phái Yoshioka. Chúng ta đến gặp ngươi không có ý định thù nghịch, chỉ muốn trao cho ngươi phong thư của Yoshioka thiếu gia.
Đoạn đưa một cuộn giấy niêm sẵn.
Miyamoto Musashi đón cuộn giấy, đôi mắt sắc như mắt chim ưng không ngớt dò xét bốn kẻ đứng vây quanh và tay không rời đốc kiếm. Hắn bật niêm, mắt liếc nhanh trên những cột chữ lớn rồi gật đầu:
- Được lắm !
- Ngươi phúc đáp ngay để ta về bẩm với thiếu gia.
- Dĩ nhiên ta nhận.
- Ngươi nhận ? Chắc không ?
Miyamoto Musashi quắc mắt:
- Ngươi cho là chuyện này là đùa chăng ?
Thái độ Miyamoto Musashi làm Yoichibei không nghi ngờ gì nữa. Gã thêm:
- Ngươi nên biết từ bây giờ đến lúc ấy chẳng còn bao lâu ...
- Ta sẵn sàng ! Ngay bây giờ cũng được !
- Vậy tốt ! Tối nay cuối giờ tuất, Yoshioka thiếu gia sẽ gặp ngươi tại cổng này.
- Không được ! Ta không muốn làm phiền những người bạn tốt trong nhà này. Vả chăng, ta cũng sắp đến xóm Rokujo giải trí.
Yoichibei ngạc nhiên:
- Xóm Rokujo ?
Nhưng Miyamoto Musashi đã điềm nhiên đi thẳng qua cổng. Câu nói sau của môn đệ Yoshioka chỉ làm hắn mỉm cười.
- Nếu ngươi sai hẹn hay bỏ trốn, đừng mong trở lại Kyoto này nữa !
oo Tư thất của Haiya Shoyu là một thế giới khác biệt hẳn với thế giới xô bồ náo nhiệt ở đô thị. Lối đi từ cổng vào đến tiền đình trải toàn một thứ đá vân đen, xếp đặt công phu nhưng lại có một vẻ tự nhiên như đã được tạo hoá tình cờ đặt lên đó. Hai bên lối đi là những hàng trúc đằng ngà thân thẳng và cao cắt tỉa gọn ghẽ xen lẫn với những bụi trúc đen lùn, lá reo xào xạc mỗi khi gió thổi. Rặng thông cổ thụ xanh um làm bối cảnh phía sau khiến lối đi quanh co càng thêm mát và u tịch. Đi trong khuôn viên một tư thất mà Miyamoto Musashi có cảm tưởng lạc vào một trang viện hay một ngôi chùa cổ kính nào. Mái nhà đại sảnh hơi cong lợp ngói men xanh như bềnh bồng trôi trên những tàn lá. Thật là chỗ ở thần tiên của một cư sĩ giàu có mà sự mưu sinh không còn là một vấn đề phải quan tâm nữa.
Tự sân sau, vang lên những tiếng kêu “bộp bộp” của vợt gỗ đánh vào quả cầu vải trong một trò chơi mới tên là Kemari, được du nhập rất gần đây trong giới quý tộc. Miyamoto Musashi nghĩ, thương gia Haiya Shoyu cũng chơi trò này tất có nhiều liên hệ với giới ấy.
Trong nhà đã lên đèn. Tiểu bộc dẫn khách vào đại sảnh. Nữ tỳ mang trà bánh để lên cái kỷ trước mặt hắn và Koetsu.
- Trời lại trở lạnh nhỉ !
Koetsu định đứng lên khép cửa, nhưng thấy Miyamoto Musashi mãi ngắm nhìn cành mai nở muộn ngoài song nên lại thôi. Ông nhìn ra ngoài:
- Mây đen phủ kín đỉnh Hoài Sơn rồi. Mà gió bấc thổi cũng dữ. Tráng sĩ không lạnh à ?
Miyamoto Musashi cười hồn nhiên:
- Không, tại hạ không lạnh. Nhưng cành mai ngoài kia không khéo gió làm rụng mất !
Người nhà mang lò sưởi tói và khép cửa. Không khí ấm hẳn lên, Miyamoto Musashi cảm thấy thoải mái như khi còn ở nhà Koetsu. Hắn không đả động gì đến chuyện vừa qua mà ông bạn vong niên của hắn cũng không hỏi. Lúc sau, giọng oang oang của chủ nhân đã từ ngoài hiên vọng vào:
- Honami tiên sinh đã đến đấy ư ? Đệ chờ mãi.
Haiya Shoyu bước vào giơ tay khép cửa. Thấy Miyamoto Musashi, ông bỗng khựng lại xin lỗi.
- Lỗi về phần ngu đệ đã không thông báo trước.
Koetsu nói.
Nhưng chủ nhân đã khoát tay và với giọng tự nhiên, vồn vã, ông quay sang hỏi ngay Miyamoto Musashi:
- Tráng sĩ là bạn của Honami tiên sinh thì cũng như bạn của lão phu, đừng nề hà gì. Xin cho biết quý danh tính.
Koetsu đỡ lời:
- Tráng sĩ đây là Miyamoto Musashi, họ Shinmen, quán ở Miyamoto. Cũng có liên hệ với Kaname trong phủ ngày trước.
Haiya Shoyu gầy như hạc, tóc bạc phơ, vóc dáng còn khỏe mạnh nhanh nhẹn.
Ông nói cười sang sảng, giọng ấm và thân mật, không như giọng Koetsu, ôn nhu và hơi kéo dài.
- Ồ thế ư ? Lão phu cũng có biết ông Kaname khi còn phải ra vào trong phủ.
Chẳng hay dạo này Kaname tiên sinh ra sao ?
Trong chuyện thăm hỏi, Miyamoto Musashi chỉ đáp cho đủ lễ, vì hắn cũng chẳng biết gì hơn ngoài lần gặp mặt ngắn ngủi với người chú dượng đêm trừ tịch. Lần tiếp xúc ấy đã để lại trong lòng hắn một kỷ niệm chua chát về tình cốt nhục, hắn chưa quên. Qua câu chuyện với thương gia Haiya Shoyu, hắn lại biết thêm dượng hắn khi làm việc trong phủ, còn là một trong số rất nhiều nha lại đứng ra môi giới giữa giới cầm quyền với các tay phú thương bên ngoài nữa.
Hàn huyên một lúc, Haiya Shoyu xin lui vào nhà trong thay áo.
- Bây giờ đã trễ. Lão phu định đi từ sớm nhưng trông mãi không thấy Koetsu tiên sinh đến. Tối nay trời lạnh hơn bình thường, ta phải dùng cáng chứ không đi bộ được. Để lão phu sửa soạn rồi ta khởi hành là vừa.
Bèn gọi gia nhân khiêng cáng đến.
Lát sau, cả ba người đã ngồi trên ba chiếc cáng do sáu tên phu lực lưỡng khiêng, trực chỉ xóm Rokujo. Đây là lần đầu tiên trong đời, Miyamoto Musashi ngồi cáng.
Đến trường đua ngựa thì trời tối hẳn. Phu cáng dừng lại thắp đèn. Ba chiếc đèn ***g treo trên đầu cáng đong đưa theo nhịp bước, và gió mạnh khiến ngọn lửa mấy lần chực tắt.
Hơi thở của phu cáng đã bắt đầu tỏa ra trắng đục như khói.
- Chà, lạnh dữ !
- Tháng ba gì mà lạ quá ! Chẳng ai bảo là mùa xuân phải không bác ?
Miyamoto Musashi hé rèm nhìn ra ngoài. Xa xa, ánh đèn xóm yên hoa lập lòe ẩn hiện giữa những lùm cây, hắt lên cao thành một vòng sáng mờ mờ dưới bầu trời vần vũ.
Koetsu gọi:
- Tráng sĩ Musashi, chúng ta đến chỗ có ánh sáng đó.
Rồi bảo phu cáng đi chậm lại, song song với cáng của Miyamoto Musashi, ông giải thích:
- Ba năm trước, xóm này ở phố Hoà Ninh gần hoàng cung, nhưng vì ban đêm quá ồn, làm mất trật tự, phiền nhiễu đến hoàng gia nên phải dời ra đây. Xóm này là nơi ăn chơi bậc nhất đô thành, Geisha toàn hạng chọn lọc, những kiểu áo thời trang và những bài ca thời thượng phần lớn đều bắt nguồn từ đó cả. Có thể nói đấy là cái nôi của một trào lưu văn hóa mới.
Nói xong, cười ha hả làm Miyamoto Musashi cũng háo hức và mỉm cười vì lời so sánh.
Gần đến nơi đã nghe tiếng sênh phách đàn ca lẫn tiếng cười nói râm ran theo gió vọng tới.
- Tráng sĩ Musashi ! Có nghe tiếng đàn không ? Shamisen đó ! Đấy là loại nhạc khí mới được canh tân, rập theo kiểu tam huyền mộc cầm ở đảo Ryukyu. Nhiều bản nhạc sáng tác đặc biệt cho loại đàn này rất được ưa chuộng, lão phu đi những trấn xa, hẻo lánh đôi khi cũng nghe thấy, đủ biết nó phổ cập chừng nào và ảnh hưởng của cái xóm yên hoa này quả là mạnh !
-
Ba chiếc cáng dừng lại bên một con đường lớn, khách qua lại tấp nập. Đèn đủ màu, đủ kiểu la liệt treo trên những cành liễu, phản chiếu qua rèm lá xanh non, tỏ a ra một thứ ánh sáng lung linh kỳ ảo trên khắp mọi chỗ, nhà cửa đường phố, trên cả y phục và diện mạo của mọi người. Tuy tên gọi là Rokujo nhưng khu này, từ khi được dời đến đây vẫn còn mang danh cũ là Yanagimachi nghĩa là Xóm Liễu. Chả là vì từ ngàn xưa, liễu vẫn được liên kết với những nơi ăn chơi xa hoa và hành lạc !
Ba người bước qua một cái cổng gỗ to, hai bên treo hai cái đèn ***g thật lớn viết “Quán Ogiya”. Koetsu với Haiya Shoyu cùng là khách quen, chủ nhân chạy ra, các kiều nữ bao quanh chào đón nói cười hân hoan không sao tả xiết. Ở đây, mỗi người đều có một biệt danh, do các nàng đặt ra căn cứ trên những nét riêng hoặc những điểm đặc biệt nơi họ cư trú. Như Koetsu, các nàng gọi là Honami tiên sinh vì ở ngõ Honami; còn Haiya Shoyu có tên là Bạch Phát thi sĩ, nhà thơ tóc bạc. Nếu Miyamoto Musashi là khách quen, chắc chẳng bao lâu thế nào cũng có tên mới.
Quán Ogiya cùng với Quán Kikyoya là hai nơi giải trí sang trọng nhất xóm Liễu. Chủ nhân quán Ogiya là tay doanh thương giàu có và thế lực. Ngoài quán này ra, ông còn nhiều cơ sở làm ăn khác nên rất được vì nể, nhưng ở nơi ăn chơi này, người ta thường chỉ biết ông qua biệt danh Lạc Thiên mà thôi.
Xóm Liễu có hai Geisha tài sắc vẹn toàn, một tên Yoshino Dayu tiếp khách tại Quán Ogiya, còn người kia tên Murogimi Dayu, làm ở Quán Kikyoya. Danh tiếng hai cô này vang dội vùng cố đô, các bậc phong lưu và khách làng chơi không ai không biết.
Miyamoto Musashi lần đầu tiên đến một nơi ăn chơi phù phiếm nên không khỏi bỡ ngỡ. Hắn cố giữ bình thản, nhưng đôi khi không giấu nổi ngạc nhiên trước những sự bài trí cực kỳ xa hoa và tráng lệ tại nơi này. Trần nhà và những rui kèo chạm trổ tinh vi, hàng lan can uốn cong cánh phượng, đồ cổ ngoạn trong tủ kính, họa phẩm quý giá treo trên vách, nhất nhất cái gì cũng đẹp mắt và cầu kỳ, Miyamoto Musashi tưởng trong vương phủ cũng chỉ đến thế !
Cuối phòng chính, bên ngoài chiếu ngồi lại có một khu vườn nhỏ bài trí theo kiểu của nhà họa cảnh vườn danh tiếng Kobori Eushu để quan khách thưởng ngoạn. Khu vườn trải toàn sỏi vụn bao quanh một phiến đá đen có những chỗ đã mòn nhẵn, có chỗ điểm những vết trắng lấm tấm. Sỏi được cào thành luống mỗi ngày, những vết cào làm người xem có cảm tưởng đứng trước một cảnh biển, sóng đập vào thành đá tung bọt trắng như trong bức tranh sơn thủy của một danh họa đời Tống.
Koetsu kêu lạnh, ngồi co ro trong góc. Bạch Phát lão gia xếp gối cạnh chiếc bàn thấp, ngồi xuống và kéo Miyamoto Musashi ngồi cạnh. Nữ tỳ mang rượu hâm nóng vừa đúng độ đến, ca kỹ theo vào, đàn phách rộn ràng ngay từ cửa.
Miyamoto Musashi mãi ngắm những đồ cổ ngoạn quên cả uống rượu, Haiya Shoyu phải nhắc:
- Kìa, tráng sĩ uống rượu đi chứ ! Để nguội mất ngon !
Chén đầy, chén cạn, hai ông già mạn đàm đủ thứ chuyện, Miyamoto Musashi chỉ ngồi yên nghe hát hoặc nhìn ngắm vu vơ. Thấy người bạn trẻ có vẻ đăm chiêu, Haiya Shoyu nhắc khéo:
- Tráng sĩ uống ít rượu lắm nhỉ ! Đến đây phải vui lên chứ, giữ lễ quá mất thú !
- Đa tạ tiên sinh, vãn bối không uống được nhiều !
- Tráng sĩ hình như chẳng phải là đại kiếm khách !
- Hẳn thế rồi !
Miyamoto Musashi cười vui vẻ, xoay câu nói có ý chế nhạo thành lời đùa cợt !
- Nếu tráng sĩ sợ uống nhiều rượu làm mất nhuệ khí hoặc giảm ý chí luyện tập không thành danh được thì quả không có phong độ của một kiếm khách.
Ông vừa nói vừa cười ha hả.
- Không phải thế. Miyamoto Musashi đáp. Chỉ vì vãn bối nhiễm phải một tật ...
- Tật gì ?
- Cứ say rượu thì buồn ngủ.
- Ngỡ gì ! Say đi rồi ngủ ngay tại đây có sao ! Chẳng ai nói gì đâu.
Quay sang các nàng Geisha chiêu đãi, ông chỉ Miyamoto Musashi:
- Chuốc rượu cho tráng sĩ đi. Chừng nào say, bế tráng sĩ vào giường đi ngủ.
Tiếng cười lại ha hả cất cao, xen lẫn với những tiếng hinh hích của các nàng chiêu đãi cười thầm trong tay áo.
Không khí đã có chiều lơi lả. Các nàng làm ra vẻ bạo dạn hơn.
- Để thiếp chuốc rượu !
Một kỹ nữ lại ngồi sát bên Miyamoto Musashi mặt đỏ như gấc, chẳng biết vì say hay vì thẹn. Có kẻ lên tiếng:
- Không được ! Nương nương đây là tiểu thiếp của Bạch Phát lão gia, để thiếp bồi tiếp công tử.
Tráng sĩ bây giờ đổi thành công tử. Nhưng mọi người, kể cả Miyamoto Musashi, chẳng ai chú ý đến sự thay đổi cách xưng hô nhỏ mọn ấy. Khách và kỹ nữ ngồi lẫn lộn với nhau trên chiếu, bá vai kề vế uống rượu, sự nghiêm chỉnh ban đầu không còn nữa.
Koetsu xem chừng cũng say rồi. Ông nói:
- Yoshino Dayu đâu ? Sao không thấy Yoshino ?
- Ờ ! Cuộc vui thế này mà không có Yoshino ngâm thơ thật phí !
- Đi tìm nàng đến. Để ta giới thiệu với tráng sĩ trẻ tuổi đây ...
- Khó lắm, thưa tiên sinh. Nàng đang bận tiếp khách bên Đông sảnh. Nàng đâu có phải để giới thiệu với ai cũng được !
- Cứ bảo có ta đợi, nàng sẽ sang ngay. Nàng biết rõ ta mà, không ngại !
Một người chạy đi tìm tì nữ của Yoshino dẫn đến. Koetsu hỏi:
- Cháu là tì nữ của Yoshino phải không ?
- Dạ phải.
- Vậy đi mời cô nương đến đây ngay. Nói có Honami Koetsu đợi.
Mắt cô bé chớp chớp ra vẻ ngần ngại. Tì nữ này mới khoảng mười một mười hai mà hai má đã hây hây, mắt đen láy, trong dáng ngây thơ có pha chút tinh nghịch của thiếu nữ sớm dậy thì. Trưởng thành ở những nơi lầu hương gác tía, sau này chắc cô bé cũng kiêu sa chẳng kém gì nàng Yoshino. Koetsu giục:
- Đi ! Đi ngay đi, ta sẽ có thưởng ...
Cô bé tần ngần một lát rồi lui khỏi phòng. Mới vài bước đã thấy ả vỗ tay reo gọi rối rít. Ai nấy đổ xô ra hành lang. Koetsu cũng mở song cửa.
Một cảnh đẹp vô cùng bày ra trước mắt mọi người. Tuyết đã xuống từ bao giờ, phơi phới như ngàn ngàn triệu triệu cánh mai theo nhau rụng. Mặt hoa viên trắng bông. Trên những cành tùng, tuyết đọng nặng chĩu, đong đưa theo làn gió nhẹ.
Các nàng kỹ nữ, ca nhân đứng chật hành lang, bàn tán xôn xao không biết tuyết có còn giữ được thế này đến ngày mai không.
Haiya Shoyu sốt ruột, chờ mãi không thấy Yoshino lại, bèn sai một nữ chiêu đãi khác đi tìm.
Lúc sau, trở về nói nhỏ:
- Yoshino muốn tới lắm, nhưng không được. Khách không cho.
Koetsu trợn mắt:
- Khách nào vậy ? Yoshino đâu phải người thường, nàng muốn làm gì mà chả được ! Hay bây giờ lại ham tiền quá rồi !
- Không ! Nàng nói ông khách này quyền thế lắm. Mấy lần xin cáo biệt mà không được !
Haiya Shoyu gật đầu:
- Dĩ nhiên. Ai lại muốn để một người như Yoshino đi khỏi khi đang ngồi với mình. Khách nào vậy ?
- Thưa, Tokugawa đại gia.
- Tokugawa đại gia ? Ngài đi một mình à ?
- Không. Với vài thân hữu khác nữa.
Haiya Shoyu ngồi thừ người buồn bã:
- Thật đáng tiếc. Tuyết đẹp như thế này, rượu ngon như thế này mà không có Yoshino để ta làm bài thơ cho nàng phổ vào đàn Shamisen dạo lên nghe có phải tuyệt không. Thật đáng tiếc !
Bỗng ông vỗ đùi:
- Hay thế này:
Tokugawa đại gia cũng là thi sĩ. Chúng ta làm bài thơ gửi tới, chắc ông sẽ cảm thông với hoàn cảnh chúng ta, để Yoshino tạm sang đây một lúc. Đại huynh nghĩ thế nào ?
Koetsu mỉm cười:
- Chưa chắc. Nếu muốn Tokugawa thuận, bài thơ phải thật xuất sắc. Xoàng xoàng chỉ tổ làm trò cười.
- Đại huynh lại chê tiểu đệ rồi. Hay chúng ta cùng góp sức làm một bài. Ngắn thôi, chừng bốn câu cũng đủ.
- Hà hà ! Cũng được, nhưng phải cái đệ thơ dở lắm. Xin hiền huynh khởi xướng.
- Hừ ... Nàng nào mang cho ta văn phòng tứ bảo ra đây. Để xem ...
Bút mực mang đến. Ngẫm nghĩ một lúc ông viết:
Ngoài song, hoa tuyết bay
Chim lẻ ước gặp bầy ...
Rồi đưa cho Koetsu. Nhà luyện kiếm tìm mãi không ra vận, hỏi Miyamoto Musashi:
- Thế nào, tráng sĩ có ý kiến gì không ? Giúp lão phu với.
Miyamoto Musashi chữa thẹn:
- Quả tình vãn bối từ trước đến nay chẳng làm thơ bao giờ. Sợ làm hỏng việc của nhị vị tiên sinh. Xin thứ cho.
Mãi sau, Koetsu mới tiếp:
Mai già run cánh mỏng
Khí lạnh ngút từng mây ...
Haiya Shoyu đọc, khen tạm được. Ông cũng nhận là trong lúc này khó tìm ý tưởng đặc biệt. Tuy nhiên, những điều chính đã nói hết trong hai câu “mai già run cánh mỏng” và “chim lẻ ước gặp bầy” rồi. Vậy ta cứ gửi.
Bèn chép vào giấy hoa tiên, niêm phong cẩn thận và trao cho một kỹ nữ:
- Các nàng khác không ai có được phong thái như nàng. Hãy vì ta đưa thư này cho Cô Lãnh đại gia và đừng để đại gia giận ...
Cô Lãnh là biệt danh của Tokugawa Ieyasu ở đây, có nghĩa là ngọn núi đứng biệt lập, ý nói về quyền thế của Tokugawa.
Rượu chừng vài tuần nữa mới thấy người kỹ nữ mang thư phúc đáp về để trong một cái hộp sơn mài cực kỳ mỹ lệ.
Koetsu chột dạ, nói:
- Chắc Tôn đại gia ngạc nhiên lắm, không ngờ lại gặp chúng ta ở đây đêm nay.
Lần sau phải cẩn thận hơn mới được !
Ông thong thả mở hộp, lấy tờ thư ra. Trước nét mặt ngỡ ngàng của cả ba người, phong thư chỉ là một tấm hoa tiên vân màu ngà, trên không có chữ nào cả.
Ông quay sang hỏi người kỹ nữ:
- Thế này là thế nào ? Nàng có chắc không đánh rơi mất thư phúc đáp của Tokugawa đại gia chứ ?
- Tiện thiếp đâu dám cẩu thả. Chính tay đại gia đưa cho tiện thiếp hộp này bảo mang về trình tiên sinh.
Haiya Shoyu vẻ tư lự, lúc sau mỉm cười nói:
- Hay ngài không tìm được tứ nào hợp ý, kéo cờ trắng rồi. Không có chữ gì, thư để trắng tức là đầu hàng.
Haiya Shoyu có tính hay suy diễn mọi việc như vậy để lấy lợi cho mình.
Nhưng Miyamoto Musashi nói:
- Vãn bối không nghĩ thế. Chắc ngài muốn nhị vị tiên sinh đọc lời phúc đáp ...
- Đọc tờ giấy trắng này ?
- Chính thế. Màu trắng là màu tuyết. Và rượu sa-kê cũng trắng.
Koetsu gật gù:
- Tráng sĩ nói phải. Nếu ta đọc, thư này có nghĩa:
“Hãy uống rượu ngắm tuyết ... “ Rồi vỗ vai Bạch Phát thi sĩ, ông nói tiếp:
“Và đừng nghĩ đến chim Yoshino, chim nhạn làm gì cho thêm bận !”.
Haiya Shoyu không vừa ý, cau mặt nhìn ra ngoài trời. Tuyết vẫn rơi phơi phới, phủ trắng phau cả những mái lầu và những mầm mẫu đơn mới nhú.
Koetsu say rồi. Ông nằm yên trong góc, mắt lim dim. Cảnh mãn thiên mai vũ chẳng biết có gợi thêm ý gì cho nhà thơ không, chỉ thấy Bạch Phát lão thi sĩ, uống hết chén này đến chén khác, nét mặt không vui. Các nàng kỹ nữ cũng thu dọn đàn địch sênh phách, tô điểm lại nhan sắc.
Miyamoto Musashi yên lặng đứng dậy, kéo cửa khẽ lẻn ra ngoài. Chẳng ai hỏi gì đến hắn. Hắn chọn thời điểm rút lui thật vừa đúng lúc.
Phía sau các phòng tiếp khách, nhiều hành lang hẹp đan vào nhau như những lối đi dọc ngang trong một mê thất mà ánh sáng yếu ớt của một vài ngọn đèn nhỏ treo ở mỗi khúc quanh không đủ soi tỏ hết mọi chỗ. Miyamoto Musashi men theo những lối đi lờ mờ ấy, tránh mọi cửa mở hé để lọt ánh sáng ra ngoài. Đến một chỗ có mùi thức ăn bốc ra, đồ chừng là bếp, hắn đẩy cửa bước vào.
Trong phòng xếp la liệt thực phẩm. Gạo, ngô, rau, đậu, thịt cá, bát đĩa để đầy kệ.
Thì ra đó là một căn phòng kho. Cuối phòng, một cô bé trạc mười một mười hai đang lúi húi xếp dọn. Thấy có người vào, cô bé ngẩng lên:
- Khách quan là ai ? Vào làm gì ? Chỗ này chỉ dành cho người làm.
Miyamoto Musashi nhận ra ngay cô bé là tì nữ của nàng Yoshino, nhưng giờ đây không có cái vẻ dịu dàng ngây thơ như lúc hắn gặp trong phòng khách nữa. Mắt cô bé sắc như dao, đôi lông mày cau lại.
- Ta không được vào đây hay sao ?
- Không.
- Không.
Cô bé tiến đến trước mặt Miyamoto Musashi:
- Chắc khách quan muốn tìm phòng tắm. Xin đi theo tiểu nữ, phía đằng này.
Cô bé cúi đầu, toan nắm tay Miyamoto Musashi dẫn đi. Hắn vội nói:
- Không. Ta không say và cũng không cần phòng tắm. Ta muốn nhờ cô một việc.
- ... ?
- Dẫn ta đến một căn phòng trống và mang cho ta chút gì ăn lót dạ.
- Vậy xin khách quan cứ trở về phòng, tiểu nữ sẽ gọi người mang thức ăn tới.
- Không. Mọi người đang vui đùa và uống rượu, không ai muốn ăn. Làm phiền họ, ta không thích.
Cô bé gật đầu:
- Vậy khách quan ngồi đây cũng được. Khách quan muốn dùng thứ gì ?
- Chẳng có gì đặc biệt. Mang cho ta liễn cơm trắng với chút củ cái muối là đủ.
Nữ tì ngạc nhiên, giương mắt nhìn, nhưng không nói gì, lẳng lặng đi lấy những thứ ông khách muốn.
Ăn cơm xong, Miyamoto Musashi đứng dậy, toan mở cửa ra ngoài thì nghe tiếng hỏi:
- Khách quan đi đâu ?
Hắn không ngờ cô bé vẫn còn quanh quẩn gần đó, rình rập.
- Ta ra ngoài có chút việc. Sẽ trở về ngay.
- Xin khách quan nhớ quay trở lại. Nếu không, tiểu nữ bị trách phạt.
Miyamoto Musashi cười rộ, lộ hàm răng trắng bóng. Vẻ mặt tươi cười của hắn làm cô bé yên dạ.
- Nhất định rồi. Nếu các vị trong phòng có hỏi thì bảo ta đến khuôn viên Kim Các Tự, vãn cảnh chùa ngắm tuyết, rồi trở lại.
- Vâng.
Cô bé đi trước, mở cổng vườn sau. Trên mái cổng, tuyết đóng dày hàng tấc. Lối vườn sau ngoắt ngoéo, vắng vẻ, không đèn đóm gì nhưng nhờ ánh tuyết hắt lên vẫn đủ sáng. Những vết chân của Miyamoto Musashi in hằn trên nền tuyết tinh khiết như những vết chân dã thú đi tìm mồi trong đêm hoang lạnh.
Đến trước một tiệm bách hóa, hắn bước vào hỏi mua một đôi dép cỏ, thứ tốt dùng để đi tuyết, nhưng không có. Tiệm này phần lớn chỉ bán nón nan rộng vành cho khách đến tiêu khiển ở xóm Liễu nhưng lại muốn che mặt không để người khác biết. Hắn phải nhờ chủ nhân sai người đi mua hộ. Trong lúc chờ đợi, Miyamoto Musashi mượn giấy bút viết một bức thư ngắn, cởi áo ngoài gấp lại cẩn thận, bỏ thư vào tay áo đã gấp rồi đưa cho chủ nhân mà nói:
- Tại hạ ra đi có chút việc, không tiện mặc áo này. Nếu đến đầu giờ tý không thấy về, phiền chủ nhân cho người mang áo đến quán Ogiya tìm Honami tiên sinh trao lại giùm.
Chủ nhân thắc mắc toan hỏi, Miyamoto Musashi vội gạt ngang:
- Mọi chi tiết, tại hạ đã viết trong thư, xin cố giúp cho.
Đồng thời lấy ra ít bạc vụn đưa tặng. Chủ nhân cười vui vẻ bỏ ngay vào bọc, mặt tươi như hoa:
- Được mà ! Được mà ! Khách quan khỏi quan tâm, lão sẽ làm giúp.
Miyamoto Musashi lại mua một cái nón nan. Khi người nhà mang dép về, hắn thay dép mới, buộc quai chằng lên đến cổ chân, thử đi thử lại nhiều lần, khi thấy vừa phải không chặt mà cũng không lỏng quá mới sửa lại áo và kiếm đeo bên sườn, đội nón che kín nửa mặt và rời khỏi cửa hàng bách hóa.
Tuyết vẫn rơi đều đều không ngớt. Những bông to và nhẹ hơn cả cánh hoa mai rụng.
oo Ven bờ sông, trông sang đường Shijo, còn ánh đèn thưa thớt. Nhưng về phía đông gần rừng, ngoài mấy vòng tròn sáng vàng úa từ những cây đèn đá tỏa ra, không có dấu tích gì chứng tỏ có sự sinh hoạt của cư dân. Khu này bình nhật đã ít người qua lại, ban đêm tuyết xuống càng vắng lặng. Sự yên lặng càng rõ rệt hơn khi những mảng tuyết dầy đọng trên cành quá nặng rớt xuống. Tiếng rớt “bịch” ngắn, gọn, không một âm vang, gợi cho người nghe cái cảm giác bực bội như niềm hy vọng đột nhiên bị bóp nghẹt.
Trước thềm tòa cổ miếu ven sông, cổng đóng im ỉm, chừng hai chục người quỳ gối cúi đầu khấn nguyện. Chuông từ xa vẳng lại năm tiếng, báo hiệu giờ dậu đã qua. Đêm nay, tiếng chuông nghe trong và mạnh, như đâm thấu tâm can, khiến mọi người hồi hộp, vô tình xích lại gần nhau. Họ mong tìm được thêm từ người bên cạnh chút hơi âm hay một niềm an ủi.
Yoshioka Denshichiro đứng dậy trước tiên:
- Anh em ! Như vậy đủ rồi ! Đã đầu giờ tuất, ta đi là vừa !
Cả bọn lục tục làm theo, xốc lại áo và buộc lại giày cỏ. Một người nói:
- Đêm nay lạnh lắm đấy, đừng buộc quai dép chặt quá, dễ đứt. Trời thế này, lẽ ra mang giày quai vải mới phải.
Denshichiro đã chuẩn bị kỹ ngay từ nhà, đầu thắt băng vải đen, tay đeo bao da mềm hở ngón để sử kiếm cho tiện. Cả bọn nối đuôi nhau theo chủ soái, lặng lẽ bước những bước vội vàng trên nền tuyết xốp. Bốn bề yên lặng, chỉ nghe tiếng thở đều đều và hơi thở của họ bốc ra thành từng vệt khói trắng đục.
Khu xóm Liễu chỗ nào cũng đông đúc, duy chỉ có cánh đồng trống rỗng sau Kim Các Tự là vắng vẻ. Ở đó ít lùm cây rậm rạp, chỉ có vài gốc thông trơ trọi và cỏ gianh cũng thấp, không làm cản trở cuộc giao đấu bằng bất cứ loại võ khí gì nên cả hai bên dù không ước hẹn, đều ngầm hiểu và cùng hướng về phía đó trước tiên.
Giờ tuất quả có quá sớm. Tuy nhiên Yoshioka đã chọn và Miyamoto Musashi chấp nhận. Denshichiro nóng lòng trả hận, trì hoãn lâu e kẻ địch trốn mất nên gã quyết định hành động càng sớm càng tốt. Yoichibei thì được lệnh lảng vảng gần nơi cổng đá nhà Haiya Shoyu với một võ sinh giữ việc liên lạc. Cho nên khi bọn Miyamoto Musashi lên cáng đến xóm Rokujo, Denshichiro đã được tin báo tức khắc.
Đi được một quãng còn cách Kim Các Tự khoảng chừng vài chục trượng, thấy có lửa lập lòe sau một bức tường đổ nát trên nền nhà cũ bỏ hoang, thầy trò Yoshioka ngạc nhiên khựng lại:
- Ai ?
- Phải Ueda không ?
Thì ra Ueda và Jurozaemon.
Denshichiro hơi bực. Gã rất tin vào kiếm thuật của mình nên thấy đàn em đến đông, gã tưởng họ coi thường mình, nhất là những người đó lại là hai tay xem ra bản lãnh có phần cao nhất phái. Gã buông sõng:
- Đến đây làm gì ?
- Chúng đệ sốt ruột quá, ở nhà không yên nên đến đây xem thiếu gia có điều gì sai phái chăng ?
Lời nói khéo của Ueda làm Denshichiro bớt giận. Tuy vậy gã cũng vẫn không thoải mái:
- Ta đến nhiều người quá. Nếu giết được nó mà giang hồ biết ta đông thế này, tất sẽ bảo ta ỷ chúng hiếp cô, mang tiếng.
- Không hề gì. Đây còn cách Kim Các Tự đến vài chục trượng, chúng đệ ngồi cả đây phòng bất trắc để một mình thiếu gia tới đó trừng phạt nó.
- Cũng được !
- Chắc thiếu gia đi đường lạnh, ngồi đây sưởi ấm cái đã. Còn sớm, bây giờ mới khoảng giữa giờ tuất, vội gì !
Denshichiro đến gần đống lửa, Ueda nhích sang bên nhường chỗ. Đồ chúng lục tục theo sau, quây quần bên ngọn lửa bốc cao. Denshichiro cởi bao tay, giơ ra trước mặt sưởi, bẻ đốt ngón tay kêu răng rắc. Ánh lửa hắt lên mặt hắn làm vằn lên những tia máu trên mặt và làm mặt gã đỏ ửng.
- Gần đây có hàng quán gì không ?
Denshichiro hỏi.
- Có, có một quán ở gần đây.
Denshichiro quay lại bảo người vừa nói:
- Vậy đi mua cho ta bình rượu.
- Mua rượu bây giờ ?
- Chứ gì ! Trời lạnh thế này, có chút rượu vào cho ấm bụng !
- Chắc gì họ còn mở.
- Cứ đập cửa lâu lâu vào, thế nào cũng được.
Đồ chúng Yoshioka biết vị chưởng môn mới của họ thích rượu. Sáng, trưa, chiều, tối, không mấy khi là không thấy Denshichiro thiếu gia chuếnh choáng. Mãi rồi họ cũng chấp nhận, cho đấy là một cái tật vô hại. Bữa nay, trước khi ra đi, Denshichiro chỉ uống chút ít. Gã cũng biết cuộc giao chiến đêm nay hết sức quan trọng, không những cho tính mệnh của gã mà còn cho cả danh dự và tương lai môn phái nữa. Nhưng trời lạnh, ngồi bên đống lửa ấm áp, gã thấy thèm rượu hết sức.
Khi người ta đã muốn điều gì thì luôn luôn có đủ lý lẽ biện minh hầu thỏa mãn ý muốn ấy. Tính Denshichiro lại nóng, ai cản cũng không được, chỉ làm gã tức giận và bướng bỉnh thêm, cho nên đồ đệ Yoshioka ngồi đầy ra đó mà im như thóc.
Ueda liếc mắt hất hàm bảo người vừa nói:
- Thiếu gia đã muốn uống rượu thì ngươi đi mua đi. Một chút cũng chẳng sao, còn hơn để tay chân tê cóng !
Lát sau rượu mang về, hâm vừa đúng độ. Denshichiro ôm vào lòng, tu một hớp, khà ra khoan khoái:
- Hà ! Đây là bạn thiết và là người thân thích nhất của ta đây !
Gã cười ha hả, nhưng Ueda thì nuốt lệ. Hắn thầm mong cho vị chưởng môn của hắn uống ít hơn mọi bữa.
Quả nhiên, sau chừng chục lần đưa bình rượu lên môi, Denshichiro thôi không uống nữa. Gã trao bình cho một đồ đệ gần đấy và bảo:
- Ngươi giữ nó cho ta. Để xong việc, ta sẽ hỏi đến !
Tuy làm ra bộ thản nhiên, Denshichiro cũng biết sinh mệnh mình nằm trong cái bình ấy.
Có tiếng sột soạt. Mọi người như cành cây cong đột nhiên được buông ra, đứng bật dậy.
- Ai ? Miyamoto Musashi hả ?
Mọi người lắng tai, tay để vào đốc kiếm. Im lặng như tờ. Không động tĩnh. Tiếng củi khô nổ lách tách. Lúc sau mới thấy một bóng đen từ phía sau nền nhà đổ hiện ra giơ tay vẫy.
- Anh em còn ngồi cả đây à ?
Bóng đen mặc y phục dạ hành, quần bó chẽn để dễ di động nhưng không giấu được vẻ chậm chạp của một người nhiều tuổi. Khi bóng đen đến gần vùng ánh sáng đống lửa, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.
- Ngỡ ai, hóa ra là Genzaemon lão trượng. Lão trượng đến đây làm gì thế ?
Yoshioka Genzaemon là em Yoshioka Kempo, vào hàng thúc bá của Seijuro và Denshichiro. Ông đã già nhưng vẫn còn lưu tâm đến vận mệnh bản phái và vẫn thường khuyên nhủ thiệt hơn Seijuro khi hắn còn giữ chức chưởng môn.
Denshichiro thấy chú, tỏ vẻ ngạc nhiên. Gã không mong một sự trợ giúp nào ở ông chú già yếu ấy. Khác với Seijuro, những lời nhắn nhủ của ông chỉ làm gã bực mình nhưng vì là hàng dưới, gã chỉ vâng dạ cho xong chứ không để vào tai.
- Denshichiro ! Ta nghe nói ngươi sẽ giao đấu với thằng Musashi tối nay phải không ?
- Thưa thúc thúc, cháu đã định đến thỉnh ý thúc thúc, nhưng vì gấp quá ...
- Còn phải thỉnh ý gì nữa. Anh mày bị nó đánh cho tàn phế, danh dự cả phái Yoshioka bị nhấn xuống bùn nhơ, mày không trả thù ấy thì ai đứng ra cáng đáng ?
- Dạ chính thế. Cháu đã nhất quyết.
- Phải lắm. Ta đến đây cũng vì lẽ ấy. Trời lạnh mà ta không ngại chỉ vì muốn nói với mày một câu. Mày biết câu gì không ?
- Dạ, cháu xin lắng nghe.
- Danh dự bản phái là trọng, thân ta không đáng kể. Nhưng không phải vì thế mà hành động bừa bãi được. Đừng vội vàng hấp tấp, hãy bình tĩnh cháu ạ. Ta nghe thằng ấy kiếm pháp chẳng phải tay vừa.
Ngừng một lúc, ông lại nói:
- Nếu chẳng may cháu có mệnh hệ nào, ta sẽ lo mai táng chu tất.
Denshichiro cười lớn:
- Thúc thúc quá lo xa. Cháu đâu phải như Seijuro.
Đoạn dắt tay chú đến ngồi bên đống lửa, hô mang rượu ra để ông uống. Rượu được vài ngụm, Yoshioka Genzaemon nói:
- Lúc này cũng gần đến giờ rồi. Sửa soạn đi là vừa. Ta nghĩ các anh em khác nên tránh mặt, cả ta nữa. Hãy đứng ở phía xa xa, kẻo giang hồ họ lại nói cuộc chiến không công bằng, rồi đồn đại mất cả hùng khí bản phái.
Mọi người nghe theo, đứng dậy rảo bước ẩn vào sau những gốc thông lân cận, để một mình Denshichiro ngồi bên đống lửa.
Gã đeo bao tay, xốc lại kiếm. Vết chân đồ chúng Yoshioka tản mát ra từ phía in lên nền tuyết trắng những vệt dài đen sẫm.
Không gian vắng lặng, chỉ nghe tiếng củi nổ lép bép. Đôi lúc một cành cây khô gẫy dưới sức nặng của tuyết đọng, vang lên khô khan. Denshichiro đảo mắt dò xét bóng đêm xung quanh.
Chuông từ xa vẳng lại thong thả buông sáu tiếng. Giờ tuất đã qua, vân không thấy Miyamoto Musashi. Denshichiro đã tỏ vẻ bồn chồn nóng nảy.
Từ xa, một bóng đen rảo bước đi đến, nhanh như chạy.
Denshichiro vội vàng phóng chân đá tuyết, dập cho lửa tắt rồi rút vào ẩn dưới một tàn thông. Tiếng bóng đen chạy đến nói trong hơi thở hổn hển:
- Thiếu gia ! Nó sắp tới rồi !
- Yoichibei ! Ngươi thấy nó ở đâu ?
- Đệ mai phục gần chùa, rõ ràng thấy nó bước lên tam cấp. Nó đi một mình, nhưng có vẻ phòng bị kỹ, vừa đi vừa ngoái cổ trông tứ phía, lại tránh những bụi cây rậm.
Thiếu gia sẵn sàng chưa ?
- Rồi ! Để mặc ta. Ngươi tìm chỗ ẩn đi !
- Anh em đâu cả ?
- Họ tản ra quanh đây thôi. Ngươi cũng thế, dừng đứng lớ ngớ ở đó, vướng chân vướng cẳng ta, vô ích.
Yoichibei trở gót. Y làm bộ nghe lệnh, nhưng thực ra thừa lúc Denshichiro quay đi, lẩn ngay xuống sân ngôi cổ tự nấp ở đấy. Y đã có chủ ý. Ở đó y có thể nhìn rõ cuộc đấu và khi cần, tập kích địch thủ nếu có dịp. Đêm khuya vắng vẻ như thế này, ngoài anh em Yoshioka ra còn ai biết ?
Thu hình dưới sàn gỗ, trong bóng tối ẩm thấp. Yoichibei cảm thấy lạnh thấu xương. Mồ hôi trong lần áo lót bốc hơi, lấy bớt đi nhiệt độ, y càng lạnh, răng đánh vào nhau lập cập. Yoichibei mong đó chỉ là cái lạnh bên ngoài chứ không phải vì sợ.
Đến sân sau chùa, Denshichiro đứng lại sửa dây da buộc cổ tay, rồi gác chân lên rễ một gốc cây đổ, đợi. Mắt gã dán vào hàng cột lớn dọc theo hành lang Kim Các Tự.
Trong chùa vắng lặng. Thỉnh thoảng mới có tiếng băng nhũ rơi trên mái xuống đánh bộp một cái.
Denshichiro sốt ruột, đổi thế đứng rồi đi đi lại lại, vết chân hằn sâu trên tuyết, vẻ bực bội. Sự chờ đợi làm gã khó chịu, nhất là bây giờ hơi rượu đã tan hết. Gió lạnh thổi vào mặt gã, nhôn nhốt như kim châm. Yoichibei cũng sốt ruột không kém. Y nhẩy từ chỗ nấp ra. Denshichiro giật mình rút gươm:
- Ai ?
- Tiểu đệ !
Denshichiro cau mặt mắng:
- Ngươi làm gì trong đó ? Miyamoto Musashi đâu ?
- Không biết ! Đệ quả đã trông thấy nó vào chùa. Sao đến bây giờ vẫn chưa thấy mặt.
- Hay thằng khốn kiếp ấy trốn rồi ! Ngươi nhìn phía đó, để ý mọi tiếng động, nhất là ở những chỗ tối. Ta coi phía này.
Đoạn cả hai chia nhau quan sát. Lúc sau vẫn không thấy động tĩnh gì, Denshichiro bắt đầu mất bình tĩnh, cho là Yoichibei đã hoảng báo. Đột nhiên có ánh đèn lập lòe về phía hàng lang chùa. Gã đưa tay gạt Yoichibei và nói nhỏ, bảo y hãy nấp vào sau gốc thông.
Ánh sáng dường như của một chiếc đèn bão, lắc lư theo nhịp bước, từ trong chùa đi ra. Đèn lúc ẩn lúc hiện sau hàng cột lớn, mờ tỏ soi phần dưới bộ y phục nâu sồng của một nhà sư.
Nhà sư đi một mình hay với người nào khác, Denshichiro trông không rõ vì tối quá.
Không dằn được tò mò, gã nhẩy ba bước đến sát hàng hiên. Ngọn đèn đột nhiên tắt phụt.
Trong cái lúc tranh tối tranh sáng, mắt người chưa kịp điều tiết để thích ứng với mọi sự thay đổi chung quanh ấy, Denshichiro bỗng nhiên hét lớn:
- Miyamoto Musashi !
Nhưng lập tức, gã cũng ý thức ngay được sự nhầm lẫn chiến lược của mình.
Denshichiro đứng dưới thềm chùa, thấp hơn Miyamoto Musashi có đến năm sáu bộ. Ở một vị trí như vậy, dù có giở tuyệt kỹ của Yoshioka kiếm phái ra chăng nữa cũng không công được, mà thủ cũng khó. Nhảy lên hiên cho ngang với hắn, sẽ chậm đi một chút, đường kiếm mất đi sự thần tốc, dũng mãnh. Và biết đâu sau hàng cột tối kia chẳng có kẻ ẩn nấp.
Nói thì lâu nhưng phản ứng của Denshichiro rất nhanh. Gã tung mình nhảy lui năm bước ra chỗ khoảng khoát giữa sân. Sau gã là tuyết, là gió, không có gì cản trở, gã có thể mặc sức tung hoàng. Vừa vững vị trí, Denshichiro đã hô lớn:
- Miyamoto Musashi, xuống đây !
Trên hiên, Miyamoto Musashi vẫn không lộ hình tích. Không ai biết hắn đứng đâu.
Ven tường ? Sau cột ? Hắn thận trọng tối đa. Chỉ nghe từ trên thềm vọng xuống:
- Denshichiro ! Ngươi sẵn sàng chưa ?
Giọng Miyamoto Musashi bình tĩnh. Câu hỏi tầm thường ấy không ngờ lại có tác dụng mạnh mẽ tựa gáo dầu sôi đổ vào tâm trạng hừng hực của Denshichiro.
Từ trước, Denshichiro vẫn coi Miyamoto Musashi chẳng qua như một tên lực sĩ quê mùa, nhờ tuổi trẻ và nhanh nhẹn mà thắng được bào huynh gã. Không theo một môn phái chính thống nào, kiếm pháp Miyamoto Musashi.
-
CHƯƠNG 40
Yoshino Dayu
Haiya Shoyu đã say. Mặt lầm lì tái ngắt, ông đăm đăm nhìn tờ giấy hoa tiên không chữ để trước kỷ, lẩm bẩm:
- Thế này thì quá lắm ! Cậy có quyền thế muốn làm gì cũng được sao !
Haiya Shoyu chống tay toan đứng dậy, nhưng lảo đảo ngã ngồi xuống. Sumigiku, ái thiếp ông, che miệng cười khúc khích. Ông nhìn nàng, chữa thẹn:
- Nàng cười ta say chăng ? Chưa, ta chưa say, nhưng có say cũng chẳng hề gì. Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh. Phải thế không, ái nương ?
Nàng Sumigiku mỉm cười. Những cảnh này nàng đã chứng kiến nhiều lần. Khách đến đây giải trí, mặc sức say sưa vì ở đa số, cơn say của họ vô hại. Quan niệm chung, rượu cũng là một thứ giải trí tao nhã, miễn người uống vẫn giữ được vẻ phong lưu, đĩnh đạt.
Haiya Shoyu là nhà buôn, nhưng có máu nghệ sĩ, ưa đùa cợt. Ông biết hài hóa những tật xấu của mình thành ra dễ gây hảo cảm. Rồi vì dư dả tiền bạc, mua chuộc kết thân với giới quyền quý, nên được kính nể chẳng khác gì các bậc vương tôn khác.
Nhưng đêm nay ông không hài lòng vì không được Yoshino Dayu chiếu cố, mặc dầu đã cho người ân cần mời mọc. Điều ấy làm Haiya Shoyu cảm thấy như bị cự tuyệt.
Ông buồn rầu bảo người kỹ nữ:
- Sao vắng vẻ thế này ? Họ đi đâu cả ?
Sumigiku không đáp, kéo tấm chăn mỏng choàng lên vai ông, ân cần khuyên giải:
- Khuya rồi, tiên sinh đi nghỉ, bận tâm làm gì ?
Nhưng ông không nghe, gạt tay nàng ra, gượng đứng dậy lảo đảo một lúc mới vịn được vào vách.
- Tiên sinh định đi đâu ?
- Ta đến phòng Cô lãnh đại gia.
Qua dãy hàng lang đèn sáng lờ mờ, Sumigiku dìu ông đến trước một gian đại sảnh, rồi gõ cửa. Tiếng đàn ca, sênh phách bên trong ồn ào vọng ra tận ngoài. Gõ mấy lần mới thấy cửa mở. Một tráng niên vóc dáng trung bình, đầu cạo trọc dáng tựa thiền sư nhưng trang phục lại theo lối thế tục, bước ra.
Tráng niên nhìn Haiya Shoyu, ông cũng trố mắt nhìn lại. Bỗng nhiên cả hai cùng phá lên cười ha hả:
- Ha ha ! Takuan Soho ! Ngươi làm gì ở đây thế này ?
- Mô Phật ! Ngỡ ai hóa ra lão huynh. Thì ra lão huynh đặt thương điếm ở đây đấy hả ?
- Chứ sao ! Chốn này lạc cảnh, nếu dung được đệ tử của nhà Phật thì hẹp gì chẳng có chỗ cho thương điếm của tại hạ !
Nói xong lại cười ngất. Sự ngạc nhiên thích thú làm Bạch Phát lão thi sĩ tỉnh cơn say quên cả mối sầu trước đó.
Hàn huyên một lúc, mãi đến khi Takuan hỏi Haiya Shoyu đến đây làm gì, ông mới sực nhớ mục đích của mình. Ghé tai nhà sư, ông hỏi nhỏ:
- Tolugawa đại gia có trong ấy không ?
- Ngài về rồi. Chỉ còn tướng công Mitsuhiro và ngài Nobutada.
Karasumaru Mitsuhiro và Konoe Nobutada đều thuộc hoàng tộc. Mitsuhiro, tước Tả Xuyên Hầu, giữ chức vụ lớn tại đế kinh, bổng lộc cao hàng mấy vạn gia. lúa đồng niên nhưng vẫn chẳng đủ tiêu dùng. Mitsuhiro tướng công tính phóng túng, ưa vui chơi, thích được mỹ nữ chiều chuộng nên ít khi có mặt tại công đường. Hình như chỉ ở những chỗ như thế này, thoát khỏi mọi ràng buộc của chức vụ, ông mới thoải mái. Mitsuhiro chẳngiấu gì điều ấy. Có lần ông đã nói:
Chức vụ cao mà làm gì. Bình sinh ta chỉ muốn luôn luôn ngồi bên người đẹp, mùa xuân ngắm hoa, mùa thu thưởng trăng, rồi nếu có phải chết đi thì được lìa trần với bát rượu trên tay, thế là mãn nguyện.
Bởi tiếp Mitsuhiro tướng công là danh kỹ Yoshino Dayu, tuy đã gấp hai tuổi trăng tròn mà phong tư dung mạo còn rất tươi đẹp, thiếu nữ đôi tám chưa chắc đã ăn đứt.
Mặt hoa hơi cúi dường e thẹn, môi mọng đỏ như trái anh đào, mái tóc đen mượt chải cầu kỳ làm tôn màu trắng phớt hồng của làn da nhồi phấn trang điểm theo lối đương thời, trông nàng chẳng khác gì pho tượng quý.
Nghe cười ha hả ở phòng ngoài, Mitsuhiro tướng công quay hỏi nàng Yoshino:
- Phải chăng Bạch Phát thi sĩ đấy ?
Yoshino cắn môi khẽ gật, mi mắt chớp mau. Nếu ông già này đến kéo nàng đi thì quả thật nàng chẳng còn biết xử trí ra sao nữa. Hai bên cùng là khách quý, cùng hào sảng như nhau, nàng chẳng muốn vì bên này mà bên kia phải mất lòng.
Đang bối rối, Takuan đã khoác vai Haiya Shoyu nghiêng ngả bước vào. Yoshino Dayu toan đứng dậy thi lễ, Mitsuhiro tướng công kéo áo nàng nói nhỏ:
“Bất tất”, rồi với giọng làm ra vẻ thành thật:
- Chà ! Lâu lắm không gặp tôn huynh. Hôm nay sao may mắn thế này, thật là đại hạnh !
Hải lão công kính cẩn đáp lễ rồi không khách sáo, tiến đến trước mặt Mitsuhiro và Nobutada ngồi ngay xuống:
- Đa tạ tướng công. Lão phu cũng thế, không ngờ được diện kiến tướng công lại còn may mắn gặp ông bạn cố tri này nữa.
Haiya Shoyu vừa nói vừa chỉ tay vào Takuan.
Nữ tỳ mang thêm rượu. Chén thù chén tạc, sau những lời chúc tụng thường lệ, trong câu chuyện đôi khi đã có ngụ ý châm chọc, khích bác.
Haiya Shoyu rót rượu cho Takuan, nói:
- Trong cuộc đời ô trọc này, thiền sư thế mà là người khôn ngoan nhất. Không bị ràng buộc lợi danh mà vẫn luôn luôn hưởng lạc thú, như thế chẳng phải là điều đáng mong ước lắm sao ?
- Phải lắm. Mitsuhiro xen vào. Như phái quý tộc ta mới đáng buồn. Danh cương lợi tỏa, làm gì cũng phải nhìn trước ngó sau, thật chẳng vao giờ được thỏa chí.
Haiya Shoyu cười ra vẻ không tin:
- Tướng công nói quá. Quyền thế như tướng công muốn gì chẳng được. Chẳng hạn nàng Yoshino đây nếu không sợ Oai tướng công, đâu có thích ngồi chỗ này mãi.
Tiếng cười khỏa lấp ý chế giễu, làm như chỉ là nói đùa. Nhưng Mitsuhiro tướng công khó chịu. Ông hơi đỏ mặt:
- Đấy là Yoshino Dayu tự chọn đấy chứ. Dĩ nhiên trong cuộc vui chơi, chẳng ai muốn ngồi bên một ông già lẩm cẩm.
- Vị tất đã đúng. Để xin hỏi nàng Yoshino.
Nàng Yoshino chỉ lặng thinh. Vẻ bối rối hiện trên khuôn mặt. Sự ganh tị giữa hai ông khách đã đến lúc gay go, cần được giải tỏa. Takuan vội nói:
- Hai vị đều là những bậc phong lưu nhã khách cả. Bần tăng đề nghị cách này, hai vị nghĩ sao ?
Mọi người lặng yên chú ý.
- Ta đặt một trò chơi, hai vị đấu với nhau, người nào thắng, nàng Yoshino sẽ chuốc rượu.
Tiếng vỗ tay hưởng ứng rào rào. Nobutada cũng thêm:
- Vậy xin mời đại sư làm trọng tài khảo sát. Như thế mới công bằng.
- Nhưng chơi trò gì mới được chứ ?
- Cờ vây.
- Ồ, cờ vây mệt trí. Tìm trò gì thoải mái hơn, chỗ này vui chơi chẳng nên gò bó quá !
Bàn tán một lúc, mọi người đều đồng ý thi uống rượu. Mặc dầu Bạch Phát thi sĩ đã say khướt nhưng ông vẫn tự cho đủ sức thắng đối phương nên không phản đối.
Hai bình rượu lớn được bưng ra. Takuan kiểm soát dung tích và nồng độ, rồi để mặc các đối thủ tự rót uống. Chén đầy chén cạn, chẳng bao lâu, mắt Haiya Shoyu và Mitsuhiro đều đỏ hoe, giọng nói lè nhè. Đã đến lúc rượu đối với họ không còn mùi vị gì nữa, chỉ đắng ngắt. Yoshino mượn cớ vào nhà trong, bỏ đi từ lúc nào.
oo Miyamoto Musashi trở lại Quán Ogiya sau khi tạt qua cửa hàng bách hóa lấy chiếc áo đã gửi. Căn phòng cũ vắng hoe, trên kỷ trơ khay rượu với hai cái chén nhỏ. Hắn ngồi xuống rót rượu uống một mình.
Bỗng cửa xịch mở. Một nữ tỳ bước vào. Trông ra thì là tiểu tỳ hầu hạ Yoshino, đã cho hắn ăn cơm khi nãy.
- Khách quan đã về đấy ư ?
- Ừ, ta vừa về.
- Khách quan đi lối nào vậy ?
- Cửa sau.
- Cửa sau đóng khóa mà. Sao vào được ?
Miyamoto Musashi không đáp, chỉ mỉm cười hỏi lại:
- Họ đi đâu hết ? Sao phòng vắng tanh thế này ?
- Các vị ấy sang đông sảnh, đang cùng Mitsuhiro tướng công chơi trò thi uống rượu.
- Cả Honami tiên sinh nữa ?
- Không. Không thấy Honami tiên sinh đâu.
- Có lẽ tiên sinh về nhà rồi. Nếu thế thì ta cũng về thôi.
- Không phải. Tiểu nữ không tin ngài đã về. Mà quý khách cũng không tự tiện về được. Lệ Ở đây ai về, cô nương cháu cũng đến cáo biệt.
- Lệ gì khắt khe thế ?
- Nếu không, lần sau cô nương cháu không tiếp đâu.
- Chà ! Cô nương ngươi khó quá nhỉ !
Lần đầu tiên đến chốn ăn chơi, tiếp xúc với giai cấp thượng lưu, Miyamoto Musashi gặp nhiều điều phiền toái. So với nếp sống giang hồ của hắn, muốn đến là đế n, muốn đi là đi, không gì kềm tỏa, hắn thấy chẳng sung sướng bằng. Hắn cau mặt:
- Có lẽ ta phải phá lệ này mất !
Vừa hay Takuan ở ngoài bước vào.
- Miyamoto Musashi ! Nghe tiếng quen, quả là ngươi. Đến đây hồi nào thế ?
Vừa nói vừa vỗ vai hắn, thân mật. Miyamoto Musashi ngạc nhiên lui khỏi bàn rượu, chống hai tay xuống chiếu, rạp đầu kính cẩn:
- Takuan ! Không ngờ con cũng gặp thầy ở đây !
Nhưng Takuan đã cúi xuống nâng dậy và nói:
- Đừng ! Chỗ này là nơi giải trí, đến đây cốt để mua sự thảnh thơi, chẳng nên có những nghi lễ phiền phức. Nghe nói Koetsu tiên sinh ở phòng này, ta muốn gặp. Tiên sinh đâu sao không thấy ?
- Lúc nãy còn ngồi ở đây, không biết bây giờ đâu.
- Miyamoto Musashi ! Ta nghe nhiều chuyện về ngươi, muốn nói với ngươi vài điều, nhưng chỗ này không tiện. Thôi để khi khác. Giờ hãy tìm Koetsu tiên sinh đã.
Dứt lời, đẩy tấm bình phong, đi ra phía sau. Thì thấy Koetsu bình thản nằm ngủ trong góc.
Takuan không tiện đánh thức, toan lui ra, nhưng Koetsu đã cựa mình mở mắt. Nhìn thiền sư, ông ngạc nhiên nhỏm dậy có ý hỏi. Takuan giải thích về sự có mặt của mình nhân đến thăm và cùng đi với tướng công Mitsuhiro. Ra phòng ngoài, Koetsu nói:
- Nếu có Mitsuhiro tướng công thì lão phu cũng sang bên ấy vấn an nhân thể.
Rồi quay về phía Miyamoto Musashi:
- Cả tráng sĩ nữa ! Về làm gì vội, sáng mai về cũng chưa muộn.
Thế là cả ba bỏ sang đại sảnh phía đông.
Đến nơi, Haiya Shoyu và Mitsuhiro không còn ai uống rượu nữa. Cả hai ngồi yên lặng nhìn nhau, đờ đẫn như đắm chìm trong một nỗi buồn vạn cổ. Bọn kỹ nữ cũng đã bỏ đi, chỉ còn Sumigiku ủ rũ trong góc, tay vẫn ôm đàn, thỉnh thoảng nhấn một cung, nghe nghẹn ngào và xót xa như tiếng nức nở.
Koetsu tiên sinh nhìn cảnh này không khỏi lẩm bẩm:
- Tịch mịch quá ! Hay ta về quách !
Mọi người phân vân. Nghĩ cho cùng, thế cũng phải. Kéo dài thêm cái không khí “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” này ra làm gì, mất hứng thú. Bèn chẳng ai bảo ai, lục tục đứng dậy sửa mũ áo.
Bỗng có tiếng gõ cửa. Một tỳ nữ bước vào vừa thở dốc vừa nói:
- Xin quý khách lưu lại chút nữa. Cô nương cháu muốn mời quý khách quá bộ lại tư thất.
- A ! Ai thế ? Phải Yoshino chăng ?
- Dạ phải. Cô nương cháu xin tạ lỗi và xin quý tôn khách thông cảm cho cô cháu chẳng thể chiều lòng riêng một ai. Nếu bồi tiếp Mitsuhiro tướng công thì Bạch Phát tiên sinh buồn, mà chiều Bạch Phát tiên sinh thì để Mitsuhiro tướng công ngồi một mình sao đành dạ !
Nên cô nương cháu xin thỉnh tất cả quý tôn khách đến tư thất để cô nương cháu được hân hạnh hầu tiếp.
Mọi người, trừ Miyamoto Musashi ra, nhìn nhau ngạc nhiên, không tin điều ả thị tỳ vừa nói. Vì Yoshino là danh kỹ đất thần kinh, rất được sủng ái, từ trước đến nay không tiếp ai tại tư gia bao giờ, dù người đó là bậc công khanh có thế lực đến đâu đi nữa. Nay lại mời cả bọn về nhà là có ý gì ?
Nhưng dịp may chẳng muốn bỏ lỡ, ai cũng vui vẻ nhận lời. Mitsuhiro và Haiya Shoyu tỉnh hẳn rượu, bảo ả tỳ nữ:
- Nhà cô nương ngươi gần đây không ?
- Dạ cũng không xa, ngay cuối trang viện này. Xin quý khách theo tiểu nữ.
Miyamoto Musashi không có ý kiến, nhưng nghe lời Koetsu khuyên cũng đi. Bèn gọi người mang giày cỏ để đi tuyết đến, rồi cả năm người theo chân ả nữ tỳ ra ngoài.
Tuy là khách quen. Haiya Shoyu và Koetsu không biết chỗ ở của Yoshino. Cả hai đoán nàng sẽ đãi trà vì được biết Yoshino cũng là một đệ tử trung thành của trà đạo. Phải rồi ! Giời lạnh thế này, ngồi uống trà trong phòng ấm với mỹ nhân, còn gì thú hơn nữa.
Quanh co mãi, khỏi đường lớn, đến một khu đất cây cối lưa thưa, tuyết phủ đầy, vẫn chưa thấy nhà cửa gì, Haiya Shoyu sốt ruột hỏi:
- Ngươi dẫn chúng ta đi đâu mà đến chỗ toàn gai góc thế này ?
- Không phải gai đâu, thưa khách quan. Đây là vườn mẫu đơn. Tư thất của cô nương cháu ngay sau vườn này. Đến cuối xuân, mẫu đơn nở, chúng cháu thường hay bắc ghế ra ngoài vườn ngồi ngắm hoa, thích lắm.
- Ờ ! Nhưng giờ khác. Trời thế này mà cứ ở ngoài lạnh lỡ cảm hàn thì khốn.
- Dạ cũng gần đến rồi.
Quả nhiên lát sau đã thấy một căn nhà gỗ hiện ra. Trước nhà có miếng vườn nhỏ.
Cây đèn đá trong góc tỏa vòng ánh sáng tròn chiếu mấy khóm mẫu đơn đã bắt đầu trổ nụ. Bên hiên, cây tùng nghênh khách đứng nghiêm chỉnh, tuyết còn nặng trĩu trên cành chưa rụng.
Cả bọn năm người bước lên thềm, tháo giày cỏ rồi lần lượt theo ả nữ tỳ vào phòng.
Phòng bài trí thật đơn sơ, không ai ngờ đây là tư thất của một danh kỹ đương thời.
Trong góc, lò sưởi cháy bập bùng. Xà nhà màu nâu gụ, có lẽ dựng đã lâu nên nhiều chỗ nứt nẻ và khói ám đen nhưng được giữ rất sạch sẽ. Không có bàn ghế gì, chỉ có sáu cái bồ đoàn và một cái kỷ thấp dùng làm chỗ ngồi chơi. Trên vách, đối diện với chiếc kỷ, treo bức thư họa, vẽ đôi chim nhạn đang bay, nét chữ trên bài thơ cực kỳ xương kính.
Phía dưới đặt lọ hoa nhỏ men xanh, cắm độc nhất một bông trà. Bên cạnh, dựa vào vách là cây đàn tỳ đã cũ.
Chủ nhân bước ra, mặc kimono vàng nhạt, thắt lưng lụa đen. Nàng trang điểm rất giản dị, mái tóc cầu kỳ không còn nữa, làn suối mun được buông lơi, thả tự nhiên cho chảy xuống lưng và chỉ buộc hờ bằng một sợi dây lụa đỏ. Phấn hồng phớt nhẹ trên má và mắt nàng để tự nhiên, long lanh như nước hồ thu, nét đan thanh không bút nào tả xiết.
- Ồ ! Yoshino ! Sao duyên dáng và yêu kiều đến thế !
- Đẹp lắm ! Mà cũng tân kỳ nữa. Nàng định mời chúng ta gì đây ?
Trong khung cảnh này, quả thật chẳng cần phấn son và trang phục rườm rà, Yoshino đã gây xúc động. Koetsu là người khó tính cũng phải khen:
- Khéo lắm ! Chủ nhân thật có khiếu thẩm mỹ.
Yoshino Dayu khiêm tốn cảm tạ. Phân ngôi chủ khách xong, nàng gọi con hầu sửa soạn đồ trà, rồi nói:
- Tiện nữ mời tôn khách đến đây cốt để tạ lỗi. Tệ xá nghèo nàn chẳng có gì trân quý kính dâng, chỉ có lửa ấm và trà ngon. Thiển nghĩ tôn khách chẳng nỡ từ chối vì lửa ấm cũng như lòng thành trong một đêm lạnh như đêm nay thì người nghèo cũng như người giàu ai ai cũng mong ước cả.
Mọi người gật gù, tán thưởng. Hơi ấm trong lò tỏa ra phả vào mặt, Koetsu nghĩ đến lần đạp tuyết vừa qua, càng cảm thấy ấm áp hơn, như người đang đói được dự một bữa tiệc thịnh soạn. Chắc đó cũng là chủ ý của Yoshino. Càng nghĩ ông càng thấy nàng quả là một thiếu phụ đặc sắc và tế nhị.
Miyamoto Musashi ngồi trên chiếc bồ đoàn trong góc. Bản tính hắn vốn e thẹn trước mặt đàn bà con gái, vả lúc sơ kiến hắn chẳng muốn có những hành động sỗ sàng.
- Đại hiệp nữa ! Xin mời đại hiệp lại gần đây sưởi ấm.
Hắn chỉ ậm ừ. Lần đầu tiên tiếp xúc với một người mà cả đất thần kinh coi như đệ nhất danh kỹ, trong một không khí phong lưu, thanh lịch cùng với các bậc tiền bối hắn ngưỡng mộ, Miyamoto Musashi dè dặt trịnh trọng. Hắn mang mặc cảm tự coi mình quê mùa, không lấy làm thích thú như lúc được ngồi trong một quán nhỏ ven đường, bên chiếc bàn gỗ tạp, ăn uống tự do.
Mời mọc mấy lần, Yoshino Dayu phải đến kéo hắn tới bên lò sưởi, hắn mới làm theo, miễn cưỡng giơ tay ra trước ngọn lửa. Nhìn tay áo Miyamoto Musashi, Yoshino Dayu thấy một vết loang đỏ. Nhân khi mọi người mãi chuyện vãn, nàng rút khăn ra lau vết loang ấy.
- Đa tạ cô nương.
Nếu Miyamoto Musashi im lặng đừng cảm ơn thì chẳng ai để ý. Nhưng nghe hắn nói, mọi người quay nhìn. Mắt mở lớn ngạc nhiên, Mitsuhiro tướng công hỏi:
- Máu phải không ?
Yoshino mỉm cười:
- Không. Chỉ là cánh mẫu đơn nở sớm.
-
CHƯƠNG 41
CÂY ĐÀN VỠ
Nước sôi vừa đúng độ, đồ dùng pha trà sẵn sàng để bên, Yoshino thoăn thoắt đổ bột trà vào bát, châm nước sôi, đánh cho trà ngầu bọt. Những cử chỉ ấy nhanh nhẹn, tự nhiên và nếu chú ý hình như có một chút gì nồng ấm trong khóe mắt và nụ cười của Yoshino mỗi khi nàng bưng trà đến cho khách. Đôi má lúm đồng tiền càng tăng vẻ quyến rũ khiến Bạch Phát thi sĩ, nhà thơ đa tình, cứ ngây người ra ngắm.
Lửa bắt đầu lụi. Yoshino bỏ thêm củi vào lò. Tiếng than nố lách tách, khói trắng bốc cao, tỏa mùi thơm nhè nhẹ. Ngửi mùi thơm khác lạ, Mitsuhiro tướng công hỏi:
- Nàng đun củi gì thế ? Mùi này không phải mùi củi thông.
- Dạ không phải. Đấy là gỗ mẫu đơn.
Mọi người ngạc nhiên vì mẫu đơn mọc thành bụi, làm gì có gỗ mà dùng làm củi sưởi. Nhưng Yoshino đã cầm một khúc đưa Mitsuhiro xem. Khúc gỗ nhỏ, thớ vặn vẹo, khô đanh, rất nhiều mắt, cành cụt chĩa ra tua tủa.
- Những gốc này tiện nữ cho đào ở vườn ngoài, đem phơi để dành làm củi sưởi.
Tuy không nhiều nhưng cũng đủ dùng. Khu vườn quý tôn khách đi qua lúc nãy trồng toàn mẫu đơn có đến hàng trăm năm nay, nhiều cây đã cỗi nên không ra hoa to nữa. Tiện nữ lựa những cây nào tốt và thuộc giống quý mới để lại.
Miyamoto Musashi thấy hay hay, tò mò hỏi:
- Theo ý cô nương, thế nào mới là giống mẫu đơn quý ?
- Mẫu đơn là hoa vương, hoa nào cũng đẹp. Nhưng theo thiển ý, giống hoa tốt phải to, nhiều cánh và thuần sắc, như vậy mới xứng đáng là phú quý chi hoa. Tỷ như những khóm trồng ở ngoài kia có tên Đại Hồng Phấn và Mỹ Nhân Kiểm là những thứ đặc biệt lắm. Đại Hồng Phấn hoa to, đỏ, mịn như nhung và Mỹ Nhân Kiểm trắng như tuyết không có một tạp sắc nào.
- Cô nương rành về mẫu đơn lắm nhỉ.
- Đại hiệp quá khen. Những điều nhỏ nhặt ấy, tiểu nữ đều đọc ở trong sách.
Rồi đăm đăm nhìn Miyamoto Musashi, nàng nói:
- Mẫu đơn là hoa vương. Cho nên sau khi chết, gốc nó vẫn giữ được tính chất khác thường. Cũng như có những người giá trị của họ không thể lẫn với những người tầm thường được. - Và mơ màng như để nói với chính mình - Trên đời này, mấy ai được như hoa mẫu đơn kia, khi cánh đã héo rồi danh thơm còn lưu mãi.
Lời Yoshino gieo mối cảm hoài sâu xa trong lòng khách. Mọi người ngồi im không nói. Lát sau Takuan mới lên tiếng:
- Trong cuộc nhân sinh ngắn ngủi này, con người chúng ta chỉ nở hoa vào lúc thanh xuân thật, nhưng sinh tử vốn hư không, có lìa bỏ được ý niệm phân biệt sinh tử mới gọi được là giải thoát.
Yoshino với tư cách chủ nhân, yêu cầu quan khách lưu chút kỷ niệm. Mitsuhiro tướng công bèn bảo Koetsu:
- Chủ nhân đã yêu cầu, xin nhường tiên sinh khai bút.
Con hầu mang giấy mực ra, trải thêm tấm thảm lên sàn. Koetsu tiên sinh cầm bút, trầm ngâm giây lát rồi chấm vào nghiên mực, tay đưa thoăn thoắt trên tờ giấy lụa vân.
Nét bút tung hoành, chẳng mấy chốc đã thấy hiện ra một cành mẫu đơn trông sinh động như thật. Nhìn hoa, Takuan cao hứng, viết ngay một bài cảm đề theo thể thơ Haiku:
Vướng mắc gì trong vòng hệ lụy ?
Cánh hoa kia tuy đẹp Nhưng rồi cũng tàn phai.
Bạch Phát lão nhân thì chọn thể thơ tứ tuyệt:
Hoa tươi không nỡ hái
Hoa rụng lòng bâng khuâng
Vườn khuya bông tuyết trải
Hạt bụi vào hư không.
Đọc thơ, Yoshino mắt rướm lệ. Riêng Miyamoto Musashi mừng thầm, vì chẳng ai bảo hắn đề thơ lưu niệm.
Bức tranh được treo lên, Yoshino cúi đầu tạ khách. Bỗng có người lên tiếng:
- Chủ nhân nổi tiếng danh cầm, sẵn có đàn tỳ, sao không dạo nghe một bản ?
Vâng lời, Yoshino đến bên vách nâng đàn, rồi không đợi giục, kéo bồ đoàn ngồi giữa phòng, vặn giây so phím, lựa một khúc hợp với tâm sự.
Mới đầu còn gẩy vài tiếng, tuy chưa thành khúc điệu mà đã tỏ ra lão luyện.
Tiếng đàn từ dây này sang dây khác vang lên, lúc khoan lúc nhặt, bộc lộ niềm u uẩn. Tiếng nào cũng mang nặng nỗi bất đắc chí thuở bình sinh, nghe ra nghẹn ngào thương cảm.
Lửu lụi dần, gian phòng tối hơn, chẳng ai để ý. Cử tọa dường như bị thôi miên bởi sức cám dỗ của tiếng đàn bi thiết. Mãi đến khi kết thúc, năm ngón tay nàng phả cả vào bốn dây, nghe đánh “toang”, tưởng như không chịu nổi những u uất, cây đàn muốn vỡ tung, mọi người mới giật mình sực tỉnh.
Yoshino để đàn lại chỗ cũ, khiêm nhượng:
- Tiện nữ còn phải học nhiều, xin quý tôn khách lượng thứ.
Tân khách cúi đầu không đáp. Nói gì cũng bằng thừa sau những tiếng đàn như thế.
Yoshino gọi người nhà mang thêm củi, gây lửa lớn hơn.
Câu chuyện đổi sang nghệ thuật pha trà và uống trà của một vài sắc dân miền bắc hải đảo. Dịp này Koetsu và Takuan chứng tỏ các vị quả là những bậc hiểu biết uyên bác về nghệ thuật dùng trà.
Trời đã khuya, có lẽ cuối giờ sửu, mọi người từ tạ ra về. Yoshino Dayu đứng bên cửa cảm ơn quan khách, cúi chào từng người trong khi khách lần lượt buộc giày cỏ bước xuống thềm.
Miyamoto Musashi cũng ngỏ lời từ biệt, nhưng Yoshino giữ lại. Nàng kéo áo hắn nói nhỏ:
- Hãy khoan ! Đại hiệp ở lại đây đêm nay. Bất cứ vì lý do gì thiếp cũng không để chàng về được.
Musashi thẹn, mặt đỏ như gấc. Hắn vờ không nghe, cứ xăm xăm bước.
- Honami tiên sinh ! Tiện nữ giữ Musashi đại hiệp ở lại tối nay, được không ?
Miyamoto Musashi bối rối, gạt tay thiếu phụ ra:
- Cô nương tha lỗi, tại hạ phải về.
Nhưng Koetsu bước đến bên, đẩy nhẹ hắn vào phòng và ghé tai nói nhỏ:
- Tráng sĩ, sao lại thế ? Ở lại đi, lúc nào về cũng được.
Miyamoto Musashi tưởng mọi người đồng lõa với nhau giữ hắn ở lại để trêu cợt vì thấy hắn quê mùa. Nhưng nhìn nét mặt nghiêm trang của Koetsu và Yoshino, hắn thấy là không phải thế. Takuan lầm lì chẳng nói câu nào, trong khi Haiya Shoyu và Mitsuhiro cười lớn:
- Musashi ! Ngươi là người có diễm phúc nhất Kyoto này đấy !
Bỗng một ả thị tỳ đạp tuyết hớt hải chạy đến bên Yoshino nói nhỏ mấy câu.
Nghe xong, nàng nghiêm sắc mặt:
- Tiện nữ đoán quả không sai. Mấy đường hẻm sau nhà bị vây kín rồi, chỉ có cổng chính là còn ra vào được, nhưng bị canh chừng. Ngoài đường nhiều kẻ đeo kiếm đứng tụm năm túm ba dòm ngó. Qúy khách phải cẩn thận, tiện nữ đã cho gọi phu cáng đến đón quý vị Ở ngoài. Riêng Musashi đại hiệp thì không thể nào dời đây được, nhất định phải ở lại.
Yoshino phong cách đa tình rất mực, ngón đàn điêu luyện gây xúc động lòng người, thế mà khi hữu sự, nàng lại tỏ ra can đảm vô cùng, bình tĩnh cắt công việc đâu ra đấy, chẳng kém gì nam nhi. Thấy vết máu trên tay áo Miyamoto Musashi, nàng có ý nghi, áy náy lo cho hắn nên đã phái người đi dò xét.
Yoshino kéo Miyamoto Musashi vào nhà trong, khép cửa lại:
- Musashi đại hiệp ? Bây giờ đã biết chuyện gì xảy ra ở ngoài rồi, chàng còn muốn đi không ?
- Tại hạ phải đi.
Yoshino Dayu nghiêm mặt:
- Để làm gì ? Để chứng tỏ chàng không sợ họ phải không ?
Musashi lặng thinh. Yoshino Dayu tiếp:
- Nếu đại hiệp sợ bị chê là hèn nhát thì sáng mai ra gặp họ cũng chẳng muộn. Bây giờ họ đang phục kích, lại có số đông. Mãnh hổ nan địch quần hồ, nếu để chàng rơi vào bẫy của họ rồi mất mạng thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ và uổng chí bình sinh.
- Xin cảm ơn cô nương đã cho nghe những lời xác đáng. Nhưng còn danh dự … - Tiện nữ biết. Tiện nữ không khuyên đại hiệp trốn chạy, chỉ lưu tâm suy xét. Một cuộc xô xát xảy ra ở nơi này sẽ làm bao người vô tội chết oan. Lòng nhân có cho phép chàng làm như thế không ? Xin nghĩ kỹ, đừng vọng động ?
Miyamoto Musashi cho là phải. Hắn xếp bằng trên chiếc bồ đoàn đặt ở góc phòng.
Nàng Yoshino ngồi bên lò sưởi, gọi:
- Musashi đại hiệp ! Đến đấy sưởi cho ấm, chỗ ấy lạnh lắm !
Nhưng hắn chối từ:
- Cô nương đi nghỉ, đừng quan tâm đến tại hạ. Khi nào trời sáng, tại hạ sẽ đi.
Mời mọc mãi, Miyamoto Musashi vẫn chỉ cảm ơn, ngồi im như tượng. Thế nhưng sự vụng về của hắn không làm Yoshino giận. Trái lại nàng thấy hắn có một vẻ gì khác thường, rất quyến rũ.
Yoshino hơn Miyamoto Musashi chừng năm tuổi. Cảm tình nàng đối với hắn như của một người chị mà cũng như của một người tình. Lẫn lộn, khiến nàng háo hức, say mê.
Có người nói nếu coi đàn ông chỉ như con bò vắt sữa lấy lợi, thì hãy làm nghề ca kỹ. Đối với Yoshino, điều này không đúng, vì nàng, tuy đã được huấn luyện để trở thành một danh kỹ tài sắc vẹn toàn, tiểu nữ vẫn không để mất đi bản chất dễ cảm, dễ rung động của lòng mình. Nàng vẫn còn biết yêu, biết cảm.
Nhìn gã thanh niên ngồi kia, dáng cứng đơ, tuy là một kiếm sĩ đã xông pha nhiều trận, nhưng hãy còn ngây dại trong tình trường, từ chối mọi lời mời mọc, không dám đến cả nhìn mình nữa, như sợ ánh mắt mình mê hoặc, nàng cảm thấy xót thương và tự nhiên trong lòng dâng lên một niềm mến yêu dào dạt, như một trinh nữ lần đầu gặp người tình lý tưởng.
Tuyết ở mái hiên đổ xuống nghe như có ai nhảy vào vườn. Miyamoto Musashi rướn mình, nghe ngóng. Mỗi lần có tiếng động như thế, thần kinh hắn lại căng thẳng, các chân tóc dựng đứng. Yoshino rùng mình. Lúc gần sáng là lúc lạnh nhất trong đêm, nhưng không phải nàng rùng mình vì lạnh mà vì nhìn gã thanh niên kia tinh thần căng thẳng quá độ, nét mặt khẩn trương đến thành dữ dội.
Ấm nước sôi phì phì trên bếp. Tiếng nước reo quen thuộc khiến nàng cảm thấy bớt trống trải. Yoshino pha trà và gọi:
- Sắp sáng rồi. Đại hiệp lại uống trà, ngồi gần lửa cho ấm.
- Cảm ơn cô nương.
Miyamoto Musashi đáp nhưng vẫn không nhúc nhích.
Chén trà nguội dần. Yoshino chẳng muốn khẩn khoản mời nữa làm phiền người bạn trẻ. Tuy nhiên nàng khó chịu. Đổ chén trà nguội vào bình đựng nước cặn, nàng tự nhủ:
”Thật phí ! Thừa trà cho tên thô lỗ này uống. Chẳng biết một chút lịch thiệp gì !”.
Thế nhưng nhìn hắn nàng lại thương.
- Musashi đại hiệp !
- ... ?
- Sao đại hiệp có thái độ như thế ?
- Tại hạ không muốn trễ nải sự đề phòng.
- Đề phòng cái gì ?
- Kẻ thù ! Dĩ nhiên ! Cô nương đã biết rồi !
- Đại hiệp lầm ! Nếu cứ tiếp tục thế này thì khi kẻ thù đến, chàng sẽ kiệt sức, không còn đủ tỉnh táo mà đối phó. Thiếp không biết gì về kiếm đạo, nhưng nhìn đại hiệp, thấy không thắng được. Chàng sẽ chết trong đám loạn đao mà thôi. Thật đáng buồn và đáng tiếc !
Lời nói của Yoshino Dayu có lẽ chỉ do lòng lân ái, thương xót, nhưng làm Miyamoto Musashi bối rối. Hắn dời chỗ ngồi đến bên bếp lửa.
- Cô nương chê tại hạ còn non nớt ?
- Thiếp làm phật ý đại hiệp chăng ?
- Không. Nhưng tại hạ muốn được nghe những lời giải thích rõ hơn.
Sau trận đấu vừa rồi ở hậu viên Kim Các Tự, Miyamoto Musashi ý thức rõ rệt mối nguy ghê gớm đương bao vây hắn. Kẻ thù bây giờ là toàn thể phái Yoshioka rình rập, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là ra tay bất cần luật lệ. Miyamoto Musashi muốn bỏ đi, mai danh ẩn tích một thời gian nhưng nghĩ thế hèn quá lại thôi. Hắn phải trở lại cáo biệt những người đã cư xử rất tốt với hắn như mẹ con Koetsu lão mẫu. Ngẫu nhiên làm sao lại gặp Yoshino Dayu.
Nàng ngụ ý chê hắn chưa đủ trưởng thành. Có lẽ đúng. Hắn muốn hỏi cho ra lẽ.
- Xin cô nương cho biết tôn ý.
Yoshino Dayu không trả lời. Miyamoto Musashi cau mặt tiếp:
- Hay cô nương đùa, chế giễu tại hạ ?
Nụ cười vừa nở trên môi vội tắt ngay, Yoshino Dayu lắc đầu:
- Tiện nữ đâu dám thế. Đối với một kiếm sĩ, trước vấn đề sinh tử như vậy, tiện nữ đâu dám đùa cợt.
- Vậy ý cô nương ra sao, đừng để tại hạ nóng ruột hơn nữa.
- Đại hiệp muốn nghe đàn chăng ? Tiện nữ xin gẩy một bản tặng đại hiệp.
- ... ?
- Mà thôi ! Trong hoàn cảnh thế này, đại hiệp còn lòng dạ nào nghe đàn nữa, phải không ?
Không hiểu ý tứ Yoshino ra sao, Miyamoto Musashi đấu dịu:
- Sao không nghe ? Thì cô nương cứ đàn đi, ít ra tiếng đàn của cô nương cũng làm tại hạ thư thái.
Vâng lời, Yoshino dạo một bản hành khúc.
Đàn xong, nàng nói:
- Có bao giờ đại hiệp tự hỏi một cây đàn chỉ có bốn dây như thế này mà có thể diễn tả được mọi vi tế của âm thanh không ?
- Không. Tại hạ không rõ.
- Cây đàn cũng như con người đấy, đại hiệp ! Nhưng trước khi giải thích, để tiện nữ đọc một đoạn trong bài Tỳ Bà Hành của Bach Cư Dị tả tiếng đàn, chắc đại hiệp biết:
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt Trước nghê thường sau thoắt lục yêu Dây to dường đổ mưa rào Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu Trong hoa, oanh ríu rít nhau Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao Cung đàn lựa khúc thanh tao, Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây ...
Xem thế, cây đàn nhỏ bé này có thể phát ra không biết bao nhiêu là âm giai, từ những tiếng nhỏ như tơ, cao tựa hạt châu nẩy trên mâm bạc và trầm tựa như mưa rào đổ, nhất nhất đều được cả. Tại sao vậy ? Nhờ cái gì mà cây đàn có thể rung động đáp ứng mọi sự sai khiến của người gẩy ? Ngay từ nhỏ, lúc đang học, thiếp đã thắc mắc phá một cây đàn ra xem. Mãi sau mới biết được cái bí mật ấy nằm trong lòng đàn. Nó chính là cái tâm của cây đàn.
Nếu đại hiệp coi kỹ, sẽ hiểu tại sao nhờ nó mà cây đàn rung động, gây ra những âm hưởng vô cùng tinh tế, vi diệu, và cũng nhờ nó mà mỗi cây đàn có một âm sắc riêng, không cây đàn nào giống cây đàn nào.
Yoshino đặt cây tỳ bà lên kỷ, cầm dao nhọn đâm mạnh một nhát, trước sự sững sờ của Miyamoto Musashi. Hắn không ngờ và cũng không cản kịp. Miyamoto Musashi cảm thấy như đau nhói ở tim và như có máu từ trong lòng đàn rỉ ra. Hắn giữ một tiếng kêu.
Bàn tay nhanh nhẹn, quyết liệt của Yoshino giơ lên đâm xuống ba lần. Cây đàn vỡ toang.
Nàng cầm cây đàn vỡ giơ lên cho Miyamoto Musashi xem. Hắn nhìn mặt Yoshino, nhìn mảnh đàn vỡ và nhìn những ngón tay trắng muốt còn nắm con dao nhọn, tự hỏi người đứng trước mặt hắn là nàng danh kỹ đất thần kinh có ngón đàn tuyệt diệu hắn vừa được nghe hay chỉ là một thiếu phụ mà bản chất tàn ác đã được phô diễn trong hành động hắn vừa chứng kiến.
Yoshino chỉ tay vào mảng gỗ trong lòng đàn và nói:
- Miếng gỗ cong này chính là cái tâm của cây đàn. Nếu nó cứng và thẳng, tiếng đàn sẽ cứng ngắc, buồn tẻ. Phải gọt nó cong, nhưng như thế cũng chưa đủ. Lúc dán vào lòng đàn, hai đầu nó phải để lơi cho tự do rung động thì mới tạo nên được sự phong phú trong âm thanh.
Tâm trí con người cũng thế, phải mềm dẻo thích nghi. Sau mỗi khi căng thẳng, hãy để cho lòng thoải mái. Cứng quá thì gãy.
Mắt Miyamoto Musashi không rời khỏi cây đàn. Môi hắn mím chặt. Yoshino lại tiếp:
- Điều tiện nữ vừa nói, ai chơi đàn cũng biết. Vì thế, búng tay một cái, thiếp có thể vận dụng cả bốn dây, phát ra tiếng gió rít, mưa gầm hay sét nổ, nhờ đặc tính quân bình hòa hợp của miếng gỗ trong lòng đàn. Tối nay, khi nhìn đại hiệp lần đầu tiên, tiện nữ không thấy một chút gì gọi là mềm dẻo thoải mái. Chỉ thấy sự ngay đơ, cứng ngắc làm cho tiện nữ lo sợ. Xin đại hiệp tha lỗi cho, tiện nữ không bao giờ có ý đùa cợt hay chế giễu đại hiệp, đại hiệp có hiểu cho không ?
Một tiếng gà gáy xa xa. Về phương đông, trời đã rạng hoa lê. Miyamoto Musashi ngồi đăm chiêu nhìn cây đàn vỡ, những mảnh gỗ vụn rải rác trên mặt kỷ và sàn nhà. Hắn không nghe tiếng gà và cũng không ngờ trời đã sáng.
-
CHƯƠNG 42
TRÁI TIM ĐAU
Tiết trời ấm áp đã hai ngày. Tuyết tan hết từ lâu, và ở trong vườn những lá non lại mới bắt đầu nhú.
Buổi trưa, không khí oi nồng. Hơi nước từ dưới đất bốc lên rung rung trong ánh nắng chói lòa gay gắt. Người ta đã phải mặc áo mỏng mùa hè thay cho áo kép.
Bên chiếc cổng tò vò lớn trước tư dinh Tả xuyên hầu Mitsuhiro, một thiền sư trẻ tuổi đang đứng chờ, nhẫn nại. Nhà sư trang phục theo lối lữ hành:
áo xắn cao, quần bó chẽn, vai đeo tay nải, bụi đường bám lốm đốm trắng nhiều chỗ. Gọi cổng mấy lần không thấy ai ra mở nhà sư trẻ tỏ vẻ sốt ruột. Ông dùng cây vồ nhỏ gõ vào cánh cổng vài lần nữa cũng không kết quả, bèn bỏ đi, men theo chân tường đá vòng quanh mãi.
Đến một chỗ tường được thay bằng hàng giậu thấp, ông dừng lại ghé mắt nhìn vào. Bên trong, lẩn giữa những lùm cây cắt xén gọn ghẽ, là mấy gian nhà cỏ.
- Thầy chùa tìm ai ?
Nhà sư giật mình. Đang dáo dác nhìn quanh xem người vừa hỏi đứng chỗ nào, thì lại nghe tiếng nói tiếp, giọng dấm dẳn buông sõng:
- Muốn xin ăn thì lại đằng bếp. Chỗ này là nhà khách, có gì đâu !
Định thần nhìn kỹ, mới thấy một thằng bé trạc mười bốn mười lăm, đen đủi, đứng bên trong giậu. Nhà sư ngạc nhiên, kho hiểu sao trong dinh Mitsuhiro tướng công lại nuôi những gia nhân nhỏ tuổi thiếu lễ độ như vậy. Tuy nhiên, vẫn ôn tồn:
- Bần tăng không phải kẻ đi khất thực. Bần tăng là Nansoji ở tỉnh Izumi, mang thư đến cho Takuan, nghe nói ngụ Ở đây. Thí chủ phải chăng là tiểu bộc trong dinh ?
- Không phải. Tôi tên Jotaro, khách của Mitsuhiro tướng công, cũng như Takuan, không phải người hầu.
- Mô Phật ! Bần tăng không biết. Vậy phiền tiểu thí chủ vào báo với Takuan thiền sư có Nansoji đợi ngoài này.
- Được ! Để tôi gọi.
Dứt lời, chạy ngay đi. Trong lúc vội vàng, thế nào vấp phải chiếc rễ cây lớn mọc chồi trên mặt đất, ngã sóng soài. Mấy quả quít giấu trong tay áo rơi ra ngoài lăn lông lốc.
Thằng bé nhặt lên gom lại rồi lật đật vào nhà. Lúc sau trở ra nói:
- Takuan đi khỏi rồi.
- Đi đâu ?
- Hình như lên chùa Phổ Tế.
- Bao giờ về ?
- Không rõ. Người nhà bảo “sẽ về ngay”.
Nhà sư đứng tần ngần một lát, đoạn mở tay nải đeo trên vai ra rút một phong thư định đưa cho Jotaro, nhưng nghĩ sao ông lại cất đi và nói:
- Bần tăng muốn ngồi chờ Takuan về. Tiểu thí chủ có biết chỗ nào có thể ngồi chờ được mà không làm phiền đến ai thì chỉ giùm.
Jotaro gật đầu, chui hàng rào ra dẫn nhà sư trẻ tuổi qua sân đến một căn nhà đã đổ nát dùng làm lẫm lúa.
- Đây, chỗ này. Thầy ngồi đợi ở đây chắc chẳng làm phiền ai đâu.
Lẫm lúa bỏ hoang đã lâu ngày. Rêu mọc từng đám trên nền đất ẩm lẫn với những đống phân bò và bánh xe gẫy, lưỡi cày han rỉ.
Nhà sư trố mắt nhìn Jotaro, chưa kịp nói câu gì, Jotaro đã bỏ chạy.
Đến trước căn nhà gỗ về phía tây hoa viên, nó gọi:
- Cô Otsu ! Em mang quít về cho cô đây !
Đã mấy ngày nay, Otsu bệnh nằm liệt giường. Thầy thuốc do Takuan mời đến khám nói nàng bị tâm bệnh, cắt cho mấy thang thuốc bổ. Nhưng nàng nào có uống.
Thuốc sắc rồi để nguội phải đổ đi. Otsu sờ tay lên má, biết mình gầy lắm. Những gân xanh nổi rõ trên mu bàn tay làm ngón tay nàng như dài và trắng hơn. Từ khi ngất đi sau miếu sơn thần đêm hôm đó, Otsu được đưa về tĩnh dưỡng tại tư dinh Mitsuhiro. Sự sợ hãi, thất vọng và tủi cực làm tinh thần và thể chất vốn đã yếu đuối của nàng không còn được như xưa nữa. Lúc nào Otsu cũng hâm hấp sốt mà cũng chẳng biết đói. Sáng nay, Otsu thèm ăn một quả quít. Nàng ngỏ ý với Jotaro. Thằng bé xuống bếp nhưng chẳng may, nhà bếp không có thứ trái cây ấy. Nó chạy ra tiệm thực phẩm để mua cũng không được.
Vòng ra phố chợ, chỉ thấy rau đậu lẫn với các quầy hàng xén bán kim chỉ gương lược, chẳng chỗ nào bán quít.
Thất vọng, Jotaro trở về, nghĩ không còn cách gì khác ngoài cách xem vườn nhà nào trồng quít thì hái trộm vài quả. Qua một thửa vườn cây cối sum sê, thấy hai cây chĩu chịt những quả còn xanh, Jotaro mừng hết sức, mon men đến gần. Ngờ đâu, chẳng phải quít mà chỉ là mận. Nó không biết mùa này đâu phải là mùa quít !
Thất thểu đi một lúc, bỗng mắt Jotaro sáng lên vì nó vừa trông thấy trên bệ thờ lộ thiên ở góc vườn nhà kia một đĩa trái cây trong đó để lẫn lộn những quả táo xanh và mấy quả quít đỏ.
Jotaro nhổ nước bọt vào lòng bàn tay và xoa hai bàn tay với nhau. Một cử chỉ quen thuộc nó thường làm mỗi khi gặp công việc khó khăn cần phải dùng nhiều sức hay cần phải tập trung ý chí. Đoạn nhìn trước nhìn sau không thấy ai, nó chui tọt qua hàng rào, nhanh như con sóc.
Lấy ba quả quít bỏ vào tay áo chui ra, đối với Jotaro không có gì khó khăn. Nhưng ra khỏi vường, nó sợ, khấn thầm trong bụng:
“Lạy các ngài, xin đừng phạt con. Con không ăn quít này, con chỉ mượn tạm, sau sẽ xin hoàn lại đầy đủ”. Nó không biết bàn thờ thờ ai nên khấn bừa là các ngài, và cũng không dám nói là lấy cho cô Otsu ăn, sợ thần linh phạt cô nó.
Jotaro bày ba quả quít lên bàn, bóc một quả đưa cho Otsu. Nhưng Otsu không động đến.
- Sao chị không ăn ?
Otsu vùi mặt xuống gối, nước mắt chan hòa. Jotaro tặc lưỡi:
- Chị lại khóc rồi ! Sao chị khóc hoài vậy ?
- Chị xin lỗi em.
- Chị đừng xin lỗi nữa. Chị ăn đi cho em vui lòng.
- Cám ơn Jotaro, em cứ để đấy, chị ăn sau.
- Quả này em bóc rồi, chị ăn đi.
- Em đối với chị tốt quá, nhưng quả thật bây giờ chị chưa muốn ăn.
- Tại chị khóc nhiều quá đấy mà ! Chị ơi, có chuyện gì làm chị buồn thế ?
- Chị khóc vì sung sướng đấy em ạ. Em tốt quá !
- Em không muốn chị khóc và gầy yếu như thế này đâu. Chị làm em cũng muốn khóc.
Otsu chùi nước mắt:
- Thôi chị không khóc nữa. Chị hứa với em chị không khóc nữa, em bằng lòng chưa ?
- Chị phải ăn quả quít này em mới bằng lòng. Chị muốn ăn quít, em đi lấy về cho chị, bây giờ chị lại không ăn. Nếu không ăn uống gì thì làm sao mà sống được ?
- Ừ, thì chị ăn đây !
Otsu cầm quả quít đã bóc. Những ngón tay trắng xanh run run nhặt những sợi xơ trắng trên múi quít, nàng tách quả quít ra làm hai, đưa cho Jotaro một nửa.
- Em ăn với chị.
Jotaro nuốt nước bọt. Nó thèm lắm, nhưng nghĩ đến lời đã khấn, nó không dám.
- Không, em không ăn đâu, chị ăn đi.
- Sao không thấy thầy Takuan ở nhà. Em biết thầy đâu không ?
- Hình như lên chùa Phổ Tế rồi. Jotaro đáp.
- Hôm qua thầy Takuan có gặp sư phụ của em phải không ?
- Vâng, sao chị biết ?
- Thầy Takuan nói. Không rõ thầy ấy có cho Miyamoto Musashi biết chúng mình ở đây không ?
- Em cũng không rõ.
- Thầy Takuan bảo với chị sẽ dẫn Musashi về đây. Thầy ấy có nói cho em biết thế không ?
- Không.
- Vậy chắc thầy quên rồi.
- Chị có muốn em nhắc không ?
- Ừ, em nhắc thầy thì tốt.
Nàng mỉm cười. Lần đầu tiên từ khi nằm bệnh, Jotaro thấy Otsu mỉm cười, vẻ sung sướng lộ trên nét mặt.
- Nhưng đừng nhắc thầy chuyện ấy trước mặt chị.
- Sao vậy ?
- Thầy ấy gớm lắm, cứ cho là chị mắc bệnh tương tư, rồi chế giễu chị.
- Thế nếu sư phụ em đến gặp chị thật, chị có hết bệnh không ?
- Đấy ! Đến em mà cũng nghĩ chị như thế !
Tuy nói vậy, nhưng Otsu vui sướng hẳn ra. Niềm hân hoan và hy vọng lóe sáng trên khuôn mặt xanh xao như tia nắng hửng lên trong một buổi chiều thu ảm đạm.
Có tiếng hắng giọng bên ngoài và tiếng gọi của một gia nhân:
- Cô nương ! Jotaro có trong ấy không ?
- Có. Chuyện gì thế ?
- Takuan muốn gặp Jotaro. Thầy có việc muốn dặn.
Jotaro chạy vội ra, Otsu gọi với:
- Đừng quên nhắc thầy Takuan việc ấy, nghe em !
Rồi nằm xuống quay mặt vào vách, kéo chăn che kín đôi má gầy ửng đỏ.
oo Tả xuyên hầu Mitsuhiro ngồi đàm đạo với Takuan trong thư phòng phía sau đại sảnh. Jotaro theo người hầu vào, cúi đầu chào Mitsuhiro lấy lệ rồi chạy ngay đến bên Takuan ghé tai nói nhỏ:
- Lúc nãy có một ông sư đến tìm thầy. Ông ấy ở trấn Izumi tới và cũng ăn mặc giống như thầy. Cháu đi gọi lại nhé !
- Thôi không cần. Ta gặp ông ấy rồi. Ông ấy than phiền mày đối với ông ấy tệ quá.
- Cháu đối tệ với ông ấy bao giờ ?
- Để khách ngồi đợi ở nhà kho, cạnh đống phân bò là không tệ à ?
- Thì tại ông ấy bảo tìm hộ cho một chỗ ngồi chờ không muốn ai làm phiền, cháu mới dẫn đến đó chứ.
Mitsuhiro tướng công nghe chuyện, cười bò ra, rung cả hai vai, rút khăn thấm nước mắt mấy lần. Mãi sau mới lấy lại được vẻ trang nghiêm. Takuan cũng lắc đầu, mỉm cười:
- Cái thằng này, thật bất trị !
Mitsuhiro lại hỏi:
- Vậy ra đại sư tính đi thẳng về Tajima, chứ không qua trấn Izumi nữa đấy ?
- Dạ chính thế. Bần tăng sợ về không kịp.
Jotaro ngạc nhiên, giương mắt tròn xoe nhìn Takuan:
- Thầy định đi đâu ?
- Ta phải về nhà thăm lão mẫu. Bà bệnh nặng.
- Thầy cũng có mẹ à ?
Takuan cười:
- Dĩ nhiên là có.
- Bao giờ thì thầy trở lại ?
- Cái đó còn tùy tình trạng sức khỏe của bà.
- Vậy cô Otsu với cháu phải ở đây, không gặp lại thầy nữa ư ?
- Sao lại không ? Ta đã xin với tướng công cho Otsu lưu lại đây ít bữa đến khi bình phục. Cháu phải săn sóc và khuyên Otsu chịu khó ăn uống. Đối với nàng, dưỡng sinh đúng phép tốt hơn là uống thuốc.
Jotaro thừ người ra suy nghĩ:
- Khó lắm ! Cháu đã khuyên nhiều lần mà cô Otsu chẳng nghe. Cháu sợ không đủ sức.
- Ta biết. Đấy là tâm bệnh, phải kiên nhẫn mới được.
- Nếu sư phụ cháu đến thăm, chắc cô Otsu khỏi. Thầy gặp sư phụ cháu rồi phải không ?
- Ừ, ta đã gặp Miyamoto Musashi.
- Ở đâu ?
Takuan nhìn Mitsuhiro, phân vân không muốn đáp. Jotaro tiếp luôn:
- Bao giờ sư phụ cháu đến ? Thầy có hứa dẫn sư phụ cháu đến thăm cô Otsu phải không ?
- Ờ ...ờ ...
Mitsuhiro tướng công xen vào nói:
- Miyamoto Musashi ! Có phải anh chàng thanh niên kiếm sĩ ta gặp tại quán Ogiya đó không ?
- Thưa phải. Takuan đáp.
Đoạn quay về phía Jotaro, ông ôn tồn giải thích:
- Ta không quên lời hứa ấy đâu. Vừa rồi ở chùa Phổ Tế về, ta có tạt qua ngõ Honami tìm Miyamoto Musashi nhưng không thấy. Chắc hắn vẫn còn ở nhà Yoshino.
Mitsuhiro tướng công nhướng lông mày:
- Thật ư ?
Rồi lẩm bẩm:
- Tên quê mùa ấy có gì đặc biệt mà Yoshino phải quan tâm đến thế ?
Takuan nghe, không khỏi cười thầm, nhưng cũng phụ họa:
- Lòng đàn bà khó dò. Hình như chẳng nhiều thì ít, Yoshino Dayu cũng như Otsu, đều bị bệnh cả. Mà anh chàng Musashi này xem ra rồi cũng như các thanh niên khác thôi, khó tránh khỏi bị quyến rũ.
Trời đã về chiều. Takuan đứng dậy cáo từ. Lúc chia tay mỗi người một tâm trạng, không buồn cũng chẳng bịn rịn. Nhà sư chợt đến, chợt đi là sự thường, không ai lấy làm ngạc nhiên hoặc tỏ ý lưu lại.
Takuan ra khỏi thư phòng, Jotaro chạy theo nắm áo:
- Thầy đến an ủi cô Otsu cháu một chút. Cô ấy cứ khóc hoài, cháu không sao dỗ được.
- Otsu có nhắc đến Miyamoto Musashi không ?
- Có. Cô Otsu hỏi thầy bao giờ dẫn Miyamoto Musashi về ? Nếu ông không về, chắc cô Otsu chết mất.
- Không sao đâu, rồi sẽ khỏi.
- Thầy Takuan ! Yoshino Dayu là ai vậy ?
- Sao cháu hỏi ta câu đó ?
- Thì lúc nãy thầy nói sư phụ cháu ở nhà Yoshino mà !
- Ờ ...ờ ...Bây giờ ta không đến thăm Otsu được, nhưng ta muốn nhắn một lời khuyên.
- ... ?
- Cháu bảo Otsu hãy cố gắng ăn uống, giữ gìn sức khỏe. Đó là phương cách thiết thực nhất trong lúc này.
- Thì cháu cũng đã nói nhiều lần như vậy. Cô Otsu không nghe. Cháu biết làm sao được ?
- Nếu Otsu không nghe, cháu cứ nói thật ...
- Nói thật cái gì ?
- Nói thật là Miyamoto Musashi đang say mê một kỹ nữ tên Yoshino ở xóm Rokujo và hiện ở nhà nàng mấy đêm nay. Otsu có ngu mới đi yêu một người như vậy !
Jotaro trợn mắt nhìn Takuan. Nó sững sờ không nói nên lời. Lát sau mới hét lớn:
- Nói láo ! Ông sư này nói láo ! Ông ấy là thầy tôi ! Ông ấy là kiếm sĩ, chưa bao giờ làm điều gì bậy ! Ông xui tôi nói thế để cô Otsu tự tử chết hay sao ? Ông mới là thằng ngu, thằng khùng !
Takuan cười ha hả.
- Này ông đầu trọc kia, ông không được nói xấu sư phụ tôi ! Mà ông quyền gì bảo cô Otsu là ngu !
Takuan gật gù:
- Khá ! Cháu thật là đứa trẻ tốt, có lòng trung hậu.
Rồi đưa tay xoa đầu Jotaro. Nhưng Jotaro cúi tránh, không để tay ông chạm vào đầu nó.
- Từ nay, không nhờ ông giúp việc gì nữa. Tôi sẽ tự đi tìm thầy tôi dẫn về cho cô Otsu.
- Cháu biết chỗ nào không ?
- Không. Nhưng tôi sẽ tìm được !
- Tùy. Nhưng ta bảo trước, tìm chỗ ở của Yoshino Dayu không phải dễ. Cháu muốn biết, ta chỉ cho.
- Không cần ! Tôi không cần ông chỉ.
Takuan nhìn thằng bé rồi mỉm cười nói:
- Jotaro ! Ta không thù gì Otsu mà cũng chẳng ghét Miyamoto Musashi. Trái lại, trong thâm tâm, ta vẫn mong ước cả hai sum họp với nhau, sống một cuộc đời bình thường ...
- Vậy tại sao ông lại nói những chuyện độc ác như thế ?
Takuan thở dài, ngồi xuống gốc cây bên vệ đường:
- Ta lầm ! Ta không ngờ những điều ta dự đoán làm cháu hiểu lầm ta ! Cháu nói có lý, nhưng cháu phải biết cả hai đều là những người bệnh. Miyamoto Musashi, sư phụ cháu, hắn đang ở cái lúc phải tự xét mình, khắc kỷ để tự tu dưỡng. Hy vọng hắn ý thức được đàn bà còn nguy hiểm hơn là đao kiếm gấp bội lần. Nhưng ngoài Miyamoto Musashi ra, ai có thể giải quyết được những việc riêng tư ấy của hắn. Nên ta nghĩ tốt hơn hết cứ để cho hắn tự giác ngộ. Còn Otsu, nàng rất cần giúp đỡ. Ta là thiền sư đã nhập thế, có bổn phận giúp đỡ nàng, chữa những người mắc tâm bệnh cũng như thầy lang chữa những người mắc bệnh thể chất. Nhưng hỡi ơi ! Ta chẳng làm gì được ! Nếu Otsu không ý thức nổi được rằng mối tình của nàng vô vọng thì ta chỉ còn cách khuyên nàng giữ lấy sức khỏe mà thôi. Và nếu không được nữa thì nói thật cho nàng biết.
Takuan nói thao thao, chẳng biết Jotaro có hiểu gì hay không hay chỉ là để tự thuyết phục. Thằng bé vẫn còn giận:
- Ông không cần giúp cô Otsu. Tôi sẽ giúp cô ấy.
- Vậy tốt. Takuan gật đầu. Cháu đến xóm Liễu xem Miyamoto Musashi làm gì rồi về nói cho Otsu biết. Otsu sẽ đau lòng lắm nhưng cũng giúp cho nàng sáng mắt.
Ông nói đoạn, đứng dậy sửa lại tay nải, chống gậy bỏ đi.
Jotaro nhìn theo, lẩm bẩm:
- Sư khùng, láo khoét !
Rồi nghĩ thế nào, nó đưa tay ra banh mồm lè lưỡi, vẫy vẫy ngón tay sau lưng Takuan, bắt chước cử chỉ của những trẻ đầu đường xó chợ chế giễu những nhà sư khất thực.
Bóng Takuan khuất dần sau hàng cây, Jotaro một mình đứng lặng. Nó thấy cay cay ở mắt và tự nhiên nước mắt trào ra. Nó gục đầu vào thân cây nức nở.
Khi lòng đã nguôi nguôi, Jotaro chùi nước mắt. Như con chó con mất mẹ, nó thất thểu đi tìm người hỏi thăm đường đến xóm Liễu.
-
CHƯƠNG 43
HƯƠNG TRẦM
Trong xóm Liễu, lác đác đã có vài quán rượu và tiệm ăn lên đèn. Khách làng chơi thưa thớt. Giờ này, các ả giang hồ còn bận trang điểm, không mấy ả đứng phất phơ đón khách trước cửa.
Trời chưa tối, nhưng hai chiếc đèn ***g lớn treo trước quán Ogiya đã được thắp sáng. Jotaro đến xóm yên hoa, nhận ra ngay nơi mình muốn tìm, nên dừng chân trước cổng chính Quán Ogiya nghe ngóng. Nó không rõ xóm Liễu ở đâu, cứ tưởng phải đi xa nên đã chuẩn bị kỹ cho cuộc hành trình. Nói là chuẩn bị nhưng thực ra có gì đâu, đeo thêm cái túi vải gai trong bỏ vài thứ lặt vặt, kể cả cái mặt nạ nó ưa thích, thường lúc nào nhàn rỗi lại đem ra ngắm và đeo vào mặt, và thanh gươm gỗ dài. Đôi dép vẫn là đôi dép cỏ cũ, xơ xác, mòn vẹt gót.
Qua cánh cửa khép hờ, đang ngó nghiêng nhìn vào trong sân, bỗng thấy một người dáng dấp và y phục có vẻ như gia nhân trong quán đi ra. Thấy Jotaro, gã ngạc nhiên hỏi giọng hách dịch.
- Mày là ai ? Trẻ con đến đây làm gì ?
- Tôi tìm sư phụ. Miyamoto Musashi ở đây phải không ? Bác làm ơn báo cho ông ấy biết có học trò ông đợi ngoài này.
Sự ngạc nhiên trên mặt gã gia nhân bỗng biến mất, nhường chỗ cho sự khó chịu và tức giận. Cũng vì Miyamoto Musashi mà hai ngày nay, phái Yoshioka cho người đi lục soát khắp xóm, công việc làm ăn của gã bị đình trệ, tiền trà nước thu vào sút kém hẳn đi.
Nhớ đến lời dặn của viên quản lý, gã cau mặt:
- Ở đây không có ai tên đó cả. Nhãi con, mới mở cửa chưa có khách đã đến quấy rầy ! Đi ra !
Đoạn xô Jotaro ra khỏi cổng. Jotaro vung tay gạt mạnh:
- Ơ hay ! Bác này làm gì thế ? Tôi hỏi tin, không cho biết thì thôi, can gì đẩItoi !
- Á à ...thằng này bướng ! Mày đến đây do thám hả ?
- Và không đợi trả lời, gã nắm ngay lấy cổ áo Jotaro nhấc bổng lên, ném bịch ra ngoài cửa.
Jotaro ngã ngồi xuống vệ đường, đau điếng. Cơn giận nổi dậy, phừng phừng, mắt hoa lên, nhớ đến lúc đánh nhau với con chó đen trong trang trại nhà Yagyu, Jotaro rút phắt thanh kiếm gỗ cầm tay xông vào chém bừa vào mặt kẻ thù. Gã gia nhân tránh kịp nhưng cũng bị lưỡi kiếm sướt qua má, máu chảy ròng ròng. Tay ôm má, miệng la, tay kia túm áo Jotaro, gã quật thằng bé xuống đất. Song Jotaro lấy chân đạp lên đùi địch thủ, tung mình đứng ngay dậy được, rồi sẵn gươm và nhân lúc kẻ thù hãy còn ở thế nửa quỳ nửa đứng chưa vững, nó giơ kiếm chém một nhát lên đầu gã. Nhát chém khá mạnh vì Jotaro dùng cả hai tay nắm chuôi kiếm bổ xuống. Nhưng may cho gã, thanh kiếm gỗ không sắc, tóc gã lại rậm buộc lên thành búi lớn trên đỉnh đầu nên chỉ nghe tiếng bịch, gã gia nhân thở phì một cái, quay lơ ra đất, như một khúc gỗ bị vất lên cỏ.
Trời chạng vạng. Lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, Jotaro lẩn vào bụi rậm bên cổng và thoắt cái đã biệt dạng.
Sự việc xảy ra mau chóng, song không qua được mắt một ả kỹ nữ đứng trên lầu tiệm ăn nhỏ gần đấy. Ả hô hoán:
- Giết người ! Có kẻ giết người ! Thằng bé mặc áo đen mang gươm giết gia nhân quán Ogiya rồi !
Người ta đổ xô ra gọi nhau í ới, mang đèn bu xung quanh xác gã gia nhân Quán Ogiya. Nhưng gã không chết, chỉ ngất đi. Xoa rượu và giật tóc mai một hồi thì tỉnh, gã được dìu vào nhà. Hú vía ! Ở cái xóm yên hoa này, ẩu đả xảy ra hàng đêm. Nếu không đổ máu chết người thì chẳng ai để ý và chủ quán cũng giấu nhẹm nội vụ đi hay tìm cách giảm bớt sự trầm trọng để khỏi bị điều tra phiền phức và tránh tai tiếng.
Phố chính đã lên đèn rực rỡ. Rặng liễu trồng hai bên vệ đường tỏa ánh sáng xanh mát huyền ảo. Khách chơi bắt đầu đổ đến tấp nập. Nhưng không phải con lộ nào trong xóm cũng đông đúc và sáng sủa như thế. Quanh co giữa những căn nhà gỗ nhỏ của những người buôn bán lặt vặt hoặc những kẻ sống bám vào các tiệm nước, các nhà hành lạc, là những bãi hoang tối tăm, những đoạn đường sình lầy ít người qua lại. Khu Rokujo này đang được mở rộng nhưng sự phát triển quá nhanh, các tiện nghi về giao thông không theo kịp.
Jotaro trốn trong bãi hoang một lúc lâu, hay ít ra nó tưởng thế. Tiếng mõ cầm canh từ xa vẳng lại rời rạc. Sao khuya cũng đã lác đác trên bầu trời vẩn đục và mờ mờ do ánh sáng trong xóm hắt lên. Thấy không ai đuổi theo tìm mình, Jotaro vững dạ, nhưng lại áy náy lo cho Otsu và buồn phiền chẳng biết bây giờ sư phụ nó ở đâu. Nó đánh liều tìm đường ra khỏi bãi hoang, theo lối mòn để ra đường chính. Nhưng đi được một quãng chạm ngay phải hàng rào, Jotaro phải quay lại tìm lối khác. Không hiểu sao, lối này cũng lại dẫn đến chân hàng rào như lúc nãy. Rào thì cao, làm toàn bằng cây gỗ to bằng bắp đùi đẽo nhọn, dựng khít bên nhau, những khe hở nhỏ đến nỗi thò bàn tay qua không lọt. Jotaro phân vân lo sợ. Nó không biết xóm này chỉ có một cổng chính, xung quanh là hàng rào cao một trượng bao bọc để giữ an ninh cho xóm.
Jotaro quay trở lại, cứ nhắm nơi nào có ánh đèn mà tới. Nhưng nó cũng cẩn thận, tránh những chỗ sáng quá. Nó lùi lũi đi, hy vọng thoát khỏi khu này, một nơi mà nó cho là toàn những người không tốt, mặc dầu họ ăn mặc đẹp đẽ.
Qua một ngã tư, bỗng có tiếng gọi phía sau. Lúc đầu không để ý, Jotaro cứ đi, nhưng tiếng chân dường như đuổi theo nó. Jotaro quay lại không thấy ai, chỉ có một cô bé ăn mặc ra dáng nữ tỳ, tuổi cũng khoảng cùng trang lứa với nó, đang cố gắng chạy theo.
Jotaro dừng lại. Cô bé tiến đến hỏi:
- Anh có phải là người đến tìm Miyamoto Musashi ở quán Ogiya không ?
Jotaro định chối, song nhìn dáng điệu cô bé hiền lành, thở hổn hển, có vẻ không làm hại mình được, nên gật đầu:
- Phải - Tên anh là Jotaro hả ?
- Phải.
- Vậy anh theo tôi, tôi đưa anh đến gặp Miyamoto Musashi.
Nghe nói gặp sư phụ, Jotaro mừng hết sức. Nhưng e ngại, nó hỏi:
- Cô là ai, sao biết Miyamoto Musashi ?
Cô bé cắt nghĩa nàng là tỳ nữ của Yoshino Dayu. Nghe tên Yoshino Dayu, Jotaro không còn nghi ngờ gì nữa. Nó cũng tâm sự:
- Musashi tiên sinh là sư phụ tôi, tôi phải đến gặp ông tức khắc. Nhưng sư phụ tôi có chắc ở đó không ?
- Nếu không ở đó, cô tôi sai đi tìm anh làm gì ?
Cô bé đi bên cạnh Jotaro không ưa bắt chuyện. Hỏi câu gì nó cũng chỉ trả lời gióng một.
- Yoshino là ai vậy ?
- Chủ tôi.
- Bà đã già chưa ?
- Chưa.
- Bà làm gì ?
- Làm ở Quán Ogiya.
- Sư phụ tôi ở nhà bà hả ?
- Phải.
- Ông ở đó làm gì ?
Cô bé quay nhìn Jotaro, lát sau mới đáp nhưng không đúng câu hỏi:
- Sắp đến rồi đấy. Tới cái cổng treo chiếc đèn ***g kia, anh cứ đẩy mà vào. Tôi phải đi làm việc khác.
Dứt lời, rẽ vào một đường hẻm lát đá, hai bên trồng toàn mẫu đơn đã bắt đầu trổ nụ.
Theo lời chỉ, Jotaro đến trước cổng. Cổng gỗ, thấp và hẹp, chắc là cửa sau của một trại nhỏ. Cánh cổng khép hờ, Jotaro đẩy nhẹ vào không một tiếng động. Qua khu vườn trồng nhiều cây không rõ loại gì, được cắt xén gọn ghẽ hiện lên trong bóng tối lờ mờ như những hình kỷ hà đủ cỡ, Jotaro thấy một căn nhà gỗ.
Trong nhà vắng lặng, có vẻ bỏ hoang. Jotaro hơi ngạc nhiên, chẳng lẽ cô bé đó đánh lừa mình, nhưng đã vào đây cũng cứ thử xem. Nếu không thấy sư phụ thì đi ra, có gì mà ngại.
Bèn gõ cửa. Đến năm sáu tiếng chẳng ai trả lời. Đợi khá lâu lại gõ nữa. Cũng không động tĩnh. Sốt ruột, Jotaro đi vòng quanh. Bếp, chỗ ở gia nhân, vựa củi, kho chứa đồ, nơi nào cũng vắng lặng tối om. Cửa sổ độc nhất trông ra vườn lại quá cao, Jotaro cố kiễng chân, đầu mới chạm tới khung gỗ.
Tìm quanh mãi, thấy một khúc cây, Jotaro hì hục vần sát vào chân tường dưới cửa sổ rồi trèo lên, dí mũi qua hàng song tre. Nó bỗng suýt kêu lớn.
Trong phòng, Miyamoto Musashi, thầy nó, nằm trước lò sưởi, tay co lại gối đầu, trên mình đắp chiếc chăn thêu. Lửa lò đã lụi nhưng ánh than còn hồng chiếu lên những đường thêu vàng óng ánh. Jotaro chưa bao giờ thấy thầy nó đắp tấm chăn đẹp đến thế !
Quanh chỗ Miyamoto Musashi nằm, rải rác một nghiên mực, mấy ngọn bút và ba bốn tấm giấy đã vẽ xong, tấm thì bông hoa, tấm thì bụi trúc. Một tấm vẽ con gà còn bỏ dở.
Trông thấy sư phụ, Jotaro muốn đưa tay ra ôm ngay lấy người nó quý mến và cảm phục xa vắng bấy lâu nay, nhưng nhìn cách ăn mặc và công việc thầy nó đang làm, nó giận.
- Sao sư phụ ta lại có thể yên tâm ngồi vẽ những bức tranh như thế kia được ?
Ông không biết cô Otsu đang ốm hay sao ?
Tấm chăn Miyamoto Musashi đắp, nó cho là biểu hiện của nếp sống khoái lạc, sa đọa sư phụ nó đang bị chìm đắm vào. Lại nhớ đến lúc Miyamoto Musashi ôm một thiếu nữ không quen biết dưới chân cầu ngày đầu năm, nó tự nhủ:
- Thầy ta bây giờ khác rồi, không còn như trước.
Sự bực tức tràn đến kèm theo niềm cay đắng. Jotaro hờn dỗi không muốn gặp thầy nữa. Nó thong thả tuột xuống.
- Jotaro ! Miyamoto Musashi gọi. Ai dẫn con đến đây ?
Jotaro lại ngẩng đầu lên nhìn vào. Miyamoto Musashi vẫn nằm bên lò sưởi, nhưng mắt hé mở và nụ cười thật tươi. Nó nhảy bổ xuống khỏi khúc gỗ, chạy vội về phía trước, đẩy mạnh cửa, xông vào phòng như vũ bão, ôm lấy cổ sư phụ:
- Thầy ! Thầy !
Miyamoto Musashi cũng ôm lấy đầu đầy bụi đất của Jotaro, ghì vào ngực mình:
- Lâu lắm ta không gặp con. Sao con biết ta ở đây ? Thầy Takuan chỉ cho phải không ?
Rồi ngồi dậy, để đầu Jotaro vào lòng mình. Hơi ấm của sư phụ truyền sang, Jotaro thấy dễ chịu vô cùng, bao nhiêu hờn giận quên đi hết cả. Nước mắt chạy quanh, nó như con chó con nằm bên mẹ, sung sướng nhận những cái vuốt ve âu yếm. Lát sau mới sực nhớ:
- Thầy ! Otsu ốm nặng. Cô ấy muốn gặp thầy lắm. Cô ấy mong thầy hết sức. Thầy đến thăm cô ấy đi. Chỉ một lần thôi, con chắc cô ấy sẽ chóng khỏi.
- Tội nghiệp !
- Tết vừa rồi, cô Otsu có đến chân chân cầu Gojo đợi thầy, thấy thầy ôm một cô gái nào đấy, cô Otsu giận và từ bấy giờ không vui, ít nói, ít cười, ăn ngủ cũng thất thường, cô gầy lắm !
- Thế ư ? Ngày hôm đó ta cũng xúc động quá. Akemi đột nhiên hiện ra làm ta lúng túng.
- Akemi là bà con gì với thầy ?
- Người quen cũ, đã lâu. Nhưng thôi đừng nói chuyện ấy nữa. Bây giờ Otsu ra sao?
- Cô Otsu đang ở trong dinh tướng công Mitsuhiro. Thầy đến thăm đi. Gặp thầy, thế nào cô ấy cũng khỏi bệnh.
Jotaro còn nói rất nhiều, câu nào cũng không ngoài mục đích thuyết phục sư phụ đến thăm cô nó. Nhưng Miyamoto Musashi như ở tận đâu đâu, mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Những lời cầu khẩn của thằng bé chẳng khác gì nước vỗ vào thành đá, vẫn trơ trơ không suy suyển. Miyamoto Musashi chỉ trả lời ậm ừ.
Jotaro khó chịu, giật tay áo sư phụ, định bắt ông phải tỏ thái độ dứt khoát, bỗng nghe tiếng chân người. Nữ tỳ của Yoshino bước vào, mang bộ áo của Miyamoto Musashi đặt lên kỷ:
- Tiểu tỳ đã giặt xong áo và gột sạch vết máu. Xin đại hiệp kiểm lại.
- Cám ơn cô. Thế còn Yoshino đâu ?
- Chủ nhân tiểu tỳ bận tiếp khách, sai tiểu tỳ về vấn an và hỏi xem đại hiệp có cần gì nữa không ?
- Ta ở đây rất vừa ý, nhưng nếu ở lại lâu hơn nữa sợ làm phiền chủ nhân. Cho nên xin cáo biệt. Phiền cô chuyển lời cảm ơn chân thành của ta đến chủ nhân.
Nghe sư phụ nói, Jotaro sung sướng quá, nhảy cẫng. Ờ ! Có thế chứ. Chắc ông đã quyết định đi thăm Otsu. Ông đúng là một mẫu người tốt và ngay thẳng, xứng đáng làm sư phụ nó.
- Ngoài ra, ta muốn nhờ cô chỉ đường cho chú em đây ra khỏi xóm, mang áo này đến ngõ Honami hoàn lại cho Koetsu tiên sinh. Jotaro ! Con làm việc ấy giúp ta được không ?
- Thưa không được !
Ả nữ tỳ xen vào làm cả hai thầy trò cùng ngạc nhiên.
- Anh này đã đả thương một gia nhân ở quán Ogiya. Chuyện đó được bỏ qua vì chủ nhân tiểu tỳ đích thân can thiệp và bảo lãnh. Nhưng để anh ấy ra ngoài tất sẽ bị theo dõi. Mấy hôm nay, đồ chúng Yoshioka canh gác ngặt lắm, xin đại hiệp cẩn trọng !
- Cảm ơn cô, nhưng ta cũng có kế hoạch riêng.
Tuy nhiên, sợ nguy hiểm đến tính mạng Jotaro, Miyamoto Musashi đồng ý giao cho một người khác mang áo đến ngõ Honami trả Koetsu lão bà.
Ả nữ tỳ đi rồi, Miyamoto Musashi mặc lại bộ áo bằng vải thô của hắn. Bộ áo bạc màu vì sương nắng, mồ hôi loang lổ, nhưng sao hắn thấy đẹp và trân quý vô cùng, mặc vào thoải mái hơn lụa là nhiều.
Khi thắt đến thắt lưng và đeo kiếm, cảm giác cô đơn của Miyamoto Musashi biến mất. Hắn thấy tự tin và an toàn hơn. Thanh kiếm đối với Miyamoto Musashi thân thiết như ruột thịt, như bố mẹ anh em và có lẽ thay cho vợ con hắn suốt đời. Mà đúng vậy:
từ trước đến nay Miyamoto Musashi vẫn tâm nguyện như thế.
Jotaro ra vườn, ngẩng mặt nhìn trời. Sao đêm lấp lánh. Mảnh trăng hạ huyền lấp ló sau ngọn cây.
- Khuya rồi, nhưng không sao, mình đánh thức cô Otsu dậy. Chắc sự bất ngờ này sẽ làm cho cô sung sướng lắm.
Miyamoto Musashi đến bên, vỗ vai Jotaro:
- Con ra cửa sau đợi ta.
- Thế thầy không đi cùng với con à ?
- Đi chứ. Nhưng ta muốn đích thân từ biệt Yoshino. Cũng không lâu đâu !
- Vâng. Vậy con đợi thầy ngoài cửa.
Con đường kiếm đạo còn dài và gian khổ. Quán Ogiya, đối với Miyamoto Musashi là nơi nghỉ chân nhiều hứng thú nhưng tạm thời. Mấy ngày nhàn rỗi ở đây đã giúp hắn lấy lại được quân bình về tâm hồn cũng như thể chất, giúp hắn cảm thông được với cái đẹp, hòa đồng với thiên nhiên. Hắn không mảy may nghi ngờ sự chính trực của đời sống khổ hạnh hắn đang sống, nhưng sự chối bỏ tất cả mọi lạc thú đôi khi khiến hắn tự cảm thấy nhỏ mọn hẹp hòi.
Giây đàn căng quá sẽ đứt, tinh thần căng quá sẽ khủng hoảng. Sau trận giao chiến với Denshichiro, tinh thần và thể chất Miyamoto Musashi đã gắng sức tột độ, cần được nghỉ ngơi. Hắn cũng đã uống chút rượu, muốn ngủ thì ngủ, muốn đọc sách vẽ tranh thì đọc sách vẽ tranh. Cứ để tâm hồn đôi khi tự do như thế, quả nhiên hắn thấy thư thái hơn trước.
Mở cửa sau, Miyamoto Musashi định vào cảm ơn Yoshino. Nhưng nghe tiếng đàn phách vọng ra, tự nhiên hắn đổi ý. “Vô ích mà cũng chẳng hợp thời. Cái thường của họ là cái vô thường của ta. Mình không thuộc về xã hội ấy”. Hắn lặng lẽ cúi đầu, tạ Ơn người tri kỷ trong lòng, rồi lui bước.
Nữ tỳ của Yoshino chạy theo, trao cho Miyamoto Musashi phong thư nhỏ. Hắn mở ra, mùi hương trầm thoang thoảng phả trên giấy hoa tiên:
“Mỗi đêm hoa mỗi tàn, chỉ ánh nguyệt lung linh vĩnh cửu. Bên chén rượu nồng thiếp ngồi nhỏ lệ. Trân trọng gửi chàng những hàng chữ này làm duyên hội ngộ”.
- Thư ai đấy thầy ?
- Hỏi làm gì, con không biết đâu !
Jotaro hểnh mũi:
- Chà ! Mùi hương trầm ! Thơm quá !
-
CHƯƠNG 44
KHUNG CỬA
Jotaro đi theo sư phụ. Nó thầm nghĩ không biết làm cách nào ra khỏi chỗ này.
Xóm Liễu tường cao vây bốn mặt, đêm khuya, chỉ cổng chính là còn mở, lại nghe nói kẻ thù rình khắp nơi, chắc ở cổng đó phải đông lắm. Jotaro lo sợ hỏi sư phụ:
- Đi đường nào, thầy ?
- Các cửa đều đóng cả rồi phải không Jotaro ?
- Dạ phải, chỉ còn cửa chính mở. Mà đường ấy không đi được đâu, ta nên tìm chỗ nào tường thấp trèo ra thì hơn.
Miyamoto Musashi nhìn đồ đệ, mỉm cười, rồi nghiêm nghị bảo:
- Mạng sống quý thật, nhưng làm như vậy là hèn nhát. Ta không thể có thái độ trốn tránh mà phải đường hoàng đi ra bằng cổng chính.
Jotaro ngước nhìn sư phụ. Nó suy nghĩ về lời nói. Trên bước đường giang hồ, Jotaro nhiều lần nghe nói đến sự hèn nhát. Kiếm sĩ mà bị coi là hèn nhát thì không còn đáng gọi là kiếm sĩ, cho nên nó tự thẹn đã có những ý nghĩ như vừa rồi.
- Vậy con cũng ra bằng cổng chính !
Jotaro chữa lại.
Miyamoto Musashi vỗ vai nó:
- Giỏi lắm ! Nhưng con phải biết dũng cảm và liều lĩnh khác nhau. Con còn nhỏ, chưa biết võ nghệ, mà cứ nhắm mắt xông vào chốn đao kiếm, khác nào kẻ không biết bơi đòi nhảy bừa xuống nước để qua sông. Cái chết cầm chắc trong tay, một cái chết vô ích. Như vậy ta gọi là xuẩn động !
- Nhưng con không muốn là một tên hèn nhát.
- Ai bảo con hèn nhát đâu ! Vả chúng theo ta chứ đâu phải con !
Jotaro cúi đầu ngẫm nghĩ.
- Vậy con phải làm thế nào bây giờ ?
- Yên tâm ! Ta sẽ giúp con trèo tường ra ngoài !
Hai thầy trò vừa đi vừa trò chuyện, bỏ đường lớn rẽ vào những đường mòn cỏ lau rậm rạp, lúc lâu thì đến chân rào gỗ. Hàng cột đen trùi trũi, to lớn ken sát nhau lừng lững trước mặt, Jotaro nghểnh cổ trông lên chỉ thấy trời sâu thẳm, mấy ngôi sao thưa lúc ẩn lúc hiện không rõ.
Miyamoto Musashi dừng lại:
- Con ra ngoài đó trước, đợi ta.
- Đợi thầy ở đâu ?
- Trường đua ngựa.
- Thế nào thầy cũng đến chứ ?
- Jotaro ! Ta không nói dối. Một trong những điều ta muốn dạy con là sự thành thật, sao lại cứ nghi ngờ ta. Con đi nhặt cho ta hòn đá.
Jotaro nhặt một hòn đá đưa cho thầy. Miyamoto Musashi ném viên đá qua bên kia rào, lắng nghe động tĩnh, không thấy gì khả nghi, mới cúi xuống khẽ bảo đồ đệ:
- Leo lên vai ta rồi bám vào đầu cột mà trèo ra ngoài.
- Dép con bẩn.
- Không sao, cứ leo lên.
Nhưng rào cao quá. Ở trên vai Miyamoto Musashi mà Jotaro với tay mãi cũng không tìm được chỗ nào để bấu cho chắc vào hàng rào được. Miyamoto Musashi phải bảo Jotaro đứng trên hai bàn tay mình, giơ cao lên, thằng bé mới bám được vào đầu cột.
- Nhìn kỹ xem bên ngoài có ai không !
Jotaro đưa mắt quan sát:
- Không. Bãi hoang, chỉ toàn cỏ lác.
- Có thể chỗ này trũng nước. Vậy đừng nhảy, hãy bám vào cột leo xuống từ từ. Chớ gây tiếng động vô ích.
- Dạ.
Một lúcs au, nghe tiếng chân đạp lên bùn, rồi tiếng Jotaro kêu khẽ:
- Tới rồi thầy !
- Vậy tốt. Đi mau đi, đợi ta ở chỗ trường đua.
Bên kia tường rào, trước khi đi, Jotaro còn ghé sát miệng vào khe cột hở, nhắc Miyamoto Musashi như để lưu ý sư phụ nỗi quan tâm lớn lao của nó:
- Con đợi thầy đến gặp cô Otsu đấy !
Miyamoto Musashi không đáp, lắng tai nghe cho đến khi thấy bước chân đứa học trò nhỏ xa dần mới bỏ đi trở lại, tìm lối ra đường lớn.
Miyamoto Musashi bước nhanh ra khỏi cổng chính. Số đệ tử Yoshioka ngồi sưởi bên vệ đường, không để ý đến sự xuất hiện thình lình của hắn, mà cả hai tên có phận sự lảng vảng gần cổng cũng không ngờ.
Mấy đêm nay, đồ chúng Yoshioka chia nhau canh gác cẩn mật tất cả những điểm quan trọng quanh xóm Liễu, đề phòng Miyamoto Musashi bỏ trốn. Sau khi dò xét và phong văn kẻ thù còn ở quán Ogiya, chúng mấy lần định xông vào quán lục soát nhưng không được. Cũng như mọi lần, khi bàn việc gì quan trọng, đồ chúng Yoshioka thường chia thành hai phái. Một phái, muốn trả thù ngay cho chủ, đưa ý kiến phải xông vào quán lập tức, tốc chiến tốc thắng, bắt cho bằng được Miyamoto Musashi đem về trị tội.
Phái kia, cẩn trọng hơn, bày mưa theo dõi, muốn lừa kẻ thù vào bẫy để giết, một phần vì e ngại sức khoẻ và đường gươm dũng mãnh của Miyamoto Musashi, một phần vì không muốn làm kinh động đến nơi ăn chơi nổi tiếng nhất kinh đô, thường được các bậc vương tôn và những tay quyền thế trong phủ lui tới giả trí. Hơn nữa, thế lực của Yoshioka ngày nay đã giảm đi nhiều, nhất là sau khi Seijuro bị tàn phế và Denshichiro bị giết thê thảm, họ càng dè dặt không dám vọng động.
Hai phái giằng co mãi, sau đi đến quyết định chỉ bao vây bên ngoài, cắt đệ tử thay phiên nhau mai phục tại các nơi hiểm yếu. Cho nên đã mấy đêm liền, người của Yoshioka không ngừng dòm ngó kẻ ra vào quán Ogiya, nhất là những thanh niên vóc dáng cao lớn. Đôi khi chúng không từ cả việc bắt phu cáng phải dừng lại vạch màn cho chúng coi rõ mặt khách ngồi trong. Chúng sợ Miyamoto Musashi trá hình trốn mất.
Có điều không ai ngờ kẻ thù chẳng đội trời chung ấy của chúng lại hiên ngang ra đi bằng cổng chính.
Đệ tử Yoshioka kinh ngạc há hốc mồm. Định thần một chốc, gã mới kêu lên được thì Miyamoto Musashi đã rởi khỏi cổng xa đến mấy chục bước.
- Anh em ! Nó đấy ! Đuổi theo mau !
Mọi người bỏ đống lửa quay ra. Quả nhiên phía trước chúng là vóc dáng lợi hại của kẻ thù; ánh đèn chiếu vào, bóng hắn đổ dài di động trên mặt đường lát đá !
- Musashi ! Quân súc sinh ! Muốn sống đứng lại !
Một đệ tử Yoshioka hét lớn.
Miyamoto Musashi rút phắt kiếm, hắn quay lại không đáp. Sự im lặng của hắn làm đồ chúng Yoshioka nổi gai ốc. Vài tên tay đã để vào đốc kiếm, vội khựng lại không dám rút gươm ra, dường như sợ nếu làm cử chỉ gì khiêu khích, có thể sẽ bị hắn giết ngay tức khắc. Có tên thụt lùi về phía sau. Musashi tiến tới, lưỡi kiếm đưa thẳng trước mặt, vững vàng, không mảy may rung động. Đồ chúng Yoshioka lui mấy bước.
Đột nhiên một tiếng thét thật lớn rung động cả khu phố, Miyamoto Musashi tung mình như chớp xẹt nhảy đến dựa lưng vào bức tường của một căn nhà gần đó.
Đệ tử Yoshioka bao vây xung quanh thành hình vòng cung, lúc đầu còn ít, sau càng lúc càng nhiều, có đến chừng ba chục. Số đông làm chúng tăng thêm nhuệ khí. Tiếng la hét cùng những lời chửi rủa tục tằn vang rân cả khu xóm. Hàng quán đóng cửa rầm rầm.
Musashi vẫn yên lặng dựa lưng vào vách, gươm tuốt sẵn cầm tay. Dưới mái hiên, trong bóng tối, hắn đảo mắt vọ nhìn khắp vòng vây trước mặt, lượng chỗ cường, chỗ nhược để tùy cơ ứng biến. Tiếng chửi rủa, hắn bỏ ngoài tai, coi như những tiếng sủa của bầy sơn cẩu. Chúng càng ồn ào, Miyamoto Musashi càng vững dạ vì rõ ràng chúng chẳng có kế hoạch gì, ô hợp như một lũ thảo khấu.
- Ngươi có phải là Miyamoto Musashi ở Miyamoto không ?
- Chính thị. Bọn ngươi muốn gì ?
- Chúng ta là đệ tử Yoshioka. Muốn gì ngươi tất biết ! Sẵn sàng chưa ?
Tiếng cười gằn của Miyamoto Musashi làm cả bọn ớn lạnh:
- Sẵn sàng ? Ta sẵn sàng ngay cả trong giấc ngủ. Đứa nào muốn chết thì cứ lại đây.
Nhưng ta cần biết một điều trước khi giao đấu:
các ngươi là kiếm sĩ tôn trọng luật giang hồ hay muốn ỷ vào số đông để thủ thắng ?
Không kẻ nào đáp lại. Tiếng ồn ảo giảm bớt nhưng cũng chẳng ai dám tiến tới.
Không khí có vẻ căng thẳng hơn trước.
Bỗng từ đám đông, một lão tráng bước ra. Miyamoto Musashi chú ý thủ thế. Trước một đám đông giận dữ, đầy thù hận, chỉ sơ hở hay nhầm lẫn một chút có thể mất mạng như chơi, hắn cũng đề phòng, sợ có kẻ dùng ám khí, nên đã chọn chỗ đứng gần một cột gỗ.
Lão tráng không cầm gươm nhưng đeo song kiếm. Chính là Ueda. Có lẽ ông mới tới. Điềm tĩnh và đĩnh đạt, Ueda chậm chạp tiến lên mấy bước. Tiếng ồn ào im hẳn. Phong cách ấy chứng tỏ ông là một trong những người có uy tín của phái Yoshioka.
- Miyamoto Musashi ! Chúng ta đến đây làm gì, ngươi thừa biết. Ngươi đã làm nhục bản phái, dùng thủ thuật đê hèn khiến chưởng môn chúng ta thành tàn phế, giết Denshichiro, người thừa kế của bản phái. Những tội ác tày trời ấy không thể tha thứ được !
Nếu chúng ta để ngươi sống, chúng ta không còn mặt mũi nào đứng trên đời này nữa !
Những lời cáo buộc nghiêm nghị, vững vàng ấy làm xúc động đồ chúng Yoshioka.
Tiếng la phẫn nộ vang trời dậy đất.
- Giết ! Giết nó để trả thù cho Seijuro và Denshichiro !
- Còn đợi gì nữa ? Anh em hãy xông vào lấy đầu thằng súc sinh lập tức !
Nhưng Ueda giơ tay ra hiệu cho đồ chúng Yoshioka yên lặng, rồi tiếp:
- Ta là Ueda, chỉ muốn trả thù cho chưởng môn nhân và khôi phục danh dự cho bản phái. Đó là lề luật võ lâm, tuyệt không có ý gì ỷ chúng hiếp cô. Ngươi là kiếm sĩ tất hiểu rõ. Bây giờ hãy trông đây !
Dứt lời, Ueda rút kiếm đánh soạt, ánh hàn quang thành hình vòng cung lấp lánh.
- Được lắm ! Ueda ! Ngươi xứng đáng là một kiếm sĩ. Nhưng nếu muốn trả thù, sao không đường đường chính chính tuyên chiến theo đúng đường lối võ lâm, như Seijuro và Denshichiro đã làm ? Tại sao lại để đồ đệ ngươi mai phục đánh lén.
- Chính ngươi đã lẩn trốn nên chúng ta phải canh giữ, chứ không phải đánh lén.
- Vô lý ! Nếu ta muốn, ta có nghìn cách trốn, và chắc bây giờ đã không đứng trước mặt bọn ngươi !
Ueda cười gằn:
- Trốn sao được ! Yoshioka chúng ta tai mắt khắp nơi, sao để ngươi thoát !
- Ta cũng tin như thế. Nhưng khu này không phải là chỗ định hơn thua. Tuy nhiên nếu bọn ngươi cố tình trả hận ngay tại chỗ, ta sẵn sàng chấp nhận và ta chấp cả bọn ngươi. Chỉ tiếc rằng danh dự phái Yoshioka lại bị đạp xuống bùn nhơ một lần nữa !
Ueda do dự. Đệ tử Yoshioka đã tụ tập khá đông, nếu cùng xông vào tấn công một lượt cũng có thể thắng được, nhưng thắng chẳng vinh gì mà bại thì quá nhục nhã, không còn hy vọng gì phục hưng lại danh dự môn phái.
Dùng dằng chưa quyết, bỗng tiếng kêu báo động vang dội:
- Lính tuần tới ! Anh em giải tán ! Giải tán !
Mọi người nhốn nháo. Từ đằng xa, đã vẳng tiếng vó ngựa lộp cộp.
Ở xóm Liễu, những chuyện sinh sự xảy ra rất thường. Chẳng đêm nào không có, nhưng phần lớn là giữa các toán du đãng anh chị thanh toán lẫn nhau hoặc giữa các tên dẫn mối tranh khách. Cho nên quan lãnh binh cảnh vệ đã đặt riêng một biệt đội đặc trách khu vực này, đêm nào cũng liên tục tuần phòng khắp các ngả đường và cả bên ngoài rào, tại những bãi hoang, vì ở đó hay xẩy ra những vụ án mạng rất khó điều tra ra hung thủ. Quan lãnh binh là người rất mực liêm chính, được lòng tin cậy của hoàng gia, nên quyền hành lớn. Những tên phạm pháp làm rối loạn trật tự do thuộc hạ ngài bắt được phần lớn không oan uổng gì và thường bị dân chúng khinh ghét. Những bang phái có danh vọng tỷ như kiếm phái Yoshioka, vì lý do đó, hết sức tránh mọi hành động bị liệt chung với những toán du đãng thông thường.
Nghe báo động có lính tuần đến, đồ chúng Yoshioka rục rịch tản mát để khỏi bị bắt bớ điều tra lôi thôi. Nhưng khi ngựa tới, té ra không phải lính tuần. Một thanh niên cao lớn, áo khoác ngoài đỏ chói, lưng đeo trường kiếm nhảy vội xuống. Ueda nhận ngay ra là Sasaki Kojiro.
Một niềm hy vọng thoáng hiện. Lão tươi cười giơ tay đón chàng kiếm sĩ trẻ tuổi:
- Ganryu thiếu hiệp ! Được gặp thiếu hiệp ở đây, thật là đại hạnh !
Kojiro cũng vồn vã đáp lễ, nhưng sự vồn vã ấy chỉ thoáng cái đã biến mất, nhường chỗ cho một thái độ nghiêm cẩn.
- Ueda lão huynh ! Lão cùng anh em bản phái làm gì mà tụ tập ở đây đông thế này ?
Từ khi theo Seijuro về tá túc một dạo ở đường Shijo, Kojiro vẫn có thói quen gọi phái Yoshioka là bản phái, mặc trên danh nghĩa, hắn chẳng có liên hệ gì với phái này.
Ueda đưa mắt về phía bức tường có Miyamoto Musashi đứng. Lão đáp gọn:
- Thiếu hiệp nhìn rõ ai không ?
Tuy đã dư biết, Kojiro vẫn vờ hỏi:
- Miyamoto Musashi ?
- Chính thị !
Nhìn Ueda rồi nhìn Miyamoto Musashi, Kojiro nói lớn:
- Ueda lão huynh ! Musashi đại hiệp ! Không ngờ gặp cả hai vị Ở đây, tại hạ rất ngạc nhiên. Các vị có những chuyện riêng cần giải quyết, đáng lý ra tại hạ không can thiệp, nhưng vì cùng trong giới võ lâm, nên có điều phải nói.
Giọng Kojiro sang sảng. Gã còn trẻ, ăn mặc sặc sỡ như con nít, nhưng bấy giờ phong cách gã chững chạc lắm. Gã tỏ vẻ tự tin hết sức, gần như ngạo mạn.
Trong lòng tuy khó chịu nhưng Ueda vẫn bình tĩnh không lộ ra ngoài, để xem gã giở trò gì. Thấy không ai phản đối, Kojiro nói tiếp:
- Các vị có bao giờ tự hỏi làm náo động phố xá như thế này nếu lính tuần bắt gặp, sẽ bị phiền nhiễu như thế nào không ? Nhưng đấy là chuyện riêng của các vị, tại hạ không biết. Tại hạ chỉ lưu ý, các vị đều là những kiếm sĩ có danh vọng, nếu để bị bắt vì tội ẩu đả tầm thường và làm mất trật tự ngoài phố như những tên vô lại khác thì xấu hổ chung cho cả võ lâm, tại hạ không chấp nhận được.
Đồ chúng Yoshioka cất tiếng ồ lên một lượt, phản đối những lời lẽ hàm ý hỗn xược ấy. Nhưng Ueda đã giơ tay ra hiệu im lặng.
- Thiếu hiệp nói cũng có lý.
- Đúng vậy ! Các vị đã chọn nhầm chỗ và nhầm lúc để thanh toán việc riêng. Nếu các vị muốn so kiếm với nhau, sao không theo đúng luật giang hồ, đường hoàng công bố lời thách thức, địa điểm và giờ giao đấu ?
Có tiếng xì xào bàn tán, kẻ phản đối người tán thành. Sau cùng Ueda mới cất tiếng:
- Thiếu hiệp nói phải. Nhưng nếu chúng ta định ngày giờ và địa điểm, thiếu hiệp có bảo đảm rằng Miyamoto Musashi sẽ có mặt không ? Tại hạ sẵn sàng làm trung gian dàn xếp.
- Dĩ nhiên, nhưng ta muốn biết thiếu hiệp có bảo đảm được việc đó chăng ?
- Bảo đảm ...bảo đảm ...Cái đó phải hỏi hắn !
Nói đoạn, quay sang phía Miyamoto Musashi như thầm hỏi ý.
- Hay thiếu hiệp bày ra chuyện này để cho y trốn đấy ?
Kojiro có vẻ giận:
- Ueda lão huynh muốn sỉ nhục ta chăng ? Tại hạ không phải là bạn Miyamoto Musashi, không có lý do gì để che chở cho hắn. Nếu hắn trốn, cả võ lâm đều biết hắn là thằng hèn và sẽ phỉ nhổ hắn.
Nhưng Ueda lắc đầu. Giọng lão mạnh và quyết định:
- Như vậy không đủ. Chúng ta không rời khỏi nơi đây đêm nay nếu không có gì bảo đảm hắn không trốn ! Phải thế không anh em ?
Đồ chúng Yoshioka cùng reo lên một lượt, vang động cả khu phố:
- Phải ! Phải ! Như vậy mới được !
Kojiro quay gót. Gã tiến đến bên bức tường, đối diện Miyamoto Musashi trong bóng tối. Bốn tia mắt nhìn nhau, dò xét, tia mắt của hai dã thú. Có cái gì ghê gớm, ác liệt trong những tia mắt ấy, đòi hỏi hai bên phải nhận thức giá trị tinh thần của nhau, thôi thúc nhưng thoáng một chút nghi kỵ ... và thách thức.
- Miyamoto Musashi ! Ngươi vừa nghe những điều ta nói chăng ? Ngươi có chấp nhận một cuộc giao tranh với kiếm phái Yoshioka vào ngày giờ và địa điểm sẽ được ấn định không ?
- Ta chấp nhận !
- Vậy tốt.
- Tuy nhiên, ta không muốn ngươi can thiệp.
- Như thế là thế nào ? Ngươi không muốn ta bảo lãnh sự có mặt của ngươi ?
- Đúng vậy ! Ta đã giao đấu với Seijuro và Denshichiro. Trong lúc giao đấu, ta không có một hành động nào hèn nhát. Tại sao đệ tử của họ lại không tin ta và cho rằng ta sẽ bỏ trốn ?
- Hay lắm ! Miyamoto Musashi ! Thật là một lời nói kiêu hùng, ta sẽ không quên lời ấy của ngươi. Bây giờ, hãy định giờ và địa điểm đi !
- Ta để quyền ấy cho bên kia. Ta sẽ chấp nhận bất cứ nơi nào và giờ nào họ định.
- Chà ! Được lắm. Vậy từ này đến lúc giao đấu, tìm ngươi ở đâu ?
- Ta không có địa chỉ nhất định.
- Vậy làm sao chuyển thư cho ngươi được ?
- Bảo họ định địa điểm và ngày giờ ngay tức khắc, tại đây ! Ta sẽ đến !
Kojiro gật đầu, tin tưởng và thầm phục con người mà nếu phải coi là kẻ thù, gã cũng hãnh diện. Gã trở gót, lui về phía đồ chúng Yoshioka, bàn luận một lúc với Ueda và một số đồ đệ Yoshioka khác rồi trở lại bảo Miyamoto Musashi:
- Điểm hẹn là gốc cổ tùng ở chân đồi Sinh Minh, trên đường đi Quan Lãnh vào cuối giờ dần, ngày mốt. Truyền nhân đại diện Yoshioka kiếm phái là Yoshioka Genjiro, trưởng nam của Yoshioka Genzaemon và là biểu đệ của Seijuro và Denshichiro. Nhưng Genjiro còn nhỏ, phải có một số cao đồ trợ giúp. Ta phải nói trước như thế để khỏi có sự hiểu lầm về sau.
- Được lắm ! Ta chấp nhận !
Mọi điều đều được hai bên thỏa thuận. Đệ tử Yoshioka đem bút mực và bảng gỗ đến. Chính tay Kojiro viết những điều ấy lên bảng gỗ và Ueda sai người mang ra dựng ở ngã tư, chỗ đông người qua lại nhất.
Miyamoto Musashi nhìn tấm bảng gỗ, thờ ơ đọc những hàng chữ đen nét mực chưa khô viết trên đó rồi lẳng lặng bỏ đi, theo đường dẫn đến trường đua ngựa.
oo Một mình trong bóng tối dưới mái trường đua, Jotaro đi đi lại lại, lo lắng. Một cái cáng đi qua cũng khiến nó chạy vội ra, một tiếng chân người cũng làm nó bồi hồi nghe ngóng. Nhưng chỉ là những khách làng chơi về muộn dáng đi nghiêng ngả, tiếng hát đứt quãng lưu lại chút dư âm thoảng theo gió đưa đến tai nó.
Hết đi đi lại lại rồi ngồi bó gối trên nền đá lạnh ẩm ướt sương đêm, Jotaro nghĩ ngợi vẩn vơ. Hay thầy nó bị thương, chết rồi cũng nên, ở một chỗ nào đó. Góc tường ?
Vệ cỏ ? Trong đám lau sậy ven sông ? Jotaro lo sợ, kinh hãi, hoảng hốt. Nếu không, sao mãi bây giờ chưa tới. Nó không kiên nhẫn được nữa, bỏ luôn trường đua, cắm đầu chạy về hướng xóm Liễu. Mới được chừng trăm bước, tiếng Miyamoto Musashi từ trong bóng tối đã vang lên, gọn mà mạnh:
- Jotaro ! Chạy đi đâu thế ?
Jotaro giật mình. Hoàn hồn, nó sung sướng vô tả.
- Có chuyện gì mà chạy vậy ?
Jotaro thở phào, nhẹ hẳn người đi như vừa trút được khối đá đè nặng trên ngực.
- Thầy ! Sao lâu thế ? Con đợi mãi sốt ruột quá định chạy về xóm tìm thầy !
Miyamoto Musashi cười, ôm lấy nó vui vẻ bảo:
- Ngốc ơi là ngốc ! Làm vậy có khi lỡ cơ hội ta gặp lại con ! Rồi lại trách ta sai hẹn!
- Thầy có thấy đông đệ tử Yoshioka ở cổng không thầy ?
- Cũng khá !
- Họ không giữ thầy lại à ? Không có chuyện gì xảy ra phải không ?
- Không.
- Giờ thầy đi đâu ? Dinh tướng công Mitsuhiro ở phía này. Con chắc thầy muốn gặp cô Otsu lắm.
- Muốn gặp lắm chứ !
Jotaro nhảy cẫng.
- Khuya thế này, chắc cô Otsu phải ngạc nhiên và phục con hết sức.
Musashi nắm chặt tay Jotaro dẫn đi. Hơi ấm của sư phụ truyền sang, Jotaro cảm thấy an toàn hơn bao giờ hết.
- Jotaro ! Con có nhớ cái quán ăn ở đó ta gặp con lần đầu không ? Quán tên gì nhỉ?
- Nhớ, nhưng dinh tướng công này đẹp hơn quán ấy nhiều !
Miyamoto Musashi phì cười:
- Dĩ nhiên rồi !
Đến cổng dinh, Jotaro dừng lại:
- Cổng đóng rồi, nhưng nếu ta đi vòng về phía sau, còn cái cửa nhỏ cho gia nhân ra vào. Để con gọi cửa báo cho họ rõ. Nếu Mitsuhiro tướng công biết thầy đến, thế nào ông cũng ra đón. Cái ông sư Takuan ấy thật là ác. Con hỏi thầy ở đâu, ông không nói, chỉ bảo ở xóm Liễu, lại còn bảo tốt hơn hết là đừng đến tìm thầy ...
Jotaro vừa lí láu, vừa kéo sư phụ đi. Đến trước một cửa hẹp bên hàng rào cây xanh, nó ngừng lại chỉ tay lên khuôn cửa sổ còn sáng ánh đèn, bên trong một ngôi nhà gỗ nhỏ ở cuối vườn:
- Cô Otsu ở chỗ ấy đấy thầy. Chắc cô còn thức đợi con về.
Và không chờ Miyamoto Musashi đáp, nó chạy vội đến toan đập cửa.
Nhưng Miyamoto Musashi giữ tay nó lại:
- Khoan ! Ta không vào đâu. Ta chỉ muốn nhờ con một chuyện này thôi !
- Sao ? Thầy không vào ? Đã đến đây mà thầy không vào à ? Thế thầy đi với con làm gì ?
- Ta muốn đưa con về đến nhà, an toàn.
- Không ! Không ! Thầy không đi được !
Jotaro hét lên và nắm chặt lấy tay áo sư phụ.
- Jotaro ! Nói khe khẽ chứ. Đừng làm kinh động mọi người. Con hãy nghe ta.
- Con không nghe. Thầy hứa cùng về với con mà !
- Thì ta cùng về với con rồi !
- Đâu phải về để nhìn cái cánh cổng này thôi ! Con muốn thầy về gặp cô Otsu kia mà !
- Jotaro ! Con hãy bình tĩnh, để ta nói con nghe. Trong hai ngày nữa, có thể ta không còn ở trên trần thế này nữa.
- Con biết rồi ! Thầy vẫn thường nói đời kiếm sĩ bấp bênh, sống nay chết mai, không có gì chắc chắn.
- Đúng vậy ! Con đã biết như thế là tốt. Nhưng lần này không phải nói suông. Lần này, chín phần mười ta có thể chết. Vì vậy ta nghĩ chẳng nên gặp Otsu.
- Vô lý. Càng nên gặp chứ !
- Con còn nhỏ dại, ta giải thích cho con cũng bằng thừa. Lớn lên con sẽ hiểu.
- Thầy ! Thầy nói thầy sắp chết. Thật không ?
- Thật. Nhưng đừng nói chuyện ấy cho Otsu biết nghe con, nhất là trong khi nàng đang đau nặng. Hãy khuyên Otsu giữ gìn sức khỏe và tìm đường đi đến hạnh phúc. Đó là điều ta muốn nhắn con nói với nàng. Chớ nói ta sắp chết.
- Không ! Con nói hết ! Con sẽ nói hết. Làm sao mà con giấu được cô Otsu ?
Nước mắt Jotaro chảy quanh. Nó giật giật tay áo sư phụ:
- Thầy ơi ! Thầy đi với con đi !
Miyamoto Musashi đẩy Jotaro ra:
- Con vẫn không nghe lời ta !
- Nhưng con thương cô Otsu lắm. Nếu con nói thầy không muốn vào thăm, bệnh cô Otsu sẽ nặng thêm.
- Đó là điều ta nhờ con. Hãy khuyên giải nàng, hãy nói với Otsu chừng nào ta còn theo đường cung kiếm thì gặp nhau chỉ thêm khổ cả cho hai người mà thôi. Con đường ta chọn đòi hỏi một kỷ luật khắt khe, sự chế ngự những tình cảm yếu đuối, bắt ta sống một cuộc đời khắc khổ, chịu đựng thử thách. Nếu không, ta sẽ không bao giờ tìm thấy ánh chân quang.
Jotaro, con hãy nghĩ kỹ. Con cũng thế, nếu con muốn theo con đường ta theo, con cũng sẽ phải làm như ta, nếu không sẽ không bao giờ trở thành một kiếm sĩ xứng đáng với tên ấy.
Jotaro không nói gì, nhưng vẫn thút thít. Miyamoto Musashi quàng tay qua vai nó, kéo nó ôm chặt vào lòng:
- Kiếm đạo vô cùng, mà đời người thì hữu hạn. Nếu ta không còn trên dương thế này, con hãy tìm một sư phụ khác xứng đáng mà học hỏi. Ta không thể đến gặp Otsu được vì ta biết không gặp ta, nàng sẽ có hạnh phúc hơn. Và khi có hạnh phúc, nàng sẽ hiểu lòng ta bây giờ. Ánh sáng trên khung cửa kia, có phải ở phòng nàng không ? Chắc nàng cô đơn lắm. Thôi con hãy vào đi, đừng khóc nữa.
Jotaro bắt đầu hiểu lờ mờ nỗi đau lòng của sư phụ. Nó chùi nước mắt, ngửa mặt lên hỏi thầy, mong bấu víu vào chút hy vọng cuối cùng vừa lóe trong trí:
- Thế khi học xong, thầy sẽ đến với cô Otsu chứ ?
- Ờ, có lẽ, ngày ấy ...
- Bao giờ hả thầy ?
- Khó biết trước được con ạ.
- Hai năm nhé ?
Miyamoto Musashi không đáp.
- Ba năm ?
- Con đường khắc kỷ không biết đến đâu là cùng.
- Thế suốt đời thầy, thầy không bao giờ gặp cô Otsu sao ?
- Nếu tài của ta quả có thực, có lẽ một ngày nào đó, ta sẽ đạt tới mục đích. Nếu không, suốt đời, ta cũng vẫn chỉ là kẻ ngu ngốc như bây giờ mà thôi. Nhưng cũng có thể ta sẽ chết sớm. Một người mà tương lai như thế, làm sao có thể để đời mình ràng buộc với đời sống của một thiếu nữ trẻ đẹp và đầy hứa hẹn như Otsu ?
Miyamoto Musashi nói rất nhiều. Jotaro dường như nghe không kịp. Chẳng biết nó có hiểu hết không nhưng nó vẫn bướng bỉnh bám lấy ý nghĩ muốn dẫn sư phụ vào với Otsu.
- Thầy chẳng cần hứa gì cả. Chỉ vào thăm cô Otsu một lát thôi. Một lát thôi, cô ấy sẽ sung sướng lắm.
- Không giản dị như thế đâu con ! Otsu và ta đều còn trẻ. Nói ra thì thẹn, nhưng gặp nàng, ta biết không thể nào làm ngơ được trước những giọt nước mắt và những lời cầu khẩn của nàng. Ta sợ ta không giữ được lòng bình tĩnh.
Miyamoto Musashi bây giờ đã khác. Hắn không còn là một thanh niên mới lớn, tàn nhẫn và vị kỷ như khi ở trên cầu Hamada đã cự tuyệt Otsu. Hắn điềm đạm, vị tha hơn, và dịu dàng hơn. Dịu dàng hơn nhiều lắm. Có lẽ vẻ duyên dáng của Yoshino đã đánh thức ngọn lửa đam mê trong lòng hắn nên hắn phải cố tình quay đi trước những quyến rũ của nàng. Đối với Otsu, hắn không chắc vào lòng mình. Hắn không dám có ý tưởng gì để nàng hiểu đời nàng sẽ phải lệ thuộc vào đời hắn.
Jotaro nghe tiếng sư phụ nói nhỏ bên tai, trong khi nó gục mặt vào cột rào thút thít:
- Jotaro ! Bây giờ con đã hiểu ý ta chưa ?
Thằng bé lắc đầu không đáp. Đến khi nó chùi nước mắt quay ra thì không thấy ai nữa. Xung quanh Jotaro, sương đã xuống từ bao giờ, làm mờ đục cả những lùm cây lân cận.
Thất vọng, Jotaro sợ hãi chạy quanh, cuống quít gọi:
- Sư phụ ! Sư phụ ! ...
-
CHƯƠNG 45
GIĂNG BẪY
Trăng vừa ló khỏi ngọn cây, đồ chúng Yoshioka đã chia thành nhiều toán trèo lên đồi Sinh Minh, nhằm hướng cổ tùng tiến tới.
Họ đi yên lặng dưới trăng, chập chờn ẩn hiện. Bóng họ lúc đổ dài, lúc khuất lẩn vào những bụi cây mọc tràn ra cả sơn đạo, hình thù cổ quái.
Xa xa, cắt trên nền trời trong vắt, gốc tùng to lớn, tàng lá rậm rạp mọc chênh vênh bên bờ vực sâu. Bóng tùng che lấp ánh trăng khiến vực tối om, đã sâu lại càng thăm thẳm.
Trên tàng cây, sườn núi đá dốc gần như thẳng đứng. Chỗ đó chỉ có loài vượn ở; họa hoằn, vào những ngày hè nắng ráo mới thấy một hai gã tiều phu mạo hiểm trèo lên kiếm củi. Sơn đạo khúc khuỷu. Mưa, tuyết từ thượng nguồn đổ xuống hàng năm cày nát mặt đường, để lại nhiều vết ngoằn ngoèo sâu hoắm lẫn với những hòn quái thạch rải rác.
Đệ tử Yoshioka leo dốc một cách khó nhọc. Nhìn lên, về phía gốc cổ tùng đã có ánh lửa lập lòe, bóng nhiều người thu hình ngồi im lìm bên các tảng đá trông như những con cua đêm rình mồi trên bãi cát.
- Anh em đến có vậy thôi à ?
- Còn một số đi sau, cùng với Genzaemon lão tiền bối.
- Hơi ít. Ta dự trù khoảng trăm rưởi, nhưng đây chỉ được nửa số ấy thôi chứ mấy.
Người kia quay lại lẩm nhẩm tính:
- Quả vậy ! Không ngờ anh em đến ít thế !
- Hừ ! Kể cả số người đến trễ, có lẽ cũng chỉ được tám chục.
Một đệ tử nói:
- Người đời thường phù thịnh chứ ai phù suy ? Nhiều mà không dùng được thì thà ít mà có bản lĩnh và hết lòng với môn phái lại hơn.
- Huynh đệ nào vừa nói thật chí lý. Ta thấy anh em có mặt ở đây đều là những hảo thủ trung thành, vậy cứ chờ xem.
Tuy đã tự trấn an như vậy nhưng đa số vẫn không yên bụng. Nghĩ đến chiêu kiếm thần tốc của Miyamoto Musashi sau sân chùa Kim Các đã đưa Denshichiro và Yoichibei sang bên kia thế giới chỉ trong nháy mắt, họ còn thấy rùng mình sởn gai ốc. Ngồi sát lại bên đống lửa, một số thì thào bàn bạc:
- Tền này quá lợi hại, không thể khinh suất. Phải dùng mưu ...
- Dĩ nhiên rồi. Cho nên đệ nghĩ địa hình ở đây hiểm trở, ta phải đặt ổ phục kích và phải hành động ngay. Nếu không sợ trễ quá.
Người khác nói:
- Cái khó là không biết nó tới bằng đường nào mà phục kích. Chẳng rõ các vị huynh trưởng có cắt người đi do thám trước không ?
- Chờ được tin thì muộn. Lúc này ta cứ chia ba toán mà phục ở những chỗ hiểm địa ở cả ba ngả đường. Nó đến bằng ngả nào cũng chết.
- Như vậy e lực lượng mình bị phân tán, số người ở mỗi nơi không đủ sức cự lại.
- Không hề gì. Mình có ưu thế bất ngờ. Vả lại khi phát giác ra nó ở chỗ nào thì mọi người cùng đổ lại, ba mặt giáp công rồi cứ dùng cách xa luân chiến mà đánh, khoẻ mấy cũng phải nhược.
Nghe ra lời bàn hợp lý. Cả bọn im lặng không phản đối. Lại có người nói:
- Nghe đâu Ueda lão huynh cũng đã sắp đặt hai tay cung nỏ sẵn sàng và một tay dùng hỏa khí nữa.
- Vậy tốt quá. Hỏa khí ở đâu thế ?
- Hình như của một khách thương người Bồ Đào Nha tặng. Hiệu nghiệm vô cùng !
Mọi người cùng à một tiếng, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Nhưng có kẻ bất nhẫn cho rằng làm thế không quanh minh chính đại. Đã lấy số đông áp đảo và đánh lén lại còn dùng ám khí.
Tuy nhiên chẳng ai quan tâm. Họ chia thành ba toán, phân công rồi cứ tiến hành cuộc giăng bẫy.
Bỗng nghe tiếng lào xào. Một người kêu lớn:
- Anh em ! Nó tới !
Tình thế đột nhiên căng thẳng. Bóng người nháo nhác ẩn vào các bụi rậm ! Đống lửa bị đạp tắt ngúm. Chỉ một loáng, khoảng đất trống bên gốc tùng đã vắng hoe, bầu không khí yên lặng nặng trĩu đe dọa bao trùm khắp cây cỏ. Dưới ánh trăng rung rung, côn trùng cũng không lên tiếng và những cành thông ướt sương lấp lánh như những lưỡi kiếm thép.
Thời khắc trôi qua, không động tĩnh. Yên lặng nặng nề như thế chẳng biết bao lâu.
Mãi sau mới thấy hai xa phu lực lưỡng phăng phăng lên đồi, vai khiêng cái cáng lớn.
Họ đặt cáng ngay trên khoảng đất trống, vén rèm cho một ông già và một thiếu niên bước ra. Tưởng ai, hóa ra là Yoshioka Genzaemon và người trưởng nam, Yoshioka Genjiro, mười ba tuổi, mới nhậm chức chưởng môn của kiếm phái. Bọn đệ tử Yoshioka canh chừng dưới chân núi, trong lúc vội vã đã hoảng báo.
- Tình hình này mà còn khệnh khạng đi cáng !
- Tân chưởng môn còn ít tuổi, đi cáng chẳng có gì quá đáng. Huynh đệ khe khắt quá !
Bấy giờ, đồ chúng Yoshioka mới lục tục bước ra tham kiến. Ueda và một số anh em khác có trách nhiệm cũng vừa đến. Một ngọn đèn ***g được thắp lên nhưng ánh sáng bị che bớt, chao qua chao lại, mờ đục và yếu ớt dưới ánh trăng vằng vặc.
Vừa ra khỏi cáng, Genzaemon đã hỏi ngay, giọng đầy vẻ quan thiết:
- Anh em đến đủ cả rồi đấy chứ ?
Một người đáp:
- Dạ đủ cả.
- Vậy Ueda cho bố trí đi thì vừa.
Đoạn quay sang phía thiếu niên, ông nói:
- Genjiro ! Con ra đứng dưới gốc thông kia lược trận. Cuộc chiến này rất quan hệ cho phái Yoshioka ta mà con là chưởng môn. Con chưa biết võ công nên các vị đây sẽ vì con mà chiến đấu. Đừng sợ gì cả ...
Ông vỗ vai con trai, khuyến khích. Genjiro bậm môi khẽ gật, bước tới bên gốc cây. Tuy còn nhỏ nhưng dường như đã ý thức được tầm quan trọng của tình thế, chàng thiếu niên đứng thẳng, yên lặng, tay nắm chặt, dáng điệu nghiêm trang và cứng nhắc như một hình nộm bằng gỗ được trưng bày trong ngày lễ của các thiếu niên kiếm sĩ.
- Chúng ta đến hơi sớm, bây giờ mới đầu giờ dần.
Genzaemon vừa nói vừa rút trong bọc ra một ống điếu và nhồi thuốc. Genzaemon đã già, không biết võ công, có tật ưa hút thuốc, bấy giờ được coi là một thứ hàng xa xỉ và hiếm vì phải mua từ các tàu buôn ngoại quốc. Nhưng vì ông đứng vào hàng thúc bá của Seijuro và Denshichiro, vả tính ông hào sảng, rất quan tâm đến sự thịnh suy của môn phái nên ai ai cũng kính mến, coi ông như trưởng lão của cả phái. Hễ có chuyện gì quan trọng, trước đây, bao giờ Seijuro cũng hỏi ý kiến ông; huống chi bây giờ, Genjiro, trưởng nam của ông lại mới được công cử làm chưởng môn, nên ý kiến ông càng được trọng nể lắm.
- Lão phu nghĩ việc này nên hết sức cẩn thận. Bản phái chẳng may bị tên đó làm nhục, chỉ còn cháu - Genzaemon nhìn Ueda - là người cao tuổi nhất, xứng đáng làm niên trưởng để hướng dẫn công cuộc phục thù. Genjiro tuy là truyền nhân nhưng chẳng biết gì về võ công, mà lão phu thì hồ đồ, xin hãy vì bản phái mà hết lòng cho.
Ueda cảm động quỳ xuống đáp:
- Việc là việc chung, tại hạ đâu dám xao lãng. Sao lão trượng lại nói thế ?
Genzaemon đỡ Ueda dậy:
- Ấy cũng là vì việc chung nên lão phu mới đề nghị nên hỏi ý kiến tất cả anh em để họ cùng góp phần vào việc diệt thù. Cháu nghĩ sao ?
- Lão trượng nói rất phải.
Bèn tập hợp tất cả mọi người lại, trừ những kẻ có phận sự phải canh phòng, để bàn luận. Chủ trương mai phục ở các nơi hiểm yếu trên cả ba nả đường đổ lên đồi Sinh Minh được tán thành. Mọi người nhất quyết phải giết cho được Miyamoto Musashi bằng mọi giá và bằng mọi cách.
- Nếu tất cả anh em cùng đồng lòng như vậy thì còn gì hơn nữa. Chỉ xin thi hành cho bằng được. Lão hủ rất tiếc không trẻ lại vài chục tuổi để tiếp sức với anh em !
Ueda bèn đem trình hai cung thủ và người sử dụng hỏa khí:
- Tại hạ cũng đã có kế hoạch. Vạn bất đắc dĩ, nếu nó quá mạnh, những huynh đệ này cũng dùng được việc.
Mọi người phấn khởi, nhất nhất tuân theo sự xếp đặt của Ueda:
Một toán xuống mai phục ở ven bờ vực, một toán ẩn trong khu rừng bách gần ngã ba đường đi Quan Lĩnh và một toán bố trí ngay tại chỗ, lo bảo vệ hai cha con Genjiro. Cung thủ án chỗ cao nhất trên đồi và người anh em sử dụng hỏa khí trèo lên cành thông ngồi đợi, nạp đạn sẵn và mồi lửa để bên, nếu thấy địch chạy là bắn.
Phân công bố trí xong, mọi người tản đi không tiếng động, êm như loài thủy cầm lẩn vào đám sậy.
oo Đứng lâu nghe chừng khó chịu, Genjiro vặn mình, nhăn mặt. Chân nó đã hơi tê, sương thấm qua lần dép cỏ lạnh buốt.
- Ngứa quá !
- Genjiro ! Gì thế ?
Yoshioka Genzaemon hỏi con.
- Lá thông rơi vào cổ áo khó chịu lắm. Mà con buồn ngủ quá !
- Phải ráng. Can đảm lên, chút nữa có chuyện gì xảy ra, hãy coi cho kỹ. Bây giờ là chưởng môn kiếm phái Yoshioka rồi, không được có những cử chỉ hèn yếu.
Tiếng cú rúc từ xa vẳng tới. Một con chim đêm bay ngang qua, cánh đập phành phạch và bóng đổi dài trên nền cỏ ướt.
- Thân phụ ! Con sợ !
- Sợ cái gì ? Không được tỏ ra khiếp nhược !
Thình lình, tiếng quát ở phía lưng chừng đồi làm Genjiro giật bắn người. Nó chạy lại ôm chầm lấy cha. Genzaemon gỡ tay Genjiro ra, trừng mắt nhìn. Một giọng nói nửa giận dữ nửa chế nhạo vọng lên:
- Ta là Sasaki Kojiro. Mắt ngươi mù hay sao mà không thấy ?
- Không biết ! Đứng lại ! Quân này đến do thám chăng ?
Tiếng cười ha hả:
- Nếu quả ta do thám thì lưỡi gươm này đưa ngươi về chín suối từ lâu rồi !
Thấy Kojiro, Ueda vội chạy ra đón. Nhìn chàng thanh niên mặt đầy nộ khí, ông quát đồ đệ:
- Anh em ai về chỗ nấy, không được vô lễ !
Đoạn quay sang phía thanh niên:
- Thiếu hiệp đại xá cho. Vi bản phái phải bố trí tự vệ nên mới có chuyện này.
Không ngờ thiếu hiệp cũng lại có mặt, lão phu rất lấy làm cảm kích !
Thấy thái độ hòa nhã của Ueda, Kojiro nguôi giận, tra kiếm vào vỏ, khiêm nhượng.
- Kính chào lão tiền bối, vãn sinh chỉ vì trách nhiệm mà đến chứ không có ý gì khác.
- Đa tạ thiếu hiệp.
- Đêm trước, vì đã đứng ra làm trung gian dàn xếp cuộc tranh chấp này nên vãn sinh phải lo tròn bổn phận. Mới đây, nhờ may mắn biết được một số chi tiết về Miyamoto Musashi, vãn sinh muôn thông báo để quý phái rõ.
Ueda ngạc nhiên, nhưng thấy thanh niên này có ý thiên về phía mình nên hoan hỉ mời Kojiro đến gần gốc tùng đàm đạo.
Xong phần giới thiệu và nghi lễ, đôi bên đề cập ngay vào việc chính. Kojiro nói:
- Vãn sinh dự định sẽ thành lập một kiếm phái sau này nên phải học hỏi và theo dõi những trận thư hùng của các hảo thủ võ lâm. Miyamoto Musashi tuy là tên quê mùa nhưng mới đây đã lập nhiều thành tích đáng kể ...
Ueda không hiểu Kojiro có ý gì, đang phân vân thì gã tiếp:
- Vãn sinh ngạc nhiên lắm, để tâm dò xét thì được biết một vài điều rất hữu ích.
Tên này sinh trưởng ở Miyamôt, con một kiếm sĩ quê mùa vùng Mimasaka. Lúc lớn, cùng với bạn đầu quân, tham dự trận Sekigahara. Thua trận, trở về làng, hắn làm nhiều điều phi pháp càn rỡ bị dân làng khinh ghét đuổi đi. Là một tên vô lại, nhưng Miyamoto Musashi có sức khoẻ hơn người, có đôi chút võ nghệ và khi chiến đấu thì cực kỳ dũng mãnh liều lĩnh. Hắn không có sư phụ nên kiếm pháp chẳng ra đường lối gì. Phương pháp chính thống của quý phái không làm Miyamoto Musashi e dè đâu, chẳng khác gì đem lời nói ra mà lý luận với kẻ điếc. Cho nên, theo thiển ý, nếu không dùng bẫy bắt hắn như bắt một con thú dữ thì quý phái nhất định thất bại. Nói thế để quý phái liệu mà hành động !
Ueda gật đầu:
- Đa tạ thiếu hiệp. Ngu lão cũng đã nghĩ đến điều đó.
Rồi đem kế hoạch dự định, chỗ mai phục cùng việc dùng cung nỏ và hỏa khí sẵn sàng truy kích Miyamoto Musashi ra sao kể cho Kojiro nghe hết.
Kojiro mỉm cười, nói lửng lơ:
- Cũng được ! Xem ra tên đó rơi vào ổ phục kích của quý phái thì cũng khó lòng thoát. Nhưng vẫn còn có chỗ sơ hở.
Khó chịu vì thái độ hợm hĩnh của gã thanh niên, Ueda hỏi:
- Sơ hở chỗ nào ?
- Các vị tính kế để bắt Miyamoto Musashi, được lắm ! Nếu hắn cứ thẳng thắn, đơn độc trèo lên núi, tất sẽ chết trong tay quý vị. Nhưng nếu hắn không đến thì sao ? Cả kế hoạch của quý vị sẽ phải vất bỏ vì vô dụng.
- Phải chăng thiếu hiệp muốn nói tên đó chạy trốn. Nếu thế chúng ta sẽ yết bảng khắp nơi nêu sự hèn nhát ấy ra để hạ nhục hắn. giang hồ sẽ chê cười hắn.
- Có thể các vị sẽ làm thế, nhưng chẳng ai cấm Miyamoto Musashi đi rêu rao khắp nơi là Yoshioka đã giăng bẫy lừa hắn nên hắn không muốn làm nạn nhân của một âm mưu bất chính. Danh dự quý phái có vãn hồi được đâu mà công của các vị là công cốc.
Hơn nữa, Miyamoto Musashi vẫn sống, sẽ trả thù các vị, mối lo là ở đó !
Genzaemon nghe ra, nhìn Ueda như ngầm hỏi cách xử trí. Vị trưởng lão lặng thinh. Tuổi già làm óc ông đặc lại, không còn sáng kiến gì nữa.
Lát sau, gã thanh niên lại nói:
- Vãn sinh có một kế nhỏ.
Không ngăn nổi vui mừng, cả hai người kia cùng đồng thanh:
- Xin thiếu hiệp cho nghe.
Kojiro bèn ghé miệng vào tai Ueda nói thầm mấy câu, xong quay ra cao giọng với một vẻ tự tin đặc biệt:
- Thế nào ? Tiến bối thấy làm như vậy có ổn chăng ?
Nét mặt rạng rỡ, Ueda gất đầu lia lịa, mỉm cười thỏa mãn:
- Thiếu hiệp giúp cho như thế thì còn gì bằng nữa !
Rồi xích lại gần Genzaemon, ghé tai nói nhỏ cho ông nghe cái mưu kế của Sasaki Kojiro.
oo Hôm sau, trời gần sáng, Miyamoto Musashi tới ngôi quán nhỏ bán rượu ở phía bắc trấn Kitano, nơi trước đây hắn gặp Jotaro và thu nhận Jotaro làm đồ đệ. Quán tiêu điều hơn và chủ quán cũng già hơn trước nhưng vẫn còn nhớ hắn, niềm nở mời vào, hàn huyên như vừa gặp một người thân lâu ngày không tin tức.
Ăn xong bữa cơm và ngủ một giấc dài, Miyamoto Musashi ra đi đến xế trưa mới trở lại, mang về một tấm bố nhờ chủ quán thuê may cho một chiếc áo chẽn nhiều túi, một cái khố. Vải thừa thì làm một dây lưng dài thật chắc. Hắn cũng không quên mua tặng chủ quán một bịch khoai. Chủ quán đưa vải ra tiệm may, bảo may gấp, khi trở về lại mua một bình rượu sa-kê rồi vào bếp lúi húi gọt khoai nấu món canh khoai hầm thịt.
Buổi chiều vắng khách, cả hai bày món ăn ra bàn, chén chú chén anh, nói chuyện mãi đến đêm mới đi nghỉ.
Gà gáy sang canh, nghe tiếng nước dội ngoài giếng, chủ quán tỉnh giấc. Trông ra, Miyamoto Musashi đang đứng dưới trăng tắm nước lạnh. Tắm xong, hắn mặc quần áo mới.
Chủ quán cũng ra, thắt hộ dây lưng và sửa soạn hành trang giúp.
- Hôm qua, đại hiệp nói chẳng ở đây lâu. Không ngờ đi sớm thế ?
Chủ quán tuổi đã cao, lại không có gia đình, thấy Miyamoto Musashi sống đơn độc cũng như mình thì đem lòng lân ái. Ông săn sóc chàng thanh niên, coi như người nhà, hỏi thăm cả về Jotaro và đoán thằng bé chắc bây giờ lớn lắm. Musashi hứa khi trở lại Kyoto sẽ tới trọ nhà ông và dẫn Jotaro đến.
Miyamoto Musashi ra đi, chủ quán tiễn chân đến tận cửa ngoài, lòng bùi ngùi nhìn theo như vừa tiễn chân một người thân chẳng hy vọng gì tái ngộ.
Trăng lung linh trên nền trời trong vắt. Miyamoto Musashi cảm thấy lòng lâng lâng, mỗi bước một nhẹ nhàng, đầy hứng khởi.
Gió đêm mơn man trên mặt. Chút rượu sa-kê uống vừa phải, giấc ngủ ngắn mà ngon, nước giếng lạnh chà xát cơ thể khiến huyết mạch chạy điều hò a, bộ quần áo mới mặc ấm áp dễ chịu, Miyamoto Musashi không có cảm tưởng mình là người sắp chết. Hồi tưởng hôm nào trên đỉnh Đại Bàng sơn, hắn cũng có cảm giác như thế này. Co khác là bấy giờ cành cây nặng trĩu băng giá mà bây giờ thì nụ đã bắt đầu nở hoa.
Sau khi rời khỏi dinh tướng công Mitsuhiro, Miyamoto Musashi đến đền Kuruma ngồi nhập định dưới gốc thông, hy vọng tìm thấy, trong sự yên tĩnh suy tư, trạng thái chân phúc của tâm hồn. Hắn cố gắng xua đuổi những tư tưởng bi quan về cái chết, nhưng đầu óc lộn xộn không sao thoát khỏi những ý niệm hắc ám.
Bây giờ tắm nước lạnh xong, đột nhiên thấy dễ chịu hơn, hắn tiếc đã phí thì giờ vô ích.
Tiếng kèn thờ não nuột từ một nhà có đám tang ở đâu vọng đến. Trong đêm tịch mịch, điệu nhạc bi ai gợi lên trong tiềm thức Miyamoto Musashi cái cảnh một gia đình buồn thảm ngồi canh thức xung quanh cỗ quan tài bằng gỗ mộc. Cảnh này ở đâu ? Hắn cố nhớ mà không sao nhớ được.
Thấp thoáng sau hàng cây là sông Kamo và đằng xa, nơi chân trời, giải Thiên Sơn ba mươi sáu ngọn đầy bí ẩn ngạo nghễ nhìn hắn. Nước sông trắng xoa như bạc, Miyamoto Musashi men theo dòng sông, qua cầu gỗ. Chủ quán đã nói với hắn muốn đi Quan Lĩnh, từ phía bắc Kyoto phải qua cầu này vì đây là đường gần nhất.
Sang bên kia sông, vừa được mấy bước, nghe tiếng gọi, Miyamoto Musashi đứng khựng, nhưng không định hướng được tiếng ấy từ đâu đến. Thêm vài bước lại nghe tiếng gọi. Miyamoto Musashi dừng lại lần nữa, chú mục nhìn kỹ xung quanh. Từ xa, một dáng người cao lớn rảo bước đi tới, tay vẫy lia lịa. Hắn không đoán được là ai mặc dầu cái dáng cao lớn ấy rất quen thuộc, hình như hắn đã gặp vài lần.
Đến gần thì ra ...Kojiro. Miyamoto Musashi đề phòng. Hắn không tin chàng thanh niên này, nhưng vì y làm trung gian giữa hắn và phái Yoshioka, nên không lộ ra mặt. Kojiro lên tiếng:
- Nhân huynh vẫn được an khang đấy chứ ?
Vồn vã nhưng kiểu cách và thân mật quá đáng. Đáp lại, Miyamoto Musashi chỉ giữ thái độ nghiêm cẩn, trả lời đủ lễ.
Đưa mắt về phía cầu sông Kamo và nhìn xung quanh không thấy ai, Kojiro lại hỏi:
- Nhân huynh đi một mình ?
- Dĩ nhiên tại hạ đi một mình.
- Chắc huynh đài miễn chấp cho đệ việc làm đêm hôm trước. Đa tạ huynh đài đã nhận lời.
- Tại hạ phải cảm ơn các hạ mới phải chứ. Sự can thiệp của các hạ đã tránh cho đôi bên một cuộc xô xát đẫm máu xảy ra ở một nơi chẳng mang vinh dự gì cho võ lâm.
Thế là may lắm.
Miyamoto Musashi cũng đáp lại bằng những lời lẽ khiêm tốn.
- Nhân huynh đến nơi hẹn ?
- Đúng thế !
- Đến một mình ?
- Dĩ nhiên. Đây là chuyện riêng của tại hạ.
- Hừ ...Musashi huynh ! Nhân huynh tha lỗi, nhân huynh có hiểu lầm hay quên những lời giao ước đệ đã nói với nhân huynh đêm hôm ấy chăng ?
- Ờ ...ờ ...không ! Tại hạ không quên điều gì cả ...
- Đây không phải là một cuộc tỷ kiếm tay đôi, giữa hai kiếm sĩ với nhau như trường hợp Seijuro và Denshichiro ...
- Tại hạ biết.
- Yoshioka Genjiro tuy là chưởng môn nhưng chỉ là một thiếu niên không hiểu võ công gì. Vậy nhân huynh không phải chỉ đương đầu với y mà phải đương đầu với những đệ tử bảo vệ y, có thể là mười, hai mươi hay hàng trăm người và toàn là những hảo thủ cả. Qúy huynh biết thế không ?
- Biết chứ ! Tại sao các hạ hỏi điều đó ?
- Họ đang mai phục ở ba ngả đường đi Quan Lĩnh, gần gốc cổ tùng chờ nhân huynh ...
- Sao các hạ biết ? Các hạ vừa ở đó đến chăng ?
Kojiro ngượng, nói lảng:
- À ...Không ...Đệ đoán vậy và cũng đoán nhân huynh đi đường này nên chờ để lưu ý nhân huynh đấy thôi. Đệ thấy có bổn phận phải làm thế vì là người trung gian dàn xếp ...
- Cảm ơn các hạ.
- Thật nhân huynh chỉ đi có một mình hay còn người nào nữa sẽ nhập bọn ?
- Thực ra tại hạ còn một kẻ đồng hành ...
- Ồ ! Ai vậy ? Ở đâu ?
- Ở ngay đây thôi !
Trước sự ngạc nhiên của Kojiro, Miyamoto Musashi chỉ bóng mình trải dài dưới ánh trăng và cười ha hả.
Kojiro có vẻ thẹn và giận:
- Có gì đáng cười ? Hình như huynh đài không coi lời cảnh cáo của đệ vào đâu cả.
Nhưng Miyamoto Musashi nghiêm mặt:
- Các hạ cho rằng tại hạ đùa chăng ? Khi Bồ tát Mạn Đà La nói rằng kẻ nào tin có đức Toàn Năng đi bên mình thì kẻ đó có sức mạnh bằng hai người, các hạ cũng cho rằng ngài nói đùa chăng ?
Kojiro không đáp. Miyamoto Musashi lại tiếp:
- Nhìn bên ngoài, có vẻ như Yoshioka phái sẽ áp đảo được tại hạ. Họ đông người, tại hạ chỉ có một. Nhưng xin các hạ đừng lo lắng gì cho tại hạ. Nếu biết họ dàn ra mười người, tại hạ cũng đem theo mười bằng hữu để đối địch; họ dàn ra trăm người, tại hạ cũng mang theo trăm người, thì cuộc chiến sẽ rối loạn lắm ! Bao nhiêu người sẽ chết hoặc bị thương và vấn đề cũng chỉ giải quyết được thế thôi, nghĩa là giữa cá nhân tại hạ và Yoshioka phái, một còn một mất, vậy có ích gì ?
- Nhân huynh nói cũng phải, nhưng khi chiến đấu mà đã biết trước thất bại thì e rằng ...e rằng ...
- Không hợp với binh sách chứ gì ? Xin đa tạ ! Tại hạ đã có chủ ý.
- Nếu nhân huynh đã nhất định như thế thì thôi. Chỉ xin lưu tâm tìm cách gì ít nhất bảo toàn được sinh mang !
- Sinh mạng con người là quý, tại hạ cũng tin như vậy. Nhưng các hạ hãy nhìn kìa:
con sông Kamo này có thể là con sông đưa đến cửu tuyền, con đường tại hạ sắp đi để tới ngã ba Quan Lĩnh có thể là con đường đầy gai góc đưa tới địa ngục, nhưng đối với tại hạ, nó là con đường độc nhất dẫn đến một đời sống trọn vẹn.
Lui một bước, Kojiro trừng trừng nhìn Miyamoto Musashi:
- Nghe huynh đài nói, không biết huynh đài còn đủ lý trí không !
- Các hạ muốn nghĩ gì thì nghĩ. Có những người sống cũng như chết và có những người chết rồi mà còn sống !
Rồi không để Kojiro nói thêm, Miyamoto Musashi tiếp ngay:
- Đường trước mặt đi đến đâu thế, các hạ ?
- Qua làng Hananoki đến ngã ba Quan Lĩnh, dưới gốc cổ tùng, chỗ huynh đài sẽ trở thành người ...thiên cổ.
Dường như không lý gì đến ẩn ý của người trước mặt, Miyamoto Musashi vẫn hỏi tiếp:
- Xa không ?
- Chừng năm dặm nữa. Còn đủ thì giờ !
- Đa tạ. Bây giờ xin cáo biệt. Sẽ tái ngộ các hạ Ở một nơi khác.
Nói xong, quay ngoắt sang một đường mòn gần đấy, thấp hơn. Kojiro gọi với:
- Miyamoto Musashi ! Không phải ! Đường này mới đi Quan Lĩnh !
Nhưng Miyamoto Musashi không đáp, Kojiro chạy theo:
- Lầm đường rồi, quay lại đi !
Bỗng gã dừng lại vì thấy Miyamoto Musashi ở xa xa, quay lưng lại mặt ngẩng nhìn trời. Kojiro bật cười vì sự hiểu lầm của mình:
Miyamoto Musashi đang đi tiểu.
Gã rảo bước trở về đường cũ, ngồi trên phiến đá đợi. Trông lên vầng nguyệt sáng, gã mỉm cười tưởng tượng đến sự thích thú sắp được chứng kiến một cuộc tranh hùng đẫm máu. Nếu gã không nhanh trí báo cho Miyamoto Musashi biết trước ổ phục kích thì hắn chết mau quá, còn gì là thú vị ?
Chờ mãi không thấy Miyamoto Musashi lên, Kojiro đứng dậy theo đường mòn nhìn xuống. Không có Miyamoto Musashi. Hắn đã biết đâu mất. Chỉ còn những bụi cây lá nghiêng ngả trước gió đêm và xa xa vẳng lại tiếng cút kít của một cái cối xay lúa chạy bằng guồng nước.
-
CHƯƠNG 46
DƯỚI TRĂNG HỘI NGỘ
Đợi một lúc lâu, sau khi thấy Kojiro đã đi khuất, Miyamoto Musashi mời từ trong chỗ nấp chui ra. Hắn rất vừa ý vì đã tìm cách tránh được Kojiro, một người theo ý hắn vừa giảo quyệt vừa tàn bạo. Miyamoto Musashi có cảm tưởng gã thanh niên này chỉ lợi dụng sự tranh chấp giữa hắn với phái Yoshioka để mưu lợi riêng, chứ không chủ ý thực tâm dàn xếp. Con người giả nhân giả nghĩa ấy không hợp với tình tình ngay thẳng của hắn.
Có lẽ Kojiro tưởng hắn phải quỳ gối xin giúp đỡ khi biết tin toàn phái Yoshioka hợp lực đánh hắn. Hoặc hắn sẽ phải trốn chạy không dám đến. Nếu quả thế thì Kojiro lầm lắm.
Mạng sống rất quý, mất đi không lấy lại được. Takuan đã nói với hắn nhiều lần, nhưng sống hèn nhát vô ích, thì có khác gì chết. Kiếp người hai mươi năm hay bảy mươi năm chẳng quan hệ, vì nó có nghĩa gì đâu trong cái vô tận của thời gian ? Điều quan hệ chính là lưu lại một chút gì trong lòng người và trong lịch sử dân tộc.
Miyamoto Musashi nghĩ thế và đã chọn kiếm đạo. Hắn muốn sống như một kiếm sĩ và sẽ chết như một kiếm sĩ. Con đường tuy cam go nhưng thích thú vô cùng, cho nên không có vấn đề bỏ trốn hay cầu xin giúp đỡ. Hắn đến chỗ hạn với lòng ngay thẳng, vô úy của một kẻ cầm kiếm vững tin ở sức mình.
Điều quan tâm hiện tại của Miyamoto Musashi là làm sao giảm bớt được nguy cơ bị tấn công ở nhiều mặt. Nhớ lại những điều đã học trong binh pháp, khi một nhóm nhỏ phải đương đầu với một lực lượng mạnh và đông gấp bội, yếu tố bất ngờ là yếu tố sinh tử.
Phải đánh nhanh và mạnh vào chỗ nhược của địch rồi rút lui tức khắc trong lúc địch hoảng hốt và hàng ngũ còn rối loạn.
Như viên đại tướng duyệt lại địch tình trước khi lâm trận, hắn dàn ra trong óc tất cả những điều đã thu thập được trong ngày hôm trước, sau khi đi thăm địa hình các nơi lân cận.
Có ba sơn lộ dẫn đến đồi Sinh Minh. Cả ba lộ dạig tương tự nhau và đều tụ lại dưới gốc cổ tùng trên đường đi Quan Lĩnh. Sơn lộ dễ đi nhất là sơn lộ Kojiro vừa tới.
Nhưng ngoài những sơn lộ ấy lại còn một đường mòn nữa, hiểm trở hơn, đi vòng lên phía đỉnh núi. Đường này không dẫn tới gốc cổ tùng, theo lời chủ quán nói, mà mất hút ở sườn núi đá ngay trên ngọn cây. Đường bỏ hoang đã lâu ngày, nhiều đoạn đá lở ngổn ngang, có chỗ phải bám vào dây leo đánh đu như vượn mới qua được.
Trong cuộc tranh thắng sắp tới, nếu muốn đoạt yếu tố bất ngờ, hiển nhiên phải dùng đường ấy. Không chần chừ, Miyamoto Musashi rẽ ngay sang hướng núi đá, nhanh như một con sóc.
Qua đồi Kagura, hắn vòng sau một ngôi cổ mộ, rồi theo hướng bắc đi thẳng mãi.
Xuyên qua khu rừng trúc xum xuê che kín cả ánh trăng, bên một làng nhỏ sơn cước, Miyamoto Musashi đến chân núi đá. Bên kia sườn núi là hướng đi Quan Lĩnh. Theo lời chủ quán, vào những hôm trời quang, nếu đứng ở trên cao, có thể nhìn thấy cây cổ tùng cành xòe ra như cái tán.
Miyamoto Musashi ngồi nghỉ một lúc, đưa mắt định hướng rồi bắt đầu lên núi. Qua hàng phong thưa, mặt nước một cái hồ nhỏ dưới chân phản chiếu ánh trăng lóng lánh như gương. Càng lên cao, mặt hồ càng bị che lấp rồi khuất hẳn sau những tàn cây. Dòng sông Kamo hiện ra, trắng như bạc, uốn éo tự giải lụa chạy dài đến tận chân trời và mờ dần trong làn sương trắng đục.
Miyamoto Musashi có cảm tưởng đang nắm cả địa hình vùng phụ cận cổ thành Kyoto trong lòng bàn tay. Nếu trăng cứ sáng như thế này, khi sang bên kia sườn núi, hắn hy vọng có thể bao quát được hết địa thế và chú ý một chút, biết được những chỗ nào đối phương mai phục. Tỷ như tướng Oda trong trận đánh danh tiếng Okehazama, Miyamoto Musashi đã chọn con đường hiểm trở đến tấn công thay vì con đường dễ đi rộng rãi.
Tiếng chân đạp lá khô và ánh lửa đuốc thấp thoáng khiến Miyamoto Musashi đề phòng, nhảy đến thu hình sau một gốc phong. Một người đứng tuổi, ăn mặc ra lối gia nhân nhà quý tộc chậm chạp vạch cây đi tới, tay trái cầm bó đuốc đã lụi, tay kia:
một con dao phát. Mắt gã đảo nhìn tứ phía, mặt nhem nhuốc khói đuốc thông, quần áo ướt nhẹp.
- Đi đâu ?
Tiếng quát của Miyamoto Musashi làm gã gia nhân giật nẩy mình, suýt đánh rơi cả đuốc. Thấy một thanh niên cao lớn hiện ra, lão kêu khẽ nửa vui mừng, nửa kinh ngạc:
- Miya ...Miyamoto Musashi ? Tráng sĩ có phải là Miyamoto Musashi ở Miyamoto không ?
Miyamoto Musashi trừng trừng nhìn lão, nghi ngờ. Ánh đuốc rọi vào làm mắt hắn đỏ như hổ phách. Nhìn ánh mắt dữ tợn ấy, gã gia nhân kinh hãi quỳ mọp xuống.
- Ngươi là ai ?
- Dạ ...dạ ...tiểu ...tiểu ...tiểu nhân ...
- Đừng lắp bắp. Ngươi là ai, nói mau !
- Tiể ...tiểu nhân phục vụ trong dinh tướng công Mitsuhiro.
- Vậy được ! Chớ sợ ! Ta chính là Miyamoto Musashi ở Miyamoto. Đêm khuya, ngươi lên núi làm gì ?
- Vậy ...vậy tráng sĩ đúng là Miyamoto Musashi !
Nói xong, vứt cả đuốc và dao, ù té chạy ngược trở lại đường cũ xuống núi, trước sự ngạc nhiên của Miyamoto Musashi.
Tiếng chân đạp lá khô và cành gẫy xa dần. Lát sau nghe tiếng gọi:
- Kura ! Ngươi ở đâu đó ?
- Ở đây, dưới này ! Sao ông lại trở lại ?
Không phải tiếng Kura, một gia nhân khác của Mitsuhiro, mà là tiếng thằng Jotaro.
- Jotaro đấy hả ?
- Vâng !
- Lên ngay đây, mau lên !
- Dốc lắm ! Mà nhiều gai, không đi được !
- Nhanh lên ! Ta đã tìm được Miyamoto Musashi. Không tới mau, hắn đi mất.
Jotaro dìu Otsu trên đường núi dốc ở phía dưới, thấp hơn đến hai ba trượng. Phải một thời gian sau, hai người mới khó nhọc leo lên được ngang tầm đứng của lão gia nhân. Nàng thở hổn hển, gương mặt trắng bệch như sáp. Jotaro đốt ngọn đuốc mới, sắc diện nàng hồng thêm đôi chút. Otsu ôm ngực nói:
- Ông có chắc đã gặp Miyamoto Musashi không ?
- Chắc. Chính Miyamoto Musashi xác nhận mà, lầm thế nào được ! Nếu cô nương không đi nhanh, hắn rẽ sang đường khác mất thì uổng công !
- Phía nào ? Jotaro hỏi.
- Trên núi, cách chỗ này không xa lắm. - Lão gia nhân vừa nói vừa cầm đuốc chỉ - Còn Kura đâu ?
- Ông ấy đi hướng khác. Hay trở về rồi cũng nên.
Dáng điệu bị khích động rõ rệt, Otsu lẩy bẩy vịn vào vai Jotaro, giục:
- Mau lên em !
Mấy bữa nay, bệnh của nàng không thuyên giảm. Lúc nào Otsu cũng hâm hấp sốt và không ăn uống gì. Nhưng khi nghe tin Miyamoto Musashi sắp giao đấu với Yoshioka, nàng không chịu nằm yên, nhất định đòi đi gặp người yêu. Otsu bắt Jotaro dẫn lên ngỏ lời cảm tạ và từ biệt Mitsuhiro tướng công rồi lui về phòng sửa soạn hành trang. Mitsuhiro ngăn thế nào cũng không được, đành phải phái gia nhân đi các ngả tìm Miyamoto Musashi và hộ tống nàng.
Cả đêm, Otsu không ngủ. Mới canh ba nàng đã sẵn sàng:
tóc bới cao, áo chẽn, dép cỏ, kèm theo một chút lương khô và nước uống. Nàng đánh thức Jotaro dậy, rồi cả hai cùng khập khiễng dìu nhau trên sơn đạo đi Quan Lĩnh.
Đêm khuya, trời cao trong vắt và buốt lạnh làm run rẩy đôi vai gầy người thiếu nữ cô độc. Sức mạnh nào đã giúp Otsu qua được những khó khăn trên sơn đạo ? Trong cái cơ thể nhỏ bé, đau yếu ấy, không ngờ mối tình u uẩn nhưng mãnh liệt đã trở thành sức mạnh giúp nàng không quỵ ngã ở dọc đường.
Đầu giờ dần, Otsu và Jotaro tới được chân núi.
- Cô nhắm chừng leo được không ?
Jotaro lo lắng hỏi.
Otsu không đáp, chỉ gật. Mắt nàng sáng lên vì hy vọng, nhưng môi nàng khô và mồ hôi rỏ giọt trên da mặt tái ngắt. Người gia nhân già bảo:
- Qua khỏi chỗ này thì đường bằng phẳng dễ đi hơn. Cô nương hãy ngồi nghỉ một lát đã.
Nàng lắc đầu, chống gậy cả quyết bước tới. Jotaro bắc tay lên miệng làm loa, gọi lớn:
- Sư phụ ! Con đây ! Thầy đợi con !
Tiếng Jotaro non yếu nhưng cũng vang động cả khu rừng vắng làm phấn khởi lòng người thiếu nữ. Trèo được một quãng, Jotaro thấy tay Otsu vịn trên vai nó càng lúc càng nặng. Quay lại nhìn, Otsu xem chừng không kham nổi nữa. Dưới ánh trăng, da mặt nàng nhợt nhạt. Nàng thở hổn hển:
- Gi ...Jotaro ...
Cây gậy rời khỏi tay, Otsu ngã chúi xuống vệ đường, mặt úp sấp. Đến khi Jotaro đỡ được Otsu dậy, một dòng máu từ khóe miệng nàng chảy ra, đen sẫm trên khuôn mặt trắng bệch. Thằng bé lo sợ cuống quít:
- Cô Otsu ! Cô làm sao thế ?
Nó lấy tay quệt máu:
- Cô thổ máu rồi đây này ! Trời ơi ! Em đã bảo cô đừng đi mà ! ...
- Jotaro ...Jotaro ...để cô nằm ...
Nói xong, mắt nhắm nghiền. Jotaro cuống cuồng, lấy tay đập vào lưng Otsu.
- Cô Otsu ! Tỉnh dậy đi ! Tỉnh dậy đi !
Otsu lờ đờ mở mắt. Trên đôi môi tái nhợt, phác một nụ cười héo hắt. Jotaro cúi xuống gần mặt nàng:
- Cô muốn gì không ?
Otsu không nói, mắt mở trừng trừng, nụ cười như đóng băng lại trên môi. Trong cơn hôn mê, nàng tưởng trông thấy một cảnh gì tươi đẹp lắm ở xa tít, bên kia một con sông sương khói phủ mờ mờ. Đột nhiên cảnh sông biến mất, Otsu giật mình vẳng nghe tiếng Jotaro hỏi:
- Cô uống nước nhé ?
Otsu khẽ chớp mắt. Jotaro gỡ ống tre đeo bên sườn ra, nhưng thật không may, trông ống không còn một giọt nước. Nó để túi hành trang trên cỏ, đặt đầu Otsu lên, rồi bảo:
- Cô nằm tạm đây, em đi kiếm nước.
Jotaro lắng tai nghe. Hình như có tiếng suối róc rách. Nó xách ông đi về phía ấy, quả nhiên chẳng bao lâu thấy một dòng suối nhỏ lẩn trong các bụi cây cành lá rậm rạp.
Dòng nước trong veo đổ lên những viên sỏi tròn, trắng phau, đến một chỗ phẳng chảy tràn ra thành vũng. Mặt nước long lanh in màu nền trời xanh bạc, trong và sáng vô cùng, đẹp hơn cả nền trời chính thức ở trên kia.
Jotaro để ống tre sang bên. Trước khi múc nước, nó thèm uống một vài ngụm, bèn quỳ gối trên cỏ, chống hai tay, vươn cổ dài ra.
Mặt nước xao động. Bóng những thân cây rung rinh vỡ thành những vệt ngang trên tấm gương sáng. Bên cạnh những thân cây ấy, một hình ảnh khiến Jotaro trông thấy, giật mình tưởng đó là ảo ảnh.
Vì bóng người đứng bên gốc cây chính là Miyamoto Musashi, sư phụ nó. Jotaro dụi mắt ngẩng nhìn sang bên kia vũng nước. Quả nhiên thầy nó đứng đấy, nửa thân trên bị bóng cây che khuất, nhưng cái dáng hiên ngang cao lớn, đôi giày cỏ thầy nó đi, sợi dây da buộc bên ngoài xà cạp màu chàm, Jotaro không thể nào lầm được. Jotaro hét lên một tiếng mừng rỡ:
- Thầy !
Nước bắn tung tóe ra xung quanh. Chỉ ba bước, Jotaro đã nhảy sang bờ bên kia, rơi vào vòng tay mở rộng của sư phụ.
- Thầy ! Thầy đến bao giờ thế ?
Miyamoto Musashi ghì chặt đồ đệ vào lòng:
- Khẽ chứ con ! Chỗ này nguy hiểm, chớ nên để lộ tung tích của ta.
Jotaro hạ thấp giọng:
- Sao thầy biết con ở đây ?
- Nghe tiếng con, ta biết. Ta đợi con mới được một lúc. Mang nước về cho Otsu đi.
Jotaro quay nhìn vũng nước:
- Nước đục mất rồi, múc sao được nữa.
Miyamoto Musashi tháo ống tre bên hông đưa cho thằng bé:
- Con mang nước này về để nàng uống.
Jotaro giơ tay định cầm, nhưng vội rụt ngay lại:
- Không ! Thầy mang đến cho cô ấy !
Hai thầy trò nhìn nhau. Một lúc, Miyamoto Musashi vỗ vai Jotaro, trong cái vỗ vai ấy dường như có sự thông cảm và thân mật khác thường:
- Nào thì đi ! Chắc nàng mong chúng ta lắm.
Otsu nằm thiêm thiếp bên đường, tay áo kimono trắng mở rộng như cánh con chim câu bị tên bất động nằm trên cỏ. Miyamoto Musashi quỳ xuống, quàng tay nâng đầu nàng lên đặt trên đùi mình rồi dịu dàng kề ống nước đến gần đôi môi tái nhợt và mím chặt của Otsu. Hắn khẽ gọi, giọng run run vì xúc động:
- Otsu ! Hãy tỉnh dậy ! Nước đây !
Đôi mắt Otsu hé mở. Nàng uống thong thả từng ngụm nhỏ. Nước mát khiến nàng rùng mình nhưng cũng làm nàng dễ chịu hơn trước. Jotaro quỳ gối bên hai người, nói:
- Cô Otsu ! Thầy em đấy ! Thầy em đương cho uống nước chứ không phải em đâu! Miyamoto Musashi đấy, cô có biết không ?
Trên đôi mắt lạc thần, giờ đây đã thấy có chút sinh khí. Hai giọt lệ long lanh trên khóe mắt chảy dài xuống đôi má gầy. Nàng khẽ gật đầu xác nhận.
Jotaro mừng rỡ vô cùng:
- Thầy ! Cô Otsu nhớ thầy hết sức. Cô bỏ cả ăn cả ngủ, nhất định đòi đi gặp thầy, con khuyên can thế nào cũng không nổi. Thầy bảo cô ấy đi chứ con không thể nào làm được nữa.
- Lỗi tại ta. Để ta khuyên nàng. Bây giờ con hãy đi chỗ khác chơi một lát để ta nói chuyện với Otsu, được không ?
- Sao vậy thầy ? Con ngồi đây không được à ?
Otsu đưa mắt nhìn Jotaro. Nhìn ánh mắt cầu khẩn ấy, lòng Jotaro mềm hẳn lại.
Đối với thầy, đôi khi Jotaro còn tỏ ra bướng bỉnh ; nhưng với Otsu, nó không bao giờ từ chối nàng điều gì, ngay cả điều nó không hiểu rõ.
Jotaro chống tay đứng dậy:
- Vậy con ra ngoài mỏm đá đằng kia, khi nào thầy nói chuyện xong thì gọi con.
Thằng bé đi rồi, cả hai cùng cảm thấy bẽn lẽn và bối rối. Otsu mệt nhọc dựa lưng vào gốc cây, mắt e thẹn nhìn xuống đất. Nàng vốn nhút nhát, cơn bệnh lại càng tăng thêm tính nhút nhát cố hữu ấy. Thấy Otsu không tỏ ra thân mật, Miyamoto Musashi ngượng, quay mặt lên nhìn trời. Hắn không biết nói gì và cũng không biết bắt đầu ra sao nữa. Từ sau cái đêm mưa gió, Otsu một mình trèo lên cây đại bách ở sân chùa Shippoji giải thoát cho hắn, Miyamoto Musashi đã lờ mờ hiểu nàng yêu hắn. Mối tình u uẩn đó ấp ủ trong năm năm qua ngày càng bền chặt khiến hắn không thể nào không biết và không đáp lại. Trong nhiều đêm dài trằn trọc, cô đơn ở thạch thất cũng như ở những ven đồi hoang vắng, Miyamoto Musashi đã phải nén lòng mình, chôn vùi mối tình nồng nhiệt sau bộ mặt lạnh lùng.
Nhiều phen hắn tự dối lòng và tỏ ra lãnh đạm với Otsu. Con đường hắn đi còn dài và còn nhiều gian khổ phải khắc phục. Nhưng giờ đây, trăng tà, trời sắp sáng. Chẳng bao lâu nữa vầng nguyệt kia sẽ không còn trên trời cao, cũng như đời hắn chẳng biết sẽ ra sao sau khi cuộc chiến kết thúc. Trong những giờ khắc ngắn ngủi còn lại này trên dương thế, hắn thấy có bổn phận phải nói rõ điều ấy cho Otsu biết để đáp lại tấm lòng kiên trinh chung thủy của nàng.
Nhưng Miyamoto Musashi nghẹn lời. Muốn nói, hắn không đủ tiếng để diễn tả và chẳng biết bắt đầu thế nào cho hợp cảnh.
Otsu thì chỉ biết khóc. Tình yêu đốt cháy tâm can nàng. Tất cả những gì xã hội thường gọi là nhân luân, đạo đức, tôn giáo, tự ái ...đối với nàng đều vô nghĩa. Trước mãnh lực ghê gớm của mối tình nàng đối với Miyamoto Musashi, Otsu tưởng có thể bỏ hết hay chết vì nó được. Thế mà bây giờ đây, trước mặt người nàng hằng mong nhớ đến thành bệnh hoạn, Otsu bất lực chẳng nói được lời nào. Nàng để mặc nước mắt tuôn trào. Nước mắt yêu thương, vui mừng hay phẫn hận ?
Một đàn ngỗng bay ngang, tiếng kêu từ trên tường không vọng xuống. Đêm sắp tàn, đàn chim xoải cách bay về rặng núi ở chân trời, tiếng kêu mỗi lúc một xa ...Miyamoto Musashi buột miệng:
- Đàn ngỗng ấy thiên di về phương bắc.
Nói xong, thấy lời nói của mình nhạt nhẽo, hắn cúi xuống nhìn Otsu. Bỗng gặp trong ánh mắt nàng một niềm thông cảm và âu yếm vô hạn. Cả hai cùng nhớ đến những kỷ niệm xưa ở quê cũ, khi Miyamoto Musashi với Matahachi còn là những thanh niên mới lớn và Otsu ở chùa Shippoji, mỗi khi xuân về, thường cùng đứng nhìn theo những đàn ngỗng trời thiên di về phương bắc.
Cả hai cùng để lòng hướng về ngôi làng cũ nghèo nàn vùng Miyamoto, có chùa Shippoji nhỏ bé, hai bên bờ sông Yoshino Sumigiku dại nở đầy và mỗi khi sắp sang đông, gió bấc thổi làm rung động những cánh hoa cải vàng lấm tấm như những cánh bướm non.
Otsu nói khẽ, tựa thì thầm:
- Chúng ta đã để mất nhiều thì giờ quý báu. Thật tiếc !
- Ừ, thật tiếc. Nàng có hối đã bỏ làng đi không ?
- Không. Chẳng bao giờ thiếp hối điều ấy.
- Jotaro nói nàng ốm nặng lắm phải không ?
- Cũng không nặng lắm. Xin chàng đừng quan tâm đến sức khỏe thiếp.
- Bây giờ nàng đỡ chưa ?
- Khá hơn trước nhiều. Phải chăng bây giờ chàng sắp giao chiến với phái Yoshioka?
Có gì nguy hiểm đến tính mạng không ?
- Sợ cũng có thể nguy đến tính mạng.
- Nếu chàng có mệnh hệ nào, thiếp không thể sống được !
Ánh mắt Otsu long lanh, cả quyết. Lòng tự tin và quyết tâm ấy khiến Miyamoto Musashi ngạc nhiên và thẹn với mình, vì đã lâu nay, sống chết làm hắn phân vân và hoang mang lắm. Bao nhiêu suy tư vẫn chưa mang lại cho hắn một dứt khoát. Trên đường hành đạo, trong nhiều trường hợp, hắn không phân định được lúc nào phải chết và lúc nào đáng chết. Trong khi ấy, một thiếu nữ yếu đuối như Otsu, không được huấn luyện và không có công phu hàm dưỡng gì đặc biệt, lại có thể sẵn sàng chấp nhận cái chết để được toại ý, bình thản và không do dự. Miyamoto Musashi không ngờ người thiếu nữ yếu đuối kia có sức mạnh tinh thần đáng sợ đến thế !
- Đừng nói bậy ! Vì lý do gì nàng chết ? Ta vì danh dự một kiếm sĩ mà phải chiến đấu với phái Yoshioka. Ta đã chọn con đường ấy tất không thể lui bước. Nhưng nàng ?
Nàng chết vô ích, có lợi gì cho ai và giải quyết được gì ?
Sự bất bình của Miyamoto Musashi nổ ra đột ngột và thành thực khiến chính hắn cũng phải kinh ngạc. Nhìn Otsu ôm mặt khóc, hắn hối hận đã quá lời.
- Otsu ! Nàng không hiểu lòng ta. Ta rất xúc động và cảm ơn nàng đã dành cho ta một mối tình đằm thắm và sâu xa như thế. Nhưng quả tình, nàng chết theo ta thật vô lý. Cho đến nay, dù ta đã lừa dối lòng mình nhiều lần nhưng chưa bao giờ lừa dối nàng, cả khi nàng dắt ta chạy trốn.
Otsu ! Mai đây, khi trời sáng, có thể ta chỉ còn là cái xác không hồn. Những giờ khắc này ở bên Otsu có thể là những giây phút cuối cùng trong đời. Ta thú thực đã yêu nàng ngay từ dạo ấy và ở trên cầu Hamada, ta bỏ đi, chẳng phải đã muốn lừa dối nàng mà vì đã tự lừa dối mình đó.
Có những đêm dài trăn trở, nghĩ đến Otsu, lòng đam mê và thương nhớ nổi dậy, ta đã muốn bỏ ngay tất cả, sẵn sàng đi tìm gặp nàng để cùng nhau sống một cuộc đời bình thường trong hạnh phúc như mọi người ...
Otsu ngước nhìn Miyamoto Musashi, nét mặt rạng rỡ, má ửng hồng và đôi môi hé mở như uống những lời ngọt ngào của người yêu.
- Nhưng ...
Miyamoto Musashi quay mặt đi, nhìn về phía khác:
- Nhưng ta không thể. Trong thanh kiếm dựng bên, lòng ta nguội lại và mối cuồng si ấy không còn nữa.
Yên lặng một lát, Miyamoto Musashi lại tiếp:
- Thanh gươm thức tỉnh ta mỗi khi ta bị những đam mê khác cám dỗ. Otsu ! Định mệnh đã an bài như thế, hay phải chính ta đã tự tạo ra điều ấy ? Giữa tình yêu và kiếm đạo, ta phải chọn một. Nhưng chọn điều nào cũng làm lòng ta đau xé. Như ngọn đèn trước gió lung lay, ta đã có lúc ngả về phía này, có lúc nghiêng về phía kia. Otsu ! Ta chẳng phải là vĩ nhân mà cũng chẳng là anh hùng ...
Miyamoto Musashi dừng lại. Muốn nói thêm nhưng sợ lời không hết ý. Trong giờ khắc này, dưới trăng vằng vặc, hắn quyết thổ lộ hết tâm can, vạch trần những điều hắn mơ ước cho người hắn yêu mến.
- Otsu ! Đó, con người ta như thế. Khi ta nghĩ đến nàng, ta cũng nghĩ đến thanh kiếm ta mang bên sườn, con đường phải đi. Vỏ kiếm trơn mát, lưỡi kiếm sắc lạnh là lẽ sống của đời ta. Ta có thể chết vì danh dự của kiếm sĩ, nhưng Otsu ! Otsu ! Ta không thể chết vì một người đàn bà, dù người đó là nàng đi nữa. Ta yêu Otsu, nhưng sự thật là như thế, nàng hãy tha lỗi cho ta !
Miyamoto Musashi cảm thấy bàn tay giá lạnh của Otsu bóp chặt tay mình. Lời Otsu dịu dàng nhưng cương quyết:
- Thiếp biết rõ điều ấy lắm, nhưng thiếp vẫn yêu chàng như thiếp đã yêu !
- Nhưng nàng không thấy là điên rồ khi phải chết vì ta sao ? Giây phút này, ở bên Otsu, ta yêu nàng thành thật; nhưng khi xa nàng, ta sẽ quên mất. Nàng đừng điên rồi mà chết theo một người như vậy. Hãy sống cuộc đời nàng đáng được hưởng, êm đềm trong một gia đình hạnh phúc. Trời sắp sáng rồi, ta phải đi. Otsu ! Hãy nhớ những lời ta vừa nói như những lời vĩnh biệt.
Miyamoto Musashi nhẹ nhàng gỡ tay Otsu. Nàng cuống cuồng nắm áo Miyamoto Musashi, nước mắt ràn rụa:
- Musashi ! Hãy ngồi lại thêm chút nữa.
Otsu muốn nói nhiều với người yêu, dàn trải tất cả những nhớ nhung, hy vọng cũng như đau buồn nàng đã trải qua trong suốt mấy năm, nhưng sao nàng bối rối quá, lưỡi líu lại, cổ họng tắc nghẹn; chỉ thấy những giọt lệ theo nhau chảy dài trên má. Mắt ngước nhìn Miyamoto Musashi, Otsu quên hết, lòng tự ái, quá khư cũng như tương lại, nàng chỉ biết có hiện thân của mối tình trước mặt mà nàng phải cố giữ không để cho vuột mất.
Trong đôi mắt cầu khẩn van lơn ấy, có một vẻ gì khiêm nhượng và đẹp một cách lạ kỳ khiến Miyamoto Musashi vô cùng thương cảm. Lòng hắn mềm hẳn lại nhưng cũng làm hắn lo sợ vô cùng. Hắn có cảm tưởng lòng sùng mộ kiếm đạo của hắn bị lung lay, như một cái cây mọc cạn sắp bị trận gió phũ phàng thổi bật rễ.
Miyamoto Musashi quay mặt đi tránh ánh mắt mê hồn ấy.
- Otsu ! Nàng có hiểu lòng ta không ?
- Thiếp hiểu chứ. Nhưng thiếp vẫn tin nếu chàng chết, thiếp sẽ không sống nổi.
Cái chết có ý nghĩa đối với chàng thế nào thì đối với thiếp, nó cũng có ý nghĩa như thế.
Nếu vì danh dự, chàng có thể bình tĩnh rời bỏ cuộc đời này thì thiếp cũng có thể từ bỏ cuộc sống vì không muốn kéo dài đau khổ. Chuyện ấy, thiếp phải quyết định một mình, không ai giúp được, kể cả chàng.
Giọng Otsu trở nên vững mạnh. Nàng thôi khóc, và với một vẻ bình tĩnh lạ lùng, nàng nói tiếp:
- Musashi ! Nếu trong thâm tâm chàng đã coi thiếp là vị hôn thê thì điều đó cũng đủ làm thiếp mãn nguyện. Chàng đã nói không muốn cho thiếp đau khổ, vậy đừng khuyên thiếp ở lại một mình. Ngày nào chàng đi sang bên kia thế giới mà thiếp được theo chân thì đó là ngày thiếp sung sướng vô hạn, một ngày tưng bừng của thiếp, có chim hót, có bướm bay. Đó là ngày vu quy của thiếp vì thiếp được sum họp với chàng.
Nói một hơi, dường như mệt nhọc, Otsu dựa đầu lên ngực người yêu thở hổn hển, nét mặt rạng rỡ.
Trăng lụn dần. Trời chưa sáng nhưng sương đêm đã bắt đầu tan, chỉ còn quanh quất trong những bụi cây và trên mặt cỏ ẩm ướt.
Thình lình một tiếng thét kinh sợ vang lên trong sự vắng lặng của đêm tàn. Otsu giật mình. Miyamoto Musashi hối hả đứng dậy cầm tay nàng:
- Otsu ! Ta phải đi. Đừng phí cuộc đời vào những nỗi buồn vô ích. Ta hiểu lòng nàng lắm, nhưng ta đã chọn đường đi. Ngày hôm nay hay mai sau, thân thể ta có thể thành cát bụi nhưng hồn ta còn mãi, trăm năm, ngàn năm trong lòng dân tộc.
Otsu run run nắm tay người yêu lần chót. Nàng muốn chạy theo nhưng không đủ sức. Gục ở bên đường, mắt hoen lệ nhìn những bước đi vội vã của Miyamoto Musashi, Otsu tưởng có thể hét to đến xé ***g ngực để mong vơi bớt nỗi bi thương, nhưng sao không một tiếng nào thoát ra khỏi cổ.
Nàng cúi đầu. Bóng nàng câm lặng tựa phiến đá.
Jotaro từ trên đồi cao chạy xuống, tay còn cầm chiếc mặt nạ. Sỏi đá theo chân nó đổ rào rào. Nhìn bóng Otsu yên lặng bên đường, nó hét:
- Cô Otsu ! Cô có sao không ?
- Không. Cô không sao em ạ !
Nghe tiếng Otsu đáp, Jotaro yên lòng đến gần.
- Thầy em đâu ?
- Thầy em đi rồi. Tiếng ai vừa hét thế ?
- Em không biết. Em đang đeo cái mặt nạ này ngồi ngắm trăng thì có tiếng sột soạt đằng sau. Tưởng là chồn cáo gì đó em quay lại, bỗng nghe tiếng thét kinh hãi như tiếng người vừa gặp quỷ. Họ tưởng em là quỷ hay họ là ma hiện hồn hả cô ?
-
CHƯƠNG 47
GỐC CỔ TÙNG
Miyamoto Musashi rảo bước trên sườn núi. Trời đã gần sáng. Vầng trăng trên đầu hắn như đuổi sau lưng, lúc ẩn lúc hiện lấp loáng sau những tàng cây ẩm ướt.
Vài con vạc đi ăn đêm về buông tiếng kêu rời rạc khô khan.
Mồ hôi trên trán vã ra. Mỗi khi có cơn gió, Miyamoto Musashi cảm thấy mát rượi.
Hắn bước vội thêm. Từ triền núi nhìn xuống, lờ mờ hiện ra một mái đền. Miyamoto Musashi tự nhủ:
“Có lẽ đã gần đến ngã ba. Chỗ này xưa kia là bãi chiến trường, đền này hẳn được dựng riêng thờ những linh hồn oan khuất”. Ý niệm về cái chết lại lởn vởn trong trí. Hắn ngẩng mặt nhìn trời cao. Một đám mây đen che kín mặt trăng, rìa đám mây viền ngân nhũ óng ánh. Miyamoto Musashi thở mạnh. Không biết hắn vừa thở ra hay hít vào, nhưng tiếng thở dài như xua đi những ý tưởng hắc ám làm hắn dễ chịu hơn. Lát nữa đây, có thể linh hồn hắn sẽ theo đám mây kia bay về cõi hư vô. Trong vũ trụ, cái chết của một người cũng chỉ như cái chết của con bướm, chẳng quan trọng gì, nhưng đối với nhân thế, có khi có những cái chết ảnh hưởng sâu xa đến những người còn lại, tốt cũng như xấu. Là kiếm sĩ, hắn sẽ đem hết khả năng để bảo toàn mạng sống, nhưng nếu phải chết, hắn sẽ chết đĩnh đạt và xứng đáng.
Có tiếng ai gọi văng vẳng từ xa. Otsu hay Jotaro ? Không lẽ hai người đó lại không biết hắn đang ở trong một hoàn cảnh cần phải hết sức thận trọng và kín đáo. Hay đó chỉ là ảo giác ? Hắn hy vọng như thế nhưng không thể không quay nhìn lại phía sau sợ có người theo dõi.
Tiếng nước suối róc rách chảy trong khe đá. Miyamoto Musashi chợt thấy khát. Hắn đến bên suối, quỳ xuống, bụm tay múc uống rồi vã nước lên mặt. Vị ngọt mát và hơi the của nước suối lạnh khiến Miyamoto Musashi tự biết mình vẫn tỉnh táo và bình tĩnh. Miyamoto Musashi giận đã có những ý nghĩ mềm yếu lẩn quẩn trong vòng tình cảm tầm thường.
Câu danh ngôn “thắng ngoại địch thì dễ, thắng bản thân mới khó” chẳng biết đọc được ở đâu làm hắn suy nghĩ và hổ thẹn.
Miyamoto Musashi tháo ống tre múc đầy nước. Trời sắp sáng. Nếu cứ chần chờ mãi, e mất yếu tố thuận lợi. Trường hợp hắn bây giờ, một mình phải đương đầu hàng bao nhiêu người với đủ loại vũ khí, thời điểm lý tưởng là lúc trăng vừa lặn. Hắn sẽ lợi dụng điểm này, bất ngờ xông vào như ngọn cuồng phong, chém giết càng nhiều càng tốt rồi rút ngay trước khi trời rạng sáng.
Miyamoto Musashi cởi áo ngoài, xếp gọn vào đẫy, siết chặt thêm bộ áo chẽn mới may cho bó sát vào người, chỉnh lại quai dép rồi đứng dậy hối hả cất bước.
Dưới ánh trăng lu, trên nền rừng đen sẫm, một vệt dài như dải lụa trắng hiện ra, ngoằn ngoèo, nhiều chỗ lờ mờ dười màn sương lãng đãng. Không thể lầm được, đó là một trong những sơn đạo đi Quan Lĩnh. Đồi Sinh Minh tất ở dưới kia, chỉ cách chỗ Miyamoto Musashi đứng chừng vài chục trượng. Tuy chưa nhìn thấy gốc cây tùng già nhưng hắn đã mường tượng tàn lá xum xuê của nó run rẩy. Gió lạnh từ trên núi đổ xuống, kéo theo nhiều vạt sương trắng đục, quyện vào những bụi cây ven đường như khói. Tiếng tre già kẽo kẹt. Miyamoto Musashi đi nhanh, thận trọng từng bước. Hắn đang ở trong khu vực của tử thần, gây tiếng động vô ích có thể làm hỏng kế hoạch đã toan tính.
Gặp chỗ bụi gai cản lối, Miyamoto Musashi nằm sát xuống đất trườn mình đi như một con rắn, mười đầu ngón tay bám chắc lên những mảnh đá trơn trượt.
Thấy bức tường đất chắn ngang, Miyamoto Musashi khựng lại, phân vân. Hắn lắng tai một chút không thấy gì khả nghi, bèn quyết định trèo qua. Êm và nhanh như sóc chuyền cành, chỉ một thoáng, Miyamoto Musashi đã ở bên kia tường.
Thì ra đây là khuôn viên một ngôi cổ miếu hoang phế. Chỗ hắn đứng chắc trước kia là một cái sân rộng, bây giờ bụi gai và cỏ dại mọc đầy, khuất sau những bụi gai, ẩn hiện một cây đèn đá và căn miếu nhỏ, cửa gỗ im lìm.
Miyamoto Musashi không biết miếu thờ ai nhưng bỗng cảm thông với người đã khuất.
Tiến đến gần khung cửa gỗ nhìn lên, dưới ánh sáng mờ của vầng trăng sắp lụn, ba chữ Tử Sĩ Miếu (Ichijoji) bất giác làm hắn xúc động và bi thương vô hạn. Chỉ trong thời gian ngắn nữa, biết đâu hắn chẳng thành người thiên cổ, linh hồn sẽ quanh quất nơi đây nghìn năm hiu quạnh như vong linh các tử sĩ vô danh trong miếu này. Ý nghĩ ấy làm Miyamoto Musashi gần gũi hơn với những người đã khuất, những người tuy không biết danh tính mà hắn đã coi như bạn. Hắn nảy ý định muốn nhân cơ hội này cầu xin họ phù hộ.
Miyamoto Musashi tiến đến bên bồn đựng nước mưa bằng đá ở cạnh cửa, bụm tay múc nước súc miệng rồi theo tục lệ, vẩy nước lên chuôi kiếm và quai dép để tẩy trần và tỏ lòng thành kính. Đoạn giơ tay toan kéo sợi dây chuông thỉnh các vong hồn về chứng giám trước khi cầu nguyện.
Nhưng hắn vội dừng ngay lại.
“Ta cầu xin điều gì đây ? Cầu xin các vong hồn tử sĩ phù hộ ?”. Miyamoto Musashi tự hỏi và nhìn sợi dây trừng trừng. Sợi dây thừng cũ lâu ngày đã sẫm màu vì mưa nắng đong đưa trước mặt hắn như mời gọi. Hắn lắc đầu bối rối. Chỉ mới đêm qua, và cả sáng nay nữa, hắn đã tuân theo số mệnh, tự nhủ luôn luôn sẵn sàng chấp nhận cái chết trong danh dự với lòng tự tin và bình tĩnh. Thế mà lúc này hắn bắt gặp mình đang sửa soạn cầu xin một sức mạnh thiêng liêng nào đó che chở.
“Ta điên rồi ! Sao ta lại có những ý định mâu thuẫn như thế ? Chẳng hóa ra công phu luyện tập của ta mấy năm nay không mang lại kết quả gì sao ? Ta tưởng đạt được phần nào chân tướng của kiếm đạo nhưng ta vẫn còn hy vọng hão huyền. Ảo tưởng nào đã xui ta còn vương vấn với cuộc sống như kẻ sắp chết đuối bám vào một cánh bèo ? Otsu chăng ? Chị ta chăng ? Hay những lạc thú trên đời này ?”.
Miyamoto Musashi cau mày phẫn nộ. Hắn không ngờ đã có thái độ chủ bại vài khắc trước cuộc chiến sinh tử và quên rằng người kiếm sĩ chỉ có cái chết là bạn đồng hành chứ không thể có thần linh nào trợ giúp được. Và cái chết phải là tuyệt đích của người cầm kiếm ! Miyamoto Musashi vã nước lạnh vào mặt như hắn đã làm trước kia ở thạch thất mỗi khi tinh thần dao động.
Trừng trừng nhìn chữ Ichijoji, Miyamoto Musashi đột nhiên tỉnh ngộ. Phải rồi !
Cái chết phải là tuyệt đích của người cầm kiếm. Hắn thấy sảng khoái vô cùng, tự tin vô cùng. Không ngờ khi ý thức được sự thất bại tinh thần của mình, hắn đã vượt qua, chế ngự được nó.
Cuộc chiến chưa bắt đầu. Sự thử thách còn nguyên vẹn, sao hắn đã có những tư tưởng khiếp nhược ? Miyamoto Musashi không kéo chuông, không cầu nguyện nữa. Nghiêm trang chắp tay cúi đầu trước cửa miếu, hắn tạ Ơn vong linh các tử sĩ đã chỉ cho hắn con đường phải theo rồi lui bước.
oo Ra khỏi khuôn viên ngôi miếu cổ, Miyamoto Musashi đổ dốc như chạy. Sỏi đá rào rạo dưới chân, hắn đi nhanh cho kịp lúc trăng lặn. Khi nhìn thấy tán cây tùng già bên dưới, thấp hơn chừng vài trượng, Miyamoto Musashi bỏ đường mòn lẩn vào bụi.
Sương trên triền núi chưa tan, nhưng khu đất hoang quanh gốc cổ tùng đã quang đãng. Từ phía sau mỏm đá nhìn xuông, Miyamoto Musashi thấy ngồi lẩn trong những cành cây thấp bóng một người mang súng. Hắn thương hại cho Yoshioka, một kiếm phái trước đây danh tiếng nhường ấy mà nay sa sút quá đỗi, phải dùng ám khí đối phó với một kiếm sĩ đơn độc như hắn. Trong trận sinh tử này, môn phái Yoshioka chắc không nề mất thanh danh, quyết tâm giết hắn. Và không phải chỉ có một kẻ dùng hỏa khí, chắc còn nhiều tay cung nỏ nữa ẩn nấp đâu đó. Hắn cần phải thận trọng đề phòng hơn nữa.
Miyamoto Musashi thắt chặt khăn buộc tóc, cử động các ngón tay. Dưới lớp da thuộc mềm của chiếc bao tay cũ, những ngón tay hắn co duỗi dễ dàng, thoải mái. Hắn thử rút kiếm:
lưỡi kiếm nhẹ nhàng tuột khỏi bao, trơn tru không một tiếng động.
Gần sáng, sương lạnh buốt như kim châm nhưng trong lần áo chẽn, da Miyamoto Musashi nóng bỏng. Máu hai bên thái dương rần rật, hắn vận khí cho huyết mạch điều hòa, cố kềm chế nội lực sung mãn trong mình đang tìm cách tuôn ra ào ào như thác lũ.
“Cường bất khiển tắc nhược”, lời khuyên của Ozoin, vị cao tăng tại chùa Ozoin ngày nào văng vẳng bên tai. Miyamoto Musashi hít một hơi dài, giữ cho lòng thật bình tĩnh trước khi lâm trận.
Rồi như một con mãnh thú sắp vồ mồi, hắn bò chậm chạp đến bên tảng đá lớn gần ngọn cổ tùng, thu hình trong bóng tối chờ trăng lặn.
Miyamoto Musashi có một lợi điểm:
các địch thủ hắn đều quay lưng vào sườn núi.
Chúng chỉ nhìn ra phía ngã ba đường và mai phục ở những nơi hiểm địa dẫn đến ngã ba, tuyệt nhiên không ngờ và cũng không tin Miyamoto Musashi có thể xuất hiện ngay trên đầu chúng.
Trời tối thình lình:
trăng vừa khuất sau triền núi. Những bụi cây rừng đen sẫm hơn.
Cả khu đồi Sinh Minh như tắm trong bầu không khí mờ ảo, tranh sáng tranh tối; nếu không dự bị trước, mắt người khó điều tiết để kịp ứng phó.
Nhanh như cắt, Miyamoto Musashi nhảy xuống, rút kiếm. Sỏi đá đổ rào rào cùng với tiếng thét xé toang màn đêm tịch mịch.
- Nó đấy !
- Đâu ?
- Phía sau ...
Đệ tử Yoshioka cầm hỏa khí ngồi trên cây vừa kịp quay lại thì cánh tay trái Miyamoto Musashi đã vung lên theo hình vòng cung. Liền sau đó nghe một tiếng rú đau đớn. Lửa nháng trong đêm tối, mùi thuốc súng khét lẹt. Thân người đổ xuống kéo theo những cành thông gẫy răng rắc.
Hòn đá do Miyamoto Musashi ném ra nhanh và chính xác đến độ không ai tưởng hắn còn cách xa gốc cây đến chục bộ mà đã giết được một người. Sự hỗn loạn sau đó thật cùng cực. Đồ chúng Yoshioka từ trong các chỗ nấp xông ra kêu ơi ới. Gươm, giáo, đao, côn, móc, chùy ...đủ loại vũ khí tua tủa như lông nhím.
Trong màn đem đen như mực loãng, những bóng người chạy ngang dọc va chạm vào nhau, gọi tên Miyamoto Musashi chửi bới om sòm và hô hoán chớ để hắn thoát. Nhưng không ai biết Miyamoto Musashi đứng đâu và tại sao hắn lại có mặt ở ngay bên gốc thông mà không qua ba đường sơn đạo.
Giữa cảnh hỗn loạn, bỗng nghe tiếng sang sảng:
- Ta là Miyamoto Musashi ở Miyamoto ...
Mọi người khựng lại, quay nhìn về phía tiếng nói:
- Ta đến theo lời giao ước tại xóm Liễu. Truyền nhân Yoshioka, hãy cẩn thận ! Ta đi một mình, các ngươi muốn giao đấu từng người hay cả phái, ta bất chấp ...
Đồ chúng Yoshioka ngạc nhiên, không ngờ Miyamoto Musashi liều lĩnh đến thế. Lời thách thức của hắn quả nhiên hợp cách. Nhưng sự ngạc nhiên của họ không lâu. Miyamoto Musashi vừa dứt lời, hai mũi tên đã bay vụt về phía hắn. Kiếm vung lên. Những mũi tên bị gãy đôi, bắn tung rớt xuống đất.
Tiếng thét xung trận của môn đệ Yoshioka vang lên như sấm động. Genjiro run cầm cập chạy đến nép sát vào gốc thông già, vạt áo trắng lộ ra trong đêm tối.
- Thân phụ ! Thân phụ !
Tiếng kêu sợ hãi của cậu bé khiến Yoshioka Genzaemon hoảng hốt. Ông sực nghĩ ra chỗ sơ hở của mình, chạy đến bên con nhưng không kịp nữa. Bóng Miyamoto Musashi đã sà đến trước. Ánh thép lóe lên chém vẹt lớp vỏ thông cùng với thủ cấp của tân chưởng môn Yoshioka lăn lông lốc trên mặt đất.
Genzaemon tái mặt, rống lên như chính ông vừa bị thương, tiếng kêu đau đớn xé ruột. Ông phóng kiếm vào ngực Miyamoto Musashi:
- Súc sinh ! Mày nỡ tàn nhẫn ...
Lời Genzaemon chưa dứt, đường kiếm Miyamoto Musashi thuận chiều đã hớt ngược lên, tiện đứt luôn cánh tay phải và nửa mặt của ông. Genzaemon phục xuống, máu phun như tưới vào áo Miyamoto Musashi. Đồ chúng Yoshioka la hét vang rền, vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, nhất tề xông vào, giáo đâm, đao chém, côn phạt không còn kể gì chiêu thức và lề lối võ lâm nữa.
Nhìn cuộc giao tranh mới thấy Miyamoto Musashi ghê gớm. Bị bao vây, hắn không tỏ vẻ gì luống cuống, trái lại như hổ dữ giữa đàn dê, một mình một kiếm tung hoành, ánh thép của hắn loang loáng vung đến đâu xác người ngã đến đó, đầu giáo, đầu côn bị tiện đứt rơi lả tả.
- Cung thủ đâu ! Bắn đi ! Bắn đi !
- Đừng bắn. Gần quá, trúng anh em mất !
Một đồ tử Yoshioka lẩn ra phía sau Miyamoto Musashi, dùng trường thương đâm vào lưng hắn. Nghe tiếng vù, mũi thương chưa tới đích, Miyamoto Musashi đã nghiêng mình tránh kịp, bắt cây thương kéo giật về phía trước. Người cầm thương ngã chúi vào một đệ tử khác. Thuận tay, Miyamoto Musashi thét một tiếng lớn chém luôn cả hai, kẻ từ bả vai xẻ đến rốn, kẻ mất luôn cánh tay cầm thương, ngã chồng lên nhau giẫy đành đạch. Số còn lại kinh hoảng, đánh dứ vài chiêu rồi nới lỏng vòng vây, kêu gọi đồng bọn dưới chân núi lên tiếp sức.
Gốc cổ tùng ở đó đã lâu ngày, có đến vài thế kỷ. Vỏ thông xù xì, cành thông rậm rạp đã chứng kiến nhiều cuộc giao tranh ghê rợn, kể cả lần triệt thoái đẫm máu của đoàn quân Taira từ cổ thành Kyoto lên phương bắc và những trận hạ sơn của phái tăng lữ Hiei làm áp lực với hoàng gia; nhưng chưa bao giờ thấy một cuộc tranh sống quyết liệt và dã man như lần này. Không biết có phải mùi máu tanh và xương thịt của người chết đã đổ ra thấm xuống gốc tùng làm cho nó xanh tốt hay không mà nó run lên như được ngửi mùi quen thuộc. Cành cổ tùng xao động rì rào, đổ lên xác kẻ chết và vai người sống những giọt sương mai lạnh buốt.
Miyamoto Musashi dựa lưng vào gốc tùng. Dưới chân hắn, xác người, cánh tay, mảnh sọ còn dính tóc cùng với những đoạn binh khí gãy lẫn lộn. Áo quần hắn loang lổ những máu, mồ hôi trộn với máu làm ngón tay hắn nhớp nháp.
Thân cây tùng già to đến ba bốn người ôm không xuể là một lá mộc tốt chắn cho hắn phía sau lưng nhưng không phải là chỗ thủ thế lâu dài. Địch thủ có cung tên. Một kẻ dùng hỏa khí đã bị diệt, nhưng biết đâu không còn những tên khác nữa.
Miyamoto Musashi thấy phương cách hiệu quả hơn hết vẫn là lối đánh xáp lá cà, tìm chỗ nhược của địch tấn công vào, rồi khi vòng vây bị phá vỡ sẽ do lối ấy mà thoát. Sức người có hạn, hắn không thể cứ đơn độc cầm cự với chiến thuật xa luân cho đến khi trời sáng.
Tiếng người ồn ào càng lúc càng gần. Đồ chúng Yoshioka dưới chân núi leo lên mỗi lúc một đông, ánh đuốc lập lòe sau những bụi cây thưa lá.
Miyamoto Musashi giữ vững tay kiếm, mắt như mắt vọ, bao quát khắp vùng đồi trước mặt. Không một ý đồ nào của địch thủ qua được mắt hắn, nhưng trong óc, hắn đương lượng giá sự cường nhược của các địch thủ ở gần.
- Gốc cổ tùng ! Gốc cổ tùng ! Nó đứng đó.
Một tiếng nổ chát chúa. Ánh lửa lóe ra trong đêm tối, tiếp theo là vật gì đụng mạnh vào thân cây kêu đánh “phụp”. Viên đạn hỏa mai ghim vào vỏ cây chỉ cách đầu hắn chừng hơn tấc.
Tóc dựng đứng, thét lên một tiếng ghê rợn, Miyamoto Musashi như ngọn cuồng phong nhảy đến sát bên một đệ tử Yoshioka gần nhất. Gã kinh hoảng, giật lùi né tránh nhưng chậm quá. Lưỡi gươm Miyamoto Musashi đã đâm suốt qua bụng gã. Rút gươm ra, Miyamoto Musashi phóng chạy. Tiếng la hét đuổi theo:
- Anh em ! Chớ để nó thoát ! Nó bị thương rồi ! Nó bị thương rồi !
Thực ra Miyamoto Musashi chưa bị vết thương nào trầm trọng, nhưng dưới ánh sáng vừng đông vừa rạng, trông hắn ghê gớm quá. Máu bê bết khắp mình. Mặt hắn chỗ đỏ chỗ đen nhem nhuốc, chiếc khăn bịt đầu không còn màu vàng nguyên thủy mà đỏ sẫm.
Hắn chạy theo hình chữ chi để tránh đạn và tên, đồ chúng Yoshioka tưởng hắn trúng thương, say máu không giữ nổi thăng bằng nữa. Đến ngã ba, gặp toán phục kích đổ lên, toán sau ập tới, như một con thú nguy hiểm bị dồn vào góc rừng, Miyamoto Musashi gầm lên. Bản năng tự vệ nổi dậy, mắt rực đỏ màu hổ phách, hắn vung kiếm đâm hữu phạt tả, đem hết khả năng bảo toàn sinh mạng.
Miyamoto Musashi sử dụng kiếm khác hẳn với các kiếm sĩ đương thời. Phần lớn trong kiếm thuật bấy giờ, nếu lưỡi kiếm chém hụt, tất cả uy lực của chiêu kiếm bị mất vào quãng không và người dùng kiếm phải rút kiếm về, bắt đầu một chiêu khác. Dù nhanh đến đâu đi nữa, sự rút kiếm về như vậy cũng mất thời gian và cả uy lực của chiêu kiếm trước coi như mất hết. Miyamoto Musashi trái lại đã không rút kiếm về. Hắn tiếp tục sử dụng uy lực của chiêu nọ tiếp chiêu kia, liên tu bất tận dù cả khi kiếm trúng đích. Lẽ dĩ nhiên dụng kiếm như thế phải có công lực hết sức dồi dào, lưỡi kiếm sắc bén, chặt xương như gọt khoai vậy. Cho nên trong trận giao tranh hiện nay, đường kiếm của Miyamoto Musashi như hai vệt sáng đan nhau, hay nói khác đi như hai lá thông nối đầu với nhau vậy. Cách biến chiêu của hắn cũng thần tốc và dũng mãnh lạ kỳ, hắn đã tự phát minh và khai triển khi ở trong rừng nhìn những lá thông cuồn cuộn trong một trận cuồng phong, đâm vào đầu và mặt hắn.
Lối sử kiếm này chẳng theo chiêu thức nào nhất định, không thuộc trường phái nào nên không ai biết và dĩ nhiên chẳng được coi là chính thống. Nhưng chính thống hay không, Miyamoto Musashi không cần, miễn nó nhanh và hữu hiệu. Quả vậy, trong trường hợp một mình phải chống với số đông, lối sử kiếm của Miyamoto Musashi thật vô địch.
Đồ chúng Yoshioka kể cả những cao thủ của môn phái, không rõ điều đó, cứ lăn xả vào và trở thành mồi ngon cho lưỡi gươm của Miyamoto Musashi.
Thấy địch thủ quá dũng mãnh, Ueda, một trong bảy cột trụ còn lại của Yoshioka phái, thận trọng hơn, huy động đệ tử dàn thành thế trận. Ông đã có chủ ý:
vô hiệu hóa những đường gươm tàn độc của Miyamoto Musashi bằng cách dùng trường thương giữ cho hắn ở xa. Dưới ánh sáng của vầng đông càng lúc càng rạng, hắn sẽ trở thành cái bia dễ dàng cho súng hỏa mai và cung nỏ.
Không rõ Miyamoto Musashi có biết ý ấy không, nhưng hắn đã không rơi vào bẫy.
Đường gươm dũng mãnh của Miyamoto Musashi rít lên vù vù, tiện đứt đầu các cây thương ở gần, gọn gàng như chém chuối.
Không đầy chớp mắt, hắn đã phạt ngang hạ bàn một đệ tử Yoshioka rồi hươi ngược kiếm chém vào ngực Ueda. Ueda kịp thời ngửa mình ra sau tránh khỏi, nhưng cũng bị rách áo. Ông phóng chiêu phản kích liền, nhằm vào bụng Miyamoto Musashi hy vọng hắn sẽ phải thu kiếm về. Không ngờ Miyamoto Musashi khi chiến đấu, cực kỳ liều lĩnh và vì hắn không học trường phái nào nên chỉ tùy cơ ứng phó. Khi mũi gươm đến gần, Miyamoto Musashi thót bụng nghiêng mình né tránh rồi xoay người đưa ngược lưỡi kiếm của hắn vào gáy Ueda. Biến chiêu hết sức mau lẹ và chính xác:
lưỡi kiếm xuyên qua gáy lão cao thủ Yoshioka, lòi ra đằng trước đến một tấc. Ueda không thốt được lời nào, ngã sấp. Miyamoto Musashi rút kiếm ra, máu tuôn có vòi.
Sự kinh hoàng gần như làm tê liệt những đệ tử còn lại. Nhân cơ hội, Miyamoto Musashi xông vào chém giết không tiếc tay, mở đường máu nhằm thoát khỏi vòng vây. Xác đồ chúng Yoshioka chết nằm la liệt trên đồi cỏ, máu loang thành vũng. Bóng Miyamoto Musashi vùn vụt chạy xuống dốc khi ẩn khi hiện, nhấp nhô sau những hòn quái thạch hai bên sơn đạo.
Đao, thương phóng theo, tiếng reo hò dậy đất lẫn với những tiếng kêu rên của kẻ sắp chết gây thành cảnh tàn bạo, hỗn độn và bi thương vô tả.
- Miyamoto Musashi ! Đồ súc sinh hèn nhát !
- Thằng du đãng khốn kiếp kia ! Hãy quay trở lại ! Chúng ta không để mày trốn thoát.
Mặc ! Miyamoto Musashi cứ chạy. Dường như hắn không lưu ý gì đến những lời nguyền rủa, chỉ mong ra khỏi chỗ nguy hiểm này. Cuộc chiến càng kéo dài càng bất lợi cho hắn.
Về phương đông, trời đã sáng hẳn. Tay hắn nhớp nháp những máu tanh nồng, hắn vừa chạy vừa đổi tay kiếm, lau vào vạt áo ngoài trên đó máu với óc nhuộm loang lổ từng mảng cứng như da trâu và đỏ sẫm.
Thình lình, một toán đệ tử Yoshioka có đến hai chục người mặt mũi nhem nhuốc dưới lớp bùn hóa trang, từ chỗ mai phục nhô lên, hò hét. Miyamoto Musashi đã thấm mệt.
Hắn muốn tránh đám đông giận dữ ấy nhưng không lối thoát. Bên phải là vực sâu, bên trái là vách đá trơ trọi, đằng sau địch quân đuổi gần tới. Những tiếng la “Giết ! Giết !”, tiếng chân rậm rịch dội vào vách đá vang động đồi núi.
Bị dồn vào tuyệt lộ, Miyamoto Musashi nhất quyết bán đắt sinh mạng. Thần chết là kẻ đồng hành với người kiếm sĩ. Câu ấy đối với hắn không lúc nào có nghĩa hơn lúc này.
Hắn nhảy đến ẩn vào bóng tối một tảng đá lớn.
Khi đồ chúng Yoshioka từ trên sườn đồi đổ xuống tiếp sức được với toán ở chân núi chạy lên thì không còn thấy Miyamoto Musashi đâu nữa.
- Không lý gì thằng súc sinh ấy biến mất. Nó chỉ trốn đâu đây thôi ! Anh em hãy lục tìm cho kỹ.
- Bèn chia nhau thành từng bọn dùng giáo và chĩa ba đâm vào các bụi rậm.
- Miyamoto Musashi ! Mày ở đâu ? Đồ hèn nhát ! Chuột nhắt !
Vù một cái, một bóng người từ sau tảng đá nhảy ra, như chớp xẹt, lưỡi gươm chém bay đầu một tên cầm giáo.
Cả bọn thất kinh, không thể tưởng tượng Miyamoto Musashi lại có thể xuất thủ nhanh như thế. Nhưng độc đạo chật hẹp, vực sâu hiểm trở, Miyamoto Musashi khó thi triển kiếm pháp mà địch thủ của hắn cũng khó lợi dụng số đông áp đảo hắn được.
Như cá lội ngược dòng nước, Miyamoto Musashi tiến một cách khó khăn. Đường kiếm hắn bây giờ thu nhiều hơn công. Phóng xong một chiêu, trúng hay không hắn cũng lui về thế thủ. Có những đồ tử Yoshioka hoặc sơ hở hoặc vụng về để mất thăng bằng, có thể là mồi ngon của Miyamoto Musashi mà hắn cũng không giết. Phần lớn địch thủ của Miyamoto Musashi sử dụng trường thương, ước lượng tầm chính xác của mũi gươm thì dễ chứ mũi thương thì khó. Hắn không dám khinh địch.
Miyamoto Musashi lùi dần, không biết vì chủ ý hay vì mệt mỏi. Hơi thở hắn nhanh, sắc mặt hơi tái. Những đường gươm của hắn cũng không còn uy mãnh như trước.
Đồ chúng Yoshioka gia tăng áp lực. Càng lúc số người bao vây Miyamoto Musashi càng đông, nhưng không ai dám đến gần. Họ mong hắn vấp rễ cây hay tảng đá ngã ra là xông lại.
Dưới chân đồi có tiếng ngựa hí, lừa kêu he he. Dân chúng đã bắt đầu một ngày sinh hoạt mới, thồ vật dụng và nông phẩm từ các làng lân cận đến Cổ Thành đổi bán.
Họ tụ tập đằng xa, thấy đánh nhau, nghểnh mặt nhìn lên vừa kinh hãi vừa tò mò bàn tán.
Chỉ trong mấy khắc giao tranh, hình dáng bề ngoài của Miyamoto Musashi đã biến đổi. Khăn buộc đầu và tóc hắn bê bết máu, mồ hôi. Quần áo loang lổ bùn đất, máu từng mảng khô đen đóng cứng. Lông mày dựng ngược, mắt đỏ như than hồng, trông chẳng khác gì một con quỷ dữ vừa từ địa ngục trồi lên. Hắn thở hổn hển, thân áo phía trước rách toang để lộ bộ ngực trần phập phồng như thổi bễ.
Trong cơn nguy cấp, Miyamoto Musashi rút đoản kiếm. Đoản kiếm trong tay trái ngang tầm mắt, trường kiếm trong tay phải chênh chếch dưới bụng. Hắn dùng đoản kiếm phóng ra những hư chiêu để đối phương bối rối rồi dùng trường kiếm đâm tới hoặc phạt ngang. Kết quả không mấy khi không đạt được:
địch thủ thường bị tiện đứt đùi hay bị đâm thủng bụng. Kỹ thuật phối hợp song kiếm này Miyamoto Musashi về sau có hoàn chỉnh và chú thích rất cặn kẽ trong cuốn Go Rin No Sho, “cách dùng song kiếm chống số đông khi bị bao vây”, nhưng bây giờ hắn chỉ áp dụng nó vì bản năng tự vệ.
Theo những tiêu chuẩn về kiếm thuật, Miyamoto Musashi không phải là tay sành kiếm học. Trường phái, truyền thống, hay lý thuyết gì gì ...hắn cũng mặc kệ. Trong cuộc giao tranh mà sinh mệnh như ngàn cân treo sợi tóc này, hắn phải chiến đấu một cách thực tiễn. Thắng đã, rồi lý thuyết sau !
Từ dưới chân đồi vẳng lên nhiều tiếng la ó, những câu khích lệ và những lời giục hắn chạy trốn.
- Chạy đi ! Chạy đi ! Chạy không trễ mất ! Trễ là toi mạng.
- Tên kia ! Chiến đấu đơn độc như thế có lợi ích gì ? Chết vô ích !
Những lời ấy theo gió thoảng đưa lên, nhưng Miyamoto Musashi dường như không nghe thấy. Núi có đổ, trời có sập cũng thế thôi, hắn chẳng quan tâm. Điều hắn quan tâm là một bãi lau hắn vừa thấy ở cách chỗ hắn đứng chừng hơn trượng.
Bãi lau cao hơn đầu người nhiều, trải dài đến tận khe núi bên một khu rừng già, có thể dùng làm đường rút an toàn được. Miyamoto Musashi múa tít song kiếm. Đồ chúng Yoshioka e dè, nới giãn vòng vây. Hắn nhảy lui, tiến tới, giương đông kích tây, cốt làm cho địch nghi ngờ không rõ chủ ý của hắn. Đến gần bãi lau, đột nhiên Miyamoto Musashi nhảy xuống triền núi nhanh như một con lợn rừng tháo chạy.
Ba bốn đệ tử Yoshioka đuổi theo, phóng thương vùn vụt. Miyamoto Musashi vẫn chạy như bay, chẳng mấy chốc đã lẩn vào bãi lau mất dạng.
Đồ chúng Yoshioka đứng trên sơn đạo hô hoán chửi rủa rầm trời.
- Nó còn ở đó ! Anh em, bao vây nó !
- Không ! Nó chạy rồi ! Kia kìa !
Mọi người chỉ trỏ một bóng đen xa xa đang rảo bước bên hàng cây. Không ai biết chắc có phải đấy là Miyamoto Musashi không và cũng không ai dám nhảy xuống khu rừng lau lục soát để tìm hắn cả.
Trời đã sáng rõ. Một buổi sáng đẹp trời cũng như những buổi sáng khác.
-
MÓN LỄ VẬT
Từ hơn trăm năm nay, khu rừng Sinh Minh vẫn là nơi ẩn náu của giáo phái Hiei. Tuy mang danh giáo phái nhưng các tăng sĩ trụ trì, ngoài Phật sự ra, còn có nhiều hoạt động thế tục. Vào hậu bán thế kỷ thứ mười sáu, phái này đã huy động một số lớn tăng sĩ và dân quê xuống núi làm áp lực với hoàng gia đòi quyền lợi về chính trị.
Oda Nobunaga đã ra lệnh tiêu diệt giáo phái Hiei và trong một đêm kinh hoàng, ba ngàn đền miếu của giáo phái Hiei bị thiêu rụi gần hết.
Biến cố xảy ra đã bốn thập niên. Ngày nay những ngôi đền của phái Hiei chưa hoàn toàn đổ nát đã được sửa chữa, nhưng kỷ niệm đêm ấy vẫn còn ghi một ấn tượng kinh hoàng trong trí những nhà sư sống sót. Tăng sĩ Hiei bây giờ không còn hoạt động chính trị nữa, tuy nhiên họ vẫn mang nặng mặc cảm bị đàn áp và tự nhiên sinh lòng thương xót những kẻ cô thế.
Trong khu rừng Sinh Minh, trên một ngọn đồi về phía nam có căn chòi gỗ mệnh danh là am Mudoji, nơi tăng nhân Hiei dành cho khách lỡ độ đường tạm trú. Am nhỏ nhưng đủ tiện nghi, trông ra cảnh trí u tịch. Vào những hôm trời u ám, quanh am mây thấp phủ đầy, nhưng trong am vẫn ấm áp vì củi đốt chẳng thiếu và cửa ngõ kín đáo.
Am thường bỏ không. Sáng chiều, cảnh thanh vắng chỉ bị ngắt quãng bởi tiếng chim lảnh lót hay tiếng gió rì rào trong lá trúc.
Nhưng hôm nay sao lại có tiếng niệm Phật văng vẳng đưa ra. Tiếng niệm trầm, giọng đàn ông đọc kinh Liên Hoa, trước nhỏ sau to rồi lại nhỏ dần, dường như người niệm đang trong cơn mê giật mình sực tỉnh. Mãi đến khi một chú tiểu bước vào, tiếng niệm kinh mới dứt.
Chú tiểu bưng cái khay trên để liễn cơm, đĩa rau cùng bát đũa. Khay cơm đạm bạc thường thấy dọn ra hàng ngày vào chính ngọ. Chú để cơm trên bàn, đánh tiếng:
- A di đà Phật !
Người đàn ông dường như không để ý. Hắn ngồi trước quyển kinh trên một cái bồ đoàn trải lên sàn gỗ mộc đen bóng, quay mặt vào tường như một nhà tu đang nhập định.
Tấm áo rộng màu tro nhạt khoác trên mình, trông tưởng là tăng nhân, nhưng hắn không có cái vẻ khắc khổ của kẻ tu hành. Trái lại, với vóc dáng cao lớn, tóc buộc gọn trên đỉnh đầu, hắn có phong thái của một giang hồ kiếm sĩ. Không thấy người đàn ông trả lời, chú tiểu nói thêm:
- A di đà Phật ! Mời thí chủ dùng cơm.
Miyamoto Musashi, người đó chính là Miyamoto Musashi, quay ra mỉm cười, hàm răng trắng bóng dưới làn da nâu sạm nắng:
- Cám ơn chú. Đã đến giờ ngọ rồi đấy !
- Thí chủ dùng cơm ngay chứ ?
- Phải, chú để đấy cho ta.
Trong khi Miyamoto Musashi ăn cơm, chú tiểu nhìn quanh quẩn. Thấy gần chỗ Miyamoto Musashi ngồi có nhiều vỏ gỗ bạch đàn vương vãi, chú hỏi:
- Thí chủ tạc tượng phải không ? Tượng gì thế ?
- Tượng Phật.
- Đức Phật Di Đà ?
- Kiếm. Ta muốn tạc tượng đức Phật Bà Quan Âm nhưng không kinh nghiệm nên chẳng biết bắt đầu ra sao. Còn vụng lắm. Chưa ra hình thù gì đã đứt tay rồi.
Nói đoạn, chìa tay ra cho chú tiểu xem.
Nhưng chú tiểu không nhìn chỗ tay đứt mà lại để ý đến cánh tay buộc vải của hắn.
- Vết thương thí chủ ra sao ?
- Đã đỡ nhiều. Chắc mai tháo vải ra được. Nhân thể nhờ chú trính với các vị thủ tòa ta thành thật đa tạ lòng bao dung của các vị.
- Thí chủ cứ ở đây tĩnh dưỡng cho đến khi khỏi hẳn. Nếu thí chủ muốn tạc tượng đức Quán Thế Âm thì phải lên chính điện xem pho tượng ngài ở đó mới được. Đẹp lắm !
Hay để tiểu tăng dẫn thí chủ đi. Cũng gần đây thôi, chỉ cách chỗ này khoảng chừng vài chục trượng.
Miyamoto Musashi rất mừng, ăn vội bữa cơm, chờ dọn dẹp xong rồi theo chân chú tiểu ra ngoài.
Đã mười ngày nay, Miyamoto Musashi tá túc ở Mudoji không bước chân ra cửa, phần vì muốn giữ kín tung tích, phần muốn tĩnh dưỡng cho bình phụ hẳn. Vết thương ở tay không lấy gì làm nặng nhưng hắn bị một vết giáo đâm vào đùi khá sâu. Trong lúc say máu, Miyamoto Musashi không biết, mãi khi tới chùa mới rõ.
Nhờ lòng trắc ẩn và bao dung của các tăng lữ Hiei, hắn được săn sóc chu đáo và cho trú ngụ tại am này. Tuy vết thương ở tay và đùi đã lên da non, nhưng Miyamoto Musashi đi đứng vẫn còn ngượng. Hắn phải lấy bao kiếm dùng làm gậy chống tạm.
Không khí trong lành, gió núi nhẹ mơn man. Ngoài vết thương ở chân còn hơi nhức, Miyamoto Musashi thấy trong mình khỏe khoắn và trận chiến trên đồi Sinh Minh đối với hắn bây giờ chỉ còn là cơn ác mộng.
- Thí chủ học võ phải không ?
- Phải.
- Nếu học võ thì tạc tượng đức Quán Thế Âm làm gì ?
Miyamoto Musashi lặng thinh.Bồ tát Quán Thế Âm theo sự hiểu biết của hắn là hiện thân của lòng từ bi, trắc ẩn. Nhân dịp được nhàn rỗi, hắn muốn tạc tượng ngài dâng lên Tam Bảo để tỏ lòng biết ơn và cầu siêu cho các vong hồn đã vì hắn mà oan khuất.
Nhưng không tiện trả lời chú tiểu, Miyamoto Musashi chỉ giữ yên lặng.
- Sao thí chủ không để thì giờ luyện tập võ nghệ ?
Câu hỏi làm Miyamoto Musashi đau nhói. Tuổi chú tiểu có lẽ cũng bằng tuổi Yoshioka Genjiro, vóc dáng cũng tương tự. Trong cái ngày hôm ấy, bao nhiêu người đã bị thương tật hoặc chết dưới đường gươm của hắn, hắn không biết. Hắn cũng chẳng nhớ đã làm cách nào thoát khỏi vòng vây và sự may mắn kỳ lạ nào đã giúp hắn tránh hết được những lằn tên, đạn. Nhưng có hai điều đã ghi sâu vào tiềm thức Miyamoto Musashi và cứ lẵng nhẵng theo hắn ngay cả trong giấc ngủ:
ấy là tiếng thét kinh hoàng của Yoshioka Genjiro và cái xác không đầu của cậu bé lăn trên nền cỏ bên gốc thông già dưới chân hắn.
Đã mấy lần Miyamoto Musashi giở sổ tay, xem lại những điều đã ghi chép từ trước.
Bắt gặp câu:
“không làm gì để rồi phải hối tiếc”, lòng Miyamoto Musashi se lại. Trong bầu không khí thanh tịnh, an bình của căn am nhỏ, hắn quả đã hối tiếc, và cái chết đau thương của Genjiro, nếu cho đó là điều cần thiết phải làm trên con đường hắn đã chọn, thì con đường ấy sao mà man rợ và bi thảm !
Miyamoto Musashi quay hỏi chú tiểu đi bên:
- Này chú, phải chăng chư tăng thuộc quý phái như Vô Trụ và Nhất Quán đại sư đều có vẽ tranh hoặc tạc tượng các vị bồ tát đặt ở chùa ?
- Tiểu tăng không rõ, nhưng nghe nói các vị đã góp rất nhiều vào việc tô tượng và vẽ hình bồ tát. Tiểu tăng nghĩ nếu ta vẽ tranh, đúc tượng Phật càng nhiều bao nhiêu thì càng gần niết bàn bấy nhiêu.
Miyamoto Musashi mỉm cười:
- Nói thế cũng được. Vẽ hình Phật là cốt để noi theo hầu đạt được tâm cảnh Phật.
Niết bàn chính là tâm cảnh của Phật. Ta học võ công cũng thế, giữ tâm cho ngay đừng mê vọng. Những lời dạy trong kinh sách chỉ ta niết bàn chẳng khác nào ngón tay chỉ mặt trăng. Lời dạy thì nhiều, bảo chúng ta cùng hướng về mặt trăng, chúng ta chớ lầm mặt trăng với hướng tay chỉ.
Miyamoto Musashi bỗng ngừng lại, thấy mình nói những câu chẳng ra đầu đuôi gì, liếc nhìn chú tiểu đánh trống lảng:
- Cái bia bên hàng cây kia là bia gì đó chú ?
- À, đấy là bia ghi lời tiên tri của một thiền sư đời trước. Thí chủ muốn coi cứ tự tiện.
Đến gần, Miyamoto Musashi tò mò đọc:
Giới luật nhiệm mầu
Như dòng nước cạn
Gió hồ lạnh căm
Vẫn theo pháp nạn
Đọc xong, Miyamoto Musashi ngạc nhiên. Lời tiên tri thật ứng nghiệm. Sau cái đêm pháp nạn ba nghìn đền miếu ra tro ấy, giáo phái Hiei vẫn còn có kẻ u mê. Một số tăng lữ tiếc nhớ uy quyền cũ thoát ly ra lập chùa riêng, lợi dụng chúng sinh vào những mục đích riêng tư. Thay vì phổ độ họ, những người này đã ngụp lặn trong biển mê vọng và kéo chúng sinh cùng chìm đắm trong biển ấy. Miyamoto Musashi định hỏi chú tiểu thêm vài câu nữa, bỗng từ xa có một tăng nhân chạy đến:
- Gehen, sao lâu thế ? Chú đi đâu, sư bác tìm mãi không thấy ?
- Tiểu đệ dẫn thí chủ này lên chính điện chiêm bái đức Quán Thế Âm.
- Lần khác không được sao ? Về ngay gặp sư bác.
Miyamoto Musashi vội chen lời:
- Xin thứ lỗi. Tại hạ không rõ chú này bận việc. Vậy nhà chùa cứ dẫn chú ấy về, để khi khác tại hạ đi lấy cũng được.
Nhưng tăng sĩ đã quay sang Miyamoto Musashi:
- Không ! Không phải chỉ có chuyện Gehen mà thôi. Có người muốn gặp thí chủ trên phương trượng.
- Gặp tại hạ ?
- A di đà Phật ! Bần tăng chẳng muốn làm phiền, nhưng các vị đó cố đòi cho được gặp thí chủ.
Miyamoto Musashi vội vã theo chân vị tăng.
Bước vào phương trượng, đã thấy mười nhà sư mặc áo đen, thắt khăn nâu, mặt hầm hầm chờ sẵn. Họ cũng là tăng nhân thuộc giáo phái Hiei nhưng đã thoát ly.
Nhìn Miyamoto Musashi một cách ngạo mạn, họ tự cho mình có quyền thi hành giới pháp và không giấu vẻ mục hạ vô nhân trên nét mặt:
- Ngươi là Miyamoto Musashi ở Miyamoto ?
Giọng nói hách dịch, đầy thù nghịch.
- Chính thị. Các vị có điều gì dạy bảo ?
- Chúng ta đến cáo tri cho ngươi biết bản quyết định của Kim Cương Điện. Hãy dỏng ta ra mà nghe đây:
“Cáo tri cho Miyamoto Musashi ở Miyamoto. Núi Hiei là nơi thanh tịnh thiêng liêng, không bao giờ dung dưỡng kẻ gây thù chuốc oán. Lại càng không thể dùng làm chỗ ẩn náu cho những tên du đãng đê hèn hay sinh sự. Bản điện đã điều tra kỹ và ban lệnh này, truyền Miyamoto Musashi sinh quán làng Miyamoto phải lập tức rời khỏi vùng núi Sinh Minh. Nếu bất tuấn sẽ bị trừng phạt theo đạo pháp, bấy giờ đừng trách”.
Miyamoto Musashi sững sờ, nhưng cũng lễ phép thưa:
- Tại hạ xin tuân lệnh thủ tòa Kim Cương Điện. Tuy nhiên bây giờ đã quá ngọ và vì chưa chuẩn bị gì, tại hạ xin phép được lưu lại đến sáng mai. Và xin cũng cho biết thêm lệnh này được phát xuất từ đâu ? Tại hạ nhớ kỹ khi đến đây đã trình lên vị thủ tòa và được ưng thuận cho tá túc. Không hiểu sao lại có sự thay đổi như vậy ?
Một nhà sư áo đen đáp:
- Nếu nhà ngươi thực muốn biết thì ta nói rõ cho nghe. Lúc đầu chúng ta cũng thương tình vì ngươi đơn độc chống lại với hàng trăm người, đã tỏ ra khá dũng cảm.
Nhưng sau lại có kẻ đến cho biết ngươi chẳng qua chỉ là một tên vô lại làm nhiều điều càn rỡ cần bị trừng trị nên chúng ta buộc lòng phải xét lại, không thể để ngươi ẩn náu ở đây được !
À ra thế. Miyamoto Musashi nghĩ. Chắc lại phái Yoshioka đấy thôi. Oán cừu chồng chất, phái này hẳn đã đặt điều nói xấu hắn nhiều lắm. Nhưng không biết trong số đệ tử Yoshioka còn sống sót, ai đã làm việc vu cáo đê hèn ấy. Dù sao đi nữa, hắn vẫn phải phòng bị. Mối thù quá sâu đậm, không thể khinh xuất.
Miyamoto Musashi chẳng muốn tự bào chữa, lạnh nhạt đáp:
- Té ra là vậy ! Ngày mai tại hạ sẽ đi sớm.
Rồi quay gót, theo sau là tiếng cười chế giễu và những lời khinh mạn của bọn tăng sĩ áo đen:
- Thế mới biết họ đồn hão. Thằng này tầm thường quá, ra quái gì !
- Trẻ tuổi ngông nghênh.
- Thật xấu lây cả những người cầm kiếm !
Miyamoto Musashi quay phắt lại, cau mặt:
- Các vị nói gì ?
- Nói gì thì người đã nghe rõ đấy.
- Này, ta bảo cho mà biết, vì tôn trọng quý giáo, ta sẵn sàng tuân lệnh thủ tòa, nhưng nếu các vị buông lời hỗn xược, thanh kiếm này không để yên đâu ! Phải chăng quý vị muốn gây sự ?
Bọn tăng sĩ áo đen đấu dịu:
- Ấy là chúng ta nói thế. Đệ tử nhà Phật không sát sinh, nhưng những kẻ như ngươi cần được giác ngộ. Khi ra khỏi vùng này hãy coi chừng, tiếng đồn về ngươi chẳng có gì đáng hãnh diện.
- Ta chẳng làm điều gì quấy. Khi giao đấu với Yoshioka, ta không hề có hành động gì đáng phải hổ thẹn.
- Láo !
- Vậy hành động gì quấy nói ta nghe !
Tiếng cười nhạt:
- Ngươi còn dám hỏi à ?
- Này, ta cảnh cáo, nếu không nói hay nói bậy ta cắt lưỡi.
- Ha ! Được lắm ! Ta chỉ hỏi một câu, một câu thôi ! Chúng ta biết ngươi đã chống trả phái Yoshioka dũng mãnh. Nhưng tại sao lại giết một đứa trẻ mới mười ba, không biết võ công gì. Hành động ấy không gọi là dã man, hung tợn thì còn gọi là gì nữa ?
Mặt Miyamoto Musashi xám lại. Đột nhiên, hắn thấy yếu hẳn trước những lời buộc tội gay gắt ấy. Tăng nhân áo đen nói thêm:
- Seijuro tàn phế, đã đi tu. Denshichiro cũng bị ngươi giết. Chỉ còn Genjiro, truyền nhân độc nhất của dòng họ Yoshioka, ngươi cũng giết nốt, khiến dòng Yoshioka tuyệt diệt. Thật quá ư bất nhân và tàn nhẫn ! Thử nghĩ hành động ấy có đáng gọi là kiếm sĩ không ? Cái dũng của người cầm kiếm không phải chỉ có biết giết người mà còn phải xét xấu tốt, nên hay không chứ ! Nếu không giúp cũng dung tha người yếu đuối. Miyamoto Musashi ! Ngươi là kẻ tàn bạo, không có lòng trắc ẩn. Chiếu đạo pháp, phương trượng trục xuất ngươi khỏi nơi này !
Miyamoto Musashi điếng lặng. Những lời trách cứ của bọn tăng sĩ áo đen đúng một phần, nhưng ở địa vị hắn trong trường hợp đặc biệt sáng hôm ấy, hắn đã làm điều phải làm.
Là con người trọng nguyên tắc, Miyamoto Musashi không thể không giết Genjiro. Vì phái Yoshioka đặt thiếu niên này vào địa vị chưởng môn, Genjiro không còn là người thường nữa mà là chủ soái của cả môn phái. Chừng nào Genjiro còn sống, phái Yoshioka vẫn còn. Miyamoto Musashi dù có giết mười, hai mươi đệ tử đi nữa, Yoshioka vẫn không mất. Nhưng ngay từ lúc đầu, nếu hạ thủ Genjiro, đương nhiên trên danh nghĩa, hắn đã tiêu diệt địch thủ. Sau này dù có chết trong đám loạn quân, hắn cũng vẫn là kẻ chiến thắng. Đồ chúng Yoshioka không thể viện cớ gì để lật đổ cái thế ấy được. Đó là luật võ lâm và đó là nguyên tắc. Miyamoto Musashi phải bảo vệ nguyên tắc ấy.
Nhưng hình ảnh hãi hùng của một đứa trẻ cụt đầu nằm lăn trên đất, máu loang thấm ướt cả áo ngoài, cảnh tượng ấy man rợ quá, gây xúc động bi thương cùng cực và để lại trong lòng hắn một niềm ngao ngán không dứt được. Hành động tàn bạo ấy chính hắn cũng thấy ghê tởm. Cho nên Miyamoto Musashi đứng lặng.
Bọn tăng nhân áo đen bỏ đi đã lâu, Miyamoto Musashi trở lại Mudoji, lòng buồn vời vợi. Hắn tự hỏi:
“Chân tướng kiếm đạo ở đâu ? Có thể nào người cầm kiếm phải vứt hết những quan niệm về nhân luân, lòng trắc ẩn, tình yêu thương đi mới mong đạt được hay không ? Để trở thành một vật vô tri vô giác, một hòn đá ?”. Những ý nghĩ chán nản ấy không phải đây là lần đầu tiên hắn có. Nhiều lần trước, sự hoài nghi len lỏi vào tâm tư, Miyamoto Musashi đã có lúc muốn tung hê tất cả, trở về làng cũ cưới Otsu rồi cùng sống với nàng một cuộc đời bình thường như mọi người.
Sống cuộc đời bình thường như mọi người ! Miyamoto Musashi thở dài liên tưởng đến Haiya Shoyu, đến Kaname, đến Quán Ogiya. Và lắc đầu:
“Nếp sống ấy không phải của ta. Ta sẽ trở thành con cá mắc cạn chết trong vũng nước tù hãm mất !”.
Bầu trời chiều trong và dịu, báo hiệu một đêm thanh tĩnh. Vài cánh hoa anh đào rơi nhè nhẹ như bông tuyết, để lại trên cành những đài hoa trơ trụi. Miyamoto Musashi ví những đài hoa ấy với lòng mình, không nơi ẩn náu trước những giằng co ray rứt của trách nhiệm, tình yêu và lòng trắc ẩn. Kể từ sau cuộc chiến trên đồi Sinh Minh, tâm hồn hắn đã đổi khác đi nhiều.
Miyamoto Musashi châm đèn, mang pho tượng đang khắc dở ra làm tiếp. Mai đi rồi, tối nay hắn cố khắc cho xong. Dù xấu hay đẹp, hắn cũng phải hoàn tất pho tượng, cúng vào chùa để làm lễ vật cầu siêu cho vong linh Genjiro và các đệ tử Yoshioka khác.
Đèn lụi dần, hắn đổ thêm dầu và khêu bấc. Giữa đêm sâu, trong cái yên lặng gần như tuyệt đối của ngôi am nhỏ, người ta chỉ nghe tiếng mũi đoản kiếm đục vào gỗ và những miếng vỏ bào mỏng nhẹ nhàng rơi trên chiếu. Mùi gỗ bạch đàn thơm thoang thoảng.
Miyamoto Musashi chăm chú điêu khắc, để cả tinh thần cũng như thể chất vào công việc. Tính hắn xưa nay vẫn thế. Đã không làm thì thôi, làm thì tập trung mọi năng lực cho đến khi xong, bất kể nhọc mệt hay chán nản.
Pho tượng càng lúc càng rõ nét, tuy thô kệch nhưng không đến nỗi không ra hình thù gì. Khi tương đối trông được, Miyamoto Musashi lau sạch, quét dọn chỗ ngồi, đặt tượng lên bàn rồi cúi đầu ba lần lâm râm khấn nguyện.
Ngày mai, hắn sẽ mang pho tượng Quán Thế Âm lên chùa đặt chung với nhiều tượng khác. Tượng không đẹp nhưng hắn đã để hết tâm hồn vào đó, sáng tạo nên bằng lòng thành và niềm ân hận sâu xa, với hy vọng vong linh những người quá vãng sẽ được Phật bà cứu độ đời đời.
Đêm đã khuya, trống sang canh điểm từ lâu. Miyamoto Musashi sắp xếp vật dụng vào đẫy rồi ra nhà sau tắm. Căn phòng vắng vẻ. Hàng cây mềm cạnh am thì thầm và ánh trăng hạ huyền tuy mờ nhạt cũng đủ in lên nền giấy mỏng trên song cửa bóng hàng cây xao động.
Bỗng nghe sột soạt rồi cửa lùa xịch mở. Gió đêm thổi ngọn đèn nhỏ lung lay. Một bóng đen chui vội vào rồi cửa lại được khép ngay tức khắc.
Miyamoto Musashi ở nhà sau bước ra, mình còn quấn tấm khăn ẩm. Hắn trải chiếu dọn chỗ nằm và tắt đèn, túi hành trang để cạnh. Lúc sau đã nghe tiếng hắn thở đều và tiếng ngáy nho nhỏ.
Từ dưới gầm bàn thờ, bóng đen chui ra êm nhẹ như một con mèo. Tiếng ngáy dừng lại. Bóng đen vội nằm ép xuống sàn. Đến khi tiếng ngáy trở lại đều đều, bóng đen mới tiếp tục bò đến gần chiếu.
“Mày !”. Một giọng khàn khàn đồng thời ánh thép loáng lên dưới ánh trăng chênh chếch chiếu qua song. “Xem mày có thoát ...”. Nhưng câu nói chưa dứt, bóng đen đã bị hất ra ngoài cửa sổ đánh rầm ! Song cửa gẫy răng rắc cùng với tiếng thân người rơi bịch trên nền đất. Tiếng kêu đau đớn, cành lá rơi lả tả, rồi cảnh vật trở về yên tĩnh như cũ.
Miyamoto Musashi đã ngồi dậy từ bao giờ, dựa lưng vào vách, nắm chặt chuôi kiếm, lắng nghe động tĩnh. Thấy không có gì lạ, hắn vội vàng xách kiếm ra hiên. Nhìn bóng đen nằm co quắp dưới hè, Miyamoto Musashi thận trọng đến gần. Nghe rên rỉ, hắn sực nhớ lúc nãy khi vùng dậy gạt mũi dao, hắn cảm thấy nhẹ hẫng. Như một cục bông. Không biết kẻ này là ai, định ám sát hắn sao đường dao yếu thế, như chẳng có công lực gì cả.
Miyamoto Musashi quát:
- Ngươi là ai ? Sao vào đây hành thích ?
- Ừ ...ừ ...Takezo ! Đã đến nước này ...ối chao, đau ... !
- Ủa, bà Honiden !
Miyamoto Musashi ngạc nhiên. Té ra không phải là đệ tử Yoshioka hay tăng nhân Hiei vì ghét hắn mà đâm lén khi hắn ngủ. Hắn cúi xuống, vực bà lên, nói:
- Để con dìu bà vào am. Ngoài này lạnh.
Bà Honiden không hơi sức đâu chống cự nữa, mặc hắn muốn làm gì thì làm !
Nhưng bà luôn mồm kêu đau:
- Takezo, bây giờ mày bắt được ta thì hãy giết ta đi. Ối ! Đau quá ! Chắc gãy lưng mất !
Miyamoto Musashi bế bà Honiden đặt lên chiếu, đắp chăn và gối đầu cho bà. Hắn an ủi:
- Bà nằm đây, con đi pha trà. Bà nằm nghỉ đến sáng mai hãy hay.
Nhưng bà Honiden lắc đầu đáp yếu ớt:
- Không ! Ta không uống trà của mày. Thằng súc sinh ...
Miyamoto Musashi lúng túng, không biết xử trí ra sao. Hắn xích ra xa thầm nghĩ:
“Không biết bà đã gặp Matahachi chưa ? Chắc bà là người lên chùa kể tội, nói xấu ta với các tăng nhân phái Hiei. Thảo nào họ thay đổi ý kiến !”. Nghĩ vậy nhưng hắn vẫn vào nhà trong đun nước.
Lúc mang trà ra, bà Honiden đã thiếp đi từ bao giờ. Miyamoto Musashi để cho bà nằm nghỉ, ngồi uống trà một mình, canh chừng cho tới sáng.
Khi chú tiểu Gehen đến dọn dẹp xong, Miyamoto Musashi theo chú lên yết kiến thủ toà. Hắn trình bày tự sự, cúng pho tượng do chính tay hắn tạc, đồng thời cũng thỉnh cầu để cho bà Honiden lưu lại chùa ít lâu đến khi bình phục.
Bấy giờ vị hoà thượng thủ toà mới vỡ lẽ. Tuy nhiên ông xét để cho bà Honiden lưu lại chùa có điều bất tiện. Nhân có sư thầy thuê bò từ tỉnh Omi chở phẩm vật lên núi, ông đề nghị để con bò ấy cho bà Honiden cưỡi đến tỉnh Omi rồi nhờ Miyamoto Musashi trả bò cho chủ hộ.
Thấy cách này thuận tiện, Miyamoto Musashi vui vẻ nhận lời.
-
CHƯƠNG 49
BÌNH SỮA ĐỔ
Sơn đạo từ đỉnh đồi Sinh Minh đến tỉnh Omi gập ghềnh vòng vèo như rắn lượn. Miyamoto Musashi dẫn bò thong thả xuống dốc. Trên lưng bò, bà Honiden nằm sấp, hai tay ôm cổ con vật miệng rên khe khẽ.
Sợ bà lão mệt, Miyamoto Musashi quay lại:
- Hay ta dừng chân chỉ một chút. Đường núi khó đi mà bà với con cũng chẳng có gì vội ...
Bà lão lặng thinh như không nghe thấy.
Đặt được bà Honiden lên lưng bò cũng là một điều khó khăn. Bà lão nhất định không đi và cũng nhất định không cưỡi bò. Để thuyết phục, Miyamoto Musashi phải nói khéo, nhấn mạnh rằng chùa là nơi thanh tĩnh, phụ nữ lưu lại không tiện, phiền đến sự thanh tu của các tăng sĩ. Bấy giờ bà mới nghe và vì bị cái ngã đau quá, toàn thân ê ẩm nên bà đành phải cưỡi bò vậy.
Bà Honiden tỏ vẻ khó chịu mỗi khi Miyamoto Musashi hỏi han hay săn sóc. Sự ân cần của gã thanh niên chỉ làm tăng thêm sự nhục nhã và niềm uất hận của bà mà bà không làm gì được. Bà yên lặng biểu lộ sự khinh bỉ.
Miyamoto Musashi không hiểu sao mẹ người bạn cũ của mình lại có thái độ ấy. Đã bao lần hắn bị phiền. Những mẹo vặt của bà khiến hắn suýt chết mấy lần. Nhiều lúc mất bình tĩnh, hắn muốn giết phứt bà đi cho rồi, nhưng nghĩ lại thì không nỡ, nhất là lúc này bà yếu trông thấy, đi không được mà cũng chẳng thốt ra tiếng.
Nhớ lại những lời nói độc địa của bà Honiden, Miyamoto Musashi mỉm cười. Bây giờ nằm yên như thế kia, không rủa xả được, chắc bà tức lắm.
- Đường núi khấp khểnh mà con bò lại gầy. Bà chịu khó một chút, đến tỉnh Omi, con tìm thầy và mua thuốc trị thương cho bà.
Bà Honiden vẫn im lặng.
- Hay là bà ngồi xuống vệ đường này nghỉ, cho nó giãn gân cốt ...
Rồi không đợi trả lời, Miyamoto Musashi buộc bò vào gốc cây, đỡ bà lão xuống. Bà dựa đầu vào thân cây, tóc xõa rũ rượi, gạt tay Miyamoto Musashi ra, miệng lẩm bẩm câu gì không rõ.
Buổi sáng đầu mùa hạ đẹp vô cùng. Gió ấm mơn man và ở dưới chân đồi, mặt hồ Biwa lóng lánh như tấm gương trong.
- Chắc bà khát ? Miyamoto Musashi vừa hỏi vừa tháo đẫy. Con có mang nước và cơm nắm. Bà ăn một chút cho đỡ đói nhé ?
Bà Honiden vẫn bướng bỉnh lắc đầu.
- Từ hôm qua bà chẳng ăn uống gì. Như thế thì càng bệnh thêm thôi. Quanh đây không có thầy thuốc, chứ nếu có, con đã mời đến chữa cho bà rồi. Hay con chia đôi phần ăn này, bà dùng với con một nửa ?
- Không đời nào !
- Bà nói gì ?
- Ta dù có chết đói, xác để cho quạ tha chứ không đời nào ăn cơm của kẻ thù !
Rồi quay đi, bà nhổ bọt.
Miyamoto Musashi lắc đầu. Hắn không lấy thế làm giận, chỉ tội nghiệp cho bà lão.
Không ngờ sự hiểu lầm của bà sâu xa và dai dẳng đến thế. Có lẽ nếu gặp con trai, sự tức giận ấy sẽ giảm bớt và giúp bà thông cảm với hắn hơn. Miyamoto Musashi nghĩ bà đã giã, cũng như mẹ mình nên hắn cố tìm lời an ủi:
- Bà nghĩ lại đi. Bà yếu lắm, phải ăn chút gì để sống mà gặp Matahachi chứ. Bà có muốn gặp Matahachi và thấy hắn thành công không ?
Bà lão trừng mắt:
- Việc gì đến mày ? Rồi mày biết, nó sẽ thành công, không cần mày nhắc.
- Con cũng nghĩ thế. Nhưng bà phải giữ gìn sức khỏe để còn nhìn thấy hắn chứ.
- Đồ giả nhân nghĩa. Đừng tưởng nói khéo thì ta quên mối thù đâu !
Miyamoto Musashi buồn thấy bà lão cứ hiểu lầm hắn mãi. Nói với bà lão chẳng khác gì đánh bùn sang ao. Hắn bực mình bỏ đi, để mặc bà ngồi bên gốc cây với con bò cái.
Xách đẫy bước tới sau một tảng đá lớn, hắn giở cơm nắm ra ăn. Nắm cơm gói trong lá khô cùng với đậu nấu đường, hắn thấy ngon miệng, nhưng cũng chỉ ăn một nửa, còn một nửa bọc lại cất vào đẫy, phòng khi nào bà Honiden hỏi đến.
Nghe tiếng lào xào, Miyamoto Musashi quay nhìn về phía chỗ bà Honiden. Một người đàn bà nhà quê tóc cắt ngắn, y phục tương tự như y phục các phụ nữ trong vùng nhưng gọn ghẽ hơn, đang đứng nói chuyện với bà lão:
- Trong quán cháu có người khách trọ Ốm. Cô ấy muốn uống sữa. Lão bá cho cháu vắt sữa con bò này được không ?
- Ta không biết. Vùng ta ở không nuôi bò sữa, chẳng hiểu nó có sữa không ?
- Để cháu thử.
- Ngươi biết vắt sữa bò à ?
- Dạ biết.
Nói đoạn ngồi xuống bên con vật, rút trong bọc ra một cái bình nhỏ thường dùng để đựng rượu, lúi húi vắt. Chẳng mấy chốc đã được lưng bình. Khi đầy, người đàn bà đứng dậy cười toét miệng:
- Cám ơn lão bá. May quá, không phải xuống núi.
Rồi lấy vải bọc miệng bình, tong tả quay gót.
- Này chị kia !
Tiếng bà Honiden gọi giật lại. Bà ngó trước trông sau không thấy ai, bèn ghé tai người đàn bà ấy nói nhỏ:
- Cho ta một hớp được không ? Một hớp thôi, ta khát quá !
Người đàn bà ngạc nhiên nhìn bà lão, lưỡng lự một lát rồi mở miếng vải, đưa bình sữa cho bà.
Bà Honiden vồ ngay lấy tu ừng ực, sữa tràn cả ra hai bên mép. Lát sau bà nhăn mặt, đưa trả:
- Sữa gì vừa nhạt vừa tanh, còn khó uống hơn thuốc. Nhưng cũng đỡ khát.
- Lão bá sao thế ? Ốm à ?
- Ừ, ốm, nhưng thường thôi. Ta cảm gió xoàng.
Bà đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Không thấy ai, bà có vẻ khỏe hẳn ra. Bà hỏi:
- Này chị, đường này đi đâu thế ?
- Đến tỉnh Omi dưới núi.
- Ta muốn đi tắt, có đường nào không ?
Người đàn bà ngạc nhiên nhưng cũng đáp:
- Có, mà lão bá định đi đâu ?
- Đâu cũng được. Ta chỉ muốn tránh mặt thằng vô lại kia thôi.
Nói đoạn hất hầm về phía Miyamoto Musashi ngồi. Người đàn bà nhìn theo chẳng thấy ai lại càng ngạc nhiên lắm.
- Đường nào ? Chỉ ngay cho ta đi !
- Lão bá đi độ một quãng nữa thì có con suối. Rẽ trái ngược lên phía bắc rồi cứ thế mà đi thẳng, chừng đến trưa là tới Omi.
- Vậy được. Trời Phật phù hộ ngươi.
Rồi hạ thấp giọng:
- Nếu gặp ai hỏi, chớ nói chỉ đường cho ta nghe !
Đoạn tay giữ áo, tay cầm gậy lẩn vào đám cỏ tranh đi mất. Người đàn bà ngẩn ngơ chẳng hiểu ra sao, hết đứng nhìn con bò lại nhìn quãng đường bà Honiden vừa cất bước.
Tiếng cười của Miyamoto Musashi ở phía sau làm người đàn bà giật mình.
- Bác ở gần đây phải không ? Chồng bác đốn củi hay làm rẫy ?
Nhìn chàng thanh niên cao lớn có vẻ giang hồ đãng tử đột nhiên xuất hiện, người đàn bà hơi sợ. Nhưng dường như quen với những mẫu người như thế qua lại vùng này nhiều lần, chị ta mạnh dạn đáp:
- Không. Chúng tôi mở quán trọ.
- Xa không ?
- Cũng gần thôi, dưới triền núi.
- Vậy hay lắm. Ta muốn nhờ một việc, đưa hộ phong thư này cho người quen, bác giúp được không ? Ta sẽ trả tiền sòng phẳng.
Người đàn bà bán quán tỏ vẻ ngần ngại.
- Ta không phải tên vô lại như bà cụ vừa rồi nói với bác đâu. Ta chỉ có ý định giúp bà cụ nhưng bây giờ bà ấy đã khỏe, đi được rồi thì càng tốt, ta khỏi phải bận tâm nữa.
- Nhưng còn người bệnh ở quán. Làm sao mang sữa về ?
- Không khó gì. Ta sẽ mang về giúp và đợi bác ở quán.
Thấy được mối hàng lại có tiền công, người đàn bà vui vẻ nhận lời.
- Vậy khách quan định đưa thư cho ai ?
- Cho một người tên Otsu ngụ tại dinh tướng công Mitsuhiro, khu bắc ngoại thành.
Vừa đi vừa về thì khoảng nửa đêm bác đã trở lại nhà được rồi, có gì mà ngại.
Thỏa thuận xong, Miyamoto Musashi lấy giấy bút viết mấy câu cho người thiếu nữ mà khi ở Mudoji không đêm nào hắn không nghĩ đến, rồi trao cho người đàn bà. Tần ngần trông theo đến khi người ấy khuất dạng, hắn mới cầm thừng dẫn bò đi. Lòng hắn buồn vui lẫn lộn.
“Không ngờ ta còn có cơ hội gặp lại Otsu. Giờ này không biết nàng đã bình phục hẳn chưa. Nhận được thư ta, chắc thế nào nàng cũng lên đường ngay. Jotaro cũng thế.
Trễ lắm là trưa mai ta đã gặp lại cả hai rồi”.
Miyamoto Musashi háo hức như khi còn bé chờ mẹ đi chợ về, đợi ăn cái bánh bỏng mẹ hứa.
Rồi mặc cho bò nhẩn nha bước một, vừa đi vừa gặm cỏ, chàng thanh niên thong thả theo sau. Cốt cách ngang tàng của một kiếm sĩ nhưng dáng điệu lại thư thái nhàn du, trông hắn bây giờ không ai bảo là kẻ mười ngày trước đó đã gây chấn động võ lâm, trên đồi Sinh Minh, ngã ba Quan Ngoại.
Mấy câu Miyamoto Musashi viết cho Otsu thật giản dị:
“Cầu Hanada trước đây nàng đợi ta. Bây giờ ta đợi nàng ở cầu Kara, tỉnh Omi. Gặp nhau, nhiều chuyện muốn nói”.
Hắn muốn viết thêm vài lời âu yếm nữa để tỏ tình ý thiết tha, nhưng lại thôi. “Ồ, chắc Otsu sẽ hiểu”. Nghĩ đến “nhiều chuyện muốn nói” viết trong thư, hắn mỉm cười.
Đến quán, Miyamoto Musashi buộc bò vào gốc cây rồi xách bình sữa tới trước cửa quán. Cũng như đa số các quán trọ thời đó, quán này có một mái hiên rộng, ở phía trước kê vài cái bàn gỗ tạp thô sơ để lữ khách ngồi ăn những món điểm tâm thườ ng hoặc uống trà. Nếu muốn dùng cơm thịnh soạn hơn và có người hầu thì vào phòng trong, bên lò sưởi và đồng thời cũng là chỗ nấu bếp. Miyamoto Musashi đến gần bàn ngoài hiên hỏi vọng vào:
- Quán có ai không ? Ta mang sữa tới đây này !
Một người đàn bà trung niên chạy ra. Miyamoto Musashi giao bình sữa cho mụ và nói:
- Sữa của khách.
Người đàn bà trố mắt nhìn, vẻ không hiểu. Miyamoto Musashi giải thích rõ đầu đuôi, bấy giờ mụ mới vỡ lẽ, bèn gọi người đàn ông đang lúi húi bên bếp lửa ở trong nhà:
- Qúy khách ! Sữa quý khách sai đi mua đã mang về đây này !
Người đàn ông chùi tay vào vạt áo quay ra. Gã còn trẻ nhưng nét mặt gầy, buồn và có vẻ chán chường. Mí mắt hùm hụp, đỏ hoe, chẳng hiểu vì thức khuya hay vì rượu.
Đỡ bình sữa từ tay người đàn bà, gã nhìn chàng thanh niên đứng ngoài hiên. Bỗng kinh ngạc, mồm há hốc:
- Takezo !
- Ủa ! Matahachi !
Miyamoto Musashi cũng kêu lớn, kinh ngạc không kém. Và giơ tay ra đón bạn. Matahachi cũng giơ tay. Bình sữa rơi vỡ toang, mảnh tung tóe trên nền đất, sữa đổ lênh láng.
Hai người bạn ôm lấy nhau, cánh tay siết chặt. Miyamoto Musashi vỗ nhẹ lên lưng Matahachi:
- Đã bao lâu rồi không gặp mày ! Thật không ngờ ...Có lẽ từ sau vụ Sekigahara đấy nhỉ ...
- Ờ ...sau trận Sekigahara ...Đồi Ibuki ...
Họ bỏ nhau ra mà vẫn còn nắm chặt tay nhau, trìu mến. Miyamoto Musashi nhìn thẳng vào mặt bạn:
- Mày già hơn trước nhiều.
- Hơn sáu năm rồi còn gì ...Bao nhiêu biến chuyển. Tao đã hăm bốn.
Mùi sữa thoảng bay ngòn ngọt, bao bọc lấy hai người như đưa họ lùi về dĩ vãng, lúc cả hai còn là những đứa trẻ ngây thơ bên gối mẹ trong một làng nhỏ vùng sơn cước.
- Takezo ! Giờ mày nổi tiếng lắm rồi, đâu còn là thằng Takezo ngày xưa nữa. Để tao gọi mày là Miyamoto Musashi cũng như mọi người. Chuyện mày một mình đánh nhau với cả phải Yoshioka trên đồi Sinh Minh ai cũng biết. Lại còn những chuyện trước đây nữa, tao có nghe kể lại ...
Miyamoto Musashi ngượng, hơi đỏ mặt:
- Ồ, còn phải học nhiều. Tao ở vào thế bắt buộc phải tự vệ đấy thô i. Trên đời này xem ra nhiều kẻ có danh mà không có thực nên kể như tao may mắn. Thôi, nói chuyện mày đi. Mày trọ Ở đây đấy à, Matahachi ?
- Ừ, cũng đã được mươi ngày. Tao bỏ Kyoto đi Edo nhưng được nửa đường thì có trở ngại ...
- À ra vậy ! Họ bảo tao trong quán này có người ốm nhờ mua sữa. Mày ốm hả ?
- Ờ ...không ...không ...Đấy là người đi với tao.
- Cũng phiền nhỉ ...Gặp mày tao mừng quá. Lần chót nhận được tin mày đến nay đã ba năm. Mày viết bức thư đưa thằng bé làm ở quán rượu chuyển, nhớ không ? Bấy giờ tao đang trên đường đi Nara ...
Matahachi cúi đầu, hy vọng Miyamoto Musashi quên những lời khoác lác của gã viết trong thư hồi đó. Hắn mà nhắc lại thì thật là xấu hổ. Nhưng trong cơn vui mừng, Miyamoto Musashi kéo tay Matahachi:
- Ra ngoài này nói chuyện cho tự nhiên. Ai cùng đi với mày thế ?
- Người quen. Mày để ý làm gì !
Cả hai dắt tay nhau ra khỏi quán.
- Bây giờ mày làm nghề gì sống ?
- Tao không có tài, nên kiếm chỗ quyền quý dựa dẫm cũng khó ...
- Vậy có nghĩa là mày thất nghiệp ? Trước đây cũng thế, không làm gì hết à ?
- Cũng có chút đỉnh vài nghề cực nhọc. Nhưng thôi, đừng nhắc đến những chuyện ấy nữa. Tao buồn lắm.
Mắt Matahachi mờ đi. Những hình ảnh của quá khứ tủi cực bên cạnh Oko trong một căn phòng nhỏ hẹp, hôi hám, sặc mùi ẩm mốc và mùi rượu sa-kê rẻ tiền hiện về, làm gã nghẹn họng. Tâm trạng ấy không qua được mắt Miyamoto Musashi. Hắn kéo Matahachi ngồi xuống cỏ:
- Ngồi xuống đây. Kể hết chuyện mày cho tao nghe đi. Sự thể ra sao mà khốn khổ thế ?
- Cũng tại Oko hết. Mụ ấy mê hoặc tao ...
Rồi Matahachi kể cho Miyamoto Musashi nghe quãng đời gã sống bên người đàn bà sa đọa ấy. Miyamoto Musashi ngao ngán, vừa thương hại vừa phẫn nộ cho bạn. Tại sao Matahachi lúc nào cũng tự coi mình kém cỏi như vậy ? Tại sao hắn lại đổ lỗi cho người khác, dường như muốn quy hết trách nhiệm cho họ về những ngu xuẩn, hèn yếu của mình ?
- Matahachi ! Mày cứ nói tại Oko thế này, tại Oko thế nọ, nhưng mày có bao giờ nghĩ rằng mày đã thiếu tự chủ và dại dột không ?
Giọng hắn trở nên nghiêm khắc:
- Chỉ có mình mới có thể tạo cho mình một cuộc đời đáng sống. Ngoài mày ra, không ai làm gì cho mày được !
Matahachi thở dài, giọng thiểu não:
- Ta cũng nhận phần nào có lỗi, nhưng định mệnh cả. Nếu không gặp Oko ...
- Lại thế rồi ! Thời đại này mà mày còn nói thế thì đời mày vất đi, không bao giờ thành đạt. Mày muốn đi Edo lập nghiệp thì cứ đi, nhưng đó là chỗ bon chen danh lợi, rập khuôn theo kẻ tầm thường tất không khá. Phải có những hành động hơn người.
- Thì lúc trước ở làng tao cũng muốn theo nghề cung kiếm ...
- Ừ, đời còn dài, sự cố gắng là cần thiết. Có người nói tài năng chỉ do tập luyện.
Tao nghĩ đúng. Ngoại trừ những kẻ tài năng xuất chúng không kể, còn nếu muốn đạt được một trình độ tài năng bình thường nào đó thì phải bền chí tập luyện. Ở Edo, mày nên kiếm một nghề độ nhật đã và đừng quên lập chí.
Matahachi bứt một cọng cỏ đưa lên miệng cắn. Lòng gã nặng trĩu hổ thẹn. Gã hối hận đã để trôi qua sáu năm thanh xuân quý báu.
Những chuyện Matahachi nghe kể lại về Miyamoto Musashi đúng hay không, không biết nhưng trước mặt gã bây giờ là Miyamoto Musashi bằng xương bằng thịt, khuyên gã những lời chân thành, đôi khi nghiêm khắc, với phong thái chững chạc, tự tin, thật khác xa với gã. Nhưng dù Miyamoto Musashi vẫn mày tao với gã, coi gã như bạn thân, Matahachi thấy thái độ nghiêm nghị ấy gần như cao ngạo. Gã đau đớn ý thức sự hèn kém của mình.
- Matahachi ! Mày phải cố gắng !
Miyamoto Musashi vỗ vai bạn, khuyến khích, nhưng đồng thời cũng linh cảm qua cái vỗ ấy, một tâm hồn bạc nhược, nếu không được nâng đỡ, dìu dắt hàng ngày thì khó mà thoát khỏi những cám dỗ bên ngoài.
- Thôi, việc đã qua thì cho qua, đừng nghĩ đến nữa. Mày đã để mất sáu năm thì coi như mày bắt đầu trễ sáu năm. Những năm ấy là một bài học quý giá. Nhưng phải bắt đầu lại ...
Matahachi cúi mặt lặng thinh. Miyamoto Musashi đổi sang chuyện khác.
- À, tao mới gặp bà cụ.
- Mẹ tao hả. Bà đi đâu vậy ?
- Lên chùa lễ Phật.
- Ờ. Bà cụ thì không chùa nào không đến. Chẳng biết bây giờ bà có khỏe không ?
- Tao lấy làm lạ sao mày không thừa hưởng được sức mạnh và đức kiên trì của bà cụ. Thật khó có người đàn bà nào ở tuổi bà mà được thế.
Nhìn Matahachi, Miyamoto Musashi không hiểu sao gã lại là con bà Honiden được.
Bỗng nảy ra ý nghĩ:
nếu Matahachi nên người khá, có lẽ bà bớt hiểu lầm hắn.
- Này Matahachi ! Sao mày có người mẹ như thế mà mày không làm điều gì cho bà cụ được vui lòng. Tao không còn cha mẹ, không làm gì được, chứ mày ...Tao có cảm tưởng mày chẳng phải là đứa con hiếu thảo. Tao nghĩ không gì sung sướng cho bằng có người để chia sẻ nỗi vui buồn. Tao chẳng phải là nhà đạo đức đi thuyết giảng những giá trị luân lý gì đâu, tao chỉ là một lãng tử. mày không biết nỗi cô đơn đứt ruột của tao khi đứng trước một cảnh đẹp mà không có người thân để cùng chia sẻ niềm vui thích.
Ngừng một lát, Miyamoto Musashi cầm tay Matahachi:
- Mày biết những lời tao nói là thành thực, giữa một người bạn và một người bạn.
Hơn nữa lại là người cùng xóm, thân nhau từ hồi còn uống chung một bình sữa. Matahachi ! Chúng ta hãy lấy lại cái tinh thần của chúng ta hồi trước khi dự trận Sekigahara.
Bây giờ chiến tranh hết rồi, nhưng sự chiến đấu để sống còn trong một thế giới hòa bình không phải là dễ. Phải có kế hoạch, phải có tinh thần tranh đấu. Nếu mày quyết tâm làm lại cuộc đời, tao sẽ cố hết sức giúp ...
Tay cầm cọng cỏ mà nước mắt chảy tràn trề, Matahachi nghe những lời bạn nói thật chí tình, không như những lời mắng nhiếc của mẹ gã. Gã xúc động, quệt nước mắt:
- Mày nói đúng. Cảm ơn mày đã chỉ cho tao đường ngay. Tao sẽ làm theo lời mày bảo, trở nên người khác ngay từ bây giờ. Nếu không thành được kiếm sĩ danh vọng thì cũng lập thân được. Đến Edo, tao sẽ tìm thầy để học.
- Vậy tốt. Tao sẽ tìm cho mày một thầy giỏi để chỉ bảo cho mày. Có chí thì vừa làm vừa học cũng thành công.
- Nhưng Miyamoto Musashi ...
- Gì ?
- Còn một chuyện nếu không cho mày biết thì áy náy quá ...
- Có gì mà áy náy. Tao hứa giúp thì giúp tận tình, đừng lo lắng về tiền bạc ...
- Không ! Không phải chuyện ấy. Chuyện người đồng hành với tao kia ...Người đó là một thiếu nữ.
Miyamoto Musashi cười:
- Thì có sao !
- Nhưng người thiếu nữ này mày cũng biết.
- Ai ?
- Akemi !
Miyamoto Musashi bất giác “ồ” lên một tiếng. Hắn định nói:
“Thế thì tệ quá !” nhưng ngừng ngay được.
Akemi không sa đọa như mẹ, nhưng ngụp lặn trong nếp sống phóng đãng từ nhỏ, nàng rồi cũng sẽ như mẹ nàng mà thôi. Huống chi sau khi bị thất thân với Seijuro, nàng còn cặp kè với Kojiro, giờ lại ở với Matahachi. Không biết sợi dây oan nghiệt nào đã buộc Matahachi với mẹ con Oko như vậy !
Thấy Miyamoto Musashi không nói, Matahachi tưởng hắn ghen.
- Mày giận tao đấy hả ? Tao nói thực vì chẳng muốn giấu mày điều gì.
- Đồ ngốc ! Điều tao quan tâm là mày chứ không phải Akemi. Không biết mày tự chuốc lấy khó khăn hay tại định mệnh khắc nghiệt. Tao tưởng sống với Oko, mày đã học được bài học đắt giá rồi !
Như đứa trẻ phạm lỗi bị mắng, Matahachi lặng thinh.
- Qúy khách ! Thị nữ tìm các vị mãi không thấy.
Người hầu trong quán chạy ra, hớt hải:
- Cô nương có ở đó không ?
- Cô nương nào ? Akemi hả ?
- Cô nương ốm nằm trong phòng. Thị nữ mang thức ăn vào không thấy ai hết.
Dường như có linh tính báo trước. Miyamoto Musashi đoán được tự sự, nhưng hắn vẫn nói:
- Ta trở lại quán coi !
Trong phòng, chiếc chiếu vẫn còn trải ở góc. Gối xô lệch, chăn chưa gấp. Matahachi mở ngăn kéo và cửa phòng xếp hành trang:
- Quần áo đem đi hết ! Cả tiền bạc ! Không còn đến cái lược hay cái khăn nữa !
Trời ơi !
Matahachi mắt lạc thần, sắc mặt trắng bệch. Gã tất tả chạy ra hiên rồi lại trở vào, mở tủ tìm kiếm, bối rối:
- Nàng bỏ ta ! Sao lại bỏ ta ? Đem cả tiền bạc đi ! Làm sao bây giờ ?
Mụ người làm và chủ quán đứng trước cửa quán ngơ ngạc nhìn nhau rồi nói:
- Chắc chưa xa đâu. Khách quan đi tìm ngay còn kịp. Biết ngay mà, khi mới đến, ta đã đoán nàng giả ốm.
Matahachi chạy ra hiên, đứng nhìn con đường ngoằn ngoèo thoai thoải dốc ở chân núi ẩn hiện giữ những bụi lau cao. Gã chẳng rõ và cũng không đoán được Akemi đã cao chạy xa bay rồi hay còn lẩn quất đâu đây.
Bên gốc cây, con bò nghểnh cổ kêu một tiếng “bò ... O ...” dài. Lá reo xào xạc.
Nắng hè bắt đầu gay gắt.
- Matahachi ! Âu đó cũng là điều may. Hãy để nàng tìm nơi hợp ý, sống cuộc đời nàng ưa thích.
Một con bướm vàng cánh mong manh dưới nắng, theo gió thổi, chao đi chao lại rồi mất hút dưới vực sâu.
Miyamoto Musashi nhìn bạn nói tiếp:
- Mày vừa hứa với tao làm lại cuộc đời thì đây là lúc thuận tiện nhất, còn chờ gì nữa ?
Matahachi cắn môi để khỏi bật khóc. Gã ừ một tiếng khẽ. Tiếng ừ dường như không thoát ra khỏi miệng và cũng dường như chẳng có một chút nhiệt thành nào, trong khi mắt gã vẫn đăm đăm nhìn con đường trước mặt.
Miyamoto Musashi lay vai gã:
- Nghe tao, Akemi đi đâu cũng chẳng nên theo, vì không phải đấy là chỗ của mày. Hãy tìm gặp bà cụ thân sinh ra mày ngay. Đi bây giờ còn kịp, đến suối rẽ lên phía bắc về tỉnh Omi.
Rồi không đợi Matahachi phản ứng, Miyamoto Musashi vào phòng mang dép và hành trang ra cho bạn. Hắn rút ở bọc ra túi bạc vụn:
- Tao không có nhiều nhưng có thể chia cho mày một nửa. Nếu mày đi Edo, tao sẽ đi với mày. Ngày mai, đến cầu Kara, tao sẽ đợi mày ở quán gần đó.
oo Matahachi đi rồi, Miyamoto Musashi lui vào trong nhà nằm nghỉ trên ghế dài kê gần hiên. Hắn muốn đợi thư phúc đáp của Otsu.
Khí hậu dễ chịu và ánh nắng đang thịnh của một ngày hè ấm áp làm Miyamoto Musashi lim dim mắt, thả hồn theo giấc mộng. Nhìn hai cánh bướm chập chờn trên những cụm hoa dại ven đồi, hắn tưởng một trong hai cánh bướm ấy là ... Otsu.
Bỗng những tiếng cười nói xôn xao phía ngoài vọng vào làm Miyamoto Musashi chú ý:
- Bọn ấy hữu danh vô thực.
- Ừ. Ypshioka trước tiếng nổi như cồn, bây giờ tệ quá. Đời nào cũng thế, xem ra hậu duệ không bằng tổ phụ. Yoshioka ở đời thứ ba này không còn được ai kính trọng nữa.
- Đúng vậy. Con cháu không đáng an táng cạnh tiền nhân.
- Sao không ? Khi chết tớ sẽ được táng gần mộ cụ tổ nội tớ ở đồi này.
Tiếng cười ha hả:
- Chúng mình là những thằng thợ đá thì kể làm gì ! Ấy là nói chuyện các nhà quyền thế, có danh vọng kia. Như Yoshioka ... như Ogasawara Genshinsai …
Bọn công nhân chất phác này, ngày nào cũng vào khoảng cuối giờ mùi, thường kéo nhau lên quán nhấm nháp vài ly rượu trước khi tản mát về các ngả trong xóm. Họ cười nói oang oang, bàn đủ mọi thứ chuyện. Những ngày gần đây, chiến tích của Miyamoto Musashi, một mình chống cự với cả phái Yoshioka, là đầu đề cho bọn họ bàn tán không dứt.
Một anh thợ đá còn trẻ hoa chân múa tay, thuật lại những chiêu kiếm của Miyamoto Musashi cứ như thật. Y kể vanh vách danh tính các cao thủ Yoshioka bị người “anh hùng dân gian” (danh từ của y) giết ra sao, sự tấn công vũ bão của người anh hùng ấy vào đám đồ chúng Yoshioka như vào chỗ không người như thế nào khiến cả bọn gật gù tán thưởng. Chuyện này chắc y kể đã nhiều lần và mỗi lần kể lại thêu dệt thêm vài chi tiết mới nên cử tọa khoái lắm, nhất là kèm theo lời tường thuật, y còn lấy cái chổi ở góc phòng, bắt chước biểu diễn những chiêu kiếm ấy một cách sống động nữa.
Bọn thợ đá chăm chú ngồi nghe không để ý tới bốn người đàn ông vừa bước vào quán. Họ ăn mặc ra dáng kiếm sĩ nhưng ba người khoác tăng bào đen phái Hiei, còn một người trẻ tuổi cao lớn lại trang phục diêm dúa và sặc sỡ như con nít, lưng đeo kiếm dài. Người trẻ tuổi ấy chính là Sasaki Kojiro “Ganryu”.
Cả bốn hách dịch ngồi vào bàn ngay ngoài hiên, khinh mạn nhìn bọn thợ đá khiến bọn này nhột nhạt không dám bàn cãi gì nữa. Kojiro gọi trà bánh rồi cùng các tăng sĩ châu đầu vào nhau nói nhỏ những gì không ai nghe rõ.
Bọn thợ im lặng một lúc, sau đó lại ồn ào hơn trước. Câu chuyện vẫn không ngoài sự tán tụng võ nghệ của Miyamoto Musashi, người mà đối với họ là hiện thân của lòng dũng cảm tuyệt đối.
Nhưng lời tán tụng ấy có lẽ làm rát tai các tăng sĩ Hiei và Kojiro, vì thấy cả bốn ngưng nói chuyện. Kojiro cau mày quay ra lớn tiếng, gọi:
- Này chú kia !
Bọn thợ giật mình. Một người đáp:
- Đại hiệp gọi chúng tôi ?
- Ừ, cái chú trẻ tuổi ngồi ngoài đó. Có vẻ chú đã chứng kiến trận đánh ngay từ đầu.
Phải chăng chú phục Miyamoto Musashi lắm ?
Người thợ tre gãi tai ậm ừ rồi gật:
- Giỏi chứ !
- Chú nói bậy bạ. Ta là Sasaki Kojiro, ngoại hiệu Ganryu, đứng lược trận ấy từ lúc khởi thủy không thể nhầm lẫn được. Thường thì đối với những kẻ không hiểu võ nghệ, ta chẳng lý đến, nhưng các chú huênh hoang tài năng tên đó quá độ, có thể làm cho những ai không được thấy tận mắt như các vị đây, đánh giá nó sai lầm nên ta phải chỉnh.
Có tiếng lẩm bẩm. Một số lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng không ai phản đối gì. Được đà, Kojiro lại tiếp:
- Phải biết rằng tên Miyamoto Musashi đó rất xảo quyệt. Hắn gây hấn với Yoshioka, một kiếm phái nổi danh, chỉ cốt để lấy tiếng trong võ lâm. Phái Yoshioka ai còn lạ gì, bây giờ đang suy yếu. Phái ấy như cái cây mục, đẩy một cái là gãy, ai cũng có thể làm được chứ Miyamoto Musashi tài cán gì ? Sở dĩ không ai làm vì không ai nỡ và vì lòng kính trọng Yoshioka Kempo là người sáng lập ra môn phái ấy mà thôi.
Miyamoto Musashi đã hèn hạ làm chuyện không đáng làm, lại còn đánh lén. Trong những trận giao tranh với Yoshioka Seijuro, Yoshioka Denshichiro, và ngay cả vừa rồi trên đồi Sinh Minh nữa, hắn đều đánh bất ngờ. Đấy không phải là hành động đường hoàng mà là một thủ đoạn đáng khinh bỉ.
Có tiếng người cắt ngang:
- Nhưng Miyamoto Musashi đã đơn độc giao chiến với hàng trăm kẻ địch ...
- Đúng. Mới xem thì tưởng hắn anh dũng. Nhưng không phải ! Đó chỉ là mành lới bày ra để khoa trương thanh thế và lấy tình cảm của võ lâm. Ta chứng kiến vụ này từ đầu. Những chiêu kiếm của hắn toàn là tránh né hoặc dùng mẹo vặt, không phải là những chiêu chính thống. Nếu nói hắn có tài thì cái tài độc nhất nằm ở đôi chân hắn.
Khi gặp dịp, hắn chạy trốn nhanh không ai bì kịp.
Nói đoạn Kojiro cười ha hả, rót mọt chén trà tự thưởng câu nói vừa rồi mà hắn cho là ý nhị. Các tăng sĩ áo đen cũng cười phụ họa, duy bọn thợ ngồi trên ghế loay hoay tỏ vẻ khó chịu.
- Lại còn chuyện này nữa:
hắn giết Yoshioka Genjiro, một đứa bé mới mười ba tuổi không biết võ công. Thật dã man, hành động tàn nhẫn ấy không xứng đáng với tư cách người cầm kiếm, đó là hành động đáng phỉ nhổ chỉ thấy ở những tên vô lại ...
Rồi lan man, Kojiro kể lại những chuyện xấu xa trong thời niên thiếu của Miyamoto Musashi ở làng Miyamoto, những hành vi mà gã nghe thuật lại qua miệng các nhà sư áo đen phái Hiei.
- Thế mà các chú phục hắn, tâng bốc hắn, coi hắn như bậc anh hùng. Ta không có liên hệ gì với kiếm phái Yoshioka mà cũng không thù hằn gì Miyamoto Musashi. Ta chỉ đứng giữa, lấy điều công bằng mà nói. Một người theo kiếm đạo như ta chỉ biết phục vụ sự thật và lẽ phải.
Kojiro ngưng lại, uống một ngụm trà rồi quay qua các tăng sĩ Hiei:
- Trời đã ngả bóng. Bây giờ chúng ta chia tay ở đây để quý vị lên đường kẻo trễ.
Ba tăng sĩ áo đen đứng dậy cùng thi lễ rồi bước ra ngoài. Bọn thợ ngơ ngác một lúc rồi như tù được thả, ùa nhau ra khỏi quán, theo sơn đạo tản mát vào các đường mòn khắp chỗ. Bóng núi ngả dần trùm lên khu rừng và những bụi lau thưa rải rác. Một tiếng chim họa mi vang trong buổi chiều tà, như giục kẻ tha hương mau tìm về tổ ấm.
Kojiro trả tiền xong, bước ra cửa. Bỗng như sực nhớ điều gì, hắn lại quay vào hỏi chủ quán:
- À ông quán, có bấc đèn không ?
- Dạ có, treo trên vách, sát cột. Khách quan cứ tự tiện lấy.
Trong quán chưa lên đèn. Kojiro quờ quạng đến gần cây cột, rứt vài sợi.
Túm bấc đèn rớt xuống đất. Gã cúi nhặt, bỗng thấy có hai bàn chân đi dép cỏ duỗi song song trên chiếc ghế dài cạnh đấy. Theo bàn chân, gã nhìn ngược lên. Một người nằm tên ghế. Nhìn mặt người nằm, gã giật mình đánh thót, tưởng như vừa bị gáo nước lạnh hắt vào mặt. Gã nhảy lui thủ thế.
- Kìa, bằng hữu !
Miyamoto Musashi nhỏm ngay dậy. Đoạn cười, hàm răng trắng bóng trong cảnh tranh tối tranh sáng của gian quán. Mắt hắn chòng chọc nhìn Kojiro.
Kojiro ngượng. Gã có cảm tưởng như Miyamoto Musashi đã nghe hết những lời gã nói và trong cái cười ấy hàm ý chế giễu. Gã lấy lại được bình tĩnh ngay, nhưng trong một thoáng, quả đã biểu lộ sự bẽn lẽn.
- Kìa Musashi huynh ! Nằm trong này hồi nào mà kín tiếng thế ? Gặp lại Musashi huynh, đệ rất mừng.
Nhưng vừa nói xong, gã hối ngay:
câu nói vừa sáo vừa giả dối. Gã chữa:
- Lần trước thật tiếc không được cùng đi với nhân huynh. Võ công của huynh quả là tuyệt thế. Không ai tưởng tượng được một người chiến đấu đơn độc mà lại có thể làm cho toàn phái Yoshioka phải xính vính như vậy.
Miyamoto Musashi mỉm cười đáp lễ:
- Đa tạ quý bằng hữu đã đứng làm trọng tài phân xử. Và cũng đa tạ quý bằng hữu về những lời phê bình võ công của tại hạ. Không mấy khi được nghe người khác phê bình mình, nay được cái hân hạnh ấy, tại hạ thêm sáng mắt. Tại hạ không bao giờ quên.
Lời nói rất ư lễ độ, không mang một chút thù hận, nhưng khiến Kojiro rùng mình. Gã cười gượng:
- Tại hạ cũng vậy, không quên cuộc gặp gỡ hôm nay !
Nói đoạn cúi chào, bước ra cửa đi thẳng.
-
CHƯƠNG 50
CÂY LIỀN CÀNH
Jotaro hớn hở bước qua cổng. Chỗ Otsu và Jotaro ở bây giờ là một căn nhà gỗ nhỏ, khuất sau khu vườn trúc cạnh một con suối hẹp. Căn nhà ra. đơn sơ do một cư sĩ bạn Mitsuhiro tướng công cho mượn. Trước cổng treo tấm bảng “Ginkakuji”, chữ đã mờ và nền gỗ nứt nẻ. Tuy đơn sơ, nhưng bầu không khí thanh tịnh của cảnh vật thật hợp với tâm hồn Otsu, người thiếu nữ đa cảm và đau yếu đang cần tĩnh dưỡng này.
Bệnh Otsu thuyên giảm nhiều. Mấy hôm nay nàng đã ăn được chút ít và sắc diện hồng hào hơn. Nhưng mối u tình của nàng vẫn như một màng lưới vô hình ngăn cách nàng với thế giới xung quanh.
Ngồi dưới hàng hiên, Otsu lơ đãng nhìn những đám mây trôi. Nắng chiều đã nhạt. Vài con chim én chao đi chao lại bắt mồi nhắc nàng liên tưởng đến quãng đời thơ ấu xưa kia trên chùa Shippoji. Lúc ấy nàng cũng ngồi như thế này mơ mộng vẩn vơ. Bấy giờ nàng còn là một cô bé thơ ngây, chưa biết buồn phiền, lo nghĩa; nhưng bây giờ, hình bóng và tâm trạng ấy chỉ còn trong dĩ vãng. Và Otsu khẽ thở dài.
- Cô Otsu ! Em đã về !
Tiếng Jotaro vui vẻ gọi đột nhiên kéo nàng khỏi giấc mộng. Jotaro chùi chân trên bãi cỏ trước nhà rồi bước lên hiên đến gần Otsu.
- Cô nghĩ gì mà thừ người ra thế ?
- Không ! Nghĩ gì đâu ! Có tin gì lạ không em ?
- Có. Tin này chắc làm cô vui lòng.
- Tin gì ? Otsu náo nức hỏi.
- Tin sư phụ. Nghe nói ông ẩn trên núi.
- Ồ !
Otsu vui mừng kêu. Nàng lấy tay ôm ngực. Sự xúc động khiến mặt nàng hơi tái.
- Có người bảo hình như ông ở chùa Hiei trong rừng Sinh Minh.
- Vậy cũng đỡ lo. Chắc không xảy chuyện gì nguy đến tính mệnh.
- Cô đi thăm không ? Em kiếm cái gì ăn rồi chúng ta cùng đi, kẻo ông bỏ chỗ ấy thì chẳng biết đường nào mà tìm.
- Ừ, em vào lấy cơm ăn đi, cô để phần trong hộp ấy. Cô ăn rồi.
- Vâng, cô sửa soạn là vừa, em xong ngay bây giờ.
Jotaro nhảy chân sáo xuống bếp. Nó ăn vội vàng rồi lên nhà, nhưng ngạc nhiên thấy Otsu vẫn còn ngồi bên cạnh bàn ngoài hiên, bất động.
- Kìa ! Sao cô không sửa soạn đi ?
- Có lẽ cô không đi đâu, em ạ !
Jotaro sửng sốt:
- Sao vậy ? Lúc cô muốn gặp thầy em, lúc lại không, thế là thế nào ?
Otsu cầm tay Jotaro kéo xuống ghế.
- Cô nghĩ kỹ rồi. Cái đêm gặp thầy em trên núi, cô đã nói hết những điều u uẩn trong lòng. Thầy em có lý tưởng riêng và không muốn sự gì ràng buộc. Trên đời này, có lẽ thầy em và cô chẳng bao giờ còn cơ hội gặp nhau nữa. Cô không rõ có phải thầy em muốn ẩn giấu tung tích hay không nhưng được biết ông đã thoát hiểm là cô yên tâm rồi.
Nếu thầy em không cho người đến tìm cô thì cô gặp ông bây giờ chỉ làm phiền ông mà thôi ...
- Vậy nếu không ai đến tìm cô, cô sẽ sống thế này mãi à ?
Otsu gật.
- Ứ ! Không được !
Jotaro dậm chân phản đối.
Otsu phân vân chẳng biết có nên giải thích cho thằng bé hiểu rõ ý mình không, nhưng nhìn nét mặt hờn giận của Jotaro và nghĩ đến lòng nhiệt thành của nó, nàng không thể không nói. Vả nó đã lớn, có lẽ giãi bày tâm sự cho nó hiểu càng làm tăng sự cảm thông giữa hai người.
- Jotaro. Em đã biết đấy. Cô yêu Miyamoto Musashi với tất cả tâm hồn. Trước đây cô tưởng mối tình không được đáp ứng, nhưng sau khi gặp lại thầy em sau gần năm năm xa cách, cô đã hiểu và tin cậy ở chàng vô cùng. Miyamoto Musashi với cô bây giờ như cây liền cành, dù phải xa nhau hàng vạn dặm hay có bị chia lìa vì cái chết thì hai người cũng vẫn như một. Cho nên cô không thấy cô độc nữa. Cô có thể cứ sống như thế này suốt đời để cầu nguyện cho thầy em tìm được con đường muốn đi và đạt được lý tưởng thầy em theo đuổi ...
- Cô nói dối ! Thế sao cô vẫn muốn gặp ông và khi không được gặp, cô lại khóc ?
Cô có bằng lòng cuộc sống như thế này đâu ?
Otsu rút khăn lau nước mắt. Jotaro cầm tay nàng lắc mạnh:
- Đấy ! Cô lại khóc rồi !
Otsu ngẩng nhìn Jotaro, mắt đỏ hoe nhưng miệng mỉm cười:
- Cô mềm yếu quá phải không em ? Tại cô không cầm được xúc động mỗi khi nghĩ đến thầy em. Em ăn cơm rồi à ?
- Ăn rồi.
Jotaro đáp sẵng. Nó giận Otsu vì có cảm tưởng như bị lừa dối. Mấy ngày nay, Jotaro đã mất nhiều công dò hỏi tin tức sư phụ, hy vọng khi tìm được chỗ ẩn của Miyamoto Musashi, chắc thế nào Otsu cũng đến thăm. Ngờ đâu nàng không cùng một ý. Jotaro bỏ ra suối ngồi.
Chiều xuống thong thả. Bóng núi đổ trên những khu rừng xa loang to dần thành từng mảng màu lam sẫm. Jotaro lấy chân khỏa nước. Nước trong nhưng lạnh khiến nó vội vàng rụt chân lại, xuýt xoa:
- Chà, lạnh dữ !
Ngồi một lúc, cơn giận dường đã tan, Jotaro đứng lên về nhà. Bỗng một gia nhân trong dinh Mitsuhiro tướng công hối hả chạy đến:
- Jotaro ! Có thư !
Vừa nói vừa lấy trong bọc ra một cuộn giấy nhỏ trao cho thằng bé. Trao xong, còn dặn:
- Tướng công nói cô nương phải bảo trọng sức khỏe. Nếu cần giúp đỡ gì, cứ đến dinh.
Jotaro gật đầu, cầm thư. Nhìn chữ đề bên ngoài, nó thốt kêu mừng rỡ:
- Ô ! Đúng chữ thầy ta đây ! Vậy là ông còn sống !
Rồi định bật niêm giở ra đọc, nhưng dừng ngay lại kịp. Thư gửi cho Otsu, không phải cho nó. Hờn giận lại kéo đến, Jotaro xịu mặt, lững thững đi vào. Otsu hỏi:
- Thư của ai đấy em ?
- Của sư phụ !
Nét mặt Otsu tươi hẳn lên:
- Thư gửi cho cô hả ?
- Gửi cho cô ! Nhưng ông ở đâu, cô để ý làm gì ?
Otsu mỉm cười thấy Jotaro giấu thư ra sau lưng. Nàng định giật lấy nhưng Jotaro né tránh, chạy vòng quanh bàn.
- Jotaro ! Em ác lắm nhé !
Otsu đuổi theo. Hai, ba vòng thấm mệt, nàng ngồi thở dốc. Thằng bé ái ngại đến bên, chìa cuốn thư ra:
- Em xin lỗi. Thế mà cô bảo không muốn đi thăm. Không muốn đi thăm mà mới nghe nói có thư đã rối rít cả lên !
Nhưng Otsu không quan tâm đến lời Jotaro chế giễu. Nàng cầm thư chạy ngay vào phòng.
Những ngón tay run rẩy trắng bệch bật vội sáp niêm. Đèn mới khêu mà hoa đèn đã nở, chắc có tin vui. Otsu đọc đi đọc lại không biết chán những chữ thân yêu, nét mực còn đen nhánh. Trong thư, Miyamoto Musashi hẹn rõ nơi gặp. Hai hàng lệ chứa chan, nàng không ngờ có được cơ hội và hạnh phúc như thế.
Bất giác liên tưởng đến câu thơ của Bạch Cư Dị tả nàng Dương Qúy Phi lúc ở âm cảnh được tin vua Đường gửi xuống:
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can Lê hoa nhất chi xuân đới vũ Otsu thẹn, chùi nước mắt, tự nhủ:
“Chắc bây giờ chàng đang đợi ta. Ta phải sửa soạn hành trang ngay mới được !”. Bèn viết vài hàng vội vã cáo biệt chủ nhân cùng Mitsuhiro tướng công rồi xếp quần áo vào đẫy.
Ra khỏi phòng, thấy Jotaro vẫn còn ngồi ngoài hiên, nét mặt ủ rũ, Otsu gọi:
- Jotaro ! Em vào sắp quần áo rồi đi với cô chứ !
Thằng bé chẳng đáp mà cũng chẳng nhìn Otsu. Nàng đến bên đặt tay lên vai nó:
- Em vẫn giận cô đấy à ?
- Sao không giận được ? Thư sư phụ nói những gì mà cô giữ bí mật thế ?
- Ấy chết ! Cô quên ! Tại mừng quá đấy mà. Không có lý do gì mà cô lại giấu em.
Đây, Jotaro đọc đi !
- Không đọc nữa. Em chả muốn đọc.
- Jotaro ! Đọc đi ! Đây là cái thư đầu tiên thầy em gửi cho cô và hẹn gặp cô. Cô mừng quá !
Nét mặt Otsu rạng rỡ khiến Jotaro cũng vui lây. Nó quên hết những điều hờn giận trước.
Tuy trời tối nhưng cả hai đều muốn đi ngay để hôm sau đến kịp nơi hẹn.
- Hôm nay có trăng. Đi ban đêm càng mát, cô nhỉ.
oo Miyamoto Musashi đến tỉnh Omi lúc trời hửng sáng. Vài sợi khói xanh nhạt mỏng manh bốc lên nhẹ nhàng từ những mái rạ. Qua bầu không khí ướt sương, hắn đã nhìn thấy mờ mờ những con đường ngang dọc trong trấn. Miyamoto Musashi tự hỏi không biết Otsu đi đường nào tới. Thư đến tay nàng chắc cũng phải nửa ngày. Ban đêm nàng phải nghỉ, chắc buổi sáng mới khởi hành. Với sức đi bộ của Otsu thì đến được chỗ hẹn ở cầu Kara buổi chiều cũng là sớm. Cho nên hắn cứ thong thả dẫn bò đi, vừa đi vừa ngắm cảnh.
Qua một cây đền có nhiều cây anh đào cổ thụ, hoa mới nở còn động sương mai, Miyamoto Musashi thích thú thưởng ngoạn từng thế cành, từng bông hoa hàm tiếu. Những cây anh đào này chắc đã được trồng từ lâu lắm nên gốc mới vặn vẹo nghiêng ngả vì mưa gió. Có cây cong trĩu xuống như người lễ Phật, có cây giơ cành ra tựa như chào đón khách thập phương. Mỗi cây một vẻ, cây nào cũng đẹp.
Nhưng điều Miyamoto Musashi ưa thích nhất là sức sống mãnh liệt của chúng. Cành non vươn lên, thẳng và mạnh như những nét phát của một họa sĩ tài hoa, lấy sinh lực luân lưu trong lòng thớ gỗ cổ thụ để nuôi dưỡng hoa mới, truyền lại đời sau một mầm sống tốt đẹp.
Cạnh đền, trên một cái gò thấp, dựng một bia đá. Miyamoto Musashi tò mò đến gần xem, thấy có chữ li ti khắc trên bia. Thì ra là một bài ngụ ngôn hắn đã biết và thuộc lòng từ nhỏ. Bài ngụ ngôn kể chuyện một vị tăng già đang đứng chiêm ngưỡng bóng đức Phật Quan Âm ánh trên mặt hồ trong cung, bỗng thấy một phi tần hái hoa đi ngang đấy.
Phi tần đẹp tuyệt vời khiến vị tăng già không sao kềm chế được lửa dục. Bao nhiêu đạo đức thu thập được sau gần một kiếp tu hành bỗng nhiên mất hết. Vị tăng trở về căn nhà cỏ, đốt hương trước Phật đài cầu nguyện. Nhưng trông đâu cũng chỉ thấy mặt mỹ nhân.
Trông song cửa tưởng lược cài, trông mây tưởng tóc ...chỗ nào cũng có bóng dáng người đẹp. Mấy ngày đêm như thế, tâm hồn hoang mang, dao động, vị tăng già buồn bã, hổ thẹn. Ông không mong gì thấy niết bàn nữa nên nhất quyết đi tìm nàng cung phi để thổ lộ nỗi lòng, dù có chết cũng được bình yên mà chết ... Đến trước hoàng cung, ông cắm gậy xuống đất đứng chờ ... suốt ngày ... suốt đêm ... Suốt ngày ... suốt đêm ...
Miyamoto Musashi vừa dắt bò vừa lẩm nhẩm đọc bài ngụ ngôn như người đọc kệ, nhưng không sao nhớ lại được đoạn cuối ra thế nào.
- Đại hiệp ! Đại hiệp dắt bò ! Dừng lại đã !
Một tráng niên dáng nông phu chạy theo. Miyamoto Musashi dừng lại. Gã nông phu để tay lên đầu con vật và xoa mũi nó. Dường như nhận ra người quen, con bò vẫy tai kêu “bò ...ò ...” ra vẻ bằng lòng lắm.
- Đại hiệp ở trên chùa Hiei xuống ?
- Phải ! Sao bác biết ?
- Tôi cho sư thầy trên chùa thuê con bò này để chở đậu. Sao đại hiệp lại dẫn nó đi đâu ?
- Ồ ! Thế ra bác là chủ bò đấy ? Trên chùa nhờ tôi dẫn nó về trả bác. Nhưng tôi muốn thuê nó ít lâu nữa để đi Edo, bác thuận không ?
- Tôi không phải chủ mà chỉ là người làm ở trại. Đại hiệp muốn thuê cứ dắt đến trại. Cũng gần đây thôi, tiện đường lắm.
Quả nhiên trại ở ngay ngã ba sông, rất tiện cho khách thương hồ đi lại. Chỉ còn vài dặm là đến tỉnh Omi, chỗ này có thể coi như cửa ngõ vào trấn nên hàng quán đông đúc.
Sau khi thuê bò xong, Miyamoto Musashi dùng điểm tâm ngay tại quán gần đấy, mua vài thức lặt vặt rồi lại thong thả giong bò đi.
Hắn nghĩ đến lúc được hội ngộ Otsu mà lòng xốn xang. Trước đây, tuy yêu Otsu thành thực, Miyamoto Musashi vẫn sợ những ràng buộc. Nhưng bây giờ, sau khi đã gặp nàng trên núi, hắn không còn e ngại nữa.
Otsu thông minh, xinh đẹp, nhiệt thành và nhất là thông cảm mối ưu tư của hắn, nên hắn tin tưởng vô cùng. Miyamoto Musashi nguyện sẽ không từ chối bất cứ điều gì Otsu muốn nhưng ngược lại, nàng phải tôn trọng nếp sống kiếm sĩ của hắn. Dù sao chăng nữa, Miyamoto Musashi không muốn lưỡi kiếm sắc của mình bị nhụt.
Mỉm cười, Miyamoto Musashi nói thầm như tự nhủ:
- Không khéo thành ông sư già trong truyện ngụ ngôn mất. Bây giờ đến lượt ta, phải giữ sao đừng để cho sóng tình dìm mình chết đuối.
Trời sáng hẳn. Cầu Kara hiện rõ ở phía chân trời. Cầu gồm hai nhịp, nối liền với nhau bằng một đảo nhỏ. Trên đảo một cây liễu lớn mọc vượt hẳn lên trên những tàn cây khác, từ xa trông rất rõ nên khách thập phương dùng nó làm mốc gọi là Liễu Kiều. Lên tới giữa nhịp cầu thứ nhất, Miyamoto Musashi đã nghe tiếng reo vui mừng của tên học trò nhỏ:
- Kia rồi ! Sư phụ kia rồi !
Jotaro vừa nhẩy cẫng lên vừa chỉ trỏ cho Otsu trông thấy. Nàng ở quán trà dưới gốc liễu bước ra, lấy tay che ánh nắng sớm làm chói mắt.
- Đó ! Ông đi ở trên cầu đó ! Ồ, mà sao ông lại dắt con bò ?
Jotaro cắm đầu chạy lên cầu đón thầy. Miyamoto Musashi cười, phô hàm răng trắng bóng, giơ hai tay ôm chặt lấy Jotaro vào lòng:
- Lâu ta không gặp con. Con nhớ ta không ?
Không đáp, Jotaro chỉ gật. Nó thấy cay cay ở mắt. Jotaro cầm lấy dây dắt bò cho thầy, đi bên cạnh, liến thoắng:
- Cô Otsu kia kìa ! Ở trước quán. Thầy mua bò làm gì ? Để cưỡi đấy à ? Thầy đau chân hay bị thương không đi được ?
Miyamoto Musashi mỉm cười:
- Không, ta không sao. Bò ta thuê cho Otsu cưỡi đi Edo.
Jotaro mừng rỡ:
- Vậy con cũng cưỡi.
Nói đoạn quay lại kêu “bò” nhại con vật. Con bò không biết gì cũng đáp bằng một tiếng “bò ... Ò” dài như trêu tức nó làm cả hai thầy trò cùng cười vui vẻ.
Đến trước quán, Miyamoto Musashi nhìn Otsu và Otsu nhìn hắn. Bốn mắt đầy tình ý yêu thương nhưng chẳng ai nói một lời. Trước mặt khách lạ, họ sượng sùng không muốn biểu lộ cảm nghĩ.
Nhìn về phía sau, giàn hoàng đậu đã trổ hoa. Miyamoto Musashi bảo Otsu:
- Hoa mới nở đẹp quá.
Rồi bước ra vườn. Otsu đi theo, có Jotaro bên cạnh liến láu kể chuyện ở Ginkakuji cho thầy rõ. Sự ngượng ngùng nhờ thế cũng hết và một lát sau, người ta đã nghe tiếng cười và tiếng nói chuyện nho nhỏ giữa hai người.
Một làn chớp bỗng lóe lên trong không khí, tiếp theo là tiếng sấm vang động làm Otsu giật mình, run rẩy.
Chủ quán chạy ra, tay ô tay nón vẫy gọi:
- Các vị vào thôi. Sắp bão đến nơi rồi !
Đằng xa, phía đỉnh núi, mây đen từng đám đùn lên chẳng mấy chốc đã kín cả bầu trời. Gió thổi ào ào làm rung động các chùm hoa vàng trên giàn hoàng đậu và những con ong vò vẽ cuối cùng cũng đã bỏ đi nơi khác từ bao giờ.
Vài giọt mưa bắt đầu rơi lộp độp.
Jotaro thích thú vỗ tay reo:
- Mưa ! Ồ mưa ! Thật là đúng lúc !
Đối với Jotaro, mưa đến thật là đúng lúc nhưng đối với Miyamoto Musashi và Otsu, cơn mưa làm cả hai bối rối. Cùng đi vào phòng cả thì có vẻ như là một đôi tình nhân hẹn hò nhau trong tiểu thuyết nên Miyamoto Musashi nấn ná ngoài vườn. Otsu bước vào hiên, tà áo vàng của nàng run rẩy không khác gì những chùm hoa hoàng đậu.
-
CHƯƠNG 51
DƯỚI THÁC NƯỚC
Hôm sau, cả ba người, Otsu, Miyamoto Musashi và đồ đệ rời quán trà Liễu Kiều lên đường đi Edo. Trời quang đãng, ánh nắng đầu mùa chan hòa, vạn vật dường tươi đẹp hẳn lên. Màu lá cây xanh non, không khí trong vắt. Ven suối, những cánh hoa rừng rụng sau trận mưa vừa rồi còn rải rác trên nền cỏ ướt.
Otsu cưỡi bò, Miyamoto Musashi thong dong đi cạnh. Cả hai nét mặt hớn hở. Bao nhiêu sầu muộn trước đây hình như họ đều để lại đằng sau cả. Jotaro chạy nhảy như con sóc. Nó lấy lá cuộn thành kèn thổi te te và đuổi bắt những con sáo sậu đậu ở vệ cỏ.
Mặt trời mỗi lúc một cao, Jotaro đã thấy mồ hôi vã lấm tấm. Nó lấy tay quệt:
- Nóng quá ! Mới sáng mà đã nóng. Đây là đâu thế thầy.
- Đèo Mã Yên Sơn. Nghe nói khúc này khó đi lắm, sang bên kia, đường mới khá hơn.
- Thảo nào con thấy mệt !
Miyamoto Musashi phì cười:
- Tại con chạy nhảy nhiều. Đường còn dài, muốn đi lâu phải giữ sức chứ !
Otsu xen vào:
- Mình chả có gì vội. Đường vắng, cứ thong thả, đến Edo lúc nào thì đến.
Jotaro phản đối:
- Tại cô cưỡi bò. Thử đi bộ như em xem !
Nhưng vừa than mệt xong, Jotaro đã quên ngay. Thấy đằng xa có thác nước, Jotaro vội reo lên:
- Ồ ! Đằng kia có cái thác. Ta lại xem đi thầy !
Miyamoto Musashi cũng phụ họa:
- Ờ phải đấy, ta lại đó nghỉ chân.
Cả ba rẽ vào đường mòn. Càng vào sâu, cảnh càng hoang dã. Cỏ cao ngang đầu gối, hoa dại rụng đầy, sau trận mưa, nước suối dâng cao kéo theo những cành khô gẫy dạt vào bờ từng đám.
Tiếng nước đổ ầm ầm nghe mỗi lúc một rõ, muốn nói chuyện với nhau phải cao giọng hơn bình thường.
Đến gần thác, thấy có gian lều gỗ chẳng biết ai đã dựng lên, dùng làm chỗ trú chân thật hợp ý.
Jotaro đỡ Otsu trên lưng bò xuống, rồi dẫn con vật buộc vào gốc cây hòe gần một thảm cỏ mướt. Otsu chỉ tấm biển gỗ dựng bên thác:
- Kìa ! Tấm biển đề tên thác nước:
Meoto no taki - thác Phu Phụ - tên nghe lạ quá!
Chàng biết tại sao có tên ấy không ?
Miyamoto Musashi lắc đầu. Cả hai lẳng lặng đứng nhìn nước từ trên núi ầm ầm đổ xuống, tung bọt trắng phau. Họ đoán có lẽ dòng nước, khi đến chỗ dốc trước khi đổ xuống vực sâu đã bị chia hai, một bên chảy hùng tráng mạnh mẽ, một bên thong thả êm đềm, nên mang tên thế chăng.
Dù thế nào đi nữa, thác nước thật đẹp. Hai dòng song song bổ túc cho nhau trước khi nhập chung làm một, đổ từ trên cao hàng chục trượng xuống một cái hồ lớn rồi chia thành nhiều nhánh len lỏi giữa những ghềnh đá xanh rêu như những con rắn bạc mất hút trong đám cỏ lau và cây rừng rậm rạp dưới chân núi.
Nước chảy liên miên, tiếng thác nước ầm ầm đổ khiến phong cảnh sống động và như tiếp cho Jotaro một nguồn sinh lực mới. Thằng bé nhảy trên những hòn đá ngổn ngang, la hét vang trời, thỉnh thoảng ngưng lại để nghe giọng mình dội vào vách đá vang vang, lấy làm thích thú.
- A ! Có cá ! Có cá !
Jotaro nhặt đá ném. Hết con này đến con khác, cứ thế mê mãi đuổi cá theo dòng suối xuống vùng hạ lưu. Chẳng bao lâu tiếng la hét của nó loãng đi và bị tiếng thác nước khỏa lấp, không còn nghe thấy gì nữa.
Trong bóng mát của gian lều, Miyamoto Musashi và Otsu ngồi cạnh nhau, giữa hằng hà sa số những vòng hào quang sặc sỡ như những chiếc cầu vồng nhỏ do ánh mặt trời chiếu lên trên nền cỏ ướt. Otsu nói:
- Không biết thằng bé chạy đâu ? Mười bốn mười lăm rồi mà còn nghịch ngợm quá!
- Nó còn trẻ con. Ở tuổi ấy, ta nghịch hơn thế nữa. Trái lại, Matahachi lại khác ta. Hắn hiền như bụt. Chẳng biết bây giờ hắn đâu. Hắn đáng phải để ý hơn là thằng bé.
- Nói đến Matahachi, thiếp mới sực nhớ, mong hắn đừng có mặt.
- Sao vậy ? Có mặt Matahachi mình sẽ giải thích để hắn khỏi hiểu lầm. Tốt chứ.
Otsu bứt cỏ:
- Chẳng biết hắn có hiểu không ? Mẹ con bà Honiden nhiều thành kiến và bướng lắm, không như mọi người đâu.
- Otsu ! Có chắc nàng không đổi ý không ?
Otsu ngạc nhiên, hỏi lại:
- Đổi ý về việc gì ?
- Về lòng mình. Ta muốn nói nàng có hối hận đã từ hôn Matahachi chăng ?
Otsu cau mày như vừa nghe một điều trái ý.
- Không ! Thiếp không bao giờ hối hận !
Thiếu nữ mặt ửng đỏ, gục đầu, lấy tay bưng mặt. Cử chỉ ấy cùng những rung động nhẹ của đôi vai nàng, tất cả đều như gào lên một sự thật:
“Lòng thiếp thuộc về chàng, chàng không biết ư ? Thiếp là của chàng chứ chẳng phải của ai hết”.
Tiếc đã lỡ lời, Miyamoto Musashi quàng vai Otsu tha thiết. Mấy ngày nay, nhìn ánh sáng đùa giỡn trên thân hình người thiếu nữ, ban đêm dưới ngọn đèn mờ lay động, ban ngày dưới ánh dương quang lộng lẫy, nhìn làn lông tơ lấm tấm mồ hôi, hắn nghĩ đến một bông sen mới nở còn ướt sương mai.
Trong quán trà, chỉ nằm cách nhau một tấm bình phong mỏng, hắn đã ngửi mùi hương từ mái tóc người thiếu nữ bay ra phảng phất lẫn với mùi da thịt nồng ấm. Giờ đây, tiếng thác đổ ngoài kia khích động hắn vô cùng. Mạch máu hắn chảy mạnh. Miyamoto Musashi cảm thấy nhộn nhạo khác thường, bèn bỏ ra xa, đến gần chỗ nước chảy, ngồi khuất trong đám cỏ cao.
Được một lúc, Otsu cũng tới bên, ôm gối hắn và ngước mắt nhìn bộ mặt đăm chiêu thoáng chút hốt hoảng của người yêu.
- Giận thiếp đấy ư ? Nếu có điều gì không phải, cho thiếp xin lỗi.
Miyamoto Musashi không đáp. Mặt hắn đanh lại, cố làm ra vẻ nghiêm trang. Otsu bỗng ôm lấy cổ hắn ghì chặt. Mùi hương của thiếu nữ và cử chỉ nồng nàn ấy khiến Miyamoto Musashi ngây ngất. Hắn không còn tự chủ nổi, ôm chặt lấy Otsu và đè nàng xuống cỏ.
- Otsu ! Otsu !
Nhưng Otsu vùng vẫy, cố thoát khỏi vòng tay lực lưỡng của hắn.
- Đừng ! Đừng ! Musashi, chàng mà cũng thế ư ?
Lệ ứa ra hai bên khóe mắt, tiếng nức nở và nét mặt van lơn của người thiếu nữ làm Miyamoto Musashi sửng sốt. Hắn bỏ Otsu ra. Nàng kinh hãi chạy về lều.
Một chiếc túi nhỏ đựng đồ trang sức từ tay áo Otsu rớt xuống đất nằm trên cỏ, bên một cánh hoa nhàu nát. Miyamoto Musashi đăm đăm nhìn cái túi, thảng thốt:
- Ta đã làm gì ? Ta đã làm gì Otsu ?
Xấu hổ và hối hận tràn ngập lòng người trẻ tuổi. Hắn bị lạc hướng và có cảm tưởng như vừa bị xúc phạm. Otsu lừa dối hắn sao ? Nhưng lời nói của nàng, mắt nàng, môi nàng, tóc nàng, cả thân thể và dáng điệu của nàng nữa, đều mời mọc hắn, thổi bùng ngọn lửa đam mê trong lòng hắn, rồi khi ngọn lửa ấy đã phừng cháy, cũng lại chính nàng dập cho nó tắt.
Sao vậy ? Miyamoto Musashi không ý thức được trinh tiết đối với Otsu quý trọng đến mức nào và sự cố gắng của nàng để người yêu không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm khác ngoài kiếm đạo. Hắn chỉ nhìn thấy sự thất bại chua cay của mình trong sự không kềm chế nổi lòng ham muốn. Hình như bao nhiêu cố gắng để trở thành người phi thường của hắn đều hư ảo, hão huyền cả.
Miyamoto Musashi phục xuống cỏ. Hắn tự nhủ chưa làm điều gì xâm phạm nhưng sao lương tâm hắn vẫn không an ổn. Mùi đất ẩm xông lên, Miyamoto Musashi dần dần lấy lại được bình tĩnh. Khi đứng dậy, mắt hắn không còn ngọn lửa đam mê nữa mà nguội lạnh như tiền. Dường như hắn vừa nghe tiếng gọi, tiếng gọi của sông rộng núi cao, của lý tưởng hắn đã nguyện phục vụ. Lông mày hắn cau lại như trước kia hắn đã cau lại lúc phải đơn phương lâm trận với hàng trăm đệ tử Yoshioka dưới gốc cổ tùng. Một đám mây che khuất vầng thái dương. Con chim rừng bay qua, buông tiếng kêu lanh lảnh. Cơn gió đổi chiều làm tiếng thác nghe khác lạ. Miyamoto Musashi phanh ngực áo, thong thả đến gần chân thác nước.
Như con chim sẻ nhỏ sợ hãi, Otsu đứng sau gốc sồi lớn chứng kiến tất cả những băn khoăn lo lắng của người tình. Nàng không biết Miyamoto Musashi có hiểu cho nàng không. Thấy Miyamoto Musashi đau đớn, đã mấy lần Otsu muốn chạy ra giải thích cho chàng rõ, nhưng hình như có cái gì cầm chân nàng lại. Lần đầu tiên, nàng thấy thần tượng của nàng, người mà nàng đã dâng hiến cả linh hồn, không phải là hiện thân của đạo đức như nàng tưởng. Sự phát hiện ra trong con người Miyamoto Musashi một con thú trần trụi với dục tính mãnh liệt khiến mắt Otsu mờ đi vì buồn rầu và kinh hãi.
Otsu muốn chạy, tìm một chỗ nào thật vắng vẻ ẩn tránh. Nàng muốn bình tĩnh hơn để suy nghĩ, nhưng đi một quãng lại lo sợ và bất định.
“Có lẽ Miyamoto Musashi khác mọi người. Lòng ham muốn và sự tỏ tình của chàng cũng khác. Ta đã làm khổ chàng”.
Bèn quay trở lại chỗ Miyamoto Musashi đứng, nhưng chẳng thấy ai, chỉ thấy hơn nước như sương bao phủ và tiếng thác đổ ầm ầm rung chuyển cả căn lều gỗ.
- Cô Otsu ! Cô Otsu đâu ?
Tiếng Jotaro gọi thất thanh.
- Cô đây.
- Sư phụ ngã xuống thác rồi ! Cô đứng đây, em xuống xem sao.
Jotaro nắm dây leo, chuyền xuống giữa những phiến đá trơn trượt. Nhưng Otsu làm sao mà có thể cứ đứng ở đây được. Nàng cũng tìm cách theo chân thằng bé.
Đến lưng chừng ghềnh, Otsu thấy một vật gì như phiến đá trắng ở giữa thác.
Chính là Miyamoto Musashi, tựa một sinh vật tí hon giữa cảnh hùng vĩ của thác nước cao hàng chục trượng trên đầu !
Hai tay chắp trước ngực, trần truồng, hắn cầu nguyện.
- Sư phụ !
- Miyamoto Musashi !
Nhưng những tiếng hét ấy chẳng bao giờ hắn nghe được. Như nghìn nghìn vạn vạn con rồng bạc điên cuồng gầm thét xung quanh, đưa móng vuốt ra quấn lấy vai lấy tay hắn, sẵn sàng lôi hắn đi, những dòng nước nghìn cân nặng của thác Phu Phụ có thể đưa hắn tới cái chết tăm tối. Một chút sơ hở, mất thăng bằng, một hơi thở sai lại khiến công lực suy giảm, Miyamoto Musashi sẽ bị cuốn vào vực sâu, không cách gì trở lại.
Hắn có cảm tưởng như tim phổi và cơ thể hắn bị sức nặng của cả dãy Mã Yên Sơn đè lên. Hắn không thể khinh xuất.
Ngọn lửa dục vọng trong lòng hắn lụi dần ...lụi dần ...Ngọn lửa ấy giống như lòng tham vọng trước đây đã đẩy hắn ra trận Sekigahara, đã là động lực thôi thúc hắn thực hiện những võ công phi thường. Nhưng nếu hắn không hướng dẫn, chế ngự được tham vọng, nó sẽ biến hắn thành giống thú hung bạo. Mà với một kẻ thù vô hình, nguy hiểm như thể ẩn tàng trong xương thịt, đau đớn thay cho Miyamoto Musashi, lưỡi gươm của hắn lại vô dụng !
Ý thức sự thất bại hiển nhiên của mình, Miyamoto Musashi hoang mang bối rối.
Đứng dưới thác nước điên cuồng, hắn cầu nguyện, mong tìm sự quân bình của thể xác và tâm hồn trong khi tranh thắng với cơn thịnh nộ của trời đất, cũng như trước kia hắn đã tranh thắng ngọn Đại Bàng Sơn.
- Sư phụ ! Sư phụ đừng bỏ con !
Tiếng thét của Jotaro giờ đây là một lời van xin nức nở. Nó cũng chắp tay trước ngực, mặt nhăn lại, cùng chia xẻ với thầy sức nặng ghê gớm của khối nước, niềm đau và sự buốt lạnh thầy nó đang gánh chịu.
Jotaro không hiểu sao sư phụ mình lại làm thế. Đứng dưới thác nước cho đến chết chăng ?
Bỗng nó giật mình:
cô Otsu cũng không còn trên bờ bên kia nữa. Hay lại ngã xuống suối rồi ?
Đột nhiên, giữa những tiếng gió hú và thác đổ ầm ầm, Jotaro nghe tiếng thầy.
Tiếng được, tiếng mất, không rõ ràng, chẳng biết là lời niệm kinh hay là những lời tự trách, nhưng tiếng thầy nó mạnh lắm, đôi lúc át cả tiếng gió gào và tiếng thác đổ.
Rồi thầy nó thận trọng bước ra khỏi thác. Vẻ trẻ trung và mãnh liệt giờ đây lồ lộ trên tấm thân cùng tráng của Miyamoto Musashi. Tâm, thân hắn đã được thanh lọc để sẵn sàng bắt đầu một đời sống mới.
Hiểm họa đã qua. Jotaro thở phào. Nếu cô Otsu không còn ở trên bờ nữa thì chắc cô cũng đã về lều, vì cô tin rằng sư phụ nó không sao cả.
- Cô Otsu chắc hiểu thầy mình hơn mình.
Nó nghĩ thế rồi nhảy từng bước nhẹ nhàng trên những hòn đá, tìm quãng suối hẹp lội sang bờ bên kia.
Khi đến gần lều, Jotaro rón rén nhìn vào trong thấy Otsu ôm áo và kiếm của sư phụ, mặt đầm đìa nước mắt, nhưng môi lại như mỉm cười.
Otsu không giấu mình khóc. Jotaro thấy lần này những giọt nước mắt của cô Otsu khác những giọt nước mắt những lần trước. Nó không hiểu tại sao, chỉ linh cảm một chuyện gì quan trọng lắm đã xảy ra giữa hai người.
Jotaro bỏ đi, ra chỗ gốc hòe, nằm xuống thảm cỏ cạnh con bò và nói:
- Cứ thế này thì bao giờ mới đến Edo ?
-
CHƯƠNG 52
MỘT VỤ BẮT CÓC
Trên đỉnh núi bên kia đèo, tuyết chưa tan, trắng lóa mắt nhưng ở chân đồi, hai bên bờ sơn đạo, nơi Otsu và Jotaro thong dong bước, cây cỏ xanh mát.
Gió thổi nhẹ hiu hiu, đồng cỏ lau gợn sóng.
Jotaro dong bò cho Otsu cưỡi. Nó đang tuổi lớn, tuy dáng người mảnh khảnh nhưng màu da bánh mật và ánh mắt tinh anh tiềm ẩn một sức sống dồi dào. Nhìn Jotaro, Otsu đã thấy trước một thanh niên dũng cảm và quả quyết, nhưng lằn ranh giữa lòng quả cảm và bướng bỉnh mảnh như tơ, khó mà phân định.
Càng lớn, Jotaro càng bướng bỉnh và đòi hỏi, nhất là nó lại quen sống nếp sống phóng túng không gì câu thúc.
Tính bướng bỉnh ấy khiến Otsu nhiều khi bực mình, nhất là sự háu ăn của nó, thật không giới hạn. Khi đi ngang qua một quán ăn hay một cửa hàng thực phẩm, thế nào Jotaro cũng đòi mua một thứ gì. Nếu không thì ì ra, không chịu dẫn bò đi nữa.
Qua xóm Suhara, đã ăn bánh bỏng ở một quán ven đường rồi, mới được vài dặm, Jotaro đã kêu đói. Cả hai phải tạt vào dùng bữa sáng tại một hàng cơm cuối xóm. Ăn xong, Jotaro lại nói với Otsu:
- Vùng này hồng khô ngon có tiếng. Cô mua một ít mang theo để ăn đường chứ !
Nhưng Otsu lờ đi như không nghe thấy.
Đến FukJuroma, một thị trấn khá quen thuộc có nhiều món ăn đặc biệt, ngửi mùi thơm từ trong bếp bay ra, Jotaro không nhịn được, nài nỉ:
- Cô Otsu, hay ta nghỉ chân ở đấy một lát.
Otsu lặng thinh. Thằng bé hểnh mũi hít hà:
- Thơm quá ! Cô không ngửi thấy gì à ?
- Mình mới ăn xong mà, cứ dừng lại luôn như thế, bao giờ mới đến nơi !
- Nhưng em đói ...
Vừa nói, Jotaro vừa giữ chặt dây thừng. Con bò, dường như đồng tình với nó, cũng dừng lại gặm cỏ.
- Jotaro hư lắm. Nếu em cứ thế, cô sẽ xuống đi bộ và mách thầy em ...
Jotaro phụng phịu. Nó không sợ vì dư biết Otsu chỉ dọa chứ không dám làm.
Trong thâm tâm, Otsu rất chiều nó.
Quả nhiên, thấy nét mặt Jotaro không vui, nàng trên lưng bò tuột xuống rồi cùng vào quán. Thằng bé ngồi ngay vào bàn, gọi luôn hai đĩa bánh dày đậu.
- Hành phi trộn với đậu ngọt rắc lên bánh dầy. Ngon tuyệt ! Em thèm rỏ dãi ra đây này.
- Jotaro ! Em phải giữ ý tứ ! Gọi cho cô ấm trà.
- Cô không ăn bánh ư ?
- Không, cô không đói. Ăn nhiều thành con lợn, xấu lắm.
Jotaro không để ý đến lời nhắc khéo. Nó vơ vào:
- Nhưng em đã gọi hai đĩa. Vậy để em ăn luôn phần của cô vậy.
Nói đoạn nó gọi thêm trà, buộc lại cây kiếm gỗ ra phía sau lưng cho khỏi vướng, rồi ngồi ngay ngắn chờ bánh mang ra.
Nhìn dáng điệu trịnh trọng của Jotaro, Otsu không khỏi mỉm cười.
Ăn một loáng hết hai đĩa bánh, Jotaro mới quay nhìn xung quanh. Bỗng nó há hốc mồm, chạy bổ ra cửa.
Tuy ngạc nhiên nhưng Otsu cũng uống hết chén trà. Tra tiền chủ quán xong và sắp sửa đứng dậy thì Jotaro trở về. Thằng bé thở hổn hển, đến bên thiếu nữ, ghé tai thì thầm:
- Matahachi ! Em vừa thấy Matahachi !
Otsu tái mặt:
- Hắn đến đây làm gì ?
- Không biết. Nhưng ông ấy nhìn vào quán. Thấy em, ông ấy bỏ đi, em đuổi theo để coi cho chắc. Đúng là Matahachi !
Nhìn vẻ mặt nghi ngờ của Otsu, Jotaro nói:
- Cô không tin à ? Hay để em gọi ông ấy lại.
- Đừng ! Đừng làm thế !
Đoạn, ghé tai Jotaro, Otsu hỏi khẽ:
- Thầy em có cách xa đây không ?
Jotaro lắc đầu:
- Em không biết. Chắc xa. Tại con bò này đi chậm quá !
Otsu hồi hộp. Tim nàng đập dồn dập. Sợ càng chùng chình, Musashi đi càng xa, nàng vịn vai Jotaro trèo lên lưng bò, bảo nó dẫn lên đường ngay tức khắc.
Trên lộ, Otsu và Jotaro không nói lời nào, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Otsu thì lo lắng, nàng không biết xử trí ra sao nếu gặp lại Matahachi. Còn Jotaro thì lấy làm lạ không hiểu tại sao thầy nó lại bỏ đi trước, chỉ dặn nó ở lại cùng đi với Otsu và giúp đỡ nàng.
Tuổi trẻ tò mò, không nhịn được, Jotaro bèn hỏi:
- Cô và sư phụ giận nhau đấy à ?
Thấy Otsu không đáp, nó hỏi lại:
- Sao từ khi ở thác, sư phụ không nói gì với cô nữa, lại bỏ đi trước, bảo đợi cô ở Edo là sao ?
Otsu quay đi, kín đáo chùi giọt lệ trên khóe mắt. Nàng chẳng biết trả lời thế nào cho phải vì chính nàng cũng chưa tìm được lời giải đáp thích đáng về hành động của Musashi.
Hồi tưởng lại sáu bảy năm trước khi còn ở chùa Shippoji, Otsu cũng đã bị một viên đội trưởng làm hỗn. Bây giờ thấy hành động ấy ở Musashi, nàng bối rối.
Mặc dầu hai trường hợp hoàn toàn khác nhau, nàng vẫn không hiểu rõ thái độ dùng sức mạnh để chiếm đoạt như vậy có phải là thường tình của đàn ông hay không và thái độ cự tuyệt của nàng có hợp với hoàn cảnh ấy không ? Mớ ý tưởng hỗn độn và nỗi băn khoăn khiến Otsu phiền muộn. Mối u tình nàng mang trong lòng bấy lâu nay như dòng suối êm đềm, bỗng trở thành thác lũ.
Otsu liên tưởng đến tiếng thác đổ ầm ầm, tiếng kêu thét ngỡ ngàng của lòng nàng trước hành động của người yêu và vẻ ngạc nhiên trên nét mặt Musashi. Nàng lại càng hoang mang hơn nữa vì nếu cứ như thế này mãi, cả hai không hiểu nhau thì sự theo chàng như một cái bóng thật là phi lý.
Thấy Otsu mắt đỏ hoe, sự bối rối hiện rõ trên gương mặt, Jotaro thôi không hỏi nữa. Và nó cũng quên ngay những điều vừa hỏi.
Đến Kozengi, Jotaro dẫn bò, rẽ sang một đường lớn nhiều người qua lại hơn. Ngay chỗ rẽ là một căn lều gỗ dùng làm trụ sở cho lính tuần tra xét những khách bộ hành để tìm bắt kẻ gian phi và đôi khi cả những kiếm sĩ đối nghịch với chính quyền.
Otsu và Jotaro cũng bị lính tuần chặn giữ, nhưng nhờ có chứng thư của tướng công Mitsuhiro nên không bị làm khó dễ gì. Tiếp tục cuộc hành trình, qua nhiều quán xá ven đường, lần này Jotaro ngoan ngoãn dắt bò đi, không đòi ăn như những lần trước.
Hết quãng đường phố tương đối đông dân cư, lại đến quãng đường vắng vẻ, cây cao và bụi gai mọc chi chít. Jotaro bỗng hỏi Otsu:
- Cô Otsu ! Huyền Trang là ai ?
- Huyền Trang ?
- Vâng. Khi qua quán đằng kia, có người chỉ cô và nói “Huyền Trang cưỡi bò” !
Vậy Huyền Trang là ai vậy ?
Otsu cười:
- Không rõ có đúng không, cô chỉ biết Huyền Trang là một vị sư nhà Đường bên Tàu, sang nước Thiên Trúc thỉnh kinh và mang về Trung Hoa nhiều bộ kinh quý giá lắm.
- À, cháu biết rồi ! Đấy là ông sư Tam Tạng. Vậy nếu cô là Huyền Trang thì cháu là Tôn Ngộ Không rồi !
Otsu cười như nắc nẻ. Nhìn thằng bé đen đủi, chân tay dài múa may như con vượn, nàng trêu nó:
- Ừ, vừa là Tôn Ngộ Không lại vừa là Trư Bát Giới nữa. Vì em háu ăn lắm.
Không vừa, Jotaro đáp lại:
- Như vậy mới xứng với sư Tam Tạng hay khóc !
Cả hai cùng cười vang, không nhớ gì đến những chuyện buồn phiền trước đấy nữa.
- Tại sao Huyền Trang lại cùng đi với Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hả cô ?
Otsu biết chuyện Tam Tạng thỉnh kinh từ khi còn ở chùa Shippoji, nhưng nghe thằng bé hỏi thì hơi lúng túng. Nàng chỉ đáp đại khái:
- Ngộ Không tượng trưng cho sự khôn ngoan tháo vát, Bát Giới là lòng dục của con người, còn Huyền Trang, lòng sùng đạo.
Sự giải thích ấy chẳng biết có thỏa mãn được tính tò mò của Jotaro không, nhưng không thấy nó hỏi thêm gì nữa.
oo - Đứng lại !
Tiếng quát kèm theo bóng người trong bụi nhảy xổ ra chặn đường khiến Otsu và Jotaro giật mình thất sắc. Định thần nhìn kỹ, thì ra là Matahachi; một Matahachi gầy đen, quần áo xốc xếch. Gã trợn mắt, chỉ tay vào mặt Otsu, giọng hằn học:
- Con tiện tỳ kia ! Xuống ngay !
Cơn ghen tức lộ trên nét mặt, gã hùng hổ sấn đến đầu con bò Otsu đang cưỡi.
Từ khi giã biệt Musashi trên sơn đạo ở sườn đồi Sinh Minh, Matahachi nghe theo lời khuyên của bạn, đến Edo lập nghiệp. Gã có ý đợi Musashi tại Liễu kiều để cùng đi. Nhưng số phận run rủi, gã vừa tới Liễu kiều đúng lúc thấy Musashi sánh vai Otsu vào quán trọ. Sự hân hoan trên nét mặt hai người khi tương hội khiến Matahachi nổi cơn ghen, quên luôn những lời khuyên chí tình của bạn, cho đó chỉ là những lời dối trá. Gã theo dõi Musashi và Otsu suốt dọc hành trình, đôi lúc lạc dấu vết, mãi đến bây giờ mới được dịp ra tay.
Ngạc nhiên cực độ, Otsu không thốt nên lời, trừng trừng nhìn gã.
- Xuống ngay ! Mày theo thằng Takezo, thất thân với nó rồi phải không ?
Phẫn nộ và khinh bỉ thay cho ngạc nhiên, Otsu xám mặt.
- Ta không xuống ! Ta không liên quan gì đến ngươi cả !
- A ! Matahachi giận dữ thét. Nhưng ta có liên quan ! Ngươi xuống không ?
Thét đoạn, hắn sấn đến nắm áo Otsu. Jotaro gạt gã ra:
- Ông làm gì thế ? Cô ấy không muốn xuống thì không xuống. Ông có quyền gì ...
Matahachi nhảy lui:
- Thằng oắt này là ai ?
- Là ai không cần biết, nhưng ông không được động đến cô Otsu.
- A ! Láo ! Ta nhớ ra rồi ! Mày là thằng oắt con bưng rượu ở quán Kitano !
- Mà ông là gã say rượu ở quán ấy ! Phải rồi, ông sống bám vào mụ điếm già, bây giờ bị mụ bỏ chứ gì !
Câu nói của thằng bé khiến Matahachi nhảy lên như có ai cầm nắm muối xát vào vết thương đang rướm máu của gã.
- Đúng không ?
Mắt Matahachi trợn ngược:
- Nhãi con khốn nạn ! Ai dạy mày thế ?
Gã nhoài tay ra định túm cổ Jotaro. Nhưng nhanh như cắt, Jotaro đã luồn qua bụng bò, chuồn sang bên kia, ngoái cổ lại hét:
- Đồ tồi ! Hèn nhát ! Bắt nạt trẻ con !
Con bò vùng lên chạy, mang theo Otsu trên lưng. Nàng kinh hãi kêu cứu. Jotaro chạy theo, định đỡ Otsu xuống thì bị Matahachi túm được.
- Oắt con ! Tao bắt được mày rồi ! Nói lại những điều vừa rồi tao nghe thử !
Jotaro vung tay đấm vào mặt gã:
- Đồ tồi ! Đồ hèn nhát ! Ăn bám vào gái điếm !
Matahachi túm ngực áo nó nhấc bổng lên. Thằng bé vừa định rút kiếm gỗ ra liền bị Matahachi tức giận ném ngay vào bụi rậm. Đầu va vào gốc cây, Jotaro nằm sóng soài bất tỉnh.
Mở mắt ra, con đường mòn vắng hoe, Jotaro không nhớ chuyện gì đã xảy ra. Một tiếng chim lảnh lót từ trên ngọn cây cao vọng xuống, nó nghe như tiếng sáo ai thổi đột nhiên bị cắt đứt.
-
CHƯƠNG 53
HIỆP SĨ ĐẤT KISO
Musashi ngồi nghỉ chân trên lưng chừng đồi chờ Otsu và Jotaro đi tới. Đợi lâu không thấy bóng hai người, hắn có vẻ đã hơi sốt ruột. Nhìn những đám mây trắng trên nền trời xanh, Musashi vẩn vơ dõi xem những đám mây ấy bay về hướng nào hay cứ nằm yên như thế mãi, lơ lửng treo trên ngọn đồi giữa hắn và khu rừng thưa dưới chân núi.
Bỗng mí mắt hắn giật lia lịa. Linh cảm một chuyện gì không hay xảy ra cho Otsu, Musashi đứng dậy, đi đi lại lại.
Musashi vẫn thường nghĩ đến Otsu và càng nghĩ đến nàng bao nhiêu, hắn càng tự giận mình. Tiếng kêu lo sợ, trách móc của Otsu còn như đồng vọng bên tai cùng với tiếng thác đổ. “Musashi ! Chàng mà cũng thế ư ?”. Hắn đã biểu lộ hành động xấu xa gì để Otsu phải trách móc như thế ? Otsu yêu hắn hay không ? Yêu hắn vì hắn là Musashi hay chỉ yêu cái phần phi thường của một kiếm sĩ trong hắn ?
Musashi định gạt đi, không muốn bận tâm đến nữa. Đã hứa đi cùng Otsu đến Edo, để nàng ở đó theo học môn gì nàng thích, bề nào hắn cũng có trách nhiệm.
Nhưng còn thanh kiếm đeo bên sườn đây mà hắn coi như người tình không rời nửa bước, hắn phải đối xử ra sao ? Đã nhiều ngày nay, thì giờ tập luyện và tu dưỡng của Musashi không được điều hòa. Nhìn dãy núi xanh biếc phía xa cùng cảnh trí bao la trước mặt. Musashi tự thẹn thấy mình nhỏ mọn.
Trời đã ngả bóng. Mãi không thấy Otsu và Jotaro đến, Musashi bồn chồn tự hỏi:
“Hay là họ bị giữ lại ở ngã ba Kozengi rồi !”. Linh tính báo cho hắn biết thực sự đã có chuyện chẳng lành. Quàng túi hành trang lên vai, sửa lại quai nón và bao kiếm, hắn vội vàng đổ dốc.
Đi chừng một quãng, bỗng gặp một khách bộ hành nhìn hắn hỏi:
- Phải chăng đại hán là người vừa ở ranh tỉnh tới, cùng đi với một thiếu nữ và một tiểu đồng ?
Lo lắng, Musashi đáp:
- Phải ! Có chuyện gì thế ?
- Thiếu nữ bị bắt cóc rồi. Người ta thấy nàng bị dẫn vào rừng.
- Mô Phật ! Thế còn thằng bé ?
- Không biết. Chẳng ai rõ nó đi đâu !
Lòng nóng như lửa đốt, Musashi không kịp cảm ơn người cho tin, hớt hải chạy xuống đồi trở lại phía ngã ba ranh tỉnh chỗ có đồn canh. Đến nơi, trời vừa chạng vạng. Cửa đồn đóng và hàng rào cản tre cũng đã được buông xuống. Trong các quán xá, người ta đang lục đục dọn đồ.
Musashi tiến đến gần một ông già hỏi tin tức. Ông già nghễnh ngãng, hắn phải hỏi đi hỏi lại hai ba lần, ông lão mới nghe ra:
- À, tráng sĩ muốn hỏi thăm nữ lang ngồi trên lưng bò trông như nhà sư Tam Tạng ấy chăng ?
- Phải, cùng với một tiểu đồng đeo kiếm gỗ dài trên lưng. Lão trượng biết họ đâu không ?
- Ờ ờ, có thấy cả hai qua đây.
- Bây giờ họ đâu ?
- Lão không rõ.
Nghe trả lời, Musashi toan bỏ đi nhưng cũng thêm:
- Có người nói họ bị bắt dẫn đi về phía này.
Ông lão gật gù:
- Có thể lắm. Vùng ranh tỉnh này nhiều dư đảng vô lại. Nếu quả họ bị bắt cóc thì không bị dẫn trở lại ngã ba này đâu. Chúng theo đường lên mả ngụy rồi ra hồ Nobu rồi.
Cảm ơn ông lão, Musashi vội vàng quay gót, dạ bồi hồi lo sợ. Otsu yếu đuối, vạn sự trông vào hắn lúc đi đường, nếu xẩy chuyện gì e rằng ...e rằng ...nàng khó sống.
Đêm xuống dần, tuy chưa tối hẳn nhưng trên trời đã lốm đốm sao thưa. Musashi cắm cúi đi, không một ý niệm gì về kẻ đã bắt cóc Otsu là Matahachi. Hắn đồng ý với ông già, đồ chừng kẻ đó là một trong những tên vô lại hay thảo khấu thường ẩn nấp ở nơi hoang dã vùng biên giới để dụ dỗ và bắt cóc những thiếu nữ khờ dại đem bán.
Càng đi, trời càng tối. Dưới tàng cây rừng, Musashi nhìn phía trước không xa được quá vài thước. Hắn có cảm tưởng dường như đang lên dốc chứ không có dấu hiệu gì thoai thoải xuống bờ hồ. Nghi đi lạc, hắn trèo lên ngọn cây khoáng đãng nhìn sao và quan sát tứ phía để định hướng.
Trong bóng đêm, lờ mờ ẩn hiện một mái nhà với rặng cây. Ánh đèn đỏ quạch hắt ra như một đốm nhang ai thắp trên mộ.
Không còn cách nào khác, Musashi quyết định tiến tới, hy vọng gặp người để hỏi thăm đường và nếu biết được tin tức gì thêm thì càng tốt. Đi mãi, đi mãi. Ánh đèn lúc ẩn lúc hiện. Musashi lấy làm kỳ, đôi lúc nghĩ đó là ma trơi, nhân trời lặng gió hiện lên lơ lửng như thế, đến gần gặp hơi người thì tắt chứ chẳng phải đèn đóm gì hết.
Đột nhiên vừa từ trong rừng ra, rẽ khỏi một lùm cây lớn, hắn trông ngay thấy đốm lửa đó. Và một căn trại.
Căn trại không to nhưng vững chắc, mặc dầu mái ra. dày đã lõm nhiều chỗ. Ánh đèn thực ra là lửa đốt trong lò. Và bên cạnh lò, một bóng người đang hoạt động.
Musashi cúi mình, nhẹ nhàng men đến bên vách. Phía tay mặt có một gian bếp. Bên bếp buộc một con bò lang. Musashi tin chắc đấy là con bò mà hắn đã thuê cho Otsu cưỡi.
Nấp trong bóng tối bên vách, nín thở, hắn nghe có tiếng lọc cọc đều đều như tiếng guồng tơ quay.
Bỗng giọng đàn ông từ sau bếp vọng ra, mạnh và hơi khàn:
- Khuya rồi, mẹ đi nghỉ thôi. Mẹ cứ than mỏi mắt mà vẫn làm trong tối, rồi thành lòa đấy.
Bóng đen đáp gì hắn không nghe rõ, nhưng lát sau không thấy tiếng guồng tơ quay nữa. Có bóng đàn bà đi đi lại lại trước ánh lửa, cúi xuống đứng lên như đang mải dọn dẹp.
Giọng đàn ông lại tiếp:
- Con rửa tay chân xong là vào ngay đấy ! Mẹ hâm canh lên là vừa.
Một lúc, nghe tiếng người đến bên con bò vỗ đầu nó mà nói lớn:
- Mẹ đã coi con bò con mang về chưa ? Bò cái, dáng nhiều sữa, tốt lắm.
Con vật rùng mình, dậm chân. Người kia vỗ nhè nhẹ lên vai nó. Tiếng bà mẹ trong nhà vọng ra:
- Để đấy mai hãy hay, trời tối thế này coi gì được.
Lợi dụng cơ hội tốt, Musashi đổi chỗ nấp. Hắn lẳng lặng trườn đến dưới cửa sổ, nép mình bên tảng đá, hé mắt nhìn vào gian phòng chính trong nhà. Ngoài ánh sáng từ lò lửa phát ra còn ánh sáng một cây đèn nhỏ để ở góc phòng, nên tương đối trông khá rõ mọi thứ. Vật đầu tiên khiến hắn chú ý là một cây thương dài treo trên vách, gác vào một cái giá mồ hóng đã đóng đen. Mũi thương bóng loáng. Những vòng vàng hoặc đồng cẩn trên cán thương đỏ rực, chứng tỏ vũ khí ấy đã được sử dụng thường xuyên và vẫn được lau chùi một cách trìu mến.
Musashi lấy làm lạ. Theo luật hiện hành, nhà nông không được dùng vũ khí dù họ có đủ tiền mua. Đó là những vật dụng không được tàng trữ trong nông trại, đừng nói gì đến dùng nó.
Gã đàn ông bước vào phòng. Gã còn trẻ, trạc ngoài hai mươi nhưng thoạt trông đã biết không phải là một nông dân thường.
Mắt gã tinh nhanh và sắc sảo. Gã mặc áo màu chàm theo kiểu nông dân, ngắn tới gối nhưng chân quấn xà cạp và đi dép cỏ. Mặt tròn, tóc rậm buộc túm về phía sau bằng sợi dây thừng ngắn. Trông gã nặng nề, bước đi chậm chạp nhưng vững vàng như bước đi của một con gấu. Từ trong bếp mùi khói tỏa ra, cay và khét. Khói sộc vào mũi khiến Musashi khó chịu, muốn hắt hơi. Hắn cố giữ, đưa tay che mũi song quá trễ.
Tiếng hắt hơi bị ngắt quãng làm bà mẹ từ trong bếp nói vọng ra:
- Ai đó ?
Không nghe đáp, bà tiếp:
- Gonnosuke ! Cổng ngoài đóng kỹ chưa ? Ta nghe tiếng ho, hình như có người lạ trong vườn !
Musashi rón rén bước khỏi chỗ nấp dưới cửa sổ, đến ẩn sau một gốc cây.
- Phải tiếng ho không hay mẹ nghe lầm tiếng chuột rúc đấy ?
- Ta đâu điếc. Chắc khói bếp làm nó ho. Ngươi ra coi xem.
Im lặng một lúc, rồi tiếng chân bước. Những bước vững vàng, chắc chắn.
Người có tên Gonnosuke nhẹ nhàng kéo cánh cửa chính. Thong thả, từ tốn, gã phóng tia mắt ngờ vực nhìn bốn phía, đầu hơi đưa về phía trước. Dáng điệu gã có một vẻ gì thận trọng khiến Musashi phải e dè. Hắn không biết Gonnosuke có mang võ khí gì không nhưng khi thấy gã bước ra hiên và ánh sáng trong nhà hắt lên lưng, Musashi thấy rõ một cây gậy gã giấu đằng sau. Cây gậy khá dài, bằng tre lên nước bóng loáng. Nhìn cách cầm cây gậy sát vào người, Musashi tin rằng gã đã sử dụng cây gậy này nhiều lần và thành thuộc lắm.
Từ chỗ nấp sau gốc cây, hắn nhảy ra:
- Yên tâm ! Ta không phải kẻ đạo chích. Ta đến tìm một người.
Gonnosuke khựng lại, phóng tia mắt sắc như dao yên lặng nhìn Musashi, đánh giá địch thủ.
- Ngươi hãy đem trả thiếu nữ và đứa nhỏ bị bắt lúc nãy. Nếu họ không sao thì ta bỏ qua, coi như không có chuyện gì. Nhưng nếu họ bị thương, ta sẽ không tha thứ ...
Yên lặng. Tuyết tan trên đỉnh núi khiến dòng suối sau trại dềnh lên, nước chảy róc rách càng làm tăng sự yên lặng nặng nề.
- Mang họ ra đây ! Lập tức !
Giọng Musashi cất cao, quyền uy và cấp bách. Nhưng Gonnosuke đâu phải là người dễ bị áp đảo. Tay phải giữ đầu gậy tre áp sát vào mình, gã sẵn sàng tung đòn chí tử.
- Đồ dòi bọ ! Ngươi là ai, tên gì ? Sao dám đến đây bảo ta bắt cóc con nít ?
- Ngươi thừa biết người thiếu nữ cưỡi con bò kia và đứa trẻ yếu đuối không thể tự vệ nên đã hèn hạ cưỡng bách bắt đi, còn chối nỗi gì !
Một tiếng rít. Cây gậy tung ra nhanh như chớp. Musashi chưa kịp nhận ra đâu là đầu gậy, đâu là cánh tay người cầm thì gậy đã tới sát bên sườn. Hắn nhảy chéo, tránh miếng đòn sát thủ.
- Khoan ! Đừng manh động, ngươi sẽ hối không kịp !
Nhưng Gonnosuke dường như không để lời cảnh cáo ấy vào tai. Musashi lùi ba bước thì gã cũng tiến ba bước, liên tiếp phóng chiêu bổ trên, phát ngang và quạt là là mặt đất.
Musashi tiếp tục tránh né. Hai lần, hắn định rút kiếm nhưng lần nào cũng không được. Vì đưa tay rút kiếm, khuỷu tay phải của hắn sẽ bị hở. Đòn gậy tre của địch thủ vù vù trước mặt, nhanh và mạnh như vũ bão, tất nhiên không để hắn làm việc ấy.
Musashi thấy địch thủ không phải kẻ tầm thường. Chỉ một chút khinh xuất cũng có thể mất mạng. Hắn giữ thế thủ, chú tâm quan sát đối phương, thấy gã rất bình tĩnh, tấn vững vàng, thủ kín đáo mà công mau lẹ. Musashi nghĩ thầm:
Gã nông dân này học lối đánh côn ở đâu thật xuất sắc. Gã đã làm chủ được cây gậy của mình, kỹ thuật còn cao hơn nhiều người sử dụng gươm bén. Nhưng Musashi không có thì giờ lượng định lâu. Đòn này tiếp đòn khác, lúc tay trái, lúc tay phải, lúc cả hai tay, Gonnosuke sử dụng cây gậy tre cực kỳ xảo diệu đôi lúc làm Musashi tránh đòn xong mà kinh hãi toát mồ hôi. Gươm còn có cán, có mũi, nhưng cây gậy của gã nông dân này có hai đầu, đầu nào cũng chí tử. Gã tung lên, bổ xuống, phạt ngang, đâm trước, thúc sau, quay tít cây gậy như tay thợ rất mực lành nghề bắt bột làm kẹo:
lúc dài, lúc ngắn, lúc cao, lúc thấp, lúc kéo bột nhỏ như tơ, lúc cô đặc thành cục, chỗ nào cũng thấy đầu gậy, lúc nào cũng thấy đầu gậy cả.
Tiếng bà mẹ từ trong nhà vọng ra:
- Gonnosuke ! Thằng này chẳng phải đồ thảo khấu tầm thường.
Thanh âm bà có vẻ quan ngại như chính bà đang giao đấu.
- Không hề gì.
Giọng Gonnosuke bình tĩnh. Những chiêu thức kỳ quái lại tiếp tục được phóng ra, mạnh và nhanh hơn trước. Dường như thấy có mẹ đứng quan sát, gã lên tinh thần và càng thêm phấn khởi.
Mẹ Gonnosuke hô lớn:
- Cẩn thận ! Nó ở bên trái. Sử đòn Liên Hoa Lạc.
Nhưng bộ vị của Musashi chỉ là hư bộ. Lợi dụng lúc Gonnosuke bị phân tâm, Musashi tiến sát đến bên gã, chộp cổ tay Gonnosuke nắm cứng rồi dùng một thế nhu quyền vật ngã quay lơ ra đất. Cây gậy văng ra xa. Mặt Gonnosuke nhăn lại vì đau đớn. Bà mẹ kêu thét nhảy vào nhà trong rồi tung cửa ra ngoài.
Trên mặt cỏ, Gonnosuke nằm ngửa. Gã nghiến răng, cong người, hai chân đạp xuống đất bành bạch, cố hết sức hất Musashi đang quỳ đầu gối trên ngực. Hai địch thủ công lực có phần tương đương nhưng Musashi nhờ nhanh nhẹn đã chiếm được thượng phong. Những ngón tay cứng như sắt của hắn đã ghì Gonnosuke xuống mạnh và chắc như những sợi dây lòi tói. Thế mà hắn cũng phải vất vả lắm mới giữ được địch thủ khỏi vùng dậy. Cả hai không nói một lời, không phát ra một tiếng kêu.
Chỉ nghe phì phì như hơi thở của loài mãng xà trong bóng tối.
- Gonnosuke ! Đừng sợ !
Nghe tiếng mẹ Gonnosuke, Musashi tưởng trong tình thế này, thế nào bà cũng xin tha cho con trai. Và hắn cũng chẳng hẹp hòi gì mà không thuận.
Nhưng hắn lầm. Bà mẹ Gonnosuke chạy ra, trong tay đã lăm lăm cây thương từ bao giờ. Dưới ánh đèn hắt qua khung cửa vừa mở, mũi thương và những vòng đồng trên cán thương lóe sáng. Và lưng hắn sẽ là cái đích dễ dàng cho mũi thương ấy.
Musashi cảm thấy nhột nhạt, dường như tia mắt của bà cũng đã xoáy vào gáy hắn trước khi ngọn thương đâm tới.
Hắn tiếc đã phản ứng chậm, không giải quyết cuộc đấu sớm hơn để bây giờ đứng trước một tình thế khó xử. Lối thoát độc nhất của Musashi là phải bỏ ngay gã nông phu. Như mũi tên bật khỏi dây cung, Musashi tức khắc tung mình đánh vút, chớp mắt đã nhảy ra khỏi sân, xa hơn một trượng. Hắn lăn mình đến gần gốc cây, thanh mộc kiếm sẵn sàng cầm trong tay lăm lẳm.
Mũi thương cũng vừa phóng tới, cắm ngập xuống đất chỉ cách chỗ Gonnosuke nằm chừng hơn gang, cán thương còn rung rung dưới sức ném của bà lão.
- Ái chà ! Thằng này giỏi ! Ngươi tưởng chúng ta là những nông dân quê mùa nên đến đây tác quái chăng ?
Gonnosuke vùng đứng dậy. Gã xốc lại áo và khoát tay:
- Khoan ! Con nghĩ đây là một chuyện hiểu lầm. Ta chẳng nên vì chuyện hiểu lầm mà giết hại nhau vô ích !
Đoạn quay sang phía Musashi:
- Túc hạ là ai không rõ, nhưng bất luận là ai cũng xin thu kiếm về. Đây là một sự hiểu lầm đáng tiếc.
Thấy thái độ khoan hòa của địch thủ, Musashi gật đầu tra kiếm vào vỏ:
- Tại hạ cũng có điều không phải, xin thứ lỗi.
Bèn tự xưng danh tính, rồi cả ba bước vào nhà.
Phân ngôi chủ khách xong, Musashi trình bày lý do tại sao đến đây và hỏi về lai lịch con bò cái.
- À ra thế ! Gonnosuke vỗ đùi đáp. Vì con bò mà ngờ vực. Cũng chẳng có gì đâu, do ngẫu nhiên thôi. Số là kẻ thô lậu này lúc chiều đi câu cá, thấy con bò vị sa lầy gần đầm cỏ lác. Nó không lên được, cứ đứng đấy mà kêu rống. Chỗ hoang dã chẳng có ai, nghĩ âu là của trời cho nên cố gắng buộc dây kéo lên. Ở chốn thôn ổ, có con bò như có thêm người giúp việc. Huống chi đây lại là con bò cái, sữa tốt lắm. Không ngờ lại là bò của tráng sĩ ...
Nghe những lời chất phác, Musashi mỉm cười:
- Cũng chẳng phải của tại hạ. Đấy là bò thuê để người bạn đồng hành cưỡi. Thật đáng tiếc đã không trình bày rõ ràng để đến nỗi suýt nữa thì xẩy ra thù oán !
Mẹ Gonnosuke xen vào:
- Tráng sĩ nói phải. Nhiều khi có những chuyện không đâu mà làm lụy đến nhiều người. Đây là bài học quý giá. Ta sống đã quá nửa đời rồi nhưng hành động quả còn hấp tấp. Gonnosuke, ngươi dẫn tráng sĩ đi xét khắp các nơi đi, để tráng sĩ yên lòng chúng ta không giấu những người bạn của tráng sĩ ở trong nhà.
Đoạn quay sang Musashi, bà nói:
- Xin tráng sĩ cứ tự tiện lục soát.
Gonnosuke cũng phụ họa:
- Để các hạ nghi ngờ, tại hạ thật vẫn còn áy náy. Nào xin mời các hạ.
Nhưng Musashi gạt đi:
- Thôi, bất tất ! Lời lão bá và Gonnosuke hữu cũng đủ cho tại hạ tin rồi. Tại hạ làm phiền lão bá và bằng hữu đã nhiều. Xin cho cáo biệt.
- Không được. Mẹ Gonnosuke lại nói. Gonnosuke, ngươi ăn cơm đi rồi dẫn tráng sĩ đến khu rừng ven hồ. Ta chắc nếu chúng bắt cóc cô nương thì cũng đem đến quanh đó thôi. Chỗ ấy là nơi tụ tập của nhiều du đãng bất lương lắm.
oo Lúc đầu gió còn thổi nhẹ, sau mạnh dần, ào ào qua những tàn cây lớn và kéo rạp đầu các bụi lau sậy. Bó đuốc trong tay Gonnosuke đã phải mồi lại mấy lần mà xem chừng gió chưa đứng.
Số nông dân trong vùng này đếm được khoảng mười nhà. Gonnosuke dẫn Musashi đi hỏi tin tức đã đến chín. Vẫn không kết quả. Đến đâu cũng chỉ gặp những bộ mặt e dè hoặc ngái ngủ. Không ai trông thấy bất kỳ một thiếu nữ hoặc thiếu niên nào có hình dạng như Musashi mô tả.
Gonnosuke bảo bạn đồng hành:
- Còn một căn nữa ở cuối xóm. Gia đình này vừa làm nghề trồng rẫy vừa săn thú.
Nếu không có tin gì khác thì đêm nay ta đến phải ngưng. Quanh đây không còn ai để hỏi thăm nữa.
- Đa tạ bằng hữu đã nhọc công. Nếu không ai biết hay nghe nói gì thì chắc chúng không dẫn qua đây rồi.
- Có gì mà nhọc công. Đi bộ tại hạ không ngại, đi cả đêm cũng chẳng sao. Có điều không biết đường hướng gì mà cứ đi thì thật vô ích.
- Đúng thế.
- Hai người đó với các hạ liên hệ ra sao ? Thân thuộc, bạn bè hay nô bộc ?
- Họ là những người thân nhất của tại hạ.
Thấy Musashi đáp lửng lơ, Gonnosuke cũng không hỏi thêm. Cả hai yên lặng đi dưới ánh đuốc. Mặc dầu gió đã dịu hơn trước nhiều nhưng ngọn lửa vẫn chiếu ánh sáng bập bùng đỏ quạch lên những cành cây khiến chúng trông như những cánh tay của những hình thù quái dị đang múa may trong đêm tối.
Musashi muốn biết thêm về kỹ thuật sử côn của người nông phu nhưng không tiện hỏi. Buổi sơ kiến hắn không muốn tỏ ra tò mò quá. Hắn tự nhủ “Thôi để chờ dịp khác. Thế nào ta cũng phải tìm hiểu mới được. Một kỹ thuật trác tuyệt như vậy mà mình không học hỏi thì thật đáng tiếc !”.
Đã đến cuối xóm. Gonnosuke chỉ căn trại nằm khuất sau một bụi tre cao, những gốc tre lớn bằng bắp chân lá rậm xào xạc và thân tre cọ vào nhau kẽo kẹt.
- Đến nơi rồi. Các hạ đứng đây để tại hạ vào hỏi thì hơn. Họ biết tại hạ nên không nghi ngờ gì, có thể cho mình tin tức tốt.
Gonnosuke đi vào con đường đất nhỏ. Lát sau nghe tiếng gã đập cửa. Khi cầm đuốc đi ra, trông gã có vẻ vội vàng hơn trước. Gã nói:
- Người chồng không biết gì, nhưng vợ hắn cho một tin chắc các hạ phải hài lòng.
Dáng điệu và lời nói của Gonnosuke khiến Musashi bồn chồn. Hắn nhướng lông mày ra dáng hỏi.
- Mụ vợ nói lúc chiều có gặp một thằng bé chừng mười bốn mười lăm tuổi, quần áo lem luốc, lưng đeo thanh gươm gỗ dài, nét mặt hớt hải. Nó hỏi thăm mụ đường đến văn phòng quận lỵ. Mụ hỏi nó đến để làm gì thì nó nói để thưa việc cô nó bị một tên du đãng bắt đi nên nhờ văn phòng và lính tuần tìm giúp.
Mụ khuyên thằng bé không nên đến, vô ích. Lính tuần không bao giờ tìm giúp những người dân thường bị bắt. Nếu kẻ đó là hàng quý tộc thì lính tuần mới làm, còn không thì mặc kệ. Những chuyện bắt người dẫn đi như thế này xảy ra hằng bữa, sáng, trưa, chiều, tối, ai hơi đâu !
Theo ý tại hạ, thằng bé ấy có thể là người các hạ muốn tìm. Các hạ nghĩ sao ?
Musashi gật đầu:
- Đúng rồi. Thế bây giờ nó đâu, đi về hướng nào ? Người đàn bà có cho biết thêm tin tức gì không ?
- Co. Mụ bảo mụ khuyên thằng bé đến Narai, quá ngã ba Yabuhara. Ở đấy có một lão hiệp tên Daizo, chuyên buôn bán dược thảo lại hay cứu giúp người khốn khó. Đến đấy mà tìm.
Musashi mừng lắm, cảm ơn Gonnosuke:
- Đa tạ bằng hữu. Nhờ quý bằng hữu, tại hạ mới biết phải làm gì. Tại hạ xin đi ngay gặp vị lão hiệp ấy, may ra ...
- Bây giờ thì trễ rồi, mà đi đêm xuyên rừng cũng khó. Chi bằng xin mời về nghỉ tạm ở tệ xá, để sáng mãi cũng không muộn.
- Được không ? Sợ phiền lão bá ...
- Có gì mà phiền. Ta băng qua hồ này, đỡ được nửa đường. Tại hạ đã hỏi mượn thuyền của chủ nhân căn trại vừa rồi. Xin cứ theo tại hạ.
Cả hai men theo đường xuống hồ, tới một bực đá quả nhiên có chiếc thuyền con buộc đó.
Gió đã yên từ bao giờ. Mặt hồ, phẳng như mặt trống phản chiếu bóng núi Koma đen sẫm cắt trên nền trời đầy sao lấp lánh.
Musashi giơ cao đuốc, Gonnosuke chống sào đẩy chiếc thuyền con lướt nhẹ trên mặt hồ phẳng lặng. Ánh đuốc phản chiếu mặt hồ đỏ rực, hồng hơn cả ngọn lửa bó đuốc hắn cầm trên tay.
-
CHƯƠNG 54
VẾT RĂNG RẮN ĐỘC
Ánh đuốc trông xa tựa đôi chim lửa đang vờn nhau trên mặt hồ, trong một chuyện thần thoại.
Bên bờ hồ, Matahachi nhìn sững, khẽ thốt:
- Có người ! Có người đấy !
Gã kéo dây thừng buộc chéo tay Otsu lại với nhau, lôi nàng đứng dậy. Nhưng Otsu ghì xuống, nhất định không đứng.
- Đứng dậy !
- Không !
Matahachi nắm đầu dây quất vào vai Otsu. Nàng vẫn ngồi lì.
- À bướng ! Này, bướng ! Này, bướng !
Sau mỗi tiếng, gã lại quất đầu dây thừng vào vai, vào lưng thiếu nữ. Otsu đau, nhăn mặt, nước mắt chảy ràn rụa nhưng tuyệt nhiên không thốt một lời van xin hay mắng nhiếc. Thái độ ấy như khiêu khích và càng làm cho Matahachi giận dữ hơn, gã nắm cổ áo kéo nàng đứng dậy.
- Đứng lên ! Muốn hay không cũng phải đi theo ta !
Rồi đẩy Otsu một cái. Thiếu nữ ngã sấp. Tay bị trói, nàng đang cựa quậy uốn mình định ngồi dậy thì bị Matahachi nắm tóc giật mạnh khiến nàng bật ngửa. Đau và tức giận, Otsu dùng chân đạp gã rồi kêu cứu ầm lên. Matahachi giơ tay bịt vội miệng nàng, tay kia xé vạt áo nhét vào miệng Otsu. Otsu chỉ còn ú ớ. Một vệt máu đen rỉ ra bên khoé mép. Mặc kệ ! Matahachi cúi xuống nắm cổ áo Otsu lôi đi như lôi một con vật.
Đến một ngôi miếu nhỏ bỏ hoang bên rặng liễu, Matahachi đẩy cửa, kéo Otsu vào. Miếu hôi hám, mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc nhưng trên bệ gạch thờ đã đổ nát còn lưu lại một bát hương bằng sành và hai cái chén gỗ.
Mái miếu thủng một lỗ lớn, ánh sao đêm chiếu lờ mờ hình vẽ một con rắn quấn chung quanh cái cột, đầu ngóc lên như đe dọa. Bất giác Otsu ước trở thành con rắn để có thể chui qua khe miếu mà trốn thoát.
Đưa mắt nhìn quanh, thấy không có gì khả nghi, Matahachi đẩy Otsu vào sát bệ thờ rồi ra khỏi miếu, khép cửa. Ngồi chặn bên ngoài, gã nhìn ánh lửa đuốc trên mặt hồ xa dần và suy nghĩ miên man. Bữa nay thật là một ngày khó nhọc. Lúc bắt Otsu dẫn vào rừng, gã có ngờ đâu nàng bướng đến thế. Có lúc Otsu đòi cắn lưỡi tự tử. Matahachi biết tính nàng, những lời đe doa. ấy chẳng phải là những lời dọa suông. Bị khinh miệt quá sức, Matahachi đã có ý tưởng sát nhân nhưng không dám thực hiện. Âu cũng là điều may, vì ngồi đây bây giờ, nếu làm việc ấy gã sẽ hối hận biết chừng nào.
Matahachi không hiểu tại sao đàn bà lại ưa Musashi hơn gã trong khi lúc đầu thì khác hẳn. Otsu đấy, trước đây đã chẳng là vị hôn thê của gã là gì ? Oko nữa, lúc đầu chọn đi theo gã, sau lại coi gã như một miếng giẻ thừa, muốn vất đi cho rảnh nợ. Lại cả Akemi ! Người đàn bà nào khi gặp Musashi cũng so sánh nó với gã. Chỉ có một lý do để cắt nghĩa:
Musashi đã nói xấu gã sau lưng, thế thôi ! Cho nên nó đã chiếm được lòng Otsu. Nghĩ đến đấy, Matahachi tức giận vô kể, tự trách mình ngu hết sức. “Mình đã tin vào những lời giả nhân giả nghĩa của nó”. Matahachi tự nhủ.
“Nào suốt đời làm bạn, nào giúp đỡ lẫn nhau, nào tìm thầy dậy nghề cho mình để làm lại cuộc đời ! Láo ! Láo hết ! Trong khi ấy nó đi với vợ mình”. Cơn ghen khiến Matahachi mờ mắt.
- Thằng đểu !
Gã thốt ra lời chửi tục tằn và rủa thầm Musashi đã lừa dối:
“Bây giờ ta mới biết. Thì ra trên đời này có những thằng bên ngoài được mọi người kính nể mà bên trong toàn dòi bọ. Đọc thiên kinh vạn quyển ? Trau dồi kiếm đạo ? Để làm gì ? Hừ ! Để trở nên thằng phản bạn, lừa lọc, đạo đức giả à ?”.
Matahachi nắm chặt hai tay đạp vào đùi:
“Nhất định ! Phen này ta nhất định phải làm cho nó biết tay. Ta còn thở ngày nào là còn phải nghĩ đến trả thù ngày đó !”.
Gã đạp tung cửa, nhảy vào trong miếu. Nhìn Otsu nằm co quắp bên bệ gạch, gã hét:
- Con kia ! Trả lời tức khắc câu ta hỏi lúc nãy !
Im lặng.
- À ra nó khinh mình ! Nó ra gan ! Nó ...
Sực nhớ ra nùi giẻ vẫn còn trong miệng Otsu, Matahachi cúi xuống giật mạnh.
- Otsu ! Hãy trả lời câu ta hỏi !
Tiếng Otsu yếu ớt:
- Ta không có gì phải trả lời. Nếu ngươi muốn giết ta thì cứ giết, nhưng nên xử sự đĩnh đạt, xứng đáng là kẻ nam nhi ...
Matahachi cười khẩy:
- Đừng nói bậy. Ta giết ngươi làm gì. Ý ta đã quyết phải cho ngươi và thằng Takezo đau khổ suốt đời vì chúng bay làm hại đời ta.
- Matahachi ! Ngươi lầm rồi. Chính ngươi đã quyết định đời ngươi. Ngươi đi theo Oko mới ra nông nỗi ...
- Nói láo !
Lời nói của Otsu đã khơi dậy nỗi đau và sự bất lực trong lòng gã. Gã lớn tiếng:
- Câm mồm ! Ta cấm nói đến chuyện ấy.
Otsu thở dài thất vọng:
- Mẹ con ngươi là những kẻ lạ đời. Sao cứ ngoan cố đổ tội cho kẻ khác và nuôi lòng oán hận phi lý ...
- Không nói lôi thôi ! Ta chỉ muốn hỏi ngươi có bằng lòng lấy ta không ? Nghĩ đi rồi trả lời cho ta biết.
Giọng Otsu yếu ớt nhưng cương quyết:
- Việc gì phải nghĩ nữa. Trong đời này và tất cả những đời sau, ta chỉ yêu có Musashi. Lòng ta là của chàng rồi ! Sẽ không bao giờ thuộc về một tên hèn hạ như ngươi cả !
- A !
Toàn thân Matahachi run lẩy bẩy. Gã nhếch mép cười độc ác.
- Dù muốn hay không, đêm nay mày cũng ở trong tay ta ...
Otsu rùng mình:
- Ta không cha không mẹ. Không một ai thân thích khác. Ta không sợ chết.
- Hừ ! Ai nói đến cái chết ! Giết ngươi để làm gì ? Ta sẽ làm thế này ...
Matahachi vồ lấy Otsu, một tay bịt chặt miệng nàng, một tay nắm lấy tay Otsu. Matahachi cắn lên vai thiếu nữ. Otsu thét lên đau đớn nhưng tiếng thét bị chặn ngay trong cổ họng như tiếng con vật bị chọc tiết. Máu loang ra thấm cả áo ngoài, chảy theo cánh tay trần của Otsu xuống đến tận lòng bàn tay Matahachi. Otsu dãy dụa, mặt tái dần rồi ngã lăn ra bất tỉnh. Matahachi bỏ nàng xuống. Trên trán Otsu, mồ hôi vã ra lạnh ngắt. Matahachi lo sợ, cúi xuống cạy miệng thiếu nữ xem nàng có cắn đứt lưỡi không. Thấy không có máu, gã yên tâm, giật tóc mai và gọi cho nàng tỉnh.
Lúc sau, Otsu mở mắt. Trong cơn hôn mê, nàng lắp bắp gọi tên Jotaro cầu cứu.
Đến khi định thần lại và biết mình đang ở đâu, Otsu mới thôi. Cơn đau kéo đến khiến vai tê dại, nàng cố giữ cho khỏi bật ra tiếng khóc to nhưng nước mắt vẫn ràn rụa hai bên má.
Trong bóng tối của gian miếu hoang, sự yên lặng chỉ bị cắt đứt bởi những tiếng thút thít và tiếng rên nho nhỏ.
- Đau hả ? Đó là bài học để ngươi ghi nhớ suốt đời. Dù vết cắn trên vai ngươi có lành nhưng vẫn còn vết sẹo. Để ngươi biết ngươi là của ta, đã thuộc về ta. Để thằng Takezo cũng phải biết thế. Bây giờ thì trốn đi. Muốn trốn ta cho trốn nhưng không thể quên ta được !
Otsu muốn đứng dậy nhổ vào mặt tên vô sỉ hèn hạ, nhưng không đủ sức. Mệt quá rồi, nàng chẳng còn nghe thấy gì nữa, chẳng còn làm gì được nữa dù biết rằng gã hèn hạ ấy đang quỳ bên cạnh tháo dây trói cho nàng.
Matahachi với tay lên bệ thờ, cầm chiếc chén gỗ ra hồ múc nước. Vừa bước khỏi cửa, thấy ngay một bóng đen ù té chạy. Gã đuổi theo bén gót, ôm được, vật ngay xuống.
Thì ra là một lão nông.
- Xin đại nhân tha mạng. Già này chẳng làm gì nên tội. Nhân dẫn lừa mang thóc ra chợ bán, thấy có tiếng khóc trong miếu thì tò mò dòm xem mà thôi ...
- Thật không ? Hay định dò xét cái gì ?
- Bẩm thật, lão đã già không dám nói dối ...
- Vậy lừa đâu ?
- Dạ Ở đằng kia.
- Dẫn ta lại coi, nếu không thì coi chừng cái đầu lão !
Vừa dọa, Matahachi vừa mân mê chuôi kiếm đeo bên sườn.
- Dạ dạ ...
Đi khỏi ba gốc liễu, quả nhiên thấy con lừa trên lưng tải hai bịch thóc. Matahachi bảo ông già:
- Bỏ thóc đi, dẫn lừa theo ta trở lại miếu.
Tội nghiệp ông già chất phác, gặp người đeo gươm thì sợ hãi, chẳng quan quân cũng phường thảo khấu, đều có quyền sinh sát cả. Lão líu ríu vâng lời.
- Chúng ta muốn đi Edo, cần con lừa của ngươi để cô nương cưỡi.
- Dạ dạ ...
- Mà chúng ta không muốn đi đường đông đúc. Ngươi hãy dẫn lừa theo đường mòn trong rừng, càng vắng càng tốt.
- Dạ, xin đại nhân lấy con lừa, còn tha cho già này về cày cấy. Vợ già đau ốm, chỉ trông cậy vào có mình già.
- Không được ! Đừng có lôi thôi. Muốn ta thử gươm trên cái đầu hói của lão hả ?
- Dạ dạ ...Nhưng đi đường rừng phải trèo cao, mệt nhọc lắm, chẳng biết già này có kham nổi không ?
- Mặc kệ !
Matahachi túm cổ ông lão, bắt cột hành trang rồi vực Otsu lên lưng lừa. Cả ba người cùng với con vật qua khỏi rặng liễu thì trực chỉ khu rừng chân núi.
Đường mòn càng lúc càng dôc thêm, ông già dẫn lừa thở phì phò mà con vật xem chừng bước chân cũng không được vững nữa. Sỏi đá đổ rào rào. Dưới chân họ, mây mù tụ từng đám nhưng ở xa xa, về phương đông, trời đã hửng sáng.
Otsu nằm phục trên lưng lừa từ khi còn tối, chẳng nói một lời. Khi nhìn ánh dương quang vừa hé, nàng bảo Matahachi:
- Matahachi ! Tha ông già về và trả con lừa lại cho người ta. Ta thấy đã có thể đi bộ được.
- Ngươi có trốn không ?
- Không. Ta cam đoan không trốn.
Rồi với nụ cười héo hắt, nàng tiếp:
- Trốn làm gì khi ta còn phải mang trên vai vết răng của loài rắn độc.
CHƯƠNG 55
LỜI CẢNH GIÁC CỦA MỘT NGƯỜI MẸ
- Con đã dùng những đòn đặc biệt, nhưng nó khoẻ và nhanh vô cùng. Sợ không làm gì được ...
Mẹ Gonnosuke cắt ngang:
- Nói nhỏ chứ ! Khua nó dậy đấy hả ? Mày thua nó chỉ vì sơ xuất. Từ trước mày chưa gặp đối thủ nào xứng đáng nên thiếu kinh nghiệm, bây giờ là lúc có cơ hội tốt để học hỏi ...
Bà nói dịu dàng nhưng cương quyết và khích lệ, nghe như lời răn bảo một đứa trẻ lên năm.
- Phải có ý chí và quyết tâm mới nên người được chứ ! Đừng để uổng công ta nuôi dạy.
Musashi tỉnh đã lâu. Những lời đối thoại của mẹ con gã nông phu ở phòng kế tuy nhỏ nhưng nghe khá rõ, làm hắn ngạc nhiên. Cuộc đụng độ tối qua tưởng như kết thúc, Musashi coi đó chỉ là một sự hiểu lầm giữa đôi bên, không ngờ có hậu quả nghiêm trọng trong gia đình này đến thế.
Một tiếng nấc nhỏ, cơ hồ gã nông phu không giữ được xúc động bật lên khóc. Rồi tiếng bà mẹ nghiêm nghị:
- Vô ích ! Khóc không giải quyết được gì cả. Hãy thách nó giao đấu lần nữa để giữ vững lòng tự tin. Ta xem đường côn của mày đâu đến nỗi ...
- Nhưng con không đủ sức. Xin mẹ tha thứ cho con, mẹ cho con bỏ võ công để làm một nông dân thường. Con cầm cuốc có lẽ còn có ích hơn cầm côn.
Musashi nhẹ nhàng tung chăn ngồi dậy, đến bên vách ghé mắt dòm qua khe cửa. Trời mới rạng đông, phòng còn tối nhưng hắn cũng thấy mẹ Gonnosuke ngồi trên chiếu đối diện với người con trai trước bàn thờ gia tiên. Tuy đã có tuổi, vậy mà lưng bà chưa còng và phong cách chững chạc trong thế ngồi rất nghiêm túc của bà chứng tỏ bà đã thừa hưởng một quá khứ vinh hiển từ một dòng họ hào hùng. Bất giác Musashi đem lòng kính nể và có hảo cảm với người đàn bà cương nghị ấy.
Gonnosuke vẫn mặc bộ y phục ngày hôm trước, vóc dáng to lớn thô kệch trái hẳn với thái độ khiêm cung của gã lúc bấy giờ.
Bà cụ sẵng giọng:
- Mày nói cái gì ? Muốn làm nghề nông cả đời hay sao ?
Gonnosuke lặng thinh, đầu cúi gục. Bà bèn nhích lại gần, kéo đầu con trai đặt vào lòng mình rồi nói bằng một giọng ôn tồn và âu yếm:
- Gonnosuke ! Ta cố gắng đến ngày nay là để mong con trở thành hào kiệt, khôi phục lại danh dự của cha ông. Con biết đấy, ta không nề khổ cực, sinh nhai đạm bạc cũng chỉ vì mục đích ấy. Bây giờ bỏ cả, như thế là thế nào ? Con không nghĩ gì đến công phu tập luyện hàng chục năm nay, không thương ta, không quan tâm đến dòng máu hiệp sĩ đất Kiso nữa hay sao ?
Nói xong, dường như không cầm được xúc cảm, bà khóc. Xúc cảm hay lây. Gonnosuke cũng chan chứa nước mắt.
- Sao bây giờ con khác trước ? Can đảm để đâu ?
Bà lau nước mắt:
- Nó còn ở phòng bên. Chừng nào nó tỉnh dậy, con hãy tìm cách khiêu khích nó để giao tranh lần nữa. Nếu con để mất lòng tự tin thì họ nhà ta coi như đến đây là tuyệt diệt.
Gonnosuke lắc đầu:
- Nó khôn ngoan lắm. Đêm qua đi thuyền trên mặt hồ, con đã rình cơ hội thuận tiện để tấn công nó nhưng không lúc nào nó lộ chút sơ hở. Nhiều lần con đã tự nhủ tên đó chỉ là một Ronin tầm thường, nhưng không hiểu sao con không dám ...
- Bởi ngươi hèn nhát, khiếp nhược. Bà gắt lên. Phải ngươi đã thề với ta sẽ lập một môn phái riêng để rạng danh tổ phụ không ? Ngươi quên rồi chăng ?
- Con không quên, nhưng sợ lúc đó con quá chủ quan, tin tưởng vào sức mình.
Chưa đủ chính chắn, làm sao dám lập môn phái ? Con trộm nghĩ thà bẻ côn đi cày con hơn để mẹ chịu cảnh cơ hàn trong lúc tuổi mẹ thì cao và sức khoẻ kém dần.
Bà cụ trừng mắt:
- Nói bậy ! Mày từ bỏ võ công để săn sóc ta không làm ta sung sướng gì hơn. Trước nay, mày chưa được dự trận nào quan trọng, mới thua một lần đã tỏ ra khiếp nhược. Ta không nói nữa. Gonnosuke ! Khi nó dậy, mày phải khiêu khích nó. Nếu lần này thua, bấy giờ gác côn cũng chưa muộn.
Musashi thong thả quay về chỗ nằm. Nếu gã nông phu khiêu khích, nhất định hắn không thể từ chối được, mà nếu hắn xuất thủ dù chỉ để tự vệ, hắn cũng sẽ thắng dễ dàng. Trận đánh này quyết định tương lai của Gonnosuke và tuổi thọ của bà lão, vì bất luận thế nào, cục diện cũng sẽ làm tinh thần bà chấn động, không chắc sống được.
Bình tĩnh thu nhặt hành trang, hắn yên lặng mở cửa lẻn ra ngoài.
Mặt trời mới rạng. Những ngọn bạch dương trồng trước trại ửng hồng như vừa được rắc phấn. Men theo vách nhà bếp, Musashi thấy con bò hắn thuê nằm thản nhiên, mắt lơ đãng nhìn ra xa, miệng nhóp nhép. Hắn đưa tay chào từ giã con vật, xuyên qua rặng bạch dương rồi rảo bước lẩn vào những bụi cây thấp ở ven rừng. Hôm ấy, núi Koma trông rõ mồn một từ chân cho đến đỉnh. Thỉnh thoảng mới có vài cụm mây hồng nhẹ nhàng trôi theo gió sáng.
“Jotaro còn nhỏ, Otsu thì yếu đuối. Không biết cả hai có gặp nguy hiểm gì không.
Nếu phen này không tìm ra tung tích thì âu cũng là Trời Phật đã an bài !”. Musashi tự nhủ thầm để tìm sự yên tĩnh. Sau biến cố ở thác Phu Phụ, mặc dầu đã giữ vững ý chí quyết tâm theo con đường kiếm thuật, tâm hồn hắn đôi khi vẫn bị xao động vì tình yêu và bổn phận. Trước gió sớm bay vừa, lòng hắn cũng xôn xao như những lá bạch dương, không kềm giữ nổi.
Đến Narai, trời đã quá trưa. Trấn Narai đương hồi thịnh. Có tiệm bán đồ da, trưng ra đủ thứ loại da thuộc và lông thú. Tiệm khác trang hoàng mỹ lệ chuyên về nghề làm lược, một đặc sản đất Kiso.
Thấy một cửa hàng treo bảng hiệu vẽ con gấu lớn với chữ đề to tướng “Đại Hùng Dược Phòng” và ngay cạnh cửa có cái cũi nhốt con gấu đen, Musashi bước vào.
Trong hiệu la liệt bảng gỗ nêu tên các vị thuốc đã được bào chế sẵn bằng mật gấu.
Mãi pha trà, chủ nhân không để ý, chỉ hỏi:
- Khách quan cần gì ?
- Xin lỗi, tại hạ muốn hỏi thăm một người tên Daizo, nghe nói chuyên buôn bán dược thảo ở trấn Narai này.
Chủ nhân quay ra, nhướng mày, cặp kính trễ xuống mũi:
- Daizo ư ? Ông ấy ở đằng kia, gần ngã ba, cách đây một quãng.
Vừa lúc ấy, một thằng bé ăn mặc ra dáng tiểu đồng bước vào. Chủ nhân vội nói:
- Này Isu, tráng sĩ muốn tìm Daizo tiên sinh, mày dẫn ông ấy đi chỉ nhà cho tường tận rồi về đây ta bảo.
Tiểu đồng đầu cạo trọc chỉ để lại túm tóc phía sau gáy, ra hiệu cho Musashi đi theo. Nghe chủ tiệm bào chế gọi Daizo bằng tiên sinh thì chắc lão hiệp này rất được dân địa phương kính nể, Musashi mừng thầm thấy công của mình không đến nỗi là công cốc. Đến ngã ba Yabuhara, thằng bé chỉ căn nhà phía trái bên kia đường và nói:
- Đấy, chỗ ấy.
Rồi tong tả quay gót.
Musashi ngạc nhiên. Ngôi nhà không có vẻ gì là một cửa hiệu có bán dược thảo. Mặt tiền, dài đến hai trượng, bốn dãy liếp gỗ mắt cáo che gần hết. Tường cao bao bọc hai gian nhà kho lớn, cổng ra vào bằng đá khá kiên cố, cửa lúc bấy giờ đang đóng kín. Hắn đến trước cổng, ngần ngừ một lát rồi vừa đằng hắng, vừa đẩy cửa vào, thấy mình đứng ngay trong một căn phòng rộng.
- Có ai trong nhà không ?
Phòng rộng nhưng vắng, sáng mờ mờ làm hắn liên tưởng đến một tiệm nấu rượu Sakê. Nền đất nện khiến không khí mát mẻ, dễ chịu khác thường.
Musashi đằng hắng nhắc lại câu hỏi. Đợi khá lâu mới thấy một người từ phòng trong bước ra. Phòng này trải chiếu, có lẽ là văn phòng. Người vừa bước ra hất hàm có ý hỏi. Musashi trình bày mục đích xong, ông ta chậc lưỡi, nói:
- Thì ra tráng sĩ đến vì thằng bé đấy !
Bèn mời vào, lấy thêm gối đặt lên chiếu để khách ngồi rồi tiếp:
- Tiếc quá, tráng sĩ đến hơi trễ. Thằng bé tới đây hồi nửa đêm, bấy giờ chúng tôi đang chuẩn bị hành trang để chủ nhân đi du ngoạn. Theo lời kể hình như nó đi cùng với một nữ lang, nửa đường bị cưỡng bức bắt đi. Nếu tên vô lại đó là thảo khấu hay cường đồ thì truy ra cũng dễ, nhưng đằng này không phải. Dường như cũng lại là một kẻ lữ hành khác không phải ở địa phương này.
Thấy thằng bé tứ cố vô thân lại tỏ ý sợ hãi, Daizo tiên sinh dẫn nó theo, may ra trên đường đi, tìm gặp được người mà nó gọi bằng cô, tên là ...tên là ...
- Otsu.
- Phải rồi ! Otsu ! Thằng bé ấy đối với tráng sĩ là thế nào ?
- Nó là học trò tại hạ.
- Thật tiếc ! Nếu tráng sĩ đến sớm chút nữa thì gặp. Daizo tiên sinh mới đi khoảng đầu giờ dần.
- Các hạ biết tiên sinh đi đâu không ?
- Khó mà biết được. Vì cửa hiệu chúng tôi không giống các hiệu khác nên chủ nhân ít khi ở nhà. Mỗi năm hai lần, vào mùa xuân hay mùa thu, những kẻ hái thuốc trên núi mới mang thuốc xuống giao để chúng tôi bào chế. Lúc ấy mới bận. Còn những tháng khác, Daizo tiên sinh thường đi du ngoạn các nơi, khi thì suối nước nóng, khi thì chùa miếu, chỗ nào cảnh đẹp lại dừng chân nghỉ vài ngày, có khi hàng tuần khó mà lường trước.
Lần này chắc tiên sinh đi thăm thiền viện Zenkoji rồi tiện đường đến Edo, nhưng đấy chỉ là dự đoán, chủ nhân chúng tôi không nói rõ đi đâu bao giờ. Tráng sĩ dùng trà ?
Musashi gật đầu cảm ơn. Người đàn ông mang trà ra, Musashi lại hỏi thêm về niên kỷ cùng vóc dáng Daizo.
- Ồ ! Tráng sĩ gặp chủ nhân tôi thì nhận ra ngay. Ông đã quã ngũ tuần nhưng còn khoẻ, dáng đẫy đà, da đỏ hồng và mặt có vài vết rỗ, thái dương bên phải tóc hoa râm hơi thưa ...
- Thế y phục ra sao ?
Người kia gật gù:
- Ờ ...ờ ...Tráng sĩ có hỏi mới nhớ. Lần này ông vận y phục đặc biệt:
kimono bằng vải sọc Trung quốc đặt mua ở Sakai riêng cho cuộc hành trình này. Mới nhập cảng, ít người biết, có khi chưa ai mặc cũng nên. Tráng sĩ thấy là nhận ra tức khắc.
Nghe mô tả, Musashi cũng mường tượng được phong cách của Daizo và có đôi chút khái niệm về nếp sống của ông. Hắn uống cạn chén trà, cảm ơn người làm công rồi ra khỏi hiệu.
Nắng chiều chênh chếch. Musashi tự nhủ cứ đà này thì không thể nào đuổi kịp Daizo trước khi trời tối nữa rồi, nhưng nếu đi tới khuya để sáng sớm hôm sau trèo lên đèo Shiojiri thì có thể đợi Daizo ở đó được.
Gần đến chân đèo, ánh tà dương đã tắt hẳn. Màn sương mỏng xanh phơn phớt đã bắt đầu phủ lên mặt lộ. Trong bóng núi đổi màu đen sẫm, đây đó vài đốm lửa tiều mới nhóm càng làm tăng vẻ cô tịch đìu hiu của vùng sơn dã.
Còn đến năm chục dặm đường nữa mới đến đèo, Musashi cứ lầm lũi đi, mặc cho bóng tối bao vây tứ phía. Đi đã lâu, xem chừng thấm mệt, gặp một tảng đá nhẵn, hắn ngồi xuống giở lương khô ra ăn rồi nằm nghỉ ngay trên tảng đá.
Gió mát hiu hiu, Musashi lâng lâng dõi theo những vì sao nhấp nhánh và ngủ quên lúc nào không biết.
Giấc ngủ của người kiếm khách Giang hồ say và lâu, mãi đến khi nghe những tiếng nói lào xào, hắn mới tỉnh.
Trời đã sáng rõ. Musashi nhỏm dậy nhìn quanh không thấy ai. Ngôi miếu nhỏ chênh vênh trên mỏm đá ở đỉnh đèo trông càng nhỏ giữa cảnh bao la của trời đất.
- Lên đây ! Lối này ! Tiếng đàn ông vọng lại. Ở đây trông thấy núi Phú Sĩ !
Musashi quay nhìn tứ phía. Quả nhiên, sau lưng hắn, lềnh bềnh trên một biển mây, ngọn Phú Sĩ uy nghi hồng rực phản chiếu ánh thái dương vừa hé. Núi cao và hùng vĩ, trên ngọn tuyết phủ trắng xóa, có giải mây năm sắc vắt ngang mang một vẻ đẹp huyền bí hắn chưa bao giờ thấy. Musashi kêu lên khoái trá. Từ nhỏ, được xem nhiều tranh vẽ cảnh Phú Sĩ sơn, hắn cũng có đôi chút ý niệm, nhưng đây là lần đầu tiên được thấy tận mắt ngọn danh sơn này. Và cảnh thật gợi trong lòng hắn nhiều hoài cảm bao la khiến hắn xúc động vô tả.
Từ sau trận chiến dưới gốc cổ tùng, đôi khi Musashi đã dám có ý tưởng cao ngạo trên đời này mấy ai đủ khả năng là đối thủ của hắn. Nhưng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, trước vẻ sáng lạn huy hoàng và bền vững của ngọn Phú Sĩ sơn, niềm ý thức sự nhỏ bé của mình và sự phù du của kiếp sống khiến hắn tự thẹn đã đặt quá nhiều quan trọng vào những võ công đạt được.
Thiên nhiên là cái thước để con người tự lượng. Hạt cát trên sông Hằng, thân phận con người là thế trong cái trình tự tạo hóa đã an bài, không cách gì thoát khỏi. Mặc cảm tự ti xâm chiếm lòng hắn, Musashi quỳ xuống chắp tay cúi đầu lâm râm khấn nguyện xin được tha thứ về những ý tưởng ngạo mạn của mình, đồng thời cầu cho vong hồn mẹ hắn an nghỉ đời đời, chị hắn, Otsu và Jotaro được an lành trong cuộc sống. Sau hết, lại xin tiền nhân phù hộ cho hắn đủ nghị lực làm rạng danh tổ quốc và dân tộc, dù công nghiệp ấy hắn không dám sánh cùng núi non hùng vĩ trước mặt.
Nhưng cầu nguyện xong, nhìn lưỡi gươm bên sườn, hắn lại có ý tưởng khác. Ừ, con người nhỏ bé thật, nhưng cái gì đã khiến cho con người ý thức được mình nhỏ bé ? Thiên nhiên chỉ cao cả qua nhãn tuyến của con người. Thần linh chỉ hiện hữu khi cảm thông được với người. Chính con người, sinh vật có tâm linh và ý thức chứ không phải gỗ đá vô tri, đã phát hiện ra sự cảm thông ấy. Cho nên con người nếu hợp nhất với thiên nhiên, không phân chia nhĩ, ngã, không phân biệt với ngoại cảnh, biết lấy cái tâm bình đẳng với vũ trụ, cái tâm chân như của nhà Phật để làm căn bản hành động, thì khó gì không thực hiện được những công nghiệp vĩ đại ? Và với thanh kiếm ba thước này, hắn đâu còn nhỏ bé so với ngọn Phú Sĩ sơn kia ...
Nghĩ đến đấy, Musashi khoan khoái lạ thường. Tuy cách xa trăm dặm, ngọn núi dường như gần gũi hơn, trên cùng một bình diện với hắn.
Tiếng chân người rộn rịp cùng với tiếng gọi nhau í ới càng lúc càng gần. Dưới chân đèo, khách hành hương, tay nải, vai gánh đã thấy đông.
Musashi nghĩ thầm “Sớm muộn gì Daizo cùng với Jotaro cũng qua đây, nếu lời dự đoán của người làm công là đúng. Có lẽ nên thảo vài chữ để lại chỗ này, may ra thằng bé để ý. Mình lên mỏm đá cao trên kia nhìn xuống bao quát được khoảng núi rộng hơn và thấy họ dễ hơn”. Bèn lấy miếng vải và bút mực trong bọc ra viết vội:
“Daizo tiên sinh nhã giám, vãn bối là sư phụ tiểu đồng cùng đi với tiên sinh. Rất mong gặp tiên sinh ở miếu trên đỉnh đèo, xin tiên sinh lưu ý”. Rồi buộc vào cành cây và rời khỏi tảng đá.
Đi được một quãng bỗng nghe phía dưới có người nói:
- Ở trên kia ! Hắn đấy !
Âm thanh quen thuộc lắm, gợi cho Musashi nhớ đến tiếng rít của cây gậy tre. Quả nhiên, giọng Gonnosuke tiếp ngay:
- Musashi ! Ngươi bỏ chạy không dám giao đấu với ta ! Hèn nhát !
Musashi quay lại. Đứng giữa hai tảng đá trên cao, hắn yên lặng nhìn xuống. Mẹ Gonnosuke cưỡi bò phía sau, cách xa con trai chừng hai trượng.
Thấy Musashi lặng thinh và không tỏ vẻ gì muốn giao đấu, Gonnosuke nói:
- Mẹ đợi đây ! Con lên bắt nó !
- Không được ! Tiếng bà cắt ngang. Lúc nào mày cũng hấp tấp, nóng nảy. Trước khi giao tranh phải dự đoán ý nghĩ của địch đã. Nó đứng trên cao lăn đá xuống trong khi mày trèo thì mày nghĩ sao ?
Hai mẹ con nói nhỏ với nhau, gió thổi tạt, Musashi nghe không rõ, nhưng về mặt chiến thuật, rõ ràng hắn đã chiếm thượng phong. Musashi không ngại giao đấu nhưng điều làm hắn khó xử là sự tháo gỡ mối oán giận của nhà này. Nếu Gonnosuke lại thua nữa, mối hiềm khích gia tăng và sẽ không bao giờ chấm dứt. Từ sau cuộc đụng độ với phái Yoshioka, Musashi đã ý thức sự điên rồ của những cuộc tranh chấp chỉ nhằm mục đích thù hận. Nhìn bà mẹ Gonnosuke, hắn liên tưởng tới cụ Osugi, một người đàn bà bướng bỉnh, yêu con và yêu đảng tộc đến thành mù quáng. Khẽ lắc đầu, hắn trở góc, tiếp tục trèo lên.
- Musashi đại hiệp !
Giọng bà mẹ Gonnosuke rõ ràng như có ý cầu khẩn. Musashi dừng bước, quay lại. Bà đã từ lưng bò tuột xuống, và trước sự kinh ngạc của hắn, bà quỳ xuống sụp lạy.
Bối rối, Musashi không biết xử sự ra sao. Trên cao, bên những hòn loạn Musashi ngổn ngang, hắn cố gắng đáp lễ, giơ tay như mời bà đứng dậy.
- Đại hiệp ! Già này thật lấy làm thẹn đã đuổi theo đại hiệp, xin đại hiệp thứ lỗi và đừng lầm là già ngoan cố. Hành động của già chẳng phải vì ác cảm hay oán thù, chỉ xin thương đứa con già, mười năm tự học không thầy, không bạn, không kinh nghiệm.
Xin đại hiệp dạy cho nó một bài học để soi sang đường nó đi ...
Musashi nghe, không thốt một lời. Giọng bà cụ trở nên xúc động:
- Đại hiệp bỏ đi, già ngạc nhiên quá. Kỹ thuật thằng Gonnosuke còn kém nhưng nó đã dày công khổ luyện. Nếu vì lý do gì nó chán nản không tập luyện thì già này phải chết không dám nhìn mặt tổ tiên nữa. Xin đại hiệp rủ lòng thương giáo huấn cho nó.
Nói đoạn, bà lại khấu đầu làm lễ.
Musashi vội vàng bước xuống cầm tay bà đỡ lên lưng bò rồi bảo Gonnosuke:
- Túc hạ dẫn bò cho lão bá. Tại hạ cần suy nghĩ. Nhận hay không sẽ trả lời túc hạ sau.
Hắn đi trước vài bước, và mặc dầu đã hứa trả lời, lúc lâu sau cũng chẳng thấy nói gì. Gonnosuke nhìn lưng Musashi, tay gã ngứa ngáy khó chịu, thỉnh thoảng lại cầm đầu dây thừng quất nhẹ vào chân bò một cái, ra vẻ bồn chồn lắm. Mẹ Gonnosuke có dáng tư lự.
Bỗng Musashi quay lại:
- Được rồi ! Tại hạ nhận.
Gonnosuke đứng khựng, tay nắm chặt côn tre hơn:
- Vậy ngươi đã sẵn sàng ?
Không để ý đến câu hỏi, Musashi nhìn bà mẹ:
- Trận đấu này quyết định sự sống chết của đôi bên, mặc dầu võ khí có khác. Xin lão bá chuẩn bị ...
Lần đầu tiên Musashi thấy bà lão mỉm cười:
- Già biết điều đó. Nếu con già thua trong tay đại hiệp, một người còn trẻ tuổi hơn hắn, thì hắn cũng nên bẻ côn mà quy ẩn. Vậy sống chết có gì khác đâu ? Và nếu chuyện đó xảy ra, già cũng không oán hận !
- Vậy được !
Musashi cúi nhặt đầu dây thừng, bảo với Gonnosuke:
- Ta chẳng nên tỷ thí ở đây, phiền người qua lại. Để buộc bò vào gốc cây rồi ra khu khoảng khoát đằng kia, túc hạ muốn giao đấu bao lâu tại hạ cũng bồi tiếp.
Khu khoảng khoát ở lưng chừng đồi, rải rác vài hòn đá tảng mặt đã nhẵn vì sương tuyết. Cả ba yên lặng đến đó. Tới nơi, Musashi là người đầu tiên lên tiếng:
- Chuẩn bị !
Không đợi nhắc lần thứ hai, Gonnosuke đã nhảy ra giữa bãi, côn tre cầm tay khoảng một phần chiều dài, đầu côn chỉ xuống đất. Musashi tay buông thõng, dáng tự nhiên, nhưng mắt long lanh như mắt vọ nhìn địch thủ.
- Sao ngươi không chuẩn bị ?
- Tại hạ đã sẵn sàng !
- Ngươi đấu tay không chăng ?
Musashi nhếch mép, tay trái đặt lên bao kiếm. Đã đến lúc hắn không muốn phí công lực vào lời nói.
Trong góc, mẹ Gonnosuke ngồi như tượng đá.
Hai địch thủ gờm nhau. Gonnosuke hơi gù, tấn đứng vững chãi, hít một hơi dài như gom khí lực của khắp cả miền đồi núi vào trong ***g ngực để cây gậy tre trong tay gã bung ra với tất cả sức mạnh mong muốn.
Musashi, tia mắt sắc như dao chuyển dần sang màu hổ phách, nhìn Gonnosuke tưởng xuyên thấu tim gan gã. Tia mắt ấy có ma lực ghê gớm. Phóng ra đúng lúc, nó có thể lũng đoạn tâm ý khiến địch thủ tổn thương còn hơn là đao kiếm. Trúng nhược điểm, nó là mũi dùi mở đường để lưỡi kiếm theo sau tàn phá. Chưa ai xuất thủ, nhưng trận chiến đã bắt đầu.
Bỗng mẹ Gonnosuke kêu lớn:
- Khoan !
Musashi tung mình nhảy về phía sau chừng một trượng.
- Đại hiệp sử võ khí gì ? Thiết kiếm hay mộc kiếm ?
- Thiết kiếm hay mộc kiếm không quan hệ, kiếm nào cũng vậy ?
- ... ?
- Kiếm, dù gỗ hay thép, là một tuyệt đối. Trong trận thư hùng như trận này, không có nửa chừng. Kẻ nào sợ thì chạy.
Bà lão im lặng rồi gật đầu:
- Phải lắm. Vậy hai bên hãy khai rõ danh tính và môn sư theo đúng nghi thức để khỏi phải hối tiếc về sau. Sợ khi giao đấu xong thì đã muộn ! Gonnosuke ! Ngươi hay khai trước.
Gonnosuke thu côn về, trịnh trọng cúi đầu trước địch thủ:
- Tiện danh là Gonnosuke, tổ phụ phụng thị dưới trướng tướng quân Yoshimida đất Kiso. Đời tiên phụ chẳng may bị vết nhơ, xin miễn khai rõ, gia đình phải bỏ đi lang bạt.
Tại hạ nguyện khôi phục lại danh dự cho tiền nhân nên đã khổ công tập luyện và khai triển một kỹ thuật về trúc côn, lại có ý định lập riêng môn phái.
Tại hạ đã sẵn sàng, xin lãnh giáo !
Musashi cúi đầu đáp lễ rồi cũng khai danh tính:
- Tiện danh là Miyamoto Musashi, sinh quán ở Miyamoto đất Harima. Tại hạ thụ huấn võ công đầu tiên của tiên phụ, sau tự học để lập chí theo kiếm đạo. Hiện không còn ai thân thích, nếu bị bại, xin đừng quan tâm đến di hài tại hạ.
Đoạn rút kiếm giơ ngang mày, lưỡi kiếm lóe sáng tựa hào quang. Mẹ Gonnosuke nín thở. Không như những bà mẹ khác, bà đã đi tìm và buộc đứa con còn lại độc nhất của mình, đối đầu với một mối nguy hiểm gã chưa bao giờ gặp. Để lấy kinh nghiệm. Để duy trì lòng tự tin. Và để khôi phục lại danh dự. Bà cho rằng đó là con đường phải đi và đó là cách duy nhất. Tất cả hoài vọng của bà đặt lên cánh tay đứa con ấy.
Ngồi trên góc đồi quạnh vắng, bà cầu nguyện không bằng lời mà bằng tất cả lòng tin tưởng vào thần Phật, thỉnh cầu các vị xuống hỗ trợ cho con bà chiến đấu.
Nhìn mũi kiếm của Musashi, Gonnosuke lạnh người. Musashi hôm nay không giống như Musashi gã thấy hai hôm trước.
Hai hôm trước, hắn lưu hoạt, uyển chuyển hơn nhiều trong dáng đi cũng như cách đứng. Tuy là đối thủ, hắn vẫn có vẻ cởi mở, thân thiết, ví như những nét chữ thảo với vẻ bay bướm, phóng dật. Bây giờ, Musashi nghiêm nghị đến khô khan. Mũi kiếm hắn chỉ về đằng trước như một nét chữ chân phương không mang cả đến sơ bút, tuồng như những thế kiếm sắp tung ra đã được chuẩn bị, cân nhắc kỹ càng, bất di bất dịch:
những nét chữ khắc vào đá.
Thái độ của Musashi khiến Gonnosuke phân vân. Gã chưa dám tấn công, cây côn tre vẫn ở thế chờ đợi.
Vạt sương cuối cùng buổi sáng vừa tan hết. Thình lình một tiếng “chát” ghê rợn xé bầu không khí tĩnh mịch. Bộ vị hai địch thủ đã thay đổi. Không ai biết rõ là tiếng gậy hay tiếng gươm vừa được phóng ra. Hư ảo như là tiếng vỗ của một bàn tay.
Gonnosuke vừa trượt đòn phạt ngang vai địch thủ mà chiêu kiếm của Musashi hớt xéo lên cũng hụt, cách thái dương gã đến non nửa tấc.
Musashi biến chiêu lập tức, lợi dụng uy lực của đường kiếm hụt, bổ xuống.
Chiêu này hắn đã ứng dụng trong trận đánh Yoshioka dưới gốc cổ tùng ngày nào, giết hại có đến chục đồ chúng. Nhưng Gonnosuke, bề ngoài thô kệch mà thật ra nhanh nhẹn dị thường. Gã tránh chiêu kiếm sát thủ ấy, hai tay đưa ngược cây côn tre lên đỡ, khuỷu tay phải cao hơn vai trái để cây côn tiếp xúc với lưỡi kiếm phần gần lá chắn cho giảm bớt sức mạnh của lưỡi kiếm chém xuống.
Kiếm và côn giao nhau trên đầu gã. Tình trạng không khác gì tình trạng hai bên khóa kiếm, một chút sai lầm có thể mất mạng trong nháy mắt. Nhưng côn khác kiếm.
Côn không lưỡi, không sống, không mũi, không chuôi, nhưng trong tay một hảo thủ như Gonnosuke, nó có đủ cả mọi đặc điểm ấy. Lại dài hơn kiếm, nó có thể dùng như một cây thương ngắn.
Musashi không dám thu kiếm về. Hắn chưa đoán được đòn kế tiếp của Gonnosuke nên phải vận toàn công lực đè lên võ khí của gã.
Phần Gonnosuke, gã ở trong tình trạng nguy khốn hơn. Đang giữ thế thủ, mọi sơ hở để cây gậy lệch đi, tất lưỡi kiếm chém xuống, chẻ đôi đầu. Mặt gã tái ngắt, hai hàm răng cắn chặt vào nhau làm cổ bạnh ra. Mồ hôi rỏ giọt lên những vết nhăn ở khóe mắt. Cây côn trên đầu đã hơi run và tiếng thở của gã đã nặng hơn trước.
Mẹ Gonnosuke hoảng sợ, sắc diện tái hơn sắc diện người con trai trong cuộc. Bà vươn cổ, mắt lồi khỏi tròng:
- Gonnosuke, hông mày cao quá !
Vừa kêu vừa vỗ vào hông trái, rồi như không chịu nổi sự căng thẳng tinh thần, bà ngã sấp.
Sau lời cảnh giác của bà mẹ, côn và kiếm rời nhau tức khắc, mạnh và nhanh không ai nhìn kịp. Chỉ thấy Musashi hơi lạng đi và tiếng Gonnosuke rống lên như bò bị chọc tiết. Rồi một thân người đổ xuống bất tỉnh.
Musashi giơ tay áo quệt mồ hôi. Hắn tra kiếm vào vỏ, đến bên mẹ Gonnosuke đỡ bà ngồi dậy. Mắt bà lão như lạc thần.
- Tại hạ chém đằng sống.
Musashi ôn tồn nói. Bà lão dường như không hiểu, ngước nét mặt đần độn lên nhìn hắn.
- Gonnosuke chắc chỉ bị thương xoàng, không can gì. Lão bá đến gọi cho tỉnh để tại hạ đi lấy nước.
Nghe Gonnosuke bị thương xoàng, bà ngạc nhiên. Lết đến gần, sờ tay con, mạch vẫn còn đập, áo không dính máu, bà mừng rỡ cuống quít vừa lay vừa gọi. Lát sau, Gonnosuke tỉnh dậy. Mắt lờ đờ, gã nhìn Musashi, lẩm bẩm:
- Tại hạ không phải đối thủ của đại hiệp. Đa tạ đã lưu tình ...
Musashi nắm tay Gonnosuke không đáp. Lát sau mới vạch áo ngoài, chỉ một vết đỏ bầm trên ngực mà nói:
- Nếu không nhanh mắt, tại hạ cũng ra người thiên cổ rồi.
Đoạn nhìn bà mẹ, hỏi:
- Sao lão bá biết mà cảnh giác Gonnosuke hắn đã để hông cao quá.
- Già không hiểu võ công, nhưng thấy nó dồn hết tâm lực vào việc giữ cho kiếm khỏi bổ xuống đầu thành ra không tiến thoái được. Nếu biết hạ thấp hông trái xuống một chút, lưỡi kiếm sẽ tuột đi theo chiều cây côn và đầu côn tự nhiên bung ra đập vào ngực đối thủ, già bèn bảo nó ...
Musashi gật đầu. Hắn đã học được một kinh nghiệm bổ ích. Trong cuộc viễn du vào biên giới của sự sống và chết vừa qua, lời cảnh giác của bà mẹ Gonnosuke hiển nhiên chẳng phải là một lời phù phiếm.
-
CHƯƠNG 55
LỜI CẢNH GIÁC CỦA MỘT NGƯỜI MẸ
- Con đã dùng những đòn đặc biệt, nhưng nó khoẻ và nhanh vô cùng. Sợ không làm gì được ...
Mẹ Gonnosuke cắt ngang:
- Nói nhỏ chứ ! Khua nó dậy đấy hả ? Mày thua nó chỉ vì sơ xuất. Từ trước mày chưa gặp đối thủ nào xứng đáng nên thiếu kinh nghiệm, bây giờ là lúc có cơ hội tốt để học hỏi ...
Bà nói dịu dàng nhưng cương quyết và khích lệ, nghe như lời răn bảo một đứa trẻ lên năm.
- Phải có ý chí và quyết tâm mới nên người được chứ ! Đừng để uổng công ta nuôi dạy.
Musashi tỉnh đã lâu. Những lời đối thoại của mẹ con gã nông phu ở phòng kế tuy nhỏ nhưng nghe khá rõ, làm hắn ngạc nhiên. Cuộc đụng độ tối qua tưởng như kết thúc, Musashi coi đó chỉ là một sự hiểu lầm giữa đôi bên, không ngờ có hậu quả nghiêm trọng trong gia đình này đến thế.
Một tiếng nấc nhỏ, cơ hồ gã nông phu không giữ được xúc động bật lên khóc. Rồi tiếng bà mẹ nghiêm nghị:
- Vô ích ! Khóc không giải quyết được gì cả. Hãy thách nó giao đấu lần nữa để giữ vững lòng tự tin. Ta xem đường côn của mày đâu đến nỗi ...
- Nhưng con không đủ sức. Xin mẹ tha thứ cho con, mẹ cho con bỏ võ công để làm một nông dân thường. Con cầm cuốc có lẽ còn có ích hơn cầm côn.
Musashi nhẹ nhàng tung chăn ngồi dậy, đến bên vách ghé mắt dòm qua khe cửa. Trời mới rạng đông, phòng còn tối nhưng hắn cũng thấy mẹ Gonnosuke ngồi trên chiếu đối diện với người con trai trước bàn thờ gia tiên. Tuy đã có tuổi, vậy mà lưng bà chưa còng và phong cách chững chạc trong thế ngồi rất nghiêm túc của bà chứng tỏ bà đã thừa hưởng một quá khứ vinh hiển từ một dòng họ hào hùng. Bất giác Musashi đem lòng kính nể và có hảo cảm với người đàn bà cương nghị ấy.
Gonnosuke vẫn mặc bộ y phục ngày hôm trước, vóc dáng to lớn thô kệch trái hẳn với thái độ khiêm cung của gã lúc bấy giờ.
Bà cụ sẵng giọng:
- Mày nói cái gì ? Muốn làm nghề nông cả đời hay sao ?
Gonnosuke lặng thinh, đầu cúi gục. Bà bèn nhích lại gần, kéo đầu con trai đặt vào lòng mình rồi nói bằng một giọng ôn tồn và âu yếm:
- Gonnosuke ! Ta cố gắng đến ngày nay là để mong con trở thành hào kiệt, khôi phục lại danh dự của cha ông. Con biết đấy, ta không nề khổ cực, sinh nhai đạm bạc cũng chỉ vì mục đích ấy. Bây giờ bỏ cả, như thế là thế nào ? Con không nghĩ gì đến công phu tập luyện hàng chục năm nay, không thương ta, không quan tâm đến dòng máu hiệp sĩ đất Kiso nữa hay sao ?
Nói xong, dường như không cầm được xúc cảm, bà khóc. Xúc cảm hay lây. Gonnosuke cũng chan chứa nước mắt.
- Sao bây giờ con khác trước ? Can đảm để đâu ?
Bà lau nước mắt:
- Nó còn ở phòng bên. Chừng nào nó tỉnh dậy, con hãy tìm cách khiêu khích nó để giao tranh lần nữa. Nếu con để mất lòng tự tin thì họ nhà ta coi như đến đây là tuyệt diệt.
Gonnosuke lắc đầu:
- Nó khôn ngoan lắm. Đêm qua đi thuyền trên mặt hồ, con đã rình cơ hội thuận tiện để tấn công nó nhưng không lúc nào nó lộ chút sơ hở. Nhiều lần con đã tự nhủ tên đó chỉ là một Ronin tầm thường, nhưng không hiểu sao con không dám ...
- Bởi ngươi hèn nhát, khiếp nhược. Bà gắt lên. Phải ngươi đã thề với ta sẽ lập một môn phái riêng để rạng danh tổ phụ không ? Ngươi quên rồi chăng ?
- Con không quên, nhưng sợ lúc đó con quá chủ quan, tin tưởng vào sức mình.
Chưa đủ chính chắn, làm sao dám lập môn phái ? Con trộm nghĩ thà bẻ côn đi cày con hơn để mẹ chịu cảnh cơ hàn trong lúc tuổi mẹ thì cao và sức khoẻ kém dần.
Bà cụ trừng mắt:
- Nói bậy ! Mày từ bỏ võ công để săn sóc ta không làm ta sung sướng gì hơn. Trước nay, mày chưa được dự trận nào quan trọng, mới thua một lần đã tỏ ra khiếp nhược. Ta không nói nữa. Gonnosuke ! Khi nó dậy, mày phải khiêu khích nó. Nếu lần này thua, bấy giờ gác côn cũng chưa muộn.
Musashi thong thả quay về chỗ nằm. Nếu gã nông phu khiêu khích, nhất định hắn không thể từ chối được, mà nếu hắn xuất thủ dù chỉ để tự vệ, hắn cũng sẽ thắng dễ dàng. Trận đánh này quyết định tương lai của Gonnosuke và tuổi thọ của bà lão, vì bất luận thế nào, cục diện cũng sẽ làm tinh thần bà chấn động, không chắc sống được.
Bình tĩnh thu nhặt hành trang, hắn yên lặng mở cửa lẻn ra ngoài.
Mặt trời mới rạng. Những ngọn bạch dương trồng trước trại ửng hồng như vừa được rắc phấn. Men theo vách nhà bếp, Musashi thấy con bò hắn thuê nằm thản nhiên, mắt lơ đãng nhìn ra xa, miệng nhóp nhép. Hắn đưa tay chào từ giã con vật, xuyên qua rặng bạch dương rồi rảo bước lẩn vào những bụi cây thấp ở ven rừng. Hôm ấy, núi Koma trông rõ mồn một từ chân cho đến đỉnh. Thỉnh thoảng mới có vài cụm mây hồng nhẹ nhàng trôi theo gió sáng.
“Jotaro còn nhỏ, Otsu thì yếu đuối. Không biết cả hai có gặp nguy hiểm gì không.
Nếu phen này không tìm ra tung tích thì âu cũng là Trời Phật đã an bài !”. Musashi tự nhủ thầm để tìm sự yên tĩnh. Sau biến cố ở thác Phu Phụ, mặc dầu đã giữ vững ý chí quyết tâm theo con đường kiếm thuật, tâm hồn hắn đôi khi vẫn bị xao động vì tình yêu và bổn phận. Trước gió sớm bay vừa, lòng hắn cũng xôn xao như những lá bạch dương, không kềm giữ nổi.
Đến Narai, trời đã quá trưa. Trấn Narai đương hồi thịnh. Có tiệm bán đồ da, trưng ra đủ thứ loại da thuộc và lông thú. Tiệm khác trang hoàng mỹ lệ chuyên về nghề làm lược, một đặc sản đất Kiso.
Thấy một cửa hàng treo bảng hiệu vẽ con gấu lớn với chữ đề to tướng “Đại Hùng Dược Phòng” và ngay cạnh cửa có cái cũi nhốt con gấu đen, Musashi bước vào.
Trong hiệu la liệt bảng gỗ nêu tên các vị thuốc đã được bào chế sẵn bằng mật gấu.
Mãi pha trà, chủ nhân không để ý, chỉ hỏi:
- Khách quan cần gì ?
- Xin lỗi, tại hạ muốn hỏi thăm một người tên Daizo, nghe nói chuyên buôn bán dược thảo ở trấn Narai này.
Chủ nhân quay ra, nhướng mày, cặp kính trễ xuống mũi:
- Daizo ư ? Ông ấy ở đằng kia, gần ngã ba, cách đây một quãng.
Vừa lúc ấy, một thằng bé ăn mặc ra dáng tiểu đồng bước vào. Chủ nhân vội nói:
- Này Isu, tráng sĩ muốn tìm Daizo tiên sinh, mày dẫn ông ấy đi chỉ nhà cho tường tận rồi về đây ta bảo.
Tiểu đồng đầu cạo trọc chỉ để lại túm tóc phía sau gáy, ra hiệu cho Musashi đi theo. Nghe chủ tiệm bào chế gọi Daizo bằng tiên sinh thì chắc lão hiệp này rất được dân địa phương kính nể, Musashi mừng thầm thấy công của mình không đến nỗi là công cốc. Đến ngã ba Yabuhara, thằng bé chỉ căn nhà phía trái bên kia đường và nói:
- Đấy, chỗ ấy.
Rồi tong tả quay gót.
Musashi ngạc nhiên. Ngôi nhà không có vẻ gì là một cửa hiệu có bán dược thảo. Mặt tiền, dài đến hai trượng, bốn dãy liếp gỗ mắt cáo che gần hết. Tường cao bao bọc hai gian nhà kho lớn, cổng ra vào bằng đá khá kiên cố, cửa lúc bấy giờ đang đóng kín. Hắn đến trước cổng, ngần ngừ một lát rồi vừa đằng hắng, vừa đẩy cửa vào, thấy mình đứng ngay trong một căn phòng rộng.
- Có ai trong nhà không ?
Phòng rộng nhưng vắng, sáng mờ mờ làm hắn liên tưởng đến một tiệm nấu rượu Sakê. Nền đất nện khiến không khí mát mẻ, dễ chịu khác thường.
Musashi đằng hắng nhắc lại câu hỏi. Đợi khá lâu mới thấy một người từ phòng trong bước ra. Phòng này trải chiếu, có lẽ là văn phòng. Người vừa bước ra hất hàm có ý hỏi. Musashi trình bày mục đích xong, ông ta chậc lưỡi, nói:
- Thì ra tráng sĩ đến vì thằng bé đấy !
Bèn mời vào, lấy thêm gối đặt lên chiếu để khách ngồi rồi tiếp:
- Tiếc quá, tráng sĩ đến hơi trễ. Thằng bé tới đây hồi nửa đêm, bấy giờ chúng tôi đang chuẩn bị hành trang để chủ nhân đi du ngoạn. Theo lời kể hình như nó đi cùng với một nữ lang, nửa đường bị cưỡng bức bắt đi. Nếu tên vô lại đó là thảo khấu hay cường đồ thì truy ra cũng dễ, nhưng đằng này không phải. Dường như cũng lại là một kẻ lữ hành khác không phải ở địa phương này.
Thấy thằng bé tứ cố vô thân lại tỏ ý sợ hãi, Daizo tiên sinh dẫn nó theo, may ra trên đường đi, tìm gặp được người mà nó gọi bằng cô, tên là ...tên là ...
- Otsu.
- Phải rồi ! Otsu ! Thằng bé ấy đối với tráng sĩ là thế nào ?
- Nó là học trò tại hạ.
- Thật tiếc ! Nếu tráng sĩ đến sớm chút nữa thì gặp. Daizo tiên sinh mới đi khoảng đầu giờ dần.
- Các hạ biết tiên sinh đi đâu không ?
- Khó mà biết được. Vì cửa hiệu chúng tôi không giống các hiệu khác nên chủ nhân ít khi ở nhà. Mỗi năm hai lần, vào mùa xuân hay mùa thu, những kẻ hái thuốc trên núi mới mang thuốc xuống giao để chúng tôi bào chế. Lúc ấy mới bận. Còn những tháng khác, Daizo tiên sinh thường đi du ngoạn các nơi, khi thì suối nước nóng, khi thì chùa miếu, chỗ nào cảnh đẹp lại dừng chân nghỉ vài ngày, có khi hàng tuần khó mà lường trước.
Lần này chắc tiên sinh đi thăm thiền viện Zenkoji rồi tiện đường đến Edo, nhưng đấy chỉ là dự đoán, chủ nhân chúng tôi không nói rõ đi đâu bao giờ. Tráng sĩ dùng trà ?
Musashi gật đầu cảm ơn. Người đàn ông mang trà ra, Musashi lại hỏi thêm về niên kỷ cùng vóc dáng Daizo.
- Ồ ! Tráng sĩ gặp chủ nhân tôi thì nhận ra ngay. Ông đã quã ngũ tuần nhưng còn khoẻ, dáng đẫy đà, da đỏ hồng và mặt có vài vết rỗ, thái dương bên phải tóc hoa râm hơi thưa ...
- Thế y phục ra sao ?
Người kia gật gù:
- Ờ ...ờ ...Tráng sĩ có hỏi mới nhớ. Lần này ông vận y phục đặc biệt:
kimono bằng vải sọc Trung quốc đặt mua ở Sakai riêng cho cuộc hành trình này. Mới nhập cảng, ít người biết, có khi chưa ai mặc cũng nên. Tráng sĩ thấy là nhận ra tức khắc.
Nghe mô tả, Musashi cũng mường tượng được phong cách của Daizo và có đôi chút khái niệm về nếp sống của ông. Hắn uống cạn chén trà, cảm ơn người làm công rồi ra khỏi hiệu.
Nắng chiều chênh chếch. Musashi tự nhủ cứ đà này thì không thể nào đuổi kịp Daizo trước khi trời tối nữa rồi, nhưng nếu đi tới khuya để sáng sớm hôm sau trèo lên đèo Shiojiri thì có thể đợi Daizo ở đó được.
Gần đến chân đèo, ánh tà dương đã tắt hẳn. Màn sương mỏng xanh phơn phớt đã bắt đầu phủ lên mặt lộ. Trong bóng núi đổi màu đen sẫm, đây đó vài đốm lửa tiều mới nhóm càng làm tăng vẻ cô tịch đìu hiu của vùng sơn dã.
Còn đến năm chục dặm đường nữa mới đến đèo, Musashi cứ lầm lũi đi, mặc cho bóng tối bao vây tứ phía. Đi đã lâu, xem chừng thấm mệt, gặp một tảng đá nhẵn, hắn ngồi xuống giở lương khô ra ăn rồi nằm nghỉ ngay trên tảng đá.
Gió mát hiu hiu, Musashi lâng lâng dõi theo những vì sao nhấp nhánh và ngủ quên lúc nào không biết.
Giấc ngủ của người kiếm khách Giang hồ say và lâu, mãi đến khi nghe những tiếng nói lào xào, hắn mới tỉnh.
Trời đã sáng rõ. Musashi nhỏm dậy nhìn quanh không thấy ai. Ngôi miếu nhỏ chênh vênh trên mỏm đá ở đỉnh đèo trông càng nhỏ giữa cảnh bao la của trời đất.
- Lên đây ! Lối này ! Tiếng đàn ông vọng lại. Ở đây trông thấy núi Phú Sĩ !
Musashi quay nhìn tứ phía. Quả nhiên, sau lưng hắn, lềnh bềnh trên một biển mây, ngọn Phú Sĩ uy nghi hồng rực phản chiếu ánh thái dương vừa hé. Núi cao và hùng vĩ, trên ngọn tuyết phủ trắng xóa, có giải mây năm sắc vắt ngang mang một vẻ đẹp huyền bí hắn chưa bao giờ thấy. Musashi kêu lên khoái trá. Từ nhỏ, được xem nhiều tranh vẽ cảnh Phú Sĩ sơn, hắn cũng có đôi chút ý niệm, nhưng đây là lần đầu tiên được thấy tận mắt ngọn danh sơn này. Và cảnh thật gợi trong lòng hắn nhiều hoài cảm bao la khiến hắn xúc động vô tả.
Từ sau trận chiến dưới gốc cổ tùng, đôi khi Musashi đã dám có ý tưởng cao ngạo trên đời này mấy ai đủ khả năng là đối thủ của hắn. Nhưng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, trước vẻ sáng lạn huy hoàng và bền vững của ngọn Phú Sĩ sơn, niềm ý thức sự nhỏ bé của mình và sự phù du của kiếp sống khiến hắn tự thẹn đã đặt quá nhiều quan trọng vào những võ công đạt được.
Thiên nhiên là cái thước để con người tự lượng. Hạt cát trên sông Hằng, thân phận con người là thế trong cái trình tự tạo hóa đã an bài, không cách gì thoát khỏi. Mặc cảm tự ti xâm chiếm lòng hắn, Musashi quỳ xuống chắp tay cúi đầu lâm râm khấn nguyện xin được tha thứ về những ý tưởng ngạo mạn của mình, đồng thời cầu cho vong hồn mẹ hắn an nghỉ đời đời, chị hắn, Otsu và Jotaro được an lành trong cuộc sống. Sau hết, lại xin tiền nhân phù hộ cho hắn đủ nghị lực làm rạng danh tổ quốc và dân tộc, dù công nghiệp ấy hắn không dám sánh cùng núi non hùng vĩ trước mặt.
Nhưng cầu nguyện xong, nhìn lưỡi gươm bên sườn, hắn lại có ý tưởng khác. Ừ, con người nhỏ bé thật, nhưng cái gì đã khiến cho con người ý thức được mình nhỏ bé ? Thiên nhiên chỉ cao cả qua nhãn tuyến của con người. Thần linh chỉ hiện hữu khi cảm thông được với người. Chính con người, sinh vật có tâm linh và ý thức chứ không phải gỗ đá vô tri, đã phát hiện ra sự cảm thông ấy. Cho nên con người nếu hợp nhất với thiên nhiên, không phân chia nhĩ, ngã, không phân biệt với ngoại cảnh, biết lấy cái tâm bình đẳng với vũ trụ, cái tâm chân như của nhà Phật để làm căn bản hành động, thì khó gì không thực hiện được những công nghiệp vĩ đại ? Và với thanh kiếm ba thước này, hắn đâu còn nhỏ bé so với ngọn Phú Sĩ sơn kia ...
Nghĩ đến đấy, Musashi khoan khoái lạ thường. Tuy cách xa trăm dặm, ngọn núi dường như gần gũi hơn, trên cùng một bình diện với hắn.
Tiếng chân người rộn rịp cùng với tiếng gọi nhau í ới càng lúc càng gần. Dưới chân đèo, khách hành hương, tay nải, vai gánh đã thấy đông.
Musashi nghĩ thầm “Sớm muộn gì Daizo cùng với Jotaro cũng qua đây, nếu lời dự đoán của người làm công là đúng. Có lẽ nên thảo vài chữ để lại chỗ này, may ra thằng bé để ý. Mình lên mỏm đá cao trên kia nhìn xuống bao quát được khoảng núi rộng hơn và thấy họ dễ hơn”. Bèn lấy miếng vải và bút mực trong bọc ra viết vội:
“Daizo tiên sinh nhã giám, vãn bối là sư phụ tiểu đồng cùng đi với tiên sinh. Rất mong gặp tiên sinh ở miếu trên đỉnh đèo, xin tiên sinh lưu ý”. Rồi buộc vào cành cây và rời khỏi tảng đá.
Đi được một quãng bỗng nghe phía dưới có người nói:
- Ở trên kia ! Hắn đấy !
Âm thanh quen thuộc lắm, gợi cho Musashi nhớ đến tiếng rít của cây gậy tre. Quả nhiên, giọng Gonnosuke tiếp ngay:
- Musashi ! Ngươi bỏ chạy không dám giao đấu với ta ! Hèn nhát !
Musashi quay lại. Đứng giữa hai tảng đá trên cao, hắn yên lặng nhìn xuống. Mẹ Gonnosuke cưỡi bò phía sau, cách xa con trai chừng hai trượng.
Thấy Musashi lặng thinh và không tỏ vẻ gì muốn giao đấu, Gonnosuke nói:
- Mẹ đợi đây ! Con lên bắt nó !
- Không được ! Tiếng bà cắt ngang. Lúc nào mày cũng hấp tấp, nóng nảy. Trước khi giao tranh phải dự đoán ý nghĩ của địch đã. Nó đứng trên cao lăn đá xuống trong khi mày trèo thì mày nghĩ sao ?
Hai mẹ con nói nhỏ với nhau, gió thổi tạt, Musashi nghe không rõ, nhưng về mặt chiến thuật, rõ ràng hắn đã chiếm thượng phong. Musashi không ngại giao đấu nhưng điều làm hắn khó xử là sự tháo gỡ mối oán giận của nhà này. Nếu Gonnosuke lại thua nữa, mối hiềm khích gia tăng và sẽ không bao giờ chấm dứt. Từ sau cuộc đụng độ với phái Yoshioka, Musashi đã ý thức sự điên rồ của những cuộc tranh chấp chỉ nhằm mục đích thù hận. Nhìn bà mẹ Gonnosuke, hắn liên tưởng tới cụ Osugi, một người đàn bà bướng bỉnh, yêu con và yêu đảng tộc đến thành mù quáng. Khẽ lắc đầu, hắn trở góc, tiếp tục trèo lên.
- Musashi đại hiệp !
Giọng bà mẹ Gonnosuke rõ ràng như có ý cầu khẩn. Musashi dừng bước, quay lại. Bà đã từ lưng bò tuột xuống, và trước sự kinh ngạc của hắn, bà quỳ xuống sụp lạy.
Bối rối, Musashi không biết xử sự ra sao. Trên cao, bên những hòn loạn Musashi ngổn ngang, hắn cố gắng đáp lễ, giơ tay như mời bà đứng dậy.
- Đại hiệp ! Già này thật lấy làm thẹn đã đuổi theo đại hiệp, xin đại hiệp thứ lỗi và đừng lầm là già ngoan cố. Hành động của già chẳng phải vì ác cảm hay oán thù, chỉ xin thương đứa con già, mười năm tự học không thầy, không bạn, không kinh nghiệm.
Xin đại hiệp dạy cho nó một bài học để soi sang đường nó đi ...
Musashi nghe, không thốt một lời. Giọng bà cụ trở nên xúc động:
- Đại hiệp bỏ đi, già ngạc nhiên quá. Kỹ thuật thằng Gonnosuke còn kém nhưng nó đã dày công khổ luyện. Nếu vì lý do gì nó chán nản không tập luyện thì già này phải chết không dám nhìn mặt tổ tiên nữa. Xin đại hiệp rủ lòng thương giáo huấn cho nó.
Nói đoạn, bà lại khấu đầu làm lễ.
Musashi vội vàng bước xuống cầm tay bà đỡ lên lưng bò rồi bảo Gonnosuke:
- Túc hạ dẫn bò cho lão bá. Tại hạ cần suy nghĩ. Nhận hay không sẽ trả lời túc hạ sau.
Hắn đi trước vài bước, và mặc dầu đã hứa trả lời, lúc lâu sau cũng chẳng thấy nói gì. Gonnosuke nhìn lưng Musashi, tay gã ngứa ngáy khó chịu, thỉnh thoảng lại cầm đầu dây thừng quất nhẹ vào chân bò một cái, ra vẻ bồn chồn lắm. Mẹ Gonnosuke có dáng tư lự.
Bỗng Musashi quay lại:
- Được rồi ! Tại hạ nhận.
Gonnosuke đứng khựng, tay nắm chặt côn tre hơn:
- Vậy ngươi đã sẵn sàng ?
Không để ý đến câu hỏi, Musashi nhìn bà mẹ:
- Trận đấu này quyết định sự sống chết của đôi bên, mặc dầu võ khí có khác. Xin lão bá chuẩn bị ...
Lần đầu tiên Musashi thấy bà lão mỉm cười:
- Già biết điều đó. Nếu con già thua trong tay đại hiệp, một người còn trẻ tuổi hơn hắn, thì hắn cũng nên bẻ côn mà quy ẩn. Vậy sống chết có gì khác đâu ? Và nếu chuyện đó xảy ra, già cũng không oán hận !
- Vậy được !
Musashi cúi nhặt đầu dây thừng, bảo với Gonnosuke:
- Ta chẳng nên tỷ thí ở đây, phiền người qua lại. Để buộc bò vào gốc cây rồi ra khu khoảng khoát đằng kia, túc hạ muốn giao đấu bao lâu tại hạ cũng bồi tiếp.
Khu khoảng khoát ở lưng chừng đồi, rải rác vài hòn đá tảng mặt đã nhẵn vì sương tuyết. Cả ba yên lặng đến đó. Tới nơi, Musashi là người đầu tiên lên tiếng:
- Chuẩn bị !
Không đợi nhắc lần thứ hai, Gonnosuke đã nhảy ra giữa bãi, côn tre cầm tay khoảng một phần chiều dài, đầu côn chỉ xuống đất. Musashi tay buông thõng, dáng tự nhiên, nhưng mắt long lanh như mắt vọ nhìn địch thủ.
- Sao ngươi không chuẩn bị ?
- Tại hạ đã sẵn sàng !
- Ngươi đấu tay không chăng ?
Musashi nhếch mép, tay trái đặt lên bao kiếm. Đã đến lúc hắn không muốn phí công lực vào lời nói.
Trong góc, mẹ Gonnosuke ngồi như tượng đá.
Hai địch thủ gờm nhau. Gonnosuke hơi gù, tấn đứng vững chãi, hít một hơi dài như gom khí lực của khắp cả miền đồi núi vào trong ***g ngực để cây gậy tre trong tay gã bung ra với tất cả sức mạnh mong muốn.
Musashi, tia mắt sắc như dao chuyển dần sang màu hổ phách, nhìn Gonnosuke tưởng xuyên thấu tim gan gã. Tia mắt ấy có ma lực ghê gớm. Phóng ra đúng lúc, nó có thể lũng đoạn tâm ý khiến địch thủ tổn thương còn hơn là đao kiếm. Trúng nhược điểm, nó là mũi dùi mở đường để lưỡi kiếm theo sau tàn phá. Chưa ai xuất thủ, nhưng trận chiến đã bắt đầu.
Bỗng mẹ Gonnosuke kêu lớn:
- Khoan !
Musashi tung mình nhảy về phía sau chừng một trượng.
- Đại hiệp sử võ khí gì ? Thiết kiếm hay mộc kiếm ?
- Thiết kiếm hay mộc kiếm không quan hệ, kiếm nào cũng vậy ?
- ... ?
- Kiếm, dù gỗ hay thép, là một tuyệt đối. Trong trận thư hùng như trận này, không có nửa chừng. Kẻ nào sợ thì chạy.
Bà lão im lặng rồi gật đầu:
- Phải lắm. Vậy hai bên hãy khai rõ danh tính và môn sư theo đúng nghi thức để khỏi phải hối tiếc về sau. Sợ khi giao đấu xong thì đã muộn ! Gonnosuke ! Ngươi hay khai trước.
Gonnosuke thu côn về, trịnh trọng cúi đầu trước địch thủ:
- Tiện danh là Gonnosuke, tổ phụ phụng thị dưới trướng tướng quân Yoshimida đất Kiso. Đời tiên phụ chẳng may bị vết nhơ, xin miễn khai rõ, gia đình phải bỏ đi lang bạt.
Tại hạ nguyện khôi phục lại danh dự cho tiền nhân nên đã khổ công tập luyện và khai triển một kỹ thuật về trúc côn, lại có ý định lập riêng môn phái.
Tại hạ đã sẵn sàng, xin lãnh giáo !
Musashi cúi đầu đáp lễ rồi cũng khai danh tính:
- Tiện danh là Miyamoto Musashi, sinh quán ở Miyamoto đất Harima. Tại hạ thụ huấn võ công đầu tiên của tiên phụ, sau tự học để lập chí theo kiếm đạo. Hiện không còn ai thân thích, nếu bị bại, xin đừng quan tâm đến di hài tại hạ.
Đoạn rút kiếm giơ ngang mày, lưỡi kiếm lóe sáng tựa hào quang. Mẹ Gonnosuke nín thở. Không như những bà mẹ khác, bà đã đi tìm và buộc đứa con còn lại độc nhất của mình, đối đầu với một mối nguy hiểm gã chưa bao giờ gặp. Để lấy kinh nghiệm. Để duy trì lòng tự tin. Và để khôi phục lại danh dự. Bà cho rằng đó là con đường phải đi và đó là cách duy nhất. Tất cả hoài vọng của bà đặt lên cánh tay đứa con ấy.
Ngồi trên góc đồi quạnh vắng, bà cầu nguyện không bằng lời mà bằng tất cả lòng tin tưởng vào thần Phật, thỉnh cầu các vị xuống hỗ trợ cho con bà chiến đấu.
Nhìn mũi kiếm của Musashi, Gonnosuke lạnh người. Musashi hôm nay không giống như Musashi gã thấy hai hôm trước.
Hai hôm trước, hắn lưu hoạt, uyển chuyển hơn nhiều trong dáng đi cũng như cách đứng. Tuy là đối thủ, hắn vẫn có vẻ cởi mở, thân thiết, ví như những nét chữ thảo với vẻ bay bướm, phóng dật. Bây giờ, Musashi nghiêm nghị đến khô khan. Mũi kiếm hắn chỉ về đằng trước như một nét chữ chân phương không mang cả đến sơ bút, tuồng như những thế kiếm sắp tung ra đã được chuẩn bị, cân nhắc kỹ càng, bất di bất dịch:
những nét chữ khắc vào đá.
Thái độ của Musashi khiến Gonnosuke phân vân. Gã chưa dám tấn công, cây côn tre vẫn ở thế chờ đợi.
Vạt sương cuối cùng buổi sáng vừa tan hết. Thình lình một tiếng “chát” ghê rợn xé bầu không khí tĩnh mịch. Bộ vị hai địch thủ đã thay đổi. Không ai biết rõ là tiếng gậy hay tiếng gươm vừa được phóng ra. Hư ảo như là tiếng vỗ của một bàn tay.
Gonnosuke vừa trượt đòn phạt ngang vai địch thủ mà chiêu kiếm của Musashi hớt xéo lên cũng hụt, cách thái dương gã đến non nửa tấc.
Musashi biến chiêu lập tức, lợi dụng uy lực của đường kiếm hụt, bổ xuống.
Chiêu này hắn đã ứng dụng trong trận đánh Yoshioka dưới gốc cổ tùng ngày nào, giết hại có đến chục đồ chúng. Nhưng Gonnosuke, bề ngoài thô kệch mà thật ra nhanh nhẹn dị thường. Gã tránh chiêu kiếm sát thủ ấy, hai tay đưa ngược cây côn tre lên đỡ, khuỷu tay phải cao hơn vai trái để cây côn tiếp xúc với lưỡi kiếm phần gần lá chắn cho giảm bớt sức mạnh của lưỡi kiếm chém xuống.
Kiếm và côn giao nhau trên đầu gã. Tình trạng không khác gì tình trạng hai bên khóa kiếm, một chút sai lầm có thể mất mạng trong nháy mắt. Nhưng côn khác kiếm.
Côn không lưỡi, không sống, không mũi, không chuôi, nhưng trong tay một hảo thủ như Gonnosuke, nó có đủ cả mọi đặc điểm ấy. Lại dài hơn kiếm, nó có thể dùng như một cây thương ngắn.
Musashi không dám thu kiếm về. Hắn chưa đoán được đòn kế tiếp của Gonnosuke nên phải vận toàn công lực đè lên võ khí của gã.
Phần Gonnosuke, gã ở trong tình trạng nguy khốn hơn. Đang giữ thế thủ, mọi sơ hở để cây gậy lệch đi, tất lưỡi kiếm chém xuống, chẻ đôi đầu. Mặt gã tái ngắt, hai hàm răng cắn chặt vào nhau làm cổ bạnh ra. Mồ hôi rỏ giọt lên những vết nhăn ở khóe mắt. Cây côn trên đầu đã hơi run và tiếng thở của gã đã nặng hơn trước.
Mẹ Gonnosuke hoảng sợ, sắc diện tái hơn sắc diện người con trai trong cuộc. Bà vươn cổ, mắt lồi khỏi tròng:
- Gonnosuke, hông mày cao quá !
Vừa kêu vừa vỗ vào hông trái, rồi như không chịu nổi sự căng thẳng tinh thần, bà ngã sấp.
Sau lời cảnh giác của bà mẹ, côn và kiếm rời nhau tức khắc, mạnh và nhanh không ai nhìn kịp. Chỉ thấy Musashi hơi lạng đi và tiếng Gonnosuke rống lên như bò bị chọc tiết. Rồi một thân người đổ xuống bất tỉnh.
Musashi giơ tay áo quệt mồ hôi. Hắn tra kiếm vào vỏ, đến bên mẹ Gonnosuke đỡ bà ngồi dậy. Mắt bà lão như lạc thần.
- Tại hạ chém đằng sống.
Musashi ôn tồn nói. Bà lão dường như không hiểu, ngước nét mặt đần độn lên nhìn hắn.
- Gonnosuke chắc chỉ bị thương xoàng, không can gì. Lão bá đến gọi cho tỉnh để tại hạ đi lấy nước.
Nghe Gonnosuke bị thương xoàng, bà ngạc nhiên. Lết đến gần, sờ tay con, mạch vẫn còn đập, áo không dính máu, bà mừng rỡ cuống quít vừa lay vừa gọi. Lát sau, Gonnosuke tỉnh dậy. Mắt lờ đờ, gã nhìn Musashi, lẩm bẩm:
- Tại hạ không phải đối thủ của đại hiệp. Đa tạ đã lưu tình ...
Musashi nắm tay Gonnosuke không đáp. Lát sau mới vạch áo ngoài, chỉ một vết đỏ bầm trên ngực mà nói:
- Nếu không nhanh mắt, tại hạ cũng ra người thiên cổ rồi.
Đoạn nhìn bà mẹ, hỏi:
- Sao lão bá biết mà cảnh giác Gonnosuke hắn đã để hông cao quá.
- Già không hiểu võ công, nhưng thấy nó dồn hết tâm lực vào việc giữ cho kiếm khỏi bổ xuống đầu thành ra không tiến thoái được. Nếu biết hạ thấp hông trái xuống một chút, lưỡi kiếm sẽ tuột đi theo chiều cây côn và đầu côn tự nhiên bung ra đập vào ngực đối thủ, già bèn bảo nó ...
Musashi gật đầu. Hắn đã học được một kinh nghiệm bổ ích. Trong cuộc viễn du vào biên giới của sự sống và chết vừa qua, lời cảnh giác của bà mẹ Gonnosuke hiển nhiên chẳng phải là một lời phù phiếm.
CHƯƠNG 56
CUỘC GẶP GỠ TÌNH CỜ
Vết thương ở ngực Musashi bây giờ tím bầm, tay hắn cử động hơi khó.
Vận khí thấy huyết mạch vẫn điều hoà, hắn không quan tâm lắm, nhưng không muốn la cà ở dọc đường hỏi tin tức về Jotaro và Otsu nữa mà đổi ý theo hướng đông rẽ sang quan lộ đi Shimosawa. Ở đấy, nếu vết thương có biến chứng gì cũng dễ trị.
Shimosawa là một trấn lớn bên bờ hồ Suwa, dân cư khá đông, nổi tiếng về suối nước nóng và những nhà tắm hơi công cộng. Các gia đình quyền quý và thương gia giàu có dựng nhà nghỉ mát kể có hàng ngàn. Tại các lữ điếm dành cho phái quý tộc, phòng tắm hơi đều có mái che, còn ở những nhà tắm công cộng để giới bình dân dùng thì chỉ là vài cái bồn gỗ quây sơ sài trong một khu lộ thiên gần suối.
Musashi dừng chân trước một trong những nhà tắm công cộng ấy, cởi trang phục máng lên cành cây rồi bước vào bồn nước. Gối đầu lên phiến đá, ngâm mình trong bồn nước ấm hơi nóng bốc mù mịt, hắn thấy sảng khoái vô cùng. Bao nhiêu mệt mỏi dường như theo hơi nước tiêu tan đi mất cả. Hắn đưa tay xoa nhẹ vết thương, cảm thấy dễ chịu, lim dim mắt nhìn ra bên ngoài rào gỗ.
Trời đã xế chiều. Mặt hồ Suwa phẳng lặng phản chiếu ánh hoàng hôn hồng nhạt qua những căn lều thưa thớt của xóm dân chài. Trong thửa vườn nhỏ, rộng mỗi bề chừng chục thước, một người đàn bà lúi húi tưới rau. Gần đấy là ngôi hàng xén bán dầu đèn cùng vài thứ cần dùng khác cho khách. Trước hiên, một người đàn ông trung niên vận trang phục lữ hành ngồi trên ghế đẩu đang thử đôi dép cỏ. Khách vừa thử vừa hỏi chủ quán:
- Ông chủ thấy có ai tên Musashi đi qua đây không ?
Chủ quán lắc đầu. Khách lại tiếp:
- Hắn có bản lĩnh ghê hồn, dám một mình một kiếm giao chiến với cả trăm người phái Yoshioka mà không ai làm gì được. Đảm lược ấy ngày nay không mấy ai có.
- Lão không nghe nói. Thế hắn chừng bao nhiêu tuổi, ăn mặc ra sao ?
Khách không đáp, xem ra cũng chẳng rõ gì hơn ngoài cái tên Musashi vừa thốt, chỉ yên lặng lúi húi buộc quai dép, trả tiền rồi đứng dậy lẩm bẩm:
- Thế nào cũng phải tìm hắn cho bằng được.
Musashi nheo mắt nhìn. Khách lạ vào trạc tứ tuần, da nâu vì sương nắng, tóc hai bên thái dương lốm đốm bạc, nét mặt phong sương và cương nghị. Y phục bằng vải tốt và thanh kiếm đeo bên hông chuôi nhẵn bóng. Hắn đoán người đó phải là một kiếm sĩ có địa vị và từng trải, đã xông pha nhiều trận.
“Không lẽ lại là đệ tử Yoshioka ?”. Musashi nghĩ thầm nhưng vội gạt ngay ý nghĩ ấy, vì nếu là đệ tử Yoshioka thì tất biết rõ tầm vóc, tuổi tác hắn. Vả nghe giọng nói, không thấy vó vẻ gì hằn học hay thù hận. “Nhưng là ai, không hiểu tại sao lại tìm mình ?
Lạ quá !”.
Chờ cho khách đi khỏi, Musashi mới bước ra ngoài bồn tắm. Với quần áo mặc vào, trả tiền xong, hắn ung dung đi ra đường lớn, trong lòng vẫn không khỏi thắc mắc về danh tính và mục đích của kẻ đó. Như một khách thừa lương, hắn bước thong thả, cẩn trọng trông chừng từng bụi cây và các chỗ khuất.
Được quãng xa, đến một khúc quanh, bất ngờ lại gặp chính ngay người khách lạ mặt ấy. Dưới chiếc nón nan, đôi mắt khách sắc như dao liếc nhanh về phía hắn.
Musashi tảng lờ như không biết, cứ tiếp tục đi. Người kia đến gần, hỏi:
- Tráng sĩ phải chăng là Miyamoto Musashi ?
Musashi khẽ gật và kín đáo đề phòng.
Người kia tỏ vẻ mừng rỡ:
- Quả không lầm ! Thật là hạnh ngộ !
- Tôn ông là ai ? Theo tại hạ có việc gì ?
Musashi hỏi.
- Xin tráng sĩ tha lỗi đường đột. Tiện danh là Ishimoda Geki, thủ túc thân tín của tướng công Date Masamune đất Mutsu. Tại hạ có ý tìm tráng sĩ từ lâu ...
- Rất hân hạnh. Nhưng tìm tiểu nhân có việc gì ?
- Đứng đây nói chuyện không tiện, xin mời tráng sĩ tới lữ quán dùng cơm chiều, tại hạ sẽ trình rõ.
Musashi do dự, ý muốn từ chối. Ishimoda Geki lại tiếp:
- Buổi sơ kiến mà xử sự như thế này thật vô phép, xin tráng sĩ đừng nghi kỵ. Tại hạ chính là người có vị thế lớn dưới trướng Masamune tướng công, bổng lộc trên vạn giạ lúa, giannhân hàng chục người, ngựa tốt trăm con. Vì ngưỡng mộ tài năng của tráng sĩ mà đi tìm chứ không có ý gì khác. Xin chớ phụ lòng.
Trước thái độ vồn vã ân cần của khách lại, Musashi không tiện thoái thác, Geki bèn níu áo lôi đi.
Đến chỗ trọ, không ngờ là một lữ điếm sang trọng vào bậc nhất trấn Shimosawa, tì nữ ra đón vào, cầm đèn ***g hướng dẫn qua một lối đi riêng giữa hai hàng tùng xanh trúc biếc. Musashi lại càng không đoán được lý do nào mà một kiếm sĩ có địa vị như thế lại cất công đặc biệt tìm mình.
Thị tỳ mang áo mới đến, thứ áo mềm lót bông để khách dùng trong nhà, đặt trên hai cái khay sơn then khảm xà cừ và nạm bạc. Ishimoda Geki cầm áo nói:
- Đường xa bụi bặm, tại hạ mạn phép vào phòng tắm một lát. Mời tráng sĩ cùng vào một thể.
- Xin cứ tự nhiên, tiểu nhân vừa tắm rồi.
Geki không ép, đi vào nhà trong, đồng thời sai nữ tỳ mang rượu tới. Musashi bước ra hiên. Thị trấn đã lên đèn, tiếng ồn ào cũng giảm bớt. Xa xa, nước hồ đổi từ màu chàm sang màu đen sẫm khiến hắn liên tưởng tới màu mắt đen của Otsu lo lắng nhìn hắn đêm nào dưới ánh trăng trên triền núi. Áy náy và hối hận tràn ngập trong lòng, Musashi tự hỏi không biết giờ này Otsu ở đâu, an nguy ra sao và tự trách mình đã bỏ phí thì giờ đến một chỗ không cần thiết. “Kẻ nào bắt cóc Otsu tất không đời nào dẫn qua một nơi đông đúc như thế này !”. Tưởng tượng nghe tiếng Otsu kêu cầu cứu đâu đây, lòng hắn bồn chồn như lửa đốt.
Geki tắm xong đã trở lại phòng khách. Thấy bộ áo của lữ quán vẫn còn nguyên để trên khay, Geki ngạc nhiên hỏi:
- Tráng sĩ không thay áo ?
- Tiểu nhân mặc thế này cũng đủ. Trong nhà, ngoài đường hay bất kỳ lúc nào, tiểu nhân cũng mặc thế này. Âu là thói quen, vả mặt thế này thoải mái hơn, xin miễn thứ.
Đoạn mỉm cười ra chiều xin lỗi. Ishimoda Geki gật gù:
- Chắc tráng sĩ muốn luôn luôn sẵn sàng. Masamune tướng công thấy thế hẳn phải vừa lòng lắm !
Musashi nhướng mày ra ý hỏi, nhưng Geki chỉ cười, cầm chén tráng vào bát nước nóng để bên rồi thân hành rót rượu mời.
Musashi từ tạ mà nói:
- Buổi đầu gặp gỡ, tiểu nhân được tôn ông quá biệt đãi, dành cho nhiều cảm tình như thế này, không hiểu vì lý do gì, nên thắc mắc mà không dám nhận.
Geki cười ha hả, cầm chén rượu uống cạn:
- Tráng sĩ ngạc nhiên là phải. Nhưng có gì đâu ! Lý do cũng dễ hiểu. Tại hạ bị ma lực của tráng sĩ quyến rũ đấy !
Nói xong lại cười khiến Musashi cũng cười theo, nhưng sau những tiếng cười ấy, mỗi người có một ý tưởng khác.
Geki chưa biết rõ Musashi, chưa dám bộc lộ tâm tình nên nghĩ rằng giải thích như vậy cũng đủ. Trái lại, lời giải thích của Geki càng làm Musashi hoang mang hơn. Hắn còn trẻ, bản tính chân thật, chưa từng trải bao nhiêu trong sự giao tiếp với xã hội, nên không bao giờ tưởng rằng một người đàn ông lại có thể bị quyến rũ bởi một người đàn ông khác. Riêng hắn, không bao giờ hắn cảm thấy như thế cả. Takuan nhiều lúc đùa cợt nhưng những lời ông nói hàm ý tứ sâu xa, hắn coi như bậc thày.
Koetsu sống ở một thế giới khác. Yagyu lão nhân thì đã rút khỏi vòng hệ lụy của nhân sinh, ngưỡng mộ hay không ngưỡng mộ Ông nào có khác gì ? Có lẽ Geki nói như thế chỉ có mục đích tâng bốc. Nhưng Musashi nhìn mắt người đối thoại, thấy không phải là một kẻ xiểm nịnh tầm thường, bèn hỏi thẳng:
- Tôn ông nói bị ma lực của tiểu nhân quyến rũ là thế nào ?
Geki thôi không cười nữa, nghiêm trang đáp:
- Có lẽ vì diễn không hết ý hoặc dùng chữ sai nên tráng sĩ không hiểu rõ. Tại hạ chỉ muốn nói từ khi được nghe đại danh sau trận hỗn đấu trên đồi Sinh Minh, và được diện kiến, tại hạ hết sức cảm phục và đem lòng yêu mến chẳng khác nào bị mê hoặc.
Musashi đỏ mặt gạt đi:
- Tôn ông quá khen, tiểu nhân quả không xứng đáng. Nhưng sao tôn ông biết tiểu nhân đi đường này ?
- Tại hạ có xem mảnh vải yết thị treo trên cây của tráng sĩ.
- À ra thế !
Thật trớ trêu ! Mảnh vải viết để tìm một người thì một người khác lại tìm đến.
Chẳng hiểu rồi ra có liên quan gì đến những việc sau này không. Con tạo có những xếp đặt bất ngờ thật !
Geki lại tự tay rót rượu mời Musashi.
- Anh em bốn bể một nhà, huống chi chúng ta đều trong võ lâm cả. Xin tráng sĩ chớ làm khách, hãy nhận chén rượu này, tại hạ thành thật mong được tráng sĩ coi là bạn.
Musashi cầm chén rượu nâng ngang mày rồi vui vẻ uống cạn.
- Lúc nãy tại hạ đã tự giới thiệu là thủ túc của Date Masamune tướng quân, chắc tráng sĩ chỉ mới nghe danh chứ chưa rõ nhiều về ngài, vậy xin nói rõ.
Masamune tướng công là vị sứ quân đứng đầu một lãnh địa đang hồi phong thịnh lại rất hào phóng. Vùng đất Mutsu phương bắc rộng tới vạn mẫu, bổng lộc hàng năm kể mấy triệu gia. lúa, dưới trướng không biết bao nhiêu là kiếm sĩ nhưng xét cho kỹ, chẳng mấy ai được như tráng sĩ. Tráng sĩ còn trẻ, nếu nghĩ đến tương lai, xin đừng bỏ qua cơ hội.
Musashi đăm đăm nhìn khay rượu, không đáp. Tiếng đàn từ phòng bên vọng tới cùng với bóng tỳ nữ qua lại ngoài hiên in lên nền giấy dán trên song cửa. Bỗng nhiên, Geki đột ngột hỏi:
- Musashi tráng sĩ ! Tráng sĩ luyện kiếm cho ai ?
Bị hỏi bất ngờ, Musashi không biết trả lời sao, vì hắn chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy. Hắn ngay thật đáp:
- Thì cho tiểu nhân !
Geki mỉm cười:
- Tráng sĩ nói đùa rồi ! Mưu cầu danh lợi cá nhân chẳng phải là mục đích tối hậu của người cầm kiếm, nhất là người cầm kiếm ấy là tráng sĩ. Xin đừng giấu nhau nữa !
Vô tình hay hữu ý, Geki đã đưa dần Musashi đến mục đích chính của cuộc gặp gỡ. Lặng yên một lúc, Geki tiếp:
- Toàn thể nước Nhật ngày nay đều đặt dưới quyền thống trị của Tokugawa Ieyasu. Hòa bình và thịnh vượng này, như tráng sĩ biết, chỉ là giả tạo. Dân chúng có được gì không ? Qua bao nhiêu thế kỷ nối tiếp nhau, phái quân phiệt luôn luôn nắm chính quyền, áp bức không những dân chúng àm còn cả hoàng gia nữa. Lợi lộc đều về tay đảng tộc của họ, còn dân chúng vẫn chịu cảnh cơ cực. Dưới thời Tokugawa Ieyasu xem ra dân còn lầm than hơn nữa, và thời đại này chẳng qua cũng chỉ là kéo dài sự chuyên chế tàn bạo của những thời đại trước mà thôi.
Masamune tướng công và một số bạn hữu ngài ý thức điều đó rõ hơn ai hết nên có ý định hành động ...
Ishimoda Geki nói một hơi dài rồi dừng lại, liếc nhìn Musashi, thấy hắn vẫn im lặng lễ phép ngồi nghe và không phản ứng gì thì chẳng biết ý tứ hắn ra sao.
Nhìn xuống khay rượu, Geki mượn cớ:
- Rượu nguội cả rồi ! Nào xin cạn chén đi chứ ! Tử lượng tráng sĩ chắc phải hơn tại hạ.
- Không, tiểu nhân uống ít lắm.
- Người phương bắc vùng tại hạ uống rượu không biết say, một phần vì thói quen, một phần để chống lại hàn khí. Masamune tướng công là một trong những người uống rượu rất hào, uống cả đêm được mà sắc mặt vẫn không đổi.
Chén thù chén tạc, câu chuyện đổi sang nếp sống thường nhật của dân chúng phương bắc và lòng trung thành của Masamune tướng công đối với hoàng gia.
Trong khi Geki thao thao bất tuyệt ca tụng chủ soái với hậu ý kết nạp Musashi thì hắn chỉ tỏ thái độ dè dặt. Tuy nhiên, nghe lời nói và xét ý tứ của Geki, hắn cũng rõ khá nhiều về đường hướng và lý tưởng chính trị của Date Masamune, coi kiếm đạo như con đường độc nhất để khắc kỷ và giải quyết mọi vấn đề xã hội.
Kiếm đạo có từ thời cổ, từ lúc có giai cấp võ sĩ, nhưng ngày nay nghĩa vụ và giá trị tinh thần của nó không còn nữa. Thảng hoặc có người nhớ đến thì chỉ là những khái niệm mơ hồ. Trong cuộc nội chiến giữa các sứ quân vào thế kỷ mười lăm và mười sáu, tinh thần võ sĩ đạo đã bị bóp méo và phần lớn bị thu hẹp trong nghĩa vụ của người võ sĩ đối với chủ soái mà thôi. Bây giờ thì bất cứ người cầm kiếm nào cũng có thể tự phong cho mình là kiếm sĩ, không quan tâm gì đến ý nghĩa của con đường họ theo đuổi nữa.
Những kẻ đó đa số tâm địa còn thấp kém hơn cả tâm địa những người dân quê ngu dốt.
Hồi tưởng lại những năm trong Musashi thất ở lâu đài Himeiji, Musashi nhớ đã xem qua một cuốn sách viết về cốt tủy của kiếm đạo, mục tiêu và kỹ thuật của nó do FJurokian viết. FJurokian chính là bút hiệu của viên võ tướng nổi danh Uesugi Kenshin. Lý tưởng cùng phép ứng dụng kiếm đạo vào xã hội của ông đã khiến lãnh địa do ông cai quản trở thành một trong những lãnh địa giàu mạnh nhất thời ấy. Những lời Ishimoda Geki vừa nói xem ra phản ánh phần nào quan niệm cai trị của Uesugi Kenshin.
- Tráng sĩ tha lỗi cho tại hạ đã dài dòng. Tai nghe không bằng mắt thấy. Nếu tráng sĩ không nề, ngay ngày mai, tại hạ xin dẫn đường đến Mutsu để tráng sĩ đích thân mục kích sự sinh hoạt trong lãnh địa. Chắc chắn Masamune tướng công sẽ rất hân hạnh được đón tiếp tráng sĩ.
Đêm đã khuya. Khay rượu được dọn đi và thay vào bằng những món ăn nóng.
Musashi rất lưu ý đến những lời mời mọc của Ishimoda Geki nhưng vẫn chưa tỏ thái độ rõ rệt.
- Đa tạ tôn ông đã có hảo ý, nhưng tiểu nhân cần suy nghĩ trước khi trả lời dứt khoát ...
Bữa cơm tiếp diễn trong bầu không khí tương đắc giữa hai người bạn mới gặp cho đến cuối canh hai mới dứt.
Về phòng riêng, Musashi không thể không nghĩ đến những lời chí tình của Ishimoda Geki. Hắn cũng đồng ý mục đích tối hậu của người cầm kiếm không phải chỉ là trau dồi kỹ thuật cho cao để trấn áp kẻ khác mà kiếm đạo phải là con đường giải thoát; giải thoát con người khỏi những ẩn ức; giải thoát xã hội khỏi sự đè nén. Mục tiêu tối hậu của người cầm kiếm là không dùng kiếm. Ý tưởng ấy hắn học được ở đâu, bây giờ hiện ra sáng chói. Để có dịp, Musashi sẽ đến thăm Masamune tướng công và nếu con đường ông theo quả có mục đích ấy thì hắn sẽ hợp tác. Lần đầu tiên Musashi nhận thấy có cơ hội mang đến cho kiếm đạo một tinh thần nhân bản, dọn đường cho con người hợp nhất với thiên nhiên như lòng hắn mong ước.
-
CHƯƠNG 57
MÓN QUÀ TẶNG
Tỉnh dậy, Musashi nghĩ ngay đến Otsu và Jotaro. Hắn biết trong lúc này không thể nào đi cùng với Ishimoda Geki đến Mutsu được.
Lúc cáo biệt, Geki tỏ vẻ buồn và thất vọng:
- Thật tiếc không được làm bạn đồng hành với tráng sĩ. Hy vọng những lời nói hôm qua trong bữa rượu không bị tráng sĩ bỏ ngoài tai. Nếu đến nơi, tráng sĩ không vừa ý thì cũng xin coi đó như một cuộc du ngoạn. Phong cảnh bắc phương đẹp có tiếng, tráng sĩ chắc biết.
Musashi cảm động vì những lời thành thật ấy. Hắn ấp úng nói:
- Tiểu nhân cũng rất tiếc nhưng có việc riêng phải làm ngay. Có dịp sẽ cùng tôn ông tái ngộ.
Geki chia tay đi về phía đèo Hòa Đa còn Musashi thì rẽ sang hướng Nakasendo. Đến ngã ba Koshu, đang phân vân không biết theo đường nào và đặt kế hoạch ra sao để tìm tung tích Otsu thì có một bọn người rảo bước đi tới. Bọn này ăn mặc ra dáng phu khuân vác hoặc người giữ ngựa, quấn khăn đầu rìu, áo ngắn, chân mang xà cạp. Chúng bâu đến Musashi. Một tên khoanh tay trước ngực nhìn hắn, lỗ mãng nói:
- Khách quan có vẻ lo lắng. Muốn tìm ai chăng, người đẹp hay con hầu ?
Musashi lắc đầu, quay đi chỗ khác. Không biết rõ nên làm thế nào, hắn định rảo quanh khu đó hỏi thăm. Nếu không được tin tức gì, có lẽ đến phải lên phương bắc đi Mutsu vậy. Âu cũng là định mệnh đã an bài, biết làm sao được !
Đang suy nghĩ thì một tên khác lại mò tới:
- Nếu khách quan thực tâm muốn tìm người quen thì bọn nô tài có thể giúp được, còn hơn là đứng nắng hay đi hỏi cầu âu. Người quen của khách quan ra sao ? Bọn tiểu nhân không dám đặt tiền công đâu, tùy hảo tâm của khách quan cho bao nhiêu cũng được !
Nghĩ rằng như vậy lại hơn, Musashi bèn tả hình dáng Otsu và Jotaro cho bọn kia biết. Chúng quay ra hỏi nhau một lúc rồi một đứa nói:
- Bọn này không ai trông thấy người mà khách quan tả cả, nhưng có thể chia nhau đi tìm, thế nào cũng gặp. Kẻ bắt cóc chỉ theo một trong ba đường núi giữa hai trấn Suwa và Shiojira mà thôi. Khách quan không biết đường nhưng tụi này biết.
Musashi nghe, không lấy gì làm tin tưởng lắm, nhưng cũng bảo:
- Vậy tốt, các chú đi tìm ngay đi !
- Rồi ! Làm ngay !
Một tên dáng chừng đầu nậu, họp cả bọn dưới gốc cây, chỉ trỏ người này kẻ kia có vẻ phân công cho từng đứa một. Chúng gật gù cười nói, đoạn tên đầu nậu đên bên Musashi, xoa hai tay vào nhau, lễ phép nói:
- Nô tài đã cắt đặt xong cả rồi, chỉ còn chuyện này hơi khó xử. Ờ ... à ... khó nói quá! À ... à ... chắc khách quan cũng biết, bọn này là thợ thất nghiệp, tiền bạc không có, từ sáng chưa được hột cơm nào. Nhịn đói mà chạy việc cho khách quan thì sợ không được việc, khách quan lại quở trách. Vậy xin ứng trước cho nửa ngày công, nếu hơn chút đỉnh thì càng tốt để bọn nô tài ăn chút gì dằn bụng trước khi đi. Xin bảo đảm với khách quan thế nào cũng tìm thấy.
Musashi tính nhẩm rồi gật đầu:
- Thế cũng được. Ta cũng có ý định đưa trước cho các chú một số tiền nhỏ. Bao nhiêu ?
Tên kia đưa ra một con số. Musashi thấy cao hơn số tiền hắn có thì khựng lại. Hắn cũng biết giá trị của đồng tiền nhưng sống một mình, không thân thích phải giúp đỡ, nhiều khi hắn chẳng để ý đến tiền bạc. Trên bước đường Giang hồ, gặp người ái mộ ủng hộ chút ít để chi phí thì tốt, bằng không, vào ở đậu trong chùa hoặc ngủ qua đêm trong rừng hay bờ suối, có khi quên cả ăn, hắn cũng không quản ngại.
Những ngày gần đây, Otsu nhờ được sự giúp đỡ của Mitsuhiro, đã xuất tiền ra lo hết mọi việc chi tiêu, hắn chẳng phải để tâm gì đến. Như một người vợ hiền, thỉnh thoảng nàng lại còn bỏ vào bọc hắn ít bạc vụn để làm tiền túi.
Musashi khều số bạc ấy ra, chỉ giữ lại chút đỉnh, còn bao nhiêu đưa cả cho tên phu đầu nậu. Mặc dầu hy vọng được nhiều tiền ứng trước hơn, gã phu cũng không từ chối và bằng lòng đi tìm, vì “cảm tình đặc biệt” với khách.
- Khách quan tới đợi ở tam quan chùa Musashi Phật, tụi này sẽ tới đó trước khi mặt trời lặn.
Nói đoạn, cả bọn chia nhau số bạc, rồi giải tán đi các ngả.
Một mình chẳng biết làm gì, Musashi thả bộ quanh vùng, thăm trấn Shimosuwa và lâu đài Takashima, dừng chân quan sát địa hình cùng cách dẫn thủy vào lâu đài để rộng kiên văn, phòng sau này cần đến. Hắn cũng không quên hỏi thăm Otsu và danh tính những kiếm sĩ trong vùng, nhưng chẳng biết thêm được điều gì hữu ích.
Mặt trời xế bóng, Musashi đến chùa Musashi Phật ngồi đợi trên bậc thềm đá dưới tam quan. Khá lâu chẳng thấy ai đến, hắn đảo quanh chùa ngoạn cảnh vườn cho khỏi cuồng cẳng, nhưng lòng bồn chồn, mới được vài bước đã quay lại chỗ cũ dưới tam quan ngồi đợi.
Trời bắt đầu chạng vạng. Nghe tiếng ngựa hí đâu đây, Musashi hơi ngạc nhiên. Đợi lúc nữa cũng không thấy ai đến, hắn theo tiếng ngựa hí đi tới thì thấy ở cái chuồng nhỏ sau chùa có người mã phu già đang dội nước tắm cho hai con ngựa bùn đất còn bám đầy móng.
Thấy Musashi, người mã phu dừng tay nhìn, tỏ vẻ ngờ vực:
- Tối rồi, thí chủ đến đây làm gì thế ? Cần gì chăng ?
Musashi nói rõ lý do. Người mã phu bèn cười hô hố mãi không dứt khiến Musashi cau mày khó chịu. Đợi tin tức thì có gì đáng cười ? Hắn toan phản đối nhưng chưa kịp mở miệng, người mã phu đã nói:
- Thí chủ từ đâu đến ? Ngây thơ thế đáng lẽ chẳng nên đi một mình mới phải. Thí chủ tưởng rằng tụi đó đi tìm người cho thí chủ đấy hẳn ? Nếu trả tiền trước rồi thì ôi thôi... coi như nước lã ra sông, đừng hòng nhìn lại nữa !
- Vậy ra lão cho rằng chúng đóng trò để lừa tiền mỗ chăng ?
Người mã phu tỏ vẻ thương hại:
- Đúng thế ! Chúng bày kế cướp tiền của thí chủ rồi ! Lão mới về nhưng nghe nói trên đường đi, có chục tên du đáng họp nhau ở bên kia đồi đánh bạc, uống rượu. Hẳn chúng nó chứ không ai. Những vụ lừa đảo như thế bây giờ xẩy ra như cơm bữa. Tệ thật !
Rồi lão thuận miệng kể vài vụ cũng khách thương bị côn đồ gạt vào bẫy, lấy nhẵn cả tiền và hàng hóa, rồi kết luận:
- Ối dào ! Đời bấy giờ ấy mà ...Từ nay thí chủ nên cẩn thận !
Nói xong, gánh đôi thùng không xuống đồi múc nước, để Musashi đứng một mình, sượng sùng với lời khuyên, trong bóng chiều bắt đầu buông dày đặc.
Musashi vừa tức vừa buồn cười, tự trách mình quá khờ khạo. “Ta tự hào không sơ hở để địch thủ đâm hông được mà lại bị một bọn dốt nát lừa gạt. Thật không khác gì bị cái tát. Vậy mà mơ những chuyện cao xa, chỉ huy binh đội, lãnh đạo chiến tranh thì làm thế nào được !”.
Trèo những bậc đá lên chùa, hắn tự nhủ thầm sẽ thận trọng hơn trong sự tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Đến tam quan, bỗng thấy một trong những người thợ ban sáng đang đứng đợi.
- À ! Khách quan đây rồi ! Làm nô tài chờ mãi !
Musashi cau mặt, nhưng cũng hỏi:
- Có tin gì không ?
- Có ! Có tin một trong hai người !
- Ai ! Thiếu nữ hay tiểu đồng ?
- Tiểu đồng ! Nhỏ đó với một người đứng tuổi tên Daizo ở Narai đi về phía đèo Hòa Đa. Không thấy tận mắt nhưng nô tài đã cất công đến tận Seba mới được tin đấy !
Bọn kia đã ai về báo tin cho khách quan biết chưa ?
- Chưa. Nhưng ta chắc chúng lừa ta, lấy tiền đi đánh bạc chứ tìm cái gì !
Người thợ gật gù:
- Thường thì như vậy, nhưng nô tài thì không. Thấy khách quan đứng đắn, nô tài cố giúp.
Hơi ngượng vì đã có ý vơ đũa cả nắm, Musashi nói chữa:
- Cám ơn chú đã cho tin.
Rồi móc số bạc vụn ra. Hắn ước tính số bạc chỉ đủ để trả tiền bữa cơm tối nên ngần ngừ một lát. Nhưng lại nghĩ lòng thành thật không thể không được tưởng thưởng, bèn dốc cả số bạc vụn vào tay người thợ. Biết đâu chẳng vì thế mà những ngày sắp tới gã chẳng giúp thêm được vài người nữa, tin rằng người thật thà sẽ được đền đáp xứng đáng ?
Người thợ được tiền, mừng rỡ nâng ngang mày tỏ ý cảm ơn rồi tất tả quay gót.
Trời tối hẳn. Bóng đêm lẫn với bóng núi mờ mờ, vài đốm sao mới xuất hiện nhấp nháy. Tiết trời mát mẻ và trong người dễ chịu, Musashi quyết định đi đêm đến đèo Hòa Đa, hy vọng sẽ gặp Daizo và Jotaro ở đó vào buổi sớm. Hắn dời chùa Musashi Phật, và một lần nữa lại được hưởng cái thú đi đêm một mình trên con đường vắng. Hắn cảm thấy khoan khoái vô cùng, được nghe chính bước chân mình rào rạo trên sỏi đá, lắng nghe cái yên lặng của đất trời rất sinh động chung quanh, quên hết cả để tận hưởng sự hiện hữu của chính mình. Giữa đám đông ồn ào và vội vã trong các thị trấn, Musashi đôi khi cảm thấy buồn và cô độc, nhưng trong cảnh tịch mịch của đêm khuya, không bao giờ hắn thấy đơn côi hay bị ruồng bỏ. Trái lại, tâm hồn hắn dễ rung động, tinh thần linh mẫn và ý tưởng cũng khoáng đạt hơn. Óc và tâm hắn có lúc như rời hẳn nhau, giúp hắn có cái nhìn rất lạnh lùng và khách quan để tự xét.
Qúa nửa đêm, Musashi trông thấy ánh lửa đằng xa. Từ khi qua khỏi cầu Ochi, đường dốc dần. Musashi đoán có lẽ sắp tới chân đèo. Ánh lửa có thể do tiều phu trong rừng đốt sưởi ấm hoặc của một quán ven đường nào còn mở cửa.
Nghĩ đến quán, Musashi sực nhớ chưa ăn cơm chiều và tự nhiên bụng hắn cồn cào sôi sục. Từ khi dời trấn Shimosuwa, lần đầu tiên hắn thấy đói.
Đến nơi, quả nhiên là một cái quán ven đường. Bên ngoài trống bốn cây cột để buộc ngựa nhưng không có ngựa. Tuy nhiên có tiếng lè nhè từ trong quán vọng ra lẫn với tiếng củi cháy nổ lách tách. Musashi đứng trước hiên, do dự. Nếu là một căn lều của nông dân hay tiều phu, hắn không ngại gì mà không xin ngủ đậu nhưng đây lại là một quán hàng. Mà trong bọc hắn không còn đồng tiền nào cả. Mùi cơm và thịt nấu bay ra xộc vào mũi, Musashi nuốt nước bọt. Sực nhớ đến pho tượng mang theo, một pho tượng Quan Âm nhỏ, gọt bằng gỗ mận trong những lúc nhàn rỗi, hắn định đem ra đổi lấy bữa cơm. “Mình sẽ giải thích cho chủ quán rõ, chắc họ chẳng nỡ từ chối”.
Bèn đẩy cửa bước vào. Ba người khách ngồi cạnh lò quay ra nhìn. Râu ria lởm chởm, quần áo xốc xếch, trong cảnh tranh tối tranh sáng bên ngọn lửa bập bùng, không ai đoán được họ bao nhiêu tuổi. Quán nghèo nàn. Hai cái bàn thấp đóng bằng ván cũ với ghế đẩu kê trong góc. Trên bếp, cũng dùng làm lò sưởi, treo cái nồi nấu thịt, mùi thơm tỏa ngào ngạt. Bên cạnh, một hũ sành chắc đựng rượu hâm nóng.
Musashi ngồi vào bàn. Một người khách hỏi:
- Muốn gì ?
- Ai là chủ quán ? Cho cái gì ăn chứ ?
Tức thì cả ba cùng nói:
- Quán ! Có khách !
Một người từ nhà sau bước ra, hất hàm hỏi:
- Dùng gì ?
- Cơm, canh, gì cũng được, mà nhanh lên !
Lát sau, thấy chủ quan bưng ra một liễn cơm nguôi và một bát canh rau cùng đũa bát:
- Khách quan ăn tạm. Nhà hết cơm nóng mà thịt lợn rừng thì chưa chín.
Musashi gật đầu:
- Cũng được !
Rồi bắt đầu ăn ngấu nghiến. Những người kia cũng không nhìn Musashi nữa, tiếp tục quay vào cạnh lò nói chuyện, thỉnh thoảng lại nhổ nước miếng đánh bẹt một cái vào lửa.
Nhân thấy chủ quán đứng gần, Musashi bèn hỏi:
- Ông quán có thấy ai tên Daizo qua đây không ?
Chủ quán không đáp. Musashi nói thêm:
- Daizo trạc năm mươi, tóc hoa râm, đi cùng với một thằng bé khoảng mười lăm tuổi.
Chủ quán bèn quay hỏi những người khách kia:
- Toji ! Lão có thấy ai tên Daizo chừng tuổi dẫn thằng bé qua đường này không ?
Ba người kia đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý rồi cùng lắc đầu. Chủ quán nói:
- Chắc không có, hay chưa tới cũng không biết chừng.
Musashi lại tiếp tục dùng bữa. Khi đã lửng dạ, hắn mới nghĩ đến việc trả tiền. Sở dĩ hắn không nói ngay lúc đầu vì không muốn có vẻ như một tên khất thực trước mặt những người khách lạ. Hắn định nếu chủ quán không nhận bức tượng Quan Âm, hắn sẽ thế con dao chuôi bằng sừng hươu vẫn để trong bọc.
Cơm nước xong, Musashi gọi chủ quán:
- Ông quán này ! Ta có chuyện muốn yêu cầu !
Chủ quán hất hàm ra ý hỏi:
- Ta không có tiền, nhưng cũng không muốn chịu tiền cơm của ông quán. Ông có ưng nhận đồ vật thay cho tiền cơm không ?
- Đồ vật gì ?
- Một bức tượng.
- Tượng thật hay giả ?
- Tượng Quan Âm, chẳng phải do điêu khắc gia danh tiếng nào tạo ra, nhưng do tay ta làm. Chẳng biết có đáng giá bữa cơm hay không nhưng ông cứ xem trước. Nếu được ...
Vừa nói, Musashi vừa lấy ra một cái túi vải và bắt đầu cởi dây buộc. Ba người khách kia cũng ngưng nói chuyện, quay ra chăm chú nhìn tay Musashi cởi dây túi.
Cởi xong, Musashi đổ tất cả lên bàn. Một quyển sổ con, một cái bút với nghiên mực nhỏ, một pho tượng gỗ cùng với một cái túi nhỏ nữa nặng hơn rơi ra lộn xộn.
Mấy đồng tiền vàng từ miệng cái túi nhỏ cũng lăn ra theo, một đồng rơi xuống đất va vào bệ đá kêu đánh keng một tiếng.
Mọi người trố mắt nhìn, kể cả Musashi. Hắn không hiểu sao, nắn nắn cái túi vải, rồi thò tay vào rút ra một mảnh giấy. Mảnh giấy ký tên Ishimoda Geki, trên có ghi vài hàng chữ:
“Chút quà mọn, kính ái tặng tráng sĩ làm tiền lộ phí”.
Musashi bấy giờ mới vỡ lẽ:
đấy là cách mua chuộc của Date Masamune.
Chẳng ai lạ gì sự bất mãn của một số sứ quân thời bấy giờ, bên ngoài tuy ra vẻ thần phục lãnh chúa Tokugawa, nhưng bên trong ngấm ngầm chiêu binh nuôi ngựa làm phản. Date Masamune, một trong số những sứ quân ấy, tất nhiên không qua khỏi thói thường. Ông đã sai thủ túc Ishimoda Geki đi khắp nước Nhật tìm tài năng lạ, nhất là thuộc giới võ lâm Giang hồ, lôi kéo về phe mình.
Nhận tiền của Date Masamune thật không ổn. Hắn không muốn chịu ơn người mà hắn chưa biết rõ đức hạnh cùng chí hướng ra sao. Vả khi nhận tiền rồi, tất bị ràng buộc, mà trong thâm tâm, Musashi chẳng muốn bất cứ sự ràng buộc nào, cho nên, tốt hơn hết, cứ coi số tiền kia như không có. Bèn nhặt hết những đồng vàng vung vãi trên bàn bỏ lại vào túi, rồi chìa bức tượng gỗ cho chủ quán:
- Đây, tượng đây ! Nếu được, ông quán cứ giữ thay cho tiền cơm.
Nhưng chủ quán khoát tay, lắc đầu:
- Không được !
- Sao, không ưng hả ? Tượng không đáng giá chăng ?
- Không phải vậy ! Khách quan không có tiền thì mới nhận. Khách quan có tiền, phải trả tiền chứ !
Thấy chuyện lạ, những người ngồi bên bếp cũng dường như tỉnh hẳn rượu, dời chỗ ngồi đến gần bàn Musashi nhìn hau háu.
Nhận ra sự phi lý của mình, nhưng nghĩ cho cùng chẳng muốn giải thích lôi thôi làm gì, Musashi mở túi lấy một đồng vàng đưa chủ quán.
- Nhiều quá ! Không có tiền thối.
- Không sao. Cứ giữ chỗ lẻ, ta không đòi lại đâu !
- Vậy ở lại chút nữa ăn thịt lợn rừng.
Nhưng Musashi lắc đầu cảm ơn, đeo hành trang, cầm nón ra cửa. Hắn hy vọng nêu không gặp chuyện gì trắc trở sẽ lên tới đỉnh đèo vào đầu giờ mão.
Vùng này nổi tiếng nhiều giống hoa mua rừng rất đẹp, đủ màu sắc, nhỏ bằng cái cúc cũng có và to bằng cái chén cũng có, mọc thành chùm đỏ tươi, vàng óng, tím nhạt hay trắng muốt, mỗi thứ một vẻ không ai là không thích. Rất tiếc, Musashi lại qua đây vào ban đêm nên chỉ trông thấy những lùm bụi đen ngòm, không thưởng thức được gì cả.
Khỏi quán chừng một dặm, bỗng thấy một bóng đen vội vã chạy theo rồi có tiếng gọi giật:
- Khách quan ! Khách quan !
Musashi dừng chân ngoái cổ lại. Bóng đen rảo bước đi tới:
- Khách quan quên cái này !
Nói đoạn lấy trong bọc ra một đồng tiền vàng đưa Musashi.
- Đồng này lăn dưới gậm bàn, khách quan quên chưa nhặt.
Thì ra là một trong số ba người ngồi ở quán hồi nãy. Musashi cầm tiền, cảm ơn rồi tiếp tục cất bước. Không hiểu sao, hắn chẳng thưởng cho người kia chút gì.
Đi được một lúc, người kia bắt chuyện:
- Khách quan cũng trong võ lâm hả ?
- Phải.
- Qúy danh tính là gì ?
- Tại hạ họ Miyamoto.
- Môn phái nào ?
- Không có môn phái.
Nghe những lời đáp nhát gừng như vậy, người khác tất chán nản bỏ đi, nhưng gã này xem ra càng bám riết.
- Vậy đồng đạo rồi. Tiểu đệ cũng là kiếm sĩ, trước có đôi chút danh vọng. Nhưng vì tình thế, bây giờ phải tạm lánh trong rừng.
- Thế à !
- Tiểu đệ săn thú, kiếm củi lấy tiền độ nhật, chờ gặp minh chủ. Thật chẳng khác gì rồng nằm trong ao hẹp !
Musashi mỉm cười:
- Tiếc quá nhỉ ! Thế bằng hữu đứng về phía Osaka hay Edo ?
- Chẳng về phía nào. Nhưng cần gì, phía nào cũng được, miễn có người dùng.
Musashi quay nhìn kẻ đồng hành, cố nhớ xem gã là ai trong ba kẻ ngồi bên lò sưởi ở quán, nhưng trời tối quá trông không rõ.
Musashi rảo bước nhanh hơn, cố ý bỏ rơi gã đồng hành. Chẳng phải tay vừa, gã theo sát nút phía sau về bên trái, một hành động chuẩn bị chiếm ưu thế khi sắp tấn công mà không một kiếm sĩ nào không biết.
Nhưng Musashi không tỏ vẻ bận tâm. Hắn thản nhiên bước những bước dài và nhanh, đều đều trên đường núi dốc.
Gã kia lại tiếp:
- Từ đây đến Edo cũng còn xa. Qua đèo Hòa Đa lại phải trèo đèo Đại Môn, cao và dốc lắm. Nếu không quen đường thì khá mệt.
- Bằng hữu thông thạo vùng này lắm nhỉ ?
- Đương nhiên. Tiểu đệ Ở vùng này đã mấy năm, chung với hai gã kia, ngay sau ngọn đồi trước mặt. Ờ, mà tại sao huynh không đến nghỉ chân ở nhà tiểu đệ ! Nhà đệ tuy nhỏ nhưng cũng đủ chỗ cho khách trú qua đêm. Như thế chẳng tiện lắm ư ?
Một lần nữa, Musashi lại liếc nhìn phía sau. Có một cái gì khác thường khiến hắn nghi ngờ nhưng không nói. Bản tính ưa mạo hiểm lại tò mò muốn biết gã kia định giở trò gì, hắn coi lời mời như một sự thách đố. Bèn gật đầu nhận:
- Qúy xá có xa đây không ?
- Không xa mấy, qua con suối sau đồi này là tới.
- Thế hai ông bạn kia, họ đồng ý chăng ?
- À, hai thằng đó đêm nào chả say như chết ! Chắc bây giờ còn ngồi uống rượu ở quán. Mọi lần đệ phải dìu về nhưng hôm nay thì mặc kệ.
Đi một quãng nữa, bỗng gã nói to như báo hiệu:
- Gần đến rồi ! Cẩn thận, ở đây có cái lạch !
- Phải qua lạch không ?
- Qua chứ ! Huynh trèo lên cây cầu này sang bên kia rồi cứ theo bờ mà đi.
Đoạn lùi lại, nhường Musashi lên trước. Cầu là một thân cây nhỏ không tay vịn, bắc qua chỗ trũng, trông xuống dưới tối om om, lờ mờ dòng nước chảy.
Musashi mới bước được vài bước, thình lình gã đi sau chồm ngay tới, nhấc đầu cầu lên hất hắn xuống rạch.
Đã đề phòng trước, Musashi mượn đà cây gỗ bị nhấc lên, nhảy ngay về phía hòn đá nhô ra cạnh bờ, nhẹ nhàng như én đậu.
- Này, rồi đời tên cường đạo !
Gió kiếm nghe “vù”. Một tiếng thét trong đêm khuya rồi âm thanh của thân cây va vào đá trước khi rơi xuống nước vang theo dòng lạch sâu, kéo dài tưởng như bất tận.
Vài con chim rừng xào xạc bay lên, cánh vỗ phành phạch.
Xác gã thảo khấu vô danh nằm co quắp trên bờ. Có lẽ gã đã tắt thở ngay sau đó, không biết và không ngờ Musashi rút kiếm ra chiêu nhanh đến thế.
Khi đồi Hòa Đa trở lại yên tĩnh, trên cao, một ngôi sao lạc kéo vệt sáng dài từ đông sang tây rồi tắt như một linh hồn vừa lìa cõi thế.
Musashi đọc lời cầu nguyện ngắn, thu nhặt hành trang, vừa định bước đi thì một tiếng nổ chát chúa vang động cả thung lũng. Ánh lửa nhoáng lên từ phía bên kia bờ. Tiếp theo là một tiếng nổ nữa. Musashi nằm sấp, nghe rõ ràng tiếng đạn bay rít trong không khí. Hắn chú mục nhìn sang bên kia. Giữa những lùm bụi và thân cây rừng thưa thớt, lờ mờ hai bóng đen đang thận trọng bò tới.
-
CHƯƠNG 58
NGỌN LỬA SIÊU ĐỘ
http://i33.photobucket.com/albums/d9...u/DSC_4805.jpg
Hắn nằm im nín thở. Hai gã kia đều mang súng hỏa mai. Sau hai phát vừa rồi, tất chúng còn chờ động tĩnh.
Đến bờ lạch, một đứa nói:
- Ngươi chắc sang bên kia không việc gì chứ ?
- Chắc ! Bắn trúng nó mà, rõ ràng nó ngã ! Từ bấy đến giờ không động đậy gì, chắc chưa chết thì cũng bị thương.
- Vậy sang !
Hai bóng đen theo nhau lần xuống dòng lạch. Tiếng cành cây gãy cùng với tiếng chim nháo nhác bay giúp Musashi định ngay được vị trí của chúng.
Như con thú rình mồi trong đêm tối, mắt hắn dán vào bờ lạch. Vừa thấy một cái đầu nhô lên, hắn lập tức tung mình vọt tới,thét một tiếng kinh hồn, đồng thời lia ngang ngọn kiếm.
Tiếng thét khiến cả hai giật mình. Hai tiếng nổ chát chúa cùng phát ra một lượt, nhưng đạn bay lên trời cả.
Chiêu kiếm Musashi cũng không trúng, lưỡi kiếm tiện đứt ngang ngọn cây trên bờ lạch. Mùi thuốc súng tỏa khét lẹt.
Có tiếng chửi thề và tiếng chân chạy rào rạo.
- Vậy mà bảo nó chết ! Nạp đạn đi, ta chặn hậu !
Hiển nhiên tụi này chẳng phải là thảo khấu tầm thường mà có tổ chức hẳn hoi.
Musashi nghĩ thầm. Cho đến nay chỉ mới thấy xuất hiện ba đứa, nhưng không rõ còn bao nhiêu nữa. Cứ để chúng hoành hành thì nhiều người còn phải vong mạng với chúng. Bèn đuổi theo. Thấy tên mang hỏa mai đang lúng túng với ngòi nổ, nhanh như cắt, hắn sà tới. Một thế kiếm dũng mãnh và chính xác chẻ đôi tên đó từ vai đến hông khiến cả thân hình gã đổ xuống như khúc củi mục, không kịp kêu lên một tiếng. Musashi vừa tránh những tia máu phọt ra, vừa đỡ chiêu kiếm của tên cướp còn lại đang xông đến cứu đồng bọn.
Võ nghệ tên này cũng vào hạng cao cường. Gã liên tiếp phóng ra ba chiêu, chiêu nào cũng mạnh mẽ và cực kỳ nguy hiểm, nhưng xét ra thiếu nhanh nhẹn. Có lẽ gã ít luyện tập hoặc không còn trẻ nữa nên tai mắt kém tinh thục.
Biết nhược điểm ấy, Musashi múa kiếm vù vù, giương đông kích tây, kiếm quang loang loáng lúc bên phải lúc bên trái, lúc đằng trước lúc đằng sau khiến gã hoa mắt. Mới vài đường mà bộ vị và chiêu thức đã bắt đầu rối loạn.
Bỗng “keng” một tiếng, cườm tay gã bị lưỡi kiếm của Musashi sướt qua, kiếm tung ra xa, máu tuôn xối xả. Hết sức kinh hãi, gã đá bậy một cước, co cẳng chạy, thoắt cái đã biệt dạng trong đêm tối.
Musashi đuổi theo, quyết tâm bắt cho được tên cường đạo để trừ hậu họa.
Nhưng không rõ địa hình, hắn phải men dọc theo bờ lạch, vì chỉ có đường ấy tương đối dễ đi hơn cả so với cảnh rừng già rậm rạp xung quanh. Hắn tin chín phần mười gã đó chính là một trong ba tên ngồi uống rượu ở quán và theo lời đứa dẫn đường lúc nãy thì cùng ở với nhau trong một căn nhà sau đồi này.
Những dự đoán của Musashi quả nhiên đúng. Con lạch hắn đang men theo mang tên là lạch Giẻ Gai vì ven bờ có vô số những cây giẻ gai mọc rậm rạp. Đầu lạch, một căn nhà gỗ đã được cất lên mấy năm nay, theo kiểu nhà sàn, toàn bằng thân cây giẻ gai để nguyên vỏ ghép lại, phía sau trông xuống một cái vực sâu có đến năm sáu trượng.
Từ thành vực, nước trong núi đá rỉ ra suốt đêm ngày, chảy vào trong một cái hồ nhỏ nên không khí xung quanh lúc nào cũng ẩm ướt.
Tên cường đạo chạy đến trước nhà, đập cửa rầm rầm. Một thiếu phụ bước ra, giơ cao đèn soi rồi sợ hãi kêu lớn:
- Ủa, sao thế này ? Sao máu đầy người thế này ?
- Câm mồm ! Tắt đèn đi !
Gã gạt thiếu phụ sang bên, ngoái cổ nhìn lại:
- Tắt cả đèn trong nhà nữa ! Tắt hết ! Nguy đến nơi rồi !
Đoạn hốt hoảng chui tọt vào trong nhà. Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, thiếu phụ tắt vội đèn chạy theo, đóng sập cửa.
Khi Musashi tới, căn nhà tối om, bốn bề côn trùng kêu ri rỉ. Nấp sau gốc cây lớn, hắn đảo mắt quan sát. Một con mèo đen chạy tới cọ mình vào chân hắn kêu meo meo. Gần chỗ hắn nấp, có cái sào phơi, trên sào sót lại một chiếc áo chưa cất, gió đánh lật phật.
- Nhà này có chủ. Musashi nghĩ.
Hắn dùng mũi kiếm khều chiếc áo rồi lặng lẽ bò đến bên thềm. Hắn đã có chủ đích. Nằm phục dưới bậc cửa, chiếc áo bọc lưỡi kiếm giơ cao, Musashi quát như sấm động:
- Mở cửa !
Tiếng quát dội vào vách đá vọng lại ầm ì, mở cửa ...mở cửa ...mở cử ...a ...rồi chết dần trong sự yên lặng rợn người. Không ai trả lời. Thình lình, một mũi kiếm từ trong khe gỗ vọt ra, đâm thẳng vào chiếc áo. Nhanh như cắt, hắn bật dậy xoay ngang thanh kiếm đè chặt lưỡi kiếm kia giữa hai khe gỗ, đồng thời co cẳng đạp một cái thật mạnh vào cửa.
Cánh cửa bật tung. Có tiếng kêu “ối”, tiếng người ngã cùng với những tiếng răng rắc của thân cây và ván gãy. Musashi xông vào như vũ bão. Một bóng đen nằm ngửa dưới đất đang dùng khuỷu tay lết về phía chân tường. Hắn vung kiếm. Bóng đen la hoảng lăn một vòng. Lưỡi kiếm bổ xuống, tiện đứt góc bàn và mắc ở một vật gì không rõ, khiến bóng đen có cơ hội vùng dậy. Lăm lăm cây trủy thủ trong tay, bóng đen nắm vạt áo Musashi nhằm lưng hắn đâm tới. Gian nhà chật hẹp mà đồ đạc ngổn ngang, hắn bỏ kiếm, chỉ vừa kịp tránh mũi dao sát thủ.
Thanh trường kiếm của Musashi bỗng trở thành vô dụng. Dưới ánh sáng lờ mờ của lò than mới dập, hai bóng đen vờn nhau như hai con thú vờn mồi. Tiếng thét vang, một mũi dao lóe sáng vung lên, cả hai cùng ngã lăn ra đất. Nhưng Musashi đã chiếm thượng phong. Hắn dùng một thế võ khóa tay địch thủ khiến lưỡi dao trủy thủ văng tuốt luốt, chỉ còn tiếng ằng ặc rồi khò khè của kẻ bị chẹt cổ.
Đột nhiên không rõ từ đâu tới, bát đĩa bay đến tứ tung, đập vào thành bàn, vào cột, vào tường rồi vỡ loảng xoảng.
Musashi nhấc bổng gã kia lên, dùng làm mộc đỡ, rồi thuận tay ném một phát tựa trời giáng gã vào bếp lò. Than tro tung bụi mù. Gã nẩy lên một cái rồi rơi xuống, nằm ngay đơ bên chiếc tủ thấp.
Bát đĩa, rồi ấm trà, hũ sành tiếp tục được ném ra như mưa bấc về phía Musashi. Gạt không xuể, hắn phải dùng một cái ghế đẩu che mặt. Lẫn với tiếng loảng xoảng, một giọng đàn bà the thé giận dữ:
- Đồ ăn hại ! Cứ khoe tài giỏi ! Để nó theo về nhà làm loạn thế hả ?
Thanh âm quen thuộc khiến Musashi sững người. Hắn hét lớn:
- Khoan !
Nhưng mụ đàn bà không ngừng, lần này phóng ra cả vung, nồi, chai, lọ ...Musashi nhảy ba bước vào bếp, chỉ một cái khoát tay nhẹ đã đẩy người đàn bà ngã lăn chiêng ra đất, lấy chân đè lên hai cánh tay mụ:
- Mụ là ai ? Không nói ta giết !
Lần này thì chính người đàn bà kia ngạc nhiên. Mụ lắp bắp:
- Phải ...phải Takezo đó chăng ?
Quả nhiên hắn đoán không lầm. Ngoài cụ Osugi ra, chỉ còn một người nữa biết tên tục và thường gọi hắn như thế. Ấy là Oko. Hắn bỏ chân ra:
- Bà làm gì ở đây ?
Oko lồm cồm bò dậy, vén lại tóc và phủi quần áo.
- Takezo ! Chà, bây giờ chú khá trước nhiều quá !
- Oko ! Bà làm gì ở đây ?
Takezo hỏi lại, nhưng Oko chỉ lắc đầu không đáp, lặng lẽ châm đèn, bao nhiêu giận dữ lúc trước dường như nguội hết. Musashi trừng trừng nhìn theo.
Lát sau mụ mới ngượng ngùng nói:
- Kể ra thì xấu hổ ...
- Người nằm kia phải chăng là chồng bà ?
- Phải. Chắc chú biết hắn. Toji đấy !
Musashi không hỏi thêm. Một nỗi buồn man mác bỗng nhiên đến xâm chiếm tâm hồn hắn. Khi còn ở Kyoto, có lần hắn nghe Toji, một trong những nhân vật cột trụ của Phái Yoshioka đã cuỗm tất cả số tiền quyền được dành phục hưng môn phái, trốn đi cùng với ả Giang hồ chủ nhân quán Yomogi. Không ngờ bây giờ gã sa đọa đến thế, trở thành quân cường đạo mai phục chỗ vắng vẻ để bóc lột người lương thiện.
Sự trụy lạc của con người bất giác khiến Musashi bi thương vô hạn. Hắn lắc đầu:
- Tệ quá ! Thôi bà ra săn sóc hắn đi. Nếu biết là chồng bà, ta đã chẳng nặng tay.
Oko vực Toji vào phòng múc nước lau mặt và buộc những vết thương. Gã lờ đờ mở mắt, môi mấp máy như muốn nói điều gì. Oko ghé tai gã thì thầm:
- Đấy là Takezo. Bây giờ hắn đã đổi tên là Musashi ...
Mắt Toji bỗng trợn ngược, hai bàn tay nắm lại. Máu ở vết thương ứa ra thấm ướt cả lần vải buộc.
Oko bước ra khỏi phòng, khép cửa. Musashi ngồi ở một góc nhà ngoài, nét mặt đăm chiêu tư lự.
Mụ thu vội những mảnh chén bát vỡ, kê bàn ghế cho ngay ngắn chút đỉnh, gây lại bếp lửa, đặt bình rượu lên hâm rồi mời Musashi:
- Tình cờ gặp cố nhân, chú ở lại uống chút rượu.
Musashi thoái thác, nói đã uống ở ngoài quán rồi nhưng Oko khẩn khoản:
- Lâu lắm, có lẽ đã bảy tám năm nay rồi đấy nhỉ ! Từ khi rời khỏi đồi Ibuki đến nay không gặp, ta vẫn thường hỏi thăm. Bây giờ chú đổi tên và thành danh rồi, còn nhớ gì đến người cũ !
Câu nói ngụ ý trách móc khiến Musashi hối hận. Hắn cầm bát rượu uống, lòng như lắng xuống và tha thứ hết.
- Không ! Tại hạ vẫn không quên những kỷ niệm cũ.
Cơn gió mạnh nổi lên. Căn nhà tuy đã đóng kín cửa mà gió vẫn luồn vào theo khe vách hở làm lung lay ngọn đèn, kéo theo mùi rêu ẩm ướt.
- Tiện nữ Akemi, chú có gặp nó đâu không ? Đã lâu lắm ta chẳng được tin gì của nó.
- Tại hạ không gặp, nhưng theo lời Matahachi thì dường như cả hai người cùng có ý định đi Edo lập nghiệp, sau đó không biết vì chuyện gì, Akemi mang hết tiền bỏ trốn ...
Oko đăm đăm nhìn ngọn lửa:
- Akemi ? Nó cũng thế ư ?
Rồi thở dài, bất giác so sánh đời mình và đời con gái.
Có tiếng động ở phòng trong. Toji khập khiễng bước ra. Ngửi mùi rượu thơm, gã cũng muốn nhập cuộc.
- Musashi ! Tráng sĩ tha tội cho kẻ lão nhược này đã vô tình xúc phạm.
Musashi không đáp, nhích sang bên nhường chỗ cho Toji. Oko rót một bát rượu đưa gã và giúp gã bưng uống, xong kể lại những ngày lưu lạc của hai người.
Sau khi dời khỏi Kyoto, cả hai cùng định đi Edo, chẳng may đến Suwa, Toji đánh bạc thua nhẵn tiền phải lang bạt nay đây mai đó. Đến vùng này, quẫn quá đành giở nghề cũ hái thuốc độ nhật, tuy thỉnh thoảng cũng kiếm được món bổng của khách qua đường, nhưng từ nay sẽ thôi không làm ăn như thế nữa.
- Tại hạ sẽ về Kyoto và cố gắng lấy lại danh tiếng cũ.
Musashi ngồi nghe, thầm nghĩ Toji cường đạo và Toji kiếm sĩ cũng chẳng khác nhau là mấy, nhưng nếu hắn quả có ý ấy thì đường sá cũng đỡ nguy hiểm hơn nhiều.
Bèn gật gù nói:
- Tại hạ nghĩ đã đến lúc các vị nên bỏ nghề này thôi ! Gian lao quá !
Vài bát rượu khiến Oko trở nên đỏm dáng, mắt long lanh đưa đẩy và bắt đầu làm duyên. Mụ thuộc loại phụ nữ không có tuổi nhất định và đến lúc này vẫn còn nguy hiểm.
Con mèo nuôi trong nhà bên gối chủ thì dễ thương, nhưng thả đi hoang thì chỉ thời gian ngắn sau nó sẽ lần mò rình rập khắp nơi, mắt sáng rực, sẵn sàng rúc đầu vào moi ruột xác chết hay xé thịt khách bộ hành chẳng may ngã bệnh bên đường. Oko cũng thế.
- Này Toji ! Mụ nói. Nghe Musashi kể lại thì con Akemi đã đi Edo.
Hay chúng ta cũng đến đó hưởng cuộc sống văn minh một chút chứ cứ chui rúc mãi ở xó rừng này thì còn gì là đời nữa ! Nếu may mà tìm thấy nó thì lo gì chẳng hái ra bạc !
Toji lơ lửng:
- Cũng được ...Để xem ...
Nhìn Toji co ro bên bếp lửa, đầu gối quá tai, dáng thiểu não, Musashi có cảm tưởng Toji cũng như Matahachi, đã thấm thía nỗi ê chề và bắt đầu cảm thấy hối tiếc. Nghĩ rằng chính hắn cũng từng bị Oko dụ hoặc, hắn rùng mình ghê sợ.
Đêm khuya, rượu gần cạn. Toji dựa lưng vào tường bảo vợ:
- Musashi tráng sĩ chắc đã mệt. Nàng vào dọn cái phòng trong cho tráng sĩ nghỉ qua đêm. Đừng để tráng sĩ tưởng mình không hiếu khách.
Oko cười bả lả:
- Dĩ nhiên rồi !
Và đưa mắt liếc Musashi, nửa nạc nửa mỡ, mụ nhắc lại chuyện cũ:
- Trong phòng tối lắm đấy ! Chú không thích ngủ phòng tối phải không ?
Nhưng Musashi mỉm cười, thẳng thắn đáp:
- Không sao, tại hạ không ngại.
Rồi theo chân Oko qua dãy hành lang lờ mờ đến căn phòng cuối nhà.
Phòng có vẻ như một cái chái cất thêm sau này với mấy cột gỗ chống vào vách đá.
Ở trên trông xuống là vực sâu, không khí ẩm thấp, mỗi khi có cơn gió mạnh, cả căn phòng đu đưa như đánh võng.
Oko đặt đèn xuống bàn:
- Chú ngủ tạm. Chỗ này vẫn để trữ lá thuốc.
Đoạn mang chăn gối đến và lui ra ngoài.
Musashi nhìn quanh. Sát vách kê hàng kệ gỗ trên có xếp vài bó dược thảo khô cùng ít đồ dùng để bào chế. Hắn hơi ngạc nhiên vì không khi nơi đây ẩm thấp, những người buôn dược thảo không bao giờ trữ thuốc ở những nơi như thế này. Tuy nhiên mùi hương nhu thoang thoảng làm Musashi dễ chịu. Hắn tung chăn đắp, rồi trong những tiếng kẽo kẹt nhẹ nhàng như ru của căn phòng, hắn ngủ quên lúc nào không biết.
Bỗng cửa lùa xịch mở. Một bóng người bước vào:
- Takezo, ta mang nước cho chú đây !
Musashi tỉnh giấc nhưng hắn làm như không nghe tiếng. Sự nghi ngờ thoáng hiện.
Oko lại gọi:
- Takezo ! Takezo ! Chú thức hay ngủ ?
Musashi không đáp, vờ nhép miệng cựa mình. Lúc lâu không động tĩnh, Oko nhẹ nhàng đi ra với tay khép cửa.
Musashi trở dậy cuốn chăn như hình người nằm rồi yên lặng đến xem xét các chân cột. Dưới ánh đèn vàng vọt, những điều hắn tìm thấy quả nhiên xác nhận sự nghi ngờ của hắn:
hàng cột vách ngoài nối với nhau bằng những xà gỗ mang chi chít lỗ đinh. Có cột còn lưu lại vết tích những móc sắt gẫy. Các tấm ván sàn cũng thế, vô số lỗ đinh lỗ chỗ, màu sắc lại không hợp với nhau, cái cũ cái mới, chứng tỏ phòng này đã được cất lại nhiều lần và không phải có mục đích chứa dược thảo.
Musashi nhếch mép:
- Ta đoán quả không sai !
Bèn tắt đèn mở cửa bước ra ngoài.
Xung quanh yên lặng như tờ. Toji hỏi Oko:
- Nó ngủ chưa ?
- Rồi !
- Ra xem anh em thế nào !
- Đến đủ cả. Họ xuống cả dưới vực, chắc đã buộc xong dây vào chân cột, chỉ còn chờ trên này ra hiệu đuốc là giật.
Toji không giấu nụ cười thoa? mãn.
- Cứ làm như những lần trước chứ ?
- Còn phải hỏi gì nữa ! Tiền nó giắt trong thắt lưng, thấy xác nó là phải lục soát ngay.
Đoạn lẩm bẩm nói một mình:
“Phen này trả được mối thù môn phái nữa”. Nụ cười trên môi gã dường như không muốn tắt.
Gió thổi lớn. Phải một lúc sau Toji mới đánh được lửa châm đuốc. Ngọn đuốc vừa giơ cao thì “rầm” một tiếng, cả căn phòng Musashi nằm, sụp xuống như động đất. Mái, cột, kèo gãy răng rắc rơi lả tả xuống vực. Thân gỗ va vào thành đá kêu lịch kịch, kéo theo sỏi cát rào rào và bụi bay mù mịt.
Tiếng cây đổ lẫn với những tiếng hò reo vang động cả vùng thung lũng yên tĩnh.
Trong đêm tối, nhiều bó đuốc bỗng nhiên được bật sáng sói hàng chục bóng đen từ những chỗ nấp trong khe đá ào ra tìm bới đống mảnh vụn của căn phòng chứa thuốc trước đây Musashi nằm.
- Ngươi thấy gì không ?
- Không. Chỗ này không có !
- Không chừng xác nó còn vắt trên cây hay mắc đâu đó !
Thình lình cả khu đồi bỗng rực lên một màu hồng tựa ánh bình minh vừa rạng.
Mặt hồ cũng đỏ tươi như máu. Tiếng củi nổ lép bép, khói bốc khét lẹt.
Mọi người đứng sững trông lên. Một quả cầu lửa đang bao quanh căn nhà Toji, những con lửa lem lém liếm hàng vách ván đằng trước, sắp chồm lên mái gỗ và đã có những lưỡi lửa thò ra khỏi cửa sổ rầm thượng, phun phì phì như những lưỡi của một giống quái vật khủng khiếp nào. Khói đen cuồn cuộn ngút trời che lấp cả những tàn lá xung quanh.
- Toji ! Vợ chồng Toji !
Một kẻ hô to, cả bọn hè nhau trèo lên dốc.
Tới hông nhà, thấy Oko và Toji đã bị trói giật cánh khuỷu vào một gốc cây giẻ gai từ bao giờ, ngất xỉu trong làn khói đen mù mịt.
- Nó đâu ? Nó đâu ? Anh em đuổi theo bắt nó !
Nhưng Musashi đã đi xa rồi. Ngọn lửa hắn nhóm lên chưa siêu độ kịp hai tâm hồn tội lỗi.