>
kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: Tạp học Nhật Bản

  1. #1
    Ninja


    Thành Viên Thứ: 57825
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 154
    Thanks
    9
    Thanked 416 Times in 128 Posts

    Tạp học Nhật Bản

    Lời nói đầu:

    Tạp học (Zatsugaku) không phải là một nền học vấn chính thống bài bản gì mà chỉ là những kiến thức phổ thông vụn vặt mà bất cứ ai cũng biết, nên biết và có thể chưa biết. Nó bao trùm mọi phương diện, mọi đề tài, đủ các mặt của đời sống, đi từ văn học nghệ thuật cho tới khoa học, kỹ thuật, chính trị....
    Nó trả lời cho những câu hỏi linh ta linh tinh vụn vặt, kiểu như tại sao mèo lại ăn thịt chuột, tại sao chó mèo lại không ưa nhau.... Tại Nhật Bản, tạp học rất được ưa chuộng và rất nhiều quyển sách về nó bán rất chạy. Tại Việt Nam, người dân có vẻ cũng rất yêu thích thể loại kiến thức "hỗ lốn" này qua những chương trình như "đường lên đỉnh Olympia"....

    Loạt bài viết này gom góp những tri thức phổ thông và vụn vặt liên quan đến các mặt của đời sống nước Nhật, con người Nhật Bản. Bài viết có sử dụng những kiến thức thu gom được từ sách vở, báo chí, phim ảnh, internet cũng như kiến thức thu gom được từ thực tế dưới hình thức mỗi kỳ đăng tải một đề tài. Vì là tạp học, nên cách chọn đề tài cũng không theo quỹ đạo bài bản nào, hứng cái gì thì viết về cái đó, khi nào hứng thì viết.


    Hy vọng loạt bài viết này giúp người đọc mua vua được vài trống canh. Và cũng hoan nghênh bất kỳ đóng góp nào từ phía người đọc dưới hình thức post reply.

    ----------------------------------------------------------------------------------------------


    NG là gì?

    Nếu ai từng làm việc cho các công ty Nhật theo hệ sản xuất thì có lẽ sẽ biết đến từ này. Các công ty sản xuất Nhật thường đánh giá chất lượng của sản phẩm họ làm ra theo mức độ OK và NG. Nói nôm na là đạt và không đạt, sản phẩm tốt và sản phẩm hỏng, lỗi. Từ này có nguồn gốc ra sao?

    NG, tiếng Nhật đọc là enujii, theo cách phát âm tiếng Anh của hai chữ cái N và G. Đây là viết tắt của "No Good", từ tiếng Anh do Nhật chế để diễn tả ý không đạt, không tốt, hỏng rồi. Ban đầu, từ này là thuật ngữ của ngành điện ảnh và truyền hình. Đối với những cảnh quay không đạt, diễn không tốt hay những thước phim tệ, đạo diễn nói NG và ra lệnh quay lại. Thế mà không biết từ bao giờ, từ này đã thẩm thấu vào văn hóa đại chúng, cả xã hội Nhật đều sử dụng rộng rãi.

    Vì là tiếng Anh do Nhật chế nên nói NG sẽ không được người Âu Mỹ hiểu đúng ý như người Nhật hiểu. Nguồn gốc của nó là như vậy.



    Nguồn gốc từ tempura

    Tempura là một trong những món ăn đại diện cho nền ẩm thực Nhật Bản, cùng với Sushi, Sashimi, Sukiyaki, nó được nhiều nơi trên Thế giới biết đến. Tempura được "dịch" sang tiếng Việt với cái tên mô tả đúng bản chất của nó và âm đọc cũng hao hao thanh điệu của từ tempura trong tiếng Nhật: tẩm bột rán.



    Hẳn nhiều người cũng đã biết món này ngon nhờ bọc bột (chiên xù) rồi thả vào dầu sôi. Thực phẩm được chọn đem chiên (rán) cũng đa dạng, từ cá, thịt, rau cải cho tới các loại nấm, nhưng phổ biến nhất vẫn là tôm. Món này có nguồn gốc từ thời Chiến quốc, thế kỷ XV, XVI, khi nước Nhật rơi vào cảnh loạn lạc, các sứ quân chỉ chực thôn tính lẫn nhau.

    Thời cổ, người Nhật không ăn thịt động vật như ngày nay mà chủ yếu là ăn cá, chim và rau đậu các loại. Họ quan niệm ăn thịt động vật là man rợ, không văn minh. Nhưng khi người Bồ Đào Nha đến Nhật trong thời Chiến quốc, họ đã mang theo thói quen ăn thịt và việc sử dụng dầu trong ăn uống trở nên thịnh hành.
    Người ta cho rằng từ Tempura trong tiếng Nhật bắt nguồn từ "tempero" trong tiếng Bồ Đào Nha, nghĩa là gia vị hoặc từ "templo" trong tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là chùa chiền, nhà thờ vì đây là nền tảng cho các món ăn chay của nhà thờ Nambanji của các giáo sĩ phương Tây được tướng Oda Nobunaga cho phép xây dựng ở Kyōto.
    Chữ ký của Như Thị Duyên

  2. The Following 6 Users Say Thank You to Như Thị Duyên For This Useful Post:

    玉瑛 (17-06-2011), dtt (17-06-2011), mongmanh (13-06-2011), Onion Club (13-06-2011), usapig (13-06-2011), yummy_lady (14-06-2011)

  3. #2
    Chúa chổm
    usapig's Avatar


    Thành Viên Thứ: 48175
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 1,108
    Thanks
    740
    Thanked 625 Times in 294 Posts
    cái này như là mamechishiki ấy nhỉ
    Chữ ký của usapig
    Quyết tâm lấy lại phong độ

  4. #3
    Ninja


    Thành Viên Thứ: 57825
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 154
    Thanks
    9
    Thanked 416 Times in 128 Posts
    Cách đọc của 々

    Hẳn là nhiều người đã biết rằng trong tiếng Nhật, khi muốn lặp lại từ Kanji (Hán tự) thì người ta dùng "chữ" 々. Chẳng hạn như: 人々 (hitobito), 我々(wareware), 云々 (un nun)....
    Đôi khi "chữ" này còn thấy xuất hiện trong họ tên người, chẳng hạn: 佐々木 (Sasaki), 奈々子 (Nanako). Như vậy hẳn cũng có người sẽ tự hỏi "chữ" 々 bản thân nó đọc như thế nào?

    Thực ra đây là một ký hiệu, không phải Hán tự mà cũng không phải chữ Hiragana hay Katakana. Theo từ điển thì 々 là Hán tự do Nhật chế, thuộc bộ ノ nhưng không được thừa nhận là Hán tự chính thức.
    々 được sử dụng khi muốn lặp lại một chữ nào đó và là một trong số cả Odoriji (踊り字) hay còn được gọi là Dō no jiten (同の字点, dấu lặp lại), Nomaten (ノマ点). Sở dĩ gọi là Nomaten (dấu No, Ma) vì nó được cấu thành từ chữ No (ノ) và Ma (マ) trong Katakana. Tuy nhiên tên gọi chính thức là Dō no jiten, hay còn gọi là ký hiệu lặp lại (繰り返し記号).
    Bản thân nó chỉ là một ký hiệu chỉ ý lặp lại của chữ Hán nên không có cách đọc nhất định nào.

    Ngoài 々, trong tiếng Nhật còn nhiều Odoriji khác như liệt kê dưới đây.
    ゝ và ゞ được dùng để lặp lại chữ Hiragana trong cổ văn. ゝ là phiên bản trọc âm của ゞ.
    Chẳng hạn: trong tiếng Nhật hiện đại nếu viết là いすず thì trong cổ văn viết là いすゞ.
    おおた→おゝた.

    Tương tự, ký hiệu ヽ và ヾ cũng được dùng khi lặp lại chữ Katakana như ゝ và ゞ .
    〃 được gọi là Nonoten (ノノ点) và được dùng để lặp lại số từ hay một đoạn văn.
    く và ぐ, gọi là Ku no jiten (くの字点), được dùng khi viết theo hàng dọc, từ bên phải sang trái như lối viết truyền thống và diễn tả ý lặp lại của hai chữ Kana trở lên.

    Tất cả những Odoriji kể trên đều không được sử dụng trong văn bản tiếng Nhật hiện đại, ngoại trừ 々.
    Chữ ký của Như Thị Duyên

  5. The Following 5 Users Say Thank You to Như Thị Duyên For This Useful Post:

    玉瑛 (17-06-2011), dtt (17-06-2011), joele (14-12-2011), meo_bea (17-06-2011), trasuachieumua (17-06-2011)

  6. #4
    Ninja


    Thành Viên Thứ: 57825
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 154
    Thanks
    9
    Thanked 416 Times in 128 Posts
    Tên họ người Nhật

    Tên họ người Nhật là phần khó nhất đối với những người học tiếng Nhật, không, ngay cả bản thân người Nhật cũng thấy nó rất khó. Có những cái tên của đồng bào họ nhưng nhìn thấy thì không biết đọc thế nào, nghe qua thì không biết viết lại như thế nào. Nhật cũng là quốc gia có nhiều họ nhất Thế giới. Vì sao lại có hiện tượng này?

    Suốt trong một thời gian dài của thời phong kiến, thường dân ở Nhật không được phép mang họ mà chỉ có một cái tên gọi để phân biệt người này người kia. Lúc đó chỉ có những người quyền quý, ít nhiều dính líu đến chính quyền mới được phép mang họ. Đến thời Meiji, Thiên Hoàng đã làm một cuộc cải cách toàn diện, đủ mọi mặt của đất nước, xóa bỏ những hũ tục của thời phong kiến và học tập theo lối suy nghĩ, cách làm hiện đại của người Tây phương. Trong số những cải cách đó có việc "tứ dân bình đẳng", nghĩa là xóa bỏ giai cấp và mọi đặc quyền của giai cấp, mọi người ai ai cũng đều bình đẳng như nhau trước pháp luật. Điều này đồng nghĩa với việc sĩ nông công thương, trăm họ bách tính ai ai cũng đều có quyền mang họ tên.
    Đa phần tầng lớp hèn kém khi đó đều lúng túng trong việc chọn họ cho mình, bởi lẽ từ trước đến nay họ chưa từng nghĩ đến việc này. Thế là nhiều người đã "chọn đại" cái họ cho mình bằng cách lấy tên đất, tên làng mình đang sống. Nhiều người khác thì lấy họ theo đặc trưng của nơi mình sống, chẳng hạn người nào sống dưới chân núi thì lấy họ Yamashita (山下), người nào ở gần sông thì lấy họ Kawamoto (川本),..... Điều này lý giải tại sao ở Nhật lại có nhiều họ đến vậy.

    Thế còn tại sao họ tên người Nhật lại khó đọc?
    Điều này liên quan đến quan niệm dân gian. Thời xưa, người ta kiêng kỵ bị gọi thẳng tên, coi đó là điều không may và dẫn đến tai họa. Quan niệm này ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa và ở Việt Nam cũng thấy điều tương tự (tên húy). Vì không muốn bị người khác gọi thẳng tên nên khi sinh con, cha mẹ thường đặt tên cho con bằng những chữ (Hán) rất khó đọc, hoặc dùng tính chất hội ý của chữ Hán để đặt tên. Chẳng hạn như cái tên 小鳥遊, chắc chắn nhiều người không biết đọc thế nào. Về mặt ngữ nghĩa thì có thể thấy tên này có "nghĩa" đen là "chim nhỏ chơi". Khi các loài chim nhỏ an nhàn chơi bời thì cũng có thể hiểu là do không có thiên địch (diều hâu) nên chim nhỏ mới an tâm nhảy nhót. Vì thế tên 小鳥遊 đọc là Katanashi (鷹無). Katanashi, hiểu theo nghĩa đen là "không có diều hâu".
    Một ví dụ khác, ở Shizuoka có họ 月見里. Nếu đọc theo từng chữ thì là Tsukimizato, nghĩa là "làng ngắm trăng". Kỳ thực họ này đọc là Yamanashi (山無), nghĩa là "không có núi". Chính vì không có núi cản nên mới thấy được trăng.

    Nghĩa hội ý trong họ tên người Nhật là như vậy. Một lý do khác nữa dẫn đến việc tên họ Nhật khó đọc là do Ateji, cách đọc "bất quy tắc" không liên quan gì đến cách đọc vốn có của chữ đó. Về Ateji thì lần sau sẽ viết rõ hơn.
    Chữ ký của Như Thị Duyên

  7. The Following 5 Users Say Thank You to Như Thị Duyên For This Useful Post:

    dtt (17-06-2011), eiji (12-08-2011), joele (14-12-2011), meo_bea (17-06-2011), trasuachieumua (17-06-2011)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •