>
Trang 1/3 1 2 3 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 10 trên 28

Ðề tài: All about Okinawa (Update: Okinawa - Hòn đảo mở cửa với thế giới)

  1. #1
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts

    All about Okinawa (Update: Okinawa - Hòn đảo mở cửa với thế giới)

    MỤC LỤC

    Khái quát chung
    Các nhóm đảo chính
    Ngôn ngữ
    Thành cổ Shuri
    Vương quốc Ryukyu

    Thủ phủ Naha
    Hình ảnh

    * Một số bài viết khác:

    Một vòng quanh Okinawa
    Biển xanh đảo Okinawa, Nhật Bản
    Okinawa - Hòn đảo thơ mộng Nhật Bản
    Okinawa - Điểm nghỉ dưỡng lý tưởng của Nhật Bản
    Sống lâu nhờ chế độ ăn "Okinawa"
    Bí ẩn về sự trường sinh trên đảo Okinawa
    Nhà hàng trên cây Naha Harbor
    Kì quan mộ treo Unishibaka
    Công viên hải dương học Okinawa - công viên lớn thứ hai thế giới
    Khám phá đảo Okinawa

    * Tham khảo chuyên sâu:

    Trận Okinawa
    Bằng chứng về chất độc da cam ở Okinawa



    ----------------------



    Một vòng quanh Okinawa

    Okinawa là một quần đảo với hàng trăm đảo nhỏ kéo dài hơn 1.000km nằm ở phía Tây Nam đất nước Nhật Bản. Quần đảo tiếp giáp Thái Bình Dương về phía Đông và phía Tây giáp biển Đông Trung Hoa. Okinawa là đảo chính và là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Okinawa.


    Okinawa là một quần đảo với hàng trăm đảo nhỏ kéo dài hơn 1.000km.


    Thủ phủ của Okinawa là thành phố Nara. Trong chiến tranh thế giới thứ II, Naha bị tàn phá nặng nề nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, một quang cảnh mới đã được hồi sinh. Những cao ốc hiện đại, đường sá rộng thênh thang, cửa hàng lớn cùng những khách sạn, những quán bar, những khu giải trí, những rạp chiếu bóng, hý viện xây cất rất mỹ thuật và kỹ thuật đã mọc lên như trong thần thoại.

    Khu trung tâm thành phố Naha là khu phố quốc tế Kokusai-dori nổi tiếng khắp thế giới với những cửa hàng lớn bán những sản phẩm thủ công nghệ chế tạo của địa phương.

    Đi về hướng Đông dọc theo đường Himeyuri-dori, sẽ đến khu phố chuyên sản xuất và bán đồ gốm Tsubota đã có từ thế kỷ XVII. Nơi đây tập hợp 20 xưởng sản xuất đồ gốm sành sứ chế tạo nhiều mặt hàng như chai, hũ, lọ đựng rượu saké, bình trà, chén tách, tượng, độc bình, chum, vại, chậu (trồng cây kiểng) bằng sành sứ hoặc tráng men. Một viện bảo tàng đồ gốm sành sứ - Tsuboya Pottery Museum - tọa lạc nơi này cũng là nơi để du khách hiểu thêm lịch sử ngành thủ công cổ truyền lâu đời của Naha.


    Tsubota, khu phố chuyên sản xuất và bán đồ gốm đã có từ thế kỷ XVII, tập hợp 20 xưởng sản xuất đồ gốm sành sứ


    Cách Naha 6km về hướng Đông là lâu đài Shuri - một trong những tòa lâu đài được xếp vào danh sách di sản thế giới. Lâu đài tọa lạc trên một diện tích khoảng 6 vạn mét vuông. Người ta vẫn chưa biết chính xác ai là người đã xây lâu đài này, chỉ biết rằng nó đã tồn tại khoảng nửa cuối thế kỷ XII. Sau vài trăm năm nội chiến giữa các lãnh chúa, các hòn đảo ở Okinawa đã được thống nhất lại thành Vương quốc Ryukyu vào đầu thế kỷ XV.

    Bao quanh lâu đài là những bức tường bằng đá. Tòa nhà trung tâm của lâu đài lại là công trình kiến trúc bằng gỗ lớn nhất Okinawa. Đây là sự pha trộn phong cách của các nền văn hóa Nhật, Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Nhiều công trình xây dựng như Seiden (chính điện), Shureimon (cổng thứ hai) vươn lên hùng vĩ trên bầu trời xanh đã được xếp hạng tài sản quốc gia. Trong chiến tranh, lâu đài, kể cả những bức tường đá, cũng đều bị phá hủy. Các công trình hiện tại đã được phục chế và mở cửa đón du khách vào năm 1992.

    Phía Tây của lâu đài Shuri là một công trình bằng đá to lớn tên là Tamaudun. Tamaudun được tạo thành bởi những khối đá tự nhiên là lăng mộ của các thế hệ trong gia đình hoàng tộc. Mặt trong những lăng mộ này được lát bởi những mảnh đá đỏ. Trung tâm của công trình và hai phía Đông, Tây của tháp đặt những tượng nhân sư gọi là Shisa được coi như một thứ bùa phép chống lại ma quỷ và là biểu tượng của Okinawa.

    Bên cạnh Shuri còn có lâu đài Gusuku được xây dựng vào thế kỷ XII được xem như một địa chỉ tín ngưỡng thiêng liêng của người dân địa phương.


    Bức tường đá bao quanh lâu đài Shuri, một trong những tòa lâu đài được xếp vào danh sách di sản thế giới.


    Biển ở Okinawa rất đẹp - đến nỗi có một từ địa phương gọi “biển” là chura umi, để nói lên ý “đẹp và trong” ửng màu xanh ngọc lục nước biển Okinawa luôn trong vắt. Ngay cả những khi mặt biển có sóng nhẹ, du khách vẫn có thể nhìn thấu cả một thế giới vô cùng sinh động trong lòng đại dương. Đối với những du khách thích khám phá đại dương thì biển Okinawa là điểm hẹn lý tưởng. Nơi đây có rất nhiều địa điểm lặn tuyệt vời với độ sâu 20m. Ở độ sâu này, du khách sẽ được ngắm nhìn những đàn cá rực rỡ đủ sắc màu bơi len lỏi giữa một rừng san hô đỏ, thấp thoáng những hang động với đủ kiểu dáng tựa như những cung điện nguy nga...

    Bãi biển Okinawa cát trắng tinh. Các bờ biển đẹp mê hồn nhờ vách đá được gió và sóng biển khắc thành những hình thù lạ lùng. Đẹp nhất là bờ biển phía Bắc của vùng trung tâm đảo lớn Okinawa với dãy vách đá dài là những dải san hô, tên là Manzamo có nghĩa là “nơi dành cho mọi người chiêm ngưỡng”.


    Biển ở Okinawa đẹp, luôn trong vắt, có thể nhìn thấu cả một thế giới vô cùng sinh động trong lòng đại dương.


    Vịnh Kabira là một trong những thắng cảnh đẹp của đảo Ishigaki. Màu của biển thay đổi liên tục theo địa điểm, thời gian tùy thuộc vào mức thủy triều và góc chiếu của mặt trời. Vịnh này cũng nổi tiếng bởi ngành nuôi cấy ngọc trai đen. Khi thủy triều xuống, du khách có thể đi trong một chiếc xe bò giữa hai đảo Iriomote và Yutu. Cầu Ikema (dài 1425 mét) đã kết nối hai đảo Miyako và Ikema từ năm 1992.

    Okinawa còn nổi tiếng là hòn đảo trường sinh. Không ở đâu trên thế giới con người lại đạt tuổi thọ cao như ở trên đảo Okinawa. Có người gọi nơi đây là "một thiên đường nhỏ", nhưng nó là mảnh đất đầy bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu tuổi thọ con người.

    Hiện nay, Okinawa được xem như là một điểm đến nghỉ dưỡng hàng đầu của Nhật Bản. Du lịch là ngành lớn nhất ở Okinawa mang lại doanh thu gần 6 tỉ USD với 5,5 triệu du khách hàng năm. Du khách đến đây một mặt để tắm biển, lặn ngắm san hô, khám phá hang động... mặt khác còn tìm hiểu về lịch sử và những truyền thống văn hóa của người dân trên đảo. Hiện nay, hòn đảo vẫn còn lưu giữ 6 pháo đài cổ được đưa vào danh sách di sản thế giới của UNESCO.

    Thu Huyền
    YeuDuLich.vn
    Nguồn: Tổng Hợp
    thay đổi nội dung bởi: Kasumi, 21-02-2012 lúc 10:32 PM
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  2. The Following 7 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), Harukatoki (10-12-2011), lynkloo (01-01-2012), Ngọc_san (10-12-2011), pethamlam (29-07-2012), vtvk (10-04-2013)

  3. #2
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Biển xanh đảo Okinawa, Nhật Bản

    Là hòn đảo lớn nhất quần đảo Lưu Cầu, đảo Okinawa chính là nơi diễn ra trận chiến thương vong lớn nhất của quân đội Mỹ trong chiến tranh với Nhật Bản thời Chiến tranh thế giới lần thứ II. Hiện nay, hòn đảo vẫn còn lưu giữ 6 pháo đài cổ được đưa vào danh sách di sản thế giới của UNESCO.

    Phần cực nam hòn đảo có nhiều dãy san hô nhô lên khỏi mặt nước. Phần đá vôi phía nam đảo bị ăn mòn tạo thành nhiều hang động, nổi tiếng nhất là động Gyosendo. Du khách đến đây một mặt để tắm biển, lặn ngắm san hô, khám phá hang động... mặt khác còn tìm hiểu về lịch sử và những truyền thống văn hóa của người dân trên đảo.

    Hình ảnh đẹp của đảo Okinawa trên trang Tom:











    L.T
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  4. The Following 6 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (22-11-2012), lynkloo (01-01-2012), Ngọc_san (10-12-2011), pethamlam (29-07-2012), vtvk (10-04-2013)

  5. #3
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Okinawa

    Nguồn: Wikipedia


    Tỉnh Okinawa (沖縄県 Okinawa-ken)

    Thủ phủ: Naha
    Vùng: Kyūshū
    Đảo: Okinawa
    Thống đốc: Hirokazu Nakaima
    Diện tích: 2.271,30 km² (thứ 44)
    Dân số (1.10.2005)
    • Dân số 1.360.830 (thứ 32)
    • Mật độ 579 /km²

    Gun 5
    Hạt 41
    ISO 3166-2 JP-47
    Web site www.pref.okinawa.jp/
    Huy hiệu tỉnh
    • Hoa Deigo (Erythrina variegata)
    • Cây Thông đỏ-Ryukyu Red Pine (Pinus luchuensis)
    • Chim Noguchigera-Okinawa Woodpecker (Sapheopipo noguchii)

    Symbol of Okinawa Prefecture
    Okinawa (Nhật: 沖縄県 Okinawa-ken?, Xung Thằng) (phát âm trong tiếng Okinawa như: Uchinā) là tỉnh cực Nam của Nhật Bản bao gồm hàng trăm đảo thuộc quần đảo Ryukyu. Trung tâm hành chính là thành phố Naha nằm trên đảo lớn nhất của quần đảo là đảo Okinawa. Quần đảo Senkaku cũng được Nhật Bản đặt vào phạm vi hành chính của tỉnh Okinawa.


    Ba nhóm đảo của Okinawa.


    Địa lý

    Tỉnh Okinawa bao trùm quần đảo Ryukyu (thuộc quần đảo Nansei) chạy dài hơn 1000 km từ phía Tây Nam Kyushu đến tận Đài Loan và phân thành ba nhóm đảo chính. Đó là:

    Quần đảo Okinawa
    • Ie-jima
    • Kume
    • Đảo Okinawa
    • Quần đảo Kerama
    • Quần đảo Daito

    Quần đảo Miyako
    • Miyako-jima

    Quần đảo Yaeyama
    • Iriomote
    • Đảo Ishigaki
    • Yonaguni

    Quần đảo Senkaku

    Khí hậu

    Khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới.

    Lịch sử

    Okinawa vốn không thuộc Nhật Bản mà là một phần của một nhà nước độc lập, đó là Vương quốc Ryukyu dù rằng người Okinawa và người Nhật khá gần gũi về mặt chủng tộc. Vương quốc này có quan hệ với Trung Quốc mật thiết hơn là với Nhật Bản.

    Năm 1609, daimyo của xứ Satsuma (nay là tỉnh Kagoshima) ở phía Nam đảo Kyushu đã tấn công Okinawa, buộc vương quốc Ryukyu phải cống nạp cho Satsuma giống như vẫn cống nạp cho Trung Quốc. Quan hệ giữa Okinawa và Nhật Bản bắt đầu một cách chính thức như thế. Tuy nhiên, vương quốc Ryukyu vẫn giữ được chủ quyền của mình với sự hậu thuẫn của Trung Quốc.

    Năm 1872, Nhật Bản biến vương quốc Ryukyu thành một thuộc địa của mình và gọi là phiên Okinawa bắt chấp sự phản đối của Trung Quốc. Năm 1874, lấy cớ dân Đài Loan sát hại ngư dân của phiên Okinwa, Nhật bản xuất binh đánh Đài Loan. Thất bại trong cuộc chiến tranh với Nhật Bản đã buộc Trung Quốc phải thừa nhận Okinawa là một phần của Nhật Bản đồng thời chịu để Đài Loan thành thuộc địa của Nhật. Năm 1879, Okinawa trở thành một tỉnh của Nhật Bản. Vương quốc Ryukyu hoàn toàn diệt vong.

    Sau Chiến tranh thế giới II, Okinawa được đặt dưới sự kiểm soát về hành chính của Mỹ. Người Nhật đến Okinawa vào thời gian này cần phải được chính phủ Mỹ cấp visa. Mỹ đã biến Okinawa thành căn cứ quân sự khổng lồ của mình ở Đông Á. Cho đến nay, tới 75% quân số Mỹ ở Nhật Bản đóng tại Okinawa.

    Ngày 15 tháng 5 năm 1972, Okinawa trở về với Nhật Bản.

    Hành chính

    Tỉnh Okinawa gồm 11 thành phố và 30 làng, thị trấn. Dân số toàn tỉnh là 1.366.854 người (năm 2005). Okinawa là tỉnh đông dân thứ 32 ở Nhật Bản.

    Kinh tế

    Okinawa chủ yếu phát triển dựa vào ngành du lịch và nông nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người thấp nhất Nhật Bản.
    thay đổi nội dung bởi: Kasumi, 10-12-2011 lúc 02:47 AM
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  6. The Following 3 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), lynkloo (01-01-2012)

  7. #4
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Nguồn: Kasumi@JPN (tổng hợp từ Wiki)
    Ảnh: google


    Okinawa bao trùm quần đảo Ryukyu (thuộc quần đảo Nansei) chạy dài hơn 1000 km từ phía Tây Nam Kyushu đến tận Đài Loan và phân thành ba nhóm đảo chính. Đó là:

    Quần đảo Okinawa

    Đảo Ie-jima

    Ie jima (伊江島, Y Giang đảo) là một đảo thuộc tỉnh Okinawa, Nhật Bản, hòn đảo chỉ cách nán đảo Motobu của đảo chính Okinawa vài kilomet. Đảo có chu vi 20 km và dân số là 5.055 người. Về mặt hành chính, đảo thuộc Thôn Ie và kết nối với đảo chính Okinawa qua một tuyến phà. Đặc điểm địa lý đáng chú nhất của đảo là đỉnh núi Gusukuyama (hay 'Tacchu') với độ cao 172 met giống như một núi lửa nhưng thực tế đã bị xoái mòn. Đảo có Sân bay Ie jima và hiện vẫn có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ.


    Đảo Kume

    Kume (Nhật: 久米 Kumejima-chō, Okinawa: Kumi), (Hán Việt:Cửu Mễ) là một đảo thuộc Quận Shimajiri, Okinawa, Nhật Bản. Đảo có diện tích 59,11 km²[1].và dân số là 8.713 người (2010).


    Quần đảo Kerama

    Quần đảo Kerama (Nhật: 慶良間諸島 Kerama Shotō), (Hán Việt: Khánh Lương Gian Chư đảo) là một nhóm gồm 22 đảo nằm cách đảo Okinawa 32 kilômét (20 mi) về phía tây nam. Bốn trong số các hòn đảo có cư dân sinh sống: Tokashiki (Nhật: 渡嘉敷島 Tokashikijima), Zamami (Nhật: 座間味島 Zamamijima?). Aka (Nhật: 阿嘉島 Akajima), và Geruma (Nhật: 慶留間島 Gerumajima). Các hòn đảo về mặt hành chính thuộc về Quận Shimajiri. Trong Thế chiến II và lúc khai cuộc Trận Okinawa, Các binh sĩ của Sư đoàn bộ binh 77 (Hoa Kỳ) đã đổ bộ lên quần đảo Kerama vào ngày 26 tháng 3 năm 1945.

    Quần đảo Kerama có Sân bay Kerama nằm trên Đảo Fukaji (Nhật: 外地島 Fukajijima)


    Quần đảo Daito

    Quần đảo Daitō (大東諸島 Daitō Shotō, Hán Việt: Đại Đông Chư đảo, Okinawa: Ufuagari; hay quần đảo Borodino) là ba hòn đảo cách Đảo Okinawa 217mi (350 km) về phía đông. Từ bắc xuống nam, các đảo là:

    • Kitadaitō (北大東島)
    • Minami Daitō (南大東島)
    • Oki Daitō (沖大東島)


    Tất cả các hòn đảo vốn không có người cư trú cho đến Thời kỳ Minh Trị, khi dân cư từ những nơi khác của Nhật Bản di cư đến đây.


    Quần đảo Miyako

    Quần đảo Miyako (Nhật: 宮古列島 Miyako Rettō), Hán Việt: Cung Cổ Liệt đảo là một nhóm đảo thuộc tỉnh Okinawa, Nhật Bản, phía đông Quần đảo Yaeyama.


    Các đảo có người định cư

    • Đảo Ikemajima (Ikema-jima)
    • Đảo Irabu (Irabu-jima)
    • Đảo Kurima (Kurima-jima)
    • Đảo Miyako (Miyako-jima)
    • Đảo Ōgami (Ōgami-jima)
    • Đảo Shimoji (Shimoji-shima)
    • Đảo Minna (Minna-jima)
    • Đảo Tarama (Tarama-jima)


    Đảo Miyako

    Miyakojima (宮古島) là đảo lớn nhất và đông dân nhất Quần đảo Miyako thuộc Okinawa, Nhật Bản. Đảo nằm cách Đài Bắc, Đài Loan khoảng 400 km về phía đông. Đảo có diện tích 158,70 km² và là đảo lớn thứ tư trong tỉnh Okinawa.
    Miyakojima được biết tới bởi vẻ đẹp của đảo, chủ yếu là Higashi-hennazaki (Nhật: 東平安名岬), vốn được coi là một trong những cảnh đẹp nhất Nhật Bản. Các địa điểm khác được đánh giá cao là Bãi biển Maehama, Trung tâm Văn hóa Đức, Bãi biển Painagama, và thắng cảnh Irabu-jima.

    Có hai đảo lân cận được nối với Miyako-jima qua cầu là:

    • Ikemajima (Nhật: 池間島 Ikema-jima)
    • Kurimajima (Nhật: 来間島 Kurima-jima)


    Tiếng Miyako, một trong số Nhóm ngôn ngữ Ryukyu, được sử dụng trên đảo. Sân bay Miyako là sân bay duy nhất trên đảo.


    Quần đảo Yaeyama

    Quần đảo Yaeyama (八重山諸島 Yaeyama-shotō, (Hán Việt: Bát Trùng Sơn Chư đảo) Yaeyama: Yaima Okinawa: Ēma) là một quần đảo thuộc tỉnh Okinawa, Nhật Bản. Hòn đảo là nơi xa xôi nhất so với các đảo chính Nhật Bản và bao gồm đảo cực tây Yonaguni và đảo cực nam có người cư trú Hateruma của Nhật Bản.

    Quần đảo nguyên là phần phía nam của núi lửa quần đảo Ryukyu.


    Đảo Iriomote

    Iriomote (西表島 Iriomote-jima; Hán Việt: Tây Biểu đảo Yaeyama: Irimutī Okinawa: Iriumuti) là hòn đảo lớn nhất Quần đảo Yaeyama và là đảo lớn thứ hai của tỉnh Okinawa sau đảo Okinawa.

    Diện tích đảo là 289 km². Dân số trên đảo ít hơn 2.000 người, và cơ sở hạ tầng chỉ giới hạn là một con đường ven biển đơn giản nối các xóm ở bờ bắc và bờ đông. Hòn đảo không có sân bay, khách đến thăm quan, vốn lên tới 150.000 vào năm 2003 đến từ Ishigaki bằng phà. Về mặt hành chính đảo thuộc Thông Taketomi, Okinawa, Nhật Bản.

    Iriomote là một trong số ít những nơi thuộc Nhật Bản có khí hậu nhiệt đới và mưa nhiều (Af). Nhiệt độ trung bình năm là 23.4°C (74.1°F), và nhiệt độ tháng 1 là 18.5°C (65.3°F) và 28.4°C (83.1°F) vào tháng 7. Lượng mưa trung bình của Iriomote vào khoảng 2.500mm. Iriomote có một mùa bão nói chung từ tháng 6 đến tháng 10.

    90% diện tích đảo là rừng nhiệt đới và cây đước. 80% diện tích đảo là đất công, và 34.3% diện tích đảo thuộc Vườn quốc gia Iriomote. Điểm cao nhất của đảo là Núi Komi (古見岳 Komidake) cao 470 mét. Khoảng 21 km về phía tây bắc (24.558, 124) của Iriomote là một núi lửa hoạt động dưới đáy biển và từng phun trào lần cuối vào năm 1924; đỉnh cao nhất của núi là 200 m dưới mực nước biển.

    Hòn đảo nổi tiếng với giống mèo Iriomote (Prionailurus iriomotensis; tiếng Nhật: 西表山猫 Iriomote-yamaneko), một loài mèo hoang nguy hiểm chuyên hoạt động vào ban đêm chỉ tìm thấy tại Iriomote và được một số người coi là một loài riêng. Hiện nay ước tính chỉ còn 100 mèo Iriomote còn sống hoang dã.


    Hòn đảo cũng có một loài rắn độc —Trimeresurus elegans, người dân địa phương gọi là habu, nếu bị loài vật này cắn thì tỉ lệ tử vong là 3% là tỉ lệ thương tật vĩnh viễn là 6–8%.


    Rắn Habu


    Cho đến khi kết thúc Thế chiến II, Iriomote nói chung không có người sinh sống do lo sợ về bệnh sốt rét. Đảo chủ yếu được sử dụng để làm nông nghiệp trồng lúa. Cộng thêm vào đó, trong chiến tranh một số cư dân của Ishigaki đã ẩn náu để tránh bạo lực tại Iriomote và nhiều người trong số hok đã bị sốt rét. Sau chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ đã diệt trừ bệnh sốt rét tại đảo.

    Ngoài du lịch, kinh tế trên đảo được duy trì nhờ các nông sản, chủ yếu là dứa, mía, xoài và đánh cá.


    Thác Kampire thuộc đảo Iriomote


    Đảo Ishigaki

    Ishigaki (石垣島, Thạch Viên đảo) là một hòn đảo phía tây Okinawa và là đảo lớn thứ hai của Quần đảo Yaeyama. Về hành chính đảo thuộc Thành phố Ishigaki, tỉnh Okinawa. Thành phố có chức năng là trung tâm kinh tế và giao thông cho quần đảo. Sân bay Ishigaki là sân bay lớn nhất tại Yaeyama và là sân bay hạng 3 lớn nhất Nhật Bản.

    Đảo Ishigaki, giống như phần còn lại của Okinawa, có văn hóa ảnh hưởng mạnh từ Nhật Bản và Trung Quốc do vị trí giữa Trung Quốc và lục địa Nhật Bản. Một trận sóng thần cao kỷ lục đã tân công đảo Ishigaki vào năm 1771.


    Đảo Yonaguni

    Yonaguni (Nhật: 与那国島 Yonaguni-jima) còn được gọi là Dunan (ドゥナン) hay Dunan-chima (ドゥナンチマ) theo tiếng Yonaguni, một hòn đảo nằm về phía cực tây của Nhật Bản.

    Tiếng địa phương là tiếng khó hiểu đối với người nói tiếng Nhật và thậm chí những người nói tiếng Ryukyu nhưng nó vẫn được một vài người lớn tuổi sử dụng. Dunan là tên gốc của đảo và có cùng nguồn gốc với Yona- trong tên tiếng Nhật.

    Yonaguni nằm cách bờ biển phía đông Đài Loan 125 km và ở tận cùng của chuỗi quần đảo Ryukyu, nó nằm giữa biển Đông Trung Quốc và Thái Bình Dương.

    Đảo có diện tích 28,88 km2 với dân số khoảng 1700, nhiệt độ trung bình hàng năm 23,9 °C, và lượng mưa trung bình năm 3000 mm. Tất cả các đảo đều là đô thị thuộc Yonaguni, Yaeyama Gun, Okinawa vào gồm 3 đô thị: Sonai, Kubura và Higawa. Nó được sáp nhập vào hoàng gia Ryūkyū vào năm 1610.

    Yonaguni, có điểm đặc biệt là Cape Irizaki 24°26′58″B 122°56′01″Đ ở phía tây của đảo, và là điểm cực Tây của Nhật Bản. Người Đài Loan nói rằng có thể nhìn thấy Irizaki trong ngày trời trong.

    Yonaguni là một phần của lục địa cho đến cuối kỷ băng hà. Vào thế kỷ 12, nó được sáp nhập vào vương quốc Ryūkyū cho đến thế kỷ 17 và sau đó sáp nhập vào han, Satsuma Nhật Bản. Năm 1879, đảo chính thức được sáp nhập vào Nhật Bản. Cho đến đầu thế kỷ 20, Yonaguni là một phần của làng Yaeyama, làng này bao gồm cả quần đảo Yaeyama bênh cạnh, nhưng sau đó nó trở thành một làng độc lập vào năm 1948. Từ năm 1945 đến 1972, nó bị Hoa Kỳ chiếm đóng và sau đó nó được trả về cho Nhật Bản, thuộc tỉnh Okinawa.

    Ngày 4 tháng 5 năm 1998, một phần của đảo bị phá hủy bởi một trận động đất có tâm chấn dưới biển.

    Yonaguni được biết đến ở Nhật Bản bởi sản phẩm hanazake, một loại thức uống pha chế từ rượu gạo có hàm lượng cồn 60% (awamori) chỉ được sản xuất trên đảo này. Hòn đảo cũng là môi trường tự nhiên duy nhất nuôi giống ngựa đặc biệt, ngựa Yonaguni.

    Yonaguni là nơi thu hút các thợ lặn do có rất nhiều cá mập đầu búa săn mồi trong khu vực này trong suốt mùa đông.
    Vào thập niên 1980, các thợ lặn phát hiện ra một thành hệ đá dưới nước rất ấn tượng nằm ở điểm cực nam của đảo. Đây còn được gọi là Yonaguni Monument, nơi này có cấu tạo bậc giống như các bậc của cầu thang với bề mặt bằng phẳng và các góc rõ ràng. Dựa trên những đặc điểm này, các học giả cho rằng nó là một công trình nhân tạo có tuổi hàng ngàn năm.

    Trên đảo có sân bay Yonaguni.


    Điểm mốc cực Tây của Nhật Bản, mũi Irizaki


    Quần đảo Senkaku

    Quần đảo Senkaku (Nhật: 尖閣諸島 (Tiêm Các chư đảo) Senkaku Shotō), Trung Quốc gọi là quần đảo Điếu Ngư Đài (钓鱼台列屿, Diàoyútái lièdǎo hay 釣魚台群島, Diàoyútái qúndǎo) là một quần đảo nằm ở phía bắc Đài Loan và phía nam Nhật Bản. Trong tiếng Anh đôi khi còn được gọi là Pinnacle nhưng rất ít được sử dụng.

    Nhật Bản, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) đang tranh chấp chủ quyền quần đảo này, tuy hiện nay Nhật Bản đang cai quản quần đảo. Nhật Bản coi quần đảo này thuộc Quần đảo Nansei (Ryukyu), tỉnh Okinawa của Nhật Bản trên biển Hoa Đông.

    Trước thời kỳ Minh Trị duy tân, quần đảo này cùng với Lưu Cầu là một quốc gia (vương quốc Ryukyu) phụ thuộc vào Đế quốc Mãn Thanh; nhưng kể từ sau khi Nhật hoàng Minh Trị tiến hành công cuộc duy tân, đưa Nhật Bản tiến lên trở thành một cường quốc thì quần đảo này đã nhập vào lãnh thổ Nhật Bản (tỉnh Ryukyu) - 1905.

    Hiện nay, mặc dù Trung Quốc liên tục công bố sách trắng vể chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Trung Hoa, trong đó coi Quần đảo Senkaku/Quần đảo Điếu Ngư vào lãnh thổ nước này, nhưng Nhật Bản vẫn toàn quyền kiểm soát quần đảo này về mọi mặt và cho rằng quần đảo thuộc chủ quyền Nhật Bản.

    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  8. The Following 5 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), lynkloo (01-01-2012), Ngọc_san (10-12-2011), vtvk (10-04-2013)

  9. #5
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Thành cổ Shuri

    Thành cổ Shurijō (tiếng Okinawa: sui ugusiku, tiếng Nhật: 首里城 Shurijō) là một thành thuộc Ryūkyū ở Shuri, Okinawa. Nó là một cung điện của vương quốc Ryūkyū. Năm 1945, trong trận Okinawa, nó hầu như bị phá hủy hoàn toàn chỉ còn một vài bức tường cao vài chục cm. Năm 1992, nó được xây dựng lại trên nền cũ theo các tấm hình cũ và các ghi chép lịch sử.


    Seiden (chính điện) của thành Shuri


    Shuri Castle
    首里城
    Naha, Okinawa, Japan


    Loại: Gusuku
    Xây dựng: thế kỷ 14, xây dựng lại gần nhất 1958-1992
    Vật liệu xây dựng: Đá, gỗ
    Sử dụng: Thế kỷ 14 - 1945
    Bị phá hủy: 1945, trước đó nhiều lần
    Hiện trạng: Xây dựng lại, di sản thế giới UNESCO
    Kiểm soát bởi: Chūzan (thế kỷ 14 -1429), vương quốc Ryūkyū (1429-1879), Nhật Bản (1879-nay)
    Người chiếm giữ: Vua của Chūzan và vương quốc Ryūkyū
    Trận đánh: Trận Okinawa (1945)


    Lịch sử

    Thời gian xây dựng không biết chính xác nhưng chắc chắn rằng nó được dùng làm thành trong thời kỳ Sanzan. Có ý kiến cho rằng nó được xây dựng vào thời kỳ Gusuku cùng với những thành khác ở Okinawa. Khi vua Shō Hashi thống nhất 3 phần lãnh thổ của Okinawa và thành lập vương quốc Ryūkyū, ông sử dụng thành Shuri làm nơi ở. Cũng vào thời gian này, Shuri đã phồn thịnh như là thủ đô và tiếp tục phát triển tiếp theo sau đó vào triều đại Sho thứ 2.

    Trong khoảng thời gian 450 từ thế kỷ 15, nó là cung điện hoàng gia và trung tâm hành chính của vương quốc Ryūkyū. Nó cũng là trung tâm thương mại với nước ngoài cũng như trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Ryūkyū.

    Theo các ghi chép, thành Shuri bị cháy nhiều lần, và được xây dựng lại sau các lần đó. Trước chiến tranh, nó được thiết kế làm ngân khố quốc gia, nhưng trong chiến tranh, quân đội Nhật Bản đã thiết lập cơ sở chỉ huy bên dưới thành, và từ 25 tháng 5 năm 1945, tàu chiến Hoa Kỳ Mississippi đã bắn pháo vào nó trong 3 ngày.

    Sau chiến tranh, Đại học Ryukyu được chuyển đến nơi này cho đến năm 1975. Năm 1958, cổng Shureimon được xây dựng lại. Việc trùng tu được tiến hành từ năm 1990 và vào năm 1992, tòa nhà chính được xây dựng lại và mở cửa cho khác tham quan. Hiện tại, toàn bộ khuôn viên xung quanh thành được quy hoạch thành công viên thành Shuri (Shurijo koen), Năm 2000, cùng với các gusuku khác và các kiến trúc liên quan được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Năm 2008, nó được chuyển thể thành video game tên Call of Duty: World at War.

    Các điểm tham quan

    Do là trung tâm chínhh trị và tôn giáo của người Ryūkyū, thành Shuri được bao bọc xung quanh bởi các di tích lịch sử hấp dẫn. Điểm nổi bật đó là Shureimon, cổng chính đi vào thành, và Tamaudun các ngôi mộ hoàng gia nằm cạnh thành Shuri.


    Shureimon


    Cổng bằng đá nằm bên trái của cổng Shureimon được dựng lên vào năm 1519 bởi vua Shō Shin, vua thứ ba của triều đại Shō. Cổng đá phản ánh trình độ xây dựng cao cấp bằng đá vôi của vương quốc. Nó được thiết kế là một tài sản văn hóa quốc gia quan trọng, và đủ điểm nổi bật để được UNESCO chọn làm di sản thế giới Gusuku và các di sản liên quan của vương quốc Ryukyu, cùng với phần thành Shuri.


    Cổng đá của Sonohyan-utaki
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  10. The Following 4 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), lynkloo (01-01-2012), vtvk (10-04-2013)

  11. #6
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Vương quốc Lưu Cầu


    Vương quốc Lưu Cầu (tiếng Ryukyu: 琉球國 rūchū-kuku, tiếng Nhật: 琉球王国 ryūkyū-ō-koku), phồn thể: 琉球國 liúqiúguó, Hán-Việt: Lưu Cầu Quốc) là một vương quốc độc lập thống trị phần lớn quần đảo Lưu Cầu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Các vua xứ Lưu Cầu thống nhất đảo Okinawa và mở rộng vương quốc đến quần đảo Amami ngày nay là tỉnh Kagoshima, và quần đảo Yaeyama gần Đài Loan.


    Chính điện của thành Shuri


    琉球國
    Vương quốc Lưu Cầu


    Triều cống cho Trung Quốc
    Chư hầu của phiên Satsuma

    1429 – 1879


    Cờ


    Gia huy

    Thủ đô: Shuri
    Ngôn ngữ: tiếng Lưu Cầu (tiếng địa phương) , tiếng Nhật, tiếng Trung Quốc
    Tôn giáo: Phật giáo, Nho giáo, tôn giáo địa phương Lưu Cầu, Thần đạo
    Chính thể: Quân chủ
    Quốc vương (国王)
    • 1429–1439: Shō Hashi
    • 1477–1526: Shō Shin
    • 1587–1620: Shō Nei
    • 1848–1879: Shō Tai

    Sessei (摂政)
    - 1666–1673 Shō Shōken
    Kokushi (国司) (Quốc ty)
    - 1751–1752 Sai On
    Lập pháp: Shuri Ō-fu (首里王府) (Thủ Lý Vương Phủ), Sanshikan (三司官) (Vương ty quan)
    Lịch sử
    - Thống nhất: 1429
    - Nhật Bản xâm lược: 5 tháng 4 năm 1609
    - Phế phiên, lập huyện: 1871
    - Sáp nhập vào Nhật Bản: 11 tháng 3, 1879
    - Trận Okinawa: 1 tháng 4 – 21 tháng 6, 1945
    Diện tích 2.271 km²; (877 mi²)

    Lịch sử

    Trong ba cuốn sử Lưu Cầu —Chūzan Seikan (Nhật: 中山世鑑 Trung Sơn thế giám), Chūzan Seifu (Nhật: 中山世譜 Trung Sơn thế phả), và Kyūyō (Nhật: 球陽 Cầu Dương)—lịch sử của Vương quốc Lưu Cầu bắt đầu với Nhà Tenson (Nhật: 天孫王朝 Thiên Tôn Vương triều), đã tồn tại được 17.000 năm. Nhiều nhà sử học ngày nay tin rằng đây là một huyền thoại lịch sử được tạo ra vào thế kỷ 16 và 17 để tăng thêm tính pháp lý cho triều đại đang thống trị, nhà Sho, với các gia đình quý tộc địa phương.

    Triều Tenson chấm dứt với 3 vị vua Vương triều Shunten (Nhật: 舜天王朝 Thuấn Thiên Vương triều), từ năm 1187 đến năm 1259. Theo Chūzan Seikan, do Shō Shōken viết, người sáng lập triều đại này là con trai của Minamoto no Tametomo, quý tộc người Nhật và là có họ hàng với Hoàng gia Nhật Bản. Minamoto no Tametomo bị lưu đày đến quần đảo Izu sau khi thất bại trong việc giành quyền lực tại triều đình Kyoto; sau đó ông bỏ chạy và trôi giạt đến Lưu Cầu, nơi con trai ông là Shunten thành lập triều đại của riêng mình. Vài học giả Nhật Bản và Trung Quốc cho rằng triều Shunten cũng lại do các sử gia của nhà Sho sáng tạo nên, với cùng lý do như khi họ tạo ra huyền thoại Tenson.
    Thế kỷ 14, các phiên nhỏ rải rác trên đảo Okinawa được thống nhất thành ba lãnh địa chính: Hokuzan (Nhật: 北山 Bắc Sơn), Chūzan (Nhật: 中山 Trung Sơn) và Nanzan (Nhật: 南山 Nam Sơn). Sử gọi đó là thời kỳ Sanzan (三山, Tam Sơn). Ba lãnh địa này, hay các liên minh các bộ lạc do các tù trưởng lớn đứng đầu, giao chiến, cuối cùng Chuzan dành thắng lợi, nhận được sắc phong của Trung Quốc vào đầu thế kỷ 15. Như vậy để nói rằng, các thủ lĩnh của Chuzan được Trung Quốc chính thức công nhận là vua chính thức so với Nanzan và Hokuzan, do đó trao cho họ tính hợp pháp của việc đăng cơ, nếu không chiến thắng hoàn toàn. Quốc chủ Chuzan truyền ngôi cho Vua Hashi; ông lấy họ "Shō" từ Hoàng đế triều Minh năm 1421, đặt tên là Shō Hashi (Nhật: 尚巴志 Thượng Ba Chí?). Hashi cuối cùng chiếm được Hokuzan năm 1416 và Nanzan năm 1429, lần đầu tiên thống nhất đảo Okinawa, và lập ra nhà Shō thứ nhất.

    Shō Hashi tiếp thu hệ thống cha truyền con nối kiểu Trung Quốc, xây thành Shuri và thị trấn đó làm kinh đô của mình, xây dựng cảng Naha. Vài đời sau, năm 1469, Vua Shō Toku qua đời mà không có con trai kế vị; một sứ quân chư hầu tuyên bố rằng mình là con nuôi của Toku và nhận được sắc phong của Trung Hoa. Kẻ giả dạng này, Shō En, mở đầu triều Sho thứ hai. Thời kỳ vàng son của Ryūkyū diễn ra dưới triều Shō Shin, vị vua thứ hai, trị vì trong những năm 1478-1526.

    Thương mại Châu Á (thế kỷ 15-16)

    Về mặt ngoại giao, Vương quốc thiết lập quan hệ triều cống với Trung Quốc dưới triều nhà Minh và nhà Thanh. Nó cũng phát triều quan hệ thương mại với Nhật Bản, Triều Tiên và nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, bao gồm Xiêm La, Vương quốc Pattani, Malacca, Champa, Đại Việt, và Java.

    Giữa thế kỷ 15 và 16, Vương quốc Ryukyu nổi lên như địa điểm trung chuyển thương mại chính ở Đông Á. Các sản phẩm Nhật Bản —bạc, kiếm, quạt, hàng sơn mài, màn gấp—và Trung Quốc—dược thảo, tiền đúc, men sứ, hàng thuê, vải dệt—được trao đổi lấy hàng của các Vương quốc Đông Nam Á gỗ vang, sừng tê giác, thiếc, đường, sắt, long diên hương, ngà voi Ấn Độ và trầm hương Ả Rập. Cả thảy, 150 chuyến hải hành giữa Ryukyu và Đông Nam Á được ghi lại, trong số đó có 61 chiếc đến Siam, 10 đến Malacca, 10 đến Vương quốc Pattani và 8 đến Java.

    Hoạt động thương mại trong vương quốc giảm dần từ năm 1570 với sự gia tăng của các thương nhân Trung Quốc và sự can thiệp của các con tàu Bồ Đào Nhà và Tây Ban Nha, tương ứng với sự khởi đầu của hệ thống Châu Ấn thuyền ở Nhật Bản.

    Nhật Bản xâm lược (1609)

    Khoảng năm 1590, Toyotomi Hideyoshi yêu cầu Vương quốc Ryūkyū trợ giúp cho chiến dịch xâm chiến Triều Tiền. Nếu thắng lợi, Hideyoshi dự định tiến quân đánh Trung Quốc. Vì Vương quốc Ryukyu là chư hầu của nhà Minh, yêu cầu này bị từ chối. Mạc phủ Tokugawa nổi lên sau sự suy sụp của nhà Toyotomi trao quyền cho gia đình Shimazu —daimyo của phiên Satsuma (ngày nay là tỉnh Kagoshima)—gửi đinh chinh phạt Ryukyu. Việc chiếm giữ Ryukyu diễn ra khá nhanh, với sự kháng cự vũ trang tối thiểu, và Vua Shō Nei bị bắt làm tù binh ở phiên Satsuma và sau đó là Edo—ngày nay là Tokyo. Khi ông được thả 2 năm sau đó, Vương quốc Ryukyu nhận được chiếu chỉ trao quyền tự trị; tuy nhiên, phiên Satsuma đã giành quyền kiểm soát vài lãnh thổ của Vương quốc Ryukyu, đáng chú ý có nhóm đảo Amami-Ōshima, rồi sáp nhập vào phiên Satsuma.

    Vương quốc Ryūkyū tự thấy mình trong thời kỳ này phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” với Nhật Bản và Trung Quốc, theo đó quan hệ triều cống của Ryukyu vẫn còn với cả Mạc phủ Tokugawa và triều đình nhà Minh Trung Quốc. Vì nhà Minh cấm buôn bán với Nhật Bản, phiên Satsuma, với sự cho phép của Mạc phủ Tokugawa, sử dụng quan hệ thương mại của vương quốc này để duy trì quan hệ buôn bán với Trung Quốc. Lưu ý rằng Nhật Bản trước đó đã đóng cửa với phần lớn các nước Châu Âu, trừ Hà Lan, những quan hệ buôn bán như thế là đặc biệt quan trọng với cả Mạc phủ Tokugawa và phiên Satsuma, người sau này sẽ sử dụng quyền lực và ảnh hưởng của mình, theo cách đó, giúp lật đổ Mạc phủ trong thập kỷ 1860.

    Vua Ryukyu là chư hầu của daimyo Satsuma, nhưng đất đai của ông không được tính là một phần của bất kỳ một han (phiên) nào: cho đến khi chính thức sáp nhập quần đảo này và giải thế vương quốc năm 1879, Ryukyu thật sự không được coi là một phần của Nhật Bản, và người Ryukyu không được coi là người Nhật Bản. Mặc dù về mặt kỹ thuật là dưới quyền kiểm soát của Satsuma, Ryukyu có mức độ tự trị cao, để phục vụ tốt nhất lợi ích cho daimyo Satsuma và Mạc phủ, trong thương mại với Trung Quốc. Ryukyu là một nhà nước triều cống cho Trung Quốc, và vì Nhật Bản không có quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Quốc, về cơ bản Bắc Kinh không nhận ra rằng Ryukyu bị Nhật Bản kiểm soát—nếu có, họ sẽ chấm dứt buôn bán. Do đó, thật mỉa mai là, Satsuma —và Mạc phủ—batwts buộc phải buông bỏ theo nghĩa rằng không chính thức hay bằng vũ lực chiếm giữ Ryukyu hay kiểm soát các chính sách và luật pháp ở đây. Tình thế này làm lợi cho cả 3 bên liên quan —triều đình hoàng gia Ryūkyū, daimyo Satsuma, và Mạc phủ —biến Ryūkyū thành một rất quốc gia đặc biệt. Người Nhật bị cấm đến thăm Ryukyu mà không được phép của Shogun, và người Ryukyu bị cấm lấy tên, mặc trang phục hay áp dụng các phong tục Nhật Bản. Họ thậm chí còn cấm thể hiện rằng mình biết tiếng Nhật khi đến Edo; gia đình Shimazu, daimyo của Satsuma, gây dựng được thanh thế lớn khi diễn Vua, các quan lại, và người dân Ryukyu qua Edo. Là phiên duy nhất có một vị vua và cả vương quốc làm chư hầu, Satsuma thu lợi lớn từ sự kỳ lạ của Ryukyu, nói thêm rằng đây là một vương quốc hoàn toàn biệt lập.

    Khi Phó đề đốc Hải quân Hoa Kỳ Matthew Calbraith Perry đến Nhật Bản để ép nước Nhật mở cửa giao thương với Mỹ vào thập kỷ 1850, ông ban đầu dừng chân ở Ryukyu, như nhiều thủy thủ phương Tây đã làm trước đó, và ép Vương quốc Ryukyu ký hiệp ước bất bình đẳng mở cửa Ryukyu cho thương mại Mỹ. Từ đây, ông tiếp tục đến Edo.

    Sau cuộc Minh Trị Duy Tân, Chính quyền Meiji Nhật Bản giải thể Vương quốc Ryukyu, chính thức sáp nhập quần đảo này vào Nhật Bản thành tỉnh Okinawa năm 1879. Các sứ giả của nhà vua Ryūkyū đã phủ phục suốt ba ngày bên ngoài dinh tể tướng ở Bắc Kinh để nài xin cứu giúp, nhưng khi ấy nhà Thanh đã suy yếu bởi các cuộc xâm lăng của liên quân tám nước phương Tây và cả đế quốc Nhật Bản; do đó lời khẩn cầu gửi quân cứu giúp đã bị khước từ. Dù vậy, Trung Hoa phản đối về mặt ngoại giao và cựu Tổng thống Hoa Kỳ Ulysses S. Grant được yêu cầu đứng ra phân xử. Grant cho rằng quyền sáp nhập quần đảo của Nhật Bản là hợp lẽ và đưa ra phán quyết thuận lợi cho Nhật mà không quan tâm đến quyền tự chủ của người dân Ryūkyū. Khi tiến hành sáp nhập, quân đội Nhật ra tay ám sát những chính trị gia Ryūkyū chống đối. Nhóm đảo Amami-Ōshima đã được sáp nhập vào phiên Satsuma trở thành một phần của tỉnh Kagoshima. Vua Shō Tai, vị vua cuối cùng của Ryūkyū, được chuyển đến Tokyo và được phong làm Hầu tước (xem Kazoku), cũng như nhiều quý tộc người Nhật khác, và qua đời ở đó năm 1901. Trẻ em Ryūkyū bị bắt buộc hấp thụ nền giáo dục Nhật với các giáo trình về Nhật ngữ, văn hoá và bản sắc Nhật, cùng lúc người dân bị nghiêm cấm sử dụng ngôn ngữ bản địa. Tuy nhiên, nhiều vấn đề phát sinh từ lịch sử vẫn chưa hề được giải quyết cho đến tận thời hiện tại. Có nhiều người Ryūkyū và người Nhật cảm thấy người Ryūkyū không phải là người Nhật “chính hiệu”. Một số cư dân Ryūkyū cho rằng chính quyền trung ương đã kỳ thị dân bản địa bằng cách cho phép quân đội Mỹ đến lập căn cứ tại Okinawa trong khi hạn chế tối đa sự hiện diện của binh sĩ Mỹ trên 4 hòn đảo chính của Nhật.

    Các sự kiện chính

    • 1372 Sứ thần đầu tiên của nhà Minh đến Okinawa, vốn đã bị chia thành 3 vương quốc, dưới thời kỳ Sanzan. Quan hệ triều cống chính thức với Đế quốc Trung Hoa bắt đầu.
    • 1419 Chūzan, do Shō Hashi lãnh đạo, chiếm Nakijin gusuku, kinh đô của Hokuzan.
    • 1429 Chūzan chiếm Shimajiri Osato gusuku, kinh đô của Nanzan, thống nhất đảo Okinawa. Shō Hashi lập ra Vương quốc Ryūkyū, đăng cơ và đóng đô ở Shuri (giờ là một phần của Naha).
    • 1470 Shō En (Kanemaru) lập ra triều Sho thứ hai.
    • 1477 Vị vua thứ ba, Shō Shin, lên ngôi. Thời kỳ vàng son của vương quốc.
    • 1609 (5 tháng 4) daimyō của phiên Satsuma ở phía Nam Kyūshū xâm lược vương quốc. Vua Ryūkyū trở thành chư hầu của Nhật Bản.
    • 1624 Daimyo Satsuma sáp nhập quần đảo Amami.
    • 1846 Bác sỹ Bernard Jean Bettleheim (qua đời năm 1870), một nhà truyền đạo Tin Lành người Anh, đến Vương quốc Ryūkyū. Ông thành lập bệnh viện nước ngoài đầu tiên trên đảo ở đền Nami-no-ue.
    • 1853 Phó đề đốc Matthew Perry của Hải quân Koa Kỳ đến thăm vương quốc. Bettleheim rời đi với Perry.
    • 1866 Sứ đoàn chính thức cuối cùng từ nhà Thanh đến vương quốc.
    • 1874 Đoàn triều cống cuối cùng tới Trung Quốc, khởi hành từ Naha.
    • 1879 Nhật Bản thay thế phiên Ryūkyū bằng tỉnh Okinawa, chính thức sáp nhập quần đảo này. Vua Shō Tai (Nhật: 尚泰 Thượng Thái) và được nhận tước Phiên Vương (Nhật: 藩王 Han'ō) và được chuyển đến Tokyo.


    Tác phẩm Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư

    Việc Đế quốc Đại Nhật Bản xoá bỏ chính thể Vương quốc Ryūkyū vào năm 1879 đã được nhà cách mạng Phan Bội Châu dùng làm đề tài kêu gọi người dân Việt mau thức tỉnh trước hiểm hoạ đô hộ của thực dân Pháp. Tác phẩm Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư chuyển đạt khát vọng của ông muốn người Việt Nam dấn thân vì trách nhiệm với dân tộc và đất nước.

    Di sản thế giới

    Năm 2000, UNESCO đã công nhận quần thể thành trì vương quốc Ryūkyū, chủ yếu là vùng phía Nam đảo Okinawa, là di sản văn hóa thế giới. Các hạng mục của di sản này gồm:

    • Di tích thành Nakijin
    • Di tích thành Zakimi
    • Di tích thành Katsuren
    • Di tích thành Nakagusuku
    • Di tích thành Shuri
    • Cổng đá Sonohyan-Utaki
    • Lăng Tamaudun
    • Vườn Shikinaen
    • Di tích Seifa-Utaki


    Hình ảnh


    Dấu tích thành Katsuren trên bán đảo Katsuren, phía Đông Đảo Okinawa


    Triện của quốc vương Ryukyu được trưng bày tại Di tích thành Shuri


    Ryūkyū năm 1879


    Lăng Tamaudun


    Cổng đá Sonohyan-Utaki


    Di tích thành Nakijin


    Di tích thành Zakimi


    Di tích thành Katsuren


    Di tích thành Shuri


    Di tích thành Nakagusuku


    Chính điện của thành Shuri


    Vườn Shikinaen


    Di tích Seifa-Utaki
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  12. The Following 5 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), lynkloo (01-01-2012), Ngọc_san (10-12-2011), pethamlam (29-07-2012)

  13. #7
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Danh sách Vua Ryūkyū

    Lãnh chúa Okinawa


    Vua Chūzan


    Vua của Ryūkyū




    Lãnh chúa Okinawa

    Shunten (Nhật: 舜天) (1166 - 1237), là lãnh chúa đầu tiên và là người sáng lập ra triều Shunten của Okinawa từ năm 1187. Triều đại Shunten chỉ tồn tại 73 năm qua các đời con ông Shunbajunki và cháu nội Gihon nhưng nó đánh dấu một bước quan trọng trong việc xác định chủ quyền của người Ryukyu và thiết lập các mối quan hệ với tỉnh Yamato, Nhật Bản.

    Ông mất năm 1937 và truyền ngôi cho con trai là Shunbajunki. Dưới thời Shuten, ảnh hưởng của Nhật Bản đối với quốc đảo này rất mạnh. Đạo Phật được truyền bá từ Nhật Bản vào năm 1260, và những nhà truyền giáo Nhật Bản thường xuyên lui tới đây. Những người trốn chạy và thám hiểm Nhật Bản cũng tới đây như Tametomo. Nhưng Nhật bản không bao giờ muốn độc chiếm ảnh hưởng.

    Shunbajunki (Nhật: 舜馬順熙)(1185-1248) là lãnh chúa của Okinawa, đời thứ hai thuộc triều Tenson. Ông nối ngôi cha là Shunten năm 1237.

    Ảnh hưởng của Shunbajunki là xây dựng thành Shuri, và đưa vào sử dụng hệ thống chữ viết tiếng Nhật kana. Hệ thống chữ viết và tiếng Trung Quốc không được sử dụng cho đến gần 1 thế kỷ sau; thậm chí sau đó, các văn bản của chính quyền vẫn tiếp tục được viết bằng kana, cũng như trong thơ.

    Shunbajunki mất năm 1248, và con trai ông là Gihon đã nối ngôi.

    Gihon (Nhật: 義本)(1206 - ?) là lãnh chúa của Okinawa, đời thứ 3 của dòng Tenson hay triều Shunten. Ông nối ngôi cha Shunbajunki ở tuổi 44 vào năm 1248.

    Các sự kiện nổi bật dưới thời ông là các thảm họa khủng khiếp như nạn đói, dịch, và các cơn bão tàn phá. Khoảng năm 1254, ông chỉ định một quý tộc trẻ mang tên Eiso để nhiếp chính (Sessei), và để giúp đỡ khắc khục các thảm họa này. Khi Gihon thoái vị vào năm 1259 hoặc 1260 và "ở ẩn trong rừng", Eiso kế vị ông và bắt đầu một triều đại mới. Thời gian, địa điểm chính xác về cái chết của ông cũng không được xác định rõ, mặc dù chỉ biết rằng ông mất sau khi thoái vị một thời gian ngắn. Các câu chuyện truyền thuyết về ông còn được tìm thấy ở Hedo-misaki, vùng vực bắc của đảo Okinawa.

    Eiso (Nhật: 英祖)(1229-1299) là lãnh chúa của Okinawa, dòng Eiso đời thứ nhất. Ông nắm quyền từ năm 1260 sau khi tiếp vị Gihon cho đến khi ông qua đời năm 1299. Nhà Eiso trải qua 5 đời trong khoảng thời gian trị vì 90 năm.

    Các sự kiện nổi bật dưới thời Eiso là sự phát triển lớn đối với lãnh địa Okinawa còn non trẻ. Eiso đặt ra một số loại thuế và cải cách đất, và đất nước hồi phục sau các nạn đói và những vấn đề khác của thời kỳ trước. Một số quần đảo ở xa như Kumejima, Kurama, và Iheya đã nằm trong tầm quản lý của Okinawa, và bắt đầu gởi cống phẩm vào năm 1264. Sứ giả đã được gởi tới Amami Ōshima năm 1266, không lâu sau đó nó nằm trong tầm kiểm soát của Okinawa.

    Eiso cũng liên lạc với đế quốc Mông Cổ, vào khoảng thời gian mà đế quốc này lên kế hoạch đánh chiếm Nhật Bản. Các sứ giả của Hốt Tất Liệt đã đến Okinawa 2 lần vào năm 1272 và 1276 để yêu cầu vương quốc non trẻ này thuần phục Mông Cổ và hỗ trợ họ xâm chiếm Nhật Bản nhưng cả hai lần đều bị từ chối.

    Eiso mất ở tuổi 71, và con trai ông Taisei đã kế vị.

    Taisei (Nhật: 大成) (1247 - 1308) là lãnh chúa Okinawa đời thứ 2 thuộc dòng Eiso, là con lớn của Eiso. Ông trị vì từ năm 1300 đến khi qua đời và con ông là Eiji lên nối ngôi.

    Eiji (Nhật: 英慈) (1268 - 1313) là lãnh chúa Okinawa đời thứ 3 thuộc dòng Eiso, là con thứ 2 của Taisei. Ông trị vì từ năm 1309 đến khi qua đời. Tamagusuku con trai thứ 4 của Eiso lên nối ngôi ở tuổi 19 vào năm 1914, và bắt đầu một thời đại mới.

    Vua Chūzan

    Tamagusuku (玉城)(1296-1336) là lãnh chúa của Okinawa thuộc vương quốc Chūzan từ 1314-1336. Triều đại của ông chủ yếu được gợi lại sự yếu kém về kỹ năng lãnh đạo và trong việc cai trị. Ông là con trai thứ 3 của Eiji (tại vị 1309-1313), và thuộc đời thứ 4 của dòng Eiso (Ryukyu) (tại vị 1260-1299). Thất bại của ông trong việc cải cách hoặc đổi mới trong cai trị là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của dòng dõi mà người cuối cùng là người kế vị ông Seii.

    Kế vị cha Eiji ở tuổi 19, Tamagusuku thiếu uy tín và kỹ năng lãnh đạo để tạo sự thuần phục và lòng trung thành từ các vương gia (anji). Một số vương gia này đã nổi loạn, và đảo Okinawa bị chia thành lãnh địa của 3 vương quốc. Vương gia của Ozato chiếm giữ miền nam kinh đô của Tamagusuku và cùng với những người ủng hộ ông lập nên vương quốc Nanzan (南山, vùng núi phía nam), trong khi đó vương gia Nakijin lập nên vương quốc phía bắcHokuzan (北山, vùng núi phía bắc). Còn Tamagusuku vẫn duy trì quyền lực ở Urasoe trở thành vua của Chūzan.

    Seii (西威) (1326 – 1350) là vua thứ 2 của vương quốc Chūzan, Okinawa. Ông nối ngôi cha Tamagusuku năm 1336 lúc 10 tuổi. Triều đại của ông nổi bật bởi sự can thiệp vào triều chính của mẹ ông, và sự tham nhũng của bà. Bà đã lạm quyền và mất đi sự ủng hộ của quần thần đối với con bà.

    Sau cái chết của Seii vào khoảng năm 1350, Satto lên nắm quyền.

    Satto (察度) (1320 – 1395) là vua của Chūzan, một trong ba vương quốc trước đây trên đảo Okinawa. Triều đại của ông được đánh dấu bởi sự mở rộng và phát triển về quan hệ thương mại của Chūzan với các vùng lãnh thổ khác, và bắt đầu triều cống cho nhà Minh Trung Quốc, mối quan hệ này kéo dài gần 500 năm cho đến khi nhà Thanh sụp đổ.

    Governor của khu vực Urasoe, khu vực xung quanh và bao gồm cả kinh đô của Chūzan, Satto chiếm lấy ngai vàng sau cái chết của vua Seii năm 1350. Ông lập ra một triều đại mới, tuy nhiên, vương triều của ông lập ra chỉ kéo dài đến đời con ông Bunei và kết thúc năm 1405.

    Sứ giả của Trung Quốc đến Chūzan năm 1372 yêu cầu cho du nhập văn hóa Trung Quốc và Okinawa gởi đại diện đến Nam Kinh. Satto đồng ý các đề nghị này mà không do dự, vì điều này tạo nhiều thuận lợi trong thương mại với một quốc gia mạnh nhất trong khu vực.

    Bunei (武寧) (1356-1406) là vua cuối cùng của Chūzan, một trong 3 vương quốc cổ thuộc đảo Okinawa, trước khi nó được Shō Hashi hợp nhất thành vương quốc Ryūkyū.

    Bunei kế vị sau khi cha ông vua Satto qua đời. Dưới triều ông vẫn tiếp tục phát triển theo hướng của cha ông; đặc biệt, Bunei tiếp tục phát triển quan hệ thương mại chặt chẽ giữa Ryūkyū và Trung Quốc. Một trụ sở quan trọng được xây dựng ở Naha cho các sứ giả Trung Quốc và các nhiệm vụ tương tự, và một trung thâm thương mại được thành lập ở cạnh đó. Ngoài ra, biên niên sử hoàng gia bắt đầu được biên soạn; Rekidai Hoan (Treasury of Royal Succession) được biên soạn năm 1403.

    Sho Shisho (尚思紹王) (1354 - 1421) là vua đầu tiên của nhà Sho thứ nhất sau khi con ông Sho Hashi nổi dậy lật đổ Bunei năm 1406. Sau khi ông mất, con ông là Sho Hashi nối ngôi năm 1422 và thống nhất Okinawa lập nên vương quốc Ryukyu.


    Shō Hashi (尚巴志) (1371 – 1439, trị vì 1422-1439) là vua đầu tiên của vương quốc Ryukyu (nay là tỉnh Okinawa, Nhật Bản), sau khi thống nhất 3 vương quốc Chūzan, Hokuzan, và Nanzan. Tên của ông trong tiếng Nhật là "Shō Hashi", còn trong tiếng Trung Quốc là Shang Bazhi, phiên âm Hán-Việt là Thượng Ba Chí.


    Là một anji (lãnh chúa địa phương) của Soshiki Mairi, Ông được coi là một người có tài cầm quyền trong lãnh địa của mình, và là một người nổi bật vào đầu thế kỷ 15. Ông dẫn đầu một cuộc nổi loạn nhỏ chống lại lãnh chúa vùng Azato năm 1402. Sau đó, Hashi lật đổ Vua Bunei của Chūzan năm 1406[1] và đưa cha ông Shō Shishō lên ngôi. Thậm chí khi cha ông lên ngôi, Hashi là người thực sự nắm quyền điều hành cũng như sắp xếp đưa sứ giả đến Nam Kinh để cam đoan với Trung Quốc rằng vương quốc Ryūkyū vẫn tiếp tục triều cống và hợp tác cũng như thắt chặt mối giao hữu. Ông cũng sắp xếp lại phần lớn bộ máy nhà nước để thích hợp hơn với các mô hình của Trung Quốc. Người dân Chūzan cũng nhanh chóng thích nghi với một số nét văn hóa Trung Quốc, và được người Trung Quốc công nhận là đã được văn minh hóa ít nhất là hơn một chút so với trước đó. Hashi cũng giám sát việc mở rộngg và chỉnh trang thành Shuri, và đặt các cột mốc khoảng cách (giống nhưcây số) trên khắp đất nước lấy mốc chuẩn là Shuri.

    Shō Hashi mất năm 1439, ở tuổi 68, là người có công thống nhất Ryūkyū và thiết lập vị trí của nó tuy nhỏ nhưng đầy quyền lực trong khu vực. Sau khi ông qua đời, quần thần chỉ định con thứ hai của ông, Shō Chū lên nối ngôi, và gởi phái viên đến Trung Quốc để xin phê chuẩn việc đăng cơ, và gởi đến Chinh di Đại Tướng quân Nhật Bản ở Kyoto và một số vương quốc khác để thông báo sự thay đổi này với tư cách ngoại giao.

    Vua của Ryūkyū

    Shō Hashi (尚巴志) (1371 – 1439, trị vì 1422-1439)

    Shō Chū (尚忠) (trị vì 1440–1442) là vua của Triều Sho thứ nhất

    Shō Shitatsu (尚思達) (trị vì 1443–1449) là vua của Triều Sho thứ nhất

    Shō Kinpuku (尚金福) (trị vì 1450–1453) là vua của Triều Sho thứ nhất

    Shō Taikyū (尚泰久) (trị vì 1454–1460) là vua của Triều Sho thứ nhất

    Shō Toku (尚徳) (trị vì 1461–1469) là vua của Triều Sho thứ nhất


    Shō En (尚円) (trị vì 1470–1476) là vua của Triều Sho thứ hai


    Shō Sen'i (尚宣威) (trị vì 1477) là vua của Triều Sho thứ hai

    Shō Shin (尚真) (trị vì 1477–1526) là vua của Triều Sho thứ hai


    Shō Sei (尚清) (trị vì 1527–1555) là vua của Triều Sho thứ hai

    Shō Ei (尚永) (trị vì 1573–1586) là vua của Triều Sho thứ hai

    Shō Nei (尚寧) (trị vì 1587–1620) là vua của Triều Sho thứ hai, trị vị trong cuộc xâm lược của quân Satsuma và là vị vua đầu tiên thành chư hầu của Satsuma


    Shō Hō (尚豊) (trị vì 1621–1640) là vua của Triều Sho thứ hai


    Shō Ken (尚賢) (trị vì 1641–1647) là vua của Triều Sho thứ hai

    Shō Shitsu (尚質) (trị vì 1648–1668) là vua của Triều Sho thứ hai

    Shō Shōken (尚象賢) (1617-1675, trị vì 1666–1673) là Sessei (nhiếp chính) và còn là nhà sử học người Ryūkyū đầu tiên.

    Shō Tei (尚貞) còn gọi là Shang Jing (1645–1709, trị vì 1669–1709) là vua của Triều Sho thứ hai


    Shō Eki (尚益) còn gọi là Shang Ben (1678–1712, trị vì 1710–1712) là vua của Triều Sho thứ hai

    Shō Kei (尚敬) còn gọi là Shang Jing (1700–1751, trị vì 1713–1751) là vua của Triều Sho thứ hai


    Sai On (蔡温) (1682–1761, trị vì 1711–1752) là nhiếp chính và là học giả và sử gia lớn của Ryūkyū.

    Shō Boku (尚穆) còn gọi là Shang Mu (1739–1795, trị vì 1752–1795) là vua của Triều Sho thứ hai


    Shō On (尚温) còn gọi là Shang Wen (1784–1802, trị vì 1796–1802) là vua của Triều Sho thứ hai

    Shō Sei (尚成) còn gọi là Shang Cheng (1783–1804, trị vì 1803–1804) là vua của Triều Sho thứ hai

    Shō Kō (尚灝) còn gọi là Shang Hao (1787–1839, trị vì 1804–1828) là vua của Triều Sho thứ hai


    Shō Iku (尚育) còn gọi là Shang Yu (1813–1847, trị vì 1829–1847) là vua của Triều Sho thứ hai


    Shō Tai (尚泰) còn gọi là Shang Tai (1843–1901, trị vì 1848–11 tháng 3 1879) là vua của Triều Sho thứ hai và là vua cuối cùng của Ryūkyū



    Kasumi@JPN
    Tổng hợp từ wiki
    Ảnh: google
    thay đổi nội dung bởi: Kasumi, 10-12-2011 lúc 03:40 PM
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  14. The Following 3 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), lynkloo (01-01-2012)

  15. #8
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Tiếng Okinawa

    Tiếng Okinawa (Okinawan: ウチナーグチ(沖縄口) Bản mẫu:IPA-ryu) thuộc hệ ngôn ngữ Ryukyu được sử dụng ở các đảo phía nam của Okinawa, Nhật Bản như Kerama, Kume-jima, Tonaki, Aguni, và các đảo nhỏ khác nằm ở phía đông của đảo chính Okinawa.

    Tiếng Okinawa có hai nhóm tiếng địa phương chính: Trung tâm (chuẩn, Shuri-Naha) và phía nam. Tiếng địa phương Shuri đã được chuẩn hóa trong suốt thời kỳ của vương quốc Ryukyu, khi Shō Shin (1477–1526) còn tại vị. Nó là ngôn ngữ chính thức được hoàng gia và và tầng lớp quý tộc ở đây sử dụng. Tất cả các bài hát và thơ sử dụng ngôn ngữ này trong thời kỳ đó được viết bằng phương ngữ Shuri.

    Tiếng Okinawa được sử dụng ở phía bắc Okinawa thường được xem là một ngôn ngữ riêng biệt, tiếng Kunigami.

    Âm vị học

    Nguyên âm

    Tiếng Okinawa có 3 nguyên âm ngắn, /a i u/, và 5 nguyên âm dài, /aː eː iː oː uː/. Trong đó, /u/ là âm tròn môi, không giống như tiếng Nhật.

    Phụ âm



    Naha

    Naha (phát âm theo tiếng Nhật, 那覇市) hoặc Nāfa (phát âm theo tiếng Okinawa) là một thành phố của Nhật Bản, thủ phủ, trung tâm thương mại, văn hóa, giáo dục và là thành phố lớn nhất của tỉnh Okinawa.

    Naha hiện đại được thành lập vào năm 1920 tại địa điểm trước là kinh đô của vương quốc Ryukyu từ đầu thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 19. Naha nằm bên bờ biển phía Nam đảo chính Okinawa. Thành phố rộng 39,23 km² và có 313.970 dân.

    Ở Naha có nhiều điểm thu hút khách du lịch, đó là thành Shuri-hoàng thành của vương quốc Ryukyu xưa và là một hạng mục của di sản văn hóa thế giới quần thể thành trì vương quốc Ryūkyū, Đại lộ Kokusai nơi có nhiều cửa hàng ẩm thực Okinawa và cửa hàng bán đồ lưu niệm.


    Tường thành Shuri ở Naha


    Sân bay Naha và cảng Naha kết nối thành phố này với các vùng đất khác của Nhật Bản. Sân bay Naha cũng đồng thời là cảng hàng không chính của Okinawa. Hệ thống monorail, hay được gọi là Yui Rail (ゆいレール)từ Ga Sân bay Naha tới Đại lộ Kokusai, Shintoshin và ga Shuri gần thành Shuri.


    Khách sạn Loisir ở Naha


    Naha chính là nơi ra đời phái võ Naha-te. Môn này cùng với Tomari-te (có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc) và Shuri-te (võ của hoàng gia Ryukyu) chính là các nguồn gốc của Okinawa-te, tiền thân của Karate sau này.


    Sân bay Naha

    Sân bay Naha (Nhật: 那覇空港 Naha Kūkō) là một sân bay cấp hai ở thành phố Naha. Nhà ga hàng đầu phục vụ cho vận chuyển hành khách và hàng hóa từ tỉnh Okinawa, Nhật Bản. Sân bay này phục vụ các chuyến bay quốc tế đến Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc và Philippines. Đây là sân bay lớn thứ 5 của Nhật Bản với 30 điểm đến, 150 chuyến bay mỗi ngày. Từ sân bay này đến thành phố Naha bằng xe bus và xe điện trên cao.

    Nhà ga chính

    • All Nippon Airways (Tokyo-Haneda, Tokyo-Narita, Fukuoka, Hiroshima, Ishigaki, Kagoshima, Kumamoto, Miyako, Miyazaki, Nagasaki, Nagoya-Centrair, Oita, Osaka-Itami, Osaka-Kansai, Sendai)
    • Japan Airlines (Fukuoka, Nagoya-Centrair, Osaka-Itami, Osaka-Kansai, Sapporo-Chitose, Tokyo-Narita, Tokyo-Haneda)
      • Japan Transocean Air (Fukuoka, Fukushima, Ishigaki, Kochi, Komatsu, Kumejima, Matsuyama, Miyako, Okayama, Osaka-Kansai, Tokyo-Haneda, Toyama)
    • Ryūkyū Air Commuter (Aguni, Amamioshima, Kerama, Kitadaito, Kumejima, Minamidaito, Yonaguni, Yoron)
    • Skymark Airlines (Tokyo-Haneda, occasionally)


    Ga quốc tế

    • Asiana Airlines (Seoul-Incheon)
    • China Airlines ([Đài Bắc]-Taiwan Taoyuan)
    • China Eastern Airlines (Thượng Hải-Pudong)
    • Philippine Airlines (Manila)


    Website sân bay (tiếng Nhật) http://www.naha-airport.co.jp
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  16. The Following 3 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), lynkloo (01-01-2012)

  17. #9
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Trận Okinawa


    Trận Okinawa một phần của Chiến tranh Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai.


    Lính Mỹ cắm cờ chiến thắng trên thành Shuri, Naha, Okinawa vào ngày 30 tháng 5, 1945



    Trận Okinawa (tiếng Anh: Battle of Okinawa, tiếng Nhật: 沖縄戦, Okinawa-sen), hay còn gọi là chiến dịch Iceberg (chiến dịch Băng Sơn) là trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai giữa quân Đồng Minh (chủ lực là Mỹ) và đế quốc Nhật Bản tại đảo Okinawa thuộc quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu). Đây cũng là cuộc đổ bộ quân sự lớn nhất tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai.

    Trận đánh kéo dài trong 82 ngày, từ tháng 3 đến tháng 6 1945 với kết quả quân Mỹ chiếm được Okinawa. Đây cũng là một trong những trận đánh có số thương vong cao nhất trong Thế chiến thứ hai: phía Nhật mất hơn 100.000 quân và quân Đồng Minh (chủ yếu là lính Mỹ) thương vong hơn 50.000 người trong đó hơn 12.000 người chết. Ngoài ra còn một số lượng lớn dân thường trên đảo lên đến hàng nghìn người chết do bom đạn, bệnh tật và tự sát.

    Vị trí Okinawa và hoàn cảnh trận đánh

    Quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu) nằm về phía nam đảo Kyushu (Cửu Châu), một trong bốn đảo lớn nhất của Nhật Bản. Okinawa là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Ryukyu, dài gần 100 km nhưng chỉ rộng từ 2 đến 4 km, diện tích 2.255 km2. Đảo Okinawa rất lí tưởng cho việc thành lập sân bay. Nước xung quanh cũng rất sâu, thuận lợi để xây dựng các quân cảng. Khí hậu cận nhiệt đới, được điều hòa bởi 2 dòng hải lưu lớn Kuro Shivo và Ogasa Wara. Độ ẩm cao quanh năm, mưa nhiều và thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão nhiệt đới vào mùa hè.

    Vị trí Okinawa

    Okinawa có một vị trí chiến lược quan trọng. Nó nằm trên ngã tư quốc tế ở Đông Á, giữa Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Năm 1875, Minh Trị Thiên hoàng đã gửi đến đây một lực lượng chiếm đóng thường trực và 4 năm sau đảo chính thức trở thành 1 phần lãnh thổ Nhật Bản. Trên nguyên tắc người dân trên đảo bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như người Nhật ở chính quốc nhưng người Nhật vẫn xem họ như dân thuộc địa. Một điều đặc biệt là đa số dân trên đảo theo đạo thờ cúng ông bà, rất ít người theo Thần giáo như Nhật Bản.

    Ngày 19 tháng 2 1945, lính thủy đánh bộ Mỹ bắt đầu cuộc đổ bộ lên đảo Iwo Jima. Trận Iwo Jima kéo dài trong hơn 1 tháng đã kết thúc với thắng lợi thuộc về người Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ đã phải trả một giá đắt với con số thương vong của lính Mỹ tại Iwo Jima là hơn 20.000 người. Với thắng lợi trên, người Mỹ đã tiến sát đến hàng rào phòng thủ cuối cùng của Nhật Bản và mục tiêu tiếp theo của họ là Okinawa. Chiếm được Okinawa, họ sẽ có thêm một căn cứ hải quân và đặc biệt là không quân lợi hại phục vụ cho cuộc đổ bộ lên quần đảo Nhật Bản để kết thúc chiến tranh.

    Các lực lượng tham gia trận đánh

    Lục quân

    • Nhật Bản


    Suốt 3 năm đầu của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, quân số Nhật trên quần đảo Ryukyu chỉ có 600 người. Phải đến ngày 1 tháng 4 1944 thì quân đoàn 32 lục quân gồm ba sư đoàn 9, 24, 62 và lữ đoàn hỗn hợp 44 mới được đưa đến đây để chuẩn bị chống lại cuộc đổ bộ của người Mỹ.

    Sư đoàn 9 và sư đoàn 24 được đưa từ Mãn Châu đến với 14.000 quân còn sư đoàn 62 gồm 12.000 quân đã có nhiều năm chiến đấu trên chiến trường Trung Quốc. Riêng lữ đoàn hỗn hợp 44 có 5.000 quân. Tuy nhiên đến cuối năm 1944, sư đoàn 9 đã bị điều đi Đài Loan làm cho lực lượng phòng thủ trên đảo bị giảm sút. Ngoài ra còn có 9.000 lính hải quân Nhật đóng tại căn cứ hải quân Oroku nhưng chỉ khoảng vài trăm người trong số đó được huấn luyện quân sự tác chiến trên đất liền. Trên đảo còn có một trung đoàn thiết giáp với 14 xe tăng hạng trung và 13 xe tăng hạng nhẹ.


    Sĩ quan chỉ huy của quân đoàn 32 Nhật Bản tại Okinawa, tháng 2 1945


    Đặc biệt, trên đảo còn có 39.000 người bản xứ Ryukyu (bao gồm 24.000 dân vệ mới nhập ngũ gọi là Boeitai và 15.000 nhân công). Ngoài ra còn 1.500 học sinh trung học và 600 sinh viên làm nhiệm vụ chăm sóc quân lính bị thương.

    Chỉ huy trưởng lực lượng phòng thủ trên đảo là trung tướng Mitsuru Ushijima, tham mưu trưởng là trung tướng Isamu Chō và trưởng phòng tác chiến là đại tá Hiromichi Yahara. Chỉ huy các lực lượng phía Bắc đảo là đại tá Takehido Udo. Các lực lượng lính hải quân Nhật còn lại do chuẩn đô đốc Minoru Ota chỉ huy.

    Tướng Ushijima cho rằng quân Mỹ sẽ đổ bộ lên bờ biển phía Tây ở bãi biển Hagushi. Tuy nhiên, ông chủ trương không đánh quân Mĩ ngay tại bờ biển mà tập trung quân ở phía nam đảo, quanh thành phố Naha, thủ phủ của đảo và các vùng phụ cận. Chế ngự giữa thành phố Naha và thành phố Shuri là dãy núi Shuri. Đây chính là phòng tuyến chính của quân Nhật. Những hang động, hào sâu và địa địa đạo nối liền các ổ kháng cự. Hai sư đoàn 24 và 62 được giao nhiệm vụ giữ phòng tuyến này. Lữ đoàn hỗn hợp số 44 đóng ở cực Nam đảo cùng với một lực lượng tương đương một sư đoàn. Ở phía Bắc đảo chỉ có hai tiểu đoàn trấn giữ. Đến tháng 3 năm 1945, mọi sự bố phòng đã được chuẩn bị xong, trong tay tướng Ushijima có hơn 100.000 lính chuẩn bị sẵn sàng chờ đón cuộc đổ bộ của người Mỹ.

    • Mỹ


    Lực lượng lục quân Mỹ tham gia chiến đấu là Tập đoàn quân số 10 do Trung Tướng Simon Bolivar Buckner chỉ huy. Tập đoàn quân này gồm 2 quân đoàn : Quân đoàn đổ bộ III của Thiếu Tướng Roy Geiger gồm 2 sư đoàn lính thuỷ đánh bộ 1 và 6, quân đoàn XXIV của Thiếu Tướng John R. Hodge gồm 2 sư đoàn bộ binh 7 và 96. Sư đoàn 2 lính thuỷ đánh bộ là lực lượng dự phòng. Ngoài ra còn có sư đoàn bộ binh 27 làm nhiệm vụ đồn trú sau này và sư đoàn bộ binh 77. Tổng cộng Tập đoàn quân có tổng cộng 102.000 lục quân, 88.000 lính thuỷ đánh bộ và 18.000 lính hải quân.

    Đúng như dự tính của tướng Ushijima, kế hoạch của người Mỹ là sẽ đổ bộ lên bãi biển Hagushi nằm về phía tây Okinawa và do quân đoàn XXIV và quân đoàn đổ bộ 3 thực hiện. Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 2 sẽ thực hiện một cuộc tấn công nghi binh tại bãi biển Minatoga ở bờ biển phía đông nam để làm bối rối lực lượng phòng thủ về ý định tấn công chính của người Mỹ.

    Hải quân

    • Mỹ


    Tổng lực lượng hạm đội Đồng Minh tại Okinawa là 1,600 tàu bao gồm 40 hàng không mẫu hạm, 18 thiết giáp hạm, 32 tuần dương hạm và 200 khu trục hạm. Lực lượng hải quân phải nhận nhiệm vụ bắn phá dọn bãi cho cuộc đổ bộ đồng thời phải vận chuyển 183.000 quân đổ bộ và 747.000 tấn quân nhu, quân cụ, khí tài. Để vận chuyển hết số lượng người và vật chất đó, Đồng Minh đã sử dụng 430 tàu vận tải cất hàng ở nhiều nơi khắp Thái Bình Dương từ Seattle (Mĩ) hoặc từ đảo Leyte (Philippines).

    Hầu hết các lực lượng không quân Mỹ tham gia trận đánh gồm máy bay tiêm kích, máy bay ném bom bổ nhào và máy bay cường kích đều xuất phát từ các hàng không mẫu hạm ngoài khơi. Để chống lại hạm đội Mỹ, người Nhật đã phải sử dụng chiến thuật Thần Phong (Kamikaze) vốn đã bắt đầu từ trận hải chiến vịnh Leyte nhưng đến trận Okinawa thì đã trở thành 1 phần của kế hoạch phòng thủ. Từ khi quân Mĩ bắt đầu đổ bộ từ ngày Lễ Phục sinh 1 tháng 4 cho đến ngày 25 tháng 5, 7 cuộc tấn công Kamikaze bao gồm 1,500 máy bay đã được thực hiện gây rất nhiều tổn thất cho lực lượng hải quân Mỹ và Đồng Minh.

    • Khối Thịnh vượng chung Anh


    Trong khi lực lượng lục quân Đồng Minh đa số là lính Mĩ thì hạm đội Thái Bình Dương của Anh (BPF, được xem như Lực lượng Đặc nhiệm 57 của hải quân Mỹ) đã cung cấp 1/4 sức mạnh không hải quân (450 máy bay). Hạm đội này có 50 tàu chiến với 17 trong số đó là các hàng không mẫu hạm. Để chống lại chiến thuật Kamikaze, người Anh sử dụng boong tàu bọc thép giúp cho các tàu có khả năng chịu đựng tốt hơn các cuộc tấn công nhưng bù lại phải mang ít máy bay hơn. Mặc dù toàn bộ số hàng không mẫu hạm trên đều của vương quốc Anh cung cấp nhưng nhóm các mẫu hạm này lại có sự góp mặt của tàu và nhân lực của cả Khối Thịnh vượng chung Anh : Anh, Canada, New Zealand và Australia. Nhiệm vụ của hạm đội này là khống chế các sân bay Nhật trên quần đảo Sakishima và yểm trợ về mặt không lực chống chiến thuật Kamikaze.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  18. The Following 3 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), lynkloo (01-01-2012)

  19. #10
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Diễn biến

    Chuẩn bị đổ bộ

    Chiến tranh bắt đầu đến với Okinawa lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 9 1944 khi các máy bay B29 đến ném bom các sân bay và máy bay trinh sát của Mỹ thực hiện thu thập không ảnh. Cuộc tấn công của các hàng không mẫu hạm Mỹ đến ngay sau đó vào ngày 10 tháng 10 nhằm yểm trợ cho cuộc đổ bộ vào Leyte. Một trận không chiến đã diễn ra tại Formosa và chỉ trong 3 ngày người Nhật mất 500 máy bay và 36 tàu. Hòn đảo lại bị oanh tạc vào ngày 3 và 10 tháng 1 bởi Lực lượng Đặc nhiệm số 38 (TF 38), và vào ngày 1 và 31 tháng 3 bởi Lực lượng Đặc nhiệm 58 (TF 58) sau khi lực lượng này đã tham gia oanh tạc Tokyo. Hải quân Mỹ đã khống chế hoàn toàn Ryukyu từ Formosa đến Nhật Bản. Vào cuối tháng 3, người Nhật không còn bất kì một máy bay nào ở Okinawa và nhiều thành phố (trong đó có cả Naha và Shuri) đã bị tàn phá nặng nề.

    Ngày 24 tháng 3, năm thiết giáp hạm trang bị các hải pháo 16 in và 11 khu trục hạm đã tham gia bắn phá Okinawa. Một tuần lễ sau, các toán người nhái đặc biệt bơi vào bãi biển Hagushi, tháo gỡ các chướng ngại và phá hủy các thủy lôi. Ngày 25 tháng 3, 9 thiết giáp hạm, 10 tuần dương hạm và 32 khu trục hạm cùng 177 pháo hạm bắn phá Okinawa một cách dữ dội từ đó cho đến ngày đổ bộ. Khoảng 37.000 đạn pháo 5 in, 33.000 đạn pháo 4.5 in đã được trút xuống hòn đảo. Ngoài ra còn 3.100 cuộc không kích vào bãi biển và các vị trí phòng thủ sâu bên trong. Quân Nhật trước những hành động đó vẫn tỏ ra im lặng để tiết kiệm đạn và cũng để người Mỹ không phát hiện được các vị trí phòng thủ của họ. Ngày 31 tháng 3 là ngày bắn phá dữ đội nhất, 27.226 quả đạn pháo đã được trút xuống hòn đảo. Tuy nhiên, cũng giống như ở Iwo Jima trước đây, cuộc bắn phá này của người Mĩ đã không ảnh hưởng gì mấy đến hệ thống phòng thủ của người Nhật.

    Những cuộc hành quân đầu tiên

    Những người Mỹ đầu tiên đổ bộ lên bờ là sư đoàn bộ binh 77. Nơi đổ bộ của họ là quần đảo Kerama (Kerama Retto), 15 dặm (24 km) phía tây Okinawa vào ngày 26 tháng 3, 1945. Kerama được tuyên bố an toàn vào năm ngày sau. Trong cuộc hành quân sơ khởi này, sư đoàn 77 có 31 người chết và 81 người bị thương trong khi số lính Nhật chết là 530 người và 121 người bị bắt. Thành công của cuộc hành quân này giúp cho hạm đội Đồng Minh có thêm một vị trí thả neo chắc chắn và loại trừ mối nguy hiểm từ các thuyền cảm tử của người Nhật. 1.200 dân thường chết trong cuộc tấn công và 150 người khác tự sát. Những người lính Nhật còn sống sót tiếp tục trụ lại tại Tokashiki cho đến ngày chiến tranh kết thúc.


    Quân Mĩ đổ bộ lên quần đảo Kerama

    Ngày 31 tháng 3, lính thủy đánh bộ thuộc tiểu đoàn trinh sát đã đổ bộ lên bờ mà không gặp phải bất cứ sự kháng cự nào tại Keise Shima, 4 hòn đảo nhỏ cách 8 dặm (13 km) phía tây thủ phủ Okinawa là Naha. Pháo 155 mm Long Toms đã được đưa lên các đảo này để yểm trợ cho cuộc tấn công Okinawa.

    Cuộc đổ bộ an toàn

    Ngày đổ bộ tại Okinawa là ngày 1 tháng 4, trùng với ngày lễ Phục sinh và ngày Cá tháng tư trong năm 1945 và tên chính thức của ngày này là Ngày L. Lực lượng Mỹ tham gia đổ bộ là quân đoàn XXIV và quân đoàn đổ bộ III và địa điểm là bãi biển Hagushi.


    Lính thủy đánh bộ Mĩ đổ bộ lên bờ biển Okinawa

    Từ 5 giờ sáng, hải pháo đã bắn phá hòn đảo một cách mãnh liệt và tập trung nhất là ở vùng bờ biển. Ngoài khơi, hàng trăm tàu đổ bộ đã dàn hàng ngang sẵn và chuẩn bị vào bờ. Đúng 8 giờ tàu chạy vào bờ. Toàn bộ các lực lượng Mỹ khi đổ bộ lên bờ đã không gặp phải sự chống cự nào, khác xa so với những gì người Mĩ từng gặp phải tại Peleliu, Tarawa hay Iwo Jima. Ngay trong giờ đầu tiên đã có 50.000 lính Mĩ đổ bộ lên bờ và đến tối ngày L, 60.000 lính Mỹ đã có mặt trên bờ biển một vùng rộng 4,5 km và vào sâu 1,5 km. Vũ khí hạng nặng và xe thiết giáp đã được đưa lên bờ lúc 14 giờ. Tổng cộng quân Mỹ chết 28 người (trong đó có 3 người bệnh tim) và 27 người mất tích (rơi xuống biển).
    Tập đoàn quân số 10 tiếp tục tiến về phía nam và trung tâm đảo với một sự dễ dàng, chiếm được 2 sân bay Kadena và Yomitan. Chỉ có một sự kháng cự nhỏ của dân vệ tại sân bay Kadena. Điều này là quá bất thường và các chỉ huy quân Mĩ đều lấy đó làm lo lắng cho những diễn biến sắp tới.

    Hết ngày thứ 2 sang ngày thứ 3 của trận đánh, lính Mỹ từ bờ Tây tiến đến bờ Đông và cắt hòn đảo ra làm 2 phần. Họ đã chiếm được 2 trong số 5 sân bay trọng yếu trên đảo. Đến làng Shimabuku, lính Mĩ được hai người Nhật cao tuổi ra đón, tự giới thiệu là thôn trưởng và giáo viên. Họ cho biết 1.300 dân làng vẫn đang ở tại nhà mình.

    Cuộc hành quân Ten-go

    Cuộc hành quân Ten-go (Ten-gō sakusen) là trận đánh cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong cuộc chiến. Sau thất bại ở Philippines, hải quân Nhật đã hoàn toàn kiệt quệ và hậu quả là khi quân Mỹ đổ bộ lên Iwo Jima, không một chiến hạm nào của hải quân Nhật được phái đến yểm trợ. Nhưng giờ đây khi đến lượt Okinawa bị tấn công thì giới lãnh đạo hải quân Nhật đã cho hạm đội xuất kích để thực hiện một cuộc hành quân được xem là tự sát khi so sánh tương quan lực lượng giữa hạm đội Nhật và hạm đội Đồng Minh. Thật ra chuyến đi này là một nhiệm vụ nhử địch. Theo kế hoạch, khi các hàng không mẫu hạm Đồng minh đang bận đối phó với hạm đội Nhật thì từ phi trường Kanoya, nằm ở cực nam Kyushu sẽ cho xuất kích hàng trăm máy bay Thần phong tấn công Okinawa.


    Thiết giáp hạm Yamato phát nổ sau cuộc tấn công của các máy bay Mỹ


    Ngày 5 tháng 4, đô đốc Soemu Toyoda, tư lệnh Hạm đội Liên hợp ra lệnh cho phó đô đốc Seiichi Ito, tư lệnh hạm đội số 2 tiến đánh hạm đội Đồng minh đang thả neo tại Okinawa. Lực lượng hạm đội Nhật tham gia cuộc hành quân này bao gồm thiết giáp hạm Yamato, tuần dương hạm nhẹ Yahagi và 8 khu trục hạm. Chiều ngày 6 tháng 4, hạm đội bắt đầu nhổ neo đi chiến đấu. Tuy nhiên đến sáng ngày 7 tháng 4, hạm đội này đã bị người Mỹ phát hiện.

    Trưa ngày 7 tháng 4, trong khoảng thời gian hơn 2 giờ đồng hồ, hạm đội Nhật đã bị 386 máy bay xuất phát từ các hàng không mẫu hạm Mỹ tấn công. Kết quả là phía Mỹ có 12 phi công thiệt mạng và 10 chiếc bị hỏa lực phòng không bắn rơi trong khi hạm đội số 2 của Nhật chỉ còn 3 khu trục hạm tồn tại, siêu thiết giáp hạm Yamato và tuần dương hạm Yahagi đã bị chìm. Tổng cộng có 2.498 người của Yamato, 446 người của Yahagi và 721 người của các khu trục hạm khác thiệt mạng. Phó đô đốc Ito cũng chìm cùng tàu Yamato. Với việc thiết giáp hạm Yamato bị đánh chìm, hải quân Hoàng gia Nhật xem như cũng chìm theo.

    Chiến trận tại phía nam đảo

    Sau 1 tuần hành quân chiếm đóng các vị trí xung yếu mà chưa gặp được đối phương, hai sư đoàn bộ binh 7 và 96 của Mỹ được lệnh tiến xuống phía Nam đến chân dãy núi Shuri. Nơi đây, đảo rộng đến 6 km, có nhiều dãy núi đá vôi đầy hang động, hẻm sâu và hẹp. Các lực lượng quân Nhật phòng thủ tại đây đang đón chờ cuộc tấn công của người Mỹ. Kế hoạch phòng thủ của người Nhật là sử dụng sư đoàn số 62 giữ phòng tuyến chính, trong khi sư đoàn 24 làm lực lượng dự phòng nếu quân Mĩ đổ bộ về phía nam. Sư đoàn 62 đã chọn được những vị trí chiến đấu vô cùng thuận lợi với lữ đoàn 63 ở cánh phải và lữ đoàn 64 ở cánh trái.

    Hai sư đoàn quân Mỹ đã bất ngờ gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ quanh đỉnh Cactus, Kiyaniku và Tombstone, khoảng 5 dặm về phía tây bắc Shuri. Một vị trí then chốt của nơi này, gọi là 'The Pinnacle' đã được trung đoàn số 184 chiếm được vào ngày 6 tháng 4 và đây cũng chính là nơi Phó đề đốc Matthew Calbraith Perry đã cắm lá cờ Mỹ năm 1853. Lữ đoàn 63 Nhật đã kiên cường chống trả suốt từ ngày 6 đến 8 tháng 4. Phải đến đêm ngày 8 tháng 4, quân đoàn XXIV Mỹ mới chiếm được đỉnh núi sau khi tiêu diệt một số vị trí phòng thủ mạnh của quân Nhật. Thương vong của lính Mỹ là 1.500 người trong khi có 4.500 lính Nhật bị bắt và bị giết. Cuộc chiến tại phòng tuyến Shuri chỉ mới bắt đầu.

    Mục tiêu tiếp theo của người Mỹ là đỉnh Kakazu. Trung đoàn bộ binh 383 (thuộc sư đoàn bộ binh 96) bắt đầu tiến công nơi này vào ngày 9 tháng 4. Nhưng hết đợt này đến đợt khác, họ bị hỏa lực mạnh mẽ của quân Nhật đẩy lùi. Phải đến ngày 12 tháng 4, quân Mỹ mới chiếm được đỉnh núi với cái giá phải trả 451 người chết trong khi lữ đoàn 63 Nhật mất 5.750 người. Trong khi đó, sư đoàn 7 ở phía Đông tiến rất chậm chạp vì địa hình hiểm trở và sức kháng cự mạnh của quân Nhật. Lực lượng dự phòng của tập đoàn quân số 10, sư đoàn lính thủy đánh bộ số 2 rời Saipan ngày 11 tháng 4 dự tính đổ bộ lên đảo vào tháng 7 nhưng cuộc đổ bộ này đã không bao giờ diễn ra.

    Đến thời điểm này, một số chỉ huy Nhật hiếu chiến muốn tổ chức phản công. Nhưng đại tá Hiromichi Yahara đã từ chối ý kiến của họ và chỉ ra rằng nếu cuộc phản công có thành công trên các đỉnh núi thì quân Nhật sẽ vẫn bị nghiền nát ở đồng bằng bởi hỏa lực Mỹ. Tuy nhiên khi quân Mỹ ngày càng sa lầy trước phòng tuyến Shuri, tướng Ushijima đã đưa ra kế hoạch phản công : trung đoàn bộ binh 22 (thuộc sư đoàn 24) sẽ di chuyển về phía Bắc từ bán đảo Okoru tấn công quân Mĩ đang ở phía đông phòng tuyến của lữ đoàn 63. Phần còn lại của lữ đoàn 63 sẽ phối hợp cùng tiểu đoàn bộ binh 272 (thuộc sư đoàn 62) tấn công từ phía tây. Cuộc phản công đã bắt đầu vào lúc 19.00 ngày 12 tháng 4 sau 30 phút dọn bãi bằng pháo binh. Tuy nhiên do phối hợp tác chiến không đồng bộ cộng với hỏa lực quá lớn từ quân Mỹ nên cuộc phản công đã không thu được nhiều kết quả. Trung đoàn 22 Nhật do không quen với địa hình nên cuộc tấn công nên đã phải rút lui. Trong khi đó tiểu đoàn 272 Nhật lại gây ra cho sư đoàn 96 Mỹ nhiều khó khăn. Cuộc phản công của người Nhật tiếp tục diễn ra trong hai ngày 13 và 14 tháng 4 đã ngăn cản được bước tiến của quân Mỹ nhưng đồng thời khiến cho hàng nghìn lính Nhật chết trận. Nhiều chỉ huy Nhật đã phải ra lệnh cho quân lính mình rút lui và nhiều lính Nhật đứng tần ngần vì trước giờ chưa bao giờ nghe lệnh trên.


    Lính thủy đánh bộ Mỹ hành quân qua một ngôi làng nhỏ đổ nát với xác lính Nhật trên đường


    Trong lúc giao tranh ác liệt đang bắt đầu tại phòng tuyến Shuri, Bộ tư lệnh tối cao Nhật quyết định mở cuộc tấn công mới vào hạm đội Đồng minh ngoài khơi Okinawa. 7 giờ 30 phút sáng ngày 13 tháng 4 khi các loa phóng thanh của quân đội Mỹ đồng loạt báo tin tổng thống Franklin D. Roosevelt đã từ trần chiều hôm qua thì cũng là lúc 185 máy bay Thần Phong, được 150 chiến đấu cơ Zero và 45 máy bay phóng ngư lôi yểm trợ tấn công hải quân Mĩ ngoài khơi Okinawa. Đây cũng là lần đầu tiên bom bay cảm tử OKA của Nhật xuất trận. Một bom bay đánh trúng khu trục hạm Mannert L. Abele làm chiếc này bị nổ tung, cắt làm hai và chìm. Các Kamikaze còn đánh chìm 1 tàu LST, làm hư hại nặng 1 thiết giáp hạm, 3 khu trục hạm và 8 hạm tàu khác. Tối hôm ấy, loa phát thanh Nhật đã kêu gọi:

    "Quân đội Thiên hoàng chia buồn cùng quân Mỹ về cái chết của Tổng thống Roosevelt. Cái chết của ông ấy mở màn tấn thảm kịch của Mỹ và tấn thảm kịch ấy xảy ra ở đây, ngay đối với bản thân các người. Lực lượng đặc biệt của Nhật Bản sẽ liên tục đánh chìm tàu bè của các người. Các người sẽ làm bạn với cây cỏ của đảo này".

    Chiến sự phía bắc Okinawa

    Trong khi ở phía nam quân Mỹ dần bị sa lầy thì ở phía bắc họ lại tiến lên dễ dàng. Sư đoàn lính thủy đánh bộ 6 tiến đến eo đất Ishikawa, một khu vực rừng núi với lực lượng phòng thủ của Nhật chỉ có hai tiểu đoàn đóng tại đỉnh núi Yae-Take cao 400m trên bán đảo Motobu. Địa hình rừng núi hiểm trở đã khiến cho việc sử dụng xe thiết giáp là không khả thi. Lính thủy đánh bộ Mỹ bắt đầu tấn công vào ngày 14 tháng 4 và trận đánh tại đây đã kéo dài 4 ngày cho đến khi lính thủy đánh bộ Mỹ chiếm được bán đảo ngày 18 tháng 4. Quân Mỹ đã đếm được xác 700 lính Nhật, trong khi số lính Nhật còn lại chạy về phía nam hoặc tiếp tục lẩn trốn trong rừng núi thực hiện chiến tranh du kích. Nhiều cư dân Okinawa do ảnh hưởng của bộ máy tuyên truyền Nhật Bản cũng đã tham gia chiến đấu cùng lính Nhật và phá hoại các cơ sở của quân Mỹ. Cuối cùng, sư đoàn bộ binh 27 Mĩ đã đến thay sư đoàn lính thủy đánh bộ 6 tiếp tục chiến đấu ở bắc đảo ngày 4 tháng 5. Tổng cộng, sư đoàn 6 lính thủy đánh bộ thương vong 1.837 người. Sư đoàn 27 tiếp tục tiêu diệt các ổ kháng cự của quân Nhật trong tháng 5 và đầu tháng 6 trước khi tuyên bố khu vực này an toàn vào ngày 4 tháng 8.


    Lính Mĩ đổ bộ lên Ie Shima


    Bên ngoài bán đảo Motobu về phía tây là hòn đảo Ie Shima dài 7km, rộng 1km và trên đó có 1 sân bay. Ngày 16 tháng 4, sư đoàn 77 bộ binh Mỹ đã đổ bộ lên đây. Tại đây họ phải đối đầu với một sự kháng cự mãnh liệt từ những cuộc tấn công của máy bay Thần phong và cả những người phụ nữ người Nhật được trang bị vũ khí. Phải đến 3 ngày sau, ngày 21 tháng 4, chiến sự tại Ie Shima mới chấm dứt và hòn đảo trở thành một căn cứ không quân mới chống lại người Nhật. 4.700 lính Nhật tử trận trong đó có 1.500 dân quân, khoảng 1/3 dân cư trên đảo chết. Thương vong của lính Mỹ là 1.118 người (218 người chết). Ernie Pyle, một phóng viên chiến tranh nổi tiếng đã bị giết bởi đạn súng máy vào ngày 18 tháng 4. Sư đoàn bộ binh 77 đã dựng bia kỉ niệm cho anh tại nghĩa trang của sư đoàn. Từ ngày 25 đến 28 tháng 4, sư đoàn 77 được đưa đến Okinawa. Cư dân trên đảo Ie Shima được đưa ra khỏi đảo để không cản trở công việc xây sân bay. Sau chiến tranh họ được đưa trở về.

    Quân Mỹ đánh chiếm phòng tuyến Shuri

    Sau hai tuần giao tranh, quân đoàn 32 Nhật thiệt hại 7.000 người nhưng phòng tuyến dãy đồi Shuri vẫn được giữ vững. Từ ngày 14 tháng 4 người Mỹ đã bắt đầu chuẩn bị cho cuộc tấn công vào phòng tuyến Shuri, nơi có 65.000 quân Nhật đang trú phòng. Sư đoàn 62 Nhật giữ việc phòng thủ trên toàn phòng tuyến, lữ đoàn 64 đào hào quanh khu vực trung tâm và phía tây còn lữ đoàn 63 đồn trú ở phía đông, chủ yếu quanh Urasoe-Mura và Tanabaru. Trung tướng John Hodge, tư lệnh quân đoàn XXIV dự đoán cuộc chiến sẽ ác liệt và quân Mỹ phải tiến từng bước một.

    Sư đoàn 27 thực hiện cuộc tấn công sơ bộ vào đêm ngày 18 tháng 4, bí mật xây một chiếc cầu băng ngang vịnh Machinato nối liên Uchitomari và Machinato tại bờ biển phía tây. Cuộc tấn công chính thức bắt đầu lúc 06.40 ngày 19 tháng 4 (tài liệu khác ghi là 5:40 ngày 20 tháng 4) bằng hỏa lực từ hải pháo từ các chiến hạm Mỹ và 27 tiểu đoàn pháo binh. Ngoài ra người Mỹ còn sử dụng cả không quân yểm trợ. Trong cuộc bắn pháo chuẩn bị này, quân Mỹ đã bắn tổng cộng 19.000 đạn trái phá. Sau đó, sư đoàn 7 tấn công ở mặt đông, sư đoàn 96 ở phần giữa và sư đoàn 27 tấn công vùng núi yên ngựa ở phía tây phòng tuyến Nhật.


    Một máy bay F4U Corsair đang phóng tên lửa yểm trợ quân Mĩ tại Okinawa


    Mặc dù bị pháo kích mãnh liệt nhưng quân Nhật vẫn không thiệt hại bao nhiêu và ra sức chống cự quyết liệt. Sư đoàn 7 nhắm thẳng mục tiêu là đỉnh Skyline án ngữ phía đông phòng tuyến nhưng tiến lên không được bao nhiêu. Sư đoàn 96 cũng không khá hơn trong cuộc tấn công vào giữa 2 đỉnh núi Tombstone và Nishibaru. Sư đoàn 27 đạt được một số thành công tại Urasoe-Mura nhưng thất bại trong cuộc tấn công lên đỉnh Kakazu khiến cho tiểu đoàn tăng 93 mất 22 xe tăng. Suốt bốn ngày chiến đấu ác liệt, quân Mỹ không tiến được bao nhiêu, nơi sâu nhất chỉ 900 m. Tổng cộng quân đoàn XXIV tổn thất 720 người.

    Tuần lễ tiếp theo tiếp tục chứng kiến các nỗ lực tấn công của 3 sư đoàn Mĩ nhưng không một đơn vị nào tiến sâu được hơn 1,188 km. Tuy nhiên các đỉnh núi Kakazu, Nishibaru và Tanabaru cuối cùng cũng đã bị người Mĩ chiếm nhưng trung đoàn bộ binh 22 Nhật vẫn tiếp tục cầm chân sư đoàn 7 Mỹ ở phía đông. Quân Mỹ đã cho tập hợp toàn bộ các lực lượng dự phòng để thành lập Lực lượng Đặc nhiệm Bradford, phối hợp cùng xe thiết giáp tấn công vào ổ kháng cự còn sót lại lại Kakazu vào ngày 24 tháng 4 nhưng khi đến nơi họ mới phát hiện quân Nhật đã bỏ đi. Ngày 27 tháng 4, người Mĩ chiếm được dãy núi yên ngựa Maeda nhưng triền phía đông vẫn còn do quân Nhật chiếm giữ. Quân Nhật thuộc sư đoàn 24 liền cho phản công. Nhiệm vụ chiếm lại đỉnh đồi được giao cho tiểu đoàn 7 bao gồm các học sinh trung học địa phương tình nguyện, do một đại úy mới 22 tuổi tên là Tsune Shimura chỉ huy. Hết đợt này đến đợt nọ, họ leo lên đồi dưới làn mưa đạn và cuối cùng chiếm lại được dãy đồi Maeda. 600 người đi, kiểm tra lại chỉ còn 450 người.


    Lính Mĩ sử dụng súng phun lửa tại Okinawa để tiêu diệt quân Nhật trong các hang động


    Trong những ngày cuối cùng của tháng tư, các sư đoàn Mỹ chỉ đạt được một ít thành công. Sư đoàn 7 tiến đến đỉnh Kochi nhưng lần nữa bị trung đoàn 22 Nhật đẩy lùi. Sư đoàn 96 tiến lên chậm chạp trước sức kháng cự của trung đoàn 32 Nhật tại Urasoe-Mura. Đến thời điểm này cả 3 sư đoàn này đều đã kiệt sức và mất dần khả năng chiến đấu. Có ý kiến cho rằng nên để sư đoàn 77 đổ bộ lên bờ biển tây nam Minatogawa để kéo các lực lượng Nhật ra khỏi phòng tuyến Shuri nhưng tướng Simon Bolivar Buckner đã từ chối ý kiến trên vì ông cho rằng quá mạo hiểm nếu để một sư đoàn nằm sâu sau phòng tuyến địch, điều này dẫn đến khó khăn về hậu cần cũng như cần có tàu chiến yểm trợ. Sau cùng, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ đã được đưa đến thay thế sư đoàn 27 ở phía tây chiến tuyến. Sư đoàn này đã chết 2.700 người cùng với số bị thương và mất tích quá lớn khiến nó không còn khả năng chiến đấu. Sư đoàn 77 cũng đến thay thế sư đoàn 7. Những nỗ lực tiến công của người Mĩ kéo dài đến ngày 3 tháng 5 thì tạm dừng khi quân Nhật bắt đầu cuộc phản công lớn của họ tại Okinawa.

    Cuộc phản công của người Nhật

    Sau một tháng chiến đấu, ngày 1 tháng 5, một cuộc họp quan trọng của quân Nhật tại Okinawa được triệu tập trong hang động dưới chân lâu đài Shuri. Trong cuộc họp có mặt tư lệnh Mitsuru Ushijima, Tham mưu trưởng là thiếu tá Isamu Cho, trưởng phòng tác chiến đại tá Hiromichi Yahara và các đơn vị trưởng từ cấp lữ đoàn trở lên. Trong cuộc họp này đã diễn ra cuộc tranh cãi gay gắt. Tướng tư lệnh Ujima quyết giữ vững lập trường không tổ chức phản công quyết tử và kéo dài cuộc kháng cự. Ý kiến này của ông đã được đại tá Yahara ủng hộ. Tuy nhiên tướng Cho và một số chỉ huy sư đoàn, lữ đoàn hiếu chiến khác lại nhất quyết đòi mở một cuộc phản công. Cuối cùng hai bên đi đến một thỏa hiệp là sẽ tổng tiến công nhưng phải đợi 2 ngày nữa mới có thời gian lập kế hoạch.

    Theo kế hoạch phản công vạch ra, quân Nhật sẽ cho tiến công cùng lúc với các máy bay xuất phát từ Nhật tấn công hạm đội Mỹ và yểm trợ cho bộ binh. Cuộc tấn công sẽ diễn ra theo 2 cánh : cánh phía đông là hai trung đoàn bộ binh còn cánh phía tây là lữ đoàn hỗn hợp số 44. Toàn bộ xe tăng và pháo binh của quân đoàn sẽ yểm trợ cho hai cánh quân đó. Mỗi cách lại có một phân đội đổ bộ ở phía sau lưng quân Mỹ để quấy rối. Còn một trung đoàn nữa sẽ băng qua dãy Maeda tiến tới những cao điểm giữa phòng tuyến Mỹ.

    Chiều ngày 3 tháng 5, pháo binh Nhật bắt đầu nã đạn vào quân Mĩ trong khi ở ngoài khơi các máy bay Thần Phong bắt đầu tấn công các tàu chiến Mỹ. Khu trục hạm Little, tàu đổ bộ USS LSM-195 phát nổ và chìm ngay, 5 tàu khác bốc cháy. Vào giữa khuya đến lượt 60 máy bay Nhật đến bỏ bom quân Mỹ trong lúc hai đoàn thuyền nhỏ chở quân Nhật luồn lách đổ quân sau lưng phòng tuyến Mỹ. Phân đội đổ bộ ở phòng tuyến phía đông gồm khoảng 100 người đang di chuyển trên thuyền thì bị tàu Mỹ đánh đắm và chết chìm gần hết. Phần đội đổ bộ ở phía tây lên bờ ngay nơi trú phòng của đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ. Vì có người hô “Banzai” (Vạn tuế) quá sớm nên chưa kịp xung phong đã bị người Mỹ phát hiện và tiêu diệt. Tổng số 88 người không còn ai sống sót.


    Tướng tư lệnh Mitsuru Ushijima


    4 giờ sáng ngày 4 tháng 5, cuộc tấn công chính bắt đầu. Cánh quân phía tây tiến đánh phía bên phải phòng tuyến quân Mỹ. 2.000 quân thuộc lữ đoàn hỗn hợp số 44 xung phong băng ngang qua một vùng đất trống, bị pháo binh và đạn súng cối Mỹ đập tan nát nên không chiếm được mục tiêu đã định. Ở cánh phía đông, hai trung đoàn bộ binh Nhật có xe tăng yểm trợ thọc sâu vào phòng tuyến Mỹ. Pháo binh Mỹ bắn đạn bọc thép phá hủy phần lớn số xe tăng ấy. Mặc dù chỉ còn 9 xe tăng, đại úy Ito và 600 quân phối hợp cùng xe tăng vẫn đến được làng Tanabaru. Trung đoàn tiến qua dãy Maeda cũng bị chặn đánh quyết liệt, không tới được mục tiêu.

    Đến trưa ngày 5 tháng 5, tin tức các nơi bay về cho chỉ huy sở báo cáo quân Nhật thảm bại ở nhiều nơi nên tướng Ushijima ra lệnh rút quân. Trong cuộc phản công này, người Nhật đã tận dụng mọi khả năng vẫn không thắng nổi quân đoàn XXIV của tướng Hodge. Cuộc phản công thất bại làm quân Nhật tổn thất nặng. Khoảng 60.000 lính Nhật đã bị loại khỏi vòng chiến kể từ khi trận đánh bắt đầu khiến quân Nhật không còn đủ sức giữ phòng tuyến nữa. Tuy nhiên quân Mỹ cũng bị thiệt hại nặng nề, như tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn bộ binh số 307 mất hơn một nửa quân số trong tám ngày và chỉ trong hai ngày mất 8 đại đội trưởng. Dãy Maeda giờ đây đã trở về tay người Mĩ.

    Quân Nhật sau khi phản công thất bại đã cho củng cố lại phòng tuyến và đưa thêm lính nghĩa vụ từ các vùng lân cận để bổ sung quân số, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu đến cùng với người Mỹ. Sư đoàn 62, giờ chỉ còn 1/3 quân số, phòng thủ phía tây phòng tuyến còn sư đoàn 24 (còn khoảng 2/3 quân số) phòng thủ các vị trí còn lại. Lữ đoàn hỗn hợp 44 (còn 4/5 quân số) sẽ yểm trợ cho sư đoàn 62.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  20. The Following 4 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    crazyfan2105 (28-11-2012), ehmahboiiz (27-04-2012), lynkloo (01-01-2012), shadow_kid1417 (18-12-2012)

Trang 1/3 1 2 3 cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 23-04-2012, 06:08 PM
  2. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 22-04-2012, 09:22 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 25-01-2008, 09:25 PM
  4. Chất độc da cam từng có mặt tại Okinawa?
    By Kasumi in forum Toàn cảnh Nhật Bản
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 13-07-2007, 07:19 PM
  5. 8.000 lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ rời đảo Okinawa
    By Kasumi in forum Toàn cảnh Nhật Bản
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 18-03-2006, 04:56 PM

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •