Karate là một từ tổ hợp gồm “kara: không”, “te: tay” - “karate” là cách chiến đấu bằng "tay không" (không dùng vũ khí bên ngoài cơ thể) = môn võ tay không; sau karate thường có hậu tố “do” hiểu theo nghĩa tiếng Việt là đạo (đạo đức, cách thức). Karate đa dạng về kĩ thuật chiến đấu bằng tay không (đấm, đá, vật ,ném, bẻ, khoá,... ) và sự vững chắc về tinh thần. Nước nào cũng có nhiều môn võ tay không (karate); ở nhật, trước khi môn Karate được thành lập bởi Ghichin Funakoshi cũng đã tồn tại (và phát triển) nhiều môn võ tay không khác.
Ghichin Funakoshi từng nói “Karate chân chính là sự rèn luyện thể chất và ý chí trong cuộc sống hàng ngày dựa trên tinh thần khiêm tốn ham học hỏi và toàn tâm toàn ý hướng tới công lí, phục vụ cho công lí”.
(Môn sinh Karate Yoseikan Pháp)
Trong Karate, ý chí và kĩ thuật hoà làm một; luyện Karate gồm luyện về thể chất và luyện tinh thần và đối thủ thật sự là bản thân. Karate có nhiều hệ phái, 4 hệ phái lớn nhất là: Shotokan, Goju, Wado, Shito.
1. Shotokan:
Lối đánh thấp, uy lực, phần hông vững vàng - khi di chuyển, hông phải giữ ngang tầm. Nhịp thở không được phát ra mạnh khi thót bụng. Những bước nhảy cũng đòi hỏi tính kỹ thuật nghiêm khắc chứ không mang tính thể dục
2. Wado-ryu:
Kết hợp Shotokan và Ju-jutsu (nhu thuật), lối chiến đấu luôn thay đổi và uyển chuyển là kỹ thuật quan trọng. Có 3 nguyên tắc trong Wado-ryu: Noru (phối hợp công thủ ở cùng động tác), Nagasu (hít thở) và Inasu (làm chệch hướng), giữ khoảng cách với đối thủ.
3. Shito ryu:
Nghệ thuật kata rất cao, đầy tinh tế và tốc độ; kỹ thuật dựa trên tính linh hoạt của vùng hông và những chuyển động nhịp nhàng của cơ thể.
4. Goju-ryu:
“Go” (cương: cứng), “Ju”(nhu: mềm), kỹ thuật tạo khoảng cách cần thiết cho phép thực hiện những cú chặt, khóa và đòn tay khác một cách hiệu quả. Cơ thể như một động cơ chuyển động, lực tập trung nhiều ở cơ bụng - tập trung sức mạnh cho những cú đạp và đá.
Ở Việt Nam, môn Karate phát triển mạnh ở Huế từ những năm 60, võ đường Linh Trường Không thủ đạo của VS Suzuki tại chân cầu Đông Ba - Huế là tổ đường thân thương của nhiều thế hệ karateka Việt Nam. Từ đây nhiều VS đã thành danh (Khương Công Thêm, Nguyễn Xuân Dũng, Nguyễn Văn Dũng,...đặc biệt, có Ngô Đồng đã lập hệ phái Karatedo mang tên GoJu Karatedo Việt Nam (Cương Nhu Không thủ đạo) [ông là Tiến sĩ Ngành Côn trùng học, Viện trưởng Viện Đại học Quảng Đà trước 1975].
Tại tp HCM, VS Hồ Cẩm Ngạc là người có công lớn trong việc khai sinh Karatedo từ những năm 50; tại đây, từ trước 1975 đã có nhiều hệ phái Karatedo, nay đã thống nhất về hệ thống quyền căn bản theo kỹ thuật của Karate Shotokan.
Người Mỹ vẫn gọi môn Taekwondo của Hàn Quốc là Karate Korea vì 2 lý do:
- Một là, do võ phái Taekwondo Quốc tế (ITF) trước đây (còn gọi là phái Ngôi Nhà Xanh - VS Choy Hong Hy thành lập) không chỉ mặc võ phục (trắng) kimono như hầu hết võ sinh Karate Nhật mà còn sử dụng nhiều bài quyền của Karate Shotokan
[Việt Nam đã nhập Taekwondo thế giới (WTF) với võ phục là áo chui, có viền đen ở cổ]
- Hai là, hiểu chữ “karate” là võ (vì thế, gọi “võ của người Korea” là “Karate Korea”); hiện tượng này cũng xảy ra khi võ Việt Nam được gọi là “Kungfu de Vietnamien” do hiểu chữ “kungfu” là “võ thuật” (phân biệt với “Shaolin” là võ “Thiếu lâm”).
Theo MangGiaoDuc









Trả Lời Với Trích Dẫn







[IMG]www.swissgojuryu.ch/logosmal.gif[/IMG]


Bookmarks