Hà Đồng
Kappa
Tác giả : Akutagawa Ryunosuke
Dịch giả : Cung Điền
Nguồn: erct.com
Theo tự điển Nhật Kenkyusha, kappa được tả như một tiểu yêu, một quái vật sống dưới nước với cái đầu bờm xờm dúm tóc. Trên đỉnh đầu có một hõm đựng nước. Kappa (chữ Hán Việt : Hà Đồng, do ghép từ hai chữ Hà, Kawa và Đồng, wappa ) đứa con nít sống dưới sông, hình dạng giống khỉ, mũi dài, mắt tròn, có râu mầu nâu hung dưới cằm, da hơi xám, tay chân có 5 ngón, và có mùi tanh như mùi cá. Kappa thích ăn dưa, trứng, táo và gan người. Nếu trêu chọc, chúng khóc như một đứa trẻ ; làm vừa lòng Kappa, chúng sẽ đền ơn. Du khách tới Nhật có thể thêm mục đi kiếm kappa vào trong chương trình thăm viếng xứ mặt trời mọc, bằng cách thăm vùng Mito hay đi bơi trên sông Oise gần Nagoya. Ngày nay trẻ con tại thôn quê vẫn còn có thói quen trước khi bơi lội, quẳng dưa xuống sông làm lễ vật lấy lòng Kappa để khỏi bị chúng trêu ghẹo.
Vì Kappa chỉ là con vật hoang tưởng, nên truyện này được coi như truyện Gulliver phiêu lưu ký của Jonathan Swift (1), Erehwon của Samuel Butler (2) hay Đảo chim cánh cụt của Anatole France (3). Có thể Akutagawa Ryunosuke đã chịu ảnh hưởng từ những truyện này ?
Qua xã hội loài kappa, AR chỉ trích chính xã hội đương thời Nhật Bản, những cái kênh kiệu của ông chủ hãng thủy tinh Gaël, nhóm chính trị gia, nhóm ký giả báo chí và những nghiệp đoàn. Không chừa một giai cấp nào, kể cả những cuộc cãi vã giữa những người làm văn nghệ. Sau rốt, chủ đề của ông còn là tình người, tình vợ chồng. Vào cuối thập niên năm 20 của thế kỷ trước mà AR đã đề cập tới vấn đề sống chung trai gái không cần cưới xin như nhà thi sĩ Tốc với một con kappa cái.
Qua cái áp phích về vấn đề sinh đẻ, AR đã hé cho chúng ta thấy ông chống lại tư tưởng ái quốc quá khích và quân phiệt đang lên trong xã hội Nhật vào cuối thập niên 20, và chế độ này đã thành hình trong hai thập niên 30 và 40 đưa đến việc Nhật chiếm đóng Triều Tiên, Trung Hoa lục Địa và bán đảo Đông Nam Á với chiêu bài Đại Đông Á.
Akutagawa Ryunosuke là thi sĩ Tốc, là triết gia Mag, là ông quan tòa Pep, là bệnh nhân số 23 trong bệnh viện tâm thần. Những chỉ trích của tác giả vẫn không hề mất thời gian tính. Lấy một ví dụ khi quan toà Pep nói về điều khoản 1285 của bộ hình luật xứ Kappa, bị can sẽ không bị trừng phạt khi nguyên nhân không còn nữa. Điều này, tại nhiều nước hiện nay, tội của cha mẹ, nếu có, còn đổ lên đầu con cháu y như tru di tam tộc vào thời kỳ phong kiến trước đây.
Qua Kappa, tác giả khi để thi sỹ Tốc tự vẫn, đã không nhiều thì ít hé mở cho ta thấy cách giải quyết cuộc đời của chính tác giả vào mấy tháng sau đó.
Truyện được hoàn tất vào tháng 2 Chiêu Hòa năm thứ 2(1927).
Người dịch được đọc truyện Kappa lần đầu tiên vào khoảng cuối thập niên 50 trong tạp chí Bách Khoa, vẫn giữ được sự thích thú đến mãi bây giờ, sau gần 50 năm. Đó cũng là lý do người dịch đã chọn Kappa để chuyển ngữ.
Nguyên tác tiếng Nhật lấy từ mạng internet www.Azora.gr.jp, thư viện ngoài trời.
Dẫn nhập
Đây là câu chuyện của bệnh nhân mang số 23 tại bệnh viện tâm thần. Y kể cho bất cứ ai muốn nghe. Y phải trên 30, nhưng thoạt trông thì y có vẻ trẻ hơn nhiều. Những việc xẩy ra trước đây trong đời y à..., nhưng mà thôi, mấy thứ đó chẳng có gì quan trọng! Y chỉ ngồi bất động, hai tay ôm đầu gối, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn ra ngoài, phía trước cửa sổ có chấn song sắt, chỗ một cây sồi trụi lá, ngay cả những lá khô, vươn những cành cây lên bầu trời u ám đầy mây tuyết, tiếp tục kể cho Bác Sĩ S. viện trưởng và tôi, câu chuyện dài không dứt của y. Dĩ nhiên khi kể chuyện, không phải là y không kèm theo điệu bộ. Chẳng hạn khi y nói:" làm tôi ngạc nhiên", thì y bất chợt ngửa đầu ra phía sau.
Tôi nghĩ có thể xác nhận đã ghi lại khá chính xác về những điều y kể mà mọi người sẽ đọc. Thản hoặc nếu có ai không lấy làm đủ với những gì tôi ghi chép lại, có thể tới tìm hỏi tại bệnh viện tâm thần của Bác Sĩ S. tại làng X, ở ngoại ô thành phố Tokyo. Bệnh nhân số 23, trông còn trẻ hơn tuổi anh ta, sẽ cúi gập người chào, và chỉ cho một cái ghế không gối. Rồi với nụ cười buồn, rất điềm tĩnh, y sẽ lập lại chuyện của y. Cuối cùng - tôi còn nhớ rất rõ nét mặt của y sau khi đã kể xong- đứng thoắt dậy, vung nắm tay và mắng bất cứ một ai: Cút khỏi đây, đồ gian hiểm! Mày cũng vậy, đồ ngu! đồ bủn xỉn, đồ tà dâm, đồ vô liêm sỉ, đồ hiếu danh, đồ súc vật ích kỉ. Cút khỏi đây! đồ gian hiểm!
1
Chuyện xẩy ra vào một mùa hè cách đây 3 năm. Lưng đeo ba lô như mọi người, tôi đi từ nhà khách trọ tại một suối nước nóng miền Kamikochi (4), để leo lên ngọn núi Hotaka. Như quý vị đã biết, không có đường nào lên đỉnh núi này ngoài con đường phải đi ngược dòng sông Azusa. Trước đây tôi đã leo một lần lên ngọn núi Hotaka và ngay cả ngọn Yarigatakê thành ra tôi cũng không cần phải đi cùng với một người dẫn đường.
Tôi đi ngược thung lũng Azusa khi sương mai còn bao phủ, nhưng làn sương mai dường như không tan đi, mà càng dầy đặc thêm. Sau khoảng một giờ đi, tôi tự nghĩ tốt hơn là quay trở về nhà trọ ở suối nước nóng Kamikochi. Nhưng ngay cả đi trở về Kamikochi, cũng phải chờ sương mai tan đi. Mà mỗi lúc, màn sương càng dầy đặc. Tôi tự nhủ: " Thế thì ta lại leo!” và tôi cứ rẽ lối trong những bụi trúc còi ( 5 ) mà tiến tới, cố gắng không rời xa thung lũng sông Azusa.
Trong khi đó, màn sương mù vẫn tiếp tục che trước mắt. Tuy vậy, đôi lúc qua màn sương, tôi nhìn thấy những cành cây giẻ gai hay những cây thông đầy lá xanh. Rồi, chợt hiện ra trước mặt những đầu ngựa, đầu bò người ta thả trong những cánh đồng cỏ. Nhưng những con vật này cũng biến mất rất nhanh trong làn sương dầy đặc. Chẳng bao lâu, chân bắt đầu thấy mỏi, bụng đã bắt đầu thấy đói, và thêm vào nữa, bộ quần áo leo núi cùng cái khăn choàng len ướt đẫm sương, trở lên nặng hơn thường lệ. Rút cục tôi đành bỏ cuộc, lần theo tiếng nước vỗ vào đá, quyết định quay trở xuống dòng sông Azusa.
Ngồi trên một tảng đá bên bờ nước, trước hết tôi bắt đầu sửa soạn bữa ăn. Mở hộp thịt bò nguội (6), kiếm vài cành cây khô và nhóm lửa...tất cả mất vào khoảng 10 phút. Trong lúc đó, làn sương còn mù mịt đến tận lúc đó, bỗng dần dần tan đi. Vừa gậm miếng bánh, tôi vừa liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay. Thế mà đã quá 1h20. Nhưng chuyện làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là một bộ mặt ghê tởm phản chiếu lên trên khung kính tròn của chiếc đồng hồ. Giật mình, tôi quay người lại. Và này...đây là lần đầu tiên tôi thấy một vật mà thiên hạ gọi là kappa (xem lời dẫn nhập). Trên tảng đá sau lưng tôi, một con kappa, như người ta biết qua những hình vẽ, một tay đang ôm thân cây bạch dương, một tay đưa ngang tầm mắt, nhìn tôi dáng tò mò.
Vì sững sờ tôi ngồi bất động một lát. Con kappa cũng ngạc nhiên như vậy, tay không nhúc nhích, vẫn để tay ngang tầm mắt. Rồi vào lúc đó, tôi nhổm ngay dậy, nhẩy về phía con kappa trên tảng đá. Con này cũng chạy trốn, hay đúng hơn, làm ra vẻ như chạy trốn. Thật ra là nó nhẩy xa ra một bước và biến mất dạng trong nháy mắt. Càng lúc càng ngạc nhiên, tôi đưa mắt nhìn quanh đám trúc còi. Thì ra con vật ở đó, cách xa tôi vào khoảng 2 hay ba thước, đầu hướng về phía tôi và nhìn tôi chằm chặp, sẵn sàng chạy trốn. Đến bây giờ, không có gì là huyền bí cả. Cái làm tôi kinh ngạc là mầu da thân hình. Khi con vật nhìn tôi từ phía trên tảng đá, toàn thân nó mầu tro, bây giờ, toàn thân đã biến ra mầu xanh lá cây. Đồ súc sinh, tôi kêu lên và lại nhẩy xông về con vật. Dĩ nhiên nó lại chạy trốn, và trong khoảng độ chừng nửa giờ, xuyên qua những bụi trúc còi, nhẩy từ viên đá này qua viên đá khác, tôi đuổi theo con kappa không ngừng.
Kể về nhanh nhẹn thì kappa không thua gì loài khỉ. Tôi đuổi theo con vật như trong một giấc mơ, suýt nữa mất hút mấy lần, nhiều lần trượt chân mất thăng bằng và ngã. Nhưng khi chúng tôi chạy tới chỗ một cây hạt dẻ lớn, xum xuê cành lá, thì may mắn có một con bò mộng chắn ngang đường Kappa. Con bò với hai sừng to tướng, hai mắt đầy gân máu. Nhác thấy con vật, kappa hét lên một tiếng gì không rõ, nhẩy dúi đầu vào một bụi trúc còi hơi cao hơn những bụi khác.
Tôi tự nhủ: "Tóm được mi rồi!", và tôi đuổi theo ngay lập tức. Thế rồi chắc có một cái hố lớn mà tôi không thấy vì tay tôi mới chạm đến cái lưng nhơm nhớp của con Kappa thì người đã rơi vào trong khoảng tối dầy đặc, đầu lộn xuống trước. Cái con người ta, trong lúc nguy cơ mạng treo sợi tóc, lại nghĩ tới những điều thật quái dị. Và đúng vào lúc tôi chỉ đủ thốt lên một tiếng " Ối!" đó, thoáng hiện ra trong trí nhớ cái cầu Kappabashi -cầu Kappa- gần nhà khách trọ suối nước nóng Kamikochi. Sau đó....tôi chẳng nhớ chuyện xẩy ra tiếp theo. Chỉ thấy một cái gì như một tia chớp trước mắt, trước khi tôi ngất đi.
2
Một khoảng thời gian trôi qua trước khi tôi hồi tỉnh. Tôi vẫn ngã nằm dài, ngã ngửa, đông đảo Kappa bu quanh. Quỳ gối bên cạnh tôi, một con Kappa đeo kính cặp trên cái mỏ lớn, đang áp chiếc ống nghe trên ngực tôi. Khi thấy tôi mở mắt, y ra dấu cho tôi '”Nằm yên!", và gọi một Kappa khác đứng sau lưng: Quax!...Quax!(7) Cùng lúc đó, hai Kappa khiêng một cái băng-ca, không biết từ đâu bước tới. Tôi được đặt lên trên và được khiêng đi yên lặng qua một đường phố đầy Kappa. Hai bên đường cũng chẳng khác gì đường phố tại Ginza (8). Ở đây, hai bên đường trồng cây dẻ gai, những cửa hàng với những tấm bạt che nắng căng trước cửa và xe cộ đi lại không ngừng.
Một lát sau cái băng-ca khiêng tôi rẽ vào trong một con đường hẹp, và tôi được một Kappa mang trên vai vào trong một căn nhà. Sau này tôi mới được biết đó là nhà cuả con Kappa đeo cái kính cặp, một bác sỹ có tên Chak. Chak đặt tôi nằm trên một cái giường sạch sẽ, và cho tôi uống một ly thuốc nước trong suốt. Nằm dài trên giường, trong khi Chak tiếp tục săn sóc tôi. Thật ra, thân thể đau nhừ khắp nơi, tôi không thể cựa quậy chi được cả.
Ít nhất là hai hay ba lần trong ngày, Chak đến khám nghiệm tôi, không thiếu một ngày nào. Ngoài ra, cứ ba bữa một lần, con kappa mà tôi gặp lần đầu, một người đánh cá có tên Bag, đến thăm tôi. Sự hiểu biết của kappa về loài người vượt xa sự hiểu biết của loài người về kappa. Chuyện này có thể do loài người bị bắt trong tay kappa nhiều hơn là số kappa bi bắt trong tay loài người. "Bị bắt" có thể dùng nghĩa hơi thái quá, vì chúng ta, loài người,trước thời tôi, một đôi khi cũng đã lọt được vào thế giới của loài kappa.. Hơn nữa, cũng có khá nhiều người đã từng sinh sống suốt đời trong xứ kappa. Quý vị có biết tại sao không? Tại vì, đơn giản nhất nếu là người đến sống trong xã hội kappa, chúng ta được hưởng ân huệ không cần phải làm việc. Theo lời của Bag thì, có một anh thợ làm đường, tới xứ này vì tình cờ may mắn, cưới một con kappa cái trẻ, và sống tới khi chết tại đây. Có điều đáng kể là con kappa cái này, được coi là hoa hậu trong xứ, không ngừng cắm sừng ông chồng, anh thợ làm đường.
Sau một tuần lễ, theo luật của xứ, người ta cấp cho tôi một ngôi nhà bên cạnh ngôi nhà của Chak, như là 'Đặc biệt bảo hộ trú dân"(dân cư ngụ được đặc biệt bảo trợ). Tuy có hẹp nếu tính theo kích thước, nhưng ngôi nhà tôi ở rất tươm tất. Phải nói thêm là nền văn minh của xứ này không khác gì nền văn minh của loài người, ít ra so với Nhật Bản. Một cây đàn dương cầm nhỏ được đặt trong một góc phòng khách nhìn ra ngoài đường. Một bức tranh chạm nổi đóng khung treo trên tường. Nhưng toàn thể căn nhà, bàn, ghế, tất cả theo thước tấc của kappa, nên chi tôi thấy như mình ở trong một căn phòng của trẻ con. Đó là điều bất tiện duy nhất đối với tôi.
Mỗi ngày vào buổi tối, tôi tiếp Chak, Bag tại căn phòng này, và tôi học ngôn ngữ kappa. Thật ra không những chỉ có Chak và Bag không thôi, vì với danh nghĩa "một công dân được đặc biệt bảo trợ", tất cả mọi người đều tò mò muốn biết. Có Gaêl, giám đốc một xưởng làm thủy tinh, thường gọi Chak tới đo áp huyết mỗi ngày tại nhà, là một trong những bộ mặt quen thuộc tại phòng khách nhà tôi. Nhưng phải nói là người mà tôi thân thiết nhất trong hai tuần lễ đầu là anh chàng đánh cá Bag.
Vào một buổi chiều nóng ấm, Bag, người đánh cá và tôi, ngồi đối diện nhau tại bàn. Chẳng hiểu y nghĩ gì mà không những y ngồi im, lại mở tròn đôi mắt lớn, nhìn tôi. Tôi lúng túng hỏi y: Quax, Bag!Quo quel quan?(9), nếu dịch ra thì nghĩa là: này Bag! có chuyện gì vậy?. Nhưng y không trả lời, vụt đứng dậy, thè cái lưỡi dài về phía tôi và định nhẩy chồm tới tôi như một con ếch. Càng lúc càng tỏ ý lo ngại, tôi đứng đậy khỏi ghế, và định phóng vọt ra cửa thì may sao ông Bác sỹ Chak hiện ra, thò đầu vào trong phòng.
- Ê Bag, anh đang làm gi vậy?
Chak đeo cái kính cặp, nhìn anh chàng Bag. Và Bag tỏ vẻ bối rối, để tay lên đầu mấy lần, và xin lỗi cùng Chak:
-Xin ông thứ lỗi cho tôi, chả là tôi thích thú khi thấy vị này tỏ ra không được an tâm, nên chi tôi không tự chủ được, định đùa chơi một tý.Xin vị này tha lỗi cho tôi.
3
Trước khi tiếp tục câu chuyện, tôi xin phép được nói qua về loài kappa : một loài mà đến nay vấn đề có tồn tại hay không cũng vẫn được đặt ra. Nhưng nghi vấn này không còn nữa, vì chính tôi đã từng chung sống với chúng một thời gian. Nếu chúng ta hỏi kappa là loài như thế nào, thì phải giải thích là chúng có chùm tóc ngắn trên đầu, ngón tay và ngón chân dính liền với nhau như chân vịt, không khác gì như đã được tả trong cuốn Suiko Koryaku (Thủy Hổ Khảo Lược, lời bàn sơ lược về hổ nước) (10). Thân hình cao không quá 1 thước, theo bác sỹ Chak thì nặng vào khoảng 20 đến 30 cân Anh (pound), và ít khi gặp những người nặng đến 50 cân Anh. Ngoài ra ở ngay trên đỉnh đầu có một cái đĩa hình bầu dục, cứng dần với tuổi tác. Thật vậy, cái đĩa trên đầu ông già kappa Bag khi sờ khác hẳn cái đĩa trên đầu anh chàng trẻ kappa Chak. Nhưng cái điều kỳ lạ nhất là mầu da của kappa. Loài kappa không có một mầu da rõ rệt như da người ta, mầu da của loài kappa thay đổi với mầu của môi trường xung quanh; thí dụ khi chúng ở trong cỏ, mầu da chúng biến thành mầu xanh lá cây, và khi chúng ở trên tảng đá thì chúng trở nên xám như tảng đá. Điều này không những chỉ dành riêng cho loài kappa mà còn ở những loài như kỳ nhông. Không biết rõ da của loài kappa có cấu trúc gần giống loài kỳ nhông hay không, tôi cũng không được rõ cho lắm. Sự khám phá này khiến tôi nhớ lại một tài liệu dân tộc học cho biết loài kappa có mầu xanh lục khi ở tỉnh miền Tây, và có mầu đỏ khi ở tình miền Đông-Bắc; tôi cũng còn nhớ trong lúc chạy đuổi theo Bag, tôi không hiểu tại sao tự dưng ông ta biến mất. Ngoài ra hình như loài kappa có một lớp mỡ dầy dưới da. Mặc dù với nhiệt độ hơi thấp với xứ ở dưới lòng đất này (vào khoảng 50 độ Fahrenheit)(11), loài kappa không biết tới quần áo. Hầu như, theo tôi, con kappa nào cũng đeo kính, mang những hộp xì gà và ví đựng tiền. Nhưng loài kappa có một cái túi ở đằng trước bụng như loài kangourou, rất tiện lợi bỏ đủ thứ đồ trong đó khi không muốn cho ai biết. Chúng không che cái phần dưới của thân thể, điều này đối với tôi rất khôi hài.
Một bữa tôi hỏi Bag lý do tại sao dân kappa lại có thói quen trần truồng như vậy. Lúc đó ông ta ngửa người ra đằng sau và cười ngặt ngoẹo một hồi lâu, và trả lời tôi: "Cái mà tớ thấy khôi hài là cậu mặc quần áo".
Bookmarks