Không chỉ được sử sách Phật giáo nhắc tới như là tổ thứ 8 dòng Mật tổng ở Trung Quốc và là người khai sáng dòng Chân Ngôn Tông ở Nhật, cuộc đời của đại sư Không Hải còn gắn liền với những mẩu chuyện thần thoại ly kỳ vẫn được người dân Nhật Bản truyền tụng cho tới tận ngày nay…
1. Không Hải (Kukai) sinh năm 774 trong một gia đình quý tộc ở tỉnh Sanuki, đảo Shikoku, Nhật Bản.
Tương truyền, khi chào đời, Không Hải ngồi tư thế kiết già, hai tay chắp lại mà ra khỏi lòng mẹ. Thuở thiếu thời, Không Hải là một cậu bé khôi ngô, tuấn tú lại rất thông minh vì vậy rất được bố mẹ thương yêu.
Năm lên 17 tuổi, Không Hai thi đỗ và vào học ở một trường chuyên dạy Nho học. Cũng trong năm này, ông viết Tam giáo chỉ quy, một bài luận về ba học thuyết thời bấy giờ là Phật, Khổng và Lão giáo.
Những kiến thức được giảng dạy trong trường Nho học không làm cho Không Hải cảm thấy thỏa mãn.
Trong lúc đang băn khoăn về một con đường sống cao đẹp thì tình cờ Không Hải gặp một tu sĩ Phật giáo và được vị ấy dạy cho một bài chú Mật tông. Bài chú này khiến lòng Không Hải cảm thấy an lạc vô ngần.
Thiền sư Không Hải
Kể từ sau lần gặp gỡ đó, Không Hải đã quyết định dấn thân vào đời sống của một ẩn sĩ tại những nơi hẻo lánh xa xôi như Otaki và Muroto.
Bản kinh văn khiến Ngài chuyển hướng cuộc đời mình là Akashagarbha (Hư Không Tạng), một tác phẩm trong Mật tông đã được Thiện Vô Uý, sơ tổ Mật tông Trung Quốc, dịch ra chữ Hán. Chuyện kể rằng, một hôm, Không Hải đến thăm chùa Todai ở Nara.
Đứng trước tượng Phật, ông nói: “Con phát tâm tìm cầu chỗ quan yếu của Phật pháp. Con đã đọc hết Tam Thừa, Ngũ Thừa, 12 bộ kinh. Nhưng đọc cái nào cũng có những nghi vấn. Trong sâu xa của tâm con có niềm tin tưởng, nhưng rất khó quyết đoán được.
Vậy kính mong thập phương ba đời chư Phật, hoan hỷ chỉ bày cho con cái nào là: “Chân thật bất nhị”.
Trước khi đến Trung Quốc, Không Hải đã bắt gặp bộ “Ðại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì”, một cuốn kinh quan trọng của Chân Ngôn tông sau này tại một ngôi chùa phía Đông Kumedera, tỉnh Yamato.
Thực tế thì đây là một bộ kinh gồm có 7 quyển, nói gọn là: Kinh Ðại Nhật. Lúc bấy giờ, đó là một trong những quyển kinh căn bản của Mật Giáo. Bắt gặp cuốn kinh, Không Hải đã cố gắng hết mình để đọc nội dung, nhưng cảm thấy chẳng dễ dàng chút nào cả.
Sau khi đọc hơn phân nửa, thấy toàn là chữ Phạn được dịch ra âm Nhật rất khó để có thể thông suốt toàn bộ nội dung.
Lúc bấy giờ, Không Hải hiểu rằng, việc tu hành chắc chắn phải có sự chỉ dẫn của một người thầy nào đó.
Tuy nhiên, khi đó ở Nhật Bản rất khó có thể tìm được một người thực sự thông thạo về phương pháp tu hành này. Không còn cách nào khác, Không Hải đành phải lên thuyền sang Trung Quốc tìm thầy để học hỏi phương pháp tu hành.
2. Năm 804, Không Hải đáp thuyền đến miền Đông Bắc, tỉnh Phúc Kiến rồi sau đó lại đến Trường An, Trung Quốc.
Lúc bấy giờ Mật tông rất thịnh hành tại kinh đô Trung Quốc do công lao của Đại sư Bất Không Kim Cang, một người đã phiên dịch rất nhiều bản kinh Mật giáo sang Hán ngữ. Khi đến Trường An, Không Hải học tiếng Phạn với hai nhà sư người Ấn là Bát Nhã và Munissi.
Tài thư pháp của Không Hải khiến cho giới thư pháp tại Trường An phải kính nể. Thậm chí, ông còn được hoàng đế Trung Quốc mời vào cung để viết tên cho các gian phòng trong cung.
Sau khi đã thông thạo tiếng Phạn, Không Hải tìm đến chùa Thanh để học Mật giáo với sư Huệ Quả (746 - 805). Khi vừa thấy Không Hải, Huệ Quả liền nói: “Ta đã nghe người đến Trường An từ lâu rồi. Do vậy ta đã có tâm chờ ông ở chùa này từ dạo ấy.
Đời sống của ta cũng chẳng còn kéo dài trong bao nhiêu lâu nữa nhưng chưa có đệ tử truyền pháp lại cho đầy đủ. Do vậy mà ta chờ ông cho đến ngày hôm nay đây.
Hãy mau sửa soạn hương hoa và nhập vào đàn Quán Đảnh. Ta muốn ông kế tục mật pháp của Mật Giáo”.
Ngay sau ngày gặp gỡ đầu tiên, Không Hải được Huệ Quả truyền pháp Thai Tạng Giới.
Một tháng sau, ông lại được truyền thụ Kim Cương Giới. Đến tháng thứ 3, Không Hải trở thành ngôi vị Truyền Pháp A Xà Lê, lãnh hội toàn bộ yếu nghĩa của Mật giáo.
Như thế chỉ trong vòng ba tháng, Không Hải đã tiếp nhận được giáo nghĩa chân truyền của Mật giáo.
Vào cuối năm ấy (805), Huệ Quả viên tịch ở tuổi 59 và truyền tâm ấn cho Không Hải. Kể từ đây ông thành tổ thứ 8 của Mật tông ở Trung Quốc.
Một năm sau, mùa Thu năm 806, Không Hải lên thuyền quay về Nhật Bản. Trong chuyến trở về lần này, ông mang theo 216 bộ kinh gồm 451 quyển trong đó có 124 bộ thuộc đại tạng của Mật tông.
Phần lớn những tác phẩm này do Ngài Bất Không Kim Cương biên dịch. Ngoài ra ông còn mang về nhiều tác phẩm nghệ thuật và pháp khí của Mật tông.
Khi mới trở về Nhật, Không Hải sống tại Từ khi trở về Nhật cho đến năm 807, Ngài trú tại chàu Dazaifu và Kyushu.
Tượng Không Hải
Cũng trong thời gian đó, một thiền sư khác tên là Tối Trừng (Saichoo 767-822) cũng từ Trung Quốc về và truyền bá Thiên Thai tông ở kinh đô nước Nhật.
Khi Không Hải đến kinh thành, một sự kiện hi hữu đã diễn ra trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản, đó là vị tổ Thiên Thai tại Nhật - Tối Trừng Đại sư cùng các đệ tử của mình đã đến thọ giáo với Ngài Không Hải, tổ sư Chân Ngôn tông. Lúc đó Tối Trừng 43 tuổi trong khi Không Hải mới chỉ 38 tuổi.
3. Thời bấy giờ, tại Nhật có ba vị cao tăng nổi tiếng đó là sư Tối Trừng của Thiên Thai tông, sư Shuen và sư Không Hải.
Trong 3 người này đại sư Không Hải là người có ảnh hưởng nhiều nhất trong xã hội. Cuộc đời ông gắn liền với những giai thoại về khả năng kỳ diệu của một bậc chân tu.
Chuyện kể rằng có lần Không Hải đến một ngôi làng nọ bị hạn hán trầm trọng. Dân làng phải đi lấy nước ở những vùng xa xôi.
Theo sự thỉnh cầu của nhiều người, Không Hải bèn thi triển thần thông chống một cây gậy xuống đất và một nguồn suối trong mát phun lên trắng xoá. Kể từ đó, ngôi làng ấy không bị thiếu nước nữa.
Câu chuyện về việc sửa chữa hồ nước ở tỉnh Samuky cũng thật là một kỳ công hiếm thấy.
Khu hồ này được tạo thành từ một con sông, bao quanh là những khu đồi cao thoai thoải.
Năm 703, triều đình Nhật khởi công xây dựng hồ nhưng đến năm 818, một cơn lũ khủng khiếp đã làm sập những bờ tường khổng lồ xung quanh.
Sau đó triều đình đã ra lệnh xây dựng lại nhưng công việc diễn ra rất chậm chạp và không mấy thành công. Không Hải thay mặt triều đình lo việc xây dựng và chỉ trong vòng 2 tháng, công trình đã hoàn thành viên mãn.
Vào năm 809, theo lời mời của Thiên hoàng, Không Hải đã vào cung để trao đổi với Thiên hoàng Saga về nghệ thuật thư pháp.
Thiên hoàng rất khâm phục trước tài năng của Không Hải. Mùa Hè năm 816, Không Hải gởi một bức thư đến Thiên hoàng xin phép xây dựng một ngôi chùa trên đỉnh Cao Dã Sơn (Koya) và kể từ đó ngọn núi này là thánh tích thiêng liêng của Chân Ngôn tông.
Tới đầu năm 823, Không Hải được cử làm trụ trì tại chùa Toji ở Kyoto và đến mùa Đông năm ấy, ông được phép triều đình để tiếp nhận đệ tử và truyền bá Mật tông. Kể từ đây, Chân Ngôn tông xuất hiện tại Nhật.
Đến năm 834, ông lập thêm một điện thờ Chân Ngôn tông tại Cung điện để dạy cho Thiên hoàng và các quan lại.
Tới năm 822, sau khi điện thờ Chân Ngôn tông được hoàn tất tại chùa Đông Đại thì tông phái này phát triển mạnh mẽ, vô số người đã trở thành đệ tử của Không Hải, trong đó có thái tử Takaoka.
Tài năng, đức độ của Không Hải đã cảm hoá rất nhiều tầng lớp dân chúng trong xã hội Nhật.
Năm 830, Không Hải hoàn thành bộ sách “Thập trụ tâm luận” (10 giai đoạn phát triển tâm) gồm 10 cuốn, trong đó ông trình bày cốt lõi tư tưởng cũng như đường hướng tu tập của Chân Ngôn tông.
Ngày 23/4/835, sau khi căn dặn đồ chúng xong, Không Hải ngồi kiết già và an nhiên thị tịch.
Vào tháng 10 năm Thiên An nguyên niên (857), Văn Đức Thiên Hoàng đã truy phong cho ngài là Đại Tăng Chánh.
Đến tháng 10 năm Diên Hỉ thứ 21 (921) Đề Hồ Thiên Hoàng tuyên dương ngài với Thụy Hiệu là Hoằng Pháp Đại sư. Chính vì vậy, người đời sau đều gọi Không Hải là Hoằng Pháp Đại sư.
Bằng Hư
PNTD
Bookmarks