>
kết quả từ 1 tới 2 trên 2

Ðề tài: “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” - Kato Kimiaki

  1. #1
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts

    “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” - Kato Kimiaki

    Phát triển tư duy độc lập và tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học trong “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” của Kato Kimiaki


    Lời mở đầu

    Tính từ thời điểm năm 1945 đến nay, giáo dục Nhật Bản đã trải qua nhiều lần cải cách trong đó cuộc cải cách lớn nhất và toàn diện nhất diễn ra không lâu sau ngày Thiên hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh (15/8/1945). Trong cuộc cải cách giáo dục toàn diện và triệt để này giáo dục lịch sử cùng với giáo dục địa lý và giáo dục công dân tích hợp trong môn Xã hội, một môn giáo khoa mới, được coi là trung tâm của cuộc cải cách. Triết lý của môn Xã hội hướng đến giáo dục nên những người làm chủ có tư duy độc lập và khả năng tự học để thích ứng với môi trường đồng thời có khả năng cải tạo xã hội đã tạo nên sức hấp dẫn góp phần đưa cải cách giáo dục thành công. Bài viết này sau khi điểm qua một số nét cơ bản của quá trình cải cách giáo dục và giáo dục lịch sử ở Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ khảo sát và phân tích “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” của Kato Kimiaki nhằm làm rõ những thử nghiệm của nhà giáo dục lịch sử này trong việc phát triển tư duy độc lập và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học. Hi vọng qua một trường hợp cụ thể này người đọc sẽ hiểu thêm về giáo dục lịch sử Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.

    1. Cải cách giáo dục và giáo dục lịch sử ở Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

    1.1 Cải cách giáo dục sau năm 1945

    15/8/1945 Thiên hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Theo nội dung của tuyên bố Postdam, Nhật Bản bị đặt dưới sự chiếm đóng của quân đội Đồng minh. Trong bối cảnh bị chiếm đóng và dưới sự cố vấn, giám sát của Bộ tư lệnh tối cao quân Đồng minh (GHQ), công cuộc cải cách toàn diện nước Nhật bắt đầu. Ngày 3/11/1946 Hiến pháp Nhật Bản với ba nguyên lý nền tảng: hòa bình, dân chủ và tôn trọng con người được công bố đặt nền móng cho cải cách xây dựng nước Nhật mới.

    Trong lĩnh vực giáo dục, ngay sau ngày 15/8 cả GHQ và Bộ giáo dục Nhật Bản đã tiến hành những biện pháp khẩn cấp nhằm giải quyết nền giáo dục quân phiệt. Bộ giáo dục Nhật biên soạn và công bố bản “Phương châm giáo dục nhằm xây dựng nước Nhật Bản mới” gồm 11 điểm với mục tiêu: “loại trừ chủ nghĩa quân phiệt”, “giáo dục tư duy khoa học”, “làm sâu sắc văn hóa quốc dân”, “xây dựng quốc gia hòa bình” và “đóng góp vào sự tiến bộ thế giới”.[i] GHQ cũng ban hành bốn sắc lệnh giải trừ chủ nghĩa quân phiệt trong giáo dục.[ii]

    Sau khi Sứ đoàn giáo dục Mĩ đến khảo sát, nghiên cứu giáo dục Nhật và công bố bản báo cáo tổng hợp mang tên “Bản báo cáo của sứ đoàn giáo dục Mĩ”[iii], cải cách giáo dục toàn diện chính thức đi vào quỹ đạo. Bằng sự ra đời của các bộ luật giáo dục trong năm 1947 như: Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục trường học, Luật Ủy ban giáo dục, Luật về cơ cấu tổ chức bộ giáo dục… cải cách giáo dục đã được tiến hành thuận lợi tạo ra sự thay đổi cơ bản toàn diện. Sự thay đổi do cải cách giáo dục thời hậu chiến mang lại thể hiện ở 5 điểm.

    Thứ nhất đó là sự thay đổi về triết lý giáo dục. Nền giáo dục mới đã chuyển mục tiêu giáo hóa tạo ra các thần dân ‘trung quân ái quốc” sang mục tiêu giáo dục nên những công dân có tri thức, phẩm chất, năng lực, thái độ phù hợp với xã hội hòa bình, dân chủ và tôn trọng con người.[iv]

    Thứ hai là sự thay đổi hệ thống trường học. Hệ thống trường học phức tuyến trước chiến tranh thế giới thứ hai được chuyển thành hệ thống trường học đơn tuyến theo chế độ 6-3-3-4.[v] Hệ thống trường học giờ đây tồn tại ở ba hình thái: quốc lập, công lập và tư thục.[vi]

    Thứ ba là sự thay đổi về hành chính giáo dục. Khắc phục yếu điểm quan liêu, trung ương tập quyền của hành chính giáo dục trước đó, cải cách giáo dục đã chú trọng hạn chế quyền lực của Bộ giáo dục. Bộ giáo dục trở thành cơ quan trợ giúp, tư vấn về giáo dục thay vì là nơi ban hành các mệnh lệnh hành chính xa rời thực tế. Phân quyền quản lý giáo dục cho địa phương bằng cách thành lập hệ thống Ủy ban giáo dục. Hệ thống hành chính giáo dục cũng được tách khỏi hệ thống hành chính chung và được tổ chức lại.

    Thứ tư là sự thay đổi về giáo dục nghĩa vụ. Giáo dục nghĩa vụ 9 năm được quy định và thi hành. Trong thời gian 9 năm giáo dục nghĩa vụ học sinh được cấp phát sách giáo khoa và miễn học phí. [vii]

    Thứ năm là sự thay đổi về nội dung chương trình và sách giáo khoa. Nhật Bản đã xây dựng lại khóa trình giáo dục mới. Trong khóa trình giáo dục này môn Xã hội với tư cách là môn học hoàn toàn mới ra đời.[viii] Môn học này được xác định là hạt nhân trung tâm của công cuộc cải cách giáo dục.

    1.2. Cải cách sử học và giáo dục lịch sử sau năm 1945

    Trong bối cảnh cải cách giáo dục được xúc tiến mạnh mẽ, giới sử học và giáo dục lịch sử cũng đã có những động thái nhìn nhận lại sử học và giáo dục lịch sử thời trước chiến tranh và đề ra phương hướng trong thời đại mới.

    Từ ngày 15/8/1945 tới 30/3/1945, Bộ giáo dục đã họp hội nghị bàn bạc thảo luận đưa ra Đề án lần 1 và lần 2 về “Phương châm giáo dục Quốc sử”. “Phương châm giáo dục quốc sử” lần 2 (19/10/1946) có 4 nội dung chính.[ix]

    1. Xem xét lại các thần thoại truyền thuyết một cách khoa học.

    2. Cần phải nghiên cứu, giảng dạy lịch sử của nhân dân chứ không phải chỉ tập trung vào lịch sử vương triều, quý tộc.

    3. Cần phải nhìn lịch sử từ quan điểm lịch sử thế giới rộng lớn thay vì nhìn từ quan điểm Nhật Bản chật hẹp.

    4. Cần ưu tiên lịch sử văn hóa, kinh tế, sản xuất hơn là lịch sử chiến tranh, chính biến.

    Đối với giáo dục lịch sử, ngay sau 15/8/1945, Bộ giáo dục đã chỉ đạo các trường phổ thông loại bỏ khỏi sách giáo khoa hiện hành những nội dung ca ngợi chủ nghĩa quân phiệt và đưa vào sử dụng nhằm đảm bảo cho kì học mới bắt đầu từ tháng 9 được tiến hành bình thường. Trên thực tế việc cắt bỏ nội dung liên quan đến chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc cực đoan chỉ được tiến hành đối với sách giáo khoa quốc ngữ vì sau đó không lâu các môn học như Tu thân, Quốc sử, Địa lí Nhật Bản bị đình chỉ. [x]

    Tháng 3 năm 1947, Bộ giáo dục ban hành Bản hướng dẫn giảng dạy[xi] đánh dấu cải cách giáo dục trên quy mô toàn quốc bắt đầu đi vào quỹ đạo. Đây là bản chương trình khung quy định nội dung cơ bản của các môn học được giảng dạy tại các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và các trường đặc biệt dành cho trẻ em khuyết tật không phân biệt trường quốc lập, công lập hay tư thục. Cùng với Bản hướng dẫn giảng dạy tổng quan, Bản hướng dẫn giảng dạy các môn cụ thể trong đó có môn Xã hội cũng được biên soạn và công bố.

    Môn Xã hội ra đời với tư cách là môn giáo khoa hoàn toàn mới đã thay thế cho các môn đã bị đình chỉ trước đó như Quốc sử, Địa lí, Tu thân và mang trong mình triết lý hoàn toàn mới. Hình ảnh con người (mục tiêu giáo dục) mà môn Xã hội hướng tới không phải là thần dân “trung quân, ái quốc” mà là những công dân có khả năng xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ. Nói một cách cụ thể môn học này nhằm mục đích “giáo dục nên các công dân có tri thức, thái độ, năng lực cần thiết để xây dựng nên xã hội tốt đẹp hơn xã hội hiện tại”. Với sự ra đời của môn Xã hội thì ba hình thái giáo dục lịch sử đã ra đời: “thông sử”, “lịch sử theo chủ đề” và “lịch sử lội ngược dòng”. [xii]

    Cùng với việc ban hành Bản hướng dẫn giảng dạy, Bộ giáo dục cho thực hiện chế độ kiểm định sách giáo khoa áp dụng trên phạm vi toàn quốc. [xiii]Kể từ năm 1947 đến nay, cứ khoảng 10 năm Bản hướng dẫn giảng dạy dành cho môn Xã hội lại được sửa đổi một lần. Hiện tại Bản hướng dẫn giảng dạy mới nhất và đang được dùng là bản được ban hành vào tháng 3 năm 2008. Việc thực hiện một chương trình khung của Bộ giáo dục với chế độ sách giáo khoa kiểm định đã tạo ra tính năng động và mềm dẻo của nền giáo dục Nhật Bản. Nội dung chương trình – sách giáo khoa môn Xã hội trong trường phổ thông Nhật Bản đã trải qua nhiều lần sửa đổi nhưng không gây ra nhiều sự xáo trộn, lúng túng đối với giáo viên và học sinh vì nó dựa trên mối quan hệ cân bằng động, tương tác đa chiều giữa chương trình khung – sách giáo khoa và thực tiễn giáo dục[xiv] của giáo viên. Hiến pháp và các bộ luật giáo dục Nhật vừa quy định nghĩa vụ chăm lo giáo dục của nhà nước vừa đảm bảo quyền tự do giáo dục của giáo viên, quyền tự do tiếp nhận giáo dục của học sinh.

    Dựa trên cơ sở đó, kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và công cuộc cải giáo dục toàn diện bắt đầu, thực tiễn giáo dục của giáo viên lịch sử đã phát triển mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu. Mặc dù những thực tiễn đó vô cùng phong phú và mang dấu ấn của từng giáo viên nhưng điểm chung nổi bật của chúng là sự trung thành với triết lý giáo dục được đề ra sau Chiến tranh thế giới thứ hai: giáo dục nên những công dân có khả năng xây dựng một quốc gia hòa bình, dân chủ. Cơ sở lý luận của các thực tiễn giáo dục này là lý luận giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, coi trọng tư duy độc lập và năng lực tự học của học sinh. Dưới đây, xin được khảo sát và phân tích thực tiễn giáo dục của Kato Kimiaki như là một ví dụ minh chứng cho sự biến chuyển của giáo dục lịch sử Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

    Nguyễn Quốc Vương



    ---------------------------------

    Chú thích

    [i] Văn bản này được công bố vào ngày 15/9/1945.

    [ii] Bốn chỉ thị lớn này được GHQ ban hành trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1945. Chỉ thị thứ nhất mang tên “Chính sách quản lí đối với chế độ giáo dục Nhật Bản”thể hiện những nguyên tắc cơ bản của việc quản lí giáo dục như loại trừ triệt để chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa quốc gia cực đoan ra khỏi giáo dục. Chỉ thị thứ hai “Về việc điều tra, loại trừ, chấp thuận giáo viên và viên chức giáo dục” đưa ra các nguyên tắc loại trừ khỏi công việc giáo dục những người không đủ tiêu chuẩn. Chỉ thị thứ ba “Về việc công bố đình chỉ và giám sát sự bảo hộ, trợ giúp, duy trì của chính phủ đối với đạo Shinto” có nội dung nghiêm cấm tài trợ, duy trì, tiến hành nghi lễ, giáo dục liên quan đến đạo Shinto. Chỉ thị thứ tư “Về việc đình chỉ môn Tu thân, Lịch sử Nhật Bản và Địa Lí” quy định chấm dứt giờ học ba môn giáo khoa: Tu thân, Lịch sử Nhật Bản và Địa lí Nhật Bản trong nhà trường.

    [iii] Sứ đoàn giáo dục Mĩ được tổ chức với thành viên là các nhà giáo dục nổi tiếng đến từ khắp nơi trên nước Mĩ do J.D.Stoddard làm trưởng đoàn. Sứ đoàn đến Nhật vào tháng 3 năm 1946 và trình lên tướng Mac Arthur bản báo cáo mang tên “Bản báo cáo của sứ đoàn giáo dục Mĩ”. Bản báo cáo chỉ ra 5 vấn đề của nền giáo dục Nhật: hệ thống giáo dục bị trung ương tập quyền hóa một cách cực đoan, hệ thống trường học theo kiểu phức tuyến, giáo dục nhồi nhét một chiều, hành chính giáo dục quan liêu độc tài, quốc ngữ – quốc tự không hiệu quả. Bản báo cáo đưa ra nguyên tắc và các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục 5 yếu điểm nói trên và xây dựng nền giáo dục mới.

    [iv] Trên thực tế các giáo viên Nhật Bản quen gọi là giáo dục nên những người làm chủ và nền giáo dục được xây dựng sau chiến tranh cũng thường được gọi là “giáo dục mới” hay “giáo dục dân chủ”.

    [v] 6 năm tiểu học, 3 năm trung học cơ sở và 3 năm trung học phổ thông.

    [vi] Trường quốc lập do Bộ giáo dục trực tiếp quản lý, trường công lập do địa phương quản lý (có trường trực thuộc thành phố, có trường trực thuộc tỉnh).

    [vii] Hiện tại Nhật Bản đang tiến hành miễn học phí cho học sinh trung học phổ thông tuy nhiên trong quá trình thực hiện gặp phải nhiều khó khăn và những ý kiến tranh luận gay gắt.

    [viii] Môn học này đúng ra phải dịch là môn Nghiên cứu xã hội vì trong tiếng Anh nó được viết là “Social Studies” tuy nhiên ở Nhật Bản các nhà giáo dục thường gọi ngắn gọn là môn Xã hội. Môn này là sự thay thế cho các môn học trước đó đã bị đình chỉ như Tu thân, Công dân, Quốc sử, Địa lí Nhật Bản và là sự tích hợp ba môn: Lịch sử, Địa lí, Công dân.

    [ix] Usui Yoshikazu, “Senzen rekishi kyoiku no hansei to shakaika rekishi kyoiku – Sự phản tỉnh về giáo dục lịch sử trước chiến tranh và giáo dục lịch sử trong môn Xã hội”, trong cuốn “Atarashii rekishi kyoiku 6 – Tân giáo dục lịch sử 6”, Otsuki shoten, 1994, tr.16.

    [x] Việc xóa bỏ nội dung giáo sách giáo khoa liên quan đến chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa quốc gia cực đoan được tiến hành bằng cách giáo viên dùng mực đen bôi đè lên giấy. Những trang sách giáo khoa bị bôi mực đen không đọc được đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với giáo viên và học sinh Nhật Bản thời hậu chiến.

    [xi] Văn bản do Bộ giáo dục biên soạn và ban hành trong đó tóm lược về mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy trong các trường phổ thông.

    [xii] Trong Bản hướng dẫn giảng dạy đầu tiên năm 1947 thì chương trình giáo dục lịch sử trong môn Xã hội được phân bố như sau:

    Ở trường tiểu học học sinh sẽ học môn học có tên “Xã hội đại cương” tức là học tập “lịch sử theo chủ đề” và “lịch sử lội ngược dòng”. Phần thông sử bị đình chỉ.

    Ở trường trung học cơ sở học sinh sẽ học “Xã hội đại cương” (bao gồm “lịch sử theo chủ đề” và “lịch sử lội ngược dòng”), bên cạnh đó môn “Quốc sử” cũng được thiết lập (tức “thông sử”).

    Ở trường trung học phổ thông môn “Xã hội đại cương” vẫn tồn tại bên cạnh đó còn có thêm môn “Lịch sử phương Đông ” và “Lịch sử phương Tây” (tức “thông sử”).

    Trải qua các lần cải cách sau này sự phân bố và tên gọi các môn học nói trên có thay đổi nhưng nhìn chung 3 hình thái giáo dục lịch sử nói trên vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay.

    [xiii] Các nhà xuất bản tư nhân căn cứ trên nội dung cơ bản của Bản hướng dẫn giảng dạy mà tiến hành biên soạn sách giáo khoa. Những cuốn sách này nếu vượt qua sự xét duyệt của Hội đồng thẩm định do Bộ giáo dục chủ trì sẽ được công nhận là sách giáo khoa. Việc lựa chọn sách giáo khoa nào là do hiệu trưởng hoặc Ủy ban giáo dục ở các địa phương quyết định. Chế độ kiểm định sách giáo khoa này ra đời đã thay thế cho chế độ quốc định (cả nước sử dụng một bộ sách giáo khoa duy nhất do Bộ giáo dục biên soạn và xuất bản) vốn duy trì trong một thời gian dài trước đó.

    [xiv] Theo nghĩa rộng thì thực tiễn giáo dục chỉ toàn bộ những hoạt động giáo dục của giáo viên tiến hành ở hiện trường cùng kết quả của nó và xét ở nghĩa hẹp nó chỉ hoạt động giáo dục của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh trong nhà trường với những thành quả nhất định được thể hiện bằng một hay nhiều giờ học được ghi lại trong các hồ sơ giờ học hay báo cáo thực tiễn giáo dục của giáo viên.
    thay đổi nội dung bởi: Kasumi, 16-01-2012 lúc 09:09 AM
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  2. The Following 2 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    bad_no001 (16-01-2012), lynkloo (16-01-2012)

  3. #2
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    2.3. Một vài đặc điểm của “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán”

    Thực tiễn giáo dục của Kato đã thu hút sự chú ý của dư luận và có ảnh hưởng lớn tới các giáo viên lịch sử ở trường phổ thông Nhật Bản. Kitao Satoru, giáo viên dạy lịch sử ở trường THPT đã đánh giá: “thực tiễn của Kato nổi bật lên với sự phong phú, mới mẻ của giáo tài, sự cứng cáp của đề xướng vấn đề sử dụng tranh ảnh lịch sử cùng với phương pháp thảo luận tiến hành giờ học”[i] . Qua khảo sát các thực tiễn đã công bố của Kato tôi xin được rút ra ba đặc điểm của “Giờ học lịch sử Nhật Bản với tư duy phê phán” .

    Thứ nhất là coi trọng và phát huy tính chủ thể của học sinh. Triết lí của môn Xã hội ra đời sau chiến tranh là giáo dục nên những con người có khả năng kiến thiết một xã hội hòa bình và dân chủ. Để thực hiện triết lí này, học sinh phải có được những tri thức, năng lực, thái độ thích hợp với xã hội hòa bình, dân chủ thông qua học tập môn Xã hội. Và như vậy ở đó việc học sinh là chủ thể của quá trình học tập là điều đương nhiên được đặt ra. “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” của Kato là một nỗ lực đáp ứng yêu cầu trên.

    Kato từ thực tiễn kinh nghiệm của bản thân đã nhận ra hạn chế của giờ học theo kiểu thuyết trình. Trong giờ học kiểu như thế, giáo viên lấy nội dung sách giáo khoa làm trung tâm và thuyết minh các thành quả của sử học sao cho dễ hiểu và lô-gíc. Học sinh nghe nội dung bài giảng, ghi chép và ghi nhớ chúng. Theo Kato thì trong những giờ học như vậy học sinh đơn thuần chỉ là khách thể tiếp nhận nội dung bài giảng và bị áp đặt một chiều bởi quan điểm lịch sử cũng như hình ảnh lịch sử của giáo viên. Đối với học sinh những giờ học như vậy không có sức hấp dẫn và điều này có mối quan hệ mật thiết với tình trạng học sinh “chán ghét lịch sử”, “xa lánh lịch sử”.

    Trái ngược với mục tiêu giờ học kiểu thuyết trình là truyền đạt thành tựu của sử học, “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” nhắm tới việc trang bị cho học sinh năng lực nhận thức lịch sử khoa học, làm cho học sinh trưởng thành với tư cách là con người có khả năng truy tìm sự thật lịch sử. Như đã trình bày trước đó, năng lực nhận thức lịch sử này bao gồm: năng lực tư duy căn cứ trên các sự thực đã được xác nhận hoặc dựa trên các tư liệu lịch sử (tính thực chứng), năng lực tư duy một cách thống nhất, lô-gíc (tính lô-gíc), năng lực tư duy bằng chính cái đầu của mình, sử dụng các cảm tính, tri thức của bản thân chứ không phải là sự bắt chước người khác (tính chủ thể).

    Giờ học của Kato luôn bắt đầu bằng đề xướng vấn đề và khi thiết kế vấn đề được đưa ra Kato đã nghiên cứu tính toán xem vấn đề này sẽ thu hút sự quan tâm, chú ý, hứng thú của học sinh như thế nào. Sự đề xướng vấn đề có tác dụng làm dao động các kiến thức học sinh sẵn có khiến học sinh bước vào giờ học thảo luận một cách tích cực. Sau khi tiếp nhận vấn đề, học sinh sẽ xây dựng giả thuyết của mình ở đó không phải chỉ có các tri thức trong sách giáo khoa mà học sinh sẽ phải động viên, kết hợp các tri thức đã được hình thành trước đó dựa trên các trải nghiệm cuộc sống của bản thân và chỉnh lý chúng sao cho lô-gíc. Tức là nhận thức lịch sử của học sinh là do chính học sinh tạo ra. Tất nhiên nhận thức lịch sử này còn non nớt và bao gồm rất nhiều sai lầm nhưng thông qua quá trình thảo luận, tranh luận chúng sẽ được mài sắc và chỉnh lý.

    Thứ hai là làm cho học sinh cảm nhận được sự thú vị, hấp dẫn trong học tập lịch sử. Giờ học của Kato có thể coi như là một giải pháp giải quyết tình trạng học sinh “chán ghét và xa lánh lịch sử”. Nhìn vào tư thế học tập của học sinh trong giờ học, các bài viết phát biểu cảm tưởng, tiểu luận sau giờ học có thể thấy rõ giờ học của Kato đã làm cho học sinh cảm nhận được sự hấp dẫn của học tập lịch sử.

    Một học sinh đã nói về cảm tưởng của mình như sau: “trao đổi cùng nhau về quá khứ thông qua thảo luận thật là thú vị. Bản thân em đã tin vào thuyết chó săn nhưng trong lúc nghe các đội khác trình bày em dần dần cảm thấy lo lắng. Thuyết chó giữ nhà có những điểm thật sâu sắc vì thế có lẽ nó sẽ dành được sự ủng hộ đông đảo. Càng nghĩ em càng cảm thấy mình như đang đi vào thời kì Jomon”.[ii]

    Kato vào cuối tháng 1 hàng năm thường tiến hành bài thi cuối năm[iii]. Trong đề thi cuối năm thường có câu hỏi phụ “Trong năm học này các em đã được học rất nhiều về lịch sử Nhật Bản. Trong các giờ học đó giờ học nào làm cho em có ấn tượng nhất?”.

    Học sinh đã sôi nổi trả lời câu hỏi trên. Có học sinh đã viết như sau: “Giờ học lịch sử là giờ học em thích nhất trong các môn học ở trường. Đó là do nó không phải là giờ học giống như là đọc sách giáo khoa thông thường mà là giờ học dạy chúng em “suy nghĩ” về vô số các chủ đề. Trong đó em thích nhất bài học đầu tiên “con chó ở ụ vỏ sò Kasori”. Đối với chủ đề đó không có một câu trả lời duy nhất nào vì thế đã có rất nhiều phương án được đưa ra. Thật là thú vị cho dù đến giờ phút này em vẫn lựa chọn thuyết chó thần”.

    Tại sao học sinh lại yêu thích “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán”? Nói cách khác Kato đã làm thế nào để học sinh cảm nhận được niềm vui trong học tập lịch sử? Điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm coi trọng và phát huy tính chủ thể của học sinh đã trình bày ở trên. Kato cho rằng mục tiêu của giáo dục lịch sử là nâng cao nhận thức lịch sử của học sinh và ông luôn cố gắng tôn trọng tính chủ thể của học sinh. Do đó khi thiết kế bài học, lựa chọn giáo tài, rồi cả trong quá trình tiến hành giờ học, Kato đã đứng trên lập trường của học sinh để suy nghĩ xem học sinh muốn học gì, có hứng thú, quan tâm tới điều gì, nếu đưa vấn đề này ra thì học sinh sẽ xây dựng giả thuyết và tiến hành thảo luận như thế nào từ đó mà xây dựng giáo án và tiến hành giờ học.

    Thêm nữa, trong giờ học của Kato học sinh ai cũng có thể phát biểu. Kato đã tạo ra bầu không khí ở đó học sinh có thể phát biểu bất cứ điều gì. Trong môi trường ấy học sinh đã học tập một cách vui vẻ, say mê. Trong giờ học kiểu thuyết giảng thì tư thế học tập của học sinh cũng có tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở một bộ phận học sinh có suy nghĩ chủ động và có học lực khá. Trong “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” sau khi đề xướng vấn đề Kato đã cho học sinh viết ý kiến của bản thân vào vở hay giấy trả lời theo mẫu, tổ chức thành các nhóm để xây dựng câu trả lời. Nhờ đó, tất cả các học sinh đều có thể tham gia vào giờ học.

    Tiếp nhận vấn đề đưa ra, học sinh tích cực xây dựng giả thuyết của mình, phát biểu giả thuyết và tiến hành thảo luận. Trải qua quá trình như thế, học sinh đã cảm nhận được sự thú vị của học tập lịch sử. Việc giải mã sự bí ẩn của lịch sử, đặt tên cho các sự vật được vẽ trong tranh lịch sử đã tạo cơ hội cho học sinh có được trải nghiệm của nhà nghiên cứu. Điều này đã làm thay đổi ý nghĩ của học sinh cho rằng “học tập lịch sử chỉ là ghi nhớ. Giáo viên thuyết minh, giải thích theo sách giáo khoa, chỉ cần hiểu những gì giáo viên viết trên bảng và sau đó gắng sức ghi nhớ là đủ”.

    Thứ ba là đặt ra yêu cầu cao đối với năng lực tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Trong số những ý kiến phê phán thực tiễn của Kato có nhiều ý kiến cho rằng trong thực tiễn này vai trò của giáo viên đã không được thể hiện rõ. Tuy nhiên, theo tôi trên thực tế không phải như vậy. Trong các hồ sơ ghi chép về thực tiễn, Kato chú trọng ghi lại hoạt động học tập và những lời phát biểu của học sinh từ đó phân tích nhận thức lịch sử mà học sinh đã đạt được cho nên không ghi chép cụ thể về sự hướng dẫn, tổ chức giờ học của giáo viên. Trên thực tế, trong “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” giáo viên đã có vai trò rất lớn.

    Sự chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên trong thực tiễn của Kato thể hiện cả trong và ngoài giờ học. Trước khi giờ học diễn ra vai trò ấy thể hiện ở việc lực chọn vấn đề đưa ra thảo luận, lựa chọn giáo tài thể hiện vấn đề như thế nào để kích thích hoạt động tư duy của học sinh. Tức là giáo viên phải thực hiện công tác nghiên cứu giáo tài. Công việc này sẽ là điều kiện tiên quyết quyết định thành công của giờ học.

    Sau khi tiếp nhận vấn đề được đưa ra, học sinh sẽ tiến hành xây dựng giả thuyết của bản thân ở đó học sinh cần có thời gian để xây dựng ý kiến của bản thân. Tùy theo độ khó của vấn đề và tiến độ giờ học mà có sự khác nhau tuy nhiên thông thường một bài học của Kato sẽ có hai tiết. Trong tiết thứ nhất Kato sẽ phát cho học sinh tờ giấy trả lời về vấn đề được đưa ra. Giáo viên ghi lên bảng số trang có nội dung cần tham khảo ở sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, tập bản đồ và hướng dẫn học sinh đọc, ghi chép, lấy đó làm căn cứ để xây dựng giả thuyết. Khi học sinh bắt đầu tiến hành xây dựng giả thuyết giáo viên sẽ đi vòng quanh lớp, hay thư viện đưa ra các lời khuyên, trả lời các câu hỏi của học sinh.

    Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên sẽ làm rõ các luận điểm cần tranh luận, đóng vai trò làm người tổ chức thảo luận để làm sâu sắc nhận thức lịch sử của học sinh. Sau khi thảo luận kết thúc, giáo viên đưa ra chủ đề viết tiểu luận cho học sinh, biên tập, phát hành “Báo lịch sử Nhật Bản”.

    Kết Luận

    Sau 15/8/1945 dưới sự quản lý của GHQ trong bối cảnh dân chủ hóa được xúc tiến, cuộc cải cách giáo dục toàn diện nhằm xây dựng nước Nhật hòa bình, dân chủ đã diễn ra và trong cuộc cải cách này môn Xã hội với tư cách là môn học hoàn toàn mới đảm nhận vai trò hạt nhân trung tâm của cải cách giáo dục đã ra đời. Sự ra đời của môn Xã hội với triết lí mới cùng với những cải cách cơ bản trong hệ thống giáo dục như thực thi một chương trình khung với chế độ sách giáo khoa kiểm định đã phát huy được sự năng động, sáng tạo, tự chủ của giáo viên trực tiếp giảng dạy ở hiện trường. Những nỗ lực cải cách, thực nghiệm của giáo viên ở trường phổ thông đã tạo nên những thực tiễn giáo dục phong phú. Thực tiễn giáo dục “Giờ học lịch sử Nhật Bản bằng tư duy phê phán” của Kato là một ví dụ. Thực tiễn giáo dục này được khởi động từ năm 1983 và còn tiếp diễn đến ngày nay đã có ảnh hưởng lớn tới các giáo viên giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông, có đóng góp quan trọng về mặt lí luận giáo dục lịch sử. Đặc điểm nổi bật và cũng là đóng góp đáng kể của Kato là sự thừa nhận tính đa dạng của nhận thức lịch sử, coi mục tiêu của giáo dục lịch sử là nâng cao năng lực nhận thức lịch sử của học sinh với tư cách là chủ thể của quá trình học tập từ đó tiến hành các biện pháp tổ chức, hướng dẫn học tập nhằm phát huy cao độ tư duy độc lập và năng lực tự học của học sinh. Thực tiễn của Kato có thể sẽ đưa lại những gợi ý hữu ích cho chúng ta trong quá trình tiến hành cải cách giáo dục lịch sử trong bối cảnh hiện nay.

    Nguyễn Quốc Vương



    ------------------------------

    Tài liệu tham khảo

    1. Kaigo Tomiaki (chủ biên), Kyoiku kaikaku – sengo Nihon no kyoiku kaikaku 1 (Cải cách giáo dục – Cải cách giáo dục Nhật Bản thời hậu chiến tập 1), Tokyodaigaku Shuppankai, 1975.

    2. Kato Kimiaki, wakuwaku ronso! Kangaeru Nihonshi jugyo (Giờ học lịch sử bằng tư duy phê phán), Chirekisha, 1991.

    3. Kato Kimiaki, Kangaeru Nihonshi jugyo 2 (Giờ học lịch sử bằng tư duy phê phán 2), Chirekisha, 1995

    4. Kato Kimiaki, Nihonshi toron jugyo no susume kata (Phương pháp tiến hành giờ học thảo luận lịch sử Nhật Bản), Nihonshoseki, 2000.

    5. Kato Kimiaki, Kangaeru Nihonshi jugyo 3 (Giờ học lịch sử bằng tư duy phê phán 3), Chirekisha, 2007.

    6. Kuroda Hideo, Sugata to Shigusa no chuseishi (Hình dáng và điệu bộ lịch sử thời Trung Thế), Heibonsha, 1986

    7. Yasui Toshio, Kodomo to manabu rekishi no jugyo (Giờ học lịch sử cùng học tập với học sinh), Chirekisha, 1977.


    ------------------------------

    Chú thích

    [i] Kitao Satoru, “Zadankai Kato Kimiaki Jissen o Kento suru” (Nhìn lại buổi tọa đàm về thực tiễn của Kato Kimiaki) , Tạp chí Giáo dục lịch sử – địa lí, số 488, tháng 6 năm 1992.

    [ii] Kato Kimiaki, sđd, tr.10.

    [iii] Ở Nhật Bản năm học thường kết thúc vào khoảng cuối tháng 3 và tiến hành khai giảng vào đầu tháng 4.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  4. The Following 3 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    bad_no001 (16-01-2012), ken_chan (17-01-2012), lynkloo (16-01-2012)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 08-01-2011, 10:28 PM
  2. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 07-10-2009, 09:27 PM
  3. Kato Norio: một người Nhật ở Hà Nội
    By Kasumi in forum Tin tức Việt - Nhật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 30-04-2007, 10:56 AM
  4. “Giảm rác để tiết kiệm tài nguyên”
    By Kasumi in forum Toàn cảnh Nhật Bản
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 11-03-2007, 10:48 AM

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •