TIẾT IV: HAIKAI TỪ SAU BASHÔ
A) Kagano Chiyo (Gia Hạ, Thiên Đại, 1703-1775) và Uejima Onitsura ( Thượng Đảo, Quỉ Quán, 1661-1738) :
Từ sau Bashô, haikai rất phổ biến nhưng người làm thơ hay kể ra không nhiều lắm. Ngoài thập triết có thể kể đến vài tên tuổi sau đây:
Kaga no Chiyo, còn gọi là Chiyojo (cô Chijo) hay Chiyoni (ni sư Chiyo), nhà thơ sống khoảng giữa thời Edo, sinh sau Bashô một ít lâu Bà người ở Matsutô trong xứ Kaga. Sau khi qui y, lấy hiệu là Soen (Tố Viên). Có để lại các tập Chiyoni Kushuu “ Thi tập của ni sư Chiyo ” và Matsu no koe. “ Tiếng Tùng Reo ” . Thơ bà đậm đà thiền vị :
Bướm hỡi bướm mơ gì ?
Mà rung rinh đôi cánh.
(Bài Chôchô ya)
gợi nhớ giấc mộng bướm của Trang Chu.
Mảnh trăng mùa hạ vướng.
Trên sợi dây cần câu.
(Bài Tzurizoa no ito)
cho ta thấy thực tại phá vỡ mộng tưởng khi vầng trăng in trên mặt nước bị vướng vào sợi dây câu. May thay nó chỉ là bóng trăng chứ không phải vầng trăng thật.
Sương đã rời hoa thắm,
Chỉ là giọt nước thường.
(Bài Koborete wa)
Nhà thơ Uejima Onitsura, đã nhắc đến ở trên, chịu ảnh hưởng của Bashô, cũng là một nhà thơ khoảng giữa thời Edo, có thi phong độc đáo cần được đề cập tới. Ông có những vần như sau:
Cá hương vọt lên không,
Mây động trong dòng nước.
(Bài Tobu ayu no)
Trăng như trăng hôm nay,
Ai mà không cầm bút!
(Bài Fude toranu)
B) Nhà thơ Buson (Vu Thôn) và haikai thời Tenmei (Thiên Minh) :
Haikai vừa được phổ biến trong quần chúng thì chất lượng lại trở nên thấp kém. Nó mất dần tính cách văn chương và dân làm thơ để kiếm lợi cầu danh thì nhiều. Đến tận khoảng năm Tenmei (1781-1789), khuynh hướng thoái hóa mới tạm ngưng. Có thể nói giai đoạn trung hưng của haikai bắt đầu. Ở Kyôto có Yosa Buson (Dữ Tạ, Vu Thôn, 1716-1783), Tan Taigi (Thán, Thái Kỳ, 1709-1771), ở Edo có Ôshima Ryôta (Đại Đảo, Liệu Thái), ở Owari (Vĩ Trương, nay thuộc Aichi gần Nagoya) có Katô Kyôtai (Gia Đằng, Hiểu Đài, 1732-1792), ở Ise (Y Thế) có Miura Chora (Tam Phố, Xư Lương, 1729-1780).Ngoài ra, ở Owari còn có Yokoi Yayuu (Hoành Tỉnh, Dã Hữu, 1702-1783) viết Uzuragoromo (Thuần y, 1787-1823) hay Áo chim cuốc, một tập văn sưu tập những sự việc xưa, có hơi văn nhẹ nhàng được xưng tụng là thể hiện được phong vị haikai.
Yosa Buson (Dữ Tạ, Vu Thôn, 1716-1783)
Nhà thơ tên thật là Taniguchi Nobuaki, sau lấy họ Yosa của nhà vợ, sinh năm 1716 ở làng Kema tỉnh Settsu (Nhiếp Tân) nay thuộc ngoại thành Ôsaka trong gia đình nông dân. Năm khoảng 20 tuổi đến Edo học làm thơ và hội họa. Từ thời trung niên, lui về sống ở Kyôto, vừa vẽ tranh và làm thơ. Theo học haikai với Hayano Hajin (Tảo Dã, Ba Nhân, 1677-1742) hiệu Yahantei (Dạ Bán Đình), một nhà thơ có khuynh hướng chống lại những tệ hại đương thời. Buson (lúc đó) lấy hiệu là Saichô (Tể Đinh, sau là Tể Đảo, hai hiệu có cùng một cách đọc), đào luyện nhiều đệ tử, trong số đó có các cao đồ Yoshiwake Tairo (Cát Phân, Đại Lỗ), Takai Kitô (Cao Tỉnh, Kỷ Đổng). Sau khi thầy là Hajin chết, ông đổi hiệu là Buson (1744), lưu lạc suốt 10 năm vùng Kantô và Tôhoku. Năm 55 tuổi, ông lại nối nghiệp thầy (1770), tập danh Yahantei Nhị Thế (đời thứ hai) và làm chủ một thi đàn. Chịu ảnh hưởng Hán thi và lý luận về hội họa[13] Nam họa (văn nhân phải biết họa) nên ông đề xướng thoát tục (ly tục luận), đặt trọng tâm vào những sáng tác lãng mạn có phong vị cổ điển nhưng đem lại cảm giác thanh tân.Khác với khuynh hướng chủ quan của Bashô, người vẫn là khuôn mẩu mực thước cho ông trong phong cách, Haikai của Buson có tính khách quan hơn. Ông đứng ngoài nhìn với con mắt họa gia, diễn tả sự vật một cách hoa lệ và lãng mạn.
Tuy ông không được như Bashô là người phá rừng mở núi để đưa haikai lên hàng nghệ thuật cao quí nhưng cái công dọn dẹp gai cỏ để trung hưng haikai thật không nhỏ. Khác nhau chăng là ở chỗ Bashô dầu tinh thông Hán học và Quốc học, vẫn đậm đà hương vị dân dã thì Buson lấy nguồn cảm hứng từ tác phẩm cổ điển và có tính cách trí thức hơn.
Khi ông viết:
Liễu xác xơ, suối cạn,
Đá bày hàng lô nhô.
(bài Yanagi chiri, trong tập Hokobutsuma, 1752)
tưởng như lấy từ cảnh vật thiên nhiên hiện ra trước mắt nhưng ông đã cho biết chỉ làm ra nhân nhớ lại câu “ sơn cao, nguyệt tiểu, thủy lạc, thạch xuất ” trong Hậu Xích Bích Phú của Tô Đông Pha khi mình đang ở trên đường du hành, dừng chân dưới gốc liễu tương tự như cây liễu già có con tinh biến thành ông lão để gặp thầy tăng vân du trong vở tuồng Nô mang tên Yugyôyanagi (Du Hành Liễu) do Kanze Nobumitsu (Quan Thế , Tín Quang,1435-1516) sáng tác. Mấy chữ “ nước trôi, đá bày ” (thủy lạc, thạch xuất ) đã gợi hứng cho ông vì theo ông, nó “ cao quí như con hạc lẻ loi bước ra từ đàn gà ”[14].
Điều nầy chứng tỏ thơ của Buson sử dụng cách miêu tả kép, ghép cả hiện thực với mộng tưởng. Ông thường cấu tứ từ điển tích thấy trong hội họa (tranh sơn thủy Trung Quốc đời Minh, tranh cuốn thời Heian) và văn chương Hán học và quốc học ( thơ Đường Tống, truyện kể monogatari).
Về hội họa, tuy thủy mặc của ông giống như của Ike Taiga (Trì, Đại Nhã, 1723-76)[15] nghĩa là uyển chuyển, gọn gàng hầu như là những nét phác thảo nhưng họa của ông còn nhiều tính hiện thực hơn và điều đó cũng thể hiện qua thơ.
Khi ông viết những câu thơ như :
Chú học việc nằm mơ,
Ngày nghỉ, đậu ninh nhừ.
(Bài Yabuiri no)
Nói về chú nhỏ đi học việc ngày nghỉ được về với gia đình, mệt quá lăn ra ngủ trong khi mẹ chú ninh đậu đỏ trong nồi cho nhừ. Tuy nhiên một người Nhật bình thường nhân đó có thể liên tưởng đến “giấc mộng kê vàng” của chàng thư sinh họ Lư trong điển cố Trung Quốc mà Buson ám chỉ.
Chó sủa gánh hàng rong,
Hoa đào đang độ nở.
(Bài Akindo wo hoeru)
Cho ta thấy ngay cảnh chó sủa gà gáy của một thôn làng vào xuân như cảnh thần tiên lối vào nguồn đào của hai chàng Lưu Nguyễn (đào nguyên khuyển phệ, tang gian kê minh) thấy trong Đào Hoa Nguyên Ký.
Tuy nhiên ông cũng có những vần thơ diễn tả tình cảm đơn sơ, thoải mái khi con người giao hòa với thiên nhiên:
Sướng sao lội sông hè,
Đôi dép xách trên tay.
(Bài Nataukawa wo)
Tác phẩm Shunpuu Batei no Kyoku (Xuân Phong Mã Đề Khúc, 1777) “ Vó ngựa gió xuân ” chịu ảnh hưởng Hán thi và Hokuji Rôsen wo Itamu (Điếu Bắc Tự Lão Tiên ) “ Thương tiếc Hokuji Rôsen ” của Buson được xem như hai trường thiên thơ tự do mới mẻ và trữ tình, được các nhà thơ cận kim như Masaoka Shiki (Chính Cương Tử Qui, 1867-1902) và Hagiwara Sakutarô (Thu (?) Nguyên Sóc Thái Lang, 1886-1942) hết sức tán thưởng.
Xin đơn cử một số bài sau đây :
Yêu cả hai gốc mơ,
Nở sớm như nở muộn.
(Bài Futa-moto no)
Nói lên lòng bao dung và sự đồng cảm với đất trời.
Quả mơ xanh làm cho,
Người đẹp nhíu lông mày.
(Bài Aoume ni)
Người đẹp cắn quả mơ hay mới chỉ thấy quả mơ xanh đã nhíu mày vì đã cảm thấy chất chua dưới chân răng? Tất cả thi vị của thơ Buson nằm trong chỗ mơ hồ ấy.
Để tả cảnh một người đàn bà làm ăn ngoài tỉnh đi dọc theo con đê sông Nagara để về làng cũ, nhìn thấy cái “dáng dấp thuyền quyên”, ông đã viết thay người đó để nói lên lòng nhớ cố hương của chính mình, chép trong tập “Vó Ngựa Gió Xuân”. Xin để ý chữ Naga trong tên sông Nagara còn có nghĩa là “dài” :
Gió xuân dọc đê dài,
Đường về quê vời vợi.
(Bài Haru kaze ya)
Quán nước chè một túp,
Bên cội liễu già nua.
(Bài Ikken no chamise)
Mỗi lần như vậy, ông thường viết kèm một bài tứ tuyệt bằng chữ Hán xen giữa haikai. Trong trường hợp nầy, phần chữ Hán của bài haishi (bài thi = bài hài + Hán thi) đó là:
Đê hạ trích phương thảo,
Kinh dữ cức tắc lộ.
Kinh cức hà đố tình,
Liệt quần thả thương dịch
Dưới đê hái cỏ thơm,
Gai góc làm nghẽn lối.
Gái góc sao ghen ghét,
Rách quần xước vế em.
Dĩ nhiên ẩn ý của nhà thơ là nói lên cái ởm ờ của cái gai nhọn làm rách đùi người đàn bà. Ông lại tiếp lời và lần nầy còn sâu sắc hơn nữa:
Gai góc sinh hoa dại,
Giống như đường quê hương.
(Bài Hana-ibara)
Buồn bã leo lên đồi,
Hoa gai đang độ nở.
(Bài Urei tsutsu)
Trong thơ haikai của ông, Buson muốn dùng tiếng đời thường để rời xa cõi đời thường (dụng tục ngữ ly tục) bằng phương pháp mà ông gọi là “ ly tục pháp ”. Muốn được như thế, phải hiểu rõ thơ Hán, “ bỏ thành thị lợi danh mà về chốn sơn thủy lâm tuyền, nâng chén rượu, cười đùa, nuôi dưỡng cái tao nhã ”, tìm về cái sabi (buồn sét rỉ) và shiori (nhạy cảm trước thiên nhiên) của haiku Bashô. Nhưng thơ ông cũng có sự gần gũi với thơ một nhà thơ có tiếng thời ấy, Yanagisawa Kien[16] (Liễu Trạch, Kỳ Viên, 1704-1758), ở chỗ “ xa rời thế tục ” nữa..
C) Nhà thơ Kobayashi Issa (Tiểu Lâm, Nhất Trà, 1763-1827 ) và haikai cuối thời Mạc Phủ :
Trong khoảng năm Kansei (Khoan Chính, 1789-1801), khi các nhà thơ trung hưng haikai lần lượt qua đời thì vai trò tiên phong của Bashô càng được đề cao. Số người làm thơ haikai ngày một thêm đông. Tuy vậy, phẩm chất thơ lại kém xa trước. Từ khoảng năm Kasei (Hóa Chính, 1804-1830), có lệ đặt tiền thưởng cho loại haikai có tính chất du hí. Tục lệ nầy gọi là tsukinami haikai (nguyệt tịnh bài hài) tức là treo giải thưởng cho bài thơ nào gửi đến với danh nghĩa cúng cho đền chùa. Vào mỗi cuối tháng, thơ gửi đến được giám khảo phân cao hạ, tùy theo đó mà được tặng quà và in ra để gửi về cho tác giả. Đó là trò chơi văn vẻ đánh trúng lòng háo danh của người ta.
Lối chơi thơ ấy đã đẻ ra cảnh “trăm bài một kiểu” làm cho thi ca kể từ năm Tempô (Thiên Bảo, 1830-1844) càng ngày càng tồi đi, người yêu văn chương không ai chịu nổi. Trước đó ít lâu, may đã có ít nhất một nhà thơ đem lại được cái gì mới lạ. Đó là Kobayashi Issa (Tiểu Lâm, Nhất Trà). Ông sinh trong một gia đình bần bách nên lúc nhỏ đã phải lên Edo kiếm ăn.Vừa giúp việc người ta vừa học làm thơ. Ông thường viết nhật ký bằng haikai ghi chép việc hằng ngày hoặc những biến cố trong đời. Tác phẩm có các tập nhật ký Sichiban Nikki (Nhật ký số bảy), Hachiban Nikki (Nhật ký số tám) cũng như các thi tập Kyôwa Kujô (Thơ viết vào năm Kyôwa), Bunka Kujô (Thơ viết vào năm Bunka) Khi về quê chứng kiến cảnh cha qua đời, ông lại viết Chichi no shuuen nikki (Phụ chi chung yên nhật ký) nghĩa là Nhật ký lúc cha lâm chung bộc lộ sống sượng tình cảm yêu ghét đối với gia đình (mẹ kế và em cùng cha khác mẹ) nhân cuộc tranh chấp quyền thừa kế. Lúc 57 tuổi, ông còn viết Ora ga haru (Mùa xuân của tôi, 1852), một tập tùy bút dưới dạng nhật ký trình bày cảm tưởng của tác giả với mọi sự xảy ra quanh ông (vợ chết, con chết, tái hôn, ly dị, trúng phong).
Sau khi du hành ở miền Tây xong, ông về quê hương Shinshuu (Tín Châu, tức Nagano bây giờ) và dừng chân hẳn ở đó. Tác phẩm của ông bộc lộ tính nông dân, kể lại những lao đao vì sinh kế, cảnh ngộ thương tâm vợ chết, con chết. Ông trình bày mọi việc một cách thẳng thắn. đầy cá tính.Thơ ông đầy lòng thương kẻ yếu, đậm đà tình người, sử dụng ngôn ngữ địa phương, tiếng lóng.Tập thơ Ora ga haru được đánh giá cao. Ông có những câu bình dị như:
Trong mắt con chuồn chuồn,
In cả đồi núi xa.
(bài Tôyama no)
Gió xuân thổi lật áo,
Khoe mông thợ lợp nhà.
(Bài Harukaze ni)
Mưa xuân, chú chuột liếm,
Nước sông Sumida.
(Bài Harusane ya)
Đường Shinano vút cao,
Như tiếng hò cấy lúa.
(Shinanoji ni)
Nước núi, chày giã gạo,
Ta nằm đánh giấc trưa.
(Bài Yamamizu ni)
Issa nổi tiếng vì tấm lòng thương yêu những kẻ yếu kém, cô thế. Trong khi Bashô, chẳng hạn, yêu thiên nhiên bằng cách để cho nó yên lành, tự lo liệu :
Nào chấy, rận, ngựa đái,
Bên gối, chỗ ta nằm.
(Bài Nomi shirami)
Trong áo hè của ta,
Vài chú rận chưa tóm !
(Bài Natsugoromo)
thì Issa đi xa hơn, ông lo lắng, chăm sóc cho nó :
Cái chú rận nhảy vụng,
Trông mới tội làm sao !
(Bài Tobibeta no nomi)
Chớ giết con ruồi nhé,
Nó đang chắp tay van!
(Bài Yare utsu na)
Ếch gầy, đừng thua cuộc,
Còn có Issa đây!
(Bài Yase kawazu)
Bookmarks