hqua đi mua sách rình thấy cuốn này rồi nhưng vì đã chót mua những qu? khác nên ko còn đủ xiền đế mua >.< Đọc ké ở đây vậy thzs!
hqua đi mua sách rình thấy cuốn này rồi nhưng vì đã chót mua những qu? khác nên ko còn đủ xiền đế mua >.< Đọc ké ở đây vậy thzs!
Đã đến lúc nói đôi lời về tôi.
Cố nhiên đây là chuyện về Sumire,không phải về tôi.Tuy nhiên,chuyện này được kể wa con mắt của tôi-câu chuyện Sumire là ai và cô làm j-nên tôi cũng phải giải thích môt chút về người kể chuyện.Nói cách khác là về tôi.
Tôi thấy thật khó nói về chính mình.tôi luôn vấp phải câu hỏi ngước đời muôn thuở tôi là ai?Chắc chắn không ai biết về mọi chuyện của tôi rõ như tôi.Nhưng khi tôi nói về mình thì tất cả những yếu tố khác-các giá trị,các tiêu chuẩn,các giới hạn của chính tôi trong vai trò người wan sát-đã khiến tôi,người kể chuyện,phải chọn lọc và lựa ra những chi tiết về tôi,người được kể.Tôi luôn bị xáo trộn bởi ý nghĩ mình sẽ không vẽ được bức tranh thật khách wan về mình.
Những việc kiểu này dường như không phải mối bận tâm đối với đa số mọi ngừơi.Hễ có dịp là họ lại thẳng thắng đến ngạc nhiên khi nói về mình.”Tôi trung thực,cởi mở đến kỳ lạ.”họ sẽ nói vậy,hoặc “Tôi là mẫu người dễ tự ái và không dễ dàng hòa hợp với mọi người,”hoặc “Tôi rất giỏi cảm nhận cảm xúc thực sự của người khác,”.Nhưng tôi thật sự chưa gặp được người nói rằng họ dễ dàng bị tổn thương hay làm tổn thương người khác mà chẳng có cơn cớ rõ ràng j.Những người tự cho mình là trung thực cỡi mở,không hề có nhận thức được mình đang làm j,vô tình việc một cái cớ tự tạp nào đó để đạt đươc điều mình muốn.Còn những người”giỏi cảm nhận cảm xúc thực sự của người khác” thì bị lừa phỉnh bởi những lời tang bốc rõ rành rành.Thế cũng đủ để tôi đặt ra câu hỏi”thực ra chúng tôi biết rõ mình như thế nào?
Càng nghĩ về điều này tôi càng muốn để chù đề tôi lại cho lần sau.Điều tôi muốn biết nhất bây giờ là hiện thực khách wan của những cái ở ngoài bản than tôi.Thế giới bên ngòai wan trọng đối với tôi như thế nào,tôi duy trì cảm giác cân bằng nhờ việc cảm thấy hài long với nó như thế nào.Chỉ như vậy tôi mới nắm bắt được rõ rang hơn tôi là ai.
Những ý nghĩ kiểu này đã xụất hiện trong đầu tôi khi tôi còn niên thiếu.Giống như người thợ xây kéo căng dây và đặt các viên gạch chồng lên nhau,tôi xây dựng wan điểm này-hay nói rõ hơn là triết lý sống.Lập luận logic và suy đóan đã góp phần lớn nó dựa vào kinh nghiệm riêng của tôi.Lại nói đến kinh nghiệm,nhiều bài học đau đớn đã dạy cho tôi biết rằng để những người khác tán thành wan điểm này thật là việc không dễ chút nào.
Kết wả của tất cả chuyện này là ngay khi còn trẻ tôi đã vạch ra một ranh giới vô hình giữa tôi và người khác.Dù tôi giao du với ai cũng vậy.Tôi luôn giữ khoảng cách,thận trọng theo dõi thái độ người khác để họ không tiến gần hơn được chút nào.Tôi không dễ tin những j người khác nói.Đam mê duy nhất của tôi là sách và âm nhạc.Như bạn có thể đóan được,tôi sống một cách đơn độc.
Già đình tôi không có j đặc biệt.Thực ra nó rất đỗi bình thường đến nỗi tôi không biết bắt đầu từ đâu.Cha tôi lấy bằng cử nhân khoa học tự nhiên tại một trường đại học địa phương và làm việc ở phòng nghiên cứu của một nhà máy thực phẩm lớn.Ông thích golf và chủ nhật nào cũng ra sân.Mẹ tôi mê mẩn thơ tanka và thường tham dự các cuộc bình thơ.Mỗi khi tên được xuất hiện ở mục thơ trên báo thì suốt cả mấy ngày bà vui như Tết.Bà thích wét dọn nhưng ghét nấu nướng.Chị gái tôi,hơn tôi nămtuổi,thì ghét cả wét dọn lẫn nấu ăn.Những việc người khác làm thì chị cho là không phải việc của chị.D0iều đó có nghĩa là từ khi đủ lớn để vào bếp thì tôi đã tự nấu mọi bữa ăn cho mình.Tôi mua sách dạy nấu ăn và học cách làm gần như mọi món.Theo tôi biết tôi là đứa trẻ duy nhất sống theo cách đó.Tôi sinh ra ở Suginami,nhưng từ nhỏ gia đình tôi đã chuyển đến Tsudanuma thuộc wận Chiba và tôi lớn lên tại đó.Wanh nhà tôi đầy các gia đìnhviên chức như nhà tôi.Chị tôi luôn đứng đầu lớp,chị không thể chấp nhận nổi việc mình không phải là người ưu tú nhất và chị không để ý đến bất cứ thứ j ngoài phạm vi yêu thích của mình.Chị chưa bao giờ-thậm chí chưa lần nào-dắt chó đi dạo.Chị tốt nghiệp khoa luật đại học Tokyo và năm sau thì vượt wa kỳ thi vào luật sư đòan đặc biệt gian nan.Chồng chị là một cố vấn wản trị dám nghĩ dám làm.Họ mua một căn nhà bốn phòng trong tòa nhà sang trọng gần công viên Yoyogi.Tuy nhiên,ở bên trong,tòa nhà đó như một cái chuồng lợn.
Tôi thì ngược lại với bà chị,chẳng mấy wan tâm đến chuyện học hành hay điểm số.không muốn làm rầu lòng bố mẹ nên tôi thực hiện một cách đối phó những họat động như đến trường,hoàn thành ở mức tối thiểu viêc nghiên cứu và làm bài tập về nhà.Thời gian còn lại tôi đi đá bong hoặc về nhà nằm khểnh trên giường đọc hết cuốn tiểu thuyết này đến cuốn tiểu thuyết khác.Không có những buổi học them nhồi sọ điển hình của các bạn,củng như không có chuyện kèm nhau học.Mặc dù vậy học lực của tôi không đến nổi xòang.Với trình độ này,tôi tính là chẳng cần phải luyện thi đến mụ người thì mình vẫn có thể vào được vào một trường đại học tử tế.Và wả nhiển mọi việc đã diễn ra đúng như vậy.
Tôi bắt đầu cuộc đời sinh viên và sống riêng trong một căn hộ nhỏ.Ngay khi còn sống ở nhà tại Tsudanuma tôi đã khó nói chuyện tâm tình với gia đình.Chúng tôi cùng sống dưới một mái nhà nhưng bố mẹ và chị gái như người xa lạ với tôi,tôi không biết họ muốn j ở cuộc sống.Và với họ cũng tương tự như vậy,họ không hề biết tôi là người thế nào hay tôi mong mỏi điều j.Không phải tôi biết mình muốn j trong cuộc sống-tôi không biết.tôi thích đọc tiểu thuyết để giải trí nhưng viết văn không hay đến mức trở thành nhà tiểu thuyết,trở thành biên tập viên hay nhà phê bình cũng không được vì thị hiếu của tôi thường cực đoan.Tôi wyết định nên coi tiểu thuyết là sở thích cá nhân thuần túy,không phải là một phần công việc hay hoc tập của tôi.Vì vậy tôi không học văn mà học sử.Tôi không có chút hứng thú đặc biệt nào với lịch sử nhưng một khi đã bắt đầu nghiên cứu thì tôi lại thấy đây là một vấn đề vô cùng hấp dẫn.Tôi không có ý định làm nghiên cứu sinh và dành trọn cả đời mình cho sử học hay bất cứ môn nào khác,mặc dù thấy giáo hướng dẫn đã khuyên tôi như thế.Tôi thích đọc và suy nghĩ nhưng khó có thể thuộc kiểu người học thuật.Như Puskin đã nói”
Chàng không ham muốn đào bới vinh wang
Ẩn sâu dưới lớp bụi mà thời gian để lại
Tất cả những điều này không có nghĩa là tôi sẽ tìm việc tại một công ty bình thường,bám lấy con đường của mình xuyên wa cuộc cạnh tranh sinh tử,rồi từng bước leo lên con dốc khó khăn của hình tháptư bản chủ nghĩa.Vậy là,sau wá trình lựa chọn,tôi dừng lại ở nghề giáo viên.Trường học chỉ cách mấy ga tàu.Ông chú tôi tình cờ có mặt trong hội đồng giáo dục của thị xã đó và hỏi tôi liệu có muốn theo nghể giáo không.Tôi không được đào tạo đủ về nghiệp vụ sư phạm nên chỉ đươc thuê làm trợ giáo,nhưng sau một thời gian ngắn đứng lớp thì tôi có đủ điều kiện để trở thành giáo viên thực thụ.Tôi vốn không định theo nghề giáo nhưng sau khi đã thực sự làm thầy,tôi phát hiện ra mình kính trọng và yêu wý nghề này sâu sắc hơn mình từng nghĩ.Thật ra chính xác hơn.tôi nên nói tôi đã tình cờ khám phá ra bản than mình.
Tôi đứng trước lớp.dạy các học sinh tiểu học những điều cơ bản về ngôn ngữ,cuộc đời,thế giới,và đông thời nhận ra tôi cũng đang dạy lại chính mình những điều đó-d0ược lọc wa cặp mắt và đầu óc của các học sinh này.Hãy làm cho đúng cách,đây là một kinh nghiệm mới mẻ.Thậm chí còn thấm thía nữa.Tôi có wan hệ tốt với học sinh,với mẹ chúng và đồng ngiệp.Nhưng những câu hỏi cơ bản vẫn ám ảnh tôi:Tôi là ai?Tôi đang tìm kiếm cái j?Tôi đang đi tới đâu?
Tôi tiến đến gần câu trả lời nhất khi trò chuyện với Sumire.Tuy nhiên,thay vì tự nói về mình,tôi chăm chú lắng nghe cô,nghe những điều cô nói.Cô wẳng hết các loại câu hỏi cho tôi,nếu tôi không thể tìm ra câu trả lời hay nếu câu trả lời của tôi không có ý nghĩa thì tốt hôn bạn hãy tin là cô sẽ để cho tôi biết.Không với nhiều người,cô trung thực,chân thàng muốn nghe những điều tôi phải nói.Tôi gắng hết sức trả lời cô,và cuộc trò chuyệncủa chúng tôi đã giúp tôi cởi mở bản than mình hơn trước cô-và,đồng thời,với chính tôi.
Chúng tôi thường trò chuyện hang giờ.Chẳng bao giờ chúng tôi thấy chán,chẳng bao giờ hết đề tài-tiểu thuyết,thế giới,phong cảnh,ngôn ngữ.Chúng tôi trò chuyện cởi mở và than tình hơn bất cứ cặp tình nhân nào.
Tôi đã hình dung sẽ tuyệt vời biết bao nếu chúng tổi wả thật có thể là người yêu của nhau.Tôi những muốn được cảm thấy làn da ấm áp của cô trên da thịt mình.Tôi hình dung hai đứa cưới nhau,sống cùng nhau.Nhưng tôi phải đối mặt với thực tế Sumire không hề có những cảm xúc lãng mạn như thế với tôi,nói j đến hưng thú tình dục.thỉnh thỏang cô lại căn hộ của tôi sau khi chúng tôi đã trò chuyện vài tiếng đồng hồ,nhưng không bao giờ có dù chỉ là một chút xíu dấu vết lãng mạn nào.Đến khỏang 2-3h sang cô ngáp ngắn ngáp dài rồi leo lên giường,úp mặt và gối của tôi,nhanh chóng ngủ thiếp đi.Tôi trải chăn đệm xuống sàn nằm nhưng không tài nào ngủ được,đầu óc tràn ngập những hình ảnh tưởng tượng,những ý nghĩ lộn xộn,tự ghê tởm mình.Đôi khhi những phản ứng thể xác không tránh được khiến tôi đau khổ,và tôi nằm thao thức khổ sở cho tới sang.
Thật khó chấp nhận việc Sumire hầu như không có cảm xúccó lẽ không một chút nào,dành cho tôi với tư cách một người đàn ông.Điều này nhiều khi khiến tôiđau đớn như có ai đó cầm daođâm vào bụng mình.Thế nhưng những giờ phút tôi được ở bên cô còn wý giá hơn bất kỳ điều j.Cô giúp tôi wên đi nỗi cô đơn ngắm ngầm trong cuộc sống của tôi.Cô mở rộng thế giới của tôi,giúp tôi hít một hơi sâu dễ chịu.Chỉ Sumire có thể làm được những việc đó cho tôi.
Để xoa dịu nổi đau và tôi hy vọng ,để giải tỏa bất kỳ căng thẳng tình dục nào giữa tôi và Sumire,tôi bắt đầu ngủ với những người phụ nữ khác.Tôi không nói mình là người hành công với phụ nữa,tôi không phải người như vậy.Tôi không phải loại đàn ông sát gái.cũng không cho rằng mình có bất kỳ nét quyến rũ đặt biệt nào.Nhưng chẳng hiểu sao một số phụ nữ vẫn say mê tôi và tôi khám phá ra rằng nếu tôi cứ để cho mọi chuyện diễn ra theo chiều hướng của nó thì chẳng có j khó khăn trong việc kéo họ lên giường với tôi.Những lần”đi tàu nhanh” như thế không bao giờ khơi dậy được d9ược đam mê cho tôi cùng lắm chỉ là một kiểu khuây khỏa.
Tôi không giấu Sumire những chuyện lăng nhăng đó của minh.Cô không biết tường tận chi tiết mà chỉ đại khái thôi.Có vẻ nó không khiến cô bận tâm.Nếu trong những cuộc phiêu lưu tình ái của tôi có j phiền tóai thì đó là việc tòan bộ đám phụ nữ đó đều lớn tuổi hơn tôi và hoặc đã có vợ chồng hoặc đã đính hôn hay có bạn trai hẳn hoi.Nhân tình mới nhất của tôi là một phụ huynh trong lớp.Chúng tôi ngủ với nhau khoảng mỗi tháng hai lân.
“Nó có thể làm cậu xong đời đấy”,một lần Sumire cảnh cáo tôi.Và tôi đã đồng ý.Nhưng về chuyện này thì tôi chẳng thể làm được j nhiều.
Một ngày thứ 7 đầu tháng 7,lớp tôi tổ chức dã ngoại.Tôi dẫn tất cả 35học sinh đi leo núi ở Okutama.Khi đi thì không khí phấn chấn ,vui vẻ,để rồi lại rơi vào tình trạng hổn loạn.Khi lên tới đỉnh thì hai học sinh phát hiện ra chúng wên bỏ suất ăn trưa vào balô.Wanh đó làm j có hang wán nào,vậy là tôi đành chia cho chúng món nori-maki được nhà trường cấp cho tôi.Thành thử tôi chẳng còn k để ăn.Có một em mời tôi ít chocolate.nhưng cả ngàu tôi chỉ có bằng đấy.Đến lược một cô bé kêu không đi được nữa,và tôi phải cõng nó suốt dọc đường xuống núi.hai cậu học sinh bắt đầu tranh giành đùa nghịch khiến một đứa bị ngã đập đầu vào vách đá.nó ị chóang nhẹ nhưng máu mũi chảy rất nhiều.Chẳng có j khủn khiếp cả,nhưng cáo cậu bé đâ nhuộm đầy máu cứ như vừa trải wa một vụ thảm sát.Như tôi đã nói,hòan tòan hỗn lọan
Khi về đến nhà người tôi bã ra như một thanh tà vẹt cũ.tôi tắm táp uông nước lạnh leo lên giường mệt đến nỗi không còn nghĩ ngợi được j,tắt đèn và ngủ một giấc ngon lành.Rồi chuông điện thọai reo:Sumire gọi.Tôi nhìn chiếc đồng hồ để trên giường.Tôi mới ngủ được khoảng một tiếng.Nhưng tôi không càu nhàu.Tôi chẳng còn hơi sức đâu mà kêu ca.Cũng phải có những ngày như thế.
“Chiều mai tớ gặp cậu được không?”Cô hỏi
Người phụ nữ bạn tôi sẽ đến chỗ tôi lúc 6h chiều.Chị ta sẽ đậu chiếc Toyota Celica màu đỏ ở bên dưới phố.”Tớ rảnh đến 4h”-tôi nói
Sumire mặc chiếc áo cánh trắng cộc tay,váy ngắn màu xanh nước biển và đeo cặp kinh râm nhỏ.Vật trang sức duy nhất của cô là chiếc cặp tóc nhỏ bằng nhựa.Một trang phục hết sức đơn giản.Cô hầu như không trang điểm,phô bày vẻ tự nhiên của mình cho cả thế giới.Nhưng không hiểu sao tôi lại không nhận ra cô tan gay.Kể từ lần gặp trước đến nay mới 3tuần trôi wa nhưng cô gái ngồi đối diện tôi ở bên bàn dường như thuộc về một thế giới hoàn tòan khác,khác hẳn với Sumire tôi từng biết.Nói một cách nhẹ nhàng cô vô cùng xinh đẹp.Bên trong con người cô,một cái j đó đang bừng nở.
Tôi gọi một cốc bia tươi nhỏ,còn cô gọi nước nho
Gần đây tớ khó mà nhận ra được ậu đấy-tôi nói
Tại đến kỳ đấy mà-cô vô tư nói,nhấp một ngụm nước nho wa uống hút
Kỳ nào?-tôi hỏi
“Thời kỳ dậy thì chậm,tớ đóan thế.Buổi sáng khi thức dậy và nhìn thấy mặt mình trong gương,nó dường như mặt của một người khác vậy.Nếu không cẩn thận tớ có thể bị bỏ lại đằng sau mất”
Vậu không phải tốt hơn là cứ để mặc nó đi hay sao?-tôi nói
Nhưng nếu tớ đã đánh mất mình thì còn có thể đi đâu chứ?
Nếu chỉ trong vòng vài ba ngày thì cậu cứ đến chỗ tớ.Cậu bao giờ cũng được chào đón-cậu,chinh người đã đánh mất cậu
Sumire cười phá lên
Thôi không đùa nữa-cô nói,trên thế gian này tớ có thể đi về đâu chứ?
“Tớ không biết.hãy nhìn vào mặc tích cực nhé:cậu đã bỏ hút thuốc,cậu ăn mặc đẹp đẽ sách sẽ hơn-thậm chí giờ đôi tất của cậu cũng phù hợp nữa,và cậu biết noi tiếng Ý.Cậu đã học được cách đánh giá rượu,biết dung máy tính,váit nhất từ giờ trở đi đến đêm thì ngủ đến sáng thì dậy.Nhất định cậu sẽ tiến đến được chỗ nào đó”
“Nhưng tớ vẫn không viết được dòng nào”
“Moi sự đều có lúc thăng lúc trầm”
Sumire cắn môi.”Cậu có cho rằng cái tớ đang trảo wa là sự ly khai ko?
“Ly khai” tôi mất một lúc ới hiểu cô nói j.
“Ly khai.Phản bội lại đức tin,wan điểm của minh”
“Ý cậu nói là kiếm việc làm,ăn mặc đẹp và bỏ viết tiểu thuyết?”
“Phải”
Tôi lắc đầu.”Lúc nào cậu cũng viết cậu muốn.Còn nếu đã không muốn nữa thì sao cậu lại viết?Cậu nghĩ cậu không biết thì sẽ có một cái làng bị cháy trụi ư?Một con tàu bị chìm?Thủy triều lên xuống thất thường?Hay kéo cuộc cách mạng chậm lại năm năm?Chẳng có đâu.Tơ không nghĩ lại có ai gán cái nhãn ly khai đó.”
“Vậy tớ nên gọi nó thế nào?”
Tôi lại lắc đầu. “Cái từ ly khai lạc hậu lắm rồi.Không ai dung nó nữa.May ra đến cái công xã còn lại nào đó thì vẫn có người dùng từ đó.Tớ không biết chi tiết,nhưng néu cậu không muốn viết nữa thì với cậu thế là xong xuôi rồi.”
“Công xã à?Cậu muốn nói những chỗ do Lênin thành lập à?”
“Chúng được gọi là nông tranh tập thể.Tuy nhiên chẳng còn cái nào hết
“Không phải tờ không muốn từ bỏ việc viết lách”-Sumire nói.Cô ngẫm nghĩ một lúc.”Chỉ có điều cứ khi nào thử đặt bút thì tớ lại chẳng viết được j.tơ ngồi vào bàn nhưng trong đầu rỗng tuếch-không ý tưởng,không ngôn từ,không cảnh trí.Không có j.Cách đây chưa lâu tớ còn cả triệu điều để viết.Chuyện j đã xảy ra với tớ kia chứ?”
“Cậu đang hỏi tớ à?”
Sumire gật đầu
Tôi nhấp một ngụm bia lạnh và tập trung các suy nghĩ của mình
“Tớ nghĩ ngay bây giờ có lẽ cậu đang tự đặt mình trong một cốt truyện hư cấu mới.Cậu đang bận rộn với nó,vì vậy không cần phải viết ra cảm xúc của mình.Vả lại,cậu bận wá”
“Cậu có làm j như vậy không?Tự đặt mình trong một cốt chuyện hư cấu à?”
“Tớ nghĩ hầu hết mọi người đều sống trong một wyển tiểu thuyết.Tớ cũng không phải ngoại lệ.Giống như bộ truyền lực xe hơi ấy.Giữa cậu và thực tế cuộc sống nghiệt ngã cũng có bộ truyền lực như vậy.Cậu nhận lực thô từ bên ngàoi và dùng hộp số để điều chỉnh nó sao cho mọi thứ được đồng bộ.Đấy là cách cậu giữ cho cơ thể yếu ớt của mình không bị ảnh hưởng.Cậu hiểu tớ nói chứ?”
Sumire khẽ gật đầu.”và tớ vẫn chưa hòan tòan thích nghi với côt truyện mới ấy.Có phải cậu muốn nói thế không?”
“Ngay bây giờ vấn đề lớn nhất là cậu không biết mình đang viết loại tiểu thuyết nào?Cậu không biết cốt truyện,văn phong cũng chưa hình thành.Điều duy hhất cậu biết là tên nhân vật chính.tuy nhiên,cuốn tiểu thuyết mới này đang tái hư cấu con người cậu.Hãy cho nó thời gian,rồi nó sẽ mang cậu đi theo dưới đôi cánh của nó,và cậu có thể thấy rõ một thế giới mới.Nhưng cậu vẫn chưa đạt được điều đó,cậu vẫn đang ở vị thế bấp bênh”
“ý cậu là tớ đã tháo bộ truyền lực cũ nhưng vẫn chưa thay xong bộ mới?Và động cơ vẫn chạy.Đúng không?”
“Cậu có thể hiểu như vậy”
Khuơn mặt Sumire trở lại với vẻ u sầu wen thuộc,và cô chọc chọc cái ống hút vào viên đá không may mắn trong cốc nước.Cuối cùng cô ngẩng lên
“Tớ hiểu cái cậu nói là bấp bênh.Đôi khi tớ có cảm giác-tơ không biết nữa-thật cô độc.Một kiểu cảm giác bất lực khi tất cả những thứ wen thuộc đối với cậu đều đã bị lôi đi.Giống như không còn trọng lực nữa và tớ trôi dạt trong không trung,không biết mình đang đi về đâu.”
“Như vệ tinh Sputnik nhỏ mất tích?”
“Có lẽ vậy”
“Nhưng cậu có Miu mà”-tôi nói
“Ít nhất là bây giờ”
Sự im lặng ngự trị một lúc.
“Cậu nghĩ Miu cũng đang tìm cái đó à?”-tôi hỏi
Sumire gật đầu.”tớ tin chị ấy cũng đang tìm kiếm .Có lẽ cũng mạnh mẽ như tớ vậy”
“Gồm cả phương diện thể xác?”
“Thật khó nói.Tớ không nắm bắt được.ý tớ là thực chất cảm xúc của chị ấy.Điều đó khiến tớ thấy mất mát và bối rối”
“Câu đố muôn thuở”-tôi nói
Sumire lại mím môi thay cho câu trả lời
“Nhưng về phần cậu”-tôi nói,”cậu đã sẵn sang đi rồi đấy”
Sumire gật đầu dứt khóat.Cô không thể nghiêm túc hơn.Tôi ngả người ra ghế,vòng tay sau đầu.
“Sau tất cả chuyện này,đừng trở nên căm ghét tớ,được chứ?”-Sumire hỏi.Giọng cô nghe như lời thoại trong bộ phim đen trắng cũ của Jean-Luc Godard,trượt ra ngoài ý thức của tôi.
“Sau tất cả chuyện này,tớ sẽ không trở nên ghét cậu”
Lần gặp gỡ tiếp theo của tôi và Sumire diễn ra hai tuần sau đó,vào ngày chủ nhật,khi tôu giúp cô chuyển nhà.Cô wyết định việc này một cách đột ngột và tôi là duy nhất đến giúp.Ngoài sách thì cô chẳng có mất đồ đac và tòan bộ công việc dọn dẹp đã xong xuoi trước cả khi chúng tôi kịp nhận ra.Âu cũng là một cái lợi của kẻ khó
Tôi mượn bạn chiếc Toyota nhỏ và chở đồ đạc của cô đến nơi ở mới tại Yoyogi-Uehara.Căn hộ nhìn có vẻ không mới hay sang trọng,nhưng so với ngôi nhà gỗ cổ lỗ của cô ở Kichijoji-một nơi đáng đưa vào danh sách di tích lịch sử-thì đúng là một trời một vực.Một nhân viên bất động sản,bạn của Miu đã tìm giúp Sumire chỗ này,dù nằm ở vị trí thuận lợi nhưng giá thuê nhà hợp lý và phong cảnh đẹp.Nó con rộng gấp đôi chỗ cũ.Wả là đáng chuyển đến.Công viên Yoyogi ở gần đó,và nếu muốn cô có thể đi bộ tới nơi làm việc.
“Từ tháng sau tớ sẽ làm việc năm ngày một tuần.”-cô nói.”Ba ngày một tuần dường như không thành vấn đề,và cậu sẽ chịu đựng cảnh bắt xe đi lại dễ hơn nếu ngày nào đó cũng phải làm vậy.Bây giờ tiền thuê nhà của tớ tăng lên,và Miu bảo tốt hơn tớ nên đi làm đầy đủ thời gian.Ý tớ là có ở nhà thì tớ cũng không tài nào viết được”
“Nghe có vẻ là một ý tưởng hay ho đấy”-tôi nhận xét
“Cuộc sống của tớ sẽ có wi củ hơn nếu ngày nào tớ cũng đi làm,và có lẽ tớ cũng sẽ không đánh thức cậu vào 3h30sáng nữa.Đó cũng là một điều hay.”
“Một điều rất hay”-tôi nói.”Nhưng thật buồn khi nghĩ đến chuyện cậu sống cách xa tớ đến thế”
“Cậu thật sự cảm thấy thế à?”
“Tất nhiên,cậu có muốn tớ moi tim ra cho cậu thấy ko?”
Tôi đang ngồi trên sàn nhà trống trơn của căn hộ mới,dựa lưng vào tường.Đồ đạc Sumire gần như chẳng có j nên nơi ở mới trông như bị bỏ hoang.Không có một cái rèm cửa sổ nào.sách chưa được xếp lên giá đang chất đống trên sàn trông như đám trí thức tị nạn.Vật duy nhất đáng chú ý là chiếc gương đứng soi được cả người đặt trên tường,món wà Miu tặng nhân dịp chuyển nhà.Tiếng wạ kêu từ phía công viên văng vẳng trong ngọn gió nhẹ buổi chiều ta,Sumire ngồi xuống cạnh tôi.”Cậu biết không?”-cô hỏi
“Chuyện j?”
“Nếu tớ là kẻ đồng tính vô tích sự thì cậu vẫn là bạn tớ chứ?”
“Dù cậu có phải là kẻ đồng tính vô tích sự hay không thì cũng chẳng có vấn đề j hết.Hãy thử hình dung Những ca khúc thành công nhất của Bobby Darin mà lại thiết mất ‘Mack the Knife’ xem.Nếu không có cậu thì cuộc đời tớ cũng thế thôi.”
Sumire nheo mặt nhìn tôi.”Tớ không chắc mình hiểu phép ẩn dụ của cậu,nhưng có phải cậu muốn nói cậu sẽ thật sự cảm thấy cô đơn?”
“Đầu đuôi câu chuyện đúng là như thế đấy,”-tôi nói.
Sumire ngã đầu vào vai tôi.Tóc cô được kẹp ra phía sau bằng chiếc cặp nhỏ,và tôi có thể nhìn thấy đôi tai nhỏ nhắn xinh xắn của cô.Đôi tai đẹp đến nổi bạn có thể cho rằng chúng đã được sang tại ra.Đôi tai mềm mại,dễ bị tổn thương.Tôi có thể cảm thấy hơi thở cô phả trên da mình.Cô mặc wần soóc màu hồng và chiếc sơ mi xanh nước biển giản dị bạc màu.Hình dáng hai núm vú nhỏ hiện lên sau lớp vải.Mùi mồ hôi phảng phất.Mồ hôi của cô và của tôi,hai thứ mùi nhẹ nhàng trộn lẫn
Tôi muốn ôm ghì lấy cô.Tôi đột ngột cảm thấy ham muốn mãnh liệt được đẩy cô xuống sàn nhà ngai tại chỗ.Nhưng tôi biết làm thế cũng vô ích.Đột nhiên tôi thấy khó thở,mắt mờ đi.Thời gian không còn lối thóat,way vòng tại chỗ.Ham muốn phồng lên trong wần ,cứng như đá.Tôi bối rối,hỏang loạn.Tôi cố gắng khiềm chế.Tôi hít căng ngưc luồng khí mát mẻ,nhắm mắt,và bắt đầu chậm rãi đếm từng con số trong bong tôi hí hiểm.Ham muốn trong tôi trào sôi đến mức nước mắt ứa ra
“Tớ cũng thích cậu”-Sumire nói.”thich hơn bất kỳ ai khác trên thế gian rộng lớn này”
Ý cậu là sau Miu-tôi nói
Miu thì hơi khác một chút
Như thế nào?
“Cảm xúc của tới đối với chị ấy khác bới những j tớ cảm thấy về cậu.Ý tớ là…hừm.Nói thế nào nhỉ?”
Nhưng người thích kẻ khác giới bọn tớ có một thuật ngữ dành cho nó-tôi nói.Bọn tớ sẽ nói cậu đang ở trạng thái hứng tình
Sumire bật cười.”Ngoài ý muốn trở thành nhà tiểu thuyết,tớ chưa bao giờ muốn bất kỳ cái j nhiều đến thế.Tơ luôn bằng lòng với những j mình có.Nhưng bây giờ,ngay lúc này,tớ muốn Miu.Rất,rất nhiều.Tớ muốn có chị ấy.Biến chị ấy thành của tớ.Tớ phải làm thế.Không có lựa chọn nào khác.Không hề.Tớ không hiểu vì sao mọi việc lại ra như thế.Điều đó…có nghĩa j ko?”
Tôi gật đầu.Dương vật tôi vẫn cứng ngắc,và tôi cầu mong Sumire không để ý
“Groucho Max có một lời thoại tuyệt vời.”-tôi nói.”Co ta yêu tôi đến mức không biết j hết .Vì thế cô ta yêu tôi”
Sumire phá lên cười
“Tơ hy vọng mọi chuyện sẽ kết thúc”-tôi nói.”Nhưng cậu phải hết sức cẩn thận.cậu vẫn dễ bị tổn thương lắm.Hãy nhớ điều đó”
KHông nói một lời,Sumire cầm tay tôi siết nhẹ.Bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của cô hơi lấp lóang mồ hôi.Tôi hình dung tay cô đang vuốt ve dương vật cứng như đá của mình.Tôi cố dập tắt ý nghĩ đó nhưng ko thể.Như Sumire nói,không có lựa chọn nào khác.Tôi hình dung mình đang cởi chiếc áo phông,wần sóoc rồi wần lót của cô.Cảm thấy núm vú căng cứng của cô dươi lưỡi mình.Đang giang rộng chân cô ra,đi vào chốn ẩm ướt ấy.Chậm rãi,đi vào bong tối sâu kín bên trong.Nó dụ dỗ tôi vào trong,bao bọc tôi,rồi đẩy tôi ra…Ảo ảnh này túm lấy tôi,không buông tha.Tôi lại nhắm nghiền mắt.để mặc khối thời gian đông đạc cuốn tôi đi.Mặt cúi xuống.tôi kiên nhẫn chờ cho làn khí nóng thổi trên đầu tôi và biến mất
“Bọn mình đi ăn tối nhé?”-Sumire hỏi.nhưng cuối ngày hôm đó tôi phải mang xe về Hino trả cho người bạn.Tuy nhiên,hôn bất cứ điều j khác,tôi phải được ở một mình với ham muốn mãnh liệt của minh.Tôi không mốn Sumire dính líu sâu hơn nữa,Nếu cô ấy ở bên cạnh thì tôi không biết liệu tôi có thể chế ngự mình được đến mức nào.Bị dồn vào thế không có d0ường lùi thì tôi hòan tòan có thể đánh mất mình.
“Thôi được,vậy tớ sẽ mời cậu một bữa ngon lành vào ngày nào đó gần đây.Có khăn trải bàn,rượu vang..Đồ trang trí.Có thể là tuần tới,”Sumire hứa khi chúng tôi chia tay nhau.”Nhớ dành cho tớ một ngày rảnh vào tuần tới nhé”.
Đồng ý-tôi nói.
Tôi liếc tấm gương có thể soi được cả người khi đ ngang wa nó và thấy khuôn mặt mình.Nét mặt kỳ lạ.Đó là khuôn mặt của tôi,đúng vậy,nhưng cái nét mặt đó từ đâu ra vậy?Tôi không muốn lùi laị để săm soi kỹ hơn.
Sumire đứng ở lối vào của nơi ở mới nhìn tôi đi kỏi.Cô vẫy tay tạm biệt,một cử chỉ hiếm khi cô làm
Rốt cuộc như bao nhiêu lời hứa hẹn tôt đẹp trong đời chíng ta,cuộc hẹn ăn tối ấy không bao giờ được thực hiện.Đầu tháng 8 tôi nhận được một bức thư dàu của cô.
Hết chương 5
thay đổi nội dung bởi: sarujun, 02-09-2012 lúc 11:45 AM
tôi đi tìm mãi truyện này, cuối cùng thì đã tìm thấy ở 4r này, gần mà cứ nghĩ ở xa
cảm ơn bạn
hay quá.... thanks bạn nhá.....
tớ thấy sao các cậu kô up bản doc lên mạng để mọi ng down về, dễ theo dõi hơn?
Chiếc phong bì dán một con tem Ý to sặc sỡ và đóng dấu bưu điệm Rome, tuy nhiên tôi không biết nó được gửi đi khi nào.
Ngày bức thư đến, tôi đã đi Shinjuku, lần đầu tiên sau một thời gian khá lâu, mua một ít sách mới ở hiệu sách
Kinokuiya và vào rạp xem bộ phim của Luc Besson. Sau đấy tôi ghé vào quán bia, thưởng thức món pizza cá trồng và một cốc bia đen. Ngay trước giờ cao điểm, tôi bắt chuyến tàu điện Chuo Line và đọc quyển sách mới mua cho tới lúc về đến nhà ở Kunitachi. Tôi dự định ăn tối qua loa rồi bật ti vi xem bóng đá. Cách sử dụng thời gian lý tưởng cho một ngày hè nghỉ ngơi. Nóng, một mình và tự do, không làm phiền ai cũng như không bị ai làm phiền.
Khi tôi về tới nhà thì đã thấy bức thư trên tấm thảm chùi chân. Trên phong bì không đề tên người gửi, nhưng nhìn nét chữ tôi đã biết đó là thư của Sumire. Chữ tượng hình, chắc nịch, cứng cáp, dứt khoát. Chữ viết gợi tôi nhớ đến những con bọ cánh cứng được tìm thấy trong các kim tự tháp Ai Cập. Giống như chúng sẽ bắt đầu bò ra nhung nhúc rồi lại biến mất vào trong bóng tối lịch sử.
Rome?
Tôi bỏ thức ăn mua ở siêu thị vào tủ lạnh rồi tự rót nước đá vào chiếc cốc cao thành cho mình. Tôi ngồi xuống chiếc ghế trong bếp, lấy con dao xén rọc phong bì và đọc thư. Năm trang giấy viết thư của khách sạn Rome Excelrior chi chít những nét chữ nhỏ li ti bằng mực xanh. Chắc hẳn phải mất rất nhiều thời gian mới viết được dài như thế. Ở góc trang giấy cuối cùng có vết bẩn, có lẽ là vết cà phê.
Cậu dạo này thế nào?
Tớ có thể tưởng tượng được cậu sẽ phải kinh ngạc đến thế nào khi bất ngờ nhận được bức thư tớ gửi từ Rome. Tuy nhiên, cậu là người điềm tĩnh nên có lẽ chỉ riêng Rome thì vẫn chưa đủ khiến cậu ngạc nhiên. Rome quá nhiều khách du lịch. Phải là một nơi nào đó như Greenland, Timbuktu, hay eo biển Magellan, đúng không? Mặc dù tớ có thể nói với cậu là chính tớ cũng thấy khó tin nổi mình đang ở tại xứ Rome này.
Dẫu sao, tớ cũng xin lỗi vì đã không mời cậu ăn tối như đã hẹn. Chuyến đi châu Âu này quá bất ngờ, ngay sau khi tớ chuyển nhà. Rồi thì hoàn toàn phát điên lên trong mấy ngày ít ỏi - chạy xin hộ chiếu, mua vali, hoàn thành những việc mình đã bắt tay vào làm. Trí nhớ tớ không tốt lắm - tớ khỏi cần nói thì cậu cũng biết, đúng không - nhưng tớ sẽ cố gắng hết sức để giữ lời hứa của mình. Tức là, những lời hứa mà tớ nhớ. Chính vì vậy tớ muốn xin lỗi vì đã không thực hiện được cái hẹn ăn tối của chúng mình.
Tớ thật sự thích nơi ở mới của mình. Chuyển nhà chắc chắn là việc rất vất vả (tớ biết cậu đã cáng đáng phần lớn công việc, tớ rất cảm kích về điều đó; hơn nữa, là phần việc nặng nhọc), nhưng một khi đã chuyển xong xuôi thì nó là một nơi rất đẹp. Tại nơi ở mới của tớ không có tiềng gà gáy như ở Kichijoji, thay vào đó lũ quạ kêu ầm ĩ chẳng khác gì những bà già lắm điều. Sáng sớm chúng tụ lại hàng đàn trong công viên Yoyogi, kêu om sòm đến mức cậu sẽ tưởng như sắp đến ngày tận thế vậy. Chẳng cần đến đồng hồ báo thức, vì hôm nào tớ cũng bị tiếng huyên náo om sòm dựng dậy. Nhờ vậy mà bây giờ tớ cũng giống cậu, sống theo kiểu nông dân ngủ sớm dậy sớm. Tớ bắt đầu hiểu ra cảm giác của người bị gọi dậy vào lúc ba rưỡi sáng. Bắt đầu hiểu, cậu nhớ nhé.
Tớ viết thư này tại quán cà phê ngoài trời ở một ngõ nhỏ của Rome khi đang nhấp từng ngụm espresso đặc sệt như mồ hôi quỷ, và tớ có cảm giác kỳ lạ rằng mình không còn là chính mình nữa.Thật khó diễn tả bằng lời, nhưng tớ cho rằng nó cũng giống như tớ thiếp đi rất nhanh rồi ai đó đến, tháo rời tớ ra từng mảnh, rồi lại vội vã ghép lại như cũ. Một cảm giác kiểu như thế đấy. Cậu hiểu tớ nói gì chứ?
Mắt tớ nói rằng tớ vẫn chính là con người cũ đó, nhưng có cái gì đó khác bình thường. Không phải là tớ có thể nhớ một cách rõ ràng "bình thường" là thế nào. Ngay khi bước ra khỏi máy bay tớ đã không thể rũ bỏ được cái ảo ảnh rất thực mang tính giải phá này. Ảo ảnh? Tớ nghĩ chính là cái từ đó...
Ngồi tại đây, tự hỏi, "Trong tất cả mọi nơi trên thế giới, sao mình lại ở Rome?" và tất cả mọi vật xung quanh tớ bắt đầu trở nên không thực. Tất nhiên nếu lần theo chi tiết việc tớ đã đến đây như thế nào thì tớ có thể tìm được một lời giải thích, nhưng tớ vẫn bị mắc ở một điểm. Cái tớ đang ngồi ở đây và cái hình ảnh về mình mà tớ có không đồng bộ. Nói cách khác, tớ không đặc biệt cần phải ở đây, nhưng chẳng hiểu sao tớ lại ở đây. Tớ biết mình nói năng mù mờ nhưng cậu hiểu tớ, đúng không?
Có một điều tớ có thể chắc chắn: tớ muốn cậu ở đây với tớ. Thậm chí dù đã có Miu bên cạnh tớ vẫn thấy cô đơn khi xa cậu. Nếu chúng ta càng xa nhau thì tớ biết tớ sẽ càng cảm thấy cô đơn hơn. Tớ muốn nghĩ rằng cậu cũng có cùng cảm giác đó.
Vậy là dù sao đi nữa, Miu và tớ đang ở đây, rong chơi khắp châu Âu. Chị ấy phải lo một số việc kinh doanh và thoạt đầu chỉ tính một mình sang Ý và Pháp trong hai tuần, nhưng rồi lại yêu cầu tớ đi cùng với tư cách thư ký riêng. Chị ấy nói điều đó vào một buổi sáng, khiến tớ hết sức kinh ngạc. Có thể tớ được gọi là "thư ký riêng", nhưng tớ không nghĩ mình giúp được gì nhiều cho chị ấy, mặc dù vậy, đối với tớ có thêm kinh nghiệm thì cũng tổt; và Miu bảo chuyến đi này là quà chị ấy tặng tớ vì đã bỏ thuốc. Thế là tất cả những tháng vật vã, khổ sở mà tớ phải chịu đựng cuối cùng cũng đã được đền đáp.
Đầu tiên bọn tớ hạ cánh ở Milan, đi thăm thú thành phố, sau đó thuê chiếc Alfa Romeo màu xanh theo xa lộ tiến thẳng về hướng Nam. Hai chị em tới mấy vườn nho ở Tuscany và sau khi công việc xong xuôi thì nghỉ lại vài đêm tại một khách sạn nhỏ xinh đẹp, rồi đến Rome. Các cuộc giao dịch nếu không sử dụng tiếng Anh thì cũng là tiếng Pháp nên tớ gần như ngồi không, mặc dù tiếng Ý của tớ rất hữu dụng trong những vấn đề thường nhật khi hai chị em đi chơi. Nếu bọn tớ sang Tây Ba Nha (đáng tiếc là điều đó đã không xảy ra trong chuyến đi này) thì tớ có lẽ sẽ có ích hơn cho Miu.
Chiếc Alfa Romeo bọn tớ thuê là loại lái bằng tay nên tớ không giúp được gì cả. Miu lái suốt. Chị ấy có thể lái hàng giờ mà dường như chẳng phải bận tâm. Tuscany là vùng toàn đồi núi, đường vòng, và thật vô cùng ngạc nhiên khi thấy chị tăng giảm số một cách êm ru; nhìn chị ấy lái tớ thấy (tớ không đùa đâu) rùng hết cả mình. Đang cách xa Nhật Bản, được ngồi bên chị ấy, với tớ thế là đã đủ thỏa mãn rồi. Giá như bọn tớ có thể mãi mãi như thế này.
Lần sau tớ sẽ viết về tất cả các món ăn và rượu hảo hạng bọn tớ đã được thưởng thức ở Ý; bây giờ mà kể thì mất nhiều thời gian quá. Ở Milan bọn tớ la cà hết cửa hàng này đến cửa hàng khác. Quần áo, giầy dép, đồ lót. Ngoài mấy bộ pyjama (tớ đã quên mang theo đồ ngủ) tớ không mua gì hết. Tớ không có nhiều tiền, hơn nữa có quá nhiều hàng đẹp khiến tớ không biết bắt đầu từ đâu nữa. Đó chính là hoàn cảnh khiến óc xét đoán của tớ nổ tung vì quá tải. Chỉ cần ở bên cạnh Miu khi chị mua sắm cũng đã đủ rồi. Chị ấy đúng là bậc thầy mua sắm, chỉ chọn những thứ thượng hạng và chỉ mua vài món chọn lọc. Giống như chỉ ăn miếng ngon nhất trên đĩa thức ăn. Rất khôn ngoan và tinh tế. Khi nhìn chị ấy chọn mấy chiếc tất lụa và đồ lót đắt tiền tớ thấy gần như không thở nổi. Mồ hôi ứa ra trên trán. Nghĩ đến thì chuyện đó cũng khá kỳ lạ. Dù sao tớ cũng là con gái. Tớ cho rằng viết chuyện mua sắm thế đủ rồi, viết hết thì thư quá dài mất.
Tại khách sạn bọn tớ mỗi người một phòng. Về vấn đề này thì Miu có vẻ rất dứt khoát. Chỉ có một lần, ở Florence, do trục trặc trong khâu đặt chỗ, nên hai chị em phải ở chung phòng. Trong phòng có một chiếc giường đôi, nhưng chỉ riêng việc được ngủ chung phòng với chị ấy đã khiến tim tớ đập rộn lên. Tớ liếc nhìn khi chị ấy từ phòng tắm bước ra, khăn quấn quanh người, liếc nhìn khi chị ấy thay quần áo. Cố nhiên tớ giả vờ không nhìn mà đang đọc sách nhưng tớ vẫn hé mắt nhìn trộm. Miu có một thân hình thực sự tuyệt mỹ. Chị ấy không khỏa thân hoàn toàn mà mặc bộ đồ lót nhỏ tí xíu; nhưng thân hình chị ấy cũng đã đủ khiến tở nghẹt thở. Mông thon, mẩy, một phụ nữ vô cùng hấp dẫn. Tớ ước gì cậu được thấy cảnh này, mặc dù nói thế cũng hơi kỳ quặc.
Tó hình dung mình được ôm thân hình thon thả, mềm mại ấy. Đủ loại hình ảnh khiêu dâm của bọn tớ ùa đến trong đầu khi tớ nằm trên giường cùng phòng với chị ấy, và tớ cảm thấy những ý nghĩ này đã đẩy tớ đến một nơi nào đó khác. Tớ nghĩ mình hơi quá kích động - đêm ấy tớ có kinh, sớm hơn thường lệ. Nó mới đau đớn làm sao chứ. Hừm. Tớ biết kể lại chuyện này với cậu cũng chẳng đưa tớ tới đâu. Nhưng dù sao đi nữa tớ vẫn sẽ tiến lên phía trước - chỉ để viết ra giấy những sự kiện đó.
Đêm qua bọn tớ nghe hòa nhạc ở Rome. Tớ không trông chờ nhiều lắm, đang mùa vắng khách, nhưng hai chị em đã được thưởng thức một buổi trình diễn không thể tin được. Martha Argerich chơi bản Concerto số 1 dành cho piano của Liszt. Tớ thích mê bản ấy. Nhạc trưởng là Giussepe Sinopoli. Một buổi trình diễn tuyệt vời! Không thể nào cảm thấy chán khi nghe loại nhạc đó - nó là thứ âm nhạc lạ thường và dạt dào tình cảm nhất tớ từng nghe. Nghĩ lại thì có lẽ nó quá hoàn hảo so với sở thích của tớ. Liszt cần một chút láu cá, tinh quái hơn, giống như âm nhạc trong buổi hội làng. Bỏ những chỗ phức tạp đi, để tớ cảm thấy rùng mình, đó là cái tớ thích. Miu cũng đồng ý với tớ điểm này. Có liên hoan nhạc Vivaldi ở Venice và bọn tớ bàn chuyện tới đó. Miu và tớ có thể trò chuyện không dứt về âm nhạc, ý như tớ và cậu nói chuyện về văn học vậy. Thư tớ khá dài rồi phải không? Lần nào cũng vậy, hễ cầm bút lên là tớ không sao dừng lại giữa chừng được. Tớ bao giờ cũng như vậy cả. Người ta hay nói con gái có giáo dục thì đừng có ở chơi lâu đến nỗi chẳng ai muốn tiếp nữa, nhưng khi đã bắt đầu viết (có lẽ không chỉ khi viết?) thì lối cư xử của tớ đúng là không cứu chữa nổi. Thỉnh thoảng gã hầu bàn áo vét trắng lại ngó về phía tớ với vẻ mặt khó chịu. Nhưng tay tớ đã mỏi rồi, tớ thừa nhận. Vả lại, giấy cũng sắp hết.
Miu đang đi thăm một người bạn cũ ở Rome, còn tớ lang thang quanh mấy con phố gần khách sạn rồi quyết định rẽ vào quán cà phê này ngồi nghỉ và viết thư cho cậu. Cứ như là tớ đang ở đảo hoang và gửi một tin nhắn trong chai vậy. Điều kỳ lạ là, khi không có Miu tớ chẳng muốn đi đâu cả. Tớ vượt qua bằng ấy đoạn đường để tới Rome (và có lẽ sẽ không quay lại lần nào nữa) nhưng tớ không tài nào lôi được mình dậy để đi thăm những đống đổ nát - người ta gọi chúng là gì ấy nhỉ? - hay các đài phun nước nổi tiếng đó. Hay thậm chí đi mua sắm. Chỉ cần ngồi đây trong quán cà phê, ngửi mùi thành phố như một con chó, lắng nghe giọng nói và cả âm thanh, quan sát khuôn mặt khách qua đường.
Đột nhiên, khi viết lá thư này cho cậu, tớ có cảm giác những gì tớ miêu tả ở đầu thư - cảm giác bị tháo rời kỳ lạ - bắt đầu mờ nhạt. Giờ đây nó không còn làm tớ lo lắng nhiều như thế nữa. Giống như cảm giác của tớ khi nửa đêm gọi điện cho cậu và vừa kết thúc cuộc nói chuyện, bước ra khỏi bốt điện thoại. Phải chăng cậu đã có được kiểu tác động như thế đối với tớ?
Cậu nghĩ sao? Dù sao đi nữa, xin cậu hãy cầu chúc cho tớ được may mắn và hạnh phúc. Tớ cần lời cầu chúc của cậu.
Tạm biệt.
Tái bút. Có lẽ tớ sẽ về nhà ngày 15 tháng Tám. Rồi chúng ta có thể cùng ăn tối - tớ hứa đấy! - trước khi hết hè.
Năm ngày sau bức thư thứ hai đến, mang dấu bưu điện của một ngôi làng ở Pháp nào đó chẳng mấy tiếng tăm. Thư này ngắn hơn thư trước. Miu và Sumire bỏ chiếc xe thuê lại Rome và bắt tàu tới Venice. Phần lớn các buổi hòa nhạc được tổ chức ở nhà thờ nơi Vivaldi làm linh mục. "Nếu sáu tháng nữa không nghe Vivaldi thì với tớ vẫn ổn," Sumire viết. Cô miêu tả sự ngon lành của những món hải sản cuộn nướng ở Venice một cách sinh động đến mức tôi những muốn lao ngay đến đó và tự mình nếm thử.
Sau Venice họ quay về Milan rồi bay sang Paris. Họ dừng chân tại đấy, mua sắm chút ít, sau đó đáp tàu đi Burgundy. Hai chị em nghỉ lại ở ngôi nhà đồ sộ, thật ra là một trang viên, của người bạn thân của Miu. Cũng như ở Ý, Miu thường đến thăm mấy vườn nho nhỏ bàn chuyện làm ăn. Những trưa rảnh rỗi hai chị em mang theo bữa ăn trưa ngoài trời và dạo bước trong khu rừng gần đó. Cố nhiên là trong túi luôn có thêm hai chai vang. "Vang ở đây ngon nhất thế giới," Sumire viết.
Tuy nhiên, bằng cách này hay cách khác thì có vẻ như kế hoạch quay về Nhật vào ngày 15 tháng Tám như dự định ban đầu của bọn tớ sẽ thay đổi. Sau khi xong việc ở Pháp hai chị em có thể đi nghỉ ít ngày ở một hòn đảo Hy Lạp. Quý ông người Anh bọn tớ tình cờ gặp ở đây - xin cậu nhớ cho là quý ông thực sự đấy nhé - có một biệt thự trên đảo và đã mời hai chị em về đấy bao lâu cũng được. Thật là tin vui! Miu cũng thích ý tưởng ấy. Bọn tớ cần phải được gác công việc sang một bên, thỉnh thoảng xả hơi, thư giãn. Hai chị em nằm dài trên bãi biển Aegean cát trắng lóa, hai bầu vú xinh đẹp phơi dưới ánh mặt trời, nhấp từng ngụm vang mùi nhựa thông, ngắm mây trôi. Nghe có tuyệt không?
Chắc chắn là tuyệt rồi, tôi nghĩ.
Chiều hôm đó tôi đến bể bơi công cộng bơi một lúc, trên đường về nhà ghé vào một tiệm cà phê tử tế có máy lạnh ngồi đọc sách khoảng một giờ. Về tới nhà, trong lúc là ủi ba chiếc sơ mi, tôi đã nghe hết cả hai mặt đĩa hát "Mười năm sau". Là áo xong, tôi uống một ít bia giá rẻ mua ở cửa hàng hạ giá pha với nước khoáng Perrier và theo dõi trận bóng đã được tôi ghi hình lại. Cứ mỗi khi thấy một cú chuyền bóng tôi lại nghĩ mình sẽ không làm được như vậy, tôi lắc đầu thở dài. Chê bai khuyết điểm của người lạ là việc dễ thực hiện - và khá dễ chịu.
Xem xong trận bóng tôi thả người vào ghế, nhìn chăm chăm lên trần nhà và tưởng tượng hình ảnh Sumire trong ngôi làng Pháp đó. Bây giờ thì cô đã ở trên hòn đảo Hy Lạp rồi. Nằn trên bãi biển, ngắm mây trôi. Dù ở đâu thì cô cũng rất xa tôi. Rome, Hy Lạp, Timbuktu, Aruanda - ở đâu cũng vậy thôi, đâu cũng là xa cả. Cô đang ở rất xa. Nói tóm lại thì có vẻ như trong tương lai, Sumire càng lúc càng cách xa hơn. Điều đó khiến tôi buồn. Tôi thấy mình như một con côn trùng vô tích sự nào đó chẳng có lí do gì đặc biệt mà cứ bám lấy bức tường đá cao trong đêm lộng gió, không dự định, không niềm tin. Sumire nói cô nhớ tôi. Nhưng cô có Miu bên cạnh. Tất cả những gì tôi có là - tôi. Lúc nào cũng vậy.
Sumire không quay về vào ngày 15 tháng Tám. Điện thoại của cô vẫn chỉ có một câu ghi âm cụt ngủn Tôi đang đi vắng. Một trong những món đồ đầu tiên cô sắm sau khi chuyển nhà là chiếc điện thoại có máy trả lời tự động, vì vậy cô khỏi phải giữa đêm cầm ô đi ra bốt điện thoại. Một ý tưởng tuyệt hảo. Tôi không để lại lời nhắn.
Ngày 18 tôi lại gọi cho cô nhưng nhận được cùng câu ghi âm đó. Sau tiếng bíp vô hồn tôi để lại tên và lời nhắn đơn giản khi nào cô về thì hãy gọi cho tôi. Chắc hẳn cô và Miu thấy thích thú với hòn đảo Hy Lạp của họ quá đến mức chẳng muốn rời khỏi đó.
Trong khoảng thời gian giữa hai cuộc gọi, tôi chỉ đạo một buổi bóng đá ở trường và ngủ một lần với người bạn gái của mình. Chị có làn da rám nắng, vừa cùng chồng và hai con đi nghỉ ở Bali về. Khi ôm chị tôi lại nghĩ đến Sumire ở hòn đảo Hy Lạp. Ở trong chị, tôi vẫn không thể không nhớ đến cơ thể Sumire.
Nếu không biết Sumire thì có lẽ tôi đã dễ dàng yêu người phụ nữ lớn hơn tôi bảy tuổi này (và con chị là học trò của tôi). Chị xinh đẹp, mạnh mẽ, phúc hậu. Chị trang điểm hơi quá so với ý thích của tôi, nhưng ăn mặc đẹp. Chị lo sẽ bị tăng cân, nhưng lẽ ra không cần phải bận tâm thế. Tôi chắc chắn không có gì phàn nàn về thân hình gợi cảm của chị. Chị biết mọi ham muốn của tôi, tất cả những gì tôi muốn và không muốn. Chị biết nên tiến xa đến mức nào và khi nào thì nên dừng lại, cả trong và ngoài giường. Khiến tôi cảm thấy mình như được bay ở khoang hạng nhất.
"Gần một năm nay tôi không ngủ với chồng," chị thổ lộ khi nằm trong vòng tay tôi. "Cậu là người duy nhất đấy."
Nhưng tôi không thể yêu chị được. Bất kể vì lý do gì, mối quan hệ của tôi và chị không có được sự gần gũi tự nhiên, vô điều kiện như giữa tôi và Sumire. Có một bức màn mỏng manh, trong suốt luôn ngăn giữa hai chúng tôi. Dù nhìn thấy hay không thì vẫn có một hàng rào. Lần nào gặp nhau, chúng tôi cũng vấp phải sự im lặng khó xử - nhất là khi chia tay. Điều này không bao giờ xảy ra với tôi và Sumire. Ở bên người phụ nữ này tôi càng thấy rõ một điều không thể phủ nhận: tôi cần Sumire hơn bao giờ hết.
Sau khi người phụ nữ ra về, tôi đi dạo một mình, lang thang vô định một lúc, rồi ghé vào quán rượu cạnh bến xe và gọi một cốc Canadian Club rẻ tiền. Bao giờ cũng vậy, vào những lúc như thế này, tôi luôn cảm thấy mình là con người khốn khổ nhất đời. Tôi nhanh chóng uống cạn cốc đầu tiên và gọi cốc nữa, nhắm mắt nghĩ về Sumire. Sumire, áo hở ngực, đang tắm nắng trên bãi cát trắng của hòn đảo Hy Lạp. Bàn bên cạnh tôi, bốn cô cậu sinh viên đang uống bia, cười đùa vui vẻ. Một bài hát cũ của Huey Lewis và nhóm New đang được trình diễn. Tôi có thể ngửi thấy mùi bánh pizza nướng.
Thời trẻ của mình đã trôi qua khi nào vậy? Tôi chợt nghĩ. Nó đã qua thực ư? Dường như chỉ mới hôm qua thôi tôi vẫn còn là đứa trẻ mới lớn. Hồi ấy Huey Lewis và nhóm New có mấy bài hát được xếp hạng cao. Chỉ mới mấy năm thôi. Và giờ khi tôi ngồi đây, trong một cái vòng khép kín, quay bánh xe của mình. Biết mình sẽ chẳng đi tới đâu, nhưng vẫn quay như vậy. Tôi phải làm thế. Phải duy trì việc đó nếu không tôi sẽ không thể nào sống sót.
Đêm ấy tôi nhận được một cuộc điện thoại từ Hy Lạp. Lúc hai giờ sáng.
Nhưng đó không phải Sumire. Đó là Miu.
--- hết chương 6 ---
thay đổi nội dung bởi: sarujun, 02-09-2012 lúc 03:44 AM
Điều đầu tiên tôi nghe thấy là giọng đàn ông trầm trầm nói tiếng Anh rất nặng, kêu tên tôi oang oang, rồi hét lên, "Tôi gặp đúng người chứ?" Tôi đang ngủ say sưa. Đầu óc tôi trống rỗng, như cánh đồng lúa trong mưa dông, và tôi không thể nghĩ được sẽ xảy ra chuyện gì. Tấm khăn trải giường vẫn phảng phất ký ức cuộc ân ái ban chiều, và hiện thực thì rối tung lên như chiếc áo len cài nhầm khuy. Người đàn ông nhắc lại tên tôi. "Tôi gặp đúng người chứ?"
"Ông gặp đúng người rồi," tôi đáp. Dường như nó không giống tên tôi, nhưng chuyện gì đến thì đã đến rồi. Có tiếng lạo xạo một lúc như có hai luồng không khí khác nhau va đập mạnh. Tôi nghĩ chắc Sumire gọi cuộc điện thoại quốc tế từ Hy Lạp. Tôi để ống nghe ra xa tai một chút, đợi giọng nói của cô vang lên tiếp tục câu chuyện. Nhưng giọng nói tôi nghe sau đó lại không phải của Sumire mà là của Miu.
"Tôi chắc anh đã nghe Sumire nói về tôi?"
"Vâng, tôi có nghe," tôi đáp.
Giọng chị trên điện thoại méo đi vì khoảng cách xa xôi, vì tác động của chất vô cơ, nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự căng thẳng ẩn chứa trong đó. Một cái gì đó cứng và rắn chắc như đám mây băng qua đường dây điện thoại tràn vào phòng khiến tôi tỉnh ngủ hẳn. Tôi ngồi bật dậy trên giường, vươn thẳng người, cầm chặt ống nghe.
"Tôi phải nói nhanh," Miu nói không ra hơi. "Tôi đang gọi từ một hòn đảo Hy Lạp, và gần như không thể liên lạc được với Tokyo, có khi đang nói cũng bị ngắt giữa chừng. Tôi thử nhiều lần rồi, và cuối cùng thì cũng kết nối được. Vì vậy anh cho phép tôi bỏ qua phép xã giao để vào việc ngay chứ?"
"Chị cứ nói," tôi đáp.
"Anh có thể đến đây được không?"
"Đến đây, chị muốn nói là Hy Lạp?"
"Vâng. Càng sớm càng tốt."
Tôi buột miệng thốt ra ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu. "Có chuyện gì xảy ra với Sumire à?"
Miu dừng lại lấy hơi. "Tôi vẫn chưa biết. Nhưng tôi nghĩ cô ấy muốn anh đến đây. Tôi chắc chắn thế."
"Chị nghĩ cô ấy muốn thế?"
"Tôi không thể nói chuyện này qua điện thoại được. Sẽ chẳng có hiệu quả gì khi chúng ta bị cắt giữa chừng, vả lại đây là vấn đề tế nhị, và tôi muốn nói chuyện trực tiếp với anh hơn. Tôi sẽ thanh toán vé khứ hồi cho anh. Chỉ cần anh đến. Càng sớm càng tốt. Hãy mua vé đi. Hạng nhất ấy, anh thích như thế nào cũng được."
Mười ngày nữa năm học mới sẽ bắt đầu. Tôi phải quay về trước khi khai giảng, nhưng nếu tôi muốn thì một chuyến dạo chơi Hy Lạp cũng không phải điều không thể. Theo kế hoạch thì trong kỳ nghỉ tôi phải đến trường hai lần để hoàn thành một số việc nhưng tôi có thể nhờ người khác làm hộ.
"Chắc là tôi có thể đi được," tôi nói. "Đúng vậy, tôi nghĩ mình có thể đi được. Nhưng chính xác thì tôi phải đến đâu?"
Miu nói tên hòn đảo. Tôi ghi những điều Miu nói vào bìa trong một cuốn sách để cạnh giường. Tên hòn đảo nghe quen quen.
"Anh bay từ Athens đến Rhodes rồi đi phà. Mỗi ngày có hai chuyến phà ra đảo, một vào buổi sáng và một vào buổi chiều. Tôi sẽ đến cảng đón anh bất cứ khi nào phà tới. Anh đến chứ?"
"Tôi nghĩ là mình sẽ thu xếp được. Chỉ có điều..." Tôi chưa kịp nói hết câu thì đường dây đã bị cắt. Đột ngột, thô bạo, như có người cầm rìu chặt vào dây thừng vậy. Và lại là tiếng lạo xạo khó chịu đó. Hy vọng liên lạc được nối lại, tôi ngồi yên một lúc, ống nghe áp bên tai, chờ đợi, nhưng tất cả những gì tôi nghe thấy là tiếng động khó chịu ấy. Tôi gác máy và rời khỏi giường. Trong bếp, tôi uống một cốc trà lúa mạch lạnh, tựa lưng vào tủ lạnh, cố sắp xếp lại những suy nghĩ trong đầu.
Tôi có thực sự phải lên máy bay và vượt bằng đấy đoạn đường tới Hy Lạp?
Câu trả lời là phải. Tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi lôi từ giá sách xuống tập bản đồ thế giới để xác định vị trí của hòn đảo Miu nói. Nó nằm gần Rhodes, chị nói vậy, nhưng không dễ tìm ra nó giữa vô số hòn đảo rải rác trên biển Aegean. Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng phát hiện ra tên của nơi mình đang tìm kiếm được in nhỏ xíu. Một hòn đảo nhỏ nằm cạnh biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Nhỏ tới mức thật sự bạn không thể nói được hình thù của nó.
Tôi lấy hộ chiếu ra khỏi ngăn kéo và kiểm tra thấy nó vẫn còn hiệu lực. Sau đó tôi gom hết tiền mặt có trong nhà tống vào ví. Số tiền không nhiều nhưng sáng ra tôi có thể rút thêm tiền ở ngân hàng. Tôi có ít tiền tiết kiệm và khoản tiền thưởng mùa hè hoàn toàn chưa dùng đến. Khoản tiền này cộng với thẻ tín dụng là đủ cho tôi mua vé khứ hồi đến Hy Lạp. Tôi nhét mấy bộ quần áo vào một cái túi thể thao bằng nhựa kèm theo bộ đồ vệ sinh. Thêm hai cuốn tiểu thuyết của Joseph Conrad tôi định đọc lại. Tôi phân vân không biết có nên mang theo đồ bơi không, nhưng cuối cùng cũng mang đi. Có lẽ khi tôi đến đó thì mọi vấn đề dù là gì đi nữa cũng đều được giải quyết, mọi người đều vui vẻ, khỏe mạnh, mặt trời lơ lửng yên bình trên bầu trời, và tôi có thể bơi lội thỏa thích một, hai lần trước khi phải quay về - dĩ nhiên đó sẽ là kết quả tốt đẹp nhất đối với tất cả những ai có liên quan.
Thu xếp đồ đạc xong xuôi, tôi tắt đèn, ngả đầu xuống gối, cố gắng ngủ lại. Mới hơn ba giờ, tôi vẫn có thể chợp mắt một chút trước khi trời sáng. Nhưng tôi không thể ngủ được. Tiếng lạo xạo khó chịu đó vẫn đều đều gõ trong huyết mạch tôi. Sâu thẳm trong đầu mình tôi có thể nghe thấy giọng người đàn ông đó, đang quát tên tôi. Tôi bật đèn, lại rời khỏi giường, vào bếp pha một cốc trà đá uống. Rồi tôi xem xét toàn bộ cuộc nói chuyện với Miu, từng từ một từ đầu tới cuối. Lời chị nói nghe mông lung, mơ hồ, đầy ám chỉ. Nhưng trong những gì chị nói có hai việc. Tôi ghi lại vào sổ ghi nhớ:
1. Có chuyện xảy ra với Sumire. Nhưng Miu không biết là chuyện gì.
2. Tôi phải đến đó càng sớm càng tốt. Sumire, theo Miu, cũng muốn thế.
Tôi nhìn chằm chằm vào cuốn sổ ghi nhớ. Và gạch dưới hai từ:
1. Có chuyện xảy ra với Sumire. Nhưng Miu không biết là chuyện gì.
2. Tôi phải đến đó càng sớm càng tốt. Sumire, theo Miu, cũng muốn thế.
Tôi không thể hình dung nổi có chuyện gì xảy ra với Sumire trên hòn đảo nhỏ Hy Lạp ấy. Nhưng tôi chắc chắn đó phải là chuyện xấu. Vấn đề là xấu như thế nào? Từ giờ đến sáng tôi cũng không thể làm được gì cả. Tôi ngồi trên ghế chân gác lên bàn, đọc sách và chờ ánh sáng đầu tiên xuất hiện. Nó dường như dài vô tận.
Ngay khi trời hửng sáng, tôi bắt chuyến tàu Chuo Line đến Shinjuku, nhảy lên tàu Narita Express và tới sân bay. Đến chín giờ tôi rảo qua quầy bán vé thì mới hay không có chuyến nào bay thẳng từ Narita đến Athens. Sau một hồi mò mẫm tôi mua vé hạng thương nhân của hãng KML bay đi Amsterdam. Từ đấy tôi có thể bay đến Athens. Rồi từ Athens tôi sẽ lên chuyến bay nội địa của hãng Olimpic đến Rhodes. Hãng KML lo hết vụ này. Nếu không có gì trục trặc thì hai chặng chuyển tiếp của tôi sẽ hanh thông. Đấy là cách nhanh nhất để đến đó. Tôi mua vé khống cho chuyến khứ hồi nên trong vòng ba tháng tới tôi có thể về lúc nào cũng được. Tôi trả tiền bằng thẻ tín dụng. Ông có gửi hành lý không? Họ hỏi tôi. Không, tôi đáp.
Còn thời gian trước khi cất cánh, vì vậy tôi ăn sáng tại nhà hàng sân bay. Tôi rút ít tiền mặt từ máy ATM và đổi sang séc du lịch. Tiếp đó tôi mua cuốn hướng dẫn du lịch Hy Lạp ở hiệu sách. Tên hòn đảo Miu nói với tôi không xuất hiện trong cuốn sách nhỏ này nhưng tôi cần biết thông tin về đất nước đó - tiền tệ, khí hậu, những vấn đề cơ bản. Ngoài lịch sử Hy Lạp cổ và kịch cổ điển thì tôi chẳng biết mấy về mảnh đất này. Cũng chỉ ngang bằng kiến thức của tôi về địa lý sao Mộc hay cách vận hành bên trong của hệ thống làm lạnh xe Ferrari mà thôi. Cả đời mình tôi chưa một lần tính đến khả năng tới Hy Lạp. Ít nhất là cho tới hai giờ sáng cái ngày đặc biệt đó. Ngay trước buổi trưa tôi gọi điện cho một đồng nghiệp. Tôi bảo cô là một người bà con của tôi gặp tai nạn nên tôi phải rời Tokyo khoảng một tuần, không biết cô có thể giúp tôi giải quyết công việc ở trường cho đến lúc tôi quay về không. Không sao cả, cô đáp. Chúng ta đã nhiều lần giúp đỡ nhau như vậy nên chuyện này không có gì khó khăn cả. "Vậy anh đi đâu?" Cô hỏi.
"Shikoku," tôi đáp. Tôi không thể nói rõ với cô tôi đang trên đường tới Hy Lạp.
"Rất tiếc khi nghe tin này," cô nói. "Dù sao đi nữa, hãy bảo đảm là anh sẽ quay về kịp khai giảng năm học mới. Và nếu được thì nhớ mua quà kỷ niệm cho tôi nhé?"
"Nhất định rồi," tôi đáp. Sau này tôi sẽ mua quà.
Tôi vào phòng đợi của hành khách hạng thương nhân, ngả mình lên ghế và thiếp đi chốc lát, một giấc ngủ chập chờn. Thế giới đã mất đi mọi ý nghĩa của thực tại. Màu sắc thì gượng gạo, chi tiết thì sống sượng. Phông bằng giấy bồi, các ngôi sao làm từ lá nhôm. Đâu đâu cũng thấy hồ dán và mũ đinh. Tiếng loa thông báo của sân bay ong ong trong đầu tôi. "Tất cả hành khách đi chuyến bay 275 của hãng hàng không Air France tới Paris." Trong trạng thái chập chờn ngủ không ra ngủ thức không ra thức đó tôi nghĩ về Sumire. Giống như cuốn phim tài liệu về hàng bao tháng năm quá khứ, từng cảnh một lại khơi lên trong tâm trí những nơi chốn, những khoảng thời gian chúng tôi chia sẻ cùng nhau. Trong cảnh náo nhiệt của sân bay, giữa các hành khách đi tới đi lui, cái thế giới mà tôi chia sẻ với Sumire dường như thật tồi tàn, mong manh và bấp bênh. Cả hai đứa tôi đều không biết chuyện gì thực sự quan trọng cũng như không có khả năng điều chỉnh nó. Không có gì vững chắc để chúng tôi có thể dựa vào. Chúng tôi gần như là hai con số không vô hạn, chỉ là hai sinh vật nhỏ nhoi đáng thương đi từ sự lãng quên này đến sự lãng quên khác.
Tôi thức giấc, vã mồ hôi, chiếc áo dính chặt vào ngực. Cơ thể bơ phờ, đôi chân tê cứng. Tôi cảm thấy như mình bị bầu trời u ám nuốt chửng. Chắc hẳn trông tôi có vẻ nhợt nhạt. Một nhân viên phòng đợi lo lắng hỏi tôi có sao không. "Tôi bình thường," tôi đáp, "chỉ do nóng thôi." Ông muốn uống chút gì lạnh không? Cô hỏi. Tôi đắn đo chốc lát rồi đề nghị bia. Cô mang cho tôi một chiếc khăn mặt lạnh, một lon Heineken và một gói lạc tẩm muối. Sau khi lau khuôn mặt đẫm mồ hôi và uống hết nửa lon bia, tôi cảm thấy khá hơn. Và tôi có thể thiếp đi một lúc.
Máy bay rời Narita gần như đúng giờ và theo đường cực Bắc tới Amsterdam. Muốn ngủ thêm chút nữa nên tôi uống một ít whisky, và khi thức dậy thì ăn tối nhẹ. Do không thấy ngon miệng nên tôi bỏ bữa sáng. Tôi muốn giữ đầu óc bận rộn nên khi thức tôi tập trung đọc Conrad.
Đến Amsterdam tôi chuyển máy bay đi Athens, tới phòng đợi dành cho hành khách đi chuyến bay nội địa và lên chiếc 727 bay đến Rhodes. Hành khách trên máy bay phần lớn là thanh niên sôi nổi đến từ mọi đất nước có thể hình dung ra được. Tất cả họ đều rám nắng, mặc áo phông hay áo ngắn tay và quần bò ngố. Phần đông thanh niên để râu (hoặc quên không cạo) và buộc tóc đuôi ngựa. Tôi trông có vẻ lạc lõng trong chiếc quần màu be, áo sơ mi thể thao ngắn tay và áo khoác bằng vải cotton màu xanh đậm. Thậm chí tôi còn quên mang theo kính râm. Nhưng, ai có thể trách tôi được? Mới mấy giờ trước tôi còn ngồi trong căn hộ của mình tại Kunitachi vò đầu bứt tai không biết xử lý đống rác thải thế nào.
Xuống sân bay Rhodes tôi đến bàn chỉ dẫn hỏi cách đi phà ra đảo. Phà nằm ở bến tàu bên cạnh. Nếu nhanh chân tôi có thể kịp chuyến phà chiều. "Trên phà còn chỗ không?" tôi hỏi cho chắc. Một phụ nữ mũi nhọn khó đoán tuổi ngồi ở bàn chỉ dẫn tỏ vẻ khó chịu phẩy tay. "Lúc nào họ cũng kiếm được chỗ cho một người nữa," bà ta nói. "Có phải thang máy đâu."
Tôi bắt taxi ra bến. "Tôi đang vội," tôi bảo người lái xe nhưng có vẻ anh ta không hiểu ý tôi. Xe không có máy điều hòa, và ngọn gió nóng nực bụi bặm lùa vào qua khung cửa sổ đang mở. Suốt dọc đường anh tài xế luôn miệng chỉ trích đồng Euro bằng thứ tiếng Anh trúc trắc, khó nhọc. Tôi lịch sự chêm vào mấy câu để chứng tỏ mình đang theo dõi câu chuyện nhưng thực ra không nghe gì. Thay vào đó tôi ngắm nhìn quang cảnh thành phố Rhodes lướt qua rạng rỡ bên ngoài. Bầu trời không gợn mây, không một dấu hiệu của mưa. Mặt trời nung rám các bức tường nhà bằng đá. Bụi phủ thành lớp trên các thân cây xù xì bên đường, dân chúng ngồi dưới tán cây hoặc dưới những chiếc lều ngoài trời và hầu như im lặng ngắm nhìn xung quanh. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết mình có đến đúng chỗ không. Nhưng những tấm biển sặc sỡ viết bằng chữ Hy Lạp quảng cáo thuốc lá và rượu hồi tràn ngập dọc đường từ sân bay về thành phố đã mách cho tôi - một cách khá chắc chắn - đây là Hy Lạp.
Chiếc phà chiều vẫn đậu ở bến. Nó to hơn tôi tưởng. Ở phía đuôi có chỗ dành riêng cho ô tô, và đã đậu sẵn hai chiếc xe tải hạng vừa chở thực phẩm và hàng hóa lặt vặt cùng một chiếc Peugeot cũ mui kín. Tôi mua vé lên phà, và vừa kịp ngồi xuống chiếc ghế xếp thì dây buộc phà đã được tháo ra khỏi bến và động cơ nổ ầm ĩ. Tôi thở dài nhìn trời. Bây giờ tất cả những gì tôi có thể làm là đợi chiếc phà đưa tôi tới nơi tôi đang đến.
Tôi cởi chiếc áo vải cotton bụi bặm ướt đẫm mồ hôi, cuộn lại nhét vào túi sách. Đã năm giờ chiều nhưng vầng thái dương vẫn lơ lửng giữa bầu trời, ánh nắng chói chang. Một cơn gió từ mũi phà lướt dưới cánh buồm, hiu hiu thổi trên đầu tôi, chậm rãi đến mức tôi bắt đầu thấy bình tĩnh hơn. Những cảm xúc u ám nảy sinh trong tôi khi ngồi ở phòng đợi sân bay Narita đã biến mất. Tuy nhiên vẫn còn chút dư vị cay đắng.
Trên phà chỉ có vài khách du lịch, do đó tôi đoán hòn đảo tôi đang tới không phải điểm du lịch nổi tiếng. Hành khách đa phần là dân địa phương, chủ yếu là người già sang Rhodes mua hàng bây giờ trở về nhà. Hàng hóa họ mua về được đặt cẩn thận dưới chân như những con vật yếu đuối. Mọi khuôn mặt già cả đó đều hằn sâu nếp nhăn và ngây ra bất động, như thể vầng mặt trời chói chang và cuộc sống lao động cực nhọc đã tước mất của họ mọi biểu hiện tình cảm.
Trên phà còn có mấy người lính trẻ. Và hai khách du lịch bụi, túi xách nặng cầm tay, ngồi bệt trên sàn. Cả hai đều chân gầy nhom, mặt dữ tợn.
Cũng có một cô gái Hy Lạp mặc váy dài. Cô rất đáng yêu, với đôi mắt đen sâu thẳm. Mái tóc dài tung bay trong gió khi cô trò chuyện với người bạn gái. Khóe miệng cô thoáng nét cười như có một điều diệu kỳ nào đó sắp xảy ra. Đôi khuyên tai bằng vàng lấp lánh dưới ánh nắng. Mấy chàng lính trẻ dựa vào hàng lan can trên boong, hút thuốc, vẻ bình thản, thỉnh thoảng liếc vội về phía cô gái.
Tôi nhấp ngụm soda chanh mua ở quầy hàng trên phà, ngắm nhìn mặt nước biển xanh thẳm và những hòn đảo nhỏ tí xíu nhấp nhô xung quanh. Phần lớn đó không phải đảo mà là những khối đá nổi trên biển, hoàn toàn hoang vắng. Những con chim biển trắng đậu trên mỏm đá, săm soi mặt biển tìm cá. Chúng không thèm để ý con phà. Sóng vỗ vào chân vách đá, tạo thành một dải trắng xóa. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy một hòn đảo có người ở. Phủ trùm lên nó là những cái cây dáng khô cằn, trên các sườn dốc rải rác mấy ngôi nhà tường trắng. Những chiếc thuyền sơn đủ màu nhấp nhô trong lạch, các cột buồm cao vẽ thành hình vòng cung khi con thuyền lắc lư theo sóng.
Một ông già nhăn nheo ngồi cạnh tôi lấy thuốc ra mời. Cám ơn ông, tôi mỉm cười, xua tay, nhưng tôi không hút thuốc. Ông mời tiếp kẹo gum bạc hà. Tôi cầm thanh kẹo với vẻ cảm kích, vừa nhai vừa chằm chằm nhìn biển.
Hơn bảy giờ thì phà cập đảo. Vầng thái dương chói chang đã xế bóng nhưng trời vẫn sáng như trước, ánh sáng mùa hè thực ra còn rạng rỡ hơn. Tên hòn đảo được viết bằng những chữ cái to trên bức tường trắng của bến tàu giống như trên tấm biển đề tên khổng lồ nào đó. Con phà rụt rè tiến vào cầu tàu, và hành khách lần lượt bước xuống ván cầu, hành lý cầm trên tay. Đối diện bến tàu có một quán cà phê ngoài trời, và những người đón khách đi phà thường đợi ở đó cho đến khi nhận ra người mình đang tìm.
Vừa đặt chân lên bờ tôi đã đảo mắt tìm Miu. Nhưng xung quanh chẳng thấy ai có vẻ giống chị cả. Mấy người chủ quán trọ bước đến hỏi có phải tôi đang tìm chỗ nghỉ không. "Không, tôi không cần," lần nào tôi cũng lắc đầu nói vậy. Thế nhưng, ai cũng đều đưa danh thiếp cho tôi trước khi bỏ đi.
Những hành khách cùng rời phà với tôi đã tản đi các hướng. Người đi mua hàng lê bước về nhà, khách du lịch thì đến khách sạn và quán trọ. Những người ra đón sau khi gặp được người quen tay bắt mặt mừng rồi thì kéo nhau đi. Hai chiếc xe tải và chiếc Peugeot cũng đã dỡ hàng và gầm lên biến mất ở phía xa. Đến bọn chó mèo xúm lại vì tò mò chẳng mấy chốc cũng đã biến mất dạng. Chỉ còn lại mấy người già rám nắng trong tay có quá nhiều thời gian. Và tôi, túi thể thao trên tay, hoàn toàn lạc lõng ở nơi này.
Tôi vào quán cà phê gọi một cốc trà đá, băn khoăn không biết nên làm gì tiếp theo. Tôi cũng chẳng có nhiều việc để làm. Màn đêm đang nhanh chóng buông xuống, còn tôi thì chẳng biết gì về hòn đảo cũng như quang cảnh vùng đất này. Nếu một lúc nữa vẫn không thấy ai đến thì tôi sẽ thuê phòng ở đâu đó, rồi sáng mai trở lại bến phà hy vọng sẽ gặp Miu. Theo lời Sumire thì Miu là người cẩn thận nên tôi không thể tin nổi chị đã thất hẹn với mình. Nếu chị không ra bến phà được thì chắc hẳn phải có lý do hợp lý. Cũng có thể chị không nghĩ tôi đến nhanh thế.
Tôi đói cồn cào. Cái đói khiến tôi quằn quại. Không khí mát lành ở biển khiến cơ thể tôi nhận ra là từ sáng đến giờ chưa có chút gì vào bụng. Tuy nhiên, tôi không muốn bỏ lỡ mất Miu nên quyết định chờ thêm lúc nữa ở quán cà phê. Thỉnh thoảng, một người dân địa phương đi ngang qua và liếc nhìn tôi vẻ tò mò.
Ở quầy sách báo cạnh quán cà phê, tôi mua một cuốn sách mỏng giới thiệu lịch sử và địa lý hòn đảo này. Tôi giở lướt qua cuốn sách trong lúc nhấp thứ nước trà đá vô vị đến độ không tin nổi. Dân số trên đảo chừng từ 3000 đến 6000 người tùy theo mùa. Dân số tăng vào mùa hè do lượng khách du lịch và giảm vào mùa đông vì dân chúng đi kiếm việc làm ở nơi khác. Đảo không có ngành công nghiệp nào đáng kể, nông nghiệp thì khá hạn chế - ôliu và mấy thứ cây ăn quả. Ngoài ra còn có nghề đánh cá và vớt bọt biển. Vì vậy từ đầu thế kỷ hai mươi hầu hết dân đảo đã di cư sang Mỹ. Phần lớn đến Florida, nơi họ có thể tận dụng các kỹ năng đánh cá và vớt bọt biển. Thậm chí ở Florida có hẳn một thành phố mang tên hòn đảo này.
Trên đỉnh đồi có một trạm rađa quân sự. Cạnh bến tàu dân sự có thêm bến thứ hai nhỏ hơn dành làm nơi neo đậu cho tàu tuần tra của quân đội. Do giáp biên giới Thổ Nhĩ Kỳ nên người Hy Lạp muốn ngăn chặn những cuộc vượt biên trái phép và hành vi buôn lậu, vì vậy trong thành phố mới có quân lính. Mỗi khi có tranh chấp với Thổ Nhĩ Kỳ - trên thực tế những cuộc đụng độ nhỏ xảy ra khá thường xuyên - lưu lượng giao thông ở cảng tăng hẳn lên.
Hơn hai nghìn năm trước, trong thời kỳ cực thịnh của nền văn minh Hy Lạp, hòn đảo nằm trên con đường huyết mạch dẫn sang châu Á này đã phát triển thành một trung tâm thương mại. Thời đó, các quả đồi vẫn còn phủ kín cây xanh, được ngành công nghiệp đóng tàu thịnh vượng tận dụng triệt để. Tuy nhiên, khi nền văn mình Hy Lạp suy tàn và cây bị đốn hết (cây cỏ không bao giờ còn um tùm trở lại) thì kinh tế của hòn đảo này cũng tụt dốc nhanh chóng. Cuối cùng, người Thổ lên nắm quyền. Ách thống trị của họ rất hà khắc, theo cuốn sách viết. Nếu có điều gì trái ý họ, họ cắt mũi xẻo tai dân đảo dễ như đốn cây chặt cành. Cuối thế kỷ mười chín, sau vô số trận chiến đẫm máu, cuối cùng hòn đảo đã giành lại được độc lập từ tay người Thổ, và lá cờ xanh trắng của Hy Lạp đã tung bay trên bến cảng. Tiếp đó quân của Hitler đến. Người Đức xây trạm rađa và trạm khí tượng trên đỉnh đồi để quan sát vùng biển quanh đó, vì dãy đồi là nơi có tầm nhìn tốt nhất. Một lực lượng không kích Anh từ Malta đã oanh tạc các trạm này. Họ giội bom xuống cảng cũng như đỉnh đồi, đánh chìm một vài thuyền đánh cá vô tội và giết chết một số ngư dân không may. Trong cuộc tấn công đó người Hy Lạp bị chết nhiều hơn người Đức, và nhiều dân chài kỳ cựu vẫn ấp ủ trong lòng mối oán giận đối với vụ ném bom này.
Giống như hầu hết đảo Hy Lạp, ở đây ít đất bằng, chủ yếu là đồi dốc đứng, chỉ có duy nhất một thành phố ven biển, ngay phía Nam cảng. Cách xa thành phố là một bãi biển đẹp đẽ, yên tĩnh, nhưng muốn đến đó thì phải vượt qua ngọn đồi dốc. Những chỗ dễ đến thì không có được bãi biển đẹp như thế, có lẽ đó là một lý do khiến lượng khách du lịch vẫn giậm chân tại chỗ. Trên đồi có mấy tu viện chính giáo Hy Lạp nhưng các thầy tu sống nghiêm theo giới luật nên du khách bình thường không được phép vào thăm.
Cứ như những gì tôi đọc được trong cuốn sách giới thiệu thì hòn đảo này không có gì đặc biệt cả. Tuy nhiên, vì lý do nào đó, người Anh lại thấy nó đặc biệt hấp dẫn (dân Anh vốn kỳ cục mà) và họ đã hăm hở xây dựng cả một khu nghỉ mát trên ngọn đồi sát bến cảng. Cuối thập niên 1960 một số nhà văn Anh đã sống ở đây, vừa ngắm nhìn biển xanh mây trắng vừa viết tiểu thuyết. Một vài tác phẩm của họ được đánh giá cao khiến hòn đảo trở nên nổi tiếng trong giới văn chương Anh quốc là một chốn lãng mạn. Nhưng dân Hy Lạp địa phương lại chẳng mấy quan tâm đến khía cạnh văn hóa nổi bật đó của hòn đảo mình sống.
Tôi đọc tất cả những điều này để quên cơn đói. Tôi gấp sách lại và nhìn quanh lần nữa. Mấy ông bà già trong quán dán mắt ra biển chừng như đang thi xem ai nhìn được lâu hơn. Đã tám giờ tối, cơn đói của tôi gần như đang biến thành sự đau đớn về thể xác. Mùi thịt quay, cá nướng từ đâu bay tới làm ruột gan tôi cồn cào và, như một kẻ tra tấn tốt bụng, bóp chặt ruột gan tôi. Không thể chịu đựng thêm chút nào nữa, tôi đành đứng dậy. Khi tôi vừa nhấc cái túi lên và dợm bước đi tìm hàng ăn thì một người phụ nữ lặng lẽ xuất hiện trước mặt tôi.
Mặt trời, cuối cùng cũng đang chìm xuống biển, chiếu thẳng vào người phụ nữ, chiếc váy trắng dài chấm gối của chị lay nhẹ khi chị bước xuống bậc thang đá. Chị đi giày tennis nhỏ, đôi chân trẻ trung như chân con gái. Chị mặc áo choàng ngắn tay màu xanh nhạt, mũ hẹp vành và khoác chiếc túi vải nhỏ. Dáng đi của chị rất tự nhiên, rất bình thường, chị như hòa vào khung cảnh nơi đây, và thoạt nhìn tôi tưởng chị là người địa phương. Nhưng chị tiến thẳng về phía tôi và khi người phụ nữ tới gần, tôi có thể nhận ra nét châu Á ở chị. Gần như theo phản xạ, tôi ngồi xuống, rồi lại đứng lên. Người phụ nữ bỏ kính râm ra và nói tên tôi.
"Xin lỗi vì tôi đến muộn," chị nói. "Tôi phải tới đồn cảnh sát, vì mọi công việc giấy tờ đó mất nhiều thời gian quá. Và tôi cũng không ngờ anh đến được đây hôm nay. Tôi cứ nghĩ sớm nhất thì cũng phải trưa mai."
"Tôi không gặp trục trặc gì ở các chặng chuyển tiếp," tôi nói. Đồn cảnh sát?
Miu nhìn thẳng vào mặt tôi, hơi mỉm cười. "Nếu anh ổn cả chúng ta sẽ đến chỗ nào đó ăn uống và nói chuyện. Hôm nay tôi chỉ mới ăn sáng thôi. Ý anh thế nào? Anh có đói không?"
Chị có thể chắc chắn là có, tôi nói.
Chị dẫn tôi vào một quán ăn trong con hẻm gần bến tàu. Cạnh lối vào có một bếp than và mọi thứ đồ hải sản tươi sống đang được nướng trên vỉ sắt. Anh thích cá không? Miu hỏi và tôi đáp có. Chị gọi món với người hầu bàn bắng thứ tiếng Hy Lạp ngọng nghịu. Đầu tiên anh ta mang đến một bình vang trắng, bánh mỳ và ôliu. Không chúc rượu nhau cũng không lần chần gì nữa, chúng tôi tự rót rượu uống. Để dằn bụng tôi ăn mấy miếng bánh mì thô và quả ôliu.
Miu là người xinh đẹp. Ấn tượng đầu tiên của tôi là về thực tế rõ ràng và đơn giản đó. Không, có lẽ không hẳn là rõ ràng và đơn giản thế. Có lẽ tôi đã có một ấn tượng nhầm lẫn khủng khiếp nào đó. Cũng có thể do một số lý do, tôi đã bị cuốn vào một giấc mơ không thể thay đổi của một ai đó khác. Bây giờ nghĩ lại tôi có thể nói một cách chắc chắn là khi đó tôi thấy chị là người phụ nữ vô cùng xinh đẹp.
Chị đeo mấy chiếc nhẫn trên những ngón tay thon thả. Một trong số đó là chiếc nhẫn cưới giản dị bằng vàng. Trong khi tôi đang cố sắp xếp trong đầu những ấn tượng đầu tiên về chị thì chị nhìn tôi bằng cặp mắt dịu dàng, thỉnh thoảng nhấp ngụm rượu vang.
"Tôi có cảm giác từng gặp anh rồi," chị nói. "Có lẽ do lúc nào tôi cũng nghe nói về anh."
"Sumire cũng hay kể tôi nghe rất nhiều về chị," tôi đáp.
Miu cười rạng rỡ. Khi chị mỉm cười, và chỉ khi đó thôi, khóe mắt chị hiện lên những nếp nhăn mảnh mai quyến rũ. "Vậy thì tôi cho là chúng ta có thể bỏ qua phần giới thiệu rồi."
Tôi gật đầu.
Điều tôi thích nhất ở Miu là chị không tìm cách che giấu tuổi của mình. Theo Sumire, chị hẳn phải 38, 39. Và quả thật trông chị cũng trạc tuổi ấy. Với thân hình gọn gàng, cân đối, trang điểm nhẹ nhàng, và chị dễ dàng khiến mọi người tưởng nhầm là chưa đến ba mươi. Nhưng chị không cố làm vậy. Miu để tuổi tác hiện lên tự nhiên trên nét mặt, coi đó là chuyện đương nhiên và bình thản chấp nhận.
Miu bỏ một quả ôliu vào miệng, lấy ngón tay nhặt cái hột và duyên dáng bỏ vào gạt tàn, như nhà thơ đang đặt dấu chấm câu cho đúng chỗ.
"Tôi xin lỗi đã gọi điện cho anh giữa đêm như thế," chị nói. "Tôi ước gì mình có thể giải thích mọi chuyện rõ ràng hơn, nhưng tôi quá bối rối và không biết bắt đầu từ đâu. Giờ thì tôi vẫn chưa hoàn toàn tĩnh trí, nhưng đã đỡ bối rối hơn."
"Có chuyện gì vậy?" Tôi hỏi.
Hai bàn tay Miu đan vào nhau đặt trên bàn, tách ra, rồi lại đan vào nhau.
"Sumire đã biến mất."
"Biến mất?"
"Như làn khói," Miu nói.
Chị tiếp tục. "Đây là câu chuyện dài nên tôi nghĩ tốt nhất mình kể lần lượt từ đầu trở đi. Nếu không một số sắc thái sẽ bị bỏ qua. Chuyện này khá tế nhị. Nhưng trước hết hãy ăn đi đã. Ngay bây giờ thì thời gian không quá cấp bách, và bụng đói thì khó mà suy nghĩ sáng suốt được. Hơn nữa, ở đây ồn quá, khó nói chuyện."
Quán ăn chật ních cư dân Hy Lạp đang hoa tay múa chân nói năng ồn ã. Vì thế để nói chuyện được với nhau, Miu và tôi phải vươn người qua bàn cúi sát đầu vào nhau. Lúc này người hầu bàn mang đến đĩa xalát Hy Lạp đầy và một con cá hồi trắng nướng rất to. Miu rắc một ít muối lên cá, vắt thêm nửa quả chanh, rưới ít dầu ôliu vào phần cá của mình. Tôi cũng làm tương tự. Chúng tôi tập trung ăn. Như chị nói, việc quan trọng nhất thì phải làm trước tiên. Chúng tôi phải làm dịu cơn đói đã.
Anh ở đây được bao lâu? Chị hỏi. "Một tuần nữa năm học mới sẽ bắt đầu," tôi đáp. "Vì vậy đến lúc đó tôi phải quay về rồi. Nếu không sẽ khá phiền toái." Miu gật đầu đơn giản. Chị cắn môi, dường như đang tính toán gì đó. Chị không đưa ra câu thường lệ nào như "Đừng lo, anh sẽ về kịp thôi" hay "Tôi không biết liệu khi đó mọi việc đã ổn chưa." Chị chỉ tự mình rút ra những kết luận riêng, nhét chúng vào ngăn kéo, rồi lặng lẽ tiếp tục bữa ăn.
Sau bữa tối, khi chúng tôi uống cà phê, chị nhắc đến tiền vé máy bay. Anh có muốn lấy đô la hay là séc du lịch? Chị hỏi. Hay để tôi chuyển sang tài khoản của anh bằng đồng yên khi anh đã về Tokyo? Anh thích như thế nào hơn? Tôi trả lời, hiện tại tôi không gặp khó khăn về tiền bạc. Tôi có thể tự thanh toán. Nhưng Miu khăng khăng đòi trả. Tôi đề nghị anh đến đây mà, chị nói.
Tôi lắc đầu. "Không phải tôi tỏ ra lịch sự hay cái gì đó tương tự. Tôi cũng đã định ít lâu nữa sẽ đến đây. Đấy là điều tôi muốn nói để chị hiểu."
Miu trầm ngâm một lát rồi gật đầu. "Tôi rất cám ơn anh. Vì đã đến đây. Tôi không biết nói sao cho hết."
Khi chúng tôi rời quán ăn, bầu trời rực rỡ sắc màu. Kiểu không khí tạo cảm giác như nếu anh hít nó vào thì phổi của anh sẽ được nhuộm bởi đúng cái sắc xanh ấy. Những ngôi sao nhỏ tí xíu bắt đầu nhấp nháy. Không thể chờ cho đến lúc ngày hè dài đã hoàn toàn trôi qua, sau bữa tối dân đảo đổ ra cảng đi dạo. Gia đình, tình nhân, bạn bè. Mùi thủy triều nhẹ nhàng cuối ngày lan khắp phố xá. Miu và tôi đi bộ qua khu phố. Phía bên phải là hàng dãy cửa hiệu, khách sạn nhỏ, các quán ăn bày bàn ra cả vỉa hè. Ánh sáng vàng ấm áp chiếu lên các ô cửa sổ nhỏ có cửa chớp bằng gỗ, nhạc Hy Lạp từ đài phát thanh vang vọng. Phía bên trái, biển trải dài, những con sóng đen sẫm êm đềm vỗ vào cầu tàu.
"Đi chút nữa là đường lên đồi," Miu nói. "Ta có thể leo cầu thang dốc hoặc theo con dốc thoai thoải. Đi cầu thang thì nhanh hơn. Anh không ngại chứ?"
"Không sao, tôi đi được," tôi đáp.
Dãy bậc thang hẹp bằng đá chạy song song với sườn đồi. Chúng dài và dốc nhưng đôi chân đi giày thể thao của Miu không lộ vẻ mệt mỏi và chị không một lần chậm bước. Gấu váy chị sột soạt đung đưa qua lại trước mắt tôi, đôi bắp chân rám nắng cân đối sáng bóng dưới ánh trăng gần rằm. Tôi là người kiệt sức trước và phải dừng lại thở. Càng lên cao, ánh sáng ở cảng càng xa và nhỏ hơn. Tất cả hoạt động của mọi người ngay cạnh tôi đã bị hút vào cái dải sáng vô danh ấy. Một cảnh vô cùng ấn tượng, một cảnh tôi muốn lấy kéo cắt ra đem găm lên bức tường ký ức của mình.
Nơi Miu và Sumire đang ở là một nhà nghỉ nhỏ có hàng hiên trông ra biển. Tường trắng, mái ngói đỏ, cửa sơn màu xanh lá cây sẫm. Một giàn hoa giấy che kín bức tường đá thấp bao quanh ngôi nhà. Chị mở cánh cửa không khóa mời tôi vào.
Căn nhà mát mẻ dễ chịu. Có phòng khách, một phòng ăn cỡ trung bình và bếp. Tường trát vữa trắng, treo mấy bức tranh trừu tượng. Trong phòng khách có một chiếc tràng kỷ, giá sách, và dàn âm thanh nổi. Hai buồng ngủ và một buồng tắm nhỏ lát gạch sáng. Đồ đạc trong nhà không có gì bắt mắt mà chỉ có vẻ ấm cúng và phù hợp.
Miu bỏ mũ, đặt túi xách lên chiếc kệ để thức ăn trong bếp. "Anh muốn uống chút gì không?" Chị hỏi. "Hay anh muốn tắm trước?"
"Có lẽ tôi đi tắm trước đã," tôi nói.
Tôi gội đầu, cạo râu. Sấy tóc, thay áo và quần soóc mới khiến tôi cảm thấy mình bắt đầu trở lại trạng thái bình thường. Dưới chiếc gương trong buồng tắm có hai cái bàn chải đánh răng, một xanh, một đỏ. Tôi tự hỏi cái nào là của Sumire.
Quay lại phòng khách tôi thấy Miu đang ngồi thoải mái trong ghế bành, tay cầm ly rượu brandy. Chị mời tôi cùng uống rượu nhưng thật sự tôi chỉ muốn bia lạnh. Tôi mở tủ lạnh lấy một chai Amstel và rót vào chiếc cốc cao. Miu ngồi sâu trong ghế, im lặng khá lâu. Có vẻ như không phải chị đang cố gắng tìm lời để nói mà là đang chìm vào ký ức riêng nào đó của mình, một ký ức không đầu không cuối.
"Chị ở đây lâu chưa?" Tôi phá vỡ sự im lặng.
"Hôm nay là ngày thứ tám," Miu nói sau một lúc nghĩ ngợi.
"Và Sumire biến mất từ đây?"
"Đúng vậy. Như tôi đã nói, như một làn khói."
"Chuyện xảy ra khi nào?"
"Ban đêm, bốn ngày trước," chị nói, đưa mắt nhìn quanh phòng như tìm kiếm đầu mối. "Tôi không biết nên bắt đầu từ đâu."
"Trong thư Sumire đã kể cho tôi về chuyến đi từ Milan đến Paris," tôi nói. "Sau đó kể về việc bắt tàu đến Burgundy.
Hai chị em đã nghỉ tại ngôi nhà lớn ở trang trại của người bạn chị trong một ngôi làng Burgundy."
"Vậy tôi sẽ bắt đầu câu chuyện từ đó," chị nói.
--- hết chương 7 ---
thay đổi nội dung bởi: sarujun, 02-09-2012 lúc 03:46 AM
"Tôi quen biết những người sản xuất rượu vang ở làng này nhiều năm rồi và tôi hiểu về rượu vang của họ như hiểu địa thế nhà mình vậy. Loại vang nào sẽ được sản xuất từ những cây nho ở sườn đồi đó trên cánh đồng đó. Thời tiết trong năm ảnh hưởng đến hương vị ra sao, nhà sản xuất nào lao động cật lực nhất, con của ai giúp bố mình đắc lực nhất. Mấy nhà sản xuất nào đã trả được bao nhiêu nợ, ai mua chiếc Citroen mới. Những chuyện đại loại thế. Chế biến vang cũng giống như nuôi ngựa nòi vậy: phải biết giống và những thông tin mới nhất. Anh không thể kinh doanh chỉ dựa trên việc biết cái nào ngon cái nào không."
Miu ngừng lại một lúc để thở lấy hơi. Dường như chị không thể quyết định nổi nên tiếp tục hay thôi. Chị kể tiếp.
"Ở châu Âu tôi có mấy nơi để mua rượu vang, nhưng nguồn cung cấp là ngôi làng ở Burgundy này. Vì vậy năm nào tôi cũng cố gắng ít nhất một lần dành một khoảng thời gian hợp lý cho nơi này để củng cố quan hệ và thu thập tin tức mới nhất. Tôi luôn đi một mình nhưng lần này chúng tôi đi thăm Ý trước, và tôi quyết định đưa Sumire đi cùng. Đôi khi trong những chuyến đi thế này cũng nên có người đi cùng, hơn nữa tôi cần tiếng Ý của cô ấy. Cuối cùng tôi quyết định mình thà đi một mình còn hơn, và dự định phải tìm ra cớ gì đó để cho cô ấy về nhà trước khi tôi bay đến Pháp. Từ hồi trẻ tôi đã quen đi đây đi đó một mình, và dù thân thiết đến thế nào thì cũng chẳng dễ dàng gì khi ở bên cạnh một người khác hết ngày này sang ngày khác.
Sumire tỏ ra tháo vát không ngờ, cô ấy lo liệu mọi việc cho tôi rất chu đáo. Mua vé, đặt phòng khách sạn, thỏa thuận giá cả, ghi chép chi tiêu, tìm các hiệu ăn ngon ở địa phương. Những việc đại loại như vậy. Tiếng Ý của cô ấy cải thiện đáng kể, và tôi thích sự tò mò tích cực của cô ấy, nó giúp tôi trải nghiệm những điều tôi sẽ không bao giờ có nếu đi một mình. Tôi ngạc nhiên thấy việc đi cùng một người khác cũng dễ dàng biết bao. Tôi cho là mình cảm thấy như vậy vì có một điều đặc biệt nào đó đã mang chúng tôi lại với nhau."
"Tôi nhớ rất rõ lần đầu chúng tôi gặp nhau và chúng tôi đã trò chuyện về các Sputnik. Cô ấy nói về các nhà văn thuộc nhóm Beatnik, còn tôi lại nhầm và nói 'Sputnik'. Cả hai phá lên cười và thế là quen nhau. Anh có biết trong tiếng Nga 'Sputnik' có nghĩa là gì không? 'Bạn đường.' Tôi mới tra từ điển. Nghĩ về chuyện đó thì thấy đúng là sự trùng hợp kỳ lạ. Tôi chẳng hiểu vì sao người Nga lại đặt cho vệ tinh của họ cái tên lạ lùng đó. Nó chỉ là một tảng kim loại nhỏ bé tội nghiệp, bay quanh Trái đất."
Miu im lặng một lúc, rồi tiếp tục.
"Dù sao đi nữa, cuối cùng tôi đã đưa Sumire cùng đến Burgundy. Trong khi tôi gặp gỡ người quen và bàn chuyện làm ăn thì Sumire, vốn mù tịt tiếng Pháp, đã mượn xe lái đi quanh vùng. Tại một thị trấn, cô đã gặp một bà già Tây Ba Nha rồi thành bạn. Bà này giới thiệu cô với một ông người Anh đang ở cùng khách sạn. Ông ta ngoại ngũ tuần, có viết lách gì đấy, rất thanh lịch và ưa nhìn. Tôi chắc chắn ông ta là người đồng tính. Ông ta có một gã thư ký có vẻ như là bạn trai."
"Họ mời chúng tôi ăn tối. Họ rất tử tế, và khi trò chuyện chúng tôi nhận ra hai bên cùng quen biết một vài người, và tôi cảm thấy như mình đã tìm được những người tâm đầu ý hợp."
"Ông người Anh bảo chúng tôi ông có nhà nghỉ nhỏ trên một hòn đảo Hy Lạp và sẽ rất vui nếu chúng tôi đến đó ở chơi. Hè nào ông cũng đến đấy một tháng, nhưng hè này có một số việc nên không đến được. Nhà phải có người ở, nếu không đám người giữ nhà sẽ sinh lười biếng, ông nói vậy. Vậy nên nếu không có gì phiền thì xin cứ tự do dùng nó. Nói cách khác là ngôi nhà này."
Miu đưa mắt nhìn quanh phòng.
"Thời sinh viên tôi đã từng đến Hy Lạp. Đấy là một chuyến đi lốc cuốn khi anh phải nhảy hết từ cảng này đến cảng khác, nhưng dù sao tôi vẫn yêu đất nước này. Vì vậy lời mời đến ở miễn phí bao lâu tùy thích trong ngôi nhà trên một hòn đảo Hy Lạp nghe thật hấp dẫn. Sumire cũng nhảy cẫng lên trước dịp may này. Tôi đề nghị trả tiền thuê nhà nhưng ông người Anh từ chối, nói là ông không phải người xây nhà cho thuê. Chúng tôi tranh luận một hồi, cuối cùng đi đến thỏa thuận là tôi sẽ gửi một chai vang đỏ đến nhà ông ở London để tỏ lòng cám ơn."
"Cuộc sống trên đảo như trong mơ. Không biết đã bao lâu rồi tôi mới lần đầu tiên được hưởng một kỳ nghỉ thực sự, không phải bận tâm đến bất kỳ kế hoạch kinh doanh nào. Phương tiện liên lạc ở đây khá lạc hậu - anh biết về dịch vụ điện thoại khủng khiếp đó rồi đấy - và tuyệt nhiên không hề có fax hay Internet. Nếu trở về Tokyo muộn hơn dự kiến thì sẽ khiến mọi người lo lắng, nhưng một khi đã đặt chân lên nơi này thì dường như nó không còn quan trọng nữa."
"Sáng nào Sumire và tôi cũng dậy từ sớm, xách túi đựng khăn tắm, nước uống, kem chống nắng đi bộ sang bãi biển phía bên kia đồi. Bờ biển ở đó đẹp đến ngạt thở. Cát trắng xóa, sóng gần như không có. Tuy nhiên, nó hơi xa xôi hẻo lánh nên rất ít người đến, nhất là vào buổi sáng. Mọi người, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều tắm khỏa thân. Chúng tôi cũng vậy. Thật là một cảm giác khó tả khi bơi trong làn nước biển xanh trong vắt buổi sáng, trần truồng như ngày chào đời. Anh cảm thấy mình như đang ở một thế giới khác vậy.
"Bơi chán, Sumire và tôi nằm trên bờ tắm nắng. Thoạt đầu hai chị em cũng có chút ngượng ngùng khi khỏa thân trước mặt nhau, nhưng khi đã quen rồi thì chẳng thành vấn đề nữa. Tôi đoán nguồn năng lượng của nơi này đã tác động đến chúng tôi. Hai chị em bôi kem chống nắng lên lưng nhau, nằm xoài dưới ánh mặt trời, đọc sách, thiu thiu ngủ, chuyện gẫu. Tôi cảm thấy thật sự tự do.
Chúng tôi băng núi trở về nhà, tắm rửa, ăn nhẹ, sau đó theo đường cầu thang đi xuống phố. Hai chị em vào quán cà phê ở cảng uống trà, đọc sách tiếng Anh, mua ít thức ăn ở cửa hàng, về nhà, rồi làm những việc mình thích cho đến chiều tối - đọc sách ngoài hiên hay nghe nhạc. Đôi khi Sumire ngồi trong phòng, hình như đang viết lách. Tôi có thể nghe thấy có tiếng mở máy tính và tiếng gõ bàn phím lách cách. Xế chiều chúng tôi ra cảng xem phà về. Hai chị em uống nước lạnh và quan sát hành khách lên bờ."
"Chúng tôi ở đó, lặng lẽ ngồi bên rìa thế giới, không ai có thể nhìn thấy. Cảm giác đúng như vậy - giống như ở nơi này chỉ có Sumire và tôi. Chẳng phải nghĩ ngợi đến điều gì khác. Tôi không muốn di chuyển, không muốn đi đến bất kỳ nơi đâu. Tôi chỉ muốn ở lại đây mãi mãi. Tôi biết điều này là không thể, cảnh sống - cuộc sống của chúng tôi tại nơi này chỉ là ảo ảnh nhất thời, và một ngày nào đó thực tại sẽ kéo chúng tôi quay trở lại với thế giới nơi chúng tôi đã từ đó đến. Nhưng chừng nào ngày đó còn chưa đến thì tôi vẫn muốn được tận hưởng mỗi ngày cho đến tận cùng, không vướng bận bất kỳ điều gì. Chúng tôi sống cuộc sống của mình ở nơi này. Cho tới bốn ngày trước."
Sáng ngày thứ tư ở đảo hai chị em vẫn như thường lệ ra bãi biển, bơi khỏa thân, quay về nhà, sau đó lại ra cảng. Người hầu bàn ở quán cà phê nhớ mặt họ - khoản tiền boa hậu hĩ Miu luôn để lại đã không phí phạm - và niềm nở chào đón. Anh ta nói vài câu lịch sự khen họ hôm nay trông xinh đẹp biết bao. Sumire sang quầy báo mua một tờ báo tiếng Anh xuất bản ở Athens. Đấy là kênh liên lạc duy nhất của họ với thế giới bên ngoài. Công việc của Sumire là đọc báo. Cô kiểm tra tỷ giá hối đoái và dịch to cho Miu nghe những tin chính hay bài báo thú vị mà cô tình cờ lướt qua.
Vào cái ngày đặc biệt đó, bài báo Sumire chọn đọc to lên là bài tường thuật về một bà già bảy mươi tuổi bị đám mèo của mình ăn thịt. Chuyện xảy ra tại một vùng ngoại ô nhỏ của Athens. Người phụ nữ bị chết đã mất chồng, một thương gia, từ mười một năm trước và kể từ đấy sống lặng lẽ trong căn hộ hai phòng chỉ có mấy con mèo làm bạn. Một hôm bà lên cơn đau tim, ngã dập mặt xuống trường kỷ và tắt thở. Không ai biết bà giãy giụa bao lâu từ khi bị đau đến khi chết. Dù sao đi nữa, linh hồn người phụ nữ đó đã đi qua chặng đường đã định trước khi từ giã người bạn đường già nua của mình, cái cơ thể nó đã cư ngụ bảy mươi năm qua. Bà ta không có người họ hàng hay bạn bè nào thường xuyên đến thăm nên phải một tuần sau người ta mới phát hiện ra xác chết. Cửa chính đóng, cửa sổ khép chặt, và khi bà chủ chết thì bọn mèo không thể ra ngoài được. Trong nhà không có chút thức ăn nào. Chắc hẳn trong tủ lạnh cũng có thứ gì đó nhưng bọn mèo lại không có được những kỹ năng cần thiết để mở cửa tủ. Khổ sở vì cơn đói, chúng đã ngấu nghiến da thịt của bà chủ.
Sumire vừa thỉnh thoảng nhấp cà phê vừa dịch từng đoạn bài báo. Vài con ong vo ve quanh bàn, liếm chỗ mứt bị người khách trước làm đổ. Miu nhìn biển qua cặp kính râm, chăm chú nghe Sumire đọc.
"Rồi sao nữa?" Miu hỏi.
"Chỉ vậy thôi," Sumire nói, gập tờ báo làm đôi và đặt xuống bàn. "Báo chỉ viết vậy."
"Chuyện gì có thể xảy ra với bọn mèo được chứ?"
"Em không biết..." Sumire nói, mím môi nghĩ ngợi. "Báo chí bao giờ cũng vậy cả. Chúng không bao giờ nói cho người ta biết cái họ thực sự muốn biết."
Lũ ong, dường như cảm thấy gì đó, bay lên vo ve lượn vòng trên không một lúc rồi lại đậu xuống bàn. Chúng lại liếm mứt.
"Không biết số phận mấy con mèo đó ra sao," Sumire nói, kéo cổ chiếc áo phông quá khổ lên vuốt lại cho phẳng. Cô mặc áo phông quần soóc, và - Miu tình cờ biết - không mặc đồ lót. "Những con mèo đã quen mùi thịt người có thể trở thành mèo ăn thịt người, vì vậy có lẽ họ đã giết chúng rồi. Hay cũng có khi cảnh sát nói, 'Này, các chú chịu đựng thế đủ rồi,' và chúng được tha bổng."
"Em sẽ làm gì nếu là thị trưởng hay cảnh sát trưởng nơi đó?"
Sumire ngẫm nghĩ. "Cho chúng vào trung tâm từ thiện và làm chúng thay đổi thì sao? Biến chúng thành loài ăn chay."
"Ý hay đấy," Miu cười. Chị tháo kính và quay lại đối diện Sumire. "Chuyện này làm chị nhớ lại bài học đầu tiên khi chị vào trường trung học Thiên Chúa giáo. Chị đã kể em nghe là chị từng học sáu năm ở một trường trung học nữ sinh Thiên Chúa giáo rất nghiêm khắc chưa? Khi ở tiểu học thì chị học trường bình thường, nhưng khi lên trung học thì chị vào trường này. Ngay sau lễ khai giảng, một bà xơ lụ khụ tập trung toàn bộ đám học sinh mới bọn chị vào giảng đường và lên lớp về đạo đức Thiên Chúa giáo. Bà xơ là người Pháp nhưng nói tiếng Nhật rất lưu loát. Bà ta nói đủ thứ nhưng chị chỉ nhớ câu chuyện về những con mèo và đảo hoang."
"Nghe hay nhỉ," Sumire nói.
"Anh bị đắm tàu, dạt vào một hoang đảo. Chỉ có anh và một con mèo lên được xuồng cứu hộ. Sau một hồi lênh đênh trên biển, anh dạt vào hòn đảo lổn nhổn đá, không có gì để ăn. Đến nước uống cũng không. Trên xuồng chỉ có ít bánh bích quy và nước uống đủ cho một người dùng trong mười ngày, chỉ thế thôi. Đại loại câu chuyện là vậy."
"Bà xơ đưa mắt quanh giảng đường rồi nói bằng một giọng mạnh mẽ, rõ ràng. 'Hãy nhắm mắt và hình dung ra cảnh này. Các bạn bị dạt lên hoang đảo cùng một con mèo. Đó là một hòn đảo đơn độc ở nơi xa xôi hẻo lánh. Hầu như không thể xảy ra chuyện trong vòng mười ngày sẽ có người đến cứu. Khi thức ăn và nước uống cạn, các bạn nhất định sẽ chết. Vậy đấy, các bạn sẽ làm gì? Vì con mèo cũng đói khát như bạn, nên liệu các bạn có chia sẻ phần thức ăn ít ỏi của mình cho nó không?' Bà ta lại ngừng lời và nhìn khắp mặt bọn chị. 'Không. Làm thế là sai lầm,' bà nói tiếp. 'Tôi muốn các bạn hiểu rằng chia sẻ thức ăn của mình cho con mèo là sai lầm. Lý do vì các bạn là những sinh linh cao quý được Chúa chọn, còn con mèo thì không. Bởi vậy các bạn nên một mình ăn hết thức ăn." Vẻ mặt bà xơ trông nghiêm trang tột độ.
"Thoạt tiên chị nghĩ đây là truyện đùa. Chị chờ đến điểm nút. Nhưng không có. Bà ta chuyển sang nói về phẩm giá và giá trị con người, nhưng đầu óc chị vẫn lẩn quẩn câu chuyện đó. Thật ra, ý chị là, đâu là lý do để kể câu chuyện loại đó cho những đứa trẻ mới vào trường chứ? Chị không hiểu được - chị vẫn không thể."
Sumire đăm chiêu nghĩ ngợi.
"Ý chị là cuối cùng liệu có thể tán thành việc ăn thịt con mèo đó?"
"Ờ, chị không biết. Bà xơ không đề cập xa đến thế."
"Chị là người theo đạo à?"
Miu lắc đầu.
"Không. Chỉ là tình cờ ngôi trường đó ở gần nhà chị nên chị đến đó học. Chị cũng thích đồng phục của trường ấy. Ở trường chỉ có chị không phải người Nhật Bản."
"Chị đã trải qua bất kỳ kinh nghiệm tệ hại nào chưa?"
"Vì chị là người Triều Tiên ư?"
"Vâng."
Miu lại lắc đầu. "Trường đó khá tự do. Các quy tắc có phần chặt chẽ, một số bà xơ rất kỳ cục, nhưng nhìn chung bầu không khí là tiến bộ, và không, chị chưa bao giờ phải nếm trải bất kỳ thành kiến nào. Chị có mấy người bạn thân, và nói chung chị thích trường học. Chị cũng có vài kinh nghiệm khó chịu, nhưng đấy là sau khi chị đã vào đời. Nhưng điều đó chẳng có gì bất thường cả - hầu hết mọi người đều gặp phải những chuyện như thế."
"Em nghe nói ở Triều Tiên người ta ăn thịt mèo. Có thật vậy không?"
"Chị cũng nghe nói vậy. Nhưng trong số người quen của chị thì không ai ăn cả."
Trong ngày, đây là thời điểm nóng nực nhất, và đầu giờ chiều quảng trường thành phố gần như vắng ngắt. Hầu hết dân đảo đều ẩn trong ngôi nhà mát mẻ, tranh thủ chợp mắt một lát. Chỉ du khách ngoại quốc mới đánh bạo ra đường lúc ấy.
Trên quảng trường có tượng một anh hùng. Ông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của lục địa Hy Lạp và chiến đấu chống quân Thổ chiếm đóng đảo, nhưng đã bị bắt và bị xử tử. Quân Thổ đóng một cái cọc nhọn giữa quảng trường rồi lột trần người anh hùng không may ra và xiên vào đấy. Cái cọc đâm từ từ qua hậu môn rồi cuối cùng xuyên tới tận miệng khiến ông phải chịu đựng nhiều giờ hấp hối. Bức tượng được dựng ngay địa điểm hành hình. Khi mới được dựng, bức tượng đồng uy dũng này chắc hẳn khá bắt mắt, nhưng trước sự can thiệp của thời gian, với gió biển, bụi bặm và phân chim mòng biển, người ta khó có thể nhìn rõ nét mặt người anh hùng. Dân đảo gần như chẳng ngó ngàng gì đến bức tượng tiều tụy đó nữa, và chính bức tượng cũng dường như đã quay lưng lại với thế giới này.
"Nói đến lũ mèo." Sumire buột miệng, "em có một hồi ức rất lạ lùng về chúng. Hồi học lớp hai nhà em nuôi một con mèo nhị thể sáu tháng tuổi rất xinh. Một chiều em đang ngồi ngoài hiên đọc sách thì con mèo bỗng nhiên chạy như điên quanh gốc cây thông to trong vườn. Bọn mèo thường hay thế. Chẳng có chuyện gì cả, nhưng chúng cứ đột nhiên rít lên, uốn cong lưng, lông dựng đứng, đuôi vểnh ngược, trong tư thế tấn công.
"Con mèo đang kích động nên không biết em đang nhìn từ mái hiên. Cảnh tượng khác lạ đến mức em phải bỏ sách xuống quan sát con mèo. Dường như nó không cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đơn độc của mình. Thật ra, thời gian càng kéo dài thì nó càng hăm hở hơn. Giống như nó đã bị ma ám vậy."
Sumire uống một ngụm nước và gãi nhẹ tai.
"Càng nhìn em càng thấy sợ. Con mèo đã thấy một cái gì đó mà em không thể thấy, và dù là gì đi chăng nữa thì nó cũng khiến con mèo phát điên phát cuồng. Cuối cùng, nó bắt đầu chạy quanh gốc cây với một tốc độ khủng khiếp, giống như con hổ đang biến thành bơ trong truyện thiếu nhi. Sau khi chạy đến kiệt sức nó nhảy lên cây. Em có thể nhìn thấy khuôn mặt bé nhỏ của nó thấp thoáng sau đám cành lá trên cao. Em gọi vọng từ dưới mái hiên thật to tên nó, nhưng nó không nghe thấy."
"Cuối cùng, mặt trời lặn và làn gió cuối thu mát mẻ bắt đầu thổi. Em ngồi ở hiên chờ con mèo leo xuống. Con mèo đó khá thân thiện, và em nghĩ nếu mình ngồi đó một lúc thì nó sẽ xuống. Nhưng nó không xuống. Thậm chí em còn không nghe thấy nó kêu meo meo. Trời mỗi lúc một tối. Em thấy sợ và bảo với mọi người trong gia đình. 'Đừng lo,' mọi người bảo em, 'cứ mặc kệ nó rồi nó về ngay thôi. Nhưng con mèo không bao giờ trở về."
"Ý em là gì - không bao giờ quay về?" Miu hỏi.
"Nó biến mất. Như làn khói. Ai cũng bảo em chắc chắn trong đêm con mèo đã leo từ cây xuống và lang thang đâu đó. Bọn mèo thường bị kích động và trèo lên cây cao, rồi khi nhận ra cây cao đến thế nào thì chúng lại sợ và không xuống được. Bao giờ cũng vậy. Nếu con mèo còn ở trên cây, mọi người bảo, chúng sẽ gào suốt đêm để người biết. Nhưng em không tin thế. Em nghĩ con mèo chắc đã bám vào một cành cây, sợ đến chết khiếp nên không kêu lên được. Khi đi học về, em ra hiên ngồi nhìn cây thông, chốc chốc gọi tên nó. Không có tiếng đáp lại. Sau một tuần, em bỏ cuộc. Em yêu con mèo đó và chuyện này khiến em rất buồn. Lần nào tình cờ nhìn cây thông em cũng đều hình dung ra hình ảnh con mèo tội nghiệp đó, đã chết cứng, vẫn bám vào cành cây. Con mèo không đi được đâu cả, chết đói và co quắp ở đó."
Sumire nhìn Miu.
"Em không bao giờ nuôi mèo nữa. Em vẫn thích mèo, tuy nhiên ngay khi đó em quyết định rằng cái con mèo con tội nghiệp đã trèo lên cây và không bao giờ quay trở lại đó sẽ là con mèo đầu tiên và cuối cùng của em. Em không thể quên được nó và yêu một con khác."
"Đấy là câu chuyện chúng tôi nói với nhau ở quán cà phê chiều hôm đó," Miu nói. Tôi nghĩ chúng chỉ là những ký ức vô hại, nhưng giờ thì dường như tất cả đều có ý nghĩa. Cũng có thể chỉ là tôi tưởng tượng ra thôi."
Miu quay nhìn ra ngoài cửa sổ. Làn gió biển nhẹ nhàng làm sột soạt tấm rèm xếp nếp. Khi chị chằm chằm nhìn vào màn đêm, căn phòng thậm chí còn có vẻ chìm trong im lặng sâu thẳm hơn.
"Chị có phiền không nếu tôi hỏi một câu? Tôi xin lỗi nếu nó có vẻ không ăn nhập với câu chuyện, nhưng điều này khiến tôi thấy băn khoăn," tôi nói. "Chị nói Sumire đã biến mất, biến mất 'như làn khói,' theo cách nói của chị. Bốn ngày trước. Và chị đã báo cảnh sát. Đúng thế không?"
Miu gật đầu.
"Tại sao chị lại yêu cầu tôi đến đây thay vì liên lạc với gia đình Sumire?"
"Tôi không có bất kỳ manh mối nào cho thấy chuyện đã xảy ra với cô ấy. Và khi chưa có bằng chứng chắc chắn tôi không biết có nên làm cho bố mẹ cô ấy hoảng loạn không. Tôi suy đi tính lại và quyết định chờ xem sao."
Tôi cố hình dung cảnh ông bố đẹp trai của Sumire đi phà đến đảo. Liệu người mẹ kế của cô, khi hiểu ra sự tình, có đi cùng ông không? Nó sẽ là một cảnh hỗn loạn. Tuy nhiên, xét ở chừng mực những gì tôi dính dáng vào, thì mọi thứ vốn đã hỗn loạn sẵn rồi. Làm sao mà một người ngoại quốc lại có thể biến mất trên cái hòn đảo nhỏ thế này suốt bốn ngày được chứ?"
"Nhưng sao chị lại gọi tôi?"
Miu bắt tréo đôi chân trần, đưa ngón tay nắm lấy gấu váy rồi kéo mạnh xuống.
"Anh là người duy nhất tôi có thể nhờ cậy được."
"Nhưng chị chưa bao giờ gặp tôi."
"Sumire tin tưởng anh hơn bất kỳ ai khác. Cô ấy nói dù trong vấn đề gì thì anh cũng là người chín chắn."
"Tôi sợ đó chỉ là ý kiến của thiểu số thôi."
Miu nheo mắt và mỉm cười, những nếp nhăn nhỏ xuất hiện quanh mắt chị.
Tôi đứng dậy đi đến trước mặt chị, cầm chiếc cốc không của chị lên. Tôi vào bếp, rót ít rượu Courvoisier vào cốc rồi quay lại phòng khách. Chị cám ơn tôi và đón lấy cốc rượu brandy. Thời gian trôi đi, tấm rèm rung lặng lẽ. Làn gió mang theo mùi hương của miền đất lạ.
"Anh có thực sự, thực sự muốn biết sự thật không?" Miu hỏi tôi. Giọng chị nghe không còn chút hơi sức, như thể chị đã phải đi đến một quyết định khó khăn.
Tôi ngước lên nhìn mặt chị. "Có một điều tôi có thể nói chắc một trăm phần trăm," tôi nói " đó là nếu không muốn biết sự thật thì tôi đã không đến đây."
Miu liếc mắt về phía tấm rèm. Và cuối cùng nói bằng giọng lặng lẽ. "Chuyện xảy ra đúng vào đêm đó, sau khi chúng tôi ngồi ở quán cà phê nói chuyện về những con mèo."
--- hết chương 8 ---
thay đổi nội dung bởi: sarujun, 02-09-2012 lúc 11:58 AM
Sau cuộc trò chuyện ở quán cà phê trên cảng về những con mèo, Miu và Sumire đi mua sắm hàng tạp phẩm rồi quay về nhà nghỉ. Như thường lệ, hai chị em nghỉ ngơi cho đến bữa tối. Sumire ở trong phòng, viết lách trên máy tính xách tay. Miu nằm trên ghế bành ở phòng khách, chắp tay sau đầu, nhắm mắt, nghe Julius Katchen chơi các bản ballad của Brahm. Chiếc đĩa hát đó đã cũ rồi nhưng phần trình diễn vẫn tinh tế, cảm xúc và hoàn toàn không thể nào quên được. Không chút tự phụ mà diễn cảm tột độ.
"Nhạc không làm phiền em chứ?" Miu hỏi khi nhìn vào cánh cửa dẫn tới phòng Sumire. Cửa mở toang.
"Brahm không bao giờ làm phiền em cả," Sumire quay ra nói.
Đây là lần đầu tiên Miu thấy Sumire tập trung viết như vậy. Miệng cô mím chặt, như miệng con thú đang rình mồi, đôi mắt sâu thẳm hơn thường ngày.
"Em đang viết gì thế?" Miu hỏi. "Một tiểu thuyểt Sputnik mới à?"
Cái miệng mím căng của Sumire giãn ra một chút.
"Lặt vặt thôi. Chỉ là những ý nghĩ có thể hữu ích sau này."
Miu quay lại ghế bành, thả mình vào thế giới thu nhỏ mà âm nhạc đã phác họa trong nắng chiều; tuyệt vời biết bao khi chơi nhạc Brahm hay đến thế này, chị tư lự. Hồi trước mình luôn lúng túng với những tác phẩm viết theo điệu thứ của Brahm, chị nghĩ, nhất là các bài ballad. Chưa bao giờ mình có thể đắm trong cái thế giới của những sắc thái bất thường, thoáng qua này. Tuy nhiên, bây giờ chắc mình đã có thể chơi nhạc Brahm hay hơn trước rồi. Nhưng Miu biết rất rõ: Mình không thể chơi được gì. Không bao giờ được nữa.
Đến 6h30 hai chị em nấu nướng trong bếp và mang ra hiên ngồi ăn. Xúp cá trap với rau thơm, xalát, và bánh mì. Họ uống một ít vang trắng, và sau đó là cà phê nóng. Họ quan sát một chiếc thuyền đánh cá hiện ra ở vụng đảo và vẽ lên không trung một vòng cung ngắn màu trắng khi giong buồm vào cảng. Chắc chắn một bữa tối nóng sốt đang chờ người ngư dân ở nhà.
"Nhân tiện, khi nào chúng ta rời khỏi đây?" Sumire hỏi trong lúc rửa bát.
"Chị muốn ở lại đây thêm một tuần nữa, miễn là chị có thể thu xếp được," Miu đáp, nhìn lên lịch treo tường. "Nếu được theo ý mình thì chị sẽ ở đây suốt đời."
"Nếu được theo ý mình thì em cũng vậy," Sumire cười tươi nói. "Nhưng biết làm sao được? Mọi điều tốt đẹp rồi cũng đến lúc kết thúc."
Theo như thường lệ, gần mười giờ tối hai chị em về phòng riêng của mình. Miu thay bộ đồ ngủ cotton trắng dài tay và vừa đặt đầu xuống gối đã ngủ ngay. Nhưng chỉ một lúc sau chị đã tỉnh dậy như thể bị khuấy động bởi chính tiếng đập của tim mình. Chị liếc nhìn chiếc đồng hồ báo thức du lịch bên cạnh; đã quá 12h30. Căn phòng tối đen, im lìm. Chị cảm thấy có ai đó đang nín thở nấp gần đó. Miu kéo chăn lên tận cằm và giỏng tai nghe ngóng. Tim chị đập thình thịch, nhấn chìm mọi thứ khác. Không phải một cơn ác mộng khiến người ta giật mình tỉnh giấc - nhất định có ai đó đang ở trong phòng cùng chị. Cẩn thận không gây tiếng động, chị thò tay kéo tấm rèm cửa sổ dịch sang một hai phân. Ánh trăng bạc nhợt nhạt lẻn vào phòng. Chị ngồi yên không nhúc nhích, đưa mắt nhìn quanh.
Khi mắt đã quen với bóng tối chị có thể phân biệt được đường nét của một cái gì đó đang dần dần hiện ra ở góc phòng. Dưới bóng chiếc tủ quần áo cạnh cửa ra vào, nơi tối nhất. Dù nó là gì đi nữa, thì nó cũng thấp, cuộn thù lù như một chiếc túi thể thao to bị bỏ quên lâu ngày. Một con vật? Một con chó to? Nhưng cửa trước khóa, cửa vào phòng đóng. Chó làm sao vào được.
Miu giữ hơi thở nhẹ, nhìn chăm chăm. Miệng chị khô khốc, trên lưỡi còn đọng lại vị rượu mạnh uống trước khi đi ngủ. Chị đưa tay kéo tấm rèm dịch thêm chút nữa cho ánh trăng rọi vào nhiều hơn. Dần dần, giống như gỡ cuộn chỉ rối, chị đã có thể nhận ra đường nét một khối đen trên sàn nhà. Trông nó giống như một thân người: tóc rủ trước trán, đôi chân khẳng khiu gập thành một góc nhọn. Ai đó đang ngồi thu lu trên sàn, đầu cúi xuống giữa hai đầu gối, co người lại như muốn bảo vệ mình trước một thứ gì từ trên trời rơi xuống.
Đó chính là Sumire. Mặc bộ đồ ngủ màu xanh quen thuộc, cô ngồi co ro như một con sâu giữa cửa ra vào và tủ quần áo. Không động đậy. Thậm chí Miu còn có thể nói là không thở nữa.
Miu thở phào nhẹ nhõm. Nhưng Sumire đang làm cái chết tiệt gì ở đây chứ? Miu lặng lẽ ngồi dậy trên giường và bật đèn. Căn phòng tràn ngập ánh sáng vàng, nhưng Sumire vẫn không hề nhúc nhích. Thậm chí cô có vẻ không nhận ra đèn đã bật.
"Có chuyện gì vậy?" Miu cất tiếng hỏi. Lúc đầu bằng giọng khẽ khàng, rồi to hơn.
Không có tiếng đáp lại. Dường như Sumire không nghe thấy giọng Miu. Chị rời khỏi giường đi lại phía Sumire. Tấm thảm trải sàn như thô ráp hơn dưới bàn chân trần của chị. "Em ốm à?" Miu hỏi, cúi xuống cạnh Sumire.
Vẫn không lời đáp.
Miu nhận thấy Sumire đang cắn thứ gì đó trong miệng. Chiếc khăn mặt màu hồng luôn treo trong buồng tắm. Miu cố kéo nó ra nhưng miệng Sumire cắn rất chặt. Cô mở mắt nhưng không nhìn thấy gì. Miu thôi kéo, đặt một tay lên vai Sumire. Bộ đồ ngủ của cô đẫm mồ hôi.
"Tốt hơn hết em nên thay đồ đi," Miu nói, "Em mà cứ ra mồ hôi nhiều thế này thì sẽ bị cảm lạnh đấy."
Sumire trông đờ đẫn, không nghe thấy gì, không nhìn thấy gì. Miu quyết định phải cởi đồ cho Sumire, nếu không cơ thể cô sẽ lạnh cứng mất. Đang là tháng Tám nhưng thỉnh thoảng đêm trên đảo lại lạnh giá. Hai chị em hàng ngày thường cùng bơi trần và đã quen nhìn thấy cơ thể nhau, nên Miu nghĩ Sumire sẽ không phật ý nếu chị cởi quần áo cho cô.
Đỡ người Sumire, chị cởi cúc bộ đồ ngủ, và sau một lúc thì cởi được phần trên. Rồi phần dưới. Cơ thể Sumire lúc đầu cứng đơ, nhưng dần mềm lại và cuối cùng thì rũ ra. Miu lấy cái khăn mặt ra khỏi miệng cô. Nó ngấm đầy nước miếng. Dấu răng in hằn bên trên.
Sumire không mặc quần lót. Miu túm lấy chiếc khăn tắm gần đó lau khô mồ hôi cho cơ thể cô. Thoạt đầu lau lưng, rồi đến tay, đến ngực. Chị lau bụng, sau đó lau nhanh khu vực từ thắt lưng đến đùi. Sumire phục tùng, không hề chống lại. Cô dường như không biết gì hết, tuy nhiên nhìn vào mắt cô Miu vẫn thấy có dấu hiệu nhận thức.
Trước đây Miu chưa bao giờ chạm vào cơ thể trần trụi của Sumire. Da cô căng mịn, mềm mại như da em bé. Khi nhấc cô dậy, Miu nhận ra Sumire nặng hơn chị tưởng, và bốc mùi mồ hôi. Khi lau mồ hôi cho cô, Miu lại thấy tim mình đập loạn. Nước miếng ứa ra đầy miệng, và chị phải nuốt nước bọt liên tục.
Dưới ánh trăng, cơ thể trần trụi của Sumire lấp loáng như một bức tượng gốm cổ. Ngực cô nhỏ nhưng cân đối, hai núm vú xinh xắn. Chòm lông mu đen mồ hôi ẩm ướt lấp lánh như cỏ trong sương sớm. Thân hình trần truồng mềm oặt của cô khác hoàn toàn với thân hình Miu nhìn thấy dưới ánh nắng rực rỡ trên bãi biển. Trong thân hình đó có sự pha trộn những nét con gái chớm nở đã bị dòng thời gian đau đớn hối thúc mở bung ra một cách mù quáng.
Miu cảm thấy như đang nhòm ngó bí mật của người khác, đang nhìn một thứ mình không được phép nhìn. Chị né ánh mắt khỏi làn da trần của Sumire trong khi tiếp tục lau mồ hôi trên cơ thể cô, vừa làm vừa nhớ lại một khúc nhạc của Bach chị được nghe hồi nhỏ. Chị lau món tóc mái đẫm mồ hôi dính bết vào trán của Sumire. Thậm chí bên trong đôi tai nhỏ của cô cũng ướt mồ hôi.
Miu cảm thấy cánh tay Sumire lặng lẽ ôm lấy chị. Hơi thở của Sumire phả vào cổ chị.
"Em ổn chứ?" Chị hỏi.
Sumire không đáp. Nhưng cánh tay cô ôm chặt hơn. Miu gần như bế Sumire lên giường. Chị đặt cô nằm xuống và kéo chăn đắp cho cô. Sumire nằm bất động, mắt nhắm nghiền. Miu quan sát một lúc nhưng Sumire không hề động đậy. Hình như cô đã ngủ. Miu vào bếp uống liền mấy cốc nước khoáng. Chị hít mấy hơi thở sâu và bình tĩnh trở lại. Tim chị không còn đập loạn lên nữa dù ngực vẫn đau tức sau những giây phút căng thẳng vừa qua. Mọi vật chìm trong sự im ắng ngột ngạt. Không tiếng người, không cả tiếng chó sủa. Không tiếng sóng, không tiếng gió. Miu băn khoăn không hiểu tại sao mọi vật lại chìm trong sự tĩnh lặng chết chóc đến thế.
Miu vào buồng tắm, cầm theo bộ đồ ngủ ướt đẫm mồ hôi của Sumire, chiếc khăn tắm chị đã dùng lau mồ hôi cho cô, cái khăn mặt hằn dấu răng, và ném tất cả vào thùng quần áo bẩn. Chị rửa mặt, nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu của mình trong tấm gương. Từ khi đến đảo chị vẫn chưa nhuộm tóc, giờ nó trắng toát như tuyết vừa rơi vậy.
Khi Miu trở lại phòng, Sumire đã mở mắt. Dường như chúng đã bị phủ một lớp màng trong mờ, nhưng dấu hiệu nhận thức đã quay trở lại. Cô nằm, chăn kéo đến vai.
"Em xin lỗi," cô khàn giọng nói. "Thỉnh thoảng em vẫn bị như vậy."
Miu ngồi xuống góc giường, mỉm cười, đưa tay lên mái tóc vẫn còn ướt của Sumire. "Em nên đi tắm một chút cho dễ chịu. Người em đầy mồ hôi."
"Cảm ơn chị," Sumire nói. "Em chỉ muốn nằm đây thôi."
Miu gật đầu, đưa cho Sumire chiếc khăn tắm mới, rồi lấy từ tủ com-mốt ra bộ đồ ngủ sạch của mình và đặt xuống cạnh Sumire. "Em cứ dùng bộ này đi. Chị nghĩ chắc em không còn bộ nào khác phải không?"
"Tối nay em ngủ ở đây được chứ?" Sumire hỏi.
"Được chứ. Ngủ đi. Chị sẽ ngủ ở giường em."
"Giường em chắc ướt đẫm rồi," Sumire nói. "Chăn gối, mọi thứ. Mà em không muốn ở một mình. Đừng bỏ em ở đây. Chị ở cùng em được không? Chỉ đêm nay thôi? Em không muốn có thêm bất kỳ cơn ác mộng nào nữa."
Miu nghĩ ngợi giây lát rồi gật đầu. "Nhưng trước hết hãy mặc đồ vào đã. Chị không muốn có một người trần truồng nằm ngay cạnh mình, nhất là trên cái giường hẹp thế này."
Sumire chậm chạp nhỏm dậy, gạt chăn ra. Cô đứng lên, vẫn trần truồng, rồi mặc bộ đồ ngủ của Miu vào. Trước hết cô cúi người mặc quần, sau đó mặc áo. Mất một lúc để cài cúc. Ngón tay cô lóng ngóng. Miu không giúp, chị chỉ ngồi đó quan sát. Cách Sumire cài cúc áo khiến Miu thấy giống như một nghi thức tôn giáo. Ánh trăng làm núm vú Sumire cứng lên một cách kỳ lạ.
Có lẽ cô ấy vẫn còn trinh, Miu đột nhiên nghĩ.
Mặc xong bộ đồ ngủ bằng lụa, Sumire lại nằm xuống giường, dịch vào trong. Miu cũng leo lên chiếc giường còn nồng mùi mồ hôi.
"Em có thể ôm chị một lúc được không?" Sumire lên tiếng.
"Ôm chị?"
"Vâng."
Trong khi Miu đang chưa biết trả lời sao thì Sumire đã vươn tay ra nắm lấy tay chị. Lòng bàn tay cô vẫn còn ướt mồ hôi, ấm và mềm. Cô vòng cả hai tay ra phía sau Miu. Ngực Sumire áp vào người Miu, ngay phía trên bụng. Sumire ép má vào giữa khe ngực Miu. Hai người nằm như thế một hồi lâu. Sumire dường như run rẩy, rất khẽ. Chắc hẳn cô ấy đang khóc, Miu nghĩ. Nhưng dường như cô ấy không thể để tiếng khóc thoát ra. Chị choàng tay quanh vai Sumire kéo cô lại sát hơn. Cô ấy vẫn còn là một đứa bé, Miu nghĩ. Đơn độc và sợ hãi, cô ấy muốn có hơi ấm của ai đó. Giống như con mèo con bám vào cành thông.
Sumire dịch người lên một chút. Chỏm mũi cô cọ vào cổ Miu. Ngực họ ép vào nhau. Miu nuốt nước bọt. Tay Sumire rờ rẫm trên lưng chị.
"Em thật sự thích chị," Sumire nói khẽ.
"Chị cũng thích em," Miu nói. Chị không biết nói gì khác. Và đó là sự thật.
Sumire bắt đầu cởi cúc áo phía trước của Miu. Miu cố ngăn cô lại. Nhưng Sumire không dừng. "Một chút thôi," cô nói.
"Chỉ một chút thôi, xin chị."
Miu nằm yên. Ngón tay Sumire nhẹ nhàng dò quanh ngực Miu. Mũi cô cà tới cà lui trên cổ họng chị. Cô chạm vào núm vú Miu, ve vuốt và giữ nó lại giữa hai ngón tay. Lúc đầu thì rụt rè, sau thì mạnh bạo hơn.
Miu ngừng kể. Chị ngước nhìn tôi như tìm kiếm điều gì. Má chị ửng hồng.
Có một điều tôi cần giải thích với anh. Cách đây rất lâu tôi đã gặp một chuyện thật bất thường và tóc bạc trắng cả. Chỉ trong một đêm. Từ đấy tôi bắt đầu nhuộm tóc. Sumire biết tôi nhuộm tóc, nhưng khi đến đảo vì có quá nhiều việc phải lo nên tôi thôi. Ở đây không ai biết tôi nên chuyện đó chẳng có gì quan trọng cả. Nhưng khi biết anh đến tôi đã nhuộm trở lại. Tôi không muốn anh có ấn tượng khác lạ về tôi trong lần đầu gặp mặt."
Thời gian trôi đi trong khoảng im lặng bao trùm.
Tôi chưa từng quan hệ tình dục đồng giới, và không bao giờ nghĩ rằng mình lại có xu hướng đó. Nhưng nếu đó là điều Sumire thực sự muốn thì tôi nghĩ mình có thể giúp. Ít nhất tôi cũng không thấy ghê tởm. Nghĩa là, chỉ cần chuyện đó được tiến hành với Sumire. Vì vậy tôi đã không ngăn lại khi cô bắt đầu ve vuốt khắp người tôi hay khi cô cho lưỡi vào miệng tôi. Cảm giác thật lạ lùng, nhưng tôi cố làm quen với nó. Tôi để cô muốn làm gì thì làm. Tôi thích Sumire, và nếu việc này làm cô vui thì tôi cũng chẳng quan tâm cô làm những gì.
Nhưng cơ thể và đầu óc tôi là hai thứ khác nhau. Một phần trong tôi cảm thấy hạnh phúc khi được Sumire ve vuốt âu yếm như vậy. Nhưng dù đầu óc tôi sung sướng đến thế nào đi nữa thì cơ thể tôi vẫn phản kháng. Nó không đầu hàng cô. Tim óc tôi hứng khởi, nhưng toàn bộ phần cơ thể còn lại thì như tảng đá cứng ngắc, khô khốc. Thật buồn, nhưng tôi không biết làm sao cả. Tất nhiên Sumire biết điều đó. Cơ thể cô bị kích thích, hơi ẩm ướt, nhưng tôi không thể đáp ứng.
"Tôi cho cô biết cảm giác của mình. 'Chị không từ chối em," tôi nói, "nhưng chị không thể làm được những việc như thế. Kể từ khi chuyện ấy xảy ra với chị mười bốn năm trước, chị đã không còn khả năng hiến mình cho bất kỳ ai trên cõi đời này. Cái đó vượt ngoài tầm tay chị, nó được định đoạt ở nơi nào đó khác." Tôi nói với cô ấy nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì, anh biết đấy, bằng ngón tay, bằng miệng tôi, thì tôi sẽ làm. Nhưng đó không phải điều cô ấy muốn. Tôi đã biết như vậy.
Cô ấy hôn trán tôi và xin lỗi. "Đấy chỉ vì em thích chị," cô nói. "Em đã bị ám ảnh lâu lắm rồi, và em phải thử. Chị cũng thích em," tôi bảo cô. "Vì vậy đừng suy nghĩ gì cả. Chị vẫn muốn em ở cùng chị."
Như nước vỡ bờ, Sumire úp mặt vào gối nức nở hồi lâu. Trong khi cô khóc, tôi vuổt dọc tấm lưng trần của cô từ bả vai xuống thắt lưng, cảm thấy rất rõ từng đốt xương của cô. Tôi muốn khóc cùng cô nhưng không thể.
"Và khi ấy tôi hiểu ra. Hiểu rằng chúng tôi là những người bạn đồng hành tuyệt vời, nhưng rốt cuộc chỉ là hai khối kim loại đơn độc bay theo quỹ đạo riêng của mình. Trông xa chúng như những ngôi sao băng đẹp đẽ, nhưng thực tế chúng chẳng là gì ngoài những nhà tù, nơi mỗi người chúng tôi bị nhốt đơn độc, đi đến nơi vô định. Khi quỹ đạo hai vệ tinh của chúng tôi ngẫu nhiên ngang qua nhau thì chúng tôi có thể ở cùng nhau. Thậm chí có thể mở lòng với nhau. Nhưng chỉ trong một khoảng khắc hết sức ngắn ngủi mà thôi. Sang khoảng khắc sau chúng tôi lại rơi vào sự đơn độc tuyệt đối. Cho đến khi chúng tôi cháy bùng lên và trở thành hư vô."
"Sau khi hả cơn khóc, Sumire đứng lên, nhặt bộ đồ ngủ rơi trên sàn mặc vào," Miu kể. "Cô ấy nói muốn ở một mình và trở về phòng cô. 'Đừng quá lo nghĩ,' tôi bảo cô. 'Mai là một ngày mới, mọi việc sẽ lại như cũ thôi. Rồi em sẽ thấy.' 'Em cũng đoán vậy,' Sumire nói. Cô cúi xuống, áp má vào má tôi. Má cô ướt và ấm. Tôi nghĩ cô thì thầm gì đó vào tai tôi. Nhưng cô nói khẽ đến mức tôi không nghe được. Tôi định hỏi cô nói gì nhưng cô đã quay đi."
"Sumire lấy khăn tắm lau nước mắt rồi rời khỏi phòng. Cửa đã đóng, tôi lại chui vào chăn và nhắm mắt. Sau một kinh nghiệm như vừa rồi tôi nghĩ khó mà ngủ được, nhưng thật kỳ lạ là tôi đã nhanh chóng thiếp đi."
"Bảy giờ sáng hôm sau khi tôi thức dậy thì Sumire không có nhà. Chắc cô dậy sớm - hay cũng có thể đã không ngủ lại được - và một mình ra bãi biển. Cô đã nói cô muốn ở một mình một lúc. Cũng lạ là cô không để lại tin nhắn, nhưng nghĩ đến đêm hôm trước, tôi đoán cô vẫn còn bối rối, bất an.
"Tôi giặt giũ, phơi khô chăn nệm, rồi ngồi ở hiên đọc sách đợi cô về. Cả buổi sáng trôi qua mà chẳng thấy Sumire đâu.
Tôi thấy lo bèn ngó vào phòng cô xem sao, mặc dù biết mình không nên. Tôi sợ có thể cô đã rời đảo. Nhưng túi đồ của cô vẫn mở, hộ chiếu vẫn ở trong ví, bộ đồ bơi và tất ướt đang phơi ở góc phòng. Trên bàn vung vãi tiền xu, giấy ghi chép, và một chùm chìa khóa. Một chiếc trong đó dùng để mở cửa trước nhà nghỉ.
"Tôi thấy thật kỳ quặc. Ý tôi là bất cứ khi nào ra bãi biển chúng tôi cũng đi giày nặng và mặc áo phông bên ngoài áo tắm vì phải băng qua núi. Kèm theo túi bạt đựng khăn tắm và nước khoáng. Nhưng cô bỏ tất cả lại - túi xách, giày, đồ bơi. Vật duy nhất không thấy là đôi dép da rẻ tiền cô mua ở một cửa hiệu địa phương và bộ đồ ngủ bằng lụa mỏng tôi cho cô mượn tối qua. Dù chỉ đi dạo quanh đây thôi nhưng nếu ở ngoài lâu anh sẽ không ăn mặc như thế chứ, đúng không?"
"Buổi chiều tôi sục sạo khắp nơi tìm cô. Tôi đi mấy vòng quanh nhà nghỉ, ra bãi biển, sau đó đi tới đi lui trên phố, cuối cùng quay lại nhà. Nhưng Sumire vẫn mất tăm mất dạng . Mặt trời lặn, đêm xuống. Gió đã nổi. Suốt đêm tôi có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ. Bất kỳ tiếng động nhỏ nào cũng làm tôi thức giấc. Tôi không khóa cửa trước. Bình minh lên, vẫn không thấy Sumire. Giường của cô vẫn y nguyên như khi tôi rời khỏi nó. Vậy là tôi đến đồn cảnh sát địa phương ở gần bến cảng."
"Tôi trình bày mọi chuyện cho một viên cảnh sát nói được tiếng Anh. 'Cô gái đi du lịch cùng tôi đã biến mất,' tôi bảo anh ta, 'và hai đêm nay chưa về.' Nhưng anh ta không coi đó là chuyện nghiêm trọng. 'Bạn của bà sẽ quay lại,' anh ta nói. 'Bao giờ cũng thế cả. Mọi người đến đây nghỉ ngơi. Đang mùa hè, họ là thanh niên, bà chờ đợi chuyện gì cơ chứ.' Hôm sau tôi lại đến, và lần này họ tỏ ra quan tâm hơn. Nhưng vẫn chưa đến mức bắt tay vào việc gì đó. Tôi gọi điện đến đại sứ quán Nhật Bản ở Athens và nói rõ tình hình. Rất may, tôi gặp được người khá tử tế. Anh ta cả quyết nói gì đó bằng tiếng Hy Lạp với cảnh sát trưởng và cuối cùng cảnh sát đã bắt tay vào điều tra."
"Họ không lần ra đầu mối. Họ hỏi những người ở cảng và quanh nhà nghỉ của chúng tôi, nhưng không ai nhìn thấy Sumire. Trưởng phà và người bán vé cũng không nhớ bất kỳ cô gái Nhật Bản nào lên phà mấy ngày gần đây. Sumire chắc hẳn vẫn còn trên đảo. Trước hết, cô không mang theo tiền mua vé. Trên hòn đảo nhỏ này, một cô gái Nhật Bản lang thang trong bộ đồ ngủ sẽ không thể tránh khỏi sự chú ý của mọi người. Cảnh sát hỏi một cặp người Đức sáng ấy đã bơi rất lâu ở bãi biển. Họ không thấy bất kỳ cô gái Nhật Bản nào, cả ở bãi biển lẫn trên đường. Cảnh sát hứa với tôi sẽ làm hết sức mình và tôi nghĩ là họ đã rất cố gắng. Nhưng thời gian cứ trôi mà vẫn không có tăm hơi gì."
Miu hít thở thật sâu và lấy tay che nửa mặt.
"Tất cả những gì tôi có thể làm là gọi điện về Tokyo yêu cầu anh đến. Tôi vô phương rồi."
Tôi hình dung ra hình ảnh Sumire, cô độc, lang thang trên dãy đồi mấp mô trong bộ đồ ngủ bằng lụa mỏng và đôi dép da.
"Bộ đồ ngủ màu gì?" Tôi hỏi.
"Màu ư?" Miu hỏi lại, vẻ không chắc chắn.
"Bộ đồ ngủ của Sumire mặc khi biến mất ấy."
"Nó màu gì à? Tôi không chắc. Tôi mua nó ở Milan và chưa mặc lần nào. Sáng màu. Có lẽ là xanh nhạt? Nó rất nhẹ, không có túi."
"Tôi muốn chị gọi lại cho đại sứ quán ở Athens và yêu cầu họ cử người đến đây. Nhất quyết yêu cầu vậy. Và nói đại sứ quán liên lạc với bố mẹ Sumire. Chắc họ sẽ bị sốc nhưng chúng ta không thể giấu họ chuyện này được nữa."
Miu khẽ gật đầu.
"Sumire đôi khi hơi kỳ quặc, chị biết đấy," tôi nói, "và cô ấy làm những chuyện điên khùng nhất. Nhưng cô ấy sẽ không bỏ đi bốn ngày mà không nói một lời nào. Cô ấy không phải loại người vô trách nhiệm như vậy. Cô ấy sẽ không biến mất trừ phi có lý do hợp lý. Lý do gì thì tôi không biết nhưng hẳn phải là nghiêm trọng. Có thể cô ấy bị rơi xuống một cái giếng ngoài đồng và đang chờ người đến cứu. Có thể cô ấy bị bắt cóc. Theo chỗ chúng ta biết, cô ấy có thể bị giết và vùi xác đâu đó. Một cô gái trẻ mặc đồ ngủ lang thang trong đêm - bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra cả. Dù sao đi nữa chúng ta cũng phải lên một kế hoạch. Nhưng phải đi ngủ đã. Ngày mai sẽ là một ngày dài."
"Anh có nghĩ là...Sumire...tự sát không?" Miu hỏi.
"Chúng ta không thể loại trừ khả năng đó. Nhưng cô ấy sẽ để lại thư. Cô ấy sẽ không vứt lung tung mọi thứ thế này để bắt chị thu dọn. Cô ấy yêu chị và tôi biết là cô ấy coi trọng tình cảm của chị."
Miu khoanh tay nhìn tôi một lúc. "Anh thực sự nghĩ thế?"
Tôi gật đầu. "Tất nhiên. Tính Sumire là vậy mà."
"Cám ơn anh. Đấy chính là điều tôi muốn nghe nhất."
Miu dẫn tôi sang phòng Sumire. Không đồ trang trí, căn phòng hình hộp gợi tôi nghĩ đến một khối lập phương khổng lồ. Có một chiếc giường gỗ bé, bàn viết, tủ quần áo và một bàn gương trang điểm nhỏ. Dưới chân bàn có một chiếc vali màu đỏ cỡ trung bình. Cửa sổ phía trước mở ra dãy đồi xa xa. Trên bàn đặt chiếc máy tính Macintosh PowerBook mới.
"Tôi đã dọn lại đồ đạc của cô ấy để anh có thể ngủ ở đây."
Còn lại một mình, tôi đột nhiên thấy buồn ngủ. Đã gần nửa đêm. Tôi thay quần áo và chui vào chăn nhưng không thể chợp mắt được. Chỉ mới đây thôi Sumire đã nằm trên chiếc giường này, tôi nghĩ. Chuyến đi dài vẫn khiến cơ thể tôi bồn chồn. Tôi bị ám ảnh là mình đang làm một cuộc hành trình không có tận cùng.
Nằm trên giường, tôi xem xét lại tất cả mọi chuyện Miu đã kể, lập trong đầu một danh sách những điểm quan trọng. Nhưng đầu óc tôi cứ trơ ra. Tôi không suy nghĩ mạch lạc được. Đế đến mai hãy hay, tôi kết luận. Đột nhiên tôi nghĩ tới cảnh lưỡi của Sumire trong miệng Miu. Quên nó đi, tôi quyết tâm tự nhủ. Để đến mai. Nhưng, thật không may, khả năng ngày mai sẽ được cải thiện hơn so với hôm nay lại rất mong manh. Những suy nghĩ ảm đạm sẽ chẳng đưa mình đến đâu hết, tôi quyết định, và nhắm mắt lại. Chẳng mấy chốc, tôi chìm vào giấc ngủ sâu.
--- hết chương 9 ---
Khi tôi thức dậy, Miu đang ngồi bên bàn ăn sáng ở ngoài hiên. Lúc đó là 8h30, vầng mặt trời sớm mai đang tỏa nắng tràn ngập thế gian. Miu và tôi ngồi ở hiên ăn sáng, vừa ăn vừa ngắm nhìn mặt biển lấp lánh. Chúng tôi ăn bánh mì nướng với trứng và uống cà phê. Hai con chim trắng lướt xuống con dốc dẫn ra bờ biển. Chiếc đài phát thanh đang bật quanh đó, văng vẳng tiếng phát thanh viên đọc nhanh tin tức bằng tiếng Hy Lạp.
Một cảm giác tê liệt mệt mỏi lạ lùng choán hết đầu tôi. Tôi không thể tách biệt được ranh giới giữa cái thực và cái chỉ hình như là thực. Tôi đang ở đây trên một hòn đảo nhỏ Hy Lạp, ăn sáng cùng một phụ nữ xinh đẹp lớn tuổi hơn mà tôi chỉ mới gặp ngày hôm trước. Người phụ nữ này yêu Sumire, nhưng không thể có bất kỳ ham muốn tình dục nào với cô. Sumire yêu người phụ nữ này và ham muốn chị ta. Tôi yêu Sumire và có ham muốn tình dục với cô. Sumire thích tôi, nhưng không yêu, và không có bất kỳ ham muốn gì với tôi. Tôi có ham muốn tình dục với một phụ nữ được giấu tên. Nhưng tôi không yêu cô ta. Thật rối rắm, hệt như trong một vở kịch hiện sinh. Mọi thứ kết thúc ở đó, không có sự lựa chọn nào khác. Và Sumire đã rời sân khấu.
Miu lại rót đầy cốc cà phê đã cạn của tôi. Tôi cám ơn chị.
"Anh thích Sumire phải không?" Miu hỏi tôi. "Ý tôi là như thích một phụ nữ."
Tôi khẽ gật đầu trong khi phết bơ vào bánh mì nướng. Bơ lạnh và cứng nên phải một lúc mới phết đều lên bánh được. Tôi ngước lên nói thêm. "Tất nhiên đấy không phải là việc có thể chọn mà được. Nó tự đến thôi."
Chúng tôi tiếp tục ăn sáng trong im lặng. Bản tin đã hết, chiếc radio chuyển sang chơi nhạc Hy Lạp. Gió thổi đung đưa giàn hoa giấy. Nếu nhìn kỹ có thể thấy những con sóng bạc đầu ngoài xa.
"Tôi đã suy tính lại và cho rằng mình nên đến Athens ngay," Miu nói trong khi gọt hoa quả. "Có lẽ ở đây rất khó liên lạc bằng điện thoại nên tốt hơn là tôi đi thẳng đến đại sứ quán nói chuyện trực diện với họ. Có thể người bên đại sứ quán sẽ sẵn lòng quay lại với tôi hoặc tôi có thể chờ bố mẹ Sumire đến Athens rồi quay lại với họ. Dù gì đi nữa tôi cũng muốn anh ở lại đây chừng nào có thể. Cảnh sát có thể liên lạc, và Sumire có thể trở về bất cứ lúc nào. Anh giúp tôi chứ?"
"Tất nhiên", tôi đáp.
"Tôi sẽ lại đến đồn cảnh sát xem việc điều tra thế nào, sau đó thuê thuyền tới Rhodes. Chuyến khứ hồi từ Athens sẽ cần thời gian, vì vậy tôi sẽ nghỉ lại khách sạn vài ngày."
Tôi gật đầu.
Miu đã gọt xong quả cam và lấy khăn ăn lau cẩn thận. "Anh đã bao giờ gặp bố mẹ Sumire chưa?"
Chưa bao giờ, tôi nói.
Miu thở dài như ngọn gió nơi rìa thế giới. "Tôi không biết phải giải thích chuyện này với họ sao đây."
Tôi có thể hiểu sự bối rối của chị. Làm sao bạn có thể giải thích một chuyện không thể giải thích được chứ?
Miu và tôi xuống bến cảng. Chị xách một cái túi nhỏ đựng quần áo để thay đổi, đi giày da cao gót và khoác chiếc túi hiệu Mila Schon. Chúng tôi ghé vào đồn cảnh sát. Tôi nói mình là bà con của Miu tình cờ đi du lịch gần đây. Họ vẫn chưa tìm ra manh mối nào. "Nhưng ổn cả thôi," họ vui vẻ nói. "Đừng lo gì cả. Nhìn quanh các vị mà xem. Đây là một hòn đảo thanh bình. Tất nhiên chỗ chúng tôi cũng có vài vụ phạm tội - tình nhân cãi cọ, say rượu, đụng độ chính trị. Xét cho cùng thì chúng ta đang đề cập đến con người mà, và ở đâu thì cũng thế thôi. Nhưng chúng chỉ là những vụ ẩu đả giữa người địa phương. Mười lăm năm gần đây trên đảo này chưa có người ngoại quốc nào là nạn nhân của tội ác."
Có lẽ đúng như vậy. Nhưng khi yêu cầu giải thích sự biến mất của Sumire thì họ không nói gì.
"Bên bờ Bắc của đảo có một động đá vôi lớn," viên cảnh sát đánh bạo nói. "Nếu lang thang ở đấy thì có lẽ cô ấy không tìm được đường ra. Cái động đó bên trong như mê cung vậy. Nhưng nó ở rất xa. Một cô gái như thế không thể đi bộ xa đến thế được."
Có thể cô ấy bị chết đuối? Tôi hỏi.
Đám cảnh sát lắc đầu. Quanh đây không có dòng chảy xiết, họ nói. Thời tiết tuần qua ôn hòa, biển lặng. Nhiều ngư dân ra khơi đánh cá hàng ngày, và nếu cô gái bị chết đuối thì trong số họ đã có thuyền đi ngang qua xác cô ấy.
"Còn giếng thì sao?" tôi hỏi. "Chẳng lẽ cô ấy không thể ngã xuống một cái giếng sâu đâu đó trên đường đi dạo sao?"
Viên cảnh sát trưởng lắc đầu. "Trên đảo này không có cái giếng nào cả. Chúng tôi có nhiều con suối tự nhiên nên không cần đào giếng. Vả lại đây toàn đá cứng nên đào giếng phải tốn rất nhiều công sức."
Sau khi rời đồn cảnh sát, tôi bảo Miu tôi muốn đến bãi biển chị và Sumire thường đến, nếu có thể thì trong sáng nay. Chị mua một tấm bản đồ đảo loại thường ở quầy báo và chỉ đường cho tôi; mỗi chiều đi về mất bốn mươi lăm phút, chị báo trước, nên cần phải mang giày cứng. Chị ra cảng và bằng thứ tiếng nửa Pháp nửa Anh đã nhanh chóng thương lượng được với một chiếc thuyền máy chở chị đến Rhodes.
"Cầu cho mọi chuyện kết thúc tốt đẹp," chị nói với tôi khi chia tay. Nhưng mắt chị nói khác. Chị biết mọi việc không hề đơn giản. Tôi cũng biết thế. Máy đã nổ, chị bỏ mũ xuống cầm ở tay trái, tay phải vẫy chào tôi. Khi chiếc thuyền đã mất hút ngoài xa, tôi cảm giác như bên trong mình vừa mất mát cái gì đó. Tôi lang thang quanh cảng một lúc rồi ghé vào cửa hàng lưu niệm mua cặp kính râm sẫm màu. Rồi tôi leo lên các bậc thang dốc về nhà nghỉ.
Mặt trời càng lên cao, không khí càng trở nên nóng nực. Tôi khoác chiếc áo cotton ngắn tay, đeo kính râm và đi giày, rồi trèo qua con đường đồi dốc ra bãi biển. Chẳng mấy chốc tôi đã thấy hối hận vì không mang theo mũ nhưng vẫn tiếp tục đi. Vừa leo dốc một lúc tôi đã thấy khát. Tôi dừng lại uống nước và lấy kem chống nắng Miu đưa cho xoa lên mặt và cánh tay. Con đường trắng xóa bụi, hễ có gió là lại tung lên mù mịt. Thỉnh thoảng tôi đi ngang qua những người dân đảo đang chăn lừa. Họ cất cao giọng chào tôi "Kali mera!" và tôi cũng đáp lại họ như vậy. Tôi đoán đó là điều nên làm.
Sườn đồi phủ đầy cây thấp, quăn queo. Cừu và dê núi chạy nhảy trên những tảng đá lởm chởm, mặt cau có. Những chiếc chuông đeo ở cổ chúng khẽ phát ra tiếng leng keng. Người chăn hoặc là trẻ con hoặc là người già. Khi tôi đi ngang qua họ liếc mắt nhìn và ngập ngừng giơ tay lên ra ý gì đó. Tôi cũng giơ tay lên đáp lại. Sumire không thể tự mình đi theo đường này được. Chẳng có chỗ nào mà trốn, vả lại sẽ có người nhìn thấy cô.
Bãi biển vắng ngắt. Tôi cởi quần áo, khỏa thân xuống biển. Nước biển trong vắt, dễ chịu. Lúc nào bạn cũng có thể nhìn thấy sỏi dưới đáy. Một chiếc du thuyền bỏ neo ở cửa lạch, buồm xếp lại, cột buồm cao lắc lư như cái máy đếm nhịp nhạc khổng lồ. Không thấy bóng ai trên boong. Mỗi khi thủy triều xuống, vô số những viên sỏi nhỏ trơ ra, va vào nhau lạo xạo. Bơi một lúc tôi lên bờ, trải khăn tắm nằm phơi trần ngửa mặt nhìn trời trong xanh trên cao. Những con chim biển bay lượn quanh vịnh tìm cá. Bầu trời không một gợn mây. Tôi nằm lơ mơ ở đó có lẽ khoảng nửa tiếng, suốt thời gian đó không thấy ai đi ra bãi biển. Chẳng mấy chốc tôi đã bị bủa vây trong sự im lặng kỳ lạ. Bãi biển này lặng lẽ đến mức người ta chẳng thể ra đây một mình, nó lại quá đẹp nữa. Nó khiến tôi tưởng tượng ra một cách chết. Tôi mặc quần áo và lại theo đường đồi trở về nhà nghỉ. Trời còn nóng hơn trước. Vừa bước đi một cách máy móc tôi vừa cố hình dung Miu và Sumire nói chuyện gì với nhau khi cả hai đi trên con đường này.
Sumire chắc hẳn trầm tư suy nghĩ về ham muốn tình dục của mình. Y như tôi suy nghĩ về ham muốn của tôi mỗi khi ở bên cô. Tôi dễ dàng biết được cô cảm thấy như thế nào. Sumire sẽ hình dung cảnh Miu trần truồng bên cạnh mình và cô không muốn gì hơn là ôm chị thật chặt. Một sự trông chờ, trộn lẫn nhiều cảm xúc khác - sự phấn khích, cam chịu, do dự, bối rối, sợ hãi - dâng trào rồi dần suy sụp. Bạn lạc quan được một lát rồi sụp xuống vì biết chắc tất cả sẽ tan ra từng mảnh. Và rốt cuộc nó đã xảy ra như thế.
Tôi leo lên đỉnh đồi, nghỉ ngơi uống nước rồi đi xuống. Khi mái nhà nghỉ vừa hiện ra trong tầm mắt, tôi nhớ Miu có nói là sau ngày hai chị em ra đảo Sumire cứ ngồi ở phòng say sưa viết cái gì đấy. Cô ấy viết gì? Miu không nói gì thêm mà tôi cũng không thúc giục. Có lẽ - chỉ có lẽ thôi - trong những gì Sumire viết có manh mối nào đó. Tôi giận mình đã không đoán ra điều này từ trước.
Khi về tới nhà nghỉ tôi vào phòng Sumire, bật máy tính của cô lên và mở ổ cứng. Chẳng thứ gì có vẻ hứa hẹn cả. Có một danh sách chi tiêu cho chuyến đi châu Âu của họ, các địa chỉ, lịch làm việc. Mọi vấn đề liên quan đến công việc của Miu. Không có hồ sơ cá nhân. Tôi mở bảng chọn NHỮNG VĂN BẢN GẦN ĐẤY - không có gì. Có lẽ cô không muốn ai đọc nên đã xóa hết. Có nghĩa là lưu các hồ sơ cá nhân của mình trong một chiếc đĩa mềm nằm ở đâu đó. Có vẻ như cô không mang đĩa theo mà biến mất; vì một lý do, bộ quần áo ngủ của cô mặc không có túi.
Tôi lục các ngăn kéo bàn. Có mấy cái đĩa nhưng chúng chỉ sao lại những thứ trong ổ cứng hoặc các hồ sơ khác liên quan đến công việc. Chẳng thứ gì có vẻ hứa hẹn. Tôi ngồi xuống cạnh bàn suy nghĩ. Nếu mình là Sumire thì mình sẽ để cái đĩa đó ở đâu. Phòng thì nhỏ, chẳng có nhiều chỗ để cất giấu vật gì. Sumire vốn rất cầu kỳ trong việc quyết định xem ai là người có thể đọc được những gì cô viết.
Tất nhiên, cái vali đỏ. Đó là thứ duy nhất trong phòng có thể bị khóa.
Cái vali mới của cô dường như chẳng có gì bên trong vì nhẹ bỗng; tôi lắc nó, nhưng chẳng có âm thanh gì. Tuy nhiên ổ khóa bốn số của nó đã khóa. Tôi thử vài tập hợp số mà tôi biết Sumire ưa dùng - sinh nhật, địa chỉ, điện thoại, mã bưu điện - nhưng đều không được. Không có gì lạ, vì một số người khác có thể dễ dàng đoán được thì sẽ chẳng mấy khi được lấy làm mã khóa. Nó phải là số nào đó cô có thể nhớ được, nhưng không liên quan gì đến cá nhân. Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu và rồi bừng tỉnh. Tôi thử mã số vùng Kunitachi - nói cách khác, mã vùng của tôi. 0-4-2-5.
Ổ khóa lách cách mở ra.
Một chiếc túi vải nhỏ màu đen được nhét ở túi trong vali. Tôi kéo khóa và thấy bên trong có một cuốn nhật ký màu xanh lá cây và một chiếc đĩa mềm. Tôi mở cuốn nhật ký trước. Nó được viết bằng nét chữ quen thuộc của cô. Chẳng có gì khiến tôi chú ý. Chỉ là thông tin về những nơi họ đến. Những người họ gặp. Tên các khách sạn. Giá xăng. Các thực đơn ăn tối. Các nhãn rượu và mùi vị của chúng. Về cơ bản chỉ là một bản danh sách. Nhiều trang bỏ trống. Có vẻ như ghi nhật ký không phải một trong những điểm mạnh của Sumire.
Chiếc đĩa không có tên. Trên nhãn của nó chỉ có đề ngày tháng bằng nét chữ rõ ràng của Sumire. Tháng Tám 19**. Tôi cho đĩa vào máy tính và mở ra. Menu cho thấy có hai tài liệu, không cái nào có đầu đề. Chúng chỉ là Tài liệu 1 và Tài liệu 2.
Trước khi mở chúng ra, tôi chậm rãi ngó quanh phòng. Áo khoác của Sumire treo trong tủ. Tôi thấy chiếc kính râm, quyển từ điển tiếng Ý và hộ chiếu của cô. Trên bàn làm việc có chiếc bút bi và bút chì bấm. Ngoài khung cửa sổ phía trên bàn viết có thể nhìn thấy con dốc thoai thoải, lởm chởm đá. Một con mèo đen đang thả bước trên tường nhà hàng xóm. Căn phòng nhỏ trống trơn này chìm trong bầu khôbg khí tĩnh mịch buổi chiều muộn. Tôi nhắm mắt lại và vẫn có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ vào bãi biển hoang vắng sáng nay. Tôi mở mắt, và lần này chăm chú lắng nghe cuộc đời thực. Tôi không thể nghe thấy gì.
Tôi cho con trỏ vào Tài liệu 1 và nháy đúp biểu tượng.
--- hết chương 10 ---
There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)
Bookmarks