Chương 9
Tân Cổ Kim Hòa Ca Tập (Shin Kokin Waka-shuu)
Thi tuyển đánh dấu thời hoàng kim của thơ quốc âm
Nguyễn Nam Trân
TIẾT I : PHONG CÁCH MỚI CỦA THƠ WAKA
A) Waka (Hòa Ca) từ thời Kamakura (1185-1333):
Phong cách waka mới do Fujiwara no Toshinari (còn đọc là Shunzei, Đằng Nguyên, Tuấn Thành) dấy lên cuối thời Hei-an đã được con trai ông là Fujiwara no Sada.ie [1](hay Teika, Đằng Nguyên, Định Gia) và những thi nhân waka theo mới như Fujiwara Ietaka[2] (Đằng Nguyên, Gia Long) thừa kế và tiếp nối. Thiên hoàng (thứ 82) Go-toba[3] (Hậu Điểu Vũ, trị vì từ 1183 đến 1198), tượng trưng cho thế lực đối kháng với chính quyền mạc phủ ở Kamakura, đã muốn chấn hưng waka ở triều đình Kyôto như một tượng trưng cho văn hóa truyền thống của lớp quí tộc.Các hội bình thơ (uta-awase) như hội Hyakushu Waka (Bách Thủ Hòa Ca = Một Trăm Bài) mở năm 1200 hay Sengohyakuban (Thiên ngũ bách ban ca hợp = Hội thơ một nghìn năm trăm bài) năm 1203 là hội thơ lớn chưa từng có đã được tổ chức và chính thiên hoàng đứng ra tham dự tích cực như một nhà thơ. Các giám khảo (hanja = phán giả) là bọn các ông Shunzei mười người. Cùng với Rokuhyakuban Uta-awase (Lục Bách Ban Ca Hợp), hội thơ nói trên là cơ sở tư liệu quan trọng để biên soạn Shin Kokin Waka-shuu.
B) Shin kokin waka-shuu (Tân cổ kim hòa ca tập):
Tập thơ nầy do năm soạn giả Minamoto no Michimoto (Nguyên, Thông Cụ), Fujiwara no Ari-ie (Đằng Nguyên, Hữu Gia), Fujiwara no Sadaie (Đằng Nguyên, Định Gia), Fujiwarano Ietaka (Đằng Nguyên, Gia Long), Fujiwara no Masatsune[4] (Đằng Nguyên, Nhã Kinh) và tăng Jakuren[5] (Tịch Liên, đang soạn nữa chừng thì mất) làm xong năm 1205.
Năm 1201, trong cung đã lập ra cơ quan phụ trách về thơ gọi là Wakadokoro[6] (Hòa ca sở) và tháng 11 năm ấy, có chiếu của thái thượng hoàng Gotoba-in ra lệnh cho nhóm sáu người các ông Fujiwara Sada-ie soạn Shin Kokin Waka-shuu. Chính tay Gotoba-in chọn lọc lại những bài đã được sáu ông đó tuyển lựa, chỉ thị cho họ phải thêm bớt như thế nào[7]. Do đó có thể nói là Gotoba-in (có tên trong Tam Thập Lục Ca Tiên) đã đóng vai quan trọng của người giám sát và quyết định trong việc tuyển khảo. Shin-kokin waka-shuu là tập thi tuyển waka cuối cùng trong “các tập của tám đời” (Bát Đại Tập) đã nói đến ở trên.
Tập Shin-kokin waka-shuu gồm 20 quyển, có chừng 2000 bài, trong đó thơ của tăng Saigyô (Tây Hành) là nhiều hơn cả (94 bài), sau đó đến thái thượng hoàng Gotoba-in, các soạn giả rồi đến các ca nhân nổi tiếng khác như tăng Ji-en [8](Từ Viên), Fujiwara no Ryôkei [9](Đằng Nguyên Lương Kinh), Fujiwara no Shunzei (Đằng Nguyên, Tuấn Thành) , công chúa Shokushi [10](Thức Tử nội thân vương), bà con gái ông Shunzei [11](Shunzeikyô no Musume), bà Kunai Kyô[12] (Cung Nội Khanh) vv…toàn là thi sĩ tiêu biểu của thời ấy.Không còn thấy những bài thơ vô danh như trong Kokin và số lượng thơ phái nữ đã tăng nhiều.
Về nội dung, tập chia thành bốn mùa xuân (thượng, hạ), hạ, thu (thượng, hạ) , đông, (khánh) hạ, ai thương, biệt ly, lữ hành, luyến ái (1 đến 5) , tạp (thượng, trung, hạ) còn thêm tế thần và thích giáo[13]. Nó cũng có hai bài tựa, một bài bằng Hán văn (Manajo) do Fujiwarano Chikatsune diễn đạt ý của thái thượng hoàng, còn bài tựa bằng Nhật ngữ (Kanajo) là do Fujiwara no Yoshitsune viết.Từ khi mạc phủ Kamakura được thiết lập, việc làm hàng trăm bài theo một tựa đề đưa ra đã trở thành chuyện phổ thông và lối sáng tác thơ bằng cách dựa vào các căn cứ đã có (honsetsu = bản thuyết) như những bài waka nổi tiếng làm ra trước đó (honka = bản ca) hay từ sự tích các truyện kể và từ thơ chữ Hán, đã thông dụng.
Trong bài tựa chữ Hán, thái thượng hoàng Go-Toba đã biện minh cho sự can thiệp của cá nhân ông vào công trình của 5 người bầy tôi, như sau:
“Thơ 5 người biên tập dựa trên những tiêu chuẩn khác nhau, do đó, ta phải tự mình soạn lại lần nữa. Ta không cho đăng bài nào có trong 7 tập soạn theo sắc chiếu từ Kokin waka-shuu trở đi kể cả những bài chép lại từ Man.yô-shuu Tuy vậy những bài thơ (hiện đại) hay nhưng bị bỏ sót có thể hãy còn nhiều. Thơ thu thập được có chừng 2000 bài, biên thành 20 quyển.
Xưa kia ta ở ngôi thiên hoàng, nhưng nay đã làm thái thượng hoàng, sống trong động phủ. Đương kim thiên hoàng, con ta, gặp thời thịnh trị, thiên hạ thái bình. Do đó ta mới dốc lòng nghiên cứu và biên tập waka, mong sao để lại cho đời.
Man.yô-shuu là nguồn cội của waka nhưng dù sao cũng là thơ đời xưa nên không biết đã được soạn ra theo cách nào.Thời thiên hoàng Daigo, ngài đã ra lệnh cho bọn 5 người biên soạn Kokin waka-shuu, đến lượt thiên hoàng Murakami lại ra lệnh 5 người khác soạn Gosen-shuu. Sau đó, các tập thơ soạn theo sắc chiếu như Shuui-shuu, Go-shuu-ishuu, Kin.yô-shuu, Shika-shuu, Senzai-shuu đều là công trình của một nhà biên soạn cho nên việc bỏ quên để sót tất phải có. Nhân thế, theo tiền lệ “nhiều người cùng soạn” của Kokin waka-shuu và Gosen-shuu, ta mới quyết định dùng 5 người vào việc biên tập.
Còn nói về chuyện ta thân đứng ra soạn lại một lần nữa là điều đã có tiền lệ bên Trung Quốc nhưng mới xảy ra lần đầu ở Nhật.Ngoài ra, việc đăng thơ của người ra lệnh thì xưa cũng có nhưng chỉ dưới mươi bài.Trong tập thơ nầy thơ ta có những trên 30 bài, đó cũng do trong số những tác phẩm vụng về của ta, ta rối trí không biết lấy hay bỏ bài nào. Cái nghiệp ta gây ra bởi lòng chấp nê đối với waka là như thế nên đành để hậu thế phê phán”.
(Trích Bài tựa viết xong năm Genkyuu thứ hai, 1205)
Sau đây xin trích dẫn một số bài thơ trong tập Shin kokin waka-shuu nầy, cùng với Man.yô-shuu và Kokin waka-shuu là 3 tuyển tập waka lớn của Nhật Bản:
Trải tuyết sương, Yoshino,
Núi đồng lại thấy cố đô xuân về.
(Thơ Xuân, tập thượng 1, bài Mi Yoshino wa, Fujiwara no Yoshitsune)
Gió đưa hương, tỉnh giấc hoa,
Tay áo ướm gối, biết là mộng xuân.
(Thơ Xuân, tập hạ 1, bài Kaze kayo-u, Shunzeikyô no Musume)
Nhớ xưa am cỏ mưa đêm,
Buồn nghe cuốc núi, đẫm thêm lệ sầu.
(Thơ Hạ 201. Bài Mukashi omo.u, Fujiwara no Shunzei)
Trong tập Shin Kokin nầy, các kỹ thuật như cách ngắt câu ở câu một hay câu ba, cách sử dụng danh từ hay đại danh từ ở cuối câu để “hãm” (tome) câu lại (còn gọi là taigendome = thể ngôn chỉ) trong thơ waka (và ảnh hưởng đến haiku về sau nữa) được dùng rất nhiều, phát huy được khả năng của ngôn ngữ để biểu hiện hình ảnh và tình cảm mà tác giả muốn gợi lên. Chẳng hạn trường hợp kỹ thuật cơ bản của waka là honkadori (bản ca thủ) tức là “không nhắc tới vật mình muốn nói trong lời thơ mà vẫn làm cho người ta hiểu mình muốn nói về nó” nhờ những điển tích có trong thơ xưa. Một ví dụ: vì đã có bài thơ nổi tiếng coi như thơ gốc (honka) của thi hào Ietaka tả cảnh ánh trăng chiếu trên bãi biển Shiga-no-ura rồi thì người đời sau, khi làm thơ, chỉ cần “chộp” (tori) điển cố “Shiga-no-ura” là người đọc liên tưởng được đến vầng trăng sáng đêm nào. Cũng vậy Jakuren đã cho ta ví dụ về bút pháp đó khi ông dựa vào một honka của Tsurayuki để viết một bài ca mới:
Nếu Tsurayuki trong Kokin-shuu (905? 914?) có câu:
Mỗi năm dòng Tatsuta,
Đưa bao xác lá hồng xa núi rừng,
Mùa thu có xuống cửa sông?
thì Jakuren trong Shinkokin-shuu (1205) đã viết:
Xuân đi, nào có hay miền ?
Sông Uji những con thuyền củi khô
Trôi về xuôi giữa sương mờ.
Ngoài việc Shin Kokin có nhiều ngắt nghỉ nhỏ (tiểu hưu chỉ = shôkyuushi) giữa bài (để mô tả được nhiều hơn) và có số lượng honkadori khá cao làm (để có nội dung súc tích hơn) khiến cho nó khác với Kokin, ta còn có thể bảo thơ của Shin Kokin thiên về tượng trưng và đi theo con đường “monogatari” nghĩa là mang chủ đề liên quan đến những tình tiết trong Truyện Ise hay Truyện Genji. Nói cách khác, tuy nó có hình thức mới nhưng nội dung chất chứa nhiều hoài niệm về xã hội vương triều, như muốn từ khước cái xô bồ, phiền toái của xã hội đương thời.
Thơ trong Shin Kokin thiên về tượng trưng thì có thể trích dẫn bài thơ sau đây của thái thượng hoàng Go-Toba.
Khói bay trên đống củi chiều,
Nghẹn ngào nhớ lửa xưa thiêu xác người.
(Bài Omoi dezuru no. Shin Kokin, quyển 8, Go-toba –in)
Sở dĩ bài thơ đạt được một trình độ tương trưng bởi vì hầu như mỗi chữ trong bài để có hai nghĩa. Ori có nghĩa là “ lúc, cơ hội » lại có nghĩa là “bẻ (củi)”. Shiba vừa có nghĩa là “ củi khô” lại có nghĩa là “thường thường”. Yukemuri là “khói chiều », “khói thổi cơm chiều ” và “khói thiêu xác” nữa. Musebu nghĩa là “nghẹn” nhưng có thể là “nghẹn khói” hay “nghẹn nước mắt”. Wasuregatami được hiểu là “khó quên” nhưng katami trong chữ ghép wasuregatami còn có ý nói “di vật của người chết” . Nếu không được một người Nhật như nhà nghiên cứu Katô Shuuichi giảng thì độc giả ngoại quốc chúng ta khó lòng thưởng thức được bài thơ nầy. Ngoài ra chi tiết ghi trong sách Gotoba-in gokuden (Hậu Điểu Vũ Viện ngự khẩu truyền) “Truyện nghe nói về ngài thái thượng hoàng Goto-ba” cho biết ông viết bài nầy sau khi đảo chính thất bại , đã chứng kiến bao nhiêu cái chết chung quanh ông và bị đày ra đảo Oki hoang vu. Đó là những chi tiết quan trọng để hiểu tâm sự tác giả.
Sau đây là một bài thơ của Teika, không theo honkadori nào cả, chỉ mượn chữ yume no ukihashi trong Genji. Ukihashi có nghĩa là “cầu nổi” thường là chiếc cầu làm bằng thuyền ghép vào. Tuy nhiên, nó cũng có nghĩa “nỗi buồn của chàng Kaoru buồn nhớ nàng Ukihashi (Phù Kiều) sau khi nàng xuống tóc đi tu”, quang cảnh thấy trong chương cuối cùng của truyện Genji. Ở đây còn chỉ “chiếc cầu ghép mong manh có thể làm mình ngã giữa chiêm bao”. Teika nửa đêm tỉnh mộng nhìn ra ngoài trời thấy mây giăng ngang trời đang bỏ đỉnh núi bay đi. Tạm dịch:
Mây thành, đỉnh núi chia đôi,
Đêm xuân cầu nổi mộng trôi phương nào.
(Bài Haru no yo no yume, Shin Kokin, quyển 1, Fujiwara no Teika)
Sada-ie (Teika) người đứng đầu nhóm các nhà biên soạn thi tập nầy, đi xa hơn nữa trong quan niệm văn học u huyền (yuugen) mà cha của ông (Shunzei) đã đề xướng. Ông đi tìm vẻ yêu kiều diễm lệ (yô-en = yêu diễm) và chủ trương thi ca trước đó phải để vẻ đẹp lắng đọng thấm thía tận đáy lòng mình rồi sau đó tìm cách đem được tấm lòng đó vào thơ (đó là phong cách ushin = hữu tâm). Ông đã để lại rất nhiều bài waka mà đặc điểm là cái diễm lệ và huyền ảo của chúng. Đây là tập thơ waka đầu tiên kể từ Kokin đã đưa quan niệm thẩm mỹ của vương triều lên đỉnh cao và ảnh hưởng đến đời sau.
C) Saigyô (Tây Hành, 1118-90):
Tăng Saigyô, người có thơ đăng nhiều nhất trong Shin Kokin (94 bài), tên thật là Satô Norikiyo, đi tu lúc còn trẻ (1140) và sau đó, du hành khắp nước Nhật.Tập Sanka-shuu (Sơn gia tập) của ông không biết rõ soạn vào thời điểm nào nhưng có đến 1550 bài và một số đã được trích đăng trong Shin Kokin. Thơ ông không trau chuốt như thơ Teika nhưng đơn sơ và trực tiếp, đầy lòng yêu thiên nhiên, tự nhiên tự tại. Đối với ông, việc làm thơ còn có một ý nghĩa tôn giáo. Ông xem việc làm một bài thơ như khắc một bức tượng Phật.
Cuộc đời ngắn ngũi làm sao,
Sống nghìn năm, thoáng chiêm bao , khác gì!
(Bài Hakanashina. Sankashuu tập thứ ba, tạp thi, Saigyô)
Nếu lòng trăm mối ngổn ngang,
Thì ta cứ để tuôn tràn, đã sao!
(Bài Ukaretazuru, Sanka-shuu, tập trung, tạp thi, Saigyô)
Saigyô cũng làm thơ theo những chủ đề đương thời nghĩa là bốn mùa, hoa anh đào, chim chóc, gió, trăng…như quí tộc thời Heian nhưng ông đem đến cho chúng một giá trị có tính cách tượng trưng hơn họ.
Sau đây là bài thơ làm ở nhà trên núi vào một buổi chiều thu khi ông thấy chim shigi (sandpiper), một loại chim đậu trên cát ướt, bay vụt khỏi mặt đầm. Cái đầm đó ở tỉnh Kanagawa nay còn mang tên Shigitatsu-sawa tức “đầm chim shigi bay vụt lên” để nhớ đến ông:
Vô tâm nào biết chi sầu,
Cũng nghe thấm thía tình thu chiều tàn,
Khi cánh chim vút mặt đầm.
(Bài Kokoro naki, quyển 4, phần Thu (thượng), thơ Saigyô)
Cái khác của ông đối với những nhà thơ vương triều là ông đi nhiều trong khi họ ít khi ra khỏi kinh đô và chỉ dựa vào các mẫu uta-makura cố định. Thế nhưng ông cũng không có đề tài mới mẻ gì hơn họ, chứng tỏ ông vẫn trung thành với văn hóa vũ sĩ là giai cấp gốc gác của ông:
Ước sao chết giữa xuân sang,
Dưới vòm đào thắm, trăng vàng chiếu soi.
(Bài Negawaku wa, Sanka-shuu, tập trung, Tạp thi, Saigyô)
Ông muốn chết giữa mùa xuân như đức Phật Thích Ca và người ta bảo hình như ông đã được toại nguyên. Đời sau biết đến ông như một nhà thơ du hành không ngừng nghỉ và đã đem ông vào các bản tuồng hát và thi văn như một nhân vật thần thoại. Bashô xem ông như mẫu mực, người hướng dẫn tinh thần của mình.
D) Hyakunin isshu[14] (Bách nhân nhất thủ):
Tập thơ này được nhiều người cho là công trình biên soạn của Fujiwara Sadaie (Định Gia) vào khoảng năm 1235 và thơ dựa trên Hyakunin Shuuka (Bách nhân tú ca) tức thơ hay của trăm nhà mà ông đã chọn để viết trên giấy họa để trang trí biệt thự ở dưới chân núi Ogura nên nó còn có tên là Ogura Hyakunin Isshu (Tiểu Thương bách nhân nhất thủ) nữa. Hyakunin Isshu (quen gọi tắt là Hyakuninshu) chọn của 100 tác giả mỗi người một bài thơ (từ thiên hoàng Tenji (Thiên Trí) cho đến Juntoku-in (Thuận Đức Viện, tức cựu thiên hoàng (thứ 84) Juntoku, trị vì 1210-1221) và lấy những bài đó ở các thi tập soạn theo sắc chiếu, tính từ Kokin-shuu (Cổ kim tập, 24 bài) cho đến Shoku-Gosen-shuu (Tục-Hậu tuyển tập, 2 bài). Ông không trích thơ các thiên hoàng mà thôi vì thơ trong tập phần lớn là của 36 thi hào (ca tiên) với như tên tuổi lớn như Kakinomoto no Hitomaro, Ki no Tsurayuki, Otomo no Yakamochi, Yamabe no Akahito, Ki no Tomonori, Kiyohara no Motosuke vv…
Những bài thơ trong tập sách nầy (43 bài về tình yêu và 16 bài về mùa thu) đều đặc sắc nên đã được chú thích cặn kẽ, truyền bá rộng rãi về sau dưới mọi hình thức nghệ thuật kể cả trò chơi của thường dân. Chẳng hạn vào đầu thời Edo, có trò chơi Utagaruta (Ca gia lưu đa) tức trò chơi “ai nhanh tay” bốc những quân bài ( karuta = carta, gốc tiếng Bồ Đào Nha ) có in câu dưới của bài thơ trong Hyakunin Isshu là thắng cuộc. Khi giám khảo ngâm câu trên trong yomifuda tức quân bài để đọc thì phải biết mà bốc quân bài có ghi câu dưới trong torifuda tức là quân để bốc. Đây là một trò chơi tao nhã rất phổ biến trong quần chúng vào dịp Tết nhất cho đến tận giờ.
Xin thoát dịch 15 bài [15] tuyển chọn trong số 100 bài ấy:
1- Bài Aki no ta no ( số 1) của thiên hoàng Tenji, đặt mình vào cảnh ngộ của nhà nông qua đêm trong vựa chứa lúa đặt tạm giữa ruộng vào vụ gặt để vịnh kiếp sống gian khổ của họ, khi mà những giọt sương khuya thấm áo cũng có thể là nước mắt:
Ruộng thu, lều tạm, mái thưa,
Tay áo người để sương khuya thấm tràn. (Go-sen-shuu, quyển 6)
2-Bài Harusugite (số 2) của nữ thiên hoàng Jitô vịnh cảnh người ta đem quần áo ra phơi trắng lớp giữa màu xanh lục của ngọn núi Kaguyama khi trời mới vào hè, nói lên được sự nhạy cảm của người Nhật thời cổ trước những biến chuyển của thiên nhiên.:
Xuân vừa đi hạ đến rồi,
Áo ai phơi trắng núi đồi Kagu. (Shin Kokin-shuu, quyển 3)
3-Bài Ashibikino (số 3) của nhà thơ Kakinomoto no Hitomaro, một thi nhân lỗi lạc vào thời kỳ thứ hai của Man.yô, giỏi về chôka, nói về nỗi cô đơn lẻ bạn khi ngủ một mình.Tương truyền, loài chim trĩ núi (yamadori = copper pheasant) , trống mái đến đêm tẽ ra đi ngủ riêng ở núi khác. Tâm sự chờ người yêu nên khó ngủ của Hitomaru cũng giống như con chim trĩ trống .
Đuôi chim buông dài thật dài,
Đêm khuya dằng dặc, nhớ ai khôn nằm. (Shuui-shuu)
4-Bài Okuyama ni (số 5) của Sarumaru-dayu vịnh cảnh nai đực đi tìm nai cái, gọi bạn giữa rừng thu lá đỏ. Bài này có thuyết cho là tác phẩm đã gợi hứng cho Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư:
Núi sâu, rẽ lối lá phong,
Nai kêu chi để chạnh lòng sầu thu.
( Kokin-shuu, quyển 4)
5- Bài Kasasagi no (số 6) của quan tham nghị Ôtomo no Yakamochi khi ngắm trời đêm, nhìn thấy giá băng sáng mùa đông đã đóng trên bậc thang lên điện trong cung mà ông ví với cầu ô thước đưa Khiên Ngưu đến gặp Chức Nữ. Ông biết đêm đã hầu tàn và ước mơ gặp gỡ trở thành vô vọng.
Sương đông đã trắng lối sang,
Đêm tàn, ô thước lỡ làng cầu qua. (Shin Kokin-shuu)
6-Bài Ama no hara ( số 7) của học tăng Abe no Nakamaro, người tương truyền có đến Việt Nam, làm quan thứ sử Giao Châu dưới đời nhà Đường, nhìn vầng trăng trên trời Trung Quốc nhớ về vầng trăng quê hương núi Mikasa nước Nhật trước ngày lên đường:
Trời cao, trăng mọc xa xa,
Phải chăng trăng núi quê nhà xuân xưa? (Shuu-i-shuu, quyển 10)
7-Bài Hana no iro wa (số 9) của trang tuyệt thế Nhật Bản Ono no Komachi, một trong Lục Ca Tiên, nhìn hoa anh đào héo úa mà buồn cho nhan sắc phai tàn:
Màu hoa phai, nhan sắc tàn,
Cảm thương thân thế, trông hàng mưa sa. (Kokin-shuu, quyển 2)
8-Bài Koreya kono (số 10) của nhà thơ mù Semimaru khi đi ngang qua cửa ải Afuzaka đầy người qua kẻ lại mà xót thương cho kiếp người cô đơn và trôi nổi:
Trên ải kẻ lại người qua,
Dù quen dù lạ cũng là chia tay. (Gosen-shuu, quyển 15)
9-Bài Watano hara (số 11) của quan tham nghị Ono no Takamura, phó sứ trong sứ bộ qua nhà Đường, vì tranh chấp với chánh sứ Fujiwara no Tsunetsugu mà bị tội lưu ra ngoài hoang đảo Oki giữa biển Nhật Bản, một vùng khí hậu khắc nghiệt. Giữa mùa đông lạnh, cô đơn, chèo thuyền loanh quanh chùm đảo nhỏ, đi mãi mà chưa đến nơi. Ông nhớ về mẹ già và vợ con còn ở kinh đô:
Chèo quanh biển, chưa đến nơi,
Nhắn ông câu hỏi thăm người kinh đô. (Kokin-shuu, quyển 9)
10-Bài Ama no kaze (số 12) của tăng nhân Sôjô Henjô, tục danh là Yoshimine Munesada. Ông cảm động vì vẻ đẹp của các nữ vũ công trông cung đình nên ví họ với những nàng tiên nữ. Ông nhờ gió thổi đem mây chắn lối họ về thiên cung để giữ thêm ít lâu cái vẻ đẹp ấy cho trần gian:
Gió ơi hãy khóa lối mây,
Để cho tiên nữ ở đây không về. (Kokin-shuu)
11-Bài Naniwa-gata (số 19) của Ise, nhà thơ nữ, sống khoảng năm 900. Bà vốn con gái quan đầu tỉnh vùng Ise (Ise no Kami) một trong 36 ca tiên ngang hàng với Ki no Tsurayuki, mang nỗi niềm tuyệt vọng, gửi tặng một người đàn ông bạc tình, hận vì người yêu với mình như hai đốt một cây lau trên bãi Naniwa, tuy gần nhau nhưng không bao giờ tìm gặp được nhau:
Hai đốt lau ngắn mà lìa,
Như người trên bãi đã chia ngấn lòng. (Shin-Kokin-shuu, quyển 10)
12-Bài Akenureba (số 52) của Fujiwarano Michinobu tức Ason, một nhà thơ tài hoa nhưng mệnh yểu. Trong bài nầy, ông nói đến cái nỗi khổ tâm phải chia tay (chia áo = kinuginu, tức mặc lại quần áo) với người yêu khi trời sáng để ra về, dù biết rằng đêm đến sẽ lại gặp nhau:
Biết đến đêm lại gặp nhau,
Sáng nay chia áo vẫn sầu khôn nguôi (Go-shuui-shuu)
13-Bài Taki no oto wa (số 55) của quan tham nghị cấp cao Fujiwara no Kintô, nói lên lòng hoài cựu khi nhìn cái thác nước xây thời thiên hoàng Saga nay đã khô cạn. Kintô (Công Nhiệm) là nhà thơ được xưng tụng là có đến Sanshuu no Sai (tài lớn ba bồ) tức là tài đàn sáo, tài làm thơ waka và tài làm thơ chữ Hán:
Tiếng nước đổ vắng lâu rồi,
Còn tên của thác để đời mà thôi . (Shuui-shuu)
14-Bài Hototogisu (số 81) của quan Tả Đại Thần Gotokudaiji nói lên niềm vui khi nghe tiếng cuốc đầu tiên gọi vào hè:
Nghe tiếng cuốc gọi vào hè,
Nhìn theo chỉ thấy trăng khoe ánh rằm. (Senzai-shuu, quyển 3)
15-Bài Yono naka yo (bài 83) của Toshinari, chức đại phu trong cung hoàng thái hậu, ý nói muốn lánh đời mà không sao lánh được khi nghe tiếng nai kêu buồn trong núi sâu (vì ở trong núi đời cũng buồn không kém):
Dẫu lánh đời biết đi đâu,
Vì nghe trong núi nai sầu kêu thương. (Senzai-shuu, quyển 17)
Có thể nói 97% thơ trong tập này do thi nhân thời Heian viết ra và khi Teika chọn lọc, ông đã chọn theo tiêu chuẩn của mình nên nó mới được thống nhất. Tiêu chuẩn đó là sự lưu loát và diễm lệ của thể thơ gọi là ushin (hữu tâm) nghĩa là sự thấu hiểu đối tượng trong thái độ sáng tác, khác với thể thơ yuugen (u huyền) thần bí của Shunzei, cha ông. Tập nầy là sách gối đầu giường của trường phái Nijô, tức một trong ba trường thơ mà con cháu ông lập nên. Nó đã được các bậc thầy trong làng phê bình đời sau như Sôgi (Tông Kỳ), Yuusai (U Trai), Teitoku (Trinh Đức), Azuma-maro (Xuân Mãn), Mabuchi (Chân Uyên), Norinaga (Tuyên Trường) giảng nghĩa và chú thích, trở thành sách nhập môn cho người nghiên cứu văn học Nhật Bản.
Bookmarks