>
Trang 2/2 đầuđầu 1 2
kết quả từ 11 tới 12 trên 12

Ðề tài: [Truyện dài] Sắc lá Momiji - Miyamoto Teru (full)

  1. #11
    Ronin
    A Châu's Avatar


    Thành Viên Thứ: 192493
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: TP Hồ Chí Minh
    Tổng số bài viết: 330
    Thanks
    41
    Thanked 744 Times in 208 Posts
    Bức thư số 9


    Chào em!

    Quá khứ, hiện tại, tương lai... Tôi đã lĩnh hội những từ ngữ mang lời lẽ thuyết giáo ấy của em như là những từ ngữ chất chứa bao tâm huyết của em, của một người mẹ đã nuôi dạy đứa con trai bị khuyết tật bẩm sinh tên là Kiotaka cho đến ngày hôm nay, và từ nay vẫn phải tiếp tục nỗ lực chiến đấu nhiều hơn nữa với chính bản thân mình. Và thực tế, bản thân tôi đây cũng sắp tròn ba mươi tám tuổi rồi, vậy mà tôi thấy mình vẫn chẳng khác nào một cậu thanh niên còn búng hơi sữa. Quả đúng như nhận xét của em. Rốt cuộc thì tôi vào nhà nghỉ Kionoya ấy để làm gì? Chính vì cái thằng tôi là thế đấy, nên mười năm trời trôi qua, tôi đã tụt dốc, đã biến thành đôi giày rách nát bị người ta ném xuống cống. Dẫu vậy, bây giờ tôi vẫn đang làm việc. Tôi lần lượt đi bộ vòng quanh từng khu vực ở khắp Osaka này để làm công việc của mình. Cứ vào chín giờ sáng, tôi lại cho cuốn tạp chí mẫu, tờ rơi quảng cáo và tờ đơn cần thiết để xác nhận việc đồng ý ký hợp đồng vào cặp, rồi cùng Reiko cũng xách theo chừng ấy đạo cụ đi về hướng nhà ga. Chúng tôi chia tay nhau ở đó, rồi lên xe điện nhằm về phía khu vực nằm trong kế hoạch ngày hôm đó. Khu vực trong thành phố Osaka là do Reiko đảm nhiệm, các thành phố Hirakata, Neyagawa , Sakai ở bên ngoài thành phố do tôi phụ trách. Nếu đi bằng ô tô thì hồi này, hầu hết các phố đều cấm đỗ ô tô, nên rất có khả năng xe sẽ bị dán giấy phạt vi phạm quy định về đỗ xe trong khi tôi đang mải bàn chuyện trong các tiệm thẩm mỹ. Vả lại, các tiệm thẩm mỹ thường nằm trong các khu phố buôn bán sầm uất, hay ở những khu vực đông người qua lại như trước cửa nhà ga chẳng hạn, nên xe ô tô khó mà lách được vào những con phố chật hẹp ấy. Do vậy, chúng tôi đã đi đến quyết định rằng, khi đi làm công tác ngoại giao thì đi bộ tốt hơn là đi xe ô tô.

    Tôi cầm trên tay tấm bản đồ và bắt đầu đi. Tôi vừa đi vừa đảo mắt nhìn quanh để tìm những biển hiệu có đề tiệm thẩm mỹ. Khi tìm thấy một tiệm thẩm mỹ nào đó, trước tiên tôi sẽ xem xét kỹ hình thức của cửa hàng đó. Những cửa hàng mà kính cửa sổ bẩn thỉu, hoàn toàn không có sự đầu tư, sáng tạo để thu hút khách hàng, thì cho dù có to đến mấy, họ cũng sẽ chẳng quan tâm gì đến cuốn tạp chí PR này đâu. Nhưng, cho dù đó chỉ là một cửa hàng nhỏ, có một mình chủ cửa hàng quản lý thôi, mà thấy trên cửa ra vào hay trên tường có dán ảnh các mẫu tóc hiện đang mà mốt, hay có gắn biển thông báo rằng, "Giảm 10% cho khách hàng làm vào các ngày trừ thứ Bảy và Chủ nhật", thì dù lúc đầu họ có tỏ vẻ khó chịu đi chăng nữa, chỉ cần tôi kiên trì giải thích cho họ, dần dần, họ sẽ tỏ ý quan tâm và sẽ ký tên đóng dấu vào bản đăng ký hợp đồng, với mong muốn lấy thử tạp chí của một tháng.

    Cảm giác đau đớn của đôi bàn chân vào cái hôm mà tôi đã đi bộ suốt cả một ngày trời, vào gần hai mươi tiệm thẩm mỹ, mà chẳng ký thêm được hợp đồng với một cửa hàng nào thật là khó diễn tả. Tôi vô cùng kinh ngạc khi bà chủ béo tròn như một chú lợn của một tiệm thẩm mỹ cuối phố khi đang nghe lời thuyết trình của tôi đã bất chợt nổi cáu. Bà ấy đã bóng gió yêu cầu tôi một việc này. Đó là, tôi phải gọi bà ta là thầy. Tôi cũng băn khoăn không hiểu vì sao mình lại phải gọi bà chủ cái tiệm thẩm mỹ bé tí ti kia là thầy, nhưng bà ta thì lại bảo là, trên thế giới này, việc gọi những người chủ cửa hàng là thầy là lẽ thường. Sau khi đã trình bày cặn kẽ một hồi, tôi bị bà ta chối phắt: "Tặng khách hàng những tập giấy trị giá hai mươi yên cho một bản thế này thì phí phạm quá". Kể từ lúc đó, mỗi lần bước vào tiệm thẩm mỹ nào, cho dù có biết rõ người ra tiếp tôi là nhân viên của cửa hàng đó, lúc đầu bao giờ tôi cũng cứ hỏi: "Xin hỏi có phải thầy không ạ?". Không biết bao nhiêu lần tôi kiên trì thuyết phục phải đến gần một giờ đồng hồ, khi người chủ cửa hàng có vẻ chuẩn bị đồng ý ký hợp đồng, thì người thanh niên học việc trẻ tuổi lại chêm vào: "Khách hàng cũng chẳng thích thú gì với việc chúng ta đưa cho họ cái thứ này đâu ạ. Thầy ơi, thầy nên bỏ qua nó đi ạ". Cuối cùng, tôi lại chẳng ký được hợp đồng với những cửa hàng ấy. Tuy nhiên, cũng có những ngày, tôi vào ba cửa hàng thì cả ba cửa hàng đó đều đồng ý ký hợp đồng với tôi. Tôi cứ liên tục đi bộ như thế trong vòng ba tuần, và một đôi giày da của tôi đã rách toạc. Ở đầu mũi ngón cái chỗ đáy của cả hai chiếc giày đều bị thủng một lỗ, cái gót thì mòn vẹt đi. Đôi giày tôi mới tậu để dùng cho việc đi giao dịch, chỉ trong vòng ba tuần đã thê thảm thế đấy. Bù đắp cho điều đó, đôi bàn chân của tôi vốn mềm oặt như con sứa giờ đã chắc khỏe như bàn chân của một vận động viên leo núi. Trong vòng ba tuần vừa qua, Reiko đã ký hợp đồng được với mười hai cửa hàng, còn tôi cũng được mười sáu cửa hàng. Cộng với cả hai mươi sáu cửa hàng của tháng trước, lúc này con số đó đã tăng lên năm mươi tư cửa hàng. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã gửi thư quảng cáo tới năm trăm tiệm thẩm mỹ ở khắp vùng Kinki, và có mười hai cửa hàng đã gửi đơn xin ký hợp đồng. Tổng số bây giờ là sáu mươi sáu cửa hàng.

    Hơi cường điệu một chút, tuy nhiên, đôi khi tôi có cảm giác như cái việc đi bộ để tìm các tiệm thẩm mỹ này giống như một kiếp người vậy. Có những lúc đứng ở ngã tư đường phố, tôi định vị trong đầu xem mình sẽ đi theo hướng nào. Rẽ phải rồi đi tiếp, người trên đường cứ thưa dần, tôi lạc vào con đường với một loạt các nhà máy, khi ấy tôi mới nhận ra là mình đang đi bộ trên một con đường mà chắc chắn sẽ chẳng có một tiệm thẩm mỹ nào. Nhưng, tôi đã đi được một quãng khá xa, lúc này chẳng thể nào quay đầu lại được nữa, tôi chỉ còn cách cứ thế bước đi như một gã khờ trên con đường chỉ toàn nhà máy nối tiếp nhà máy. Khi đặt chân đến chỗ trông có vẻ như con phố tôi muốn đến thì ánh chiều đã tắt, tôi lại còn chẳng rõ đấy là chỗ nào, và đi đường nào để trở về nhà nữa, rồi thì chỉ muốn ngồi phệt xuống chỗ đó, người mệt lử đử, và dò dẫm tìm đường trở về nhà mà chẳng muốn bước chân vào trong một tiệm thẩm mỹ nào nữa. Tương tự, có những khi, tôi đến một ngã tư đường, phân vân và tự nhủ, ây hà, đi theo lối này thôi. Ngay lập tức, tôi ra đến một khu đô thị mới, rồi tìm thấy một tiệm thẩm mỹ vừa mới khai trương, và họ nhanh chóng nhận lời ký hợp đồng với tôi. Ngày ngày, tôi cứ thế đi bộ trên các dãy phố, phân vân không biết nên rẽ trái hay rẽ phải, khiến tôi có một cảm nhận kỳ lạ, thật giống như số kiếp con người.

    Riêng việc đưa tạp chí đến sáu mươi sáu cửa hàng, chúng tôi vẫn buộc phải sử dụng xe ô tô. Tháng trước, chỉ cần một ngày là xong hết, nhưng tháng này phải mất tới ba ngày. Phân phát xong, tôi nghỉ ở nhà khoảng ba ngày. Tôi đến hiệu sách, tìm mua những cuốn sách phục vụ cho công việc biên tập cuốn tạp chí PR số tiếp theo rồi trở về nhà. Vào đến nhà, tôi thấy Reiko đang ngồi cúi đầu với nét mặt ủ rũ. Tôi hỏi cô ấy rằng, có chuyện gì vậy, nhưng cô ấy không đáp lại. Nhưng khi tôi nằm xuống, duỗi chân xem ti vi, có vẻ như không chịu đựng được nữa, cô ấy liền nói: "Cái cô Katsunuma Aki là ai vậy?". Tôi giật mình nhìn Reiko. Tôi đã cất tất cả những lá thư em gửi vào sâu tít trong cùng của ngăn bàn làm việc của tôi kia mà. Đợt trước, Reiko đi làm ở siêu thị, còn tôi thì ngày ngày lông bông ở nhà, nên tôi vẫn thường nhòm vào hòm thư trước nhà và cứ thế thản nhiên nhận thư em mà chả lo bị cô ấy phát hiện. Nhưng, từ hai tháng trước, khi Reiko bắt đầu say sưa vào dự án kinh doanh này, tôi đã nhờ trước với bác quản lý khu nhà này bí mật cất giùm những lá thư gửi đến cho tôi, rồi hãy lẳng lặng đưa cho tôi sau. Tôi đã dúi vào tay bà cụ tờ giấy bạc năm nghìn yên để bà cụ giúp cho việc ấy. Bà cụ cười tinh quái rồi nhận số tiền đó. Nên, tôi không hiều làm sao Reiko lại biết được việc của em. Thấy tôi lặng im không nói, Reiko lôi từ trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi ra một xấp thư dày cộp đến độ đáng kinh ngạc, gồm có bảy lá thư, bắt đầu từ lá thư đề ngày 16 tháng 1, theo dấu bưu điện. Những lá thư ấy vẫn cứ liên tiếp được gửi đến đây. Tóm lại, cô gái có tên là Katsunuma Aki là ai vậy? Reiko hỏi dồn tôi. Phong thư đã được cắt ra, bởi vậy rõ là nếu Reiko có ý định đọc trộm thì cô ấy hoàn toàn có thể đọc được. Nhưng, với câu hỏi "là ai vậy", tôi suy ra là cô ấy chưa hề xem nội dung bên trong. Có lẽ Reiko đã kiềm chế việc muốn đọc những lá thư ấy, và đợi tôi về. Reiko bảo thế này. Lá thư đầu tiên thì đề tên là Hoshijima Aki, vậy mà từ lá thư thứ hai trở đi lại đề là Katsunuma Aki. Tóm lại người phụ nữ này là ai? Em muốn anh nói cho em biết cô ấy là gì với anh? Tôi cười hỏi: "Em đang ghen đấy à?". "Em thèm vào mà ghen". Reiko ngước mắt lên lườm lại tôi. "Phong bì đã cắt ra rồi, sao em không đọc trộm nó đi". Nghe tôi hỏi vậy, Reiko cúi đầu, lẩm bẩm: "Em không thể làm cái việc tự tiện đi đọc thư của người khác...". Tôi chưa từng kể cho Reiko nghe về quá khứ của mình. Chỉ có duy nhất một lần, vào hôm tôi chở cô ấy đi giao dịch, tôi có nói với cô ấy rằng trước đây, tôi đã từng sống ở quận Namano. Tôi vừa nhìn theo dấu bưu điện in trên những lá thư của em, vừa xếp chúng lần lượt theo thứ tự, rồi bảo với Reiko rằng, em đọc chúng đi. Tôi xin lỗi em vì đã cho người khác đọc những lá thư em gửi mà chưa được sự đồng ý của em. Bởi tôi nghĩ rằng, nếu đọc rất nhiều những lá thư em gửi đến cho tôi này, thì dẫu tôi chẳng kể thêm gì, cô ấy vẫn sẽ hiểu tất cả.

    Dù sao tất cả cũng chỉ toàn là những lá thư rất dài. Lại còn những bảy lá nữa chứ. Ban đầu, Reiko cầm hết chúng ra chiếc bàn tròn, rồi ngồi ở đó và bắt đầu đọc chúng. Trong lúc ấy, tôi cứ thế nằm xem ti vi. Tôi thầm nghĩ không biết cô ấy sắp đứng dậy đi nấu cơm tối chưa nhỉ. Ấy nhưng cô ấy vẫn cứ tiếp tục đọc nghiến đọc ngấu những lá thư ấy. Tôi hỏi cô ấy rằng, anh đi ra ngoài ăn nhé, có được không. Reiko mắt vẫn dán chặt vào trang thư, lí nhí trả lời, vâng.

    Tôi ăn tối ở một nhà hàng gần đó. Ăn xong, tôi ghé vào một quán cà phê trước cửa nhà ga và uống cà phê ở đó. Được ba mươi phút, thấy chẳng có việc gì để làm, tôi mượn người chủ quán cà phê một tờ giấy nháp và một cái bút bi, nghĩ ngợi xem để tăng số lượng khách hàng lên một trăm năm mươi cửa hàng, cần phải đưa ra hình thức kinh doanh gì, lại còn số tạp chí tháng sau nên đăng nội dung gì nữa, và viết vào giấy khoản tiền thâm hụt hiện tại, số tiền tiết kiệm còn lại. Vắt óc nghĩ ngợi, và trong khi nhìn những con số nối tiếp nhau được ghi trên giấy, tôi bỗng nhớ ra là đã lâu rồi không đi đến cửa hàng cắt tóc. Định bụng ngày mai sẽ đi cắt tóc, tôi chợt nghĩ ra một điều này. Đó là, hay là chúng tôi cũng làm tạp chí kiểu thế này dành cho các tiệm cắt tóc nhỉ. Hệ thống cũng tương tự như vậy, nhưng một khi đã là tiệm cắt tóc thì nội dung cũng phải thay đổi, phải hướng đến nam giới nhiều hơn. Phải rồi, mình mở rộng sân sang cả tiệm cắt tóc nữa. Nhưng, không được vội vàng đâu đấy. Để cho mảng tiệm thẩm mỹ đi vào quỹ đạo đã, để doanh thu của nó đi vào ổn định đã.

    Rời quán cà phê, tôi đi qua khu chung cư, rẽ vào con ngõ nhỏ để đến xưởng in. Chỗ cửa sổ kính có dòng chữ "Xưởng in Tanaka", đóng cửa, rèm bên trong cũng kéo kín. Nơi làm việc đèn vẫn sáng, tôi nghe thấy tiếng máy chạy. Tôi mở cửa kính, và thấy ông chủ xưởng in tay đeo đôi găng màu đen, vấy bẩn bởi mực dùng cho máy in, đang kiếm tra lại bản in nổi dính đầy mực in. Tôi hỏi ông ấy rằng, bác vẫn đang làm việc ạ. Ông chủ xưởng in dáng người thấp bé, mái tóc hoa râm liền ngừng tay lại, nháy nháy đôi mắt nhỏ xíu, cười niềm nở: "Mời anh vào". Nào hộp mực, nào giấy dùng để in thử để bừa bãi khắp phòng, đến mức chẳng còn chỗ nào để mà đi nữa. Căn phòng thì nồng nặc mùi mực in, rồi mùi giấy. Còn nữa, mấy nghìn khuôn chữ in bằng chì trong hộp các tông nơi góc tường ánh lên dưới ánh đèn huỳnh quang. Ông chủ kéo chiếc ghế ở góc phòng, mời tôi ngồi. Rồi ông cởi đôi găng tay ra, bắt đầu nói chuyện: "Tháng này đã tăng thêm bốn mươi cửa hàng rồi đấy nhỉ". "Cứ đà, chẳng mấy chốc mà lên thành một trăm năm mươi cửa hàng ấy chứ". Tôi nói đại ý là chúng tôi cũng đã được xưởng in của ông giúp đỡ rất nhiều. "Tôi nghĩ số lượng đó sẽ tăng lên tới con số năm trăm". Ông nói vậy với cách nói không hề lấy lòng chút nào. Năm trăm cửa hàng sẽ là một trăm nghìn bản. Trong số đó, sẽ có những cửa hàng một bộ lấy hai trăm bản là không đủ, phải là bốn trăm bản, sáu trăm bản kia. Và nếu vượt qua con số một trăm nghìn bản, mỗi một bản, xưởng chúng tôi có thể giảm xuống cho anh thành năm yên, chứ không phải bảy yên như bây giờ. Có những khách hàng trả cho chúng tôi khoản tiền mặt mỗi tháng năm trăm nghìn yên là rất quý với một xưởng in nhỏ như chúng tôi. Ông chủ xưởng in nói vậy với vẻ mặt chân thành. Vì vậy, tôi đã nói qua với ông ấy về kế hoạch mở rộng sân sang cả tiệm cắt tóc mà khi nãy, tôi mới nghĩ ra ở quán cà phê. "Hay lắm". Ông chủ xưởng in vỗ đét vào đầu gối. Không nên bỏ qua các tiệm cắt tóc. Biết đâu, số lượng tiệm cắt tóc lại còn tăng hơn ấy chứ. Ông ấy nói vậy. "Các tiệm cắt tóc mọc lên ở khắp mọi nơi. Thời đại bây giờ, họ không thể giữ nguyên cách làm kiểu cũ nữa rồi". Ông chủ khoanh hai tay vào nhau, mắt ngước lên trần nhà, nhẩm tính: Năm trăm tiệm cắt tóc, năm trăm tiệm thẩm mỹ, vị chi là một nghìn cửa hàng. Thế là phải in tới hai trăm nghìn bản cơ đấy. Ông leo lên chiếc cầu thang ở góc cuối cửa hàng, mang bia và cốc xuống, rồi rót mời tôi uống. Chúng tôi vừa uống bia vừa say sưa nói chuyện gần một giờ đồng hồ. Ông ấy rất muốn nói chuyện tiếp với tôi, nhưng tôi lại muốn mau mau nói cho Reiko nghe về cái kế hoạch mà mình vừa nghĩ ra, nên mặc dù ông ấy muốn giữ tôi lại, tôi vẫn đứng dậy cảm ơn ông và trở về nhà. Tôi vừa đi vừa nghĩ, một nghìn cửa hàng ư. Hãy tiến từng bước vững chắc. Mình sẽ tăng con số ấy lên một nghìn cửa hàng trong vòng mười năm cho coi. Tâm trạng tôi lúc bấy giờ giống hệt như của một cầu thủ ném bóng chày: Cho dù có suy đi tính lại trong suốt mười năm trời, dù khóc hay cười, thì cú ném bóng cuối cùng này sẽ là đòn quyết định cho sự thành bại của tôi.

    Reiko đã ra khỏi chiếc bàn tròn, đang ngồi dựa lưng vào tường và vẫn đang tiếp tục đọc thư. Tôi lén nhòm vào, cô ấy đã đọc đến gần cuối lá thư thứ tư của em gửi. Tôi hỏi, em định đọc liền tù tì những lá thư này ư? Em không ăn tối sao? Reiko chỉ nói mỗi câu: "Vâng", rồi chẳng hề ngẩng mặt lên. Tôi tự trải chăn, thay bộ đồ ngủ, rồi nằm xuống, và lại bấm nút ti vi. Đến lá thư thứ sáu và thứ bảy, Reiko nằm sấp xuống bên cạnh chỗ tôi nằm, rồi đọc tiếp. Lúc Reiko đọc hết toàn bộ những lá thư của em cũng là lúc kim đồng hồ chỉ đến con số mười hai. Để lại tập thư ấy vào ngăn kéo, Reiko đứng dậy, tắt đèn trong phòng, rồi ra bật đèn bếp, lấy đồ ăn còn thừa trong tủ lạnh ra, và bắt đầu ăn. Tôi tắt ti vi, nhỏm dậy, ra ngồi ở chiếc ghế cạnh chỗ Reiko, châm một điếu thuốc lá. Reiko bật khóc. Cô ấy ăn đậu phụ nguội, vừa ngoạm miếng giăm bông phết đầy mayonnaise, rồi vừa ấn cơm vào mồm vừa khóc. Vừa sụt sịt, cô ấy vừa lấy mu bàn tay lau nước mắt, rồi khịt khịt hít mũi. Lau đi lau lại, nước mắt từ khóe đôi mắt tròn vẫn cứ trào ra, lăn dài xuống hai gò má trắng mịn màng, rơi xuống mặt bàn. Ăn xong, Reiko vẫn vừa dọn dẹp bát đĩa vừa khóc. Sau đó, cô ấy đi rửa mặt, đánh răng, thay bộ quần áo ngủ, trải giường ngủ của mình bên cạnh chỗ chăn của tôi, rồi nằm xuống chẳng nói một lời, trùm chăn kín lên tít tận trên đầu. Tôi một mình ngồi thần ra một lúc ở chiếc ghế chỗ bếp, nhìn Reiko nằm im trùm kín chăn không chút cử động. Chẳng lâu sau, tôi rón rén lại gần cô ấy, rồi từ từ kéo chiếc chăn đang trùm kín đầu cô ấy ra. Reiko vẫn đang mở mắt như thế, và khóc. Tôi hỏi, sao em lại khóc như thế? Mắt đẫm nước, Reiko nhìn tôi, rồi cô ấy choàng tay ra phía tôi. Cứ thế, cô ấy kéo tôi vào trong chăn của mình, lấy đầu ngón tay lần lần vết thương ở cổ tôi. Chứng tỏ là cô ấy đã đoc hết bảy lá thư của em gửi cho tôi. Cô ấy hoàn toàn không biết nội dung của năm lá thư tôi đã gửi cho em. Thế nhưng, Reiko ôm ghì lấy tôi, rồi nói: "Em thấy quý chị vợ cũ của anh, anh ạ". Cô ấy chỉ nói có vậy, còn sau, tôi có gợi chuyện thế nào đi chăng nữa, cô ấy cũng chỉ im lặng. Tôi ra khỏi chăn của Reiko, lấy những bức thư của em ra, xếp lên chiếc bàn tròn ở bếp. Một mình lặng yên vừa hút thuốc lá, tôi vừa nhìn tập thư đó. Em đã viết rằng, em biết đến một lúc nào đó, sự thư từ qua lại này sẽ phải kết thúc. Tôi nhìn về phía Reiko. Cô ấy vẫn đang trùm kín chăn, chẳng biết đã ngủ chưa, hay là vẫn đang sụt sịt. Và tôi biết, thời điểm ấy sắp đến rồi.

    Có lẽ, lá thư này sẽ là lá thư cuối cùng tôi viết cho em. Sau khi tôi bỏ lá thư này vào hòm thư, tôi sẽ lại tìm đến các biển hiện có đề tiệm thẩm mỹ và tiếp tục rong ruổi trên con phố có tên Neyagawa. Và biết đâu sau vài năm nữa, tôi sẽ từ chuyến tàu Hanshin bước xuống nhà ga Koroen, đi qua khu tập thể xưa ấy, đến trước cửa ngôi nhà của em ở phía trước câu lạc bộ tennis. Thế rồi, tôi sẽ lặng lẽ nhìn vào ngôi nhà của em, ngắm nhìn cây mimosa già nua, rồi lại lặng lẽ trở về. Mong em luôn mạnh khỏe. Từ đáy lòng mình, tôi sẽ luôn âm thầm cầu nguyện cho con trai em sẽ khôn lớn trưởng thành theo đúng nguyện ước của em.

    Chào em!

    Ngày 3 tháng 10
    Arima Yasuaki


    --- Hết Bức thư số 9 ---
    Chữ ký của A Châu

  2. #12
    Ronin
    A Châu's Avatar


    Thành Viên Thứ: 192493
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: TP Hồ Chí Minh
    Tổng số bài viết: 330
    Thanks
    41
    Thanked 744 Times in 208 Posts
    Bức thư số 10


    Anh Arima Yasuaki!

    Em ngồi nơi chiếc ghế băng dưới giàn đậu tía trong câu lạc bộ tennis, đọc lá thư cuối cùng của anh trong ánh nắng thu ấm áp và dịu nhẹ. Em như nhìn thấy bóng dáng anh, một tay cầm tấm bản đồ, rong ruổi trên khắp các nẻo đường.

    Đọc thư anh, định bụng mình cũng sẽ viết một lá thư cuối cùng này nữa thôi, nhưng rồi một tháng trôi qua, chẳng hiểu sao em vẫn chưa cảm thấy muốn đặt bút để viết lá thư ấy. Chuyện là thế này. Vào cái ngày hôm ấy, quãng gần buổi trưa của một ngày thứ Năm đẹp trời. Bố em nói là hôm nay cụ nghỉ làm vì đã lâu rồi cụ không nghỉ phép. Bố không đến công ty mà ngồi ở mái hiên đầu nhà ngắm cây cối trong vườn. Bố rủ em cùng đi với cụ đến thăm mộ mẹ. Chẳng phải tiết thanh minh hay ngày giỗ mẹ, nhưng em vẫn muốn đi. Em nhờ chị Ikuko ba rưỡi đi đón bé Kiotaka tại điểm dừng của xe buýt đưa đón của nhà trường trước cửa nhà ga, rồi vội vàng đi thay quần áo. Ông cụ gọi điện đến công ty, lệnh cho họ đưa một xe ô tô đến, và bảo, bố ăn mặc thế này hơi nổi quá, rồi lôi ra cái áo vét màu ô liu đậm mà bố đã cất công đi may nhưng lại chưa hề một lần mặc nó. Bộ áo vét đó rất hợp với bố em. Em và bố ăn nhẹ trong lúc đợi xe ô tô. Bố bảo sẽ đãi em món ăn Kyoto rất ngon sau khi tảo mộ xong, nên hãy ăn tạm chút bữa trưa trước đi đã. Anh cũng đã một lần cùng với bố và em, ba người cùng đi tảo mộ mẹ rồi nhỉ. Em nhớ khi ấy hai chúng ta mới cưới nhau chưa đầy một tháng. Sau ngày giỗ lần thứ bảy của mẹ, ba người chúng ta đã đến viếng khu nghĩa trang được bao bọc bởi rừng cây rậm rạp ở quận Yamashina (Kyoto). Yamashina là nơi chôn rau cắt rốn của mẹ, nên bố đã chôn cất hài cốt của mẹ tại khu nghĩa trang này.

    Nghe thấy tiếng anh lái xe Kosakai, em và bố đi ra xe. Bố nói với anh Kosakai: "Anh chở chúng tôi tới Yamashina. Tôi đi thăm mộ bà nhà". Anh Kosakai làm lái xe riêng cho bố đến năm nay là được mười lăm năm. Được biết là cô con gái cả của anh mới cưới hồi đầu tháng Mười, thế mà lại nghe nói tháng Một năm tới đây, cô con gái thứ hai cũng sẽ tổ chức. Em nói với anh Kosakai: "Tổ chức gấp quá anh nhỉ". Anh Kosakai vừa lái xe vừa nói: "Nhà tôi suýt thì phá sản đấy". Em hỏi anh ấy sao hai chị em lại cưới liền thế, bố bật cười và trả lời thay anh Kosakai: "Không tổ chức ngay thì con chúng nó sẽ ra đời trước mất". Em cũng bật cười. Anh Kosakai lấy một tay đập nhẹ vào cổ, nhếch mép cười ngượng nghịu và bảo, bây giờ nó đã bảy tháng rồi, nếu sinh sớm có khi nó sinh và đúng ngày cưới thì chết mất.

    Chúng em ra khỏi con đường cao tốc Meishin, tiến vào Kyoto và đi trên con đường quốc lộ tới Yamashina. Em nhìn xem cửa hàng bán hoa ở đâu và nói anh Kosakai dừng xe lại một chút. Thấy thế, bố bảo không cần mua hoa đâu. Cụ bảo, nhìn những bông hoa héo khô ở nghĩa trang, cụ thấy rất buồn. Con có cúng hoa cho mẹ thì chẳng lâu sau, chúng cũng lại héo đi thôi. Bố ghét nhất là cúng hoa và bánh kẹo ở nghĩa trang. Xe lại tiếp tục chuyển bánh, bố lẩm bẩm như thể tự nói với chính mình, ở mộ không nên trang trí gì nhiều, chỉ cần khắc mỗi cái tên thôi, chỉ cần như thế là được. Chẳng bao lâu, chúng em nhìn thấy những ruộng lúa, rồi đi vào ngôi làng bên núi với những ngôi nhà của người nông dân nằm san sát bên nhau. Xe ô tô tiến dần trên con đường nhỏ khúc khuỷu, bao quanh là những tán cây của khu rừng rậm rạp. Bố nói: "Bây giờ là mùa lá momiji đấy".

    Khu nghĩa trang được đặt trên sườn một ngọn núi nhỏ. Vô vàn những chiếc lá cây muôn màu sắc của khu rừng rậm bay bay trong gió trông như thể đang che giấu đi khu nghĩa trang âm thầm ấy. Trên lối vào khu nghĩa trang có một túp lều nhỏ. Một ông cụ đang ngồi trong đó. Đó là một túp lều có diện ích chỉ một người chui lọt dùng để tránh mưa hay nắng. Mùi hương từ trong đó tỏa ra nồng nặc. Người ta để ở trong đó nào nến, hương, rồi cả thùng gỗ và gáo. Bố mua hương của ông cụ, mượn ông cái thùng và cái gáo, rồi lấy nước vào đầy thùng và leo lên ngọn đồi thoai thoải để đến khu lăng mộ. Anh Kosakai cũng xuống khỏi xe, nói rằng tôi cũng xin phép được đi thăm mộ cụ, và đi theo sau hai bố con em. Mộ của mẹ nằm ở phía trên cùng của khu lăng mộ. Đó là một ngôi mộ nhỏ chỉ khắc duy nhất dòng chữ: "Hoshijima Fumi, mất ngày 14 tháng 12 năm 1963". Rất nhiều lá cây rơi rụng lả tả xung quanh bia mộ. Thế nên, em đi xuống dốc, đến chỗ túp lều của ông cụ già, mượn ông cái chổi, cái xẻng, và quay trở lại. Thế rồi em bắt đầu quét tước xung quanh mộ của mẹ. Thấy thế, bố em ngăn lại. Bố nói cứ để nguyên như thế này thì tốt hơn. Con có dọn dẹp bao nhiêu đi chăng nữa, những chiếc lá héo vẫn cứ rụng xuống. Liên tục không ngừng. Và mưa tuôn, và gió quật, mộ của mẹ con sẽ nằm chìm dưới những chiếc lá rơi xuống ấy, chẳng bao lâu sẽ được bao bọc bởi rêu xuống ấy, chẳng bao lâu sẽ được bao bọc bởi rêu phong... Như thể chẳng tốt hơn hay sao con? Thế rồi bố chẳng rưới nước ở thùng lên bia mộ, cứ thế lặng yên nhìn mộ của mẹ. Em bảo, con thắp hương nhé, rồi mượn bố cái bật lửa. "Đốt ba nén thôi. Đốt bao nhiêu thế khói mù mịt bây giờ". Bố nói như thể đang cáu với em. Em đốt ba nén nhang như lời bố nói. Em nghĩ, nếu như mẹ còn sống, cho dù sự việc ấy có xảy ra, nhất định mẹ sẽ phản đối việc em và anh ly hôn. Mẹ mất khi em mới mười bảy tuổi, nên đúng là mẹ không hề biết anh, nhưng không hiểu sao em lại có cảm giác như vậy, và cứ thế đứng yên nhìn ngôi mộ nhỏ phủ đầy lá rụng. Nhưng, cái từ "nếu như" và "giá như" chẳng có tác dụng gì cả. Và việc người ta cứ phải thốt ra miệng những lời nói vô tác dụng ấy chứng tỏ người ta đang than phiền về nó. Em nghĩ, nếu nói về thứ mà em đã bị mất đi trong quãng thời gian ba mươi lăm năm qua, thứ đặc biệt quan trọng đối với em, thì đó chính là mẹ và anh. Thế nhưng, vừa nhìn vào tấm bia mộ, vừa nhớ tới lá thư cuối cùng của anh, em lại có cảm giác như mình đã mất đi rất nhiều thứ. Cả em, cả bố, cả anh Kosakai từ lúc đó trở đi, chẳng ai nói thêm câu gì, và đứng trước ngôi mộ gần hai mươi phút đồng hồ. Khi nén nhang bay lên làn khói đậm cuối cùng rồi tắt hẳn, bố nói: "Chúng ta đi thôi".

    Quay trở lại xe, bố nói với anh Kosakai rằng: "Anh lái xe ra đằng kia giúp tôi". Chiếc xe ô tô không quay lại con đường khi nãy, mà tiếp tục tiến về phía trước trên con đường nhỏ gập ghềnh, khúc khuỷu. Những tán cây mỗi lúc một rậm rạp hơn, trong lúc em còn chưa hiểu sẽ đi đâu, chiếc xe đã đến trước cổng một nhà hàng với chiếc cổng ra vào tráng lệ. "Shinoda" là tên của nhà hàng đó. Một nhân viên cỡ tuổi trung niên có vẻ đã quá quen mặt với bố đi ra, dẫn ba người chúng em vào một cái phòng khác. Từ đồ nội thất, chất liệu xây dựng, rồi cả thiết kế khiến cho tất cả các phòng đều có thể nhìn ra vườn cho ta thấy đây một nhà hàng đã được người chủ đầu tư khác nhiều tiền bạc và thời gian. Bố em cũng mời cả anh Kosakai vào cùng ăn, nhưng anh ấy khách sáo nói rằng đã ăn trưa rồi, bây giờ bụng vẫn no, anh ấy sẽ ở lại xe nghe nhạc gì đó.

    Chỉ riêng khu vườn thôi cũng cỡ ba nghìn hecta rồi. Đó là một khu vườn đơn giản, với nhiều cây to và những tảng đá lớn phủ đầy rong rêu, được sắp đặt bên nhau một cách tài tình. Ngay lập tức, một người phụ nữ trong bộ quần áo kimono cỡ chừng trạc tuổi em, hoặc hơn em một chút xíu đến bên bàn, chào hai bố con em. Bố giới thiệu với em rằng: "Đây là bà chủ cửa hàng". Sau đó, bố nói rằng em là con gái của ông, rồi kêu người ta mang đồ ăn như mọi khi tới. Em khẽ liếc bố và nói, bố có chỗ ở ẩn tận nơi này kia đấy. Bố giải thích rằng, bố bắt đầu thường xuyên đến đây để tiếp khách vào khoảng năm năm trước đây, và bố không biết tên, nhưng bà chủ này có một người bảo trợ cực kỳ to và lắm tiền. Những món ăn Kyoto được mang đến, bà chủ cửa hàng vừa xếp đồ ăn lên bàn vừa tiếp chuyện hai bố con em. Trong lúc ấy, em hướng mắt ra khu vườn và ngắm nhìn ra phía xa xa, nơi có vùng không gian thấm nhuộm một màu đỏ của cây momiji mùa độ lá với những chiếc lá đung đưa theo làn gió. Khi bà chủ đi khỏi, bố hỏi em rằng con thấy người phụ nữ ấy thế nào. Em trả lời rằng, cô ấy, cả bộ áo kimono, cả chiếc đai obi (2) thắt ngang hông, cả những thứ gắn trên người cô ấy đều tuyệt vời, thêm nữa, cô ấy lại còn rất đẹp nữa. Bố bảo: Người phụ nữ đó có cả tiền, rất xinh đẹp, và cái đầu cũng rất thông minh, nhưng giọng nói lại dở ẹc. Em bác lại, giọng nói chán cũng được chứ sao, bố. Bất chợt, mặt bố nghiêm lại và nói: "Giọng nói rất quan trọng. Nó phô bày bản chất của con người đó mà". Bố em còn nói thêm rằng, bác sĩ giỏi là một bác sĩ có thể phán đoán tình trạng sức khỏe của bệnh nhân vào ngày hôm đó thông qua sắc thái của giọng nói. "Giọng nói của người phụ nữ ấy rất tầm thường". Bố vừa lấy đũa gắp thức ăn trong những chiếc bát sơn mài vừa nói vậy và bật cười. Ăn xong cơm, hai bố con ăn hoa quả tráng miệng. Một lúc sau, bố chỉ tay ra vườn và bảo, ở đằng kia có bậc thang bằng đá. Leo hết những bậc thang đó, ta sẽ thấy một điện thờ nhỏ. Ngắm lá momiji ở đó là tuyệt nhất đấy. Sau đó, bố ra vườn, xỏ đôi guốc mộc geta (3), và rủ em: "Aki, con cũng đi cùng bố nào". Em nhận ra rằng bố có điều gì đó muốn nói với mình. Vì thế, em cùng bố đi ra vườn, rồi bước theo sau bố. Đúng như bố nói, đằng sau cây thông to là bậc thang bằng đá. Đó là những bậc thang có bề ngang rất hẹp mà cả hai người sẽ không thể cùng leo một lúc. Bậc thang đó khá dài. Leo hết những bậc thang dó, em và bố thở hổn hển, rồi hai bố con lấy khăn mùi soa trải xuống, và ngồi trên những phiến đá đó. Em ngồi yên nhìn bố từ phía sau. Em khẽ hỏi bố, bố định thế nào, bởi cũng sắp đến lúc bố phải nghỉ việc ở công ty rồi. Bố trả lời như thế này. "Đến tuổi này rồi, giờ thì bố đã hiểu thế nào là công việc. Giờ thì bố đã biết rằng làm việc chính là sống. Bố sẽ làm việc nhiều hơn nữa". Bố lại hướng mắt ra nhìn rừng lá momiji bát ngát, im lặng hồi lâu, rồi lúc sau, bố bắt đầu nói với em câu chuyện này. Bố có nghe chị Ikuko nói, hồi này, thường xuyên có những lá thư đề tên người nhận là con được gửi đến nhà mình. Tên người gửi những lá thư đó đều là tên con gái, nhưng mỗi lá lại là tên một người. Khoảng một tháng trước, có một hôm bố rời nhà đến công ty vào buổi trưa, xe ô tô đến đón và bố ra đến cổng nhà mình, khi ấy, trong hộp thư có thư nên bố đã lấy ra. Đó là thư gửi đến cho con, người gửi đề tên Hamashaki Michiko. Bố đưa lá thư đó cho chị Ikuko, rồi lên xe. Kể đến đó, bố quay lại nhìn em và nói thế này. "Nét chữ quen quá con ạ". Một lúc lâu, cả em và bố đều không nói gì, cứ thế hai bố con nhìn nhau. Cuối cùng bố cũng nói ra trước. "Arima hồi này thế nào hở con?". Em định kể cho bố nghe tất cả mọi chuyện, nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Vì thế, em đã giải thích cho bố nghe tất cả mọi chuyện với giọng kể rời rạc, không mạch lạc, cũng chẳng theo trình tự gì cả, từ chuyện em đã gặp lại anh tại Zao một năm trước đây, rồi việc trao đổi thư từ với anh, chi tiết diễn biến sự việc đó của anh, chuyện của anh vào Seo Yukako, cả kế hoạch kinh doanh mà anh đang thực hiện. Trong khi kể cho bố nghe tất cả những chuyện ấy, giọng em run run, nước mắt ngân ngấn. Thấy em như vậy, bố ân cần nói: "Con cứ bình tĩnh kể cho bố nghe nào". Kể xong, không hiểu sao tim em đập thình thịch, mãi không trấn tĩnh được. Bố im lặng một lúc lâu, rồi bố nhìn xuống đất và lại hỏi em. "Katsunuma có đưa hết khoản tiền lương ở trường đại học cho con không?". Em trả lời rằng: "Có ạ". Bố lại trầm tư nghĩ ngợi điều gì đó, rồi bâng quơ lẩm bẩm một tràng: "Nó thật khác với Katsunuma, thật bẩn thỉu". Bố nói rằng bố đã điều tra về Katsunuma. Nó có một người phụ nữ khác ở Kobe. Chắc con cũng biết chuyện đó rồi chứ? Bố tiếp tục. "Và, hai người đó đã có với nhau một đứa con gái, năm nay ba tuổi tròn". Bố vừa châm lửa vào điếu thuốc lá vừa nói, chắc hẳn nó phải làm thêm cái gì đó để kiếm thêm tiền. Bố hỏi em: "Con ghét Katsunuma à? Con không thích nó sao?". Rồi chẳng đợi em trả lời, bố nói với giọng bực bội. Nếu con muốn chia tay với nó, thì nên chia tay. Đó là quyền tự do của con. Con không nên sống cả đời với người đàn ông mà mình không yêu. Bố là người chỉ biết áp đặt. Bố không có con mắt nhìn người. Lúc nào con cũng bị bố mang những điều buồn phiền đến cho con. Nói đến đó, bố ngừng lại và lặng im không nói nữa. "Người khiến anh Katsunuma làm những điều đó là con. Người kết hôn xong, rồi gặp phải những điều buồn phiền là anh Katsunuma. Thế nhưng, con không thể nào thích được anh Katsunuma". Em cố gắng nói trong sự xúc động, nói cho bố hết những tâm tư ấy của mình.

    Từ lúc ấy, em lặng im một lúc rất lâu. Bố chăm chú ngắm nhìn rừng lá momiji, và cũng ngồi im, không nói một câu nào. Em nghĩ về anh Katsunuma. Trong nhiều lá thư của em, em đã cố tình không nhắc gì đến chồng mình, anh Katsunuma Soichiro. Chính điều đó đã cho thấy rõ ràng tình cảm của em với con người có tên Katsunuma ấy. Nhưng, anh Katsunuma hoàn toàn không phải là con người xấu. Là bố của bé Kiotaka, tuy không bao giờ nói ra, nhưng anh ấy luôn chất chứa nỗi buồn phiền và mang trọn tình yêu thương cho bé, cũng giống như em. Anh ấy chỉ toàn đọc những cuốn sách rất khó về lịch sử phương Đông, và là con người luôn hết lòng với những công trình nghiên cứu của bản thân mình, với những em sinh viên ở trường đại học mà mình phụ trách. Đã rất nhiều lần em nhìn hình ảnh anh ấy kiên trì chơi trò ném bóng chày với bé Kiotaka trên bãi cỏ để tập luyện phục hồi chức năng cho bé. Và rồi, sau đó, lần nào cũng như lần nào, anh ấy lại ngồi khoanh chân trên tấm thảm trong phòng khách, ôm bé Kiotaka vào lòng, hai bố con thủ thỉ tâm sự với nhau đủ thứ chuyện. Tại sao em lại không thể thích được một người đàn ông như thế kia chứ? Và, anh Katsunuma đã có tâm trạng thế nào khi thấy em như vậy? Bất chợt, em nghĩ đến những chuyện sau này, khi bố mất đi. Bố cũng sắp bảy mươi mốt tuổi. Không biết liệu bố có thể sống cho đến khi bé Kiotaka khôn lớn trưởng thành hay không? Em nhìn chiếc áo vét màu quả ô liu mà bố đang mặc trong tư thế ngồi quay lưng lại phía em. Em hình dung lại khuôn mặt của anh Katsunuma khi thủ thỉ tâm sự với con. Em thấy cổ họng mình nghèn nghẹn. Em ngồi bất động, người cứng đờ. Hình ảnh Katsunuma và cô bé sinh viên ấy đang quấn vào nhau dưới bóng râm của chiếc cổng ngôi biệt thự lớn trên con đường vào buổi chiều tà, phải rồi, hình ảnh đen sì như cái bóng, chứ không phải hình ảnh con người thực ấy lướt qua trong đầu em. Và lúc này, lần đầu tiên em cảm nhận thấy trong lòng mình mang một thứ tc gì đó na ná như tình yêu với anh Katsunuma. Em đứng lên, hướng tầm mắt nhìn ra những hàng cây cổ thụ rậm rạp, um tùm khắp một vùng không gian. Vài trăm loài cây màu đỏ sẫm, vài trăm loài cây màu vàng, vài trăm loài cây màu xanh và màu nâu đung đưa như thể đang nhảy múa trong ánh nắng thu, nghe xào xạc. Vừa ngắm nhìn rừng cây ấy, em vừa nói với bố, con muốn chia tay với anh Katsunuma. Con nên để cho anh ấy được công khai làm chồng của người phụ nữ kia, được làm cha chính thức của bé gái ba tuổi ấy. Con sẽ không kết hôn nữa đâu. Con sẽ cố gắng hết sức để nuôi dạy bé Kiotaka nên người. Bố giúp con bố nhé.

    Bố hút thêm một điếu thuốc nữa. Hút xong, bố dụi mẩu thuốc xuống đất cho tắt lẳ. Bố ngẩng mặt lên nhìn em khi em đang đứng ngây người ra, và cười. Bố nói: "Được", sau đó bố đứng dậy, rồi đi xuống bậc thang đá phủ kín rêu.

    Khi viết cho anh lá thư này, em đã đọc lại tất cả những lá thư của anh gửi đến cho em. Rất nhiều chuyện đã hiện lại trong đầu em. Tất cả đều là cái gì đó như là hình hài trái tim của riêng em, mà em không thể diễn đạt bằng lời. Duy có một điều, em có thể diễn đạt được và mô tả lại. Anh đã viết rằng, anh đã nhìn thấy sinh mệnh của mình, và bởi thế, anh cảm thấy sợ sống, anh nhỉ. Nhưng, phải chăng có thể nói rằng, thật sự anh đã nhìn thấy năng lượng mạnh nhất để người ta có thể sống một đời người, đời người mà nếu ta bảo nó ngắn thì nó ngắn, nếu bảo dài thì sẽ là dài. Em cứ thế nắm chặt bút mà băn khoăn không biết nên kết thúc lá thư cuối cùng gửi đến cho anh như thế nào đây. Tại sao em lại nghĩ ra câu nói đó từ âm nhạc của Mozart, anh nhỉ? "Cháu nghĩ, sự sống và cái chết có lẽ là như nhau". Thật như thể một câu nói từ đâu bột phát tuôn ra. Em đã viết lại câu nói đó vào trong thư, và nó là khởi nguồn để anh cho em hay rất nhiều chuyện mình không hề biết. Thế nhưng, cái từ mà em tuyệt nhiên không hề nói, cái từ mà ông chủ quán Mozart có cảm tưởng như nghe từ lời em nói, cái từ con tạo xoay vần lạ kỳ của vũ trụ, con tạo xoay vần lạ kỳ của sinh mệnh ấy giờ đây mang lại cho em một cảm xúc như thể một nỗi sợ sâu xa. Yukako, người đã chết vì tự dùng dao rạch cổ mình. Anh, kẻ nhìn thấy bản thân mình trong giờ phút hấp hối để rồi sống lại. Bố, con người cô đơn, hết mình vì công việc. Katsunuma, kẻ còn lén lút có thêm một gia đình nữa. Rồi em và bé Kiotaka, hai mẹ con cùng ngồi trên chiếc ghế băng ở khu vườn thược dược gần đó, ngắm nhìn vô số những vì sao trên trời. Có chăng, sinh mệnh của tất cả chúng ta chính là điều ẩn chứa những quy luật kỳ lạ và con tạo xoay vần .

    Có viết đến bao nhiêu đi chăng nữa sẽ không thể hết được. Có lẽ đã đến lúc phải buông bút rồi. Em cầu xin vũ trụ này, cầu xin vũ trụ ẩn chứa những quy luật kỳ lạ và con tạo xoay vần này ban phước cho hạnh phúc mãi mãi từ nay về sau của anh và Reiko. Em quyết định sau khi cho lá thư này vào phong bì, viết tên người gửi và dán xong tem, mình sẽ nghe bản giao hưởng số 39 của Mozart, những giai điệu mà lâu lắm rồi mình không nghe. Chào tạm biệt anh! Anh cố gắng giữ gìn sức khỏe nhé! Tạm biệt anh!

    Kính thư!

    Ngày 18 tháng 11
    Katsunuma Aki


    ---

    (1) Hiragana: là kiểu chữ âm tiết truyền thống của tiếng Nhật, thuộc một thành phần của hệ thống chữ viết Nhật Bản, cùng với katakana và kanji.
    (2) Obi: Là chiếc thắt lưng được dùng để mặc kèm với kimono.
    (3) Geta: Là loại guốc truyền thống của Nhật Bản.



    Nguồn: vnsharing
    Chữ ký của A Châu

  3. The Following 3 Users Say Thank You to A Châu For This Useful Post:

    bee93 (27-10-2014), dinhlata93 (28-04-2014), sarujun (30-03-2014)

Trang 2/2 đầuđầu 1 2

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 25-01-2014, 11:46 PM
  2. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 03-02-2012, 11:41 AM
  3. Trả lời: 11
    Bài mới gởi: 18-11-2010, 10:56 PM
  4. Cây lá đỏ - Momiji và Momiji-gari
    By Kasumi in forum Tìm hiểu Nhật Bản
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 30-01-2009, 12:32 PM
  5. [Truyện dài] Japanese Spirit: Miyamoto Musashi
    By Acmagiro in forum Văn Học
    Trả lời: 110
    Bài mới gởi: 29-04-2008, 06:25 PM

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •