>
kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: Chặn đứng cơn “đại hồng thủy” ở Midway (3 kỳ)

  1. #1
    Administrators
    Hei's Avatar


    Thành Viên Thứ: 961
    Giới tính
    Nam
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 4,876
    Thanks
    3,455
    Thanked 13,224 Times in 5,001 Posts

    Chặn đứng cơn “đại hồng thủy” ở Midway (3 kỳ)

    Kỳ 1: Chuẩn bị cho trận đánh

    Ngày 18/4/1942, Hải quân Thiên hoàng, lực lượng trụ cột bảo vệ đế chế và đất nước Nhật Bản, đã phải hứng chịu một thất bại nặng nề chưa từng có. Cũng trong ngày hôm đó, 18 máy bay ném bom tầm trung B-25 Mitchell của Mỹ đã tấn công vào thủ đô Tôkyô, Yokosuka, và một loạt các thành phố lớn khác của Nhật Bản. Tình thế này khiến người Nhật lên một kế hoạch tấn công vào hòn đảo Midway của Mỹ ở Thái Bình Dương. Nhưng rốt cuộc, Nhật Bản cũng chuốc lấy thất bại thảm hại...


    Đô đốc Yamamoto Isoruku.

    Đô đốc Yamamoto Isoruku, Tư lệnh Hạm đội liên hợp, nung nấu một kế hoạch cho trận đánh quyết định để trả thù Mỹ. Kể từ cuối tháng 3, Yamamoto đã cố gắng thuyết phục Bộ tham mưu Hải quân rằng việc tấn công vào các đảo Samoa và Fiji là hết sức cần thiết để làm bàn đạp tấn công vào hòn đảo Midway nằm ở giữa Thái Bình Dương, tuy nhỏ nhưng có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Bộ tham mưu đồng ý với kế hoạch này của ông ta trước khi diễn ra trận không kích do Doolittle chỉ huy. Trước đó không lâu, Yamamoto đã đe dọa từ chức Tư lệnh nếu như kế hoạch của mình không được thông qua. Không còn sự lựa chọn nào khác, Bộ tham mưu buộc phải ủng hộ với kế hoạch của vị Đô đốc này.

    Kế hoạch cho một trận đánh lớn đã được Yamamoto và Bộ tham mưu của ông ta vạch ra. Toàn bộ lực lượng bao gồm cả Hạm đội liên hợp sẽ được sử dụng để tấn công vào Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ ở các vùng biển xung quanh Midway.

    Lực lượng tham gia chiến dịch là 7 tàu chiến, 10 tàu sân bay, khoảng 20 tàu tuần dương, và hơn 70 tàu khu trục, được biên chế vào 5 hạm đội. Đô đốc Yamamoto sẽ trực tiếp chỉ huy lực lượng chủ lực, bao gồm các tàu chiến Yamato, Nagato, và Mutsu. Đây là những tàu chiến hùng mạnh nhất và là niềm tự hào của Hải quân Nhật. Làm nhiệm vụ hỗ trợ tác chiến là tàu sân bay hạng nhẹ Hosho và 8 máy bay chiến đấu trên tàu. Dự kiến các máy bay này sẽ được sử dụng vào nhiệm vụ chống tàu ngầm. Các tàu khu trục sẽ làm nhiệm vụ bảo vệ cho lực lượng này...

    Ngoài ra còn phải kể đến hạm đội Aleutians do Phó Đô đốc Hosogaya Moshiro chỉ huy. Lực lượng này bao gồm một tàu sân bay hạng nhẹ Ryujo, và một tàu vận tải viễn dương nay được chuyển đổi thành tàu sân bay Junyo. 4 tàu chiến Ise, Hyuga, Fuso, và Yamashiro sẽ yểm trợ từ xa cho chiến dịch. Một lực lượng hỗn hợp gồm các tàu tuần dương và tàu khu trục sẽ làm nhiệm vụ bảo vệ cả hai lực lượng này.

    Đô đốc Kondo Nobutake chỉ huy Hạm đội số hai, bao gồm các tàu chiến Kongo và Haruna, và tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho. Lực lượng của ông ta có nhiệm vụ yểm trợ cho lực lượng làm nhiệm vụ tấn công dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Tanaka Raizo. Cũng như các lực lượng khác, lực lượng này được các tàu khu trục và tàu tuần dương bảo vệ. Nhưng bộ phận tinh nhuệ nhất của lực lượng tham gia chiến dịch này là Hạm đội số một. Đặt dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Nagumo Chuichi, đây là lực lượng đã tham gia trận đánh Trân Trâu Cảng và nhiều chiến dịch lớn khác của Nhật Bản. Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, tất cả 6 tàu sân bay hạng nặng đều sẽ được trưng dụng. 2 tàu chiến và 2 tàu tuần dương cộng với một tàu khu trục sẽ làm nhiệm vụ bảo vệ xung quanh các tàu sân bay này.

    Theo kế hoạch, vào ngày 3/6, Hosogaya sẽ tấn công các cơ sở trên bờ của Hải quân Mỹ ở cảng Hà Lan, nằm trong quần đảo Aleutian. Mục đích của hành động này là dụ cho các tàu sân bay của Mỹ di chuyển về phía bắc để bảo vệ bang Alaska. Tiếp theo kế hoạch, các máy bay từ các tàu sân bay của Nagumo sẽ tiến hành ném bom Midway để phá hủy các hệ thống phòng ngự của Mỹ trên đó. Sau đó, Nagumo sẽ trú quân tại khu vực đó để sẵn sàng chặn đánh các lực lượng cứu viện của hải quân Mỹ.

    Sau các đợt tấn công này, các tàu tiếp nhiên liệu và tàu vận tải của Hải quân Nhật sẽ chiếm các đảo Attu và Kiska thuộc quần đảo Aleutians, đảo Kure nằm cách Midway 60 hải lý về phía bắc, và sau cùng là chính đảo Midway.


    Đảo Midway.

    Sau đó, cùng với lực lượng tinh nhuệ nhất, và các lực lượng yểm trợ của Kondo, quân Nhật sẽ tấn công các tàu của hải quân Mỹ nếu chúng xuất hiện. Trước đó, ngày 1/6, Yamamoto hy vọng tiêu hao được một phần lực lượng của Mỹ bằng cách triển khai một lực lượng tàu ngầm ở phía tây bắc của quần đảo Hawaii. Các tàu ngầm sẽ tấn công và đánh chìm càng nhiều tàu của Mỹ càng tốt, trước khi đưa lực lượng tinh nhuệ nhất vào đánh trận cuối cùng.

    Kế hoạch này được trình lên Bộ tham mưu Hải quân và thông qua vào ngày 5/5.

    Tuy nhiên, đến phút chót lại có sự thay đổi. Bởi lực lượng Lục quân không nhất trí với kế hoạch này. Trước đó, chiến dịch MO, đánh chiếm đảo Tulagi và cảng Moresby, đã được tiến hành với sự tham gia của các tàu sân bay Shokaku và Zuikaku. Đây là một sự chia tách lớn đối với lực lượng tàu sân bay của Đô đốc Nagumo, bởi vì nó đã mất đi một phần ba lực lượng của bộ phận tinh nhuệ nhất.

    Đô đốc Yamamoto đã đồng ý cho những tàu sân bay tham gia vào chiến dịch MO và tin tưởng rằng, những chiếc tàu sân bay này sẽ làm nên chiến thắng; nhưng ông ta đã lầm. Cả hai tàu sân bay Shokaku và Zuikaku, và tàu sân bay hạng nhẹ Shoho, đã bị loại ra khỏi vòng chiến đấu trong trận đánh ở biển San Hô diễn ra vào ngày 8/5/1942.

    Đình Vũ (tổng hợp)
    thay đổi nội dung bởi: Hei, 29-05-2011 lúc 04:51 PM

  2. The Following User Says Thank You to Hei For This Useful Post:

    Mattino (25-05-2011)

  3. #2
    Administrators
    Hei's Avatar


    Thành Viên Thứ: 961
    Giới tính
    Nam
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 4,876
    Thanks
    3,455
    Thanked 13,224 Times in 5,001 Posts
    Kỳ 2: Mục tiêu mang mật danh “AF”

    Tư lệnh Joseph P. Rochefort là người đứng đầu Phòng tình báo tác chiến (OP 20 02), thường gọi là Hypo, của Mỹ. Chỉ huy một đội ngũ gồm các chuyên gia được đào tạo chuyên sâu về toán, thông tin liên lạc và mã thám, Rochefort hy vọng khôi phục được 10% những bức điện bị hỏng mà các thiết bị mã thám của hải quân thu được.



    Quang cảnh trên boong tàu sân bay Yorktown của Nhật Bản.

    Chẳng mấy chốc Hypo trở thành bộ phận giải mã quan trọng nhất, và Rochefort là một người có tầm nhìn xa trông rộng khi ông ra lệnh kiểm tra giá trị của những thông tin thu được. Bộ phận của ông ít có cơ hội được mọi người biết đến nếu như không có sự kiện các tàu sân bay của Mỹ đánh trúng vào các mục tiêu trên một hòn đảo trong một chiến dịch không kích. Cuối tháng 4 năm đó, các nhân viên giải mã đã bắt được một “con cá” lớn hơn. Họ đã thu được các bức điện vô tuyến. Kết quả giải mã cho thấy, hải quân Nhật sắp sửa tiến hành các chiến dịch quy mô lớn ở biển San Hô. Dựa vào những tin tức tình báo do bộ phận của Rochefort cung cấp, Đô đốc Nimitz đã triển khai lực lượng và khiến quân Nhật phải đại bại ở vùng biển này.

    Ngay sau đó, các nhân viên của Rochefort lại nhận được các thông tin mật cho thấy Nhật đang chuẩn bị một kế hoạch mới với sự tham gia của toàn bộ các hạm đội mạnh. Vấn đề đau đầu là ở chỗ Rochefort chưa tìm ra mục tiêu của chiến dịch này. Ông chỉ phán đoán rằng mục tiêu mang mật danh “AF” có thể là Midway. Tuy nhiên, ông phải thuyết phục được cấp trên ở Oasinhtơn là Tư lệnh John Redman. Bởi vì vị tư lệnh này cho rằng nếu là mục tiêu trên Thái Bình Dương thì đó sẽ phải là quần đảo Hawaii. Rochefort nghĩ ra một kế để xem đích xác mục tiêu của Nhật có phải là Midway hay không. Theo đó, cùng với việc sử dụng đường truyền điện thoại ngầm dưới biển kết nối với Midway, ông yêu cầu bộ phận liên lạc ở Midway đánh đi một bức điện không mã hóa có nội dung: Nhà máy lọc nước biển ở Midway đã bị hỏng - đây sẽ là một vấn đề nghiêm trọng đối với một hòn đảo nhỏ đứng độc lập trên Thái Bình Dương bởi nó luôn trong tình trạng thiếu nước ngọt trầm trọng.


    Tàu sân bay Enterprise của Mỹ.

    Quân Nhật mắc mưu. Liền sau đó, các nhân viên của Rochefort nhận được một thông tin tình báo với nội dung sau khi được giải mã là: “AF gặp sự cố với nhà máy lọc nước biển”. Ông nắm được mục tiêu chính của chiến dịch này là Midway, do đó không dính phải đòn nghi binh của Đô đốc Yamamoto ở cảng Hà Lan. Hai là, ông biết được kế hoạch triển khai lực lượng tàu ngầm của quân Nhật, do vậy ông đã triển khai trước một bước các lực lượng của Mỹ. Kế hoạch tiêu hao một phần sinh lực quân Mỹ của Yamamoto vì đó mà không thành. Và ba là, ông có thể tập trung tất cả tàu thuyền, máy bay, và áp dụng các biện pháp bảo vệ ở trên và xung quanh Midway.

    Từ lúc nắm được những phát hiện quan trọng này do Rochefort cung cấp, Đô đốc Nimitz có quá nhiều công việc phải làm. Các tàu Enterprise, Hornet, và Yorktown đều đã được đưa đi sửa chữa cho đến tận giữa tháng 5. Enterprise và Honet sẽ trở lại sớm hơn Yorktown. Con tàu này vẫn đang trong quá trình sửa chữa kể từ trận đánh ở biển San Hô. Ông cũng đón nhận một tin xấu khác đó là Phó Đô đốc William F. Halsey, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, bị mắc bệnh nhiễm trùng da. Halsey được đưa vào bệnh viện. Đô đốc Nimitz hỏi xem ai là người chỉ huy thay thế. Không một chút do dự, Halsey tiến cử Phó Đô đốc Raymond A. Spruance, chỉ huy lực lượng tàu tuần dương bảo vệ cho lực lượng của Halsey.

    Nimitz chấp thuận đề nghị này, không biết rằng đây lại là một vận may đối với nước Mỹ. Hai ngày sau, Đô đốc Fletcher, sau khi đi kiểm tra thực tế việc sửa chữa tàu Yorktown, đã về đến Trân Châu Cảng. Căn cứ vào những thông tin được báo cáo, Fletcher ước tính rằng Yorktown sẽ không thể đưa vào sử dụng sau ít nhất ba tuần lễ nữa. Tuy nhiên, Nimitz không thể chờ đợi lâu. Ông ra lệnh tập trung mọi nỗ lực để đưa tàu sân bay này trở lại hoạt động vào ngày 30/5, để kịp tránh vòng vây của lực lượng tàu ngầm Nhật. Đồng thời, Nimitz đã ra lệnh cho Phó Đô đốc Robert English triển khai đội tàu ngầm ở phía tây đảo Midway, và một lực lượng khác ở phía bắc quần đảo Hawaii để sẵn sàng hỗ trợ các lực lượng rút lui trong trường hợp Midway bị thất thủ. Ngoài ra, ông cho chuyển tất cả máy bay đến Midway, và yêu cầu bổ sung thêm các máy bay mới. Cuối cùng, vào ngày 28/5, Đô đốc Spruance, chỉ huy tàu Enterprise cùng với hai tàu sân bay khác khởi hành đi về hướng đảo Midway.

    Về phía Nhật, để đảm bảo rằng không có tàu sân bay nào của Mỹ ở quanh Midway, Bộ tham mưu của Yamamoto lên kế hoạch thực hiện một chuyến bay trinh sát bằng thủy phi cơ Emily từ đảo Wotje thuộc quần đảo Marshall đến Trân Châu Cảng. Chiếc thủy phi cơ này sẽ được tiếp nhiên liệu từ một tàu ngầm ở bãi cạn French Frigate. Trước đây, quân Nhật cũng đã từng tiến hành một chuyến bay trinh sát tương tự như vậy. Nhưng các máy bay của Mỹ đã lập tức được cử theo dõi đơn vị trinh sát này, và họ nhanh chóng phát hiện rằng chỉ có bãi cạn là nơi có thể tiến hành tiếp nhiên liệu cho các thủy phi cơ. Tại đây, vào ngày 1/6, một nhóm thủy phi cơ của Mỹ đã khống chế được chiếc tàu ngầm của Nhật khi chiếc tàu này đang tiếp nhiên liệu cho chiếc thủy phi cơ đi trinh sát Trân Châu Cảng. Sứ mệnh của chiếc tàu này đã bị hủy bỏ kể từ đó.

    Đình Vũ (tổng hợp)
    thay đổi nội dung bởi: Hei, 29-05-2011 lúc 04:51 PM

  4. #3
    Administrators
    Hei's Avatar


    Thành Viên Thứ: 961
    Giới tính
    Nam
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 4,876
    Thanks
    3,455
    Thanked 13,224 Times in 5,001 Posts
    Kỳ cuối: Midway bị không kích


    Ngày 3/6/1942

    Theo lệnh của Yamamoto, Đô đốc Kakuta Kakuji sẽ chỉ huy lực lượng oanh kích vào cảng Hà Lan, một cảng nhỏ nằm ở phía bắc đảo Unalaska, để đánh nghi binh. Tuy nhiên, do biết từ trước nhờ thông tin tình báo nên Mỹ không bố trí một đơn vị hạng nặng nào ở cảng Hà Lan, và vì thế mà mục đích chính của Nhật ở chiến dịch này đã không thực hiện được.


    Các kho xăng bị bốc cháy sau đợt không kích của quân Nhật lên đảo Sand và Easter ngày 4/6/1942.

    Cách đó vài trăm km về phía nam, 15 phút sau khi các máy bay của Nhật tấn công cảng Hà Lan cất cánh, những phi công Mỹ lái máy bay trinh sát trên đảo Midway bị đánh thức và ăn bữa sáng trước khi lên đường truy tìm hạm đội Nhật. Ngay sau 9 giờ, Thiếu úy Jack Reid thuộc đơn vị VP-44, điều khiển chiếc thủy phi cơ PBY Catalina, phát hiện thấy lực lượng của Phó Đô đốc Tanaka Raizo.

    Reid liên lạc qua sóng vô tuyến để thông báo tin đó cho Midway. Sau khi đã xác định được số lượng và loại tàu, Reid bám theo lực lượng này trong một khoảng thời gian ngắn. Căn cứ vào báo cáo do Reid gửi về, các máy bay ném bom B-17 được lệnh cất cánh từ Midway tấn công vào lực lượng vận tải vào lúc 4 giờ 30 chiều hôm đó. Các tàu sân bay của Mỹ cũng đã đậu sẵn ở phía bắc đảo Midway, chờ quân Nhật xuất hiện.

    Ngày 4/6/1942

    Trên boong những con tàu của Hạm đội số một, công tác chuẩn bị cho các trận không kích vào Midway bắt đầu vào lúc 2 giờ 45 phút, khi các phi công và phi hành đoàn trên con tàu chỉ huy Akagi được đánh thức dậy. Đến 4 giờ 30 phút, 108 chiếc máy bay của Nhật bắt đầu cất cánh thực hiện đợt không kích đầu tiên trong ngày.

    Ngay lập tức, tất cả các máy bay hiện có ở Midway của Mỹ được lệnh cất cánh, đón đầu quân Nhật. Kết thúc đợt giao tranh này, Nhật có khoảng mười lăm máy bay bị bắn rơi và ba mươi hai máy bay bị hỏng. Đổi lại, các đợt ném bom của máy bay Nhật Bản đã trúng vào các mục tiêu trên đảo Sand và Easter, phá hủy các kho xăng dầu, bệnh viện, kho tàng, và nhà để thủy phi cơ của quân đội Mỹ.


    Tàu sân bay Yorktown đang được sửa chữa tại Trân Châu Cảng.

    Quan sát trận đánh từ đài chỉ huy, Nagumo - Phó Đô đốc của Hạm đội số 1 - không hài lòng với khả năng của những phi công. Ông ta cho rằng cần phải tiến hành đợt tấn công thứ hai. Vào lúc 7 giờ 15 phút, Nagumo ra lệnh tiến hành đợt không kích thứ hai nhưng lần này các máy bay Nhật sẽ ném bom chứ không phóng ngư lôi.

    Quân Nhật vẫn tin tưởng rằng các máy bay bổ nhào của Mỹ không thể đánh chìm được các tàu chiến cỡ lớn. Đây là một sai lầm chết người. Không quân Mỹ là một trong những lực lượng đầu tiên phát triển chiến thuật bổ nhào ném bom, và các máy bay của họ đã bắt đầu có những cải tiến rõ rệt trong những năm 1930. Trong khi đó, các tàu sân bay của Nhật Bản lúc này không đơn thuần chỉ là tàu chiến, chúng còn là các kho thuốc súng nổi. Các quả bom nằm la liệt trên sàn tàu. Và trong trận tấn công này, Nhật Bản lại tiếp tục chuốc lấy thất bại nặng nề khi gặp phải sự phản công quyết liệt của các máy bay chiến đấu Mỹ.

    Đợt phản công của không quân Mỹ vào tàu sân bay Kaga được tiến hành một cách hoàn hảo, khiến cho toàn bộ số máy bay đang đậu ở phía trên boong bốc cháy. Lát sau, một quả bom khác rơi trúng xuống thang máy phía trước và xé toang các cửa sổ ở đài chỉ huy. Quả bom thứ ba làm nổ tung một xe tiếp nhiên liệu đậu phía trước đài chỉ huy. Vụ nổ đã giết chết thuyền trưởng và các sĩ quan chỉ huy, khiến con tàu rơi vào tình trạng không có ai điều khiển. Quả bom cuối cùng đánh trúng vào khoang chứa máy bay. Các đám cháy không thể kiểm soát nổi, và đến 17 giờ con tàu bị khai tử.

    Tàu sân bay Akagi không bị trúng nhiều bom, nhưng kết quả cũng thảm hại không kém. Quả bom đầu tiên rơi trúng vào thang máy ở phần giữa con tàu, gây nổ những quả bom trên tàu. Quả thứ hai và quả thứ ba đánh trúng các máy bay, làm nổ tung những quả ngư lôi mà chúng đang mang trên mình. Động cơ con tàu ngừng hoạt động lúc 10 giờ 40 phút và Đô đốc Nagumo rời đài chỉ huy lúc 10 giờ 46 phút.

    Câu chuyện về tàu sân bay Soryu lại khác ở chỗ đối thủ của nó lại là một tàu sân bay khác, tàu Yorktown. Soryu hứng trọn ba quả bom, rải đều từ mũi tàu đến đuôi tàu, tất cả các thang máy, máy bay cùng bom đạn mà Soryu mang trên mình đều bị phá hủy. Trận đánh kết thúc lúc 10 giờ 40 phút. Lúc này con tàu không còn phát ra một tiếng động nào. Thuyền trưởng Yanagimo tự vẫn bằng cách nhảy vào đống lửa đang bốc cháy ngùn ngụt. Vào lúc 19 giờ 20 phút cùng ngày, con tàu từ từ chìm xuống đáy biển.

    Lúc 14 giờ 50 phút, một máy bay trinh sát của Mỹ đã phát hiện thấy con tàu Hiryu do Phó Đô đốc Yamaguchi chỉ huy. Mười phút sau, một phi đội xuất kích từ tàu Enterprise tấn công tàu sân bay này. Các thủy thủ được lệnh rời tàu lúc 3 giờ 15 phút, nhưng Đô đốc Yamaguchi và thuyền trưởng Kaku vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương cùng con tàu.

    Ngày 5 - 6/6/1942

    Đến tối 4/6, năm tàu sân bay của Nhật đã bị vô hiệu hóa, bốn tàu khác bị cháy, trong khi đó, tàu Yorktown của Mỹ chỉ bị hư hại không đáng kể. Ngay lập tức, con tàu này trở thành mục tiêu của Nhật. Tuy nhiên, trong trận này, tàu Mikuma bị chìm xuống biển và tàu Mogami phải ngừng hoạt động trong một năm.

    Sau ngày 6/6, Yamamoto dự định đưa các lực lượng còn lại vào một trận đánh đêm vào Midway nhưng rồi ông ta phải từ bỏ ý định này vì mức độ rủi ro quá cao. Kết thúc chiến dịch “AF”, Nhật Bản chỉ chiếm được hai đảo Attu và Kiska, nhưng lại phải gánh chịu thiệt hại quá lớn: Bốn tàu sân bay và một tàu tuần dương bị chìm hoặc hỏng; 100 phi công, 3.400 thủy thủ, ba thuyền trưởng điều khiển tàu sân bay kinh nghiệm và một đô đốc bị thiệt mạng. Trong khi đó, Mỹ chỉ bị đánh chìm một tàu sân bay và một tàu khu trục, 150 máy bay bị phá hủy.

    Đình Vũ (tổng hợp)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •