>
kết quả từ 1 tới 1 trên 1

Ðề tài: Lịch sử hội họa Nhật Bản

  1. #1
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts

    Lịch sử hội họa Nhật Bản

    Hội hoạ Nhật Bản có lịch sử rất lâu đời, với tác phẩm cổ xưa nhất còn lưu giữ đến ngày nay là một bức hoạ tìm thấy trong lăng mộ có từ thời Kofun. Cùng với sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản thì các tranh vẽ xuất hiện chủ yếu trên tường của các ngôi chùa cổ ở Nara.

    Trong các hình thức nghệ thuật ở Nhật Bản thì hội hoạ là một trong những nghệ thuật cổ xưa và tinh tế nhất với rất nhiều phong cách và chất liệu khác nhau. Cùng với dòng chảy của lịch sử thì hội hoạ Nhật Bản đã trải qua rất nhiều bước thăng trầm, duy trì bản sắc truyền thống nhưng đồng thời vẫn tiếp thu những tinh hoa hội hoạ nước ngoài. Ngày nay, nếu bước vào các phòng tranh ở Nhật, bạn có thể thấy chúng được chia ra thành hai dòng tranh chính là Youga và Nihonga. Nihonga (日本画) là dòng tranh theo phong cách cổ điển Nhật Bản được vẽ trên các chất liệu truyền thống như giấy washi hay lụa. Tuy khái niệm Nihonga hiện đại chỉ hình thành từ sau thời Meiji để phân biệt với tranh theo phong cách châu Âu, nhưng có thể nói chúng là kết tinh những tinh hoa của hội hoạ truyền thống còn lưu giữ lại cho đến ngày nay.


    Hội hoạ Nhật Bản có lịch sử rất lâu đời, với tác phẩm cổ xưa nhất còn lưu giữ đến ngày nay là một bức hoạ tìm thấy trong lăng mộ có từ thời Kofun. Cùng với sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản thì các tranh vẽ xuất hiện chủ yếu trên tường của các ngôi chùa cổ ở Nara. Tranh vẽ thời kỳ này chịu ảnh hưởng lớn của phong cách hội hoạ Trung Hoa thời Tuỳ-Đường với những đường nét tròn trịa và cách đặc tả khuôn mặt nhân vật. Một ví dụ điển hình là chùa Tamamushi có từ giữa thế kỷ thứ 7. Ngôi chùa nổi tiếng với Jakata – bức tranh sơn dầu kể lại sự tích các tiền kiếp của đức Phật – được vẽ theo phong cách rất giống tranh thời nhà Tuỳ.


    E-ingakyo


    Tuy bị ảnh hưởng lớn bởi phong cách Trung Hoa nhưng các tác phẩm vẫn thể hiện những dấu ấn riêng. Điều này có thể được thấy khá rõ trong hai bức vẽ từ thế kỷ thứ 8.


    Bức tranh Kichijoten ở Yakushi-ji thể hiện hình ảnh vị nữ thần của tình yêu và sinh sản với những đường cong đầy đặn trong bộ trang phục cung đình thời nhà Đường. Một tác phẩm khác là bức bình phong 6 mặt vẽ các tiên nữ mặc áo lông chim.

    Đến cuối thế kỷ thứ 8, kinh đô mới được thành lập ở Kyoto mang tên là Heian-kyo (Bình an kinh) thay cho cố đô Nara, mở đầu cho thời đại thái bình suốt 4 thế kỷ sau đó. Đây là thời đại mà cái đẹp trở thành tiêu chí của văn hoá.




    Shingon mandala Năm 804, Kukai sang Trung Hoa học về Mikkyo và mang về Nhật những hình mẫu của các bức hoạ theo phong cách mandala. Đây là những bức hoạ gắn liền với giáo lý nhà Phật, phục vụ cho mục đích tôn giáo.

    Tuy phục vụ cho mục đích tôn giáo nhưng mandala cũng có thể coi là những tác phẩm nghệ thuật thực sự. Được vẽ trên lụa bằng những đường nét và màu sắc tinh tế, mandala được cho là công cụ dẫn đến sự khai sáng bằng cái đẹp.


    Đến giữa thời Heian thì Yamato-e dần thay thế phong cách hội hoạ Trung Hoa. Xuất hiện ban đầu trên những bức bình phong, Yamato-e phát triển nhanh chóng sang hình thức tranh cuộn emakimono. Thế kỷ 12 có thể nói là thời kỳ hoàng kim của thể loại tranh cuộn.


    Cho đến đầu thế kỷ thì tất cả tranh vẽ tìm được đều gắn liền với tôn giáo. Nhưng vào khoảng năm 1120, theo sau sự thành công của cuốn tiểu thuyết tình cảm “Genji monogatari” của nữ sĩ Murasaki trước đó một thế kỷ, những bức tranh cuộn minh hoạ cho thế giới bên trong cung cấm của truyện Genji bắt đầu xuất hiện. Nếu như các tác phẩm trước đó còn ít nhiều mang hơi hướng Trung Hoa thì tranh cuộn thế kỷ 12 lại mang trong mình một phong cách Nhật thuần tuý. Bối cảnh tranh cuộn được hé lộ dần dần từ trái qua phải như cách người ta đọc một cuốn sách, với cái nhìn bao quát từ trên xuống (fuki nuke yatai). Những bức tranh cuộn thời kỳ này được biết đến với cái tên onna-e vì chúng thể hiện một thế giới phong nhã của những phụ nữ giam mình trong cung cấm. Các hoạ sĩ cho chúng ta thấy hình ảnh các cung nữ trong những bộ kimono 12 lớp, với gương mặt không chút biểu cảm theo phong cách hikime kagibana. Cảm xúc trong tranh chỉ được phản ánh qua cảnh quan thiên nhiên, hình ảnh mùa thu được gắn liền với vẻ bi cảm đặc trưng thời Heian – mono no aware.


    Đối lập với onna-e, otoko-e là những bức tranh mô tả lại những sự tích, những chiến công thần thánh cũng như cuộc sống dân dã của người dân lao động. Bối cảnh cho otoko-e là vùng nông thôn với các nhân vật có gương mặt bộc lộ cảm xúc một cách tự do. Không tinh tế nhẹ nhàng như onna-e, các đường nét trong otoko-e mạnh mẽ, phóng khoáng, cho thấy một không khí hào hùng đậm chất sử thi.


    Haya raigo


    Shigisan engi


    Jigoku zoshi


    Sang đến thời Muromachi, hội hoạ Nhật Bản lại một lần nữa trải qua những thay đổi lớn. Trong suốt thế kỷ 14, sự phát triển của Phật giáo ở Kamakura và Kyoto đã có ảnh hưởng lớn đến hội hoạ.

    Suibokuga là một phong cách khá phổ biến trong giới sư sãi thời kỳ này, với chất liệu chính là mực tàu và những nét cọ thanh thoát, không đi sâu vào chi tiết.


    Tranh phong cảnh được gọi là sansui-ga với hai tên tuổi đầu tiên là Shubun và Sesshu. Nhưng nếu như tranh của Shubun còn tuân theo đúng hình mẫu của những bức tranh sơn thuỷ Trung Hoa thì Sesshu, học trò của ông đã tạo nên những bước đột phá thực sự.


    Từ sau thế kỷ 15, những bức tranh thuỷ mặc dần bị thay thế bởi những bức bình phong dát vàng tìm thấy trong các lâu đài cổ. Chúng tượng trưng cho quyền lực của tầng lớp thống trị. Màu sắc lúc này sáng và tươi tắn, đi vào chi tiết tả thực, thể hiện sự pha trộn giữa hơi hướng hội hoạ châu Âu và yamato-e truyền thống.


    Hình ảnh người nước ngoài cũng được đưa vào tranh, với bối cảnh thường thấy là bến cảng và những con tàu buôn ngoại quốc đang cập bến.


    Thời kỳ Edo mở ra đánh dấu sự xuất hiện của rất nhiều phong cách mới bên cạnh những phong cách đang tồn tại. Một truờng phái khá nổi bật trong thời kỳ này là những bức hoạ mô phỏng lại các tác phẩm văn học cổ điển trên nền dát vàng.




    Trường phái Namban vẫn tiếp tục phát triển lên tới đỉnh cao, tập trung ở khu vực cảng Nagasaki là cảng duy nhất còn mở cửa với nước ngoài sau khi ban hành chính sách sakoku. Trong lúc đó, Ike no Taiga và các hoạ sĩ khác của trường phái Nanga lại muốn quay lại với phong cách tranh thuỷ mặc cổ điển.




    Nhưng đã nói đến hội hoạ thời Edo thì không thể bỏ qua dòng tranh khắc gỗ phù thế Ukiyo-e,với đủ mọi đề tài từ cảnh sinh hoạt thường ngày cho đến các kỹ nữ ở “phố đèn đỏ”. Nếu như các phong cách khác chỉ giới hạn tầm ảnh hưởng trong tầng lớp thượng lưu và giới quý tộc thì Ukiyo-e với những bản khắc gỗ rẻ tiền hơn cho phép những người dân ở tầng lớp dưới cũng có thể thưởng thức những tác phẩm nghệ thuật này. Do đó, không có gì ngạc nhiên nếu đây là phong cách được biết đến rộng rãi nhất cả trong và ngoài nước lúc bấy giờ.


    Từ sau thời Meiji, nước Nhật trải qua nhiều thay đổi lớn về chính trị và xã hội. Những thay đổi này đã có tác động rất lớn, để lại dấu ấn trên mọi phương diện của nền văn hoá. Nhưng các phong cách truyền thống vẫn luôn là nền tảng cho sự phát triển của nền hội hoạ Nhật Bản.

    Trên đây chỉ là một vài nét rất sơ lược về hội hoạ truyền thống. Quả thực, sẽ là quá tham vọng nếu muốn tóm tắt lại lịch sử hội hoạ của cả một dân tộc chỉ trong vài dòng ngắn ngủi. Nhưng hy vọng bài viết này có thể ít nhiều giúp ích được cho các bạn yêu thích mỹ thuật và quan tâm đến văn hoá con người Nhật.

    Theo Ichinews
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  2. The Following 4 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    hiruma_yoichi (08-01-2012), lynkloo (08-01-2012), Nezumi (08-01-2012), snowdog (08-01-2012)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •