>
Trang 5/8 đầuđầu 1 2 3 4 5 6 7 8 cuốicuối
kết quả từ 41 tới 50 trên 78

Ðề tài: 12 người lập ra nước Nhật

  1. #41
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Dùng quyền hạn và mưu lược phân hóa phe phản đối

    Cái tên Okubo Toshimichi được mỗi người biết đến, song thực thể về ông ta thì không hẳn được biết đến rõ ràng. Vây ông ta là người như thế nào?

    Okubo Toshimichi sinh năm 1830 tại phiên bang Satsuma (bây giờ là tỉnh Kagoshima), tức là năm thứ nhất của niên hiệu Tenpo (Thiên Bảo), niên hiệu được quen biết với "cuộc cải cách Thiên Bảo." Cha là môt phiên sĩ Satsuma, tức là một võ sĩ samurai hạng trung của phiên bang Satsuma.

    Năm 1846, (niên hiệu Hoàng Hóa năm thứ ba), ở tuổi 17 (tuổi đếm), ông được tuyển làm thư ký sở đăng ký của phiên bang Satsuma. Mới 17 tuổi đã được tuyển làm thư ký, thì hẳn Okubo Toshimichi phải là người văn hay chữ tốt, biết sử dụng bàn toán rành rọt. Sau đó, nhân cái gọi là "vụ đổ bể Takasaki," tức là một vụ tranh chấp trong phiên ban, cha ông bị trục xuất và ông bị cách chức. Toshimichi bị mất chức thư ký từ lúc 21 tuổi tới lúc 24 tuổi.

    Năm 1857 (niên hiệu An Chính năm thứ tư), ở tuổi 28, ông trở thành một hạ sĩ quan. Năm ấy, Saigo Takamori[9] cũng trở thành hạ sĩ quan. Nghĩa là ở thời điểm đó, cả hai bậc nguyên huân của thời Duy tân Minh Trị đều đã xuất hiện trên sân khấu. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, vì cùng với nhà sư Gessho (Nguyệt Chiếu) và đồng bọn nổi loạn, bị đi đày, nên Saigo Takamori đã không ở chức này được lâu.

    Okubo Toshimichi thực sự hoạt động là kể từ năm 1859, lúc 30 tuổi. Lúc đó, phiên chúa Satsuma đã thay đổi, Toshimichi lân la lại gần người cha của phiên chúa Shimazu Hisamitsu. Biết chúa Hisamitsu thích đánh cờ vây, Toshimichi đã học đánh cờ rồi mon men tới làm bạn chơi cờ. Thành công, năm sau, ông đã được phong làm tổ trưởng kế toán. Thời đó, 30 tuổi có thể coi tương đương với tuổi 40 ngày nay. Nghĩa là, đã tới tuổi trung niên rồi mới đi học đánh cờ để tìm cách tiếp cận phiên chúa. Như vậy, ông đáng được coi là một người có chí, một người ham địa vị.

    Năm 1862 (niên hiệu Văn Cửu năm thứ hai), Toshimichi lần đầu tiên lên thành Edo (Tokyo ngày nay). Hai năm sau, ông trở về phiên bang Satsuma, lo việc cải cách hành chính của phiên bang, nhưng gặp phải sự chống đối từ nhiều mặt. Lúc đó, phiên bang Satsuma đã chuyển từ phe ủng hộ sang phe lật đổ mạc phủ Tokugawa. Okubo thì chuyên tâm vào việc vận động cải cách.

    Thế rồi bốn năm sau tức là năm 1868 (niên hiệu Khánh ứng năm thứ tư), năm đổi niên hiệu thành Meiji (Minh Trị), mạc chúa đời thứ 15, Tokugawa Yoshinobu (1866-1867), sau khi đã hoàn trả quyền cai trị cho vua Minh Trị, lại gây hấn ở Toba Fushimi nhưng thua trận, phải bỏ thành Edo mà về quê ở Mito. Có người chủ trương phải đuổi đánh. Okubo là một trong số những người chủ trương mạnh nhất như vậy. Nghĩa là cho đến lúc này, ông xứng đáng được gọi là chí sĩ của cuối thời mạc phủ với tinh thần cách mạng như vậy.

    Nhưng thật ra, Okubo Toshimichi đã phát huy thực lực, là sau khi cuộc cách mạng Duy tân Minh Trị đã thành công, sau khi chính phủ mới của vua Minh Trị đã thành lập. Năm thứ hai sau cuộc cách mạng Duy tân, tức là năm 1869, ông được phong Tham nghị, một chức quan trọng yếu trong triều, rồi năm 1871, ông được phong làm Bộ trưởng Kho bạc. Thời đó, Tham nghị là chức quan lớn hơn Bộ trưởng Kho bạc, và như vậy có nghĩa là ông bị giáng chức ít nhiều. Song vì biết cái vị trí tế nhị của mình nên ông đã nhận lãnh chức vụ mới này.

    Thế nhưng tháng 11 năm ấy, ông tổ chức đoàn đại biểu thị sát nước ngoài, tôn Iwakura Tomomi làm đại sứ toàn quyền, còn chính mình nhậm chức phó sứ. Ðoàn đại biểu đã bỏ ra một năm rưỡi tuần sát các nước Âu Mỹ để rồi trở về nước tháng 5 năm 1873. Lúc đó Okubo được 44 tuổi. Từ đó trở đi mới là lúc Okubo phát huy thực quyền.

    Trong lúc Iwakura và Okubo xuất ngoại, ở trong nước có cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề "chinh Hàn[10]." Vừa ngoại du trở về, Okubo chủ trương đặt ưu tiên cho công tác chỉnh đốn việc trong nước. Và sau một cuộc tranh luận kịch liệt với nhóm Saigo Takamori, Eto Shinpei, Itagaki Taisuke, ông đã đè bẹp được chủ trương "chinh Hàn." Ðây là đầu mối cho cơ hội phát huy thực lực của Okubo.

    Okubo Toshimichi được phục chức Tham nghị, đồng thời kiêm nhiệm chức Bộ trưởng nội vụ. Sau cuộc cải cách quan chế năm 1885, chức năng của Bộ trưởng nội vụ bao chùm tất cả các vấn đề nội chính. Với quyền hạn rộng lớn này, Okubo đã tìm mỗi cách cô lập hóa Saigo Takamori.

    Năm 1875, cuộc hội đàm Osaka[11] mở ra giữa Okubo Toshimichi, Kido Takayoshi (tức là Katsura Kogoro, một cựu phiên sĩ phiên bang Satsuma) và Itagaki Taisuke được mở ra, trong đó Okubo đã thuyết dụ được họ tham gia nội các. Năm trước đó, Okubo đã chấp nhận cho xuất binh sang Ðài Loan, và nhân cơ hội đó, đã lôi kéo được em trai Saigo Takamori là Saigo Tsugumichi.

    Dùng thủ đoạn, Okubo lần lần chia rẽ phe đối lập. Chẳng hạn, bọn Eto Shinpei đã có lúc có thế lực chia hai dư luận trong nước, song dần dần đã bị cô lập hóa. Okubo quả là người có thủ đoạn. Kết quả là Chính phủ Minh Trị đã trở thành dụng cụ cho Okubo chuyên quyền. Nhân đó, ông đã thực thi chính sách "gia tăng sản xuất, tân hưng kỹ nghệ[12]," tức là chính sách chấn hưng các ngành nghề sản xuất.



    Xây dựng một quốc gia không để cho ngoại quốc coi thường

    Những chí sĩ thời cuối Edo, như Takasugi Shinsaku, Katsura Kogoro, Saigo Takamori, đều là những người chủ trương "nhương di (sua đuổi man di)" để giữ vững chính sách "tỏa quốc," tức là đóng cửa đất nước, tức là "bế quan tỏa cảng." Họ đã cho ám sát những người khác chủ trương "mở nước" như Ðại lão[13] Ii Naosuke và những người cùng chủ trương. Thế nhưng, chỉ mười năm sau đó, tất cả đám người "nhương di" này đều đã chuyển hướng thành chủ trương "mở nước." Nghĩa là những chí sĩ "tôn hoàng nhương di", sau khi trở thành quan cao của Chính phủ Minh Trị, đều đã chủ trương "khai hóa văn minh[14]." Ở điểm này, họ đáng gọi là những kẻ "thất tiết," những người không giữ được tiết nghĩa, nhưng tuyệt nhiên không thấy họ có vẻ gì là ngượng nghịu, là xấu hổ trước hành vi đổi chiều, thái độ chuyển hướng như vậy của họ cả. Thật là một hiện tượng lạ lùng của thời kỳ Duy tân Minh Trị.

    Sở dĩ như vậy là vì những chí sĩ Duy tân này không phải là những nhà tư tưởng. Họ chỉ là những người hành động thực tế. Ðối với họ, chủ nghĩa chủ trương không bằng lòng ái quốc, không bằng tinh thần không chịu thua kém người khác.

    Những người sau này được tôn vinh là chí sĩ Duy tân, trước sự kiện "đoàn tàu đen xuất hiện[15]," đã chỉ nghĩ làm sao dựng nên một nước Nhật không bị coi thường, làm sao xây dựng một tổ quốc Nhật Bản không bị ngoại quốc khinh thị. Muốn vậy, họ nghĩ, cần phải có võ lực mạnh. Nếu dùng võ lực đánh đuổi được đoàn tàu đen đi, thì ngoại quốc không thể khinh thường Nhật Bản được nữa. Võ sĩ samurai Nhật Bản thời ấy đã chỉ suy nghĩ đơn giản như vậy mà thôi.

    Cũng có phiên chúa tưởng thế là thật, đã thực sự thử sức với ngoại quốc. Chẳng hạn, phiên bang Choshu đã nã pháo vào thương thuyền Mỹ hoặc chiến hạm Pháp và Hà Lan trong khi những tàu này chạy ngang qua Bakan (nay là Shimonoseki); phiên bang Satsuma thì từ pháo đài trên bờ nã pháo vào chiến hạm Anh khi tàu này xâm nhập vịnh Kagoshima. Vụ trước gọi là trận chiến tranh Bakan, vụ sau là trận chiến tranh Satsu-Anh.

    Thế nhưng đoàn tàu đen trang bị hơn 100 khẩu đại bác thì quá mạnh. Sự hơn thua về hỏa lực giữa địch và ta đã rành rành. Không thể chỉ lấy áo giáp, mũ sắt, đao kiếm, súng hỏa mai và vài nòng pháo cổ điển mà có thể đương đầu được. Muốn đánh thắng ngoại bang, thì phải có tàu chiến tố tân trang bị đại bác lớn. Mà phải có thật nhiều cơ.

    Khi biết rõ sự thực như trên, các phiên chúa cũng như mạc chúa Tokugawa bèn chạy tới các thương gia Hà Lan ở Nagasaki, hỏi mua súng đại bác, tàu chiến. Nhưng đại pháo và chiến hạm thì giá đắt. Hơn nữa, mua bằng tiền giấy của phiên bang đâu có được. Phải mua bằng vàng bạc. Thế là các võ sĩ samurai mới tỉnh ngộ ra rằng, phải dựng xưởng đúc đại pháo, phải xây xưởng đóng tàu mới có thể có được những võ khí mạnh đó.

    Việc này không dễ dàng gì. Họ dần dần nghĩ ra rằng, muốn có vàng bạc thì phải dựng nên những ngành nghề chế tạo sản phẩm có thể bán ra nước ngoài được. Muốn thế, muốn gây dựng những ngành nghề sản xuất mới, thì phải học kỹ thuật, học chế độ ngoại quốc để công nghiệp hóa đất nước, chứ không thể cứ một mực "tôn hoàng nhương di (tôn vua đuổi man di)" được nữa. Muốn xây dựng một nước khiến ngoại quốc không còn khinh rẻ được nữa, thì không còn có chỗ nào khác hơn là "khai hóa văn minh."

    Nói tóm lại, các chí sĩ Duy tân, xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc đã đi tới kết luận "khai hóa văn minh" để xây dựng nền công nghiệp hiện đại. Người ta có cảm tưởng như điểm xuất phát và điểm đích hình như nghịch đảo. Nhưng đây là kết luận đúng. Nhưng chỉ vì quá hăng say, nên có lúc họ đã đi quá trớn. Vì muốn du nhập kỹ thuật hiện đại, cơ chế hiện đại của ngoại quốc, họ đã truyền bá ý nghĩ bỏ hết truyền thống có sẵn của Nhật Bản. Chẳng hạn, hạng người như Mori Arinori[16] đã chủ trương bỏ hẳn tiếng Nhật và lấy tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức thay thế.

    Mục đích của Duy tân là làm cho Nhật Bản thành một nước không bị ngoại quốc khinh thị, nên nếu những người ban đầu chủ trương dùng võ lực xua đuổi ngoại bang đi, nhưng sau đó cũng chính những người này lại khởi xướng việc học hỏi ngoại quốc, thì cứu cánh vẫn là một, dầu cho thủ đoạn có khác đi. Người theo chủ nghĩa dân tộc chủ trương "tôn hoàng nhương di" cũng đồng thời lại là người tôn thờ chủ nghĩa Âu hóa chủ trương "khai hóa văn minh." Thế mà những người như vậy không hề coi mình là kẻ thất tiết. Quả thật đây là tiến trình chuyển biến tư tưởng rất Nhật Bản, mà Okubo Toshimichi là một đại biểu vậy.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  2. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  3. #42
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Như thế, trở thành người chủ trương Khai hóa Văn minh, Okubo Toshimichi đã dùng mọi thủ đoạn cô lập Saigo Takamori, chèn ép Eto Shinpei, mà hẳn vẫn cho mình đã làm việc chính đáng. Trong Chính phủ Minh Trị, lập ra cái mà người đời gọi là "thể chế độc tài Okubo," rồi áp dụng chính sách khai hóa văn minh và chủ trương gia tăng sản xuất, tân hưng sản nghiệp để làm cho Nhật Bản giầu mạnh không bị ngoại bang khinh thị nữa, hẳn Okubo đã làm với niềm tin của ông vậy.


    Xây dựng cơ chế trong nước rập theo đế quốc Ðức.

    Nhật Bản thời Minh Trị đứng về phe đế quốc Anh trên mặt ngoại giao, nhưng mỗi cơ chế trong nước thì lại rập theo khuôn mẫu của đế quốc Ðức. Ðây là biểu hiện của đường lối thực tế của Okubo Toshimichi.

    Thật ra, sự kiện Nhật Bản thuộc phe đế quốc Anh về mặt ngoại giao, không phải là tự ý Nhật Bản lựa chọn như vậy.

    "Ðoàn tàu đen" gồm bốn chiến hạm, do đô đốc Perry chỉ huy, tới đòi Nhật Bản mở cửa năm 1853 (niên hiệu Gia Vĩnh năm thứ sáu), là của Mỹ. Năm sau, Perry lại tới đòi đàm phán. Nhưng ngay sau đó, ở Mỹ đã xẩy ra cuộc nội chiến Nam Bắc quanh vấn đề giải phóng nô lệ, gây tổn hại lớn đến nội lực, khiến Mỹ không còn bụng dạ nào quan tâm đến một đảo quốc nhỏ bé ở vùng Cực Ðông nữa.

    Một mặt, giữa lúc Nhật Bản chìm đắm trong sự hỗn độn thời cuối Edo, thì Âu châu đang ở thời kỳ đại loạn với cuộc chiến tranh Phổ - Áo (1866), rồi chiến tranh Phổ - Pháp (1870-1877). Ðế quốc Phổ với trung tâm là thành phố Berlin ngày nay, đã liên tiếp thắng Áo rồi Pháp. Kết quả là năm 1871, nước Ðức đã được thống nhất và đế quốc Ðức với nước Phổ làm trung tâm đã ra đời. Thời điểm này, nước Italia cũng được thống nhất thành một quốc gia. Châu Âu đã trải qua một thời kỳ 10 năm ly loạn. Do đó, cả Pháp, Ðức, Áo đều không có ý định dùng quân sự xen vào nội bộ Nhật Bản. Trong các cường quốc ở châu Âu lúc đó, chỉ còn có Anh và Nga là còn có thể gửi quân lực tới miền Cực Ðông. Thế nhưng, đế quốc Nga lúc đó tuy có quân lực hùng mạnh luôn luôn có tham vọng bành chướng, nhưng trình độ kinh tế, kỹ thuật lại thấp kém, và chế độ xã hội thì lại có phần thua kém Nhật Bản. Vào thời kỳ Duy tân Minh Trị của Nhật Bản, thì đế quốc Nga chỉ mới bắt đầu cuộc giải phóng nông nô, nên khó có kỹ thuật cũng như tư bản để viện trợ cho Nhật Bản.

    Ðến thế này, thì Nhật Bản chỉ còn Anh quốc để về hùa mà thôi. Tình huống này được lặp lại sau trận Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thật vậy, năm 1951 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ 26), Nhật Bản ký hòa ước San Francisco để thuộc vào phe các nước Tây phương, nhưng Nhật Bản bị Mỹ chiếm đóng, rồi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, nên Nhật Bản không còn cách lựa chọn nào khác hơn là về phe với Anh quốc trên mặt ngoại giao.

    Thời Minh Trị, Nhật Bản cũng chỉ còn cách về phe với Anh quốc. Kể từ sau khi "đoàn tàu đen" tới Nhật Bản, thì tin tức ngoại quốc xuất phát từ Anh quốc đã lần lần thay thế cho tin tức ngoài nước trước đó xuất phát từ Hà Lan. Người Nhật thời Minh Trị quan niệm rằng, một quốc gia hiện đại là một nước có chủ nghĩa dân chủ và nền kinh tế tự do như Anh quốc vậy. Thế nhưng, khi Okubo Toshimichi đóng vai phó sứ của phái đoàn Iwakura sang tới châu Âu, ông mới thấy rằng chẳng riêng gì Anh quốc, mà cả Ðức, Pháp, Áo - Hung (năm 1867, đế quốc Áo đã cải tổ thành đế quốc Áo-Hung) đều là các quốc gia hiện đại. Mỗi nước đều có thể chế khác nhau. Trong các nước này, Okubo Toshimichi đã đặc biệt quan tâm tới đế quốc Ðức, một thế lực tân hưng đang sục sôi khí thế bá chủ.

    Trong các nước châu Âu, Anh quốc là nơi đã dấy lên làn sóng cách mạng công nghiệp hiện đại đầu tiên. Theo sau đó là Pháp, Hà Lan. Chậm hơn nữa là đế quốc Ðức. Ðể đuổi kịp Anh quốc, đế quốc Ðức đã áp dụng chính sách mạnh mẽ nuôi dưỡng các ngành nghề sản suất. Với hỗn danh "Tể tướng máu sắt," Thủ tướng Otto von Bismarck đã áp dụng chủ nghĩa quan liêu, một chế độ và tổ chức khác hẳn với Anh quốc.

    Từ khoảng giữa thế kỷ thứ XVIII, ở Anh quốc đã nổ ra cuộc cách mạng công nghiệp. Nhiều kỹ thuật, nhiều phương pháp mới đã được phát minh ra. Nhưng, kỹ thuật nào tốt, phương pháp nào hay, thì thực ra chưa ai biết được. Bởi đó là thời kỳ mà người ta đã mất niềm tin của cả ngàn năm trước, tức là "lời Chúa" trong Kinh Thánh. Nào Kinh Thành nói "đất không chuyển động," nhưng có vẻ là "trái đất chuyển động" mới đúng. Nào Kinh Thánh nói "Chúa sáng tạo ra con người," nhưng không chừng con người là do loài vượn tiến hóa mà thành. Nếu "lời Chúa dạy" đã được tin là đúng không lay chuyển cả ngàn năm rồi, mà nay còn bị nghi ngờ, thì lời nói của bọn quan lại, học giả, v.v. làm sao tin được? Nói cách khác, tiền lệ cũng như tiêu chuẩn, tất cả đều trở thành vô dụng.

    Trong bối cảnh như vậy, người Anh thế kỷ thứ XVIII đã nghĩ như sau. Mỗi người đều đáng được "bình đẳng trong cơ hội" trở thành người cung cấp sản vật. Cho tới thời bấy giờ, những người sản xuất đều họp thành một "tổ ngành nghề (guild)." Chỉ những ai ở trong "tổ ngành nghề" mới được phép sản xuất và bán ra sản phẩm. Ðồ sắt thép phải là do những người trong "tổ thợ rèn" mới được chế tạo và bán ra. Hàng len phải là do "tổ dệt len" mới được dệt và bán ra.

    "Bình đẳng về cơ hội" có nghĩa là mỗi người đều được phép chế - bán ra sản phẩm không phân biệt họ xuất thân từ giai tầng nào. Nói cách khác, đây là sự tự do cạnh tranh.

    Thế rồi, sản phẩm nào tốt, ai khéo tay, sẽ để cho người tiêu dùng lựa chọn. Nghĩa là thực hiện chủ quyền của người tiêu dùng qua sự quyết định "hàng bán chạy là hàng tốt." Người cung cấp sản phẩm bán chạy trên thị trường sẽ được phát đạt. Ðây là triết lý "kẻ thích nghi sinh tồn," "kẻ thích nghi phồn vinh." Sau này, trong sách "On the Origin of Species by Means of Natural Selection (Bàn về nguồn gốc chủng loại bằng sự chọn lọc {đào thải} tự nhiên)," Charles Robert Darwin đã nâng triết lý này lên hàng "nguyên lý tự nhiên," song thật ra, người Anh đã thực hành điều này cả trăm năm trước đó rồi.

    Ðiều vừa kể mới thực sự là hình thức kinh tế tự do kiểu Anglo-Saxon. Nền kinh tế tự do Anh quốc bảo đảm sự "bình đẳng về cơ hội," tức là sự "tự do về nghề nghiệp." Ai cũng có thể trở thành nhà cung cấp. Kết quả sẽ được quyết định bởi cạnh tranh. Ai được đông đảo người tiêu dùng ủng hộ thì phát đạt, ai mất sự ủng hộ của người tiêu dùng thì tiêu diệt.

    Ý nghĩ như vậy về kinh tế tự do, về chủ quyền thuộc về người tiêu dùng, đem áp dụng vào chính trị thì trở thành chủ nghĩa dân chủ. Trong chế độ chính trị dân chủ chủ nghĩa, ai ai cũng có thể, trên nguyên tắc, ứng cử làm chính khách được. Nghĩa là ai ai cũng có cơ hội trở thành người cung cấp chính trị. Và sự lựa chọn ai làm chính khách là quyền của cử tri, tức là người tiêu dùng chính trị. Ứng viên nào được sự ủng hộ của đông đảo cử tri, sẽ đắc cử đại biểu quốc hội. Ðảng có chính kiến hay nhất sẽ nắm được chính quyền. Nói cách khác, chủ nghĩa dân chủ là mọi người dân làm chủ, là phiên bản chính trị của chủ nghĩa kinh tế tự do.

    Ngày nay, chúng ta chỉ còn biết rằng người Anh đã chế ra những máy móc tuyệt diệu như máy kéo sợi Hargreaves, đầu máy xe lửa Stevenson. Nhưng những thứ còn được truyền tụng như vậy ngày nay đều là những phát minh thành công cả. Thật ra, phần lớn những máy móc được sáng chế ra trong thời kỳ của cuộc cách mạng cơ giới đó, là đồ bỏ, là đồ vô dụng. Một số những máy móc như vậy ngày nay vẫn còn được triển lãm ở tầng hầm của Viện Bảo Tàng Ðế Quốc Ðại Anh ở London. Chẳng hạn có những thứ như "máy vừa ngủ vừa được uống cà phê," v.v.. Trong khoảng từ hậu bán thế kỷ thứ XVIII sang thế kỷ thứ XIX, những máy như vậy được chế ra rất nhiều ở Anh quốc. Có nhiều người đã xuất vốn cho chế tạo ra, rồi cũng có người đã cất công đi rao bán những máy như vậy.

    Buôn bán lừa đảo, cưỡng đoạt, cướp giật cũng hoành hành. Nước Anh vào thời kỳ cách mạng công nghiệp, thật ra là một xã hội méo mó hỗn tạp. Tình trạng như vậy đã kéo dài gần một trăm năm, và kết quả là những cái tốt, cái hay sống sót, và nền công nghiệp hiện đại chế tạo những cái đó đã phát đạt vậy.

    Thế rồi sau cuộc chiến tranh Napoléon, kể từ khoảng năm 1830 trở đi, thì Pháp, Ðức cũng gia tăng tốc độ công nghiệp hóa. Ðến khoảng năm 1870, Bismarck lãnh đạo đế quốc Ðức đã quyết tâm học hỏi tiền lệ để đuổi kịp Anh quốc về mặt công nghiệp hóa.

    Nghĩa là Anh quốc đã làm cuộc thí nghiệm về chủ quyền của người tiêu dùng rồi, nay không cần chờ đợi sự đào thải bởi cạnh tranh tự do nữa. Ðức chỉ cần nhìn vào kết quả đó, thấy cái gì thành công hãy bắt tay vào công nghiệp hóa, thì như vậy không phí phạm. Ðồng thời, để cho những người hiểu biết tinh tường về tiền lệ ở Anh quốc lựa chọn cái nào tốt nhất mà sản xuất công nghiệp, thì như thế có thể hoàn thành sự hiện đại hóa một cách có hiệu quả. Như vậy, chuyện lừa bịp sẽ không có, phá sản sẽ không xẩy ra, quốc dân khỏi bị lừa đảo mà có thể sống an tâm hạnh phúc được.

    Vậy ai là người hiểu biết tinh tường về tiền lệ ở Anh quốc? Ðó chính là đám quan liêu (công chức) ưu tú, các giáo sư đại học. Vậy, cứ để cho những người này chỉ dẫn đường hướng, chuẩn định quy cách sản phẩm, rồi cho giới công nghiệp chế tạo ra và cho quốc dân mua dùng. Ðây là chủ nghĩa khai sáng do quan liêu (công chức) chỉ đạo, nền tảng cho đế quốc Ðức vậy.

    Phái bộ Okubo Toshimichi sang châu Âu, được nghe giải thích chế độ này của đế quốc Ðức, đã bị mê hoặc. Họ nghĩ "Nhật Bản nên du nhập và thực hiện chế độ này." Có thể là từ trước đó, Okubo Toshimichi đã thấy những mâu thuẫn của chủ nghĩa dân chủ kinh tế tự do của Anh và do đó có ác cảm với chủ nghĩa này.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  4. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  5. #43
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Giữ chức Bộ trưởng Nội vụ nắm toàn thể nền chính trị quốc gia

    Trở về Nhật, Okubo Toshimichi đã chống lại đường lối "chinh Hàn" của bè phái Saigo Takamori, Itagaki Taisuke, Eto Shinpei. Ông chủ trương cải cách nội chính chứ không gửi quân đội viễn chinh sang bán đảo Triều Tiên. Rồi ông thuyết phục mọi người chung quanh rằng đường lối tốt nhất là áp dụng cơ chế đế quốc Ðức mà ông đã học hỏi được. Khi quan điểm lý luận của ông chiếm được đa số trong Chính phủ Minh Trị, ông bèn loại bỏ Saigo và Eto đi, rồi lôi kéo Itagaki vào bè phái của mình. Ðồng thời, để thực hiện đường lối "Thực sản hưng nghiệp" ông đã đích thân nắm chức bộ trưởng nội vụ, một mình quán xuyến mọi chính sách nội bộ.

    Ðường lối của Okubo Toshimichi ngày nay nhìn lại, là chỉ tôn trọng bọn êlít, tức là đám người ưu tú, còn quốc dân thì bị khinh miệt là ngu dốt. Tuy vậy, so với chủ trương phân biệt dòng dõi (thị tộc) của bọn Saigo, thì đường lối này hãy còn tiến bộ hơn nhiều.

    Ðồng thời, đối với đại đa số quốc dân, ông tỏ ra nhiệt tình với hoạt động khai sáng, hoạt động phổ biến kỹ thuật sản xuất. Chứng cớ là việc mở hội chợ.

    Okubo Toshimichi đã đích thân đứng ra chủ trì ba lần hội chợ. Những hội chợ này là để trưng bầy kỹ thuật ưu tú của ngoại quốc, và chiêu mộ người trong nước đứng ra công nghiệp hóa những kỹ thuật đó. Ai dám đứng ra làm, sẽ được chính phủ trợ giúp vốn làm ăn. Thế rồi, áp dụng đường lối giáo dục bằng vật thực, ông cho dựng nhà máy mẫu bằng cách rập khuôn nguyên xi nhà máy kéo sợi của Pháp và nói "cứ bắt chước y hệt thế này là được." Tất cả những việc như vậy, chính Bộ trưởng nội vụ Okubo đã đích thân đứng ra làm.

    Xem như vậy, thì thời đó, phạm vi hoạt động của Bộ Nội vụ bao gồm những bộ ngày nay như Bộ Thương mại quốc tế và công nghiệp, Bộ Nông thủy sản, Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Bộ Lao động, Bộ Tự trị, Tổng cục công an và tất cả nghiệp vụ của các Tỉnh trưởng.

    Từ Bộ Nội vụ như vậy, công tác chuyên ngành lần lần thành hình và các bộ chuyên môn dần dần tách ra thành các bộ riêng. Trước nhất là Bộ Nông thương vụ được độc lập. Rồi năm 1925 (niên hiệu Ðại Chính năm thứ 14), bộ này lại tách ra thành Bộ Nông lâm và Bộ Công thương. Sang thời Showa (Chiêu Hòa, từ năm 1926 tới 1989), thì Bộ Y tế (1938), rồi sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ II thì Bộ Lao động (1947), Bộ Xây dựng (1948) được tách ra độc lập. Rồi các tỉnh trưởng được trực tiếp bầu ra, và Bộ Nội vụ sau cùng được chia thành Bộ Tự trị và Tổng cục cảnh sát, với chức năng giám sát điều chỉnh hoạt động hành chính của các tỉnh mà thôi.

    Nói cách khác, Bộ Nội vụ thời Minh Trị đã quán xuyến từ vấn đề nội vụ tới việc tân hưng công nghiệp. Thời ấy, ngoài Bộ Nội vụ ra, còn có các bộ sau: Bộ ngoại giao coi việc ngoại giao, Bộ Lục quân và Bộ Hải quân lo việc quân sự, Bộ Cung đình coi việc hoàng gia, Bộ Tư pháp lo việc pháp luật, Bộ Văn coi việc học (giáo dục đào tạo), Bộ Kho bạc coi việc tài chính, Bộ Ðường sắt quản lý kinh doanh hệ thống đường sắt, Bộ Ðệ tín lo việc bưu chính, điện tín cùng những vấn đề khác như điện lực, vận tải đường biển.

    Nghĩa là, trừ giáo dục, tài chính và các ngành nghề quốc doanh, còn mọi việc nội chính đều nằm trong tay Bộ Nội vụ. Những sản nghiệp như nông nghiệp, lâm nghiệp, khoáng sản (hầm mỏ), công nghiệp, vận chuyện hàng hóa, xây dựng, y tế, lao động, v.v., tất cả đều do một tay Okubo Toshimichi nắm giữ hết.

    Chế độ quan liêu (công chức) Nhật Bản là rập theo khuôn mẫu của chủ nghĩa khai sáng kiểu quan liêu chỉ đạo của đế quốc Ðức. Trước hết là thành lập một loạt cơ quan công quyền có mục đích gây dựng những nhà cung cấp. Ví dụ, Bộ Văn (tương đương với Bộ Giáo dục và Ðào tạo ở ta) là cơ quan đào tạo thày giáo, phổ cập giáo dục học đường. Bộ Văn ngày xưa cũng như ngày nay, không hề để tâm tới học trò. Bộ Ðường sắt lo trải đường sắt ra toàn quốc, đào tạo kỹ sư và gây dựng xí nghiệp vận hành hệ thống đường sắt. Bộ Kho bạc trông coi việc phát triển của ngân hàng. Bộ Ðiện tín lo toan sự nghiệp phát triển điện tín và vận tải đường biển.

    Mặt khác, cơ quan nhà nước để bảo vệ người tiêu dùng, tức là quốc dân nói chung, cũng đã được lập ra. Trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là Bộ Nội vụ với các tỉnh trưởng và cảnh sát nắm quyền địa phương.

    Bộ Nội vụ trước thời chiến tranh, là trung tâm của quyền hành chính địa phương, với đám quan liêu nặng đầu óc chăn dắt con dân. Chính họ đã tự ví mình là "mục dân quan (quan chăn dắt con dân)." Từ này đã được thông dụng cho tới khoảng năm 1970 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ 45). Nếu các bộ sở khác chú trọng việc cung cấp, thì Bộ Nội vụ chăm lo việc bảo hộ, dẫn dắt đám dân đen yếu hèn. Cái ý thức êlít của họ là như thế đấy.

    Sự chỉ đạo của quan liêu theo kiểu đế quốc Ðức gồm có, một mặt là cơ quan nhà nước chuyên lo việc tạo dựng các ngành nghề sản xuất, mặt khác là Bộ Nội vụ chăm sóc quốc dân. Một sự cân bằng đã phát sinh ra giữa hai thế lực, một bên là phát triển quốc gia, một bên là bảo hộ quốc dân. Okubo Toshimichi đã rập khuôn nguyên xi chế độ đó của đế quốc Ðức, song, tự ông đã nắm giữ luôn Bộ Nội vụ và trong một thời gian khá dài, Bộ Nội vụ của ông đã làm luôn cả hai việc. Vì vậy, dẫu có bị gọi là "Okubo độc tài" cũng đáng lắm.

    Hãy gác chuyện ấy sang một bên. Từ khi có chế độ quan liêu thời Minh Trị, người ta thấy đã lan rộng trong quần chúng cái ý thức nương tựa vào quan liêu, bởi vì "quan liêu học rộng hiểu nhiều," còn ở quan liêu, người ta thấy phát sinh ra cái ý thức coi "quần chúng ngu dốt, nên phải được bảo hộ." Nghĩa là, quan sẽ dạy bảo tất cả kỹ thuật, chế độ ưu việt của châu Âu cho, còn dân thì thành chân tay làm việc tại hiện trường là được.

    Do đó, từ chủng loại và quy cách sản phẩm, tiêu chuẩn thiết bị tới thời gian lao động và chế độ thuê mướn lao động, tất cả đều do quan liêu định trước. Ðó là điều mà giới quan liêu cho là cần phải có, để gây dựng các ngành nghề sản xuất hiện đại, và như vậy mới có lợi cho người tiêu dùng. Một mặt, để bảo đảm cho dân ngu hèn khỏi bị đám con buôn lưu manh bóc lột, một lực lượng cảnh sát quốc gia đã hình thành, gồm có đám quan liêu Bộ Nội vụ, các tỉnh trưởng thị trưởng và cảnh sát hành chính, luôn luôn để mắt nhòm ngỏ, sẵn sàng bắt giữ trừng trị bọn người phạm pháp. Chế độ này quả thật đã có ích cho việc xây dựng Nhật Bản thành một quốc gia công nghiệp hiện đại.


    Chế độ quan liêu được tăng cường sau khi Okubo qua đời

    Chế độ quan liêu Minh Trị do Okubo Toshimichi du nhập vào, được xác lập vào khoảng năm 1877 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 10), tức là vào lúc cuộc chiến tranh Tây Nam. Chính phủ Duy tân Minh Trị, cho đến năm 1871 (niên hiệu Minh Trị năm thứ tư), chỉ lo phá bỏ cái cơ chế có trước đó của thời mạc phủ Tokugawa, chứ chưa suy nghĩ nên làm gì sau đó. Việc này đã chỉ được bàn luận nghiêm chỉnh sau khi đoàn đại biểu Iwakura được cử đi thị sát nước ngoài năm 1871 đó.

    Tất nhiên là một sự hỗn loạn đã diễn ra xung quanh vấn đề điều hành nước Nhật như thế nào. Năm 1873 (niên hiệu Minh Trị năm thứ sáu), chủ trương của bọn Okubo được nhìn nhận, thì đường lối cơ bản mới được định, là theo chế độ quan liêu chỉ đạo. Nhưng trong nước hãy còn nhiều nơi phản đối. Người ta chưa tin thực lực của chế độ quan liêu.

    Thế rồi năm 1877, người ta thấy quân đội địa phương (trấn đài binh) gồm nông dân bị trưng binh, đã đánh bại quân đội sĩ tộc[17] của Saigo Takamori. Sự thế đã đổi hẳn: công chức (quan liêu) giỏi và mạnh hơn sĩ tộc.

    Hơn thế nữa, do cuộc chiến tranh này mà các ngành nghề như đóng tàu, súng đạn, quân trang, quân giới, v.v., đã hình thành, nghề vận chuyển đường biển để chuyên chở quân nhu cũng phát đạt lớn lao.

    Thua trận, Saigo Takamori đã tự mổ bụng ở Shiroyama. Kido Takayori cũng chết bệnh. Thế là ai ai cũng tưởng Okubo sẽ thành diễn viên độc nhất trên sân khấu, nhưng chính Okubo cũng đã bị ám sát năm 1878 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 11). Như vậy, thế hệ thứ nhất lãnh đạo cách mạng Minh Trị đã gần như không còn ai. Từ đó, thế hệ thứ hai lãnh đạo cách mạng, gồm có bọn Ito Hirobumi, Yamagata Aritomo, đã nắm giữ quyền hành của Chính phủ Minh Trị.

    Chế độ quan liêu do Okubo dựng nên, đã được bọn Ito Hirobumi củng cố thêm cho vững chắc hơn. Ðể được như vậy, trước hết, họ thiết lập trường Ðại học quốc gia (đúng ra là Đại học đế quốc, ở đây tạm dịch là Đại học quốc gia) để đào tạo nhân tài cho chế độ quan liêu. Lúc đầu, chỉ có một trường Ðại học quốc gia (sau này trở thành Ðại học quốc gia Tokyo) nên không cần ghép chữ Tokyo vào tên đại học. Sau này, đến năm 1897 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 30), trường Ðại học quốc gia thứ hai được thiết lập ở cố đô Kyoto. Từ đó, Ðại học quốc gia thứ nhất được cải danh là Ðại học quốc gia Tokyo.

    Ðại học quốc gia được lập ra với mục đích gì? Trước nhất, Ðại học Luật là để đào tạo quan hành chánh và quan tòa. Ðại học Công nghệ là để đào tạo quan chức công chánh, quan chức trị thủy, quan chức đường sắt, kỹ sư cho Bộ Ðệ tín và các bộ khác.

    Ðại học quốc gia có uy tín hơn các đại học tư thục khác. Vì vậy, những người xuất thân từ Ðại học quốcgia khi vào làm việc ở các bộ sở, đương nhiên có ý thức êlít, bởi vì chính họ đã được đào tạo để tự coi mình ưu tú hơn người khác. Ở đây, người ta cũng thấy xuất hiện tư tưởng quốc gia kiểu quan liêu chỉ đạo do Okubo Toshimichi lập ra vậy.

    Ngược lại, các xí nghiệp dân doanh tiếp nhận nhiều người tốt nghiệp các trường đại học tư, hay các trường cao đẳng chuyên môn (như Cao đẳng Thương nghiệp, Cao đẳng Công thương). Nghị viện đế quốc (quốc hội) cũng phần lớn là những người xuất thân từ các đại học tư. Nói cách khác, cái suy nghĩ của chế độ giáo dục này, là đào tạo những người tài giỏi (quan liêu) có năng lực quy hoạch cao độ có khả năng hoạch định đường lối, còn xí nghiệp dân doanh thì chỉ cần người có năng lực làm việc ở hiện trường.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  6. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  7. #44
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Năm 1890 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 23), nghị viện đế quốc được lập ra. Giống như trường hợp đế quốc Ðức, nghị viện này đã được bố trí sao cho các ủy viên chính phủ được ngồi ở vị trí cao hơn hẳn lên. Nghị viện, như vậy, chỉ được coi là nơi dân đen đệ đạt ý kiến lên chính phủ.

    Các quan xuất thân Ðại học quốc gia được coi là tài giỏi hơn đại biểu dân cử do dân bầu ra. Hội trường quốc hội Nhật ngày nay đã được xây năm 1936 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ 11), gồm có ghế của chủ tịch quốc hội ở bậc cao nhất chính giữa, trước mặt ghế chủ tịch là diễn đàn, hai bên diễn đàn là hàng ghế bộ trưởng, phía sau hàng ghế bộ trưởng là hàng ghế ủy viên chính phủ, tức là ghế cho các quan chức bộ sở trung ương. Các nghị viên do quốc dân bầu ra, thì ngồi thấp hẳn xuống dưới, ngửa mặt nhìn lên hàng ghế các quan.

    Nghị viện Anh quốc thì khác hẳn. Các nghị viên không có ghế riêng. Họ ngồi trên những hàng ghế dài, xếp đối diện với nhau thành từng bậc. Một bên là thủ tướng, các bộ trưởng và các nghị viên đảng cầm quyền, bên kia là các nghị viên đảng đối lập. Quan liêu các bộ sở trung ương không có chỗ tham dự trong cuộc tranh luận của nghị viện. Cũng là chế độ nội các nghị viện, song Nhật Bản và Anh quốc khác nhau xa lắm.

    Còn hội trường của nghị viện đế quốc Ðức, tức là khuôn mẫu của hội trường quốc hội Nhật Bản, thì năm 1933 đã bị Hitler âm mưu phóng hỏa nên đã bị đóng cửa từ đó. Ðến khi quân đội Liên Xô tiến vào Berlin thì hội trường đã bị hủy hoại phần lớn. Từ đó, nó đã bị bỏ trống một thời gian dài bên cạnh "bức tường Berlin." Sau khi Ðức thống nhất, Berlin trở lại thành thủ đô liên bang, nó lại được dự kiến dùng làm hội trường của Hạ viện. Song, bên trong đã do kiến trúc sư người Anh, Sir Norman Foster thiết kế nên đã khác hẳn xưa kia.

    Nước Nhật thời Minh Trị liệu có thể coi là đã thành công chăng? Nhờ về phe với Anh quốc trên mặt ngoại giao, nên Nhật Bản đã thắng hai cuộc chiến tranh Nhật - Thanh (1894-1895) và chiến tranh Nhật – Nga (1904-1905), rồi đã thành công trong việc thu hút đầu tư của Anh quốc. Kỹ thuật đường sắt, điện tín, bưu chính, v.v., cũng đã học được. Hơn thế nữa, trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Nhật Bản đã trở thành nước chiến thắng. Ðến nỗi có một lúc, Nhật Bản đã có thể tự hào là "một trong ba đại cường quốc thế giới."

    Ở trong nước, thì nhờ học được thể chế của đế quốc Ðức, nên từ rất sớm hệ thống đường sắt đã được trải ra khắp nước, hệ thống điện tín được bành chướng, hệ thống giáo dục sơ cấp được phổ cập tới khắp miền xa miền sâu. Ðây chính là thành quả của chế độ Ðức sau khi đã loại bỏ sự cạnh tranh của dân gian và sự chập choạng mò mẫm.

    Thành công trong ngoài như trên đã khiến Nhật Bản phát triển nhanh chóng từ thời Minh Trị (1868-1912) qua thời Ðại Chính (1912-1926).


    Khuyết điểm của chế độ quan liêu kiểu Ðức

    Chế độ quan liêu kiểu Ðức do Okubo Toshimichi đem vào Nhật Bản có nhiều điểm tích cực, song cũng có nhiều khuyết điểm lớn.

    Thời kỳ đầu tiên, nhờ có những người như Okubo Toshimichi hay Ito Hirobumi, Yamagata Aritomo, tức là cha đẻ hay cha nuôi của chế độ cho nên chỉ cần một lời nói của họ đủ làm cho bọn quan liêu các bộ sở không dám ho he nữa. Yamagata Aritomo còn là người dễ dàng bịt nổi miệng đám quân nhân nữa. Sự việc này cũng giống như vị tể tướng máu sắt Bismarck của đế quốc Ðức đã làm việc suôn sẻ với thống chế Hermuth Carl Graf von Moltke[18].

    Dần dà, càng về sau, khi không còn những bậc nguyên huân hay những chính khách lớn có uy lực làm câm miệng đám quan liêu, thì cơ cấu quan liêu được phân hóa theo chiều dọc. Quan liêu Bộ Văn chỉ biết nghĩ tới việc giáo dục, quan liêu Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp chỉ biết việc gây dựng ngành nghề sản xuất. Bộ Nông lâm Thủy sản, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế, tất cả chỉ lo việc của nghiệp giới mình mà thôi, chứ không có sự điều hợp tương hỗ giữa các bộ với nhau nữa.

    Sự việc trên, người đời gọi là "bản tính phân chia địa bàn" hoặc "ý thức quyền hạn." Ðúng vậy, quan liêu sở dĩ làm việc là vì cái ý thức quyền hạn như vậy. Ví dụ, nếu là quan liêu Bộ Nông lâm Thủy sản, thì quyền hạn của họ là bảo hộ nông nghiệp, ổn định hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp; nếu là quan liêu Bộ Văn, thì công tác bảo hộ trường học và thày giáo là quan trọng nhất. Vì nghĩ như vậy, nên họ sốt sắng làm việc. Quan liêu mà không làm việc, thì đó chẳng qua là vì họ không có ý thức quyền hạn, họ bắt đầu nghĩ rằng việc làm của họ chẳng có gì quan trọng, chẳng có ích cho ai cả.

    Nhưng nếu tất cả các quan liêu đều có ý thức quyền hạn, đều coi việc làm của mình là quan trọng nhất, rồi ai nấy đều vì mục tiêu của chính mình mà đeo đuổi cho đạt bằng được, thì sẽ ra sao? Thứ nhất, quy chế sẽ thêm nhiều ra và được tăng cường, đồng thời, chi phí tài chính sẽ lớn lên.

    Trước hết, quan liêu tự coi họ giỏi dang. Họ nghĩ "ta phải làm, không thể để cho dân thường làm được." Từ ý thức đó, họ gia tăng quy chế để củng cố quyền hạn của mình. Cái đáng sợ của cơ cấu quan liêu là, chỉ cần một số rất nhỏ trường hợp không ai phản đối cả, nhưng căn cứ vào đó, họ tăng cường quy chế đưa đến kết quả là vừa làm mất tính tiện lợi vừa làm tốn tiền bạc. Cơ quan công quyền là nơi không thèm để ý gì tới vấn đề thâu hồi tiền bạc và công sức đầu tư, cho nên họ có thể gia tăng quy chế một cách vô tội vạ.

    Chẳng hạn, sau trận động đất lớn Hanshin-Awaji, vì một số đường cao tốc đã bị xụp đổ, người ta đã bàn tới việc tăng cường quy chế xây dựng sao cho các đường cao tốc phải chịu được độ lắc 7[19]. Khi có cơ quan tiền tệ (ngân hàng, quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm) bị phá sản, thì người ta liền bàn tới việc tăng cường kiểm tra hoạt động của các cơ quan này. Ðiều này đương nhiên có nghĩa là không cho vay mượn trái với ý muốn của quan liêu, tức là của bộ chủ quản. Mới nghe tưởng như hợp lý lắm. Nhưng, vì đó, phí tổn sẽ gia tăng, và sự kinh doanh tự do không còn được nữa. Xí nghiệp mỗi khi làm ăn sẽ phải nhìn vẻ mặt các quan, sẽ trở nên thụ động, sẽ có thái độ người làm sao ta làm vậy để tránh mọi rắc rối. Các quan thì hể hả, bảo đảm cho đánh đổi quy chế thành phí tổn mà người tiêu dùng phải gánh chịu.

    Thêm nữa, sự giám thị quy chế theo cách phân công bề dọc, sẽ làm phát sinh ra quy chế hai tầng, ba tầng, thậm chí bốn tầng, năm tầng. Thủ tục vì thế trở nên phức tạp, phiền toái. Kinh doanh bị gò bó không cựa quậy được. Kết cục là phí tổn gia tăng, và giá cả tăng lên. Ðây là cái tệ hại của chế độ quan liêu (công chức).

    Vấn đề thứ hai là, nếu các bộ sở đâu đâu cũng chỉ lo đeo đuổi truy cầu mục tiêu của riêng mình, thì sự cọ sát với ngoại quốc sẽ không thể nào tránh khỏi. Bộ nào cũng cố thủ lãnh vực của mình không chịu nhượng bộ. Trên mặt ngoại giao, có khi người ta phải nhường A để được B, song đám quan liêu phân quyền theo chiều dọc thì không chịu nhượng bộ lãnh vực của họ. Nói đến xuất cảng xe ôtô thì Bộ Thương mại quốc tế và Công nghiệp không chịu nhượng bộ. Nói đến vận tải hàng không thì Bộ Giao thông vận tải không nhường bước. Vấn đề gạo thì Bộ Nông Lâm Thủy sản không chịu lùi. Ở bàn hội nghị thuế rượu thì Bộ Kho bạc không chịu lùi nửa bước. Bộ nào cũng không chịu lùi bước nên sự cọ sát với ngoại quốc không thể tránh được. Thật ra, tình trạng tương tự đã xẩy ra ở đế quốc Ðức sau khi Bismarck đã rút lui khỏi chính trường.

    Bismarck đã làm nhiều công phu mua chuộc đồng minh và nỗ lực xây dựng một hệ thống bảo đảm an toàn cho đế quốc. Ðó thường được gọi là "chính sách bảo đảm hai tầng."

    Nhưng sau khi Bismarck và Moltke về hưu rồi, thì không còn chính khách nào trấn áp nổi đám quan liêu các bộ nữa. Bộ Lục quân, Bộ Hải quân, Bộ Ðường sắt, Bộ Công Thương,... bộ nào cũng đòi phần hơn. Do đó, đế quốc Ðức bị cả thế giới đối lập. Ðến nỗi, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bộc phát, thì chỉ có đế quốc Áo-Hungari chứ không còn một đồng minh nào về phe với Ðức nữa. Sự kiện này cũng giống như Nhật Bản đã phải đối địch với cả thế giới trước cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Ðó, cái tai hại của cơ chế quan liêu là như vậy.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  8. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  9. #45
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Tình trạng bó chân bó tay ngày nay

    Từ thời Minh Trị (1868-1912), qua thời Ðại Chính (1912-1926) tới thời Chiêu Hòa (1926- 1989), ý thức quan liêu kiểu Okubo Toshimichi trở nên rất mạnh. Nhất là sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, chỉ có Bộ Nội vụ với các "mục dân quan" là không còn nữa, chứ các bộ sở chuyên đào tạo ra người cung cấp, thì còn lại tất cả. Do đó, quan liêu chỉ về hùa với người cung cấp, và trở thành địch thủ của người tiêu dùng. Vì thế, ở những lãnh vực không có sự cạnh tranh quốc tế, thì phí tổn mỗi ngày một lên cao, quy chế mỗi ngày một khắt khe hơn. Ðời sống trở nên mỗi ngày một bất tiện, bực bội.

    Với ý nghĩa như vậy, phải nói rằng, mặc dù Okubo Toshimichi đã lập nên cơ sở cho cơ chế quan liêu Nhật Bản, đã đóng góp lớn lao cho sự phát triển ngành nghề sản xuất thời Duy tân Minh Trị, song ông phải chịu trách nhiệm về việc làm cho Nhật Bản bị khốn đốn vì sức ép của quy chế, làm cho vật giá chênh lệch giữa trong và ngoài nước, làm cho người Nhật mất sự tự do lựa chọn. Nói cách khác, chính ông là nhân vật đã lập ra nước Nhật "giàu có nhưng không sung sướng."

    Nếu Okubo Toshimichi không bị ám sát và sống qua được thời Minh Trị, thì hỏi nước Nhật sau đó sẽ ra sao? Mười năm sau khi cuộc Duy tân bắt đầu, tức là năm 1878 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 10) cuộc chiến tranh Tây Nam xẩy ra, và thể chế quan liêu Nhật Bản đã trở nên vững chắc. Năm sau đó Okubo Toshimichi bị ám sát. Nghĩa là, Okubo chỉ đã lập ra cơ chế quan liêu, chứ chưa thực tay điều động cơ chế đó. Nếu sau đó Okubo vẫn còn sống, thì chắc hẳn ông sẽ theo gót Bismarck lập ra thể chế độc tài. Rồi, cùng với nội chính, ông sẽ xía vào cả vấn đề ngoại giao, như sửa đổi hiệp ước.

    Những năm đầu của thời Minh Trị, ở trong nước Nhật đã có sự lo ngại là thể chế mạc phủ sẽ trở lại. Người ta lo ngại phiên chúa Satsuma sẽ lại trở thành Chinh Di Ðại Tướng Quân, lập ra mạc phủ với Okubo Toshimichi làm tể tướng độc tài. Có người cho rằng kẻ ám sát Okubo đã ôm ấp nỗi lo âu đó.

    Chính vì thế, về sau, tức là năm 1889 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 22), bản Hiến pháp Ðế quốc Ðại Nhật Bản (Hiến pháp Minh Trị) được ban bố, đã có sự lo liệu không để cho thể chế mạc phủ tái lập nữa. Theo Hiến pháp Minh Trị, các Bộ trưởng (Ðại thần) đều được nối liền với vua (thiên hoàng), chứ thủ tướng không có quyền bổ nhiệm hay bãi nhiệm họ. Hơn nữa, quyền thống suất lục quân, hải quân cũng thuộc vua và được tách rời khỏi quyền quốc vụ của chính phủ. Tại sao người ta đã để cho mọi quyền lớn đều tập trung vào nhà vua, và các quyền hạn đều phân lập ra như vậy? Ðây chính là vì người ta lo ngại nếu tập trung quá nhiều quyền hạn vào một vị thủ tướng, thì ông này sẽ có thể hành sử quyền độc tài kiểu mạc phủ.

    Tuy Okubo Toshimichi đã chuẩn bị xong thể chế độc tài trước khi bị ám sát, nhưng ông quyết không bao giờ mở ra nhà mạc phủ.

    Lịch sử Nhật Bản có rất ít người độc tài. Những nhân vật độc tài có tầm nhìn xa trông rộng như Nobunaga hay Okubo đều đã bị ám sát. Sống trong hòa bình lâu dài rồi, Nhật Bản không cần có những người phát huy quyền lãnh đạo mạnh mẽ, cho nên một nhân vật nào đó nếu trở thành độc tài thì dễ bị ghen ghét.

    Thời Minh Trị, nhiều chí sĩ đã xả thân cho cải cách. Ðiều khiến họ hi sinh như vậy chính là cái chủ quan xã hội của họ. Ðó là sự nhiệt tâm của họ muốn lật đổ thể chế mạc phủ Tokugawa, một thể chế lấy sự "ổn định" làm nền tảng, để lập ra một thể chế mới, lấy "tiến bộ (khai hóa văn minh)," lấy "hiệu năng (gia tăng sản xuất và gây dựng sản nghiệp)," lấy "trung nghĩa (trung thành với quốc gia)" làm cơ sở luân lý xã hội. Okubo đã làm cho cuộc chiến tranh Tây Nam bùng ra, mà vẫn kiên quyết gây dựng thể chế quan liêu, hẳn là vì muốn đạt được ba chính nghĩa đó.

    Vì muốn lập ra nước Nhật không bị ngoại bang miệt thị, Okubo Toshimichi đã chọn chế độ quan liêu chỉ đạo, hướng tới xây dựng một nước Nhật có hiệu suất cao, có hiệu năng cao. Ðiều này đã có hiệu quả tốt trong khoảng 40 năm kể từ thời đại Okubo. Sau đó, là thời kỳ đám quan liêu quân đội đã hành động quá khích, quá lố, không thèm đếm xỉa đến ai cả.

    Sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ chế quan liêu lại một lần tỏ ra có hiệu quả đối với sự phát triển và tăng trưởng. Thế nhưng ngày nay thì nó đã trở thành gông chân cùm tay, làm cho không thể cựa quậy được.

    Phải nói rằng dù với ý nghĩa tốt hay với ý nghĩa khó xử, Okubo Toshimichi cũng là một nhân vật trọng yếu đã dựng nên nước Nhật ngày nay vậy.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  10. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  11. #46
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Chú thích:

    [1] Nội các do thủ tướng Hashimoto Ryutaro cầm đầu, bắt đầu từ ngày 1/11/1996. Sách này xuất bản lần đầu tiên vào tháng 6/1997, thì lúc đó còn là thời kỳ hoạt động của nội các này.
    [2] Nội các do thủ tướng Suzuki Zenko dẫn đầu, từ 17/7/1980 tới 26/11/1982.
    [3] Nội các do thủ tướng Nakasone Yasuhiro cầm đầu, gồm có 3 đợt: đợt 1 từ 27/11/1982 tới 26/12/1983, đợt 2 từ 27/12/1983 tới 22/7/1986, đợt 3 từ 22/7/1986 tới 6/11/1987.
    [4] Ủy ban này được nội các Nakasone lập ra tháng 7/1983 và do Doko Toshio, lúc ấy là Chủ tịch Tập đoàn Toshiba làm chủ nhiệm. Ủy ban đã đưa ra bản báo cáo tháng 6/1986 để đáp ứng sự tư vấn của nội các về "phương sách thực hiện một chính phủ nhỏ trong sự lợi dụng sức sống của dân sự." Dựa vào bản báo cáo này, chính phủ Nhật Bản đã quyết định chuyển cho dân sự kinh doanh ba công ty quốc doanh khổng lồ là Hệ thống đường sắt quốc doanh, Tổng Công ty bán độc quyền (thuốc lá, muối) và Tổng Công ty điện tín điện thoại. Tháng 4/1985 hai công ty sau đã được chuyển sang suôn sẻ cho dân sự kinh doanh, nhưng Hệ thống đường sắt quốc doanh mang món nợ quá lớn, phải tới tháng 4/1987 mới được phân cắt ra thành 7 công ty và chuyển sang cho dân sự kinh doanh. Hiện nay, tất cả những công ty dân sự này đều ở trong tình trạng kinh doanh tốt, không còn bị thua lỗ nữa.

    [5] NTT là viết tắt chữ Nippon Telephone & Telegraph, JT là viết tắt chữ Japan Tobacco.
    [6] Êlít là từ tiếng Pháp élite dịch âm, nghĩa là phần tử ưu tú.
    [7] Ðây là nói thời điểm sách này được soạn thảo, tức là năm 1998. Hiện nay, năm 2003, đã có loại hình cây xăng tự phục vụ này ở Nhật Bản rồi, tuy hãy còn là số ít.
    [8] Xem lời chú 16 Ch. 7.
    [9] Một bậc nguyên huân khác của thời Duy tân Minh Trị, đã có công chỉ huy và chiếm thành Edo không đổ máu, khiến cho mạc chúa Tokugawa phải trao trả lại quyền chính trị cho thiên hoàng Minh Trị, rồi trong chính phủ Minh Trị mới, đã được phong Ðại tướng lục quân, giữ chức Tham mưu, song vì chủ trương gửi quân sang Triều Tiên bị phe đối lập phản đối nên đã từ quan năm thứ 6 của niên hiệu Minh Trị (1874). Năm 1877, cử binh làm phản, song bị thua nên đã tự sát. Vụ này gọi là cuộc Chiến tranh Tây Nam. Mặc dầu kết thúc bi đát như vậy, song nhân vật Saigo Takamori vẫn được tôn trọng như là một công thần của sự hiện đại hóa Nhật Bản. Một ngôi tượng đồng lớn toàn thân Saigo ngay trước vườn thú Ueno, Tokyo, đã minh chứng điều này.

    [10] Hàn là quốc hiệu của triều Lý ở bán đảo Triều Tiên. Vậy Hàn là tên gọi đồng nghĩa với Triều Tiên. Chinh Hàn là chinh phạt Hàn, là xâm lược bán đảo Triều Tiên.

    [11] Hội nghị tổ chức ở Osaka giữa phe phái Okubo Toshimichi và phe đã từ chức nhân cuộc tranh luận "chinh Hàn." Kết quả của hội nghị này là Itagaki Taisuke và Kido Takayoshi phục chức, và những cơ chế quân chủ lập hiến được xác lập tại Nhật Bản.

    [12] Nguyên văn Shokusan Kôgyô (Thực sản Hưng nghiệp), nghĩa là Gia tăng sản xuất và Gây dựng ngành nghề sản xuất (sản nghiệp), tức là công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, v.v..
    [13] Ðại lão là chức quan cao nhất của mạc phủ Tokugawa, tức là tương đương với chức Thủ tướng hiện đại.
    [14] Nguyên văn là "Bunmei Kaika (văn minh khai hóa)," tức là mở mang hiểu biết làm cho xã hội văn minh.
    [15] Nguyên văn là "Kuro-Fune no Raiko." Những con tàu đen là chỉ hạm đội của Ðô đốc Perry của hải quân Mỹ, đã tới Nhật Bản tháng 7 năm 1853, mang theo quốc thư của tổng thống Mỹ, đòi Nhật Bản mở cửa thông thương. Năm sau, hạm đội trở lại vịnh Edo (nay là vịnh Tokyo), ký hòa ước ở Yokohama, mở đầu cho thời kỳ mở cửa của Nhật Bản.
    [16] Mori Arinori (1847-1889) : Phiên sĩ phiên bang Satsuma, chính trị gia thời Minh Trị. Du học Âu Mỹ, gia nhập chính phủ Minh Trị, làm tới Bộ trưởng Giáo dục. Có công ban bố pháp lệnh học đường, củng cố cơ sở chế độ giáo dục. Bị coi là tôn thờ chủ nghĩa Âu Mỹ hóa, nên bị phần tử chủ nghĩa quốc túy ám sát đúng ngày ban bố Hiến pháp đế quốc, tức là Hiến pháp Minh Trị, ngày 11 tháng 2 năm 1889 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 22).
    [17] Theo chế độ giai cấp thời Minh Trị, thì giai cấp trên hết là quí tộc (hoa tộc), thứ đến là sĩ tộc, và dưới cùng là bình dân. Tuy phân chia như vậy, nhưng về mặt pháp lý, sĩ tộc không được quyền lợi ưu tiên nào cả. Đến năm 1947 thì chế độ giai cấp bị phế bỏ.

    [18] Danh tướng Phổ đã đánh thắng hai trận chiến tranh Phổ - Áo và Phổ - Pháp, và đã đóng góp lớn lao vào sự nghiệp thống nhất đế quốc Ðức.
    [19] Tổng Cục Khí tượng Nhật Bản chia độ lắc động đất ra làm 10 bậc, đánh số từ 0 tới 7. Như vậy, độ lắc 7 là độ lắc lớn nhất. Sở dĩ 10 bậc mà chỉ có 8 con số là vì có số có 2 bậc, như 6 nhẹ, 6 mạnh, chẳng hạn.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  12. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  13. #47
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Shibusawa Ei-ichi
    Thủy tổ của "chủ nghĩa tư bản Nhật"


    Người lập ra "giới kinh tài"

    Shibusawa Ei-ichi là nhân vật đã có những hoạt động rộng lớn trong thời Minh Trị, đã có quan hệ với rất nhiều xí nghiệp, đã dựng nên hầu hết các ngành nghề sản xuất hiện đại của Nhật Bản.

    Các ngành nghề mà Shibusawa đã có quan hệ gồm từ ngân hàng tới đường sắt, vận tải đường biển, xí nghiệp chế tạo, công ty mậu dịch, v.v.. Có thể nói, ông đã dựng nên khoảng năm trăm xí nghiệp lớn trong hầu hết các ngành nghề.

    Chỉ bao nhiêu đó thôi, có thể nói Shibusawa chính là nhân vật tiên phong trong chủ nghĩa tư bản Nhật. Nhưng sự việc không dừng lại ở đó. Cái quan trọng là ông đã tạo ra "giới kinh tài," một giới không thấy có ở nước ngoài.

    Thí dụ, ở Mỹ có vua sắt thép Andrew Carnegie, vua ôtô Henry Ford, những người đã đẻ ra những xí nghiệp khổng lồ, đã lập ra những tài đoàn[1] lớn mạnh để cống hiến cho văn hóa, học thuật. Thế nhưng, họ đã không lập ra "giới kinh tài," tức là đoàn thể gồm những doanh nhân cùng làm ăn, cùng hoạt động với nhau. Nhân vật kinh doanh lớn như Rothschild của Anh, Krupp của Ðức, cũng vậy, nghĩa là cũng không lập ra "giới kinh tài."

    Nhật Bản là nơi duy nhất đã thấy hình thành "giới kinh tài," từ đó phát sinh ra thể chế "phe phen[2]," "thể chế đồng lõa" của giới kinh doanh. Ðó là bởi vì Shibusawa đã đồng thời có quan hệ với hàng mấy trăm xí nghiệp, và như vậy đã tạo ra môi trường cho các xí nghiệp này cùng xuất vốn làm ăn với nhau. Là người đã tạo ra phong cách làm ăn độc đáo như vậy của chủ nghĩa tư bản Nhật, Shibusawa Ei-ichi quả có giá trị đặc biệt, đã để lại ảnh hưởng lớn đối với nước Nhật ngày nay. Ông thật xứng đáng là một trong số "Mười hai người lập ra nước Nhật" vậy.

    Shibusawa Ei-ichi sinh năm 1840 (niên hiệu Thiên Bảo thứ 11), và mất năm 1931 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ sáu), hưởng thọ 91 tuổi. Thật là sống lâu lạ thường so với những người đương thời.

    Xuất thân ở quận Hanzawa, đất Musashino (nay là thị trấn Fukaya, tỉnh Saitama), từ một gia đình phú nông. Thời nay, khi nói nông gia hay nông dân, người ta thường mường tượng một cách sai lầm rằng đó là một gia đình làm ruộng, trồng lúa, trồng rau, tự cấp tự túc thực phẩm. Nhưng nông gia thời mạc phủ Tokugawa thì không hẳn thế. Gia thế Shibusawa Ei-chi thật ra làm nghề nuôi tằm, chế thuốc nhuộm bằng lá lam (lá tràm), và như vậy là một nhà kinh doanh tiểu công thương nhiều mặt.

    Tơ tằm cũng như thuốc nhuộm, đều là những sản phẩm để đổi bán lấy tiền. Tự mình chế ra sản phẩm, đồng thời lại mua góp của những nhà sản xuất địa phương, rồi bán ra như là một nhà bán buôn địa phương vậy.

    Xem như vậy, nên coi gia thế Shibusawa Ei-ichi là nhà buôn, là thương gia, hơn là nhà nông. Ngoài ra, nghe nói gia đình ông còn làm cả nghề cầm đồ nữa. Gia đình ông hẳn phải có máu mặt trong địa phương. Xem như vậy, Shibusawa Ei-ichi đã sống thời thiếu niên trong gia cảnh vừa là nhà nông, vừa là nhà buôn lại vừa là nhà công nghiệp. Là một gia đình phong lưu, cho nên ông có điều kiện học hỏi được nhiều thứ.

    Năm Shibusawa 14 tuổi, đoàn tàu đen của đề đốc Perry tới vịnh Uraga, gây ra sự xôn xao lớn làm cho dư luận trong nước Nhật chia hai.

    Năm 22 tuổi, ra thành Edo, Shibusawa đã nhập bọn với đám người chủ trương xua đuổi bọn man di và như vậy đã bôn tẩu phấn đấu nhiệt tình cho mục đích đó. Ông đã nhập bọn với đám người âm mưu đốt cháy khu nhà ở của người ngoại quốc ở Yokohama nghĩa là đã tham gia vào những hoạt động quá khích. Ðiều này chứng tỏ ông ở tuổi thanh niên đã là một người theo chủ nghĩa quốc túy, chủ nghĩa yêu nước cuồng nhiệt.

    Âm mưu đốt cháy khu nhà ở của người ngoại quốc ở Yokohama là do Kiyokawa Hachiro chủ mưu. Nhân vật này đã đề xướng việc thành lập đội tự vệ Shinsen-Gumi, đã tìm mọi cách để thực hiện âm mưu đó nhân giai đoạn hỗn độn cuối thời mạc phủ Tokugawa, song sắp đến lúc thực thi kế hoạch thì mục đích lại thay đổi, nên cuối cùng bị ám sát. Việc âm mưu đốt khu nhà người ngoại quốc ở Yokohama này bị thất bại nửa chừng như vậy, phần lớn là vì tính khí của Kiyokawa.

    Bỏ trốn về Kyoto được, Shibusawa năm 1864, tức là chỉ bốn năm trước cuộc cách mạng Meiji, đã được nhận vào làm cho gia đình Hitotsubashi, một trong ba dòng họ mạc chúa Tokugawa. Thế rồi, khi công tử Yoshinobu được chọn lên làm mạc chúa (đời thứ 15), thì Shibusawa cũng trở thành một nhân vật trung tâm của thể chế mạc phủ.

    Trái hẳn với phần đông những nhân vật hoạt động trong thời Minh Trị, Shibusawa đã vào làm gia thần cho mạc chúa ở thời kỳ mạt vận. Năm 1867 (niên hiệu Khánh ứng năm thứ ba) ông tháp tùng công tử Tokugawa Akitake, em mạc chúa Yoshinobu, sang dự Hội chợ Paris và như vậy có cơ hội được mắt thấy tai nghe về Âu Mỹ. Tuy nhiên, nửa chừng cuộc viễn du đó, cuộc cách mạng Minh Trị xẩy ra và mạc phủ Tokugawa bị giải tán.

    Lúc đó tại Hội chợ Paris có đủ cả hai phe ủng hộ và chống đối mạc phủ. Sau này, cùng với Shibusawa trở thành một nhân vật lớn trong giới kinh tài thời Minh Trị, là Godai Tomoatsu, cũng có mặt ở Paris trong đoàn đại biểu của phiên bang Satsuma, đang triển khai đường lối ngoại giao hư hư thực thực ở đó.

    Năm 1868 (niên hiệu Minh Trị nguyên niên), Shibusawa về nước, bèn cùng với gia đình Tokugawa lui về sống ở Shizuoka, và có một lúc đã lãnh chức kế toán trưởng, tức là quan chức phát hành tiền tệ của phiên bang Sunpu. Ðây chỉ là một thời gian rất ngắn.


    Trước nhất lập ra chế độ lưu thông tiền tệ

    Từ Paris về nước, việc làm trước tiên của Shibusawa Ei-ichi là vay của lãnh địa Tokugawa ở Shizuoka 500 ngàn "lượng" (lúc ấy tiền còn tính bằng "lượng") tiền giấy phi hối đoái, để lập ra "Phòng thương mại," một công ty hợp doanh, tức là công ty cổ phần đầu tiên của Nhật Bản. Trong thời gian Hội chợ Paris diễn ra, Shibusawa đã được mắt thấy châu Âu, và ông đã tỏ ra vô cùng quan tâm tới sự thành lập công ty. Bởi thế, ông đã lập tức thực hành ý tưởng đó.

    Vậy "Phòng thương mại" là công ty làm gì? Thật ra, đây chỉ là sáng kiến mượn tiền của chính phủ trong khi chưa quyết định nội dung việc làm của công ty. Chính chỗ này cho thấy rõ cái cách suy nghĩ, cái điểm tựa tư tưởng của Shibusawa trong hoạt động sau này của ông. Nghĩa là, Shibusawa Ei-ichi chỉ quan tâm thành lập những tổ chức, chứ không chú trọng tới việc làm giầu cũng như tới việc gây dựng ngành nghề.

    Nhưng, Shibusawa không ở lại Shizuoka. Ông tức thời từ chức và năm sau, 1869 (niên hiệu Minh Trị thứ hai), trở thành công chức Bộ Kho bạc của tân chính phủ. Thời ấy vì thiếu nhân tài, nên chính phủ đã vui lòng thu nhận cả cựu thần của mạc phủ.

    Năm 1871 (niên hiệu Minh Trị thứ tư), đơn vị tiền tệ đổi từ "lượng" thành Yen. Năm sau, chính phủ chế định điều lệ Ngân hàng quốc doanh với mục đích thiết lập hệ thống lưu thông tiền tệ, đồng thời, đốt bỏ những tiền giấy phi hối đoái đã phát hành từ trước. Cùng với động thái này, Shibusawa năm 1872, đã từ chức khỏi Bộ Kho bạc và vận động thiết lập "Ngân hàng quốc doanh số 1" để năm sau nữa, năm 1873, chễm chệ ngồi vào ghế thống đốc của ngân hàng này.

    Thời đó, Shibusawa được coi là nhân vật số một trong những vấn đề tiền tệ, ngân hàng, tổ chức công ty. Cho nên, khi ngân hàng quốc doanh được thiết lập, thì trước hết người ta đã ngỏ lời mời Shibusawa vậy.

    Sự việc này đã quyết định vận mệnh của Shibusawa. Bởi vì từ đó về sau, ông đã có cơ hội lập ra nhiều tổ chức, nhiều công ty khác nữa.

    Trước hết, Shibusawa đã liên quan đến sự thiết lập hệ thống ngân hàng. Không phải chỉ có "Ngân hàng quốc doanh số 1," mà ông còn can dự vào sự thiết lập rất nhiều ngân hàng mang tên có số hiệu tại mỗi địa phương nữa.

    Sau này, tới năm 1882 (niên hiệu Minh Trị thứ 15), Ngân hàng Nhật Bản, ngân hàng Nhà Nước "chính hiệu" mới được thiết lập. Chứ cho đến lúc đó, những ngân hàng như "Ngân hàng quốc doanh số 1," hay những ngân hàng địa phương khác, tuy gọi là Ngân hàng quốc doanh, nhưng thực chất chỉ là ngân hàng dân doanh, được Nhà nước cho đặc quyền phát hành tiền tệ, không có vốn của Nhà nước đổ vào, cũng chẳng được Nhà nước bảo đảm gì cả.

    Với hiểu biết hạn chế, cũng như chỉ có vốn hạn hẹp, chính phủ Minh Trị đã lập ra chế độ theo đó Nhà nước cho những thương gia hay những nhà giầu có uy tín ở các địa phương, được đặc quyền phát hành tiền tệ. Thay vào đó, họ phải nộp thế chấp cho Nhà nước bằng tiền vàng tiền bạc thực. Nói cách khác, Nhà nước dựa vào uy tín của những nhà giầu, giữ vàng bạc của họ làm thế chấp, rồi cho họ phát hành một lượng tiền giấy, gọi là Phiếu Ngân hàng quốc doanh, nhiều gấp mấy lần giá trị thế chấp của họ.

    Việc cho phát hành ngân phiếu quốc doanh như trên còn có một mục đích nữa. Ðó là dùng những ngân phiếu quốc doanh đã được Nhà nước nắm giữ thế chấp như vậy, đổi cho loại tiền giấy phi hối đoái đã được phát hành trước đó. Loại tiền giấy phi hối đoái do chính Chính phủ Minh Trị Duy tân phát hành, song vì lạm phát nên đã bị mất tín nhiệm.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  14. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  15. #48
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Ngoài ra, bởi vì ngân hàng còn có chức năng giữ tiền gửi nữa. Vừa phát hành tiền tệ vừa giữ tiền gửi mà nếu phá sản, thì vấn đề phức tạp lắm. Cho nên Nhà Nước bắt phải nộp thế chấp bằng vàng bạc thực. Ðó là chế độ đã được lập ra vào đầu thời Duy tân Minh Trị. Không biết ai đã đề xướng ra chế độ đó, nhưng xem ra quả là một phương pháp thao tác tinh vi sự lưu thông tiền tệ tín dụng.

    Trụ sở Ngân hàng quốc doanh số 1 ở khu Nihon-Bashi, một kiến trúc hoành tráng kiểu phương Tây do chính người Nhật thiết kế thi công, đã trở thành một danh thắng ở Tokyo, một đối tượng cho bà con dân quê lên tham quan rất đông.

    Tiếp theo Ngân hàng Quốc doanh số 1 này, trên một trăm ngân hàng khác có tên gọi bằng số thứ tự, đã được thiết lập ở khắp nước Nhật. Một số ngân hàng như vậy hiện nay vẫn còn hoạt động. Chẳng hạn Ngân Hàng Số 4 ở Niigata[3], là một ngân hàng như vậy. Một số không nhỏ những ngân hàng như vậy đã được thiết lập với sự nhúng tay của Shibusawa. Tuy nhiên, phải nói rằng, sự nghiệp đầu tiên của Shibusawa là thiết lập hệ thống lưu thông tiền tệ của Nhật Bản, chứ không phải chỉ là thiết lập ngân hàng.


    Cha đẻ ra chủ nghĩa hòa hợp kiểu Nhật Bản

    Thứ đến, Shibusawa đã lập ra rất nhiều xí nghiệp sản xuất. Năm 1873 (niên hiệu Minh Trị thứ sáu), ông đã thiết lập công ty giấy ở Oji, Tokyo (công ty này sau mang tên Cty Giấy Oji), cho người cháu đứng làm giám đốc kỹ thuật. Sản xuất giấy là việc làm vô cùng quan trọng ở thời Minh Trị.

    Chín năm sau, tức là năm 1882 (niên hiệu Minh Trị thứ 15), ông đã sáng lập công ty Sợi Dệt Osaka. Ðây chính là mốc khởi đầu của nền công nghiệp dệt may hiện đại của Nhật Bản. Từ đó, Nhật Bản đã dần dần trở thành nước tâm điểm của thế giới về may dệt. Ngoài ra, Shibusawa còn tham gia sáng lập ra nhiều xí nghiệp may dệt khác, như Công ty sợi dệt Mie, v.v..

    Năm 1887 (niên hiệu Minh Trị thứ 20), ông đã sáng lập ra Công ty phân bón nhân tạo Tokyo. Nghĩa là khi thấy rằng phân bón hóa học không thể thiếu được trong công cuộc chấn hưng nông nghiệp, ông đã lập tức thiết lập công ty phân bón hóa học vậy.

    Sau đó, Shibusawa đã tham gia vào sự thiết lập nhiều công ty khác như Ðiện lực Tokyo, Khí đốt Tokyo, Khách sạn đế quốc, Ðường sắt mỏ than Hokkaido, Tàu biển Toyo, Ðường sắt Kyofu, v.v..

    Từ năm 1906 (niên hiệu Minh Trị thứ 39) cho đến 40 năm sau, phong trào huy động vốn bằng cổ phiếu để khuếch trương hay tân lập công ty, đã trở nên rất sôi nổi. Hễ Shibusawa trở thành chủ tịch cho ủy ban huy động nào, thì cổ phiếu của công ty đó bán chạy như tôm tươi, đến nỗi nhà văn Hasegawa Kotaro, trong cuốn "Bút ký về sự thịnh suy của các tài phiệt (Tài phiệt thịnh suy ký)," đã miêu tả sự kiện như vậy bằng lời viết "những cổ phiếu quyền lợi của công ty đã mọc cánh mà bay." Sự kiện này đã nói lên sự kỳ vọng của người ta trước sự việc Shibusawa đã gây dựng nên bao nhiêu công ty vậy.

    Shibusawa Ei’ichi trong khi hoạt động tích cực gây dựng ngân hàng và công ty như vậy, thì đồng thời năm 1891 (niên hiệu Minh Trị thứ 24) đã nhậm chức Hội trưởng Phòng thương nghiệp Tokyo. Tổ chức này đã được thiết lập năm 1878 với tên gọi là Phòng thương luật, rồi đổi tên thành Phòng thương nghiệp. Ðến năm 1927 (niên hiệu Chiêu Hòa thứ hai), tổ chức này lại đổi tên thành Phòng thương công. Trong suốt thời gian ấy, Shibusawa đã liên tục giữ chức Hội trưởng.

    Nói tóm lại, không những ông đã lập ra những xí nghiệp cá thể, mà còn lập ra tập thể gọi là "giới kinh tài" nữa. Chính Shibusawa đã tỏ ra vô cùng quan tâm tới việc lập ra giới này.

    Theo Shibusawa, cái cơ sở để tạo nên chủ nghĩa tư bản Nhật là chủ nghĩa góp vốn và chủ nghĩa hợp tác. Nghĩa là, góp vốn từ mỗi người rồi hợp tác với nhau gây dựng ngành nghề sản xuất. Muốn vậy, không phải mỗi nhà kinh doanh chỉ một mình lo toan mỗi việc, là xong, mà phải đặt phòng thương nghiệp ở khắp nơi, rồi để cho phòng thương nghiệp này kêu gọi những nhà hằng sản địa phương bỏ vốn ra xây dựng công ty. Như thế mới là cách làm đúng. Nói cách khác, đây là sự đề xướng ra "chủ nghĩa hợp tác Nhật Bản" vậy. Thật ra, sự kiện này cho thấy chính Shibusawa đã hiểu lầm rằng công ty cổ phần là cơ quan hợp tác giữa các nhà tư sản. Sự hiểu lầm đó đã khiến Shibusawa đề xướng ra "chủ nghĩa góp vốn," rồi trong quá trình hiện đại hóa đất nước, nó đã dần dần biến thành "chủ nghĩa tư bản kiểu hợp tác" đặc trưng của Nhật Bản. Chủ nghĩa như vậy lại dần dần phát triển thành "chủ nghĩa hợp tác của giới kinh tài" như thấy biểu hiện ở sự kiện mỗi khi thấy cần đầu tư vào vấn đề gì, là các xí nghiệp chủ yếu liền được kêu gọi góp vốn.

    Cứ như thế, từ thời Minh Trị, qua Ðại Chính tới Chiêu Hòa, Shibusawa Ei’ichi đã hoạt động ở cương vị chỉ đạo trung tâm của giới kinh tài. Hễ có việc gì, là lập tức người ta lại bảo nhau "tốt hơn hết là hãy mời Shibusawa chủ trì."

    Chủ nghĩa hợp tác kiểu Nhật Bản lại càng trở nên gắn kết mãnh liệt trong thời hậu chiến. Nó đã hình thành ra thể chế phe đảng hay thể chất phe phen của từng ngành nghề. Ðến nỗi ngày nay, mỗi khi muốn thành lập một ngành nghề mới, phải để cho Keidanren[4] hay Kankeiren[5] lên tiếng trước, rồi để cho các ngành nghề đã có trước góp vốn vào tùy theo tôn ti trật tự. Sự việc này đã trở thành "lệ." Có thể nói chính Shibusawa là cha đẻ ra xã hội phe phen kiểu Nhật Bản.


    Iwasaki Yataro, một tồn tại đối chọi

    Xem những nhà kinh doanh thời Minh Trị, người ta có thể chia họ ra làm loại người chủ trương hợp tác, dùng phương thức góp vốn để gây dựng ngành nghề như Shibusawa Ei’ichi, hay Godai Tomoatsu ở vùng Kansai, và một loại người khác có chủ trương đầu tư tiến bộ, phong cách kinh doanh "cá nhân chủ nghĩa." Ðiển hình của loại người thứ hai này là ông tổ của nhóm tài phiệt Mitsubishi, tức là Iwasaki Yataro.

    Iwasaki Yataro là người đáng coi là kình phùng địch thủ của Shibusawa EiỴichi, cả trên trường kinh doanh, lẫn về kinh nghiệm nhân sinh, cũng như về chủ trương, chủ nghĩa. Hai người này, sau này va chạm với nhau kịch liệt trong nghề vận tải đường biển, quả là hai tồn tại đối chọi với nhau, nhưng lại bổ trợ lẫn cho nhau trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản Nhật.

    Vậy Iwasaki Yataro là nhân vật như thế nào? Ðể hiểu rõ thời đại Minh Trị, người ta không thể bỏ qua điều này được.

    Iwasaki Yataro sinh năm 1834 (niên hiệu Tenpo thứ năm), nghĩa là lớn hơn Shibusawa Ei’ichi sáu tuổi. Xuất thân ở phiên bang Tosa (nay là tỉnh Kochi), con một võ sĩ samurai không chúa nghèo xác mùng tơi, mãi đến ba năm trước thời Minh Trị, tức là năm 1865 (niên hiệu Keio nguyên niên), mới mua nổi một chân hương sĩ[6]. Xem như vậy đủ biết Yataro thời niên thiếu, thanh niên rất nghèo khổ. Trong khi đó, Shibusawa lại có thời kỳ trưởng thành trong may mắn tột bực.

    Iwasaki Yataro cũng dính dáng tới những phong trào chính trị cuối thời mạc phiên. Năm 1862 (niên hiệu Bunkyu: Văn cửu thứ hai), ông đã cùng với Yoshida Toyo, một trọng thần của phiên bang Tosa, bôn ba cải cách chính trị của phiên bang. Sau khi Yoshida bị thích khách thuộc phe cần vương ám sát, thì Iwasaki đuổi theo hung thủ tới Osaka. Nhưng, việc không thành, ông lại trở về phiên bang.

    Sau đó, ông mở cửa hàng bán gỗ, chẳng bao lâu thất bại. Ðây là lúc khởi đầu của cuộc đời thương gia, rồi nhà kinh doanh của Iwasaki. Năm Minh Trị nguyên niên, tức 1867, ông mở Thương hội Tosa ở Nagasaki để mua trang thiết bị cho phiên bang, rồi làm cố vấn cho thương hội này.

    Trong cùng năm, người ta thấy Shibusawa đã vay 50 vạn lượng tiền giấy phi hối đoái của chính phủ để lập ra Sở thương luật ở Shizuoka trong lãnh địa của họ Tokugawa và Iwasaki cũng lập ra một tổ chức để khởi sự làm ăn trong vùng lãnh địa của phiên bang Tosa. Thời kỳ này, Iwasaki còn xưng tên là Tosaya Zembei, chứ mãi sau này ông mới đổi tên là Iwasaki Yataro. Thế nhưng, Thương hội Tosa cũng chẳng phát triển được bao nhiêu. Bởi vì phiên bang Tosa đã bị lung lay sau sự đổi đời sang thời Minh Trị.

    Năm 1870 (niên hiệu Minh Trị thứ ba), Tosaya Zembei lập công ty Tosa Kaijosha. Công ty này cũng gặp bế tắc, nên đổi tên là Thương hội Tsukumo. Năm sau, với sự hủy bỏ chế độ phiên bang, thương hội này trở thành công ty tư của Iwasaki. Thời gian này, công ty chuyên dùng thuyền bè của phiên bang làm nghề thông thương đường biển. Năm 1872, công ty đổi tên thành Thương hội Mitsukawa, và năm sau lại đổi thành Thương hội Mitsubishi. Ðến đây thì quyền kinh doanh và quyền sở hữu của Iwasaki đã thực sự xác lập.

    Sở dĩ Iwasaki cho đổi tên công ty liên tục là để có thể vay thêm tiền kinh doanh. Thời gian như vậy chính là lúc Iwasaki bị thất điên bát đảo. Sau này, nhìn vào những thành công của ông, người ta khó có thể tưởng tượng ra được những thất bại như vậy. So với Shibusawa đã được đi Tây, được mọi người tín nhiệm vì có hiểu biết mới mẻ, thì Iwasaki khác xa lắm vậy.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  16. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  17. #49
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Chủ nghĩa cá nhân trong phép kinh doanh của Iwasaki

    Sau một thời gian xoay xở liên hồi, từ năm 1874 (niên hiệu Minh Trị thứ bảy) Iwasaki bỗng phất lớn. Nghĩa là khi trụ sở chính của Thương hội Mitsubishi đã chuyển về Tokyo, rồi năm sau đổi tên thành Công ty Tàu Bưu chính Mitsubishi (Mitsubishi Yusen Gaisha) và bắt đầu mua được những tàu do chính phủ mạc phiên và Chính phủ Minh Trị thanh lý. Nói cách khác, nhờ công ty tàu biển này ông đã phất lớn.

    Năm 1874 xảy ra loạn Saga. Công ty Mitsubishi được chính phủ thuê chở binh lính, quân nhu tới nơi xảy ra xung đột. Lúc ấy công ty vừa dùng tàu bè của phiên bang Tosa, vừa thuê thêm tàu thuyền khác và vận hành khéo léo. Năm sau, công ty được nhà nước bán lại cho tàu thuyền thanh lý, nhờ có thành tích tốt.

    Thế nhưng, sự kiện làm cho Công ty Mitsubishi phát đạt vượt mức, là trận chiến tranh Tây Nam năm 1877 do Saigo Takamori khởi hấn. Ðể dẹp loạn này, chính phủ đã phải tập trung quân đội ở khắp nơi trên toàn quốc về Osaka, rồi từ đó dùng tàu chở tới Kyushu. Công ty tàu bưu chính Mitsubishi của Iwasaki đã lãnh thầu chuyên chở và nhờ đó đã có lời lớn. Lúc đó, binh sĩ của Saigo xuất thân từ hàng sĩ tộc (samurai) nên rất tinh nhuệ. Vì thế, giới lãnh đạo chính phủ Minh Trị như bọn Okubo Toshimichi đều thấy cần phải huy động một quân số và trang bị áp đảo so với loạn quân. Lại đúng là mùa đông, nên quan quân phải mua sắm đủ trang bị, nào quần áo dạ, nào giầy da, nào súng ống đạn dược. Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản quân đội đã đi giầy da đánh trận.

    Với Chính phủ Minh Trị lúc đó, đây là trận quyết định hơn thua, nên không hề cò kè đắt rẻ. Nhờ thế, các nhà thầu đều đã kiếm được những mẻ lời lớn. Có không ít người đã trở thành triệu phú, như họ Shibukawa nhờ cung cấp dạ, họ Okura nhờ cung cấp giầy da, v.v.. Riêng Iwasaki thì lời vô kể. Ðây là khởi điểm của nhóm tài phiệt Mitsubishi vậy.

    Dùng tiền lời, Iwasaki đã bỏ ra mua rẻ các mỏ than và mỏ quặng. Mỏ quặng thời đó cũng có nhiều vấn đề, như vấn đề lao động, vấn đề nước ngầm, v.v., nên rất khó khai thác. Thế nhưng, nếu không giải quyết kịp thời thì sự nghiệp hiện đại hóa Nhật Bản không thực hiện được. Do đó, Chính phủ Minh Trị đã quyết định bán những hầm mỏ quốc hữu, quốc doanh cho tư nhân khai thác. Iwasaki mới nhân cơ hội đó, dùng tiền lời kiếm được từ nghề vận tải đường biển, đầu tư vào mua hầm mỏ do nhà nước bán lại, khéo léo chỉnh đốn lại kinh doanh nên lại lời lớn hơn nữa.

    Cái suy nghĩ của Iwasaki luôn luôn là "chính mình." Công ty chỉ là bề ngoài, chỉ là cái vỏ mượn. Nói cách khác, ông muốn mọi cái của Mitsubishi đều phải tập trung vào cá nhân Iwasaki. Ông dát vàng lên quạt giấy, rồi nói huênh hoang "khi người ta cúi đầu trước vàng, người ta không thấy bực bội." Chuyện này đã được truyền tụng phổ biến.

    Do đó, ông không chủ trương góp vốn của người khác. Trái lại, ông coi là ông vay tiền của người khác làm tiền riêng của mình, rồi dùng tiền đó đầu tư làm hết việc này tới việc khác. Khác với Shibusawa chủ trương góp vốn của đông đảo người hằng sản, Iwasaki chỉ chuyên đi vay mượn.

    Một nhà báo kiêm sử gia hoạt động ở thời Minh Trị và thời Ðại Chính (Taisho), tên Yamaji Aizan, trong khi phân tích các nhà tư bản Nhật Bản trong sách "Luận về phú hào ngày nay," đã viết "một thân làm nên sự giầu có của một họ, thì chủ nghĩa của người như vậy gọi là chủ nghĩa cá nhân chẳng được sao?" Ông kể những đại phú hào như vậy là Iwasaki, Mitsui, Sumitomo và Yasuda[7].

    Nếu Iwasaki chủ trương "để tao, để tao," thì ngược lại Shibusawa theo chủ nghĩa "mọi người, mọi người." Họ đại diện cho hai đường lối làm ăn điển hình của thời Minh Trị.


    Ðối chọi trực tiếp với Iwasaki trong ngành vận tải đường biển

    Hai nhân vật đã trực tiếp đối đầu với nhau trong ngành vận tải đường biển.

    Công ty vận tải đường biển Tàu Bưu chính Mitsubishi (sau này đổi tên là Công ty Tàu Bưu chính Nhật Bản: Nihon Yusen) do Iwasaki lập ra, làm ăn mỗi ngày một lời lớn. Thấy vậy, trong nước đã xuất hiện ý kiến là phải phá vỡ sự độc quyền của Mitsubishi, mới mong làm cho ngành vận tải đường biển phát triển hơn nữa. Một người như Shibusawa, vốn chủ trương hình thức công ty hợp doanh (công ty cổ phần ngày nay), thì không thể bỏ qua sự thành công như vậy của Iwasaki được. Ông bèn góp vốn của đông đảo nhà đầu tư, lập ra một công ty hải vận đặt tên là Vận tải Cộng đồng (Kyodo Un’yu), và bắt đầu vận chuyển hàng hóa giữa Tokyo và Osaka.

    Dĩ nhiên là giữa hai công ty đã có sự cạnh tranh khốc liệt. Lúc đó là thời nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, cho nên sự cạnh tranh "đấm đá" đã diễn ra. Chẳng riêng gì hai công ty vận tải này, mà khắp nơi đâu đâu cũng thấy sự cạnh tranh quá khích. Sự cạnh tranh quá khích đã lên tới tột bực ở giữa hai công ty Tàu Bưu chính Mitsubishi và công ty Vận tải Cộng đồng. Hai bên đua nhau hạ giá cước. Thậm chí, cuối cùng giá cước đã thành miễn phí. Chưa dừng lại ở đó, họ còn quảng cáo: "Nếu đi tàu của chúng tôi thì còn được chiêu đãi cơm hộp nữa," hoặc "Biếu thêm một tấm vải nữa." Nghĩa là, sự cạnh tranh đã tới điểm xuẩn động. Bên nào cũng trở nên bướng bỉnh, khó trị.

    Kết quả, công ty Vận tải Cộng đồng của Shibusawa bị phá sản. Phía Iwasaki, nhờ trận chiến tranh Tây Nam đã tích lũy được nhiều vốn, tàu thuyền đã khấu hao xong, thủy thủ được huấn luyện tốt hơn, nên đã cạnh tranh thắng. Thế nhưng, về mặt kinh doanh, công ty cũng bị liểng xiểng. Ðồng thời, năm 1885 (niên hiệu Minh Trị thứ 18) Iwasaki Yataro qua đời ở tuổi 52.

    Ngay vào thời đó, thì tuổi 52 cũng hãy còn là trẻ. Người ta nói chính vì vụ cạnh tranh với Công ty vận tải cộng đồng, Iwasaki đã bị hao mòn sức khỏe mới đến nông nỗi ấy.

    Trước khi hai công ty đua nhau hạ giá cước, Iwasaki và Shibusawa đã hội đàm với nhau. Shibusawa đề nghị: "Hãy cùng góp vốn mở công ty hợp doanh." Ðối lại, Iwasaki chủ trương: "Làm công ty mà như làm hội thân hữu, làm câu lạc bộ, thì làm sao giảm kinh phí được. Nhân viên mỗi công ty phải xả thân ra, phải phát huy tài năng mà cạnh tranh, để cho cái tốt sống sót, thì hơn." Tóm lại hai bên đã cãi nhau mà chia tay.

    Nói riêng về vụ cạnh tranh này, Công ty tàu bưu chính Mitsubishi của Iwasaki đã thắng, Công ty vận tải cộng đồng của Shibusawa phá sản. Nhưng, sự việc này cho thấy sự hình thành hai luồng tư tưởng của chủ nghĩa tư bản Nhật.


    "Tài phiệt" và Nhóm Xí nghiệp Liên hệ khác nhau thế nào?

    Một là hình thức tài phiệt đại biểu bởi nhóm Mitsubishi của họ Iwasaki, theo đó những người đồng tông đồng tộc cùng nhau lập ra công ty, rồi lợi nhuận thu được thì trả về cho cổ đông (cá nhân).

    Lúc đầu chỉ có gia đình Iwasaki thôi, nhưng sau đó Công ty Mitsubishi mẹ trở thành cổ đông, và lợi ích thu được từ công ty con lại được công ty mẹ đầu tư vào công ty khác. Ví dụ, tiền lời thu được qua công ty tàu thuyền, thì được đầu tư vào để lập ra Công ty khoáng sản Mitsubishi. Công ty này khai thác than đá, có lời, thì tiền lời lại chia cho Công ty Mitsubishi mẹ để đầu tư dựng nên Công ty hóa chất Mitsubishi, Công ty điện cơ Mitsubishi. Nói cách khác, nhóm tài phiệt áp dụng hình thức chủ nghĩa tư bản vốn có xưa nay để lập ra rất nhiều công ty.

    Không cứ gì nhóm tài phiệt Mitsubishi của dòng họ Iwasaki, những nhóm tài phiệt khác như Mitsui, Sumitomo, Yasuda cũng vậy. Nhất là tài phiệt Mitsui thì rõ ràng là "Công ty hợp danh Mitsui," tức là của riêng một họ Mitsui.

    Iwasaki coi công ty là của cổ đông, cho nên, lợi nhuận phải được phân chia cho cổ đông. Vì thế, lợi nhuận do Công ty tàu bưu chính Mitsubishi kiếm được là của cá nhân Iwasaki Yataro. Ông dùng tiền này làm vốn lập ra Công ty khoáng sản Mitsubishi, chứ không để cho Công ty tàu bưu chính Mitsubishi lập ra công ty con về than đá, rồi công ty con về than đá lại lập ra công ty cháu về đóng tàu.

    Nói khác đi, ở Nhật Bản cho đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai, sự hình thành tư bản cũng giống như ở những nước tư bản khác. Nghĩa là, một công ty thời tiền chiến dù cho lớn đến cỡ nào đi chăng nữa, cũng không có tới năm mươi vừa công ty con vừa công ty cháu. Tuy có quan hệ gia đình trong cùng nhóm tài phiệt, song tất cả các công ty đều gắn liền với công ty nắm cổ phần, chứ không phải là công ty con của các công ty chuyên ngành hay của ngân hàng trong nhóm tài phiệt.

    Trong nền kinh tế của Nhật Bản, Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo,... đều là những tài phiệt khổng lồ. Song những công ty thuộc nhóm tài phiệt chỉ là cùng hội cùng thuyền với công ty xuất vốn (công ty chủ chốt của nhóm tài phiệt), chứ về mặt kinh doanh họ đều độc lập. Chỉ có một tổ chức duy nhất, tức là công ty chủ chốt của nhóm tài phiệt, đứng ra thống suất tất cả các công ty thành viên. Thế nhưng, số nhân viên cán bộ được bố trí tới các công ty thành viên chỉ là khoảng vài chục người. Các công ty đều độc lập và hình thức làm thuê suốt đời cũng không có. Ở điểm này, sau chiến tranh, sự kiện các xí nghiệp đã được hệ thống hóa lấy sự lưu thông vốn liếng làm nòng cốt, thì khác hẳn.

    Sau chiến tranh, nếu xí nghiệp được nhiều lợi nhuận, họ chỉ phân phát cho cổ đông một phần rất nhỏ thôi, còn phần lớn họ bảo lưu lại trong nội bộ xí nghiệp, rồi tùy theo sự phán đoán của người kinh doanh, tiền lời đó sẽ được dùng đầu tư vào công ty con hay khuếch đại kinh doanh của công ty mẹ. Do đó, tầm hoạt động doanh nghiệp và quan hệ nhân sự lớn rộng ra, khiến sinh ra nhiều địa vị cho sự "thuyên chuyển từ trên xuống dưới[8]."
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  18. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

  19. #50
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Ngày nay, một công ty lớn vừa vừa thôi cũng có thể có tới năm trăm công ty con và công ty cháu. Những công ty khổng lồ như Hitachi, Mitsubishi mậu dịch, thì có tới hơn một ngàn công ty con và công ty cháu. Chính vì họ đã lập ra nhiều công ty con và công ty cháu như vậy, nên họ có đủ chỗ cho những nhân viên trung niên và cao niên có thể thuyên chuyển xuống công ty cấp dưới, và như vậy thực hiện được chế độ làm thuê suốt đời[9].

    Iwasaki Yataro và những người khác đã lập ra những nhóm tài phiệt, đều chủ trương chủ nghĩa cá nhân, tức là coi công ty cổ phần là sở hữu của cổ đông. Phương thức này là dập theo một cách trung thực chủ nghĩa tư bản Anh Mỹ.


    "Giới tài phiệt," đoàn thể của những nhà kinh doanh làm thuê

    Một cách suy nghĩ khác trái ngược hẳn, của Shibusawa EiỴichi, là công ty không nên là của riêng của một cá nhân nào cả. Nhiều người chung tiền lập ra công ty, vì thế nên coi đó là sản vật của chủ nghĩa góp vốn. Người có nhiều vốn có thể góp nơi này một ít, nơi kia một ít, để có quan hệ với nhiều công ty. Theo ông, cách làm như vậy đúng hơn. Nói cách khác, mỗi cổ đông chỉ góp chút ít vốn thôi, thì không có ai chiếm phần vốn áp đảo trong công ty cả. Người kinh doanh công ty sẽ cũng chỉ là người làm thuê.

    Xuất thân phú nông, tiến thân làm quan cho mạc chúa, chuyển sang làm quan cho tân Chính phủ Minh Trị, sau nhờ có kiến thức mới nên được người ta cầu khẩn xin chỉ đạo lập công ty, Shibusawa không muốn mang toàn thân mình ra đánh cá độ. Vì chỉ muốn giữ địa vị "một người có máu mặt an toàn," cho nên ông cũng muốn cho những nhà kinh doanh làm thuê như ông được quyền thế và vinh dự vậy.

    Nhà kinh doanh làm thuê là những người không phải đã đóng góp một số vốn lớn cho công ty, nhưng có hiểu biết, có máu mặt, nên ở trong công ty đã leo thang danh vọng lên tới địa vị tổng giám đốc, chủ tịch. Shibusawa đã nghĩ tới "giới kinh tài" như là câu lạc bộ cho những nhà kinh doanh làm thuê như vậy.

    Shibusawa Ei’ichi đã không trở thành đại phú hào như Iwasaki Yataro. Cũng không thấy xuất hiện "nhóm tài phiệt Shibusawa." Thế nhưng, ông có quan hệ ở khắp nơi; nơi nào cũng thấy có mặt ông; ông đã lập ra rất nhiều công ty, đã tổ chức hóa rất nhiều người. Không có một công ty nào trở thành vật sở hữu của ông cả. Ðồng thời, ông cũng không lãnh trách nhiệm đối với bất cứ công ty nào. Chẳng hạn, khi công ty Vận tải Cộng đồng thua cuộc cạnh tranh và bị phá sản, thì Shibusawa cũng không chịu trách nhiệm gì cả.

    Shibusawa đã lập ra Phòng Thương mại và công nghiệp (Phòng thương công), một tổ chức kết hợp tất cả những nhà kinh doanh làm thuê, tức là những người chỉ xuất vốn ít thôi nhưng lại nắm trong tay quyền kinh doanh công ty. Rồi ông lại lập ra những đoàn thể chuyên ngành, như Hiệp hội Sợi dệt, hoặc những đoàn thể khác. Ông quan niệm và thực thi sự hòa hợp trong giới kinh doanh, coi đó là cơ sở cho nền kinh doanh hiện đại.

    Xem như trên, giới kinh tế Nhật Bản thời Minh Trị gồm có hai trào lưu, một đại biểu bởi Shibusawa với ý chí hướng tới các đoàn thể chuyên ngành, và một đại biểu bởi Iwasaki với chủ trương hình thành các nhóm tài phiệt. Thế nhưng, năm 1885 Iwasaki Yataro qua đời ở tuổi 52, nhóm tài phiệt Mitsubishi bị mất vị chủ soái.

    Người kế nghiệp Yataro làm tổng giám đốc đời thứ hai, là em ruột Yataro tên là Yanosuke. Người này cũng có khả năng, song không thuộc loại có tài lãnh đạo độc tài, nên dần dần đã ngả dần sang lối làm việc hòa hợp. Thế rồi, sang thời Showa (Chiêu Hòa), công chức (quan liêu) các bộ Thương Công, Bộ Kho Bạc lần lần xía sâu vào nội bộ các ngành nghề sản xuất. Rồi từ sau khi Shibusawa mất năm 1931, thì thể chế hòa hợp do quan liêu chỉ đạo kiểu Nhật Bản đã hoàn thành.

    Từ đó, mỗi người đều hòa hợp với nhau, toàn thể giới kinh doanh đều nhịp bước với nhau dưới sự chỉ đạo của quan liêu. Người kinh doanh cũng quan liêu hóa, sự thăng tiến trong các công ty trở thành hình thức theo thứ tự thâm niên. Hơn thế nữa, bản thân người kinh doanh lại không phải đã góp phần lớn vốn cho công ty, nên thái độ kinh doanh của họ trở nên tiêu cực. Họ nhìn trước trông sau, ngó phải liếc trái, sao cho không gây sóng gió, sao cho không chơi trội hơn người khác, sao cho xếp hàng ngang cùng với mọi người khác.

    Cách làm ăn này rất dễ cho quan liêu thống suất. Kể từ khoảng năm 1935 trở đi, thì việc thống suất trở nên ngặt nghèo, quan liêu bắt đầu thống suất giới kinh doanh qua các đoàn thể chuyên ngành, bất chấp luật lệ nữa. Ðây là cái gọi là "thể chế quan dân hòa hợp" đặc trưng của Nhật Bản vậy.

    Thể chế trên đã bị băng hoại một thời kỳ ngắn sau khi Nhật Bản bại trận. Nhưng chẳng bao lâu, thể chế đó đã phục sinh. Nói cách khác, trạng thái lý tưởng do Shibusawa quan niệm, đã được xác lập tại Nhật Bản thời hậu chiến vậy.


    Khuyết điểm của chủ nghĩa góp vốn

    Hiện nay, giới kinh tế Nhật Bản đang tổ chức theo cái gọi là "Ðoàn tàu hộ tống."

    "Ðoàn tàu h tống" là nói nhiều tàu chở hàng hợp lại thành một đoàn tàu xung quanh có khu trục hạm của hải quân hộ tống chống lại sự tấn công của tàu ngầm địch.

    Ví dụ, tất cả các ngân hàng đều họp lại thành một đoàn tàu, rồi được Bộ Kho bạc hộ vệ xung quanh cho tiến lên, không để cho một ngân hàng nào bị tụt hậu cả. Phương thức này làm cho cả đoàn tàu phải tiến theo tốc độ của con tàu chậm nhất. Những tàu có sức tiến nhanh cũng phải hạ bớt sức máy, phải chạy ngoằn ngoèo, khiến cho toàn thể giới doanh nghiệp có năng suất thấp, kinh phí cao.

    Ðiều này không riêng gì giới lưu thông tiền tệ như ngân hàng hay công ty chứng khoán, mà từ giới vận tải đường bộ bằng xe tải, giới y bác sĩ, cho tới giới nông gia, tất cả những giới cần có giấy phép hành nghề do nhà nước cấp, đều họp thành đoàn tàu hộ tống như vậy cả.

    Khi cho phép định giá lệ phí, chính phủ sẽ dựa theo nơi nào có kinh phí lớn nhất. Nghĩa là, căn cứ vào đơn vị làm ăn tệ nhất để tính lệ phí, sao cho không một đơn vị nào bị thua lỗ, không nơi nào bị phá sản cả. Ðiều này làm cho phí tiêu dùng lên cao, đồng thời sinh ra sự chênh lệch giữa giá cả trong nước với nước ngoài.

    Ấy thế mà, hễ có xí nghiệp nào sắp phá sản, thì bèn cho hợp nhất với công ty khác để cứu sống. Vì thế, công ty mạnh phải nai lưng ra cõng công ty yếu, khiến cho kinh phí đã cao càng cao hơn nữa. Chính phủ thì coi sóc tỉ mỉ sao cho công ty yếu cũng không bị phá sản, nên sự can thiệp của quan liêu vào giới doanh nghiệp ngày càng chặt chẽ, sự chỉ đạo của họ ngày càng mạnh mẽ. "Chủ nghĩa góp vốn" của Shibusawa chính là đã đưa đến phương thức đoàn tàu hộ tống này. ít nhất nó cũng đã manh nha sinh ra phương thức ấy.

    Trong phương thức đoàn tàu hộ tống, tàu có sức chạy nhanh cũng phải chạy chậm. Những tàu chạy nhanh sẽ có năng lực thặng dư, nghĩa là những công ty ưu tú sẽ kinh doanh có lời lớn. Thế nhưng, cho là có sức kinh doanh tốt, có tài nguyên kinh doanh phong phú, nhưng vì thế mà kiếm lời quá nhiều, thì thế gian sẽ phê phán là làm loạn nhịp bước của đồng đội.

    Do đó, những công ty kinh doanh giỏi, có vốn kinh doanh dư dả, thì cơ quan nhà nước sẽ bắt nhận một số quan liêu thuyên chuyển từ trên xuống, nghĩa là phải nuôi báo cô một số người ngồi chơi xơi nước[10], sao cho giảm bớt lợi nhuận đi. Ấy thế mà nếu hãy còn lợi nhuận cao, thì bắt thôn tính hợp nhất với một công ty thua lỗ, nghĩa là "nuốt chửng" công ty thua lỗ này vào công ty mình. Ðổi lại sự hi sinh đó, phần chia (thị phần) của công ty bị thôn tính sẽ được trao cho công ty hợp nhất để khuếch đại phần chia của mình, để mở rộng địa bàn hoạt động. Ðể khuyến khích các công ty làm ăn giỏi tiếp nhận sự thôn tính hợp nhất như vậy, người ta cần đánh giá nhà kinh doanh không phải bằng lợi nhuận mà người ấy đạt được, mà bằng quy mô kinh doanh và bằng phần chia địa bàn kinh doanh.

    Cho tới thập niên 1990, nền hành chính ngân hàng đúng là như kể trên vậy. Kết quả là tất cả các ngân hàng đều có kinh phí cao, và một khi bong bóng kinh tế nổ xẹp, thì tất cả đều ôm nặng bụng một mớ giấy nợ không trang trải được.

    Ở Nhật Bản hiện nay, những ngành nghề ít bị cạnh tranh quốc tế, như xây dựng, ngân hàng, vận tải, điện lực, viễn thông, tin học, v.v., đều được bảo hộ bằng phương thức đoàn tàu hộ tống. Ðối với họ, kinh phí trở nên rất cao, đến nỗi phải coi tỷ giá đôla Mỹ là 1 đôla lớn hơn 200 Yen. Nói cách khác, chủ nghĩa góp vốn do Shibusawa nghĩ ra, ngày nay mới lộ khuyết điểm ra vậy.

    Là người đề xướng rồi thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhật Bản như kể trên, Shibusawa EiỴichi quả là người có ảnh hưởng lớn tới nước Nhật ngày nay.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  20. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), lynkloo (12-05-2012)

Trang 5/8 đầuđầu 1 2 3 4 5 6 7 8 cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •