Phát triển tư duy độc lập và tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học trong “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” của Kato Kimiaki
Lời mở đầu
Tính từ thời điểm năm 1945 đến nay, giáo dục Nhật Bản đã trải qua nhiều lần cải cách trong đó cuộc cải cách lớn nhất và toàn diện nhất diễn ra không lâu sau ngày Thiên hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh (15/8/1945). Trong cuộc cải cách giáo dục toàn diện và triệt để này giáo dục lịch sử cùng với giáo dục địa lý và giáo dục công dân tích hợp trong môn Xã hội, một môn giáo khoa mới, được coi là trung tâm của cuộc cải cách. Triết lý của môn Xã hội hướng đến giáo dục nên những người làm chủ có tư duy độc lập và khả năng tự học để thích ứng với môi trường đồng thời có khả năng cải tạo xã hội đã tạo nên sức hấp dẫn góp phần đưa cải cách giáo dục thành công. Bài viết này sau khi điểm qua một số nét cơ bản của quá trình cải cách giáo dục và giáo dục lịch sử ở Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ khảo sát và phân tích “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” của Kato Kimiaki nhằm làm rõ những thử nghiệm của nhà giáo dục lịch sử này trong việc phát triển tư duy độc lập và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học. Hi vọng qua một trường hợp cụ thể này người đọc sẽ hiểu thêm về giáo dục lịch sử Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.
1. Cải cách giáo dục và giáo dục lịch sử ở Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
1.1 Cải cách giáo dục sau năm 1945
15/8/1945 Thiên hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Theo nội dung của tuyên bố Postdam, Nhật Bản bị đặt dưới sự chiếm đóng của quân đội Đồng minh. Trong bối cảnh bị chiếm đóng và dưới sự cố vấn, giám sát của Bộ tư lệnh tối cao quân Đồng minh (GHQ), công cuộc cải cách toàn diện nước Nhật bắt đầu. Ngày 3/11/1946 Hiến pháp Nhật Bản với ba nguyên lý nền tảng: hòa bình, dân chủ và tôn trọng con người được công bố đặt nền móng cho cải cách xây dựng nước Nhật mới.
Trong lĩnh vực giáo dục, ngay sau ngày 15/8 cả GHQ và Bộ giáo dục Nhật Bản đã tiến hành những biện pháp khẩn cấp nhằm giải quyết nền giáo dục quân phiệt. Bộ giáo dục Nhật biên soạn và công bố bản “Phương châm giáo dục nhằm xây dựng nước Nhật Bản mới” gồm 11 điểm với mục tiêu: “loại trừ chủ nghĩa quân phiệt”, “giáo dục tư duy khoa học”, “làm sâu sắc văn hóa quốc dân”, “xây dựng quốc gia hòa bình” và “đóng góp vào sự tiến bộ thế giới”.[i] GHQ cũng ban hành bốn sắc lệnh giải trừ chủ nghĩa quân phiệt trong giáo dục.[ii]
Sau khi Sứ đoàn giáo dục Mĩ đến khảo sát, nghiên cứu giáo dục Nhật và công bố bản báo cáo tổng hợp mang tên “Bản báo cáo của sứ đoàn giáo dục Mĩ”[iii], cải cách giáo dục toàn diện chính thức đi vào quỹ đạo. Bằng sự ra đời của các bộ luật giáo dục trong năm 1947 như: Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục trường học, Luật Ủy ban giáo dục, Luật về cơ cấu tổ chức bộ giáo dục… cải cách giáo dục đã được tiến hành thuận lợi tạo ra sự thay đổi cơ bản toàn diện. Sự thay đổi do cải cách giáo dục thời hậu chiến mang lại thể hiện ở 5 điểm.
Thứ nhất đó là sự thay đổi về triết lý giáo dục. Nền giáo dục mới đã chuyển mục tiêu giáo hóa tạo ra các thần dân ‘trung quân ái quốc” sang mục tiêu giáo dục nên những công dân có tri thức, phẩm chất, năng lực, thái độ phù hợp với xã hội hòa bình, dân chủ và tôn trọng con người.[iv]
Thứ hai là sự thay đổi hệ thống trường học. Hệ thống trường học phức tuyến trước chiến tranh thế giới thứ hai được chuyển thành hệ thống trường học đơn tuyến theo chế độ 6-3-3-4.[v] Hệ thống trường học giờ đây tồn tại ở ba hình thái: quốc lập, công lập và tư thục.[vi]
Thứ ba là sự thay đổi về hành chính giáo dục. Khắc phục yếu điểm quan liêu, trung ương tập quyền của hành chính giáo dục trước đó, cải cách giáo dục đã chú trọng hạn chế quyền lực của Bộ giáo dục. Bộ giáo dục trở thành cơ quan trợ giúp, tư vấn về giáo dục thay vì là nơi ban hành các mệnh lệnh hành chính xa rời thực tế. Phân quyền quản lý giáo dục cho địa phương bằng cách thành lập hệ thống Ủy ban giáo dục. Hệ thống hành chính giáo dục cũng được tách khỏi hệ thống hành chính chung và được tổ chức lại.
Thứ tư là sự thay đổi về giáo dục nghĩa vụ. Giáo dục nghĩa vụ 9 năm được quy định và thi hành. Trong thời gian 9 năm giáo dục nghĩa vụ học sinh được cấp phát sách giáo khoa và miễn học phí. [vii]
Thứ năm là sự thay đổi về nội dung chương trình và sách giáo khoa. Nhật Bản đã xây dựng lại khóa trình giáo dục mới. Trong khóa trình giáo dục này môn Xã hội với tư cách là môn học hoàn toàn mới ra đời.[viii] Môn học này được xác định là hạt nhân trung tâm của công cuộc cải cách giáo dục.
1.2. Cải cách sử học và giáo dục lịch sử sau năm 1945
Trong bối cảnh cải cách giáo dục được xúc tiến mạnh mẽ, giới sử học và giáo dục lịch sử cũng đã có những động thái nhìn nhận lại sử học và giáo dục lịch sử thời trước chiến tranh và đề ra phương hướng trong thời đại mới.
Từ ngày 15/8/1945 tới 30/3/1945, Bộ giáo dục đã họp hội nghị bàn bạc thảo luận đưa ra Đề án lần 1 và lần 2 về “Phương châm giáo dục Quốc sử”. “Phương châm giáo dục quốc sử” lần 2 (19/10/1946) có 4 nội dung chính.[ix]
1. Xem xét lại các thần thoại truyền thuyết một cách khoa học.
2. Cần phải nghiên cứu, giảng dạy lịch sử của nhân dân chứ không phải chỉ tập trung vào lịch sử vương triều, quý tộc.
3. Cần phải nhìn lịch sử từ quan điểm lịch sử thế giới rộng lớn thay vì nhìn từ quan điểm Nhật Bản chật hẹp.
4. Cần ưu tiên lịch sử văn hóa, kinh tế, sản xuất hơn là lịch sử chiến tranh, chính biến.
Đối với giáo dục lịch sử, ngay sau 15/8/1945, Bộ giáo dục đã chỉ đạo các trường phổ thông loại bỏ khỏi sách giáo khoa hiện hành những nội dung ca ngợi chủ nghĩa quân phiệt và đưa vào sử dụng nhằm đảm bảo cho kì học mới bắt đầu từ tháng 9 được tiến hành bình thường. Trên thực tế việc cắt bỏ nội dung liên quan đến chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc cực đoan chỉ được tiến hành đối với sách giáo khoa quốc ngữ vì sau đó không lâu các môn học như Tu thân, Quốc sử, Địa lí Nhật Bản bị đình chỉ. [x]
Tháng 3 năm 1947, Bộ giáo dục ban hành Bản hướng dẫn giảng dạy[xi] đánh dấu cải cách giáo dục trên quy mô toàn quốc bắt đầu đi vào quỹ đạo. Đây là bản chương trình khung quy định nội dung cơ bản của các môn học được giảng dạy tại các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và các trường đặc biệt dành cho trẻ em khuyết tật không phân biệt trường quốc lập, công lập hay tư thục. Cùng với Bản hướng dẫn giảng dạy tổng quan, Bản hướng dẫn giảng dạy các môn cụ thể trong đó có môn Xã hội cũng được biên soạn và công bố.
Môn Xã hội ra đời với tư cách là môn giáo khoa hoàn toàn mới đã thay thế cho các môn đã bị đình chỉ trước đó như Quốc sử, Địa lí, Tu thân và mang trong mình triết lý hoàn toàn mới. Hình ảnh con người (mục tiêu giáo dục) mà môn Xã hội hướng tới không phải là thần dân “trung quân, ái quốc” mà là những công dân có khả năng xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ. Nói một cách cụ thể môn học này nhằm mục đích “giáo dục nên các công dân có tri thức, thái độ, năng lực cần thiết để xây dựng nên xã hội tốt đẹp hơn xã hội hiện tại”. Với sự ra đời của môn Xã hội thì ba hình thái giáo dục lịch sử đã ra đời: “thông sử”, “lịch sử theo chủ đề” và “lịch sử lội ngược dòng”. [xii]
Cùng với việc ban hành Bản hướng dẫn giảng dạy, Bộ giáo dục cho thực hiện chế độ kiểm định sách giáo khoa áp dụng trên phạm vi toàn quốc. [xiii]Kể từ năm 1947 đến nay, cứ khoảng 10 năm Bản hướng dẫn giảng dạy dành cho môn Xã hội lại được sửa đổi một lần. Hiện tại Bản hướng dẫn giảng dạy mới nhất và đang được dùng là bản được ban hành vào tháng 3 năm 2008. Việc thực hiện một chương trình khung của Bộ giáo dục với chế độ sách giáo khoa kiểm định đã tạo ra tính năng động và mềm dẻo của nền giáo dục Nhật Bản. Nội dung chương trình – sách giáo khoa môn Xã hội trong trường phổ thông Nhật Bản đã trải qua nhiều lần sửa đổi nhưng không gây ra nhiều sự xáo trộn, lúng túng đối với giáo viên và học sinh vì nó dựa trên mối quan hệ cân bằng động, tương tác đa chiều giữa chương trình khung – sách giáo khoa và thực tiễn giáo dục[xiv] của giáo viên. Hiến pháp và các bộ luật giáo dục Nhật vừa quy định nghĩa vụ chăm lo giáo dục của nhà nước vừa đảm bảo quyền tự do giáo dục của giáo viên, quyền tự do tiếp nhận giáo dục của học sinh.
Dựa trên cơ sở đó, kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và công cuộc cải giáo dục toàn diện bắt đầu, thực tiễn giáo dục của giáo viên lịch sử đã phát triển mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu. Mặc dù những thực tiễn đó vô cùng phong phú và mang dấu ấn của từng giáo viên nhưng điểm chung nổi bật của chúng là sự trung thành với triết lý giáo dục được đề ra sau Chiến tranh thế giới thứ hai: giáo dục nên những công dân có khả năng xây dựng một quốc gia hòa bình, dân chủ. Cơ sở lý luận của các thực tiễn giáo dục này là lý luận giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, coi trọng tư duy độc lập và năng lực tự học của học sinh. Dưới đây, xin được khảo sát và phân tích thực tiễn giáo dục của Kato Kimiaki như là một ví dụ minh chứng cho sự biến chuyển của giáo dục lịch sử Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Nguyễn Quốc Vương
---------------------------------
Chú thích
[i] Văn bản này được công bố vào ngày 15/9/1945.
[ii] Bốn chỉ thị lớn này được GHQ ban hành trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1945. Chỉ thị thứ nhất mang tên “Chính sách quản lí đối với chế độ giáo dục Nhật Bản”thể hiện những nguyên tắc cơ bản của việc quản lí giáo dục như loại trừ triệt để chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa quốc gia cực đoan ra khỏi giáo dục. Chỉ thị thứ hai “Về việc điều tra, loại trừ, chấp thuận giáo viên và viên chức giáo dục” đưa ra các nguyên tắc loại trừ khỏi công việc giáo dục những người không đủ tiêu chuẩn. Chỉ thị thứ ba “Về việc công bố đình chỉ và giám sát sự bảo hộ, trợ giúp, duy trì của chính phủ đối với đạo Shinto” có nội dung nghiêm cấm tài trợ, duy trì, tiến hành nghi lễ, giáo dục liên quan đến đạo Shinto. Chỉ thị thứ tư “Về việc đình chỉ môn Tu thân, Lịch sử Nhật Bản và Địa Lí” quy định chấm dứt giờ học ba môn giáo khoa: Tu thân, Lịch sử Nhật Bản và Địa lí Nhật Bản trong nhà trường.
[iii] Sứ đoàn giáo dục Mĩ được tổ chức với thành viên là các nhà giáo dục nổi tiếng đến từ khắp nơi trên nước Mĩ do J.D.Stoddard làm trưởng đoàn. Sứ đoàn đến Nhật vào tháng 3 năm 1946 và trình lên tướng Mac Arthur bản báo cáo mang tên “Bản báo cáo của sứ đoàn giáo dục Mĩ”. Bản báo cáo chỉ ra 5 vấn đề của nền giáo dục Nhật: hệ thống giáo dục bị trung ương tập quyền hóa một cách cực đoan, hệ thống trường học theo kiểu phức tuyến, giáo dục nhồi nhét một chiều, hành chính giáo dục quan liêu độc tài, quốc ngữ – quốc tự không hiệu quả. Bản báo cáo đưa ra nguyên tắc và các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục 5 yếu điểm nói trên và xây dựng nền giáo dục mới.
[iv] Trên thực tế các giáo viên Nhật Bản quen gọi là giáo dục nên những người làm chủ và nền giáo dục được xây dựng sau chiến tranh cũng thường được gọi là “giáo dục mới” hay “giáo dục dân chủ”.
[v] 6 năm tiểu học, 3 năm trung học cơ sở và 3 năm trung học phổ thông.
[vi] Trường quốc lập do Bộ giáo dục trực tiếp quản lý, trường công lập do địa phương quản lý (có trường trực thuộc thành phố, có trường trực thuộc tỉnh).
[vii] Hiện tại Nhật Bản đang tiến hành miễn học phí cho học sinh trung học phổ thông tuy nhiên trong quá trình thực hiện gặp phải nhiều khó khăn và những ý kiến tranh luận gay gắt.
[viii] Môn học này đúng ra phải dịch là môn Nghiên cứu xã hội vì trong tiếng Anh nó được viết là “Social Studies” tuy nhiên ở Nhật Bản các nhà giáo dục thường gọi ngắn gọn là môn Xã hội. Môn này là sự thay thế cho các môn học trước đó đã bị đình chỉ như Tu thân, Công dân, Quốc sử, Địa lí Nhật Bản và là sự tích hợp ba môn: Lịch sử, Địa lí, Công dân.
[ix] Usui Yoshikazu, “Senzen rekishi kyoiku no hansei to shakaika rekishi kyoiku – Sự phản tỉnh về giáo dục lịch sử trước chiến tranh và giáo dục lịch sử trong môn Xã hội”, trong cuốn “Atarashii rekishi kyoiku 6 – Tân giáo dục lịch sử 6”, Otsuki shoten, 1994, tr.16.
[x] Việc xóa bỏ nội dung giáo sách giáo khoa liên quan đến chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa quốc gia cực đoan được tiến hành bằng cách giáo viên dùng mực đen bôi đè lên giấy. Những trang sách giáo khoa bị bôi mực đen không đọc được đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với giáo viên và học sinh Nhật Bản thời hậu chiến.
[xi] Văn bản do Bộ giáo dục biên soạn và ban hành trong đó tóm lược về mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy trong các trường phổ thông.
[xii] Trong Bản hướng dẫn giảng dạy đầu tiên năm 1947 thì chương trình giáo dục lịch sử trong môn Xã hội được phân bố như sau:
Ở trường tiểu học học sinh sẽ học môn học có tên “Xã hội đại cương” tức là học tập “lịch sử theo chủ đề” và “lịch sử lội ngược dòng”. Phần thông sử bị đình chỉ.
Ở trường trung học cơ sở học sinh sẽ học “Xã hội đại cương” (bao gồm “lịch sử theo chủ đề” và “lịch sử lội ngược dòng”), bên cạnh đó môn “Quốc sử” cũng được thiết lập (tức “thông sử”).
Ở trường trung học phổ thông môn “Xã hội đại cương” vẫn tồn tại bên cạnh đó còn có thêm môn “Lịch sử phương Đông ” và “Lịch sử phương Tây” (tức “thông sử”).
Trải qua các lần cải cách sau này sự phân bố và tên gọi các môn học nói trên có thay đổi nhưng nhìn chung 3 hình thái giáo dục lịch sử nói trên vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay.
[xiii] Các nhà xuất bản tư nhân căn cứ trên nội dung cơ bản của Bản hướng dẫn giảng dạy mà tiến hành biên soạn sách giáo khoa. Những cuốn sách này nếu vượt qua sự xét duyệt của Hội đồng thẩm định do Bộ giáo dục chủ trì sẽ được công nhận là sách giáo khoa. Việc lựa chọn sách giáo khoa nào là do hiệu trưởng hoặc Ủy ban giáo dục ở các địa phương quyết định. Chế độ kiểm định sách giáo khoa này ra đời đã thay thế cho chế độ quốc định (cả nước sử dụng một bộ sách giáo khoa duy nhất do Bộ giáo dục biên soạn và xuất bản) vốn duy trì trong một thời gian dài trước đó.
[xiv] Theo nghĩa rộng thì thực tiễn giáo dục chỉ toàn bộ những hoạt động giáo dục của giáo viên tiến hành ở hiện trường cùng kết quả của nó và xét ở nghĩa hẹp nó chỉ hoạt động giáo dục của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh trong nhà trường với những thành quả nhất định được thể hiện bằng một hay nhiều giờ học được ghi lại trong các hồ sơ giờ học hay báo cáo thực tiễn giáo dục của giáo viên.








Trả Lời Với Trích Dẫn
Bookmarks