Bi Kịch Mỏ Than New York
Nyuyoku Tankō No Higeki


Tác giả: Murakami Haruki
Dịch: Phạm Vũ Thịnh
Nguồn: erct



"Trong lòng đất, công tác cứu người có lẽ còn tiếp tục,
hoặc không chừng mọi người đã chịu thua mà bỏ lên cả rồi".

Lời nhạc "New York Mining Disaster 1941" của Ban Bee Gees [1]


Có gã đàn ông từ mười năm nay vẫn khư khư giữ thói quen có phần kỳ quái là mỗi khi trời bão lụt thì lại đến viếng Sở Thú. Hắn là bạn tôi.

Lúc bão lụt sắp ập vào thành phố, trong khi mọi người đàng hoàng đang chộn rộn đóng chặt cửa gỗ chống mưa bão, kiểm điểm chuẩn bị đèn pin với đài bán dẫn,...... thì hắn bình thản khoác lên người tấm poncho chống mưa quân đội Mỹ thải ra, mà hắn mua được vào thời cao điểm của chiến tranh Việt Nam. Thế rồi, bia lon nhét túi, hắn rời nhà ra đi.

Gặp ngày rủi thì cổng Sở Thú khoá chặt. Hôm nay đóng cửa vì thời tiết xấu. Nghĩ cho cùng thì lý do chính đáng đấy. Chứ buổi chiều mưa bão thế này, có ai lại mò đến Sở Thú để ngắm ngựa vằn với hươu cao cổ, hở Trời? Hắn thuận thảo chấp nhận, ngồi lên tượng sóc bằng đá xếp hàng trước cổng Sở Thú mà uống lon bia đã bớt lạnh phần nào, xong đứng dậy ra về.

Hôm nào gặp may thì cổng mở. Hắn trả tiền vé, vào bên trong, vừa khó nhọc cố hút điếu thuốc mới cầm lên tay đã ướt sủng nước mưa ngay, vừa đi xem kỹ càng từng con thú trong các chuồng. Mấy con thú thì có con thu mình nép sâu trong chuồng, đưa mắt lơ đãng nhìn mưa qua cửa sổ; có con nhảy nhót hưng phấn trong mưa bão; có con hãi sợ vì biến đổi bất chợt của khí áp, có con lại nổi giận vì thời tiết.

Lần nào, hắn cũng ngồi xuống trước chuồng cọp Bengal mà uống một lon bia (bởi cọp Bengal nổi cơn thịnh nộ hầm-hỗ nhất mỗi khi mưa bão), xong bước qua chuồng khỉ đột uống tiếp lon thứ hai. Khỉ đột thì hầu như chẳng quan tâm gì đến mưa hay bão. Thấy hắn ướt át ngồi bệt xuống sàn xi-măng như dáng người-cá mà uống bia, lần nào khỉ đột cũng lộ vẻ thương hại.

-"Cứ như là hai người tình cờ đi cùng một thang máy nửa chừng bị hỏng ấy". Hắn nói thế.

Vậy chứ, ngoài những buổi chiều mưa bão ấy ra thì hắn vẫn là người hoàn toàn đàng hoàng. Tuy chẳng nổi tiếng gì lắm, nhưng hắn cũng đang làm việc trong một hãng mậu dịch với nước ngoài, ấm cúng thoải mái, sống một mình trong một căn chung cư gọn gàng, và thay đổi bạn gái mỗi sáu tháng. Vì lý do quái kỳ nào mà cứ nửa năm hắn lại thay đổi bạn gái một cách chăm chỉ như thế thì tôi hoàn toàn không lý giải được. Bởi các cô bạn gái của hắn trông giống nhau đến như đã tách ra từ cùng một tế bào.

Lắm người, không hiểu sao, lại cố tin một cách quá đáng rằng hắn là người bình thường tuy có hơi ngù ngờ, nhưng hắn hoàn toàn chẳng để tâm đến điều ấy. Hắn có một chiếc xe hơi cũ còn tốt, toàn bộ tác phẩm của Balzac, và một bộ đồ lễ tuyệt hảo cho những tang-lễ, đủ cả áo vét đen, cà-vạt đen và giày-da đen.

Mỗi lúc có ai chết, tôi lại điện thoại đến hắn. Để mượn bộ áo, cà-vạt và giày ấy. Áo vét và giày thì lớn hơn cỡ của tôi một số, nhưng tất nhiên chẳng thân thiết gì đến mức nên đòi hỏi thêm về những điều xa xỉ thế.

-"Xin lỗi cậu". Lần nào tôi cũng nói thế. -"Lại có đám tang nữa đây".

-"Được mà, được mà". Lần nào hắn cũng nói thế.

Căn chung cư của hắn cách chỗ tôi ở chừng 15 phút taxi. Đến chỗ hắn thì đã có sẵn bộ áo vét và cà-vạt đã ủi thẳng nếp xếp thẳng thớm trên bàn, giày da đã đánh bóng sẵn, và nửa tá bia ngoại ướp sẵn trong tủ lạnh. Hắn là mẫu người như thế.

-"Mới đây, tớ được thấy mèo trong Sở Thú đấy". Hắn vừa mở khoen lon bia vừa nói.

-"Mèo à?"

-"Ừm, hai tuần trước, đã đi công chuyện lên Hokkaido, nhân đấy mà ghé lại Sở Thú gần đấy. Thấy có chuồng nhỏ treo bản <Mèo>, trong chuồng có con mèo đang nằm ngủ".

-"Mèo loại nào?"

-"Mèo thường thôi, đâu cũng có. Vằn nâu, đuôi ngắn mà mập khiếp. Chỉ nằm thù lù một đống ở đấy thôi".

-"Hẳn là ở Hokkaido thì mèo hiếm thấy". Tôi nói.

-"Đời nào!". Hắn nói.

-"Trước nhất, có lý do gì để mèo không thể có trong Sở Thú đâu nào?" Tôi thử đặt nghi vấn. -"Mèo cũng là thú vậy chứ!"

-"Bởi thói quen thôi. Nghĩa là, mèo hay chó là những loại thú ở đâu cũng có. Chẳng phải là thứ gì mà người ta phải đặc biệt trả tiền để được xem". Hắn nói. -"Cũng như người ta thôi".

-"Cũng có lý". Tôi nói.

*

Hết nửa tá bia, hắn lấy một bao giấy lớn, cẩn thận cho cà-vạt, hộp giày và bộ áo vét bọc sẵn trong bao nhựa vào. Tôi có cảm giác cứ thế mà xách đi picnic được đấy.

-"Lần nào cũng làm phiền cậu quá". Tôi nói.

-"Có sao đâu". Hắn đáp.

Mà chính hắn thì đã ba năm nay, từ khi tậu được bộ áo vét ấy, hầu như chưa hề có dịp xỏ tay vào.

-"Chẳng ai chết cả". Hắn nói. -"Điều kỳ lạ là từ khi tớ tậu bộ áo này đến nay, chẳng có một người nào chết cả".

-"Hẳn là chuyện đời nó như thế".

-"Kỳ lạ thật chứ". Hắn nói.

*

Thật kỳ lạ, năm ấy lại là một năm tôi biết thật nhiều đám tang. Chung quanh tôi, bạn quen bây giờ hay đã quen từ ngày xưa, lũ lượt theo nhau chết. Lũ lượt như ruộng bắp trong ngày mùa hạ nắng chói chang. Năm tôi 28 tuổi đấy. Đám bạn quanh tôi cũng sàn sàn tuổi ấy. 27, 28, 29,......, cái tuổi chưa đáng để chết.

Nhà thơ chết ở tuổi 21, nhà cách mạng và ca sĩ Rock chết ở tuổi 24. Qua lọt được tuổi ấy là sống sót lâu dài được. Phần đông chúng tôi đã dự tưởng như thế. Lọt qua được Khúc ngoặt Tử thần - Dead Man Curve theo truyền thuyết ấy, là luồn qua được cả đoạn hầm tối ám ẩm thấp. Qua được xong thì ra đại lộ thẳng tắp sáu lằn chạy, cho dù thiếu hăng hái đi nữa, cứ thong dong nhắm đích đến mà chạy là được thôi. Chúng ta lại có thể cắt tóc, và mỗi ngày cạo râu. Chúng ta không còn là nhà thơ, hay nhà cách mạng, hay ca sĩ nhạc Rock nữa. Không còn những chuyện như say mèm rồi chui vào phòng điện thoại mà ngủ; hay ăn trọn một gói quả anh-đào trong toa tàu điện hầm; hay 4 giờ sáng, bật nhạc Doors thật to đến điếc tai hàng xóm nữa. Thay vào đấy, chúng ta đã vị tình người quen mà gia nhập bảo hiểm nhân thọ, đã bắt đầu vào quán rượu trong khách sạn mà uống rượu, đi nha sĩ xong biết cất giữ biên lai để khai thuế lấy lại phần trợ cấp y tế,......

Nói gì đi nữa, cũng đã đạt đến tuổi 28 rồi chớ chơi sao.

*

Thế mà, ngay sau đấy, đã là một cuộc tàn sát không dự đoán được. Có thể gọi là một cuộc phục kích thình lình. Một ngày thư thả dưới nắng xuân ấm áp, đúng lúc chúng ta đang thay bộ âu phục. Kích cỡ có chỗ không vừa, hay tay áo lật ngược, hay chân phải đút vào ống quần hiện thực, mà chân trái tra vào ống quần phi-thực,......, chúng ta đang loay hoay bận bịu như thế; đúng lúc ấy, cuộc tàn sát xảy đến theo với tiếng súng kỳ dị. Có ai đấy đã đặt cỗ súng liên thanh siêu hình trên ngọn đồi siêu hình mà xối những loạt đạn siêu hình xuống chúng ta.

Nói gì đi nữa, chết thì vẫn là chết thôi. Cũng như, có vọt ra từ trong mũ, hay nhảy ra từ ruộng lúa, thì con thỏ cũng vẫn là con thỏ thôi. Lò cừ thiêu nóng cũng vẫn là lò cừ thiêu nóng, mà khói đen bốc lên từ ống khói cũng vẫn là khói đen bốc lên từ ống khói đó thôi.

*

Người đầu tiên đã giẫm lên cái lạch nước sâu tăm tối vắt ngang giữa hiện thực và phi-thực (hay giữa phi-thực và hiện thực) là bạn cùng thời đại-học của tôi, đang là giáo viên Anh ngữ trung học cấp hai. Kết hôn được ba năm, vợ anh đã về quê ở đảo Shikoku từ cuối năm ngoái để sinh con.

Một buổi chiều chủ nhật quá nóng cho tháng Giêng, anh ta đến hàng bán vật dụng bằng kim loại trong tiệm bách hoá, mua một con dao điêu khắc chế tạo ở Đức, bén ngót đến có thể cắt đứt cả tai voi; và hai hộp kem cạo râu, rồi về nhà đun nước tắm. Lấy nước đá trong tủ lạnh ra, uống hết một chai Scotch Whisky, xong bình thản cắt cổ tay mà chết, ngay trong bồn tắm.

Hai ngày sau, mẹ anh phát giác ra xác con. Rồi cảnh sát đến chụp nhiều hình hiện trường. Chỉ cần có vài chậu lá cây sắp xếp thêm vào là thành một phong cảnh dùng được cho các quảng cáo nước cốt cà-chua.

Công bố của cảnh sát là tự-sát đấy. Cửa nẻo trong nhà đều khóa chặt cả, nhất là chính đương sự đã mua con dao ấy ngay hôm đó chứ ai.

Tuy nhiên, vì lý do gì mà anh ta lại mua cả kem cạo râu, để không khi nào dùng, mà đến hai hộp kia, thì chẳng ai hiểu cả. Hoặc giả, anh ta chưa quen được với ý nghĩ rằng mình sắp chết trong vòng vài giờ đồng hồ nữa thôi. Hoặc là, chỉ vì anh ta lo người bán hàng đoán được ý định tự-sát của mình chăng?

Di thư không có, dăm chữ để lại cũng không. Trên bàn nhà bếp chỉ có ly, chai whisky đã cạn, đĩa đựng nước đá, và hai hộp kem cạo râu. Hẳn là suốt trong lúc đợi nước tắm đủ nóng, anh ta đã rót whisky Haig với đá, ly này tiếp ly khác, cho trôi xuống cuống họng, vừa ngắm hai hộp kem cạo râu ấy. Và có lẽ anh ta đã suy nghĩ như thế này:

Tớ chẳng còn phải cạo râu một lần nào nữa cả.

Cái chết của một thanh niên 28 tuổi có vẻ gì buồn rầu như cơn mưa mùa đông.

*

Tiếp theo đó, trong vòng 12 tháng, đã có bốn người chết.

Tháng 3, một người chết trong tai nạn mỏ dầu ở Saudi Arabia, hay Kuwait gì đấy. Tháng 6 có hai người chết, vì bệnh tim và tai nạn giao thông. Từ tháng 7 đến tháng 11 là những ngày an bình. Đến giữa tháng 12, có người chết, cũng lại vì tai nạn giao thông.

Trừ người đầu tiên là bạn tôi tự-sát, những người kia đều đã chết thình lình, không có thì giờ để ý thức về sự chết. Cứ như là đang lơ đãng bước lên những bậc cấp quen thuộc, thình lình một bậc cấp đã đổ sụp xuống vậy. Một anh đã nói -"Trải chăn lót hộ tí đi". Anh bạn đã chết vì bệnh tim vào tháng 6 đấy. -"Phía sau đầu nghe như có ai đập đùng đùng ấy". Anh ta đã chui vào chăn ngủ, và không còn trở dậy nữa.

Cô bạn chết tháng 12 là người trẻ tuổi nhất trong bọn, trong năm ấy. Đồng thời cũng là người nữ duy nhất. 24 tuổi, tuổi của các nhà cách mạng và ca sĩ Rock. Một buổi hoàng hôn mưa lạnh gần Giáng Sinh, trong khoảng không gian bi-kịch mà lại vô cùng thường nhật, giữa trụ điện xi-măng và chiếc xe tải của hãng bia, cô đã bị chèn dẹp mà chết.

*

Vài ngày sau đám tang cuối cùng ấy, tôi ôm bao áo vét mới lấy về từ tiệm giặt ủi, cùng với chai whisky tạ ơn, đến thăm căn chung cư của người chủ bộ áo vét ấy.

-"Cảm ơn về mọi chuyện. Nhờ thế mà song suốt cả rồi". Tôi nói.

-"Đừng ngại gì cả. Đằng nào thì tớ cũng đâu có dùng đến". Hắn cười nói.

Trong tủ lạnh vẫn sẵn nửa tá bia lon ướp lạnh, ghế dài phòng khách ngồi sướng mông, phảng phất mùi nắng dìu dịu. Trên bàn có đĩa gạt tàn thuốc mới lau rửa, và chậu hoa trạng nguyên Poinsettia cho mùa Giáng Sinh.

Hắn nhận lấy bao nhựa bọc bộ áo vét, treo ngay vào tủ, nhanh như đẩy chú gấu con vừa tỉnh giấc ngủ đông vào lại trong hang.

-"Áo vét không bị thấm mùi các đám tang thì tốt". Tôi nói.

-"Áo ấy thì chả sao. Áo chuyên dùng cho việc đi đám kia mà. Đáng lo là thân người bên trong áo kia".

-"Ừm". Tôi nói.

-"Bởi nhiều đám táng quá mà". Hắn nói, gác chân lên ghế trước mặt, rồi rót bia vào ly. -"Tất cả mấy người thế nhỉ?"

-"Năm người". Tôi nói, mở rộng bàn tay trái trước mắt hắn. -"Nhưng thế là xong cả rồi".

-"Cậu nghĩ là xong hết rồi à?"

-"Có cảm giác thế". Tôi đáp. -"Đã đủ số người chết rồi".

-"Nghe gì như lời nguyền trong Kim Tự Tháp ấy nhỉ. Lúc các ngôi sao mọc vòng tròn trên bầu trời, lúc bóng của mặt trăng che khuất mặt trời,......"

-"Chuyện đời là như thế chứ gì".

Hết nửa tá bia, chúng tôi quay sang chai whisky. Nắng chiều mùa đông chiếu vào phòng trông như một đường dốc thoai thoải óng ánh.

-"Dạo này trông mặt cậu u ám thế nào ấy". Hắn nói.

-"Thế à?" Tôi nói.

-"Hẳn là đêm nằm suy nghĩ thái quá đấy chứ gì".

Tôi cười lớn, nhìn lên trần nhà.

-"Tớ thì đã bỏ chuyện suy nghĩ ban đêm ấy rồi". Hắn nói tiếp.

-"Làm cách nào?"

-"Cứ khi nào có cảm giác u ám là quay sang quét dọn nhà cửa, cho chạy máy hút bụi, hay lau cửa sổ, rửa ly tách, xê dịch bàn ghế, lôi áo quần ra ủi, hay phơi áo gối,......"

-"À...".

-"Thế rồi đến 11 giờ tối thì uống rượu và ngủ lăn quay. Chỉ thế thôi. Sáng dậy, mang tất vào là quên hết mọi chuyện đêm qua. Hết sạch".

-"Hừm".

-"Khoảng ba giờ khuya, người ta thường nghĩ đến chuyện này chuyện kia đấy".

-"Có lẽ thế thật".

-"Khoảng ba giờ khuya thì các loài vật khác cũng nghĩ đến chuyện này chuyện kia như thế".

Như chợt nghĩ ra điều gì đấy, hắn hỏi:

-"Thế cậu có khi nào vào Sở Thú lúc ba giờ khuya chưa?"

-"Chưa". Tôi hờ hững đáp. -"Tất nhiên là chưa bao giờ".

-"Tớ thì đã vào được một lần rồi. Nhờ người quen cho vào. Thật ra thì cấm đấy".

-"À".

-"Một thể nghiệm kỳ dị lắm. Không biết nói sao cho đúng, nhưng đã cảm thấy cứ như là mặt đất nứt nẻ ra nhiều chỗ, từ dưới có thứ gì đấy bò lên. Thế rồi cái thứ gì đấy bò lên từ dưới lòng đất mà mắt mình không nhìn ra được ấy, đã nhảy nhót trong bóng đêm mịt mùng. Giống như một khối không khí lành lạnh. Mắt không thấy được. Nhưng những con thú lại cảm nhận được. Và tớ cảm nhận được những gì các con thú ấy đã cảm nhận. Kết cuộc, khối đất mà tớ và các con thú đang giẫm lên, đã nối liền đến tận cốt lõi của quả đất, và ở cốt lõi sâu kín ấy trong lòng địa cầu, một lượng thời gian khổng lồ đến không sao tưởng tượng nổi, đã bị thu hút vào đấy. Nói thế, cậu nghe có quái gở không nhỉ?"

-"Không đâu". Tôi đáp.

-"Tớ không nghĩ là mình sẽ đến đấy như thế lần nào nữa. Sở Thú đêm khuya ấy".

-"Lúc mưa bão thì tốt hơn sao?"

-"Ừm". Hắn đáp. -"Lúc mưa bão thì tốt hơn nhiều".

Điện thoại reo. Lại cũng một hồi điện thoại dài không dứt kiểu tế bào liên tục tách đôi, từ cô bạn gái tách ra từ cùng một tế bào ấy. Tôi ngao ngán bật ti-vi lên xem. Ti-vi màu, 66 cm, chỉ chạm nhẹ lên nút hộp bấm là đổi kênh êm ru không một tiếng động. Lại có đến sáu loa, nghe cứ như là mình đang ở trong rạp chiếu bóng ngày xưa vậy. Loại rạp chiếu cả tin tức và phim hoạt hoạ ấy.

Tôi đổi kênh liên tiếp từ số lớn đến số nhỏ hai vòng, rồi chọn kênh đang chiếu tin tức. Có tin tranh chấp biên giới, tin cháy bin-đinh, tin giá đô-la lên xuống. Có cả tin hạn chế nhập khẩu xe hơi, tin Đại hội bơi lội mùa lạnh, tin nguyên một gia đình tự-sát. Tôi có cảm tưởng những sự kiện ấy có những điểm nối kết đâu đó với nhau, như là các hình chụp học sinh tốt nghiệp thời trung học cấp hai vậy.

-"Có tin gì hấp dẫn hả?" Hắn trở lại, hỏi tôi.

-"Cũng tàm tạm". Tôi nói. -"Bởi lâu lắm rồi mới xem lại ti-vi đấy".

-"Ti-vi thì ít nhất cũng có được một ưu điểm". Hắn nói, sau một hồi suy nghĩ. -"Đấy là khi nào mình muốn thì tắt nó đi được".

-"Ngay từ đầu đừng bật lên là được chứ gì".

-"Ấy, đừng nói thế chứ". Hắn cười lớn, vui thích. -"Xem thế này chứ tớ cũng là người có lòng lắm đấy".

-"Có vẻ thế thật".

-"Xem này". Hắn nói, rồi bấm nút tắt trên hộp bấm cầm trong tay. Màn hình phụp tắt. Căn phòng chợt im bặt. Ngoài song cửa, đèn bin-đinh bắt đầu thắp sáng lên.

Trong khoảng 5 phút, chúng tôi hầu như chẳng nói chuyện gì, chỉ tiếp tục uống whisky. Điện thoại reo một lần nữa, nhưng lần này hắn làm bộ không nghe. Khi chuông điện thoại dứt, như chợt nhớ lại, hắn bấm nút mở ti-vi lên. Trong chớp mắt, màn hình sáng lên lại, người giải thuyết tin tức lại tiếp tục vừa cầm que dài chỉ lên đồ-hình đường gãy phía sau lưng vừa giải thích về biến chuyển của giá dầu thô.

-"Anh ta nào có để ý là tụi mình vừa tắt ti-vi đến 5 phút đâu".

-"Ừ thì thế". Tôi nói.

-"Tại sao?"

Suy nghĩ chuyện như thế này thì phiền toái quá nên tôi lắc đầu.

-"Ngay cái lúc bấm tắt ấy, hiện hữu của một trong hai bên đã không còn nữa. Hoặc là tụi mình, hoặc là anh ta".

-"Nhưng có cách suy nghĩ khác chứ". Tôi cãi.

-"Ừ, thì có. Suy nghĩ thì có cả triệu cách khác nhau. Ở Ấn độ người ta trồng dừa, mà ở Venezuela người ta rải chính-trị-phạm từ máy bay trực thăng".

-"Hừm"

-"Chuyện của người ta thì tớ chẳng muốn nói này nói kia làm gì". Hắn nói. -"Nhưng trên đời này vẫn có cách chết không có đám táng. Chết không mùi gì cũng có nữa"

Tôi im lặng gật đầu. Rồi mân mê lá xanh của cây trạng nguyên. -"Sắp đến lễ Giáng sinh rồi nhỉ".

-"À này, có champagne đấy". Hắn nói, có vẻ nghiêm trang. -"Thứ hảo hạng mang về từ Pháp đấy nhé, uống không?"

-"Thứ dùng cho cô gái nào đấy chứ gì?"

Hắn đặt chai champagne ướp lạnh và hai ly thủy tinh mới lên bàn.

-"Cậu không biết à?" Hắn nói. -"Champagne đâu có để dùng cho chuyện gì. Chỉ có lúc nào nên khui nút chai mà thôi".

-"A, thế đấy!"

Chúng tôi khui nút chai champagne.

Và nói chuyện về Sở Thú cùng động vật trong Sở Thú ở Paris.

*

Cuối năm ấy có một buổi tiệc nhỏ. Tiệc tất niên tân niên mỗi năm vẫn làm trong đêm giao thừa qua đến sáng năm mới, thuê nguyên một quán rượu ở khoảng Roppongi. Có dương cầm tam tấu không đến nỗi tệ, có thức ăn ngon, rượu ngon, hầu như chẳng quen ai nên chỉ cần thơ thẩn một mình trong góc là đủ cho một buổi họp mặt nhẹ nhàng.

Tất nhiên là cũng sẽ được giới thiệu với vài người nào đấy. Hân hạnh được biết... vâng, đúng thế... quả là thế thật... ừm, cũng chỉ đâu đấy thôi... nếu được thế thì tốt quá nhỉ, vân vân... Tôi góp nụ cười, chêm vào vài câu nói theo nhịp, lấy thêm rượu rồi rút lui về góc cũ, vừa nhấm nháp vừa suy tư về những xứ sở, những thủ đô trên đại lục Nam Mỹ.

Nhưng hôm ấy, người đàn bà mà tôi được giới thiệu đã cầm hai ly rượu theo đến tận chỗ của tôi.

-"Chính em đã nhờ giới thiệu với anh đấy". Nàng nói.

Không phải là người đẹp đến tạo sự chú ý từ mọi người chung quanh, nhưng cũng là một phụ nữ đáng yêu. Và khéo trang phục trong bộ áo đầm lụa đắt tiền. Có lẽ vào khoảng 32 tuổi. Nếu thật tình muốn được thấy trẻ hơn nữa có lẽ cũng không khó khăn gì, nhưng có vẻ nàng nghĩ điều đó không cần thiết. Hai bàn tay đeo ba chiếc nhẫn, khoé miệng nở nụ cười như hoàng hôn mùa hạ.

Không nói ra được lời gì hay, tôi yên lặng mỉm cười theo nàng.

-"Anh trông thật giống một người quen của em".

-"Thế à". Tôi nói. Nghe giống hệt như lời giáo đầu của câu tán tỉnh tôi đã dùng thời học sinh, nhưng nàng trông không phải là mẫu người phải dùng đến thứ thủ đoạn tầm thường ấy.

-"Khuôn mặt anh, cả dáng lưng, cả cử chỉ, cả cách nói năng, đều giống hệt đến làm em ngạc nhiên. Em nhìn anh suốt từ lúc anh mới đến đấy".

-"Nếu có người giống tôi đến như thế thì tôi cũng muốn gặp một lần cho biết". Tôi nói. Câu này lại cũng đã nghe đâu đấy rồi.

-"Thật không?"

-"Vâng, tuy có hơi lo sợ một tí".

Nét cười của nàng thoáng sâu đậm thêm, rồi trở lại như trước. -"Nhưng không được đâu". Nàng nói. -"Anh ấy đã mất đi năm năm trước rồi. Đúng vào khoảng tuổi của anh bây giờ đấy".

-"Hừm". Tôi nói.

-"Em giết mất đấy".

Có vẻ ban tam tấu dương cầm vừa xong vòng diễn tấu thứ hai, đâu đây có tiếng vỗ tay rời rạc.

-"Câu chuyện của hai người có vẻ đậm đà quá nhỉ". Người bạn gái chủ trì buổi tiệc chen vào, nói với chúng tôi.

-"Vâng". Tôi nói.

-"Đúng thế đấy chị ạ". Nàng duyên dáng tiếp lời.

-"Muốn yêu cầu bản nào, ban nhạc có thể diễn tấu cho đấy, thế nào?". Bà chủ tiệc hỏi.

-"Thôi khỏi chị ạ. Ở đây nghe thế này đủ vui rồi. Anh thì sao?"

-"Tôi cũng thế".

Bà chủ tiệc mỉm cười, dời sang bàn khác.

-"Anh thích âm nhạc không?". Nàng hỏi tôi.

-"Trong thế giới tốt đẹp mà nghe nhạc hay thì thích". Tôi đáp.

-"Thế giới tốt đẹp thì làm gì có nhạc hay! Thế giới tốt đẹp thì không khí không chấn động đâu anh".

-"Thế à?"

-"Anh đã xem phim có Warren Beatty đàn dương cầm trong hộp đêm chưa?"

-"Chưa, chưa xem".

-"Elizabeth Taylor là khách ở hộp đêm ấy, một vai nghèo thê thảm lắm".

-"Hừm"

-"Warren Beatty hỏi Elizabeth Taylor có muốn yêu cầu bản nào không".

-"Rồi sao thế?". Tôi hỏi. -"Yêu cầu bản nào thế?"

-"Em không nhớ. Bởi phim đã xem lâu quá rồi". Nàng cầm ly rượu lên uống. Chiếc nhẫn trên tay lấp lánh sáng. -"Em không thích yêu cầu. Có cảm giác thê thảm thế nào ấy. Như sách mượn về từ thư viện, vừa mới bắt đầu đã nghĩ ngay đến lúc chấm dứt rồi".

Nàng ngậm điếu thuốc trên môi, tôi đánh diêm châm lửa.

-"Nhưng mà...". Nàng nói. -"mình đang nói chuyện người giống hệt anh đấy nhỉ?"

-"Giết anh ta bằng cách nào thế?"

-"Ném vào thùng nuôi ong đấy".

-"Xạo đấy chứ?"

-"Xạo đấy". Nàng nói.

Tôi cầm ly rượu lên uống để nén tiếng thở dài.

-"Tất nhiên, chẳng phải là giết theo nghĩa luật pháp". Nàng nói. -"Mà cũng không phải theo nghĩa luân lý".

-"Giết người không theo nghĩa luật pháp mà cũng không theo nghĩa luân lý...". Tuy không hào hứng gì nhưng tôi cũng gắng thu thập những điểm chính. -"Thế mà cô đã giết người ta..."

-"Đúng thế". Nàng gật đầu có vẻ vui thích. -"Người giống hệt anh đấy".

Ban nhạc lại bắt đầu diễn tấu. Một bản nhạc cũ đến nỗi chính tôi cũng chẳng nhớ tên.

-"Không đến 5 giây...". Nàng nói. -"để giết người ấy".

Im lặng một hồi. Có vẻ nàng thong thả vui hưởng khoảng im lặng ấy.

-"Anh có khi nào nghĩ về tự-do không?". Nàng hỏi.

-"Thỉnh thoảng". Tôi nói. -"Sao cô hỏi thế?"

-"Anh vẽ được hình hoa cúc dại không?"

-"Có lẽ được... Cứ như là đang kiểm chỉ số thông minh ấy nhỉ".

-"Cũng gần như thế". Nàng nói, và cười lớn.

-"Thế, tôi đậu được chứ?"

-"Vâng". Nàng đáp.

-"Cảm ơn". Tôi nói.

Ban nhạc bắt đầu chơi bài "Tạm biệt".

-"11 giờ 55 phút". Nàng liếc nhìn đồng hồ vàng đính vào đầu sợi dây chuyền và nói. -"Em rất thích bản Tạm biệt. Anh thì sao?"

-"Tôi thích bản Nhà ta trên đồng cỏ hơn. Có sơn dương, có bò rừng,..."

Nàng lại cười tươi tắn.

-"Em rất vui thích được nói chuyện với anh. Tạm biệt anh".

-"Tạm biệt". Tôi nói.

*

Để tiết kiệm không khí, đèn khí khung kim loại đều đã tắt cả đi, bốn bề phủ một màu đen thẫm. Không ai hé miệng một lời nào. Chỉ có tiếng giọt nước, cứ khoảng 5 giây, lại rơi từ trần xuống, vang vọng trong không gian tối mịt ấy.

-"Mọi người, gắng nín thở. Không khí chẳng còn bao nhiêu nữa".

Người phu mỏ lớn tuổi nói như thế. Giọng thì thào thật nhỏ, vậy mà phiến đá trên trần cũng cựa lên một tiếng nứt li-ti. Những người phu mỏ nép vào nhau trong bóng tối mịt mùng, lắng tai chờ để nghe được một tiếng động duy nhất. Tiếng cuốc chim cuốc vào đá. Tiếng gọi của sự sống.

Họ đã chờ như thế đã bao nhiêu giờ rồi. Bóng tối đã từ từ hoà tan từng mảnh hiện thực. Họ cảm thấy tất cả mọi thứ đều như đã xảy ra từ thời nào xa thật là xa, ở một thế giới xa xôi nào đấy. Mà cũng cảm thấy như tất cả mọi thứ đều có thể sẽ xảy ra ở lúc nào đấy xa thật là xa trong tương lai, ở một nơi nào xa lắc.

-"Mọi người, gắng nín thở. Không khí chẳng còn bao nhiêu nữa".

Bên ngoài kia, tất nhiên người ta vẫn còn tiếp tục đào tìm. Cứ như là một màn diễn trong phim ảnh vậy.

Phạm Vũ Thịnh dịch


--

Chú thích:

[1] Bee Gees: Ban nhạc của anh em nhà Gibb sinh ở Anh di dân sang Úc, nổi tiếng khoảng 1965-66 ở Úc rồi trở lại Anh. "New York Mining Disaster 1941" là tác phẩm tự biên tự diễn đầu tiên tạo tăm tiếng quốc tế cho ban này năm 1966, có những lời ca sau đây:

I keep straining my ears to hear a sound.
Maybe someone is digging underground,
or have they given up and all gone home to bed,
thinking those who once existed must be dead.


--

Ghi chú của người dịch:

Truyện ngắn "Nyu-yo-ku Tankô No Higeki - New York Mining Disaster" đã đăng trên tạp chí Brutus tháng 3 năm 1981, là truyện thứ 3 trong tuyển tập Thuyền Hàng Đi Trung Quốc - Chugoku-iki No Suro-bo-to, được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật trong bản bỏ túi do Chuko Bunko tái bản lần thứ 7 tháng 1 năm 2003.