Phòng tuyến Shuri sụp đổ
Quân đoàn Đổ bộ III nắm lại quyền chỉ huy sư đoàn lính thủy đánh bộ 1 vào ngày 7 tháng 5. Ngày 8 tháng 5, ngày Đức Quốc xã chính thức đầu hàng Đồng Minh ở Châu Âu, sư đoàn 96 được đưa đến thay thế sư đoàn 7. Tin Đức thua trận ở Châu Âu đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quân Mỹ ở đây. Ngày 11 tháng 5, Tập đoàn quân số 10 bắt đầu lại cuộc đột phá phòng tuyến Nhật bằng quân đoàn Đổ bộ III (gồm 2 sư đoàn lính thủy đánh bộ 1 và 6) ở phía tây và quân đoàn XXIV (gồm 2 sư đoàn bộ binh 77 và 96) ở phía đông. Mỗi sư đoàn đều có mục tiêu riêng. Sư đoàn 96 sẽ tấn công đồi Conical (đồi Hình nón), sư đoàn 77 là lâu đài Shuri, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ là Dakeshi-Wana-Wana, hệ thống phòng thủ liên hợp của phòng tuyến Shuri và cuối cùng sư đoàn 6 lính thủy đánh bộ là đồi Sugar Loaf. Nhiệm vụ chiếm đồi Sugar Loaf được xem là khó khăn nhất. Ngọn đồi cao khoảng 15m (50 feet) với lực lượng quân Nhật phòng thủ tại đây gồm 5 tiểu đoàn, trung đoàn hỗn hợp 15 và lữ đoàn hỗn hợp 44, 1 khẩu đội pháo phòng không 75mm.
Lính Mỹ thuộc sư đoàn bộ binh 77 đang lắng nghe tin Đức Quốc xã đầu hàng Đồng Minh ở Châu Âu vào ngày 8 tháng 5, 1945
Quân Mỹ tiến lên chậm nhưng vững chắc, mặc dù vậy hai sư đoàn ở trung tâm đã không thành công như hai sư đoàn ở hai cánh. Sư đoàn lính thủy đánh bộ 6 sau đó đã gặp phải thử thách lớn là hệ thống phòng thủ của quân Nhật trên đồi Sugar Loaf trong khi các sư đoàn còn lại cũng lao vào các trận đánh trên các đồi và đỉnh núi, nơi quân Nhật đồn trú kiên cường chống trả. Hai trung đoàn 22 và 29 của sư đoàn lính thủy đánh bộ 6 đã tiến đến vị trí phòng thủ chính của đồi vào ngày 14 tháng 5 sau khi vượt sông Ada. Cuộc tấn công đầu đã bị đẩy lùi dù có xe tăng yểm trợ. Cuộc tấn công thứ hai do thiếu tá Courtney chỉ huy và có sự yểm trợ của pháo binh cũng thất bại khi lính thủy đánh bộ quyết định rút lui. Đồi Sugar Loaf tiếp tục đứng vững trước các đợt tấn công cho đến tận ngày 18 tháng 5. Trong ngày này, lính thủy đánh bộ đã quyết định chiếm ngọn đồi bằng cách đưa ba xe tăng vào vị trí mà từ đó có thể khai hỏa vào quân Nhật khi họ xuất hiện từ các hang động để chiếm các vị trí phòng thủ trên đỉnh đồi. Xe tăng đã tiêu diệt hết những lính Nhật xuất hiện tạo điều kiện cho lính thủy đánh bộ chiếm được đỉnh đồi và sau đó tràn xuống đánh chiếm các vị trí khác. Tuy nhiên phải đợi đến 4 ngày sau lính thủy đánh bộ mới quét sạch được lính Nhật trong khu vực. Sư đoàn 6 lính thủy đánh bộ sau trận đánh tại đồi Sugar Loaf đã phải chịu thương vong 2.662 người cùng với 1.289 người khác ở trong tình trạng kiệt quệ. Mục tiêu tiếp theo của họ là Naha, thành phố thủ phủ của Okinawa.
Sư đoàn lính thủy đánh bộ 1 cũng hoàn thành được mục tiêu đã định là Dakeshi-Wana vào ngày 14 tháng 5 và tiến sát đến phòng tuyến Shuri. Còn sư đoàn bộ binh 77 cũng chiếm được hệ thống phòng thủ Chocolate Drop – đồi Wart Hill – đồi Flattop nằm ở trung tâm đảo sau nhiều ngày giao tranh ác liệt với quân Nhật được trang bị súng máy, súng cối và pháo chống tăng 47mm. Nhiều đại đội của sư đoàn này đã mất đến 85 % quân số. Mục tiêu tiếp theo của sư đoàn này là đỉnh Ishimmi, vị trí phòng thủ nằm trên con đường trực tiếp vào Shuri.
Trong khi đó, ngày 13 tháng 5, sư đoàn bộ binh 96 và tiểu đoàn tăng 763 đã chiếm được đồi Conical (đồi Hình nón). Ngọn đồi cao 145 m (476 feet) với 1000 quân Nhật trú phòng này là vị trí quan trọng ở phía đông phòng tuyến Shuri. Ngày 19 tháng 5, sư đoàn bộ binh 7, từng được binh đoàn 96 thay thế bây giờ trở lại nhiệm vụ và mục tiêu của họ là Yonabaru. Thị trấn này nhanh chóng bị chiếm trước sự ngạc nhiên của quân Nhật. Kế hoạch tiếp theo của người Mĩ là bao vây và ngăn không cho quân Nhật ở phòng tuyến Shuri rút quân. Đến ngày 21 tháng 5, thành phố Shuri đã bị vây từ ba phía tuy nhiên những trận mưa như trút nước đã cản bước tiến quân Mỹ.
Đồi Sugar Loaf vào năm 1945
Lợi dụng thời cơ này, tướng tư lệnh Ushijima ra lệnh cho rút dần quân ra khỏi phòng tuyến Shuri. Ông đã nhận được tin từ trung tướng Miyazaki Suichi thuộc Bộ tổng tư lệnh Lục quân tại Tokyo rằng cơ hội nhận thêm được quân và đồ tiếp viện từ Nhật Bản đến Okinawa là rất khó. Ushijima bây giờ có 3 lựa chọn: 1 là tập trung toàn bộ quân lực giữ phòng tuyến Shuri cho đến người cuối cùng, 2 là rút lui về bán đảo Chinen và 3 là rút lui về bán đảo Kiyan. Nhận thấy rằng phòng tuyến Shuri đã sắp sụp đổ, tướng Ushijima bỏ qua lựa chọn thứ nhất để bảo toàn lực lượng kéo dài thời gian trận đánh. Lựa chọn thứ 2 cũng không được vì bán đảo Chinen đã không được chuẩn bị cho công cuộc phòng thủ. Cuối cùng, ông chọn rút lui về bán đảo Kiyan, nơi mà sư đoàn 24 đã có sự chuẩn bị cần thiết, đồng thời một lượng lớn hàng dự trữ và kho đạn ở đây đủ sức cho quân Nhật chiến đấu đến cùng. Dưới những cơn mưa tầm tã, quân Nhật cho tổ chức rút lui. Sư đoàn 62 rút vào ngày 25 tháng 5 và tổ chức tấn công một số đơn vị của quân đoàn XXIV để khiến cho người Mỹ tưởng rằng quân Nhật đang có ý định tổ chức phản công để giữ phòng tuyến Shuri bằng mọi giá. Sau đó, sư đoàn này thành lập một phòng tuyến mới phía sau phòng tuyến Shuri và tại đây họ đã bị quân Mỹ tấn công từ ngày 30 tháng 5 đến 4 tháng 6. Sư đoàn 24 rút vào ngày 29 tháng 5 và thành lập 1 phòng tuyến mới phía nam Itoman tại bờ biển phía tây còn lữ đoàn hỗn hợp 44 lại thành lập phòng tuyến ở bờ biển phía đông. Đêm ngày 26 tháng 5, bộ tư lệnh của tướng Ushijima cũng rời khỏi hang động dưới chân lâu đài Shuri. Như vậy, mặc dù quân Nhật tại thành phố Shuri còn chiến đấu thêm 1 tuần và ở sân bay Naha thêm 2 tuần nữa, phòng tuyến Shuri xem như đã sụp đổ.
Chiến công của các Thần phong
Ngày 25 tháng 5, phối hợp với cuộc rút quân ở phòng tuyến Shuri, người Nhật đã cho xuất kích đợt tấn công thứ 7 của các máy bay Thần phong (Kamikaze). Chiến thuật Kamikaze ra đời từ trận hải chiến vịnh Leyte nhưng khi đến trận Okinawa nó đã trở thành quốc sách và là một phần của chiến lược, chiến thuật trong trận đánh. Trong ngày này, suốt 12 giờ liền, 176 máy bay Thần phong chia làm nhiều đợt từ Nhật Bản bay đến Okinawa lao mình xuống hạm đội Mỹ. USS LSM-135 chìm, 4 chiến hạm khác bị cháy và hư hại nặng. Chuẩn đô đốc C.R.Brown có mặt trong hạm đội Mỹ tại Okinawa đã viết như sau :
Cùng ngày hôm đó, 5 chiếc máy bay hai động cơ từ Nhật bay đến đã xuyên qua hệ thống phòng không, len lỏi vào không phận sân bay Youtan ở giữa đảo. Bốn chiếc bị bắn rơi, một chiếc từ từ hạ cánh xuống đường băng. Máy bay vừa dừng lại thì lực lượng cảm tử quân Nhật ùa ra chạy đến bãi đậu máy bay và bồn chứa nguyên liệu của Mỹ. Họ dùng bộc phá, lựu đạn và tiểu liên phá hủy 7 máy bay Mỹ, làm hư hại 26 chiếc khác và làm cháy 2 bồn chứa 70.000 gallon xăng máy bay.Thật là một cảnh tượng kì lạ đối với triết lí phương Tây chúng ta khi chứng kiến một chiếc máy bay Kamikaze lao thẳng vào ta. Có những pháo thủ đầy kinh nghiệm, nhưng khi thấy một Kamikaze lao vào tàu họ tự nhiên miệng há hốc ra, tay quên xiết cò. Tựa như là anh ta bị lôi cuốn bởi trò chơi quái ác đó. Thực tình mà nói, người trên tàu, mục tiêu của Kamikaze, lúc ấy không còn nghĩ đến mình nữa mà lại nghĩ lo cho người đang ngồi trên máy bay kia.
—Chuẩn đô đốc C.R. Brown
USS Bunker Hill đang bốc cháy sau khi bị hai Kamikaze tấn công trong vòng 30 giây
Trong khi các máy bay Thần phong đang tấn công hạm đội Đồng minh ngoài khơi, hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoàng gia Anh đã thực hiện thành công nhiệm vụ vô hiệu hóa các sân bay của người Nhật tại quần đảo Sakishima từ ngày 26 tháng 3 đến 10 tháng 4. Từ ngày 10 tháng 4, hạm đội này chuyển sang nhiệm vụ mới là các sân bay phía bắc đảo Đài Loan và trở về vịnh San Pedro ngày 23 tháng 4. Đến ngày 1 tháng 5, hạm đội này trở lại nhiệm vụ đánh phá các sân bay như trước kia, lần này là bằng hải pháo và máy bay. Nhiều cuộc tấn công Kamikaze đã gây ra nhiều thiệt hại đáng kể cho hạm đội nhưng kể từ khi người Anh sử dụng sàn bay bọc thép trên các hàng không mẫu hạm thì những cuộc tấn công này chỉ còn gây ra một ít khó khăn trong việc thực hiện kế hoạch đã định.
Trong 3 tháng trận Okinawa, các máy bay Thần phong Nhật Bản đã xuất kích 1900 phi vụ. Các chiến đấu cơ Mỹ phối hợp với mạng lưới phòng không dày đặc đã bắn rơi gần 90% số máy bay Thần phong trước khi số máy bay này lao đầu xuống mục tiêu. Tuy vậy, mặc dù tỉ lệ thành công thấp, lực lượng Thần phong phối hợp với các chiến đấu cơ và oanh tạc cơ khác cũng đã gây thiệt hại nặng hạm đội Đồng Minh tại Okinawa. Kể từ ngày 6 tháng 4 cho đến ngày trận đánh kết thúc, 30 hạm tàu các lại của hải quân Mĩ đã bị đánh chìm (trong đó có 12 khu trục hạm), 223 hạm tàu khác bị trọng thương (trong đó có 19 thiết giáp hạm, 8 hàng không mẫu hạm bao gồm 3 chiếc của hải quân Anh, 2 hàng không mẫu hạm nhẹ, 2 hàng không mẫu hạm hộ tống). Trong số các hàng không mẫu hạm bị thương nặng nhất có các chiếc Franklin và Bunker Hill của hải quân Mĩ, Victorious và Indefatigable của hải quân Hoàng gia Anh. Số binh lính và sĩ quan Đồng minh tử trận lên đến 4.907 người và 4.824 người khác bị thương. Số tổn thất nhân mạng của hải quân Mỹ (không kể lính thủy đánh bộ) ở Okinawa chiếm tổng số 1/7 tổng số thiệt hại từ đầu chiến tranh lúc đó. Do phải chịu thiệt hại nặng nề nên hạm đội 5 Hải quân Mỹ của đô đốc Raymond Spruance đã phải rời khỏi chiến trường và thay thế bằng hạm đội 3 của đô đốc William Halsey.
Để đạt được những kết quả trên, Nhật Bản đã mất 4.000 máy bay các loại (đa số là các máy bay Thần phong) cùng với số phi công tương đương. Tuy nhiên, chiến công của các Thần phong tuy lớn nhưng cũng không thể giúp người Nhật xoay chuyển tình thế ở Okinawa cũng như toàn bộ cuộc chiến.
Trận đánh kết thúc
Sau khi phòng tuyến Shuri sụp đổ, tướng Mitsuru Ushijima ra lệnh lui về phía nam 15 km, đến một dãy núi cao thẳng đứng xuống biển. Đây là tuyến phòng thủ cuối cùng của quân Nhật, đằng sau họ là biển Đông Hải.
Ngày 29 tháng 5, trung đoàn 22 lính thủy đánh bộ chiếm Naha. Trong khi đó tại lâu đài Shuri, người Nhật chỉ để lại khoảng 200 quân, phần lớn là những thương binh và một lượng lớn cư dân trên đảo Okinawa. Lâu đài Shuri đã bị thiết giáp hạm USS Mississippi bắn phá trong suốt 3 ngày và thuỷ quân lục chến Hoa Kỳ đã dễ dàng chiếm được lâu đài. Thiếu tướng Pedro del Valle, chỉ huy sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 đã đưa tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 5 đến chiếm lâu đài mặc dù lâu đài nằm ngoài khu vực hoạt động của lính thủy đánh bộ (thuộc khu vực sư đoàn bộ binh 77). Del Valle sau đó được trao tặng Huân chương Chiến công Xuất sắc Hải quân.
Ngày 1 tháng 6, quân Mỹ tiến gần đến thành lũy cuối cùng của quân Nhật. Họ bắt đầu tấn công vị trí yếu nhất của hệ thống phòng thủ Nhật là là một trái núi đầy hang động thuộc căn cứ hải quân Okinawa trên bán đảo Oroku nơi có 2.000 lính hải quân đang đóng giữ. Ngày 11 tháng 6, sư đoàn 6 lính thủy đánh bộ đã bao vây toàn bộ quân Nhật tại đây. Thiếu tướng Minoru Ota, sĩ quan cao cấp nhất ở đây đã gửi điện tín vĩnh biệt đến Sở chỉ huy Quân đoàn 32 Nhật vào lúc 16 giờ ngày 12 tháng 6. Ngày 13 tháng 6, Ota đã cùng 6 sĩ quan tham mưu tại đây tự sát kiểu “Harakiri”.
Ngày 14 tháng 6, quân Mỹ đã chiếm được nơi này sau khi chịu thương vong 1.700 người còn phía Nhật chết hết. Thi hài của Ota cùng 6 sĩ quan khác cũng được tìm thấy. Ota sau đó được truy phong quân hàm chuẩn đô đốc.
Bức ảnh cuối cùng của thiếu tướng Simon Bolivar Buckner, Jr.
Ngày 4 tháng 6, quân đoàn 32 Nhật Bản chỉ còn khoảng 30.000 người trong tình trạng thiếu hụt vũ khí (phần lớn vũ khí hạng nặng và cả vũ khí cá nhân đã bị mất trong cuộc rút quân), trong đó có 20% là những cựu binh. Chiều ngày 15 tháng 6, trong một hang động lớn, đại tá Kanayama, trung đoàn trưởng trung đoàn 27 bộ binh tập hợp 102 người còn lại của trung đoàn. Ông ta làm lễ đốt quân kì trung đoàn và nói:
"Trong ba tháng vừa qua, anh em đã cùng tôi chiến đấu. Lòng dũng cảm, chí hi sinh, sức chịu đựng của anh em, lịch sử sẽ khắc sâu. Nay tôi nói lời cám ơn anh em đã phục vụ quên mình. Giờ đây, tôi tuyên bố giải thể trung đoàn. Từ nay trở đi, anh em không còn bị ràng buộc, tôi lãnh trách nhiệm về việc này. Riêng tôi, tôi sẽ vĩnh viễn ở lại đây. Nhưng tôi cấm anh em theo tôi. Ra lệnh cho anh em phải sống để kể lại cho hậu thế biết quân đội Nhật Bản đã anh dũng chiến đấu như thế nào ở Okinawa."
Đoạn ông ta rút gươm mổ bụng tự sát. Đại úy Sato chặt đứt đầu đại tá Kanayama theo đúng nghi thức rồi hô to Tennōheika banzai! (Thiên Hoàng vạn tuế) rồi chĩa súng lục vào đầu bóp cò tự sát. Ngày 18 tháng 6, bốn ngày trước khi trận đánh kết thúc, tướng Simon Bolivar Buckner, tư lệnh quân Mỹ tại Okinawa đang trên đường hành quân thì bị quân Nhật phục kích bằng súng cối. Đạn nổ văng mảnh vào người làm ông chết trước giờ thắng lợi cuối cùng. Buckner là sĩ quan quân đội Mỹ có quân hàm cao nhất chết trong khi chiến đấu trong Thế chiến thứ hai. Ngày hôm sau, đến lượt tướng Claudius M. Easley cũng bị giết chết bởi đạn súng máy. 17 giờ ngày 21 tháng 6, Okinawa được người Mỹ tuyên bố an toàn mặc dù một số nơi quân Nhật vẫn còn đang chiến đấu, trong đó có thị trưởng tương lai của Okinawa, Masahide Ota.
Cũng trong ngày 21 tháng 6, trong chỉ huy sở của mình tại Mabumi, tướng Ushijima và mọi người đều hớt tóc, cạo râu. Sau đó ông viết thư trình lên Thiên hoàng Hiro Hito báo cáo về tình hình chiến sự tại Okinawa và tạ tội không giữ được đảo. Thư được điện về Bộ tổng tham mưu quân đội Hoàng gia tại Tokyo. Cuối cùng, ông nói với đại tá Yahara:
"Này Yahara, tôi và ông chắc sẽ “Harakiri”. Nhưng tôi ra lệnh cho ông ở lại. Nếu ông chết, sau này còn ai có thẩm quyền để kể lại về trận chiến Okinawa này. Mặc dù sống sau khi thua trận là nhục nhã, nhưng tư lệnh của ông ra lệnh cho ông phải chịu cái nhục này."
Yahara do đó là sĩ quan cao cấp bên phía Nhật sống sót sau trận đánh và về sau ông đã cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề Trận đánh vì Okinawa. Chiều ngày 22 tháng 6, tướng Ushijima và tướng Cho quỳ gối hướng về phía Bắc (hướng Hoàng cung) vái ba vái và tiến hành lễ tự sát. Tướng Cho đưa cổ cho đại úy Sakaguchi chém đầu. Tướng Ushijima lấy gươm tự mổ bụng, tiếp theo đó bảy sĩ quan tham mưu cùng tự sát. Ngày 2 tháng 7, trận Okinawa chính thức chấm dứt.
Kết quả
Sau trận đánh kéo dài gần 3 tháng, thắng lợi cuối cùng đã thuộc về người Mĩ. Cả hai phía Nhật và Mĩ đều phải chịu những tổn thất nặng nề. Phía Mĩ chịu thương vong hơn 51.000 người trong đó riêng lính thủy đánh bộ chết và mất tích 2.938 người, 16.017 người bị thương. Lục quân chết và mất tích 4.675 người, bị thương 18.099 người trong khi hải quân sau những cuộc tấn công của các máy bay Thần phong cũng chết 4.907 người và 4.824 người bị thương. Okinawa vì thế là chiến trường tại Thái Bình Dương mà quân Mĩ chịu thương vong nặng nhất, và là trận đánh có số thương vong cao thứ hai trong Thế chiến thứ hai của quân Mĩ, chỉ sau trận Bulge ở Châu Âu. Ngoài ra quân Mĩ còn mất 225 xe tăng, 763 máy bay và 36 tàu bị chìm. Hạm đội Anh (TF 57) có 4 tàu bị thương, mất 98 máy bay với 62 người chết và 82 người bị thương.
Trong khi đó phía Nhật mất hơn 100.000 quân bao gồm lính Nhật và dân quân Okinawa (Boeitai). Con số chính xác rất khó được đưa ra do những khó khăn trong công tác thống kê. Phía Mĩ ước tính đã tiêu diệt được 142.000 lính Nhật nhưng con số này còn cao hơn cả số lính Nhật có tại Okinawa. 7.400 người Nhật đã bị bắt làm tù binh trong đó có 3.400 người là nhân công không có vũ khí. Gần 20.000 lính Nhật ẩn núp trong các hang động và chỉ chịu đầu hàng sau khi chiến tranh kết thúc. Khoảng 10.000 quân Nhật và 8.000 dân quân còn sống sót sau trận đánh. Đây cũng là trận đánh đầu tiên trong Chiến tranh Thái Bình Dương mà số người Nhật bị bắt làm tù binh lên đến con số hàng ngàn.
Một nhóm tù binh Nhật Bản đang chờ bị thẩm vấn bởi các sĩ quan Mĩ. Okinawa là nơi duy nhất số tù binh Nhật lên đến con số hàng ngàn
Nguyên nhân do phần lớn tù binh Nhật là dân bản địa Okinawa và chỉ bị cưỡng bức vào quân đội thời gian ngắn trước trận đánh nên đã không phải chịu ảnh hưởng của tư tưởng không đầu hàng của quân phiệt Nhật. Quân Nhật còn mất 27 xe tăng, 7.830 máy bay trong đó có khoảng hơn 4.000 máy bay Thần phong, 16 chiến hạm trong đó có siêu thiết giáp hạm Yamato. Hơn 122.000 dân đảo Okinawa chết do đau ốm, do ảnh hưởng chiến tranh và do tự sát (tự nguyện và cả bị cưỡng bức). 90% số công trình xây dựng trên đảo bị tàn phá hoàn toàn. Có thể nói qua những số liệu thống kê trên, trận Okinawa là một chương đẫm máu của cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương.
Ý nghĩa
Với việc người Mỹ chiếm được Okinawa, hàng rào phòng thủ cuối cùng vào Nhật Bản đã bị chọc thủng. Giờ đây quân Mỹ đã có một căn cứ hải và không quân quan trọng chỉ cách đảo Kyushu hơn 500 km. Một dự án xây dựng khổng lồ đã được triển khai trên đảo huy động 87.000 công binh để xây dựng 22 sân bay cho Tập đoàn không quân số 8 từ Châu Âu chuyển qua và cho cả lực lượng không quân của lính thủy đánh bộ và hải quân Mỹ. Kể từ đây những cuộc không kích vào lãnh thổ Nhật Bản đã gia tăng cường độ rất nhiều. Một căn cứ hải quân đã được thiết lập tại Baten Ko tại cực nam vịnh Buckner (đổi tên từ Nakagusuku Wan) để kiểm soát các cảng tại Naha, Chimu Wan, Nago Wan và Katchin Hanto. Hai trận bão khủng khiếp vào tháng 9 và tháng 10 đã gây nhiều tàn phá trên đảo khiến cho căn cứ hải quân phải dời về cực đông nam bán đảo Katchin, nơi bây giờ vẫn còn được gọi là Bãi biển Trắng (White Beach). Okinawa đã trở thành nơi lính thủy đánh bộ và lục quân Mỹ chuẩn bị cho chiến dịch Downfall, chiến dịch đổ bộ vào nước Nhật kết thúc chiến tranh.
Đài tưởng niệm Cornerstone of Peace với tên của tất cả quân lính và dân thường chết trong trận đánh, cả người Nhật và người nước ngoài
Sự kiện Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki đã khiến cho chiến tranh kết thúc và kế hoạch Downfall đã không bao giờ được thực hiện. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 53) và Chiến tranh Việt Nam (1965 - 73) sau này, Okinawa đã trở thành một căn cứ quan trọng về hậu cần cho lục quân Mỹ và căn cứ hành quân cho hải quân Mỹ. Trong khi đó, không quân Mỹ lại biến sân bay Kadena thành căn cứ chủ yếu. Đây là nơi xuất phát của các máy bay B29 đi oanh tạc Bắc Triều Tiên hay B52 đi ném bom miền Bắc Việt Nam. Ngày nay, Kadena vẫn là căn cứ không quân lớn nhất của Mỹ tại Châu Á. Ngoài ra, các máy bay trinh sát của Mỹ xuất phát từ Okinawa còn thực hiện các phi vụ do thám khắp Châu Á.
Okinawa nằm dưới quyền quản lí của chính quyền quân sự Mỹ từ năm 1945 đến năm 1972. Bằng những điều khoản trong hòa ước sau chiến tranh, các chủ đất trên đảo phải cho quân đội Mỹ thuê đất. Từ đầu thập niên 70, học sinh, sinh viên và những người dân tộc cực đoan đã tổ chức biểu tình, phản đối không chỉ cuộc Chiến tranh Việt Nam mà còn cả việc kiểm soát Okinawa của quân đội Mỹ. Họ yêu cầu quân Mỹ rút toàn bộ khỏi đảo mặc dù người Mỹ đem lại 70 % lợi tức cho đảo. Cuối cùng, vào ngày 15 tháng 3 1972, chủ quyền hòn đảo đã chính thức trở về tay Nhật Bản và vịnh Buckner phải đổi trở lại tên cũ là Nakagusuku Wan. Tuy nhiên các căn cứ quân sự của quân Mỹ trên hòn đảo vẫn được giữ nguyên, một số căn cứ được chia sẻ chung với Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Tháng 9 năm 1995, sự kiện lính Mỹ cưỡng hiếp một bé gái 12 tuổi đã làm dấy lại phong trào phản đối sự có mặt của quân Mỹ và nhiều chủ đất đã từ chối cho quân Mỹ thuê đất tiếp. Tháng 4 năm 1996, Mỹ đã phải đồng ý trả lại cho Nhật Bản 20 % diện dích đảo mà họ chiếm đóng, vào khoảng 4,900 hectares trong vòng 7 năm.
Ngoài ra, một số sử gia còn cho rằng chính trận Okinawa với tính chất ác liệt của nó đã dẫn đến việc người Mỹ phải sử dụng bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki để kết thúc chiến tranh mà không cần đổ bộ lên nước Nhật. Một trong những sử gia nổi tiếng ủng hộ cho ý kiến này là Victor Davis Hanson. Trong cuốn sách Ripples of Battle của mình, ông đã viết rằng do quân đội và cả thường dân Nhật tại Okinawa chiến đấu quá kiên cường nên buộc lòng người Mỹ phải tìm một giải pháp khác để kết thúc chiến tranh thay cho việc đổ bộ lên đất Nhật. Và với việc sử dụng hai quả bom nguyên tử, người Mỹ đã chứng minh được sức mạnh của mình, buộc nước Nhật phải đầu hàng.
Năm 1995, chính quyền Okinawa đã cho xây dựng một đài tưởng niệm mang tên “Nền móng cho Hòa bình” (Cornerstone of Peace) tại Mabumi, nơi từng là chỉ huy sở cuối cùng của quân Nhật trong trận đánh. Tại đài tưởng niệm này có danh sách tất cả những người đã được biết đến là chết trong các trận đánh, bao gồm dân thường và quân lính, cả người Nhật và người nước ngoài. Đến tháng 6/ 2008, bản danh sách này đã có 240.734 cái tên.
Phim
Trận Okinawa đã được dựng thành phim và xuất hiện ở phần 9 trong Series phim The Pacific do Tom Hanks và Steven Spielberg làm nhà sản xuất.
Kasumi@JPN
Tổng hợp từ wikipedia










Trả Lời Với Trích Dẫn

























Bookmarks