>
Trang 1/8 1 2 3 4 5 ... cuốicuối
kết quả từ 1 tới 10 trên 78

Ðề tài: 12 người lập ra nước Nhật

  1. #1
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts

    12 người lập ra nước Nhật


    Nguyên tác của : Sakaiya Taichi Người dịch : Đặng Lương Mô


    12 người lập ra nước Nhật

    Nguồn: erct.com

    Mục lục

    Lời tựa của dịch giả (#78)

    Mở đầu: Bây giờ chính là lúc học lịch sử (#1)

    Chương I: Thái tử Shotoku (#2)
    - Người khởi xướng "tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho"

    Thủy tổ của khái niệm tôn giáo của người Nhật
    Thời chuyển tiếp từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ"
    Sự đối lập xung quanh vấn đề công nhận Phật giáo
    "Chính quyền liên hiệp" giữa hoàng gia và họ Soga
    Khởi xướng "tư tưởng gộp đạo" duy nhất trên thế giới
    Phong cách "chọn lấy chỗ tốt"
    Cội nguồn của "xã hội chức lộc"

    Chương II : Hikaru Genji (#8)
    - Người mẫu cho kiểu "chính khách thanh nhã"

    Hikaru Genji có thật không?
    Ðại biểu cho giới quý tộc thời đại Heian
    Việc làm của một chính khách quý tộc
    Ðiểm gốc của khái niệm "thanh nhã"
    Sự xuất hiện của chính trị gia kiểu "Hikari Genji"
    Tính cách vô lãnh đạo của "Chủ nghĩa tập thể"
    Khác nhau lớn giữa "quý phái" và "thanh nhã"
    "Thanh nhã kiểu Nhật" không còn đắc dụng nữa

    Chương III : Minamoto Yoritomo (#14)
    - Người sáng chế ra "cấu tạo quyền lực hai tầng"

    "Chính quyền kỳ lạ" chưa từng thấy
    Yoritomo xuất hiện
    "Chinh di Ðại tướng" chỉ là một chức tư lệnh quân đội
    Bề ngoài là chế độ luật lệnh, thực chất là cơ chế "mạc phủ"
    Bắt đầu truyền thống "thực quyền thuộc kẻ dưới"
    Yoritomo mở ra nền "chính trị võ gia"
    Người nắm quyền lực lớn Hojo Masako xuất hiện
    Quan chức ngoài luật lệnh đã sinh ra cấu trúc hai tầng

    Chương IV : Oda Nobunaga (#77)
    - Người anh hùng bị phủ nhận của lịch sử Nhật Bản

    Thời chiến quốc, thời kỳ đổi mới kỹ thuật lớn
    Thằng đại ngốc thống nhất vùng Owari
    Trận Okehazama không phải là đánh úp
    Phương sách "phân ly binh nông" thể hiện nhu cầu thời đại
    Chiến thuật mới là "Chơi xấu"
    Cơ chế thị trường tự do "chợ vui, tổ buôn vui" đã làm đổi nền kinh tế
    Sự thay đổi tổ chức và sư xuất hiện của "binh gia" chuyên nghiệp
    "Rải võ ra khắp thiên hạ" và ý thức "quốc gia"
    Viễn tượng về một vương quyền tuyệt đối đầu tiên trên thế giới

    Chương V : Ishida Mitsunari (#20)
    - Người sáng tạo ra loại hình "Kế hoạch kiểu Nhật"

    Thủy tổ của kế hoạch do quan liêu trung cấp
    Vận không may và vụng đánh trận
    Năm quan Ðại Lão và năm quan Chấp Chính
    Mưu đồ vĩ đại
    Phương pháp làm kế hoạch của Mitsunari
    Dùng Mori Terumoto làm tổng chỉ huy để chống lại Tokugawa Yeyasu
    Kịch hay, diễn dở

    Chương VI : Tokugawa Yeyasu (#27) - Cải cách với "ý chí tăng trưởng"

    Từ "con tin" trở thành "đại chúa tể"
    Dựng thành Edo với chức năng thủ đô.
    Triết lý "tín nghĩa" và "nhẫn nại"
    Việc phổ cập "ý thức quan trên" và nền "trật tự phong kiến"
    Tiêu chuẩn đánh giá nhân tính của Ieyasu
    Từ "xu hướng tăng trưởng" tới "xu hướng ổn định"
    Sự hình thành của bản tính "đảo quốc" và tính "nghi kị ngoại quốc"

    Chương VII: Ishida Baigan (#33)
    - Triết lý dân gian "cần cù và tiết kiệm"

    Thủy tổ của "Tâm học Thạch môn"
    Xã hội võ sĩ samurai là xã hội "tổng số zero"
    Sự phát đạt “bong bóng” thời Genroku
    Thời Yoshimune có thế tình giống như ngày nay
    Làm ăn cần cù là tu thân
    Ngồi không là uổng
    Mâu thuẫn giữa làm ăn cần mẫn và lối sống thanh bần
    Chủ trương chi ly đã trở thành thói quen buôn bán
    Sự kỹ tính phát triển thành lý luận về nhân cách của con người trong tổ chức
    Ý thức "Xa xỉ là kẻ Ðịch"
    "Chủ nghĩa đâu ra đó" phát sinh ra từ nền Tâm học Thạch Môn

    Chương VIII: Okubo Toshimichi (#40)
    - Người dựng nên "chế độ quan liêu (công chức)"

    Nguồn gốc của thể chế "quan liêu (công chức) chỉ đạo"
    Chế độ quan liêu (công chức) đã không thể thiếu được cho sự hiện đại hóa.
    Dùng quyền hạn và mưu lược phân hóa phe phản đối
    Xây dựng một nước không để cho ngoại quốc coi thường
    Xây dựng cơ chế trong nước dập theo Ðế quốc Ðức.
    Giữ chức Bộ trưởng Nội vụ nắm toàn thể nền chính trị quốc gia
    Chế độ quan liêu được tăng cường sau khi Okubo qua đời
    Khuyết điểm của chế độ quan liêu kiểu Ðức
    Tình trạng bó chân bó tay ngày nay

    Chương IX: Shibusawa Ei-ichi (#47)
    - Thủy tổ của "chủ nghĩa tư bản Nhật"

    Người lập ra "giới kinh tài"
    Trước nhất lập ra chế độ lưu thông tiền tệ
    Cha đẻ ra chủ nghĩa hòa hợp kiểu Nhật Bản
    Iwasaki Yataro, một tồn tại đối chọi
    Chủ nghĩa cá nhân trong phép kinh doanh của Iwasaki
    Ðối chọi trực tiếp với Iwasaki trong ngành vận tải đường biển
    "Tài phiệt" và Nhóm Xí nghiệp Liên hệ khác nhau thế nào?
    "Giới tài phiệt," đoàn thể của những nhà kinh doanh làm thuê
    Khuyết điểm của chủ nghĩa góp vốn
    Thang danh vọng kiểu Nhật Bản
    Ðã đến lúc thoát xác khỏi mẫu người Shibusawa
    Giới hạn của sáng kiến xuất phát từ "Luận ngữ"

    Chương X: MacArthur (#54)
    - Thí nghiệm biến Nhật Bản thành một "nước Mỹ lý tưởng"

    Tốt nghiệp thủ khoa trường võ bị Westpoint
    Ðoạt lại Philippines rồi chiếm đóng Nhật Bản
    Biến thành kiểu mẫu cho một "nước Mỹ lý tường"
    Hãy là Thụy Sĩ của Viễn Ðông
    Du nhập nền luân lý coi trọng bình đẳng và an toàn
    Chủ nghĩa dân chủ đầu phiếu và nền tự trị địa phương trở nên trống rộng
    "Thể chế năm ‘55" đánh đổ chính sách giải thể tài phiệt và giải phóng đất nông nghiệp
    Sinh ra nguyên nhân băng hoại chế độ gia tộc
    Cải cách luân lý và ý thức thẩm mỹ
    Phủ định tinh thần sinh ra sùng bái vật lượng và tín ngưỡng số lượng
    Là quân nhân đồng thời là nhà chính trị

    Chương XI: Ikeda Hayato (#60)
    - Sự thực hiện một đại cường quốc kinh tế

    Con đường tới "gấp đôi thu nhập"
    Một công chức (quan liêu) thành đạt muộn
    Bắt đầu tôn thở GNP (Tổng Sản Phẩm (Sản lượng) Quốc gia)
    Gặp dịp phồn thịnh chưa từng thấy từ thời Jinmu
    Thành công vượt xa kế hoạch
    Ý nghĩa của câu nói "người nghèo hãy ăn lúa mạch"
    Hướng tia mắt nhìn của quốc dân vào nước Mỹ giầu có
    Xây nhà máy trước nhất để phát triển địa phương
    Quy cách hóa con người và tập trung dân số vào thành thị
    Tăng cường thể chế chỉ đạo của quan liêu
    Sức mạnh của Hội Hoằng Chì trong việc thâu góp tiền ủng hộ

    Chương XII: Matsushita Konosuke (#67)
    - Kinh doanh kiểu Nhật Bản và triết lý kinh doanh

    Doanh gia trở thành anh hùng dân tôc
    Gặp gỡ điện khí
    Sự phổ cập "đường lối kinh doanh Matsushita" qua mạng lưới bán vững chắc
    Tại sao trở thành anh hùng dân tộc được?
    Khởi đầu kiểu "Kinh doanh Nhật Bản" với hình thức làm công suốt đời
    Kỹ thuật thì Honda, Kinh doanh thì Matsushita
    Công bố và thực thi phong trào PHP
    Xúc tiến chí hướng lập thân xử thế
    Ðẻ ra "Người xí nghiệp" và "Xã hội chức lộc"
    Tạo ra ảo tưởng coi doanh gia là "tài giỏi"
    Ðã đến lúc vượt qua ảnh hưởng của vĩ nhân

    Chương kết: Kết luận (#73)


    Lời mở đầu

    Bây giờ chính là lúc học lịch sử



    Nhật Bản hiện đang ở thời kỳ đổi mới lớn.

    Trong thời kỳ đổi mới này, cái gì sẽ thay đổi và cái gì sẽ không thay đổi? Nếu thay đổi thì thay đổi như thế nào, yếu tố cũ nào nên giữ lại, yếu tố mới nào nên tiếp thu thêm?

    Nghĩ như trên, trước hết phải hiểu thấu cái dòng lịch sử đã biến thành xương, thành thịt, thành con tim, thành “lòng” người Nhật.

    Trong những cái coi là "có tính Nhật Bản," có cái đã hình thành sau cuộc chiến tranh Thái Bình Dương[1], cũng có cái mới chỉ lan truyền rộng ra từ những năm chót của thập niên 1980, tức là khi "cơn thịnh vượng kinh tế bong bóng" hay là khi "xã hội ít con" đã xuất hiện, song cũng có cái đã được vun trồng trong sự kế thừa liên miên của lịch sử. Phần lớn những cái đó đã trở thành "tính dân tộc," "tính quốc dân" khó có thể thay đổi được.

    Xưa nay, Nhật Bản có đủ loại hình văn hóa du nhập vào. Tổ tiên người Nhật đã tiếp xúc bằng con mắt kinh hoàng những văn hóa về hình thức sinh hoạt, từ quần áo, thức ăn, nhà ở tới kỹ thuật, học vấn, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, chính trị, v.v., rồi đã chọn lọc kỹ càng, cái thì bỏ đi, cái thì tiêu hóa đi rồi cải tạo và vun đắp thành "tính Nhật," "kiểu Nhật." Ðây chính là một đặc trưng lớn của Nhật Bản và của người Nhật.

    Hiện nay, Nhật Bản đang ở thời kỳ biến chuyển mạnh. "Chiến tranh lạnh" kết thúc đã làm cho thế giới đổi mới, đồng thời cái "thể chế hậu chiến[2]" dễ thở ở Nhật Bản cũng đã băng hoại luôn rồi. Chính lúc này mới là lúc cần phải nhìn lại lịch sử, đi tìm cái lai lịch của Nhật Bản, tìm hiểu và nắm cho vững cái đặc sắc của xã hội và nền văn hóa mà người Nhật đã vun đắp lên.

    Những vấn đề thời sự như cục diện chính trị, biến động thị trường từng ngày từng giờ thì đều dễ hiểu, dễ kể lại. Ai ai cũng ngóng nghe, và báo chí cũng loan truyền rộng rãi. Tuy nhiên, nếu nghĩ tới tương lai nước Nhật và người Nhật, tới cái mối quan hệ của nước Nhật và người Nhật với thế giới, thì cần phải nhìn thấu suốt lịch sử cùng bản chất của nước Nhật và người Nhật.

    Trong những căn nguyên đã làm thành cái đặc trưng của nước Nhật Bản và người Nhật Bản, cái đặc sắc của xã hội Nhật Bản, thì có "vật" và "người," tức là "phong thổ" và "nhân vật."

    Nói về phong thổ, Nhật Bản quả có một địa thế đặc biệt trên thế giới.

    Thứ nhất, Nhật Bản nằm trong vùng gió mùa châu Á, có khí hậu tương đối ấm áp và ẩm ướt. Trạng thái này rất thích hợp cho việc trồng lúa. Vì thế, nền nông nghiệp trồng lúa đã phát triển rộng lớn. Lật lại những trang sử của Nhật Bản, người ta thấy rằng ngay sau thời đại bắt cá, gọi là thời "hoa văn dây thừng[3]," thời đại canh tác thóc lúa đã xuất hiện rồi. Thời đại "du mục, chăn nuôi" vốn chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới, thì lại không thấy có ở Nhật Bản. Núi non hiểm trở và bình nguyên nhỏ hẹp của lãnh thổ Nhật Bản không thích hợp cho việc xua đuổi chăn nuôi những đàn súc vật đông đảo. Vì vậy, người Nhật chỉ có những quan hệ rất mỏng manh với gia súc, và như vậy so với những nước khác vốn đã có kinh nghiệm của thời chăn nuôi gia súc, thì người Nhật tỏ ra yếu kém về thuật chế ngự những con vật có trí khôn.

    Ðặc điểm thứ hai là lãnh thổ Nhật Bản do bốn hòn đảo lớn hình thành và ngăn cách với những nước khác bằng một "vùng biển không hẹp." Ðiều này có nghĩa là việc vượt biển vào Nhật Bản bằng số đông có tổ chức tập thể, có mục đích quân sự hoặc mục đích chính trị, thì rất khó. Tuy nhiên, vùng biển này lại không rộng đến nỗi không thể vượt qua được, dù chỉ bằng kỹ thuật thô sơ của thời cổ xưa. Vì vậy, sự ghi chép về người Nhật xuất hiện trong triều đình Trung Hoa đã có từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.

    Nói cách khác, quần đảo Nhật Bản vừa có tính cách cô lập về mặt quân sự và chính trị, song mặt khác lại có tính giao lưu văn hóa từ cổ xưa. May mắn thay, ở bờ bên kia vùng biển không quá hẹp cũng không quá rộng này, có bán đảo Triều Tiên và đại lục Trung Hoa, tức là một trong những vùng mở mang tiên tiến nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.

    Ở xa đại lục một quãng cách tương tự như Nhật Bản còn có Cuba và Madagasca. Song trong trường hợp những nước này, thì châu lục Mỹ hoặc châu lục Phi ở bờ bên kia, lại chỉ có nền văn minh cổ đại không lấy gì làm phát triển cho lắm. Bởi vậy, những đảo quốc này đã không được sự du nhập liên tục của những văn hóa cao độ từ đại lục vào. Ở điểm này, có thể nói cái vị trí địa lý của Nhật Bản, vừa cách xa không để cho các thế lực quân sự vượt qua được, nhưng lại vừa đủ gần để cho văn hóa vãng lai được, thì quả là độc đáo trên thế giới.

    Ðặc điểm thứ ba là bốn hòn đảo chính của Nhật Bản làm thành một nhóm rất gọn. Hokkaido phát triển muộn hơn, chứ Kyushu, Shikoku và Honshu thì đã hợp lại thành một nước và có điều kiện thiên nhiên để phát triển. Vì vậy, khi có cùng một nền văn hóa đã phát triển, nên nếu có một thế lực chính trị nòng cốt ra đời, thì toàn thể dễ trở thành một quốc gia.

    Chính vì vậy mà kể từ khi lịch sử viết thành chữ ra đời, tức là từ tiền bán thế kỷ thứ VII, cho tới nay, một quãng thời gian khoảng chừng 1400 năm, ở Nhật Bản đã có nhiều cuộc tranh chấp chính trị, nhiều vụ nội loạn, song trong tất cả những bè phái tranh giành nhau như vậy, không thấy có ai tự mình tuyên bố rằng "ta đây là một nước khác không phải là Nhật Bản." Phần lãnh thổ chủ yếu thì chưa bao giờ bị nước ngoài cai trị lâu năm cả, quốc gia cũng chưa bao giờ bị phân cắt.

    Ba điều kiện kể trên, tức là "địa thế và khí hậu," "vị trí quốc tế" và "sự tóm gọn của lãnh thổ," quả thật đã có ảnh hưởng quan trọng và lớn lao tới lịch sử Nhật Bản. Có lẽ cũng vì vậy mà người Nhật ưa luận về "phong thổ," bất cứ sự việc gì cũng thuyết giải từ phong thổ. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng vào phong thổ không thôi, thì đó cũng có khi nguy hiểm.

    Thí dụ võ tướng Oda Nobunaga là người có tính tình rất phóng đạt, thì thường được giải thích rằng đó là bởi vì ông sinh trưởng ở vùng bình nguyên Mino-Owari rộng lớn. Song le, thời đại Nobunaga sinh ra, thì bình nguyên đó toàn là đồng lầy, có sông ngòi chi chít và rất ít quãng rộng cho ngựa chạy vòng quanh. Nghĩa là khó có thể nói rằng nhờ sinh trưởng ở vùng đồng bằng mà Nobunaga đã có tính tình phóng đạt như vậy được.

    Nói cách khác, từ luận về phong thổ, rồi đi đến giải thích tính tình con người, hay có khi cả tình trạng của một chính quyền, là việc làm gò bó. Phong thổ Nhật Bản quả có ảnh hưởng rất lớn tới nước Nhật và người Nhật, song cái gì cũng chứng minh bằng sự xuất phát từ đó, thì e dễ sinh ra nhầm lẫn.

    Ngược lại, ảnh hưởng của một "nhân vật" đặc thù nào đó, hoặc của một giai tầng hay tập thể mà nhân vật đó là tượng trưng, thì không nhỏ. Có không ít những cái mà nay ta coi là đương nhiên, thì một lúc nào đó trước đây đã do một người nào đó làm và từ đó đẻ ra tính độc đáo, tạo ra tính dân tộc riêng biệt của Nhật Bản.

    Dĩ nhiên cái đó không phải chỉ do năng lực của cá nhân đó hay sự ngẫu nhiên mà xẩy ra được. Có lẽ nên nói rằng người đó, giai tầng người đó đã làm công việc tất yếu lịch sử, thì đúng hơn. Thế nhưng để cho dễ hiểu, nếu coi sự việc như vậy chẳng qua là đã được tượng trưng hóa bởi một nhân vật đặc thù nào đó, thì đây không phải là phương pháp dở.

    Sách này chọn 12 "nhân vật" tượng trưng đã để lại ảnh hưởng sâu đậm đối với nước Nhật cho tới ngày nay.

    Những người này đã hành động như thế nào trong giai đoạn nào của lịch sử? Ðiều mà họ đã làm còn tồn tại trong người Nhật ngày nay như thế nào? Nó đã kìm hãm ý nghĩ của người Nhật, của xã hội Nhật như thế nào? Thế rồi từ nay về sau, trong sự giao tế với thế giới, nó sẽ ảnh hưởng ra sao?

    Cuốn sách này chính là muốn luận về những "nhân vật" này từ quan điểm như vậy.

    Trong luận cứ như vậy, cả những "sự thật" đã được thần thoại hóa trong lịch sử cũng sẽ được đề cập, chứ không riêng gì sự nghiệp lịch sử của người đó, lai lịch xác đáng của người đó, hình ảnh đúng của người đó trong thời đại người đó thực sự sống. Tuy nhiên, cái tổng thể, kể cả những điều như vậy, đang có ảnh hưởng như thế nào tới nước Nhật và người Nhật ngày nay, sẽ để lại cái gì cho Nhật Bản sau này, và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng như thế nào, chính là điều chúng tôi có chủ ý tìm hiểu ở đây.


    Chú thích:

    [1] Chiến tranh Thái Bình Dương là nói mảng Thái Bình Dương của trận Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

    [2] “Thể chế hậu chiến” cũng gọi là “thể chế năm 55.”

    [3] Jomon Jidai.
    thay đổi nội dung bởi: Kasumi, 12-05-2012 lúc 01:17 AM
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  2. The Following 5 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), Linh Linh Linh (25-07-2009), lynkloo (12-05-2012), Walkin'InDaRain (24-08-2009)

  3. #2
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Thái tử Shotoku
    Người khởi xướng tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho


    Thủy tổ của khái niệm tôn giáo của người Nhật

    Thái tử Shotoku là một trong những "nhân vật" quen biết nhất trong lịch sử Nhật Bản.
    Sau khi qua đời ông được đặt tên thụy là Shotoku Taishi, tức là Thái tử Shotoku, chứ sinh thời ông tên là Umayado no Miko hoặc Kamitsu Umayado no Toyotomimi no Oji.

    Những ai sinh trước thập niên 1960, thì hẳn còn nhớ hình bán thân Thái tử Shotoku in trên tờ giấy bạc 5 ngàn Yen hay tờ 10 ngàn Yen cũ. Ðây chỉ là một phần của hình vẽ thái tử đứng chung với hai người con. Hơn nữa, hình vẽ này có miêu tả đúng thái tử hay không, là vấn đề còn cần phải bàn luận thêm. Nhưng dù sao, hình vẽ này cũng đã trở thành quen thuộc như là "bộ mặt Thái tử Shotoku" vậy.

    Truyền thuyết về Thái tử Shotoku trên phương diện tôn giáo và văn hóa có rất nhiều. Ðến nỗi ở hậu bán thập niên 1980, người ta đã thấy xuất hiện một tập sách hoạt họa vẽ Thái tử Shotoku, bán rất chạy trong giới trẻ. Một nhân vật lịch sử hoạt động về tôn giáo và ngoại giao, thường ra khó trở thành đề tài kể chuyện Kodan[1] hay đề tài truyện cổ, thế mà đã thành kịch hí họa bán chạy, thì cũng lạ.

    Thái tử Shotoku được chọn làm người thứ nhất trong "Mười hai người dựng nên nước Nhật," chính vì ông là người khởi xướng đồng thời là người thực hành "tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho," tư tưởng đã được cụ thể hóa thành quan niệm tôn giáo chi phối tâm thức người Nhật trong suốt một nghìn bốn trăm năm qua.

    Ðây là tư tưởng tôn sùng cùng một lúc ba giáo lý: đó là Thần đạo hay tôn giáo dân gian của Nhật Bản, Phật giáo hay tôn giáo phát sinh ra ở Ấn Ðộ rồi truyền qua Trung Hoa và bán đảo Triều Tiên vào Nhật Bản, và Nho giáo phát sinh ra ở Trung Hoa, tức là những quy phạm đạo đức làm khuôn mẫu cho cách xử thế.

    Từ đó tới nay, cái tư tưởng này không những đã quyết định hẳn quan niệm tôn giáo và quan niệm văn hóa của người Nhật, mà còn có ảnh hưởng lớn tới cung cách đối xử khi Nhật Bản tiếp thu văn hóa hay kỹ thuật từ nước ngoài vào. Ðồng thời, từ sau khi tư tưởng gộp đạo đã bén rễ rồi, thì tôn giáo không còn là một trục đối lập đáng kể ở Nhật Bản nữa. Thậm chí nếu một tôn giáo mới (ví dụ đạo Cơ Ðốc) du nhập vào, thì đó chẳng qua là lại có thêm một đối tượng nữa để tôn sùng. Sự khác biệt tôn giáo chỉ là ở chỗ đặt trọng điểm tín ngưỡng vào đâu mà thôi.

    Ðối với người Nhật, thì chiến tranh tôn giáo là cái gì thật sự không hiểu nổi. Khi xét vấn đề Trung Ðông hay cuộc phân tranh Bosnia Helzegovina[2], người Nhật hoàn toàn thấy mù tịt khi đi vào vấn đề tôn giáo! Chỉ vì khác tôn giáo mà đánh nhau đến bỏ mạng, là chuyện chưa bao giờ thấy có ở Nhật Bản, kể từ trận phân tranh giữa hai họ Soga và Mononobe thời Thái tử Shotoku cho tới ngày nay. Người dân nước này đã thành như vậy là do Thái tử Shotoku, hay ít nhất cũng là do cái tinh thần thời đại tượng trưng bởi thái tử.

    Chương này sẽ kể lại "nhân vật" Thái tử Shotoku từ quan điểm nói trên. Song, trước hết, chúng ta thử nhìn lại xem thái tử đã sống trong thời đại như thế nào.

    Thời chuyển tiếp từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ"

    Thời kỳ đáng coi là văn hóa đã thực sự bén rễ ở đảo quốc Nhật Bản này, là từ bao giờ? Thật ra, những nghiên cứu khảo cổ học càng đi sâu hơn thì thời kỳ như vậy càng thấy trở lui thêm về quá khứ. Song tựu trung, nhận thức chung là coi thời kỳ này ở vào khoảng thế kỷ thứ II.

    Thời đó có nữ chúa Himiko, làm chúa một số thôn ấp và quy phục được một số thôn ấp xung quanh nữa. Người ta mặc loại y phục chỉ gồm có một mảnh vải đay đục lỗ ở giữa rồi chui cổ qua đó. Ðây là lời tường thuật trong sách "Ngụy chí Oải nhân truyện[3]". Ngụy nói ở đây là nước Ngụy trong ba nước Ngụy, Ngô, Thục của truyện Tam Quốc Chí, nước đã được con của Tào Tháo[4] dựng nên. Khi Trung Hoa đã ở thời kỳ Tam Quốc, thì Nhật Bản hãy còn ở tình trạng như kể trên vậy.

    Tuy nhiên, có một sự thật được biết rất rõ là, trước thời đại Himiko cả hơn 150 năm, nghĩa là vào khoảng năm 57 sau công nguyên, đã có sứ giả của vua nước Nu người Oải tới kinh đô Lạc Dương của nhà Hậu Hán, Trung Hoa, trình cống vật và nhận "ấn vàng" (con dấu bằng vàng) của Hán Vũ đế. Truyện này chép trong sách Hậu Hán Thư. Vật được coi là "ấn vàng" đó, người ta đã đào thấy ở tỉnh Fukuoka vào thời chúa Tokugawa, nay vẫn có thể tới xem ở Viện bảo tàng Fukuoka.

    Lại nữa, qua những điều tra gần đây, người ta đã lần lượt phát hiện ra nhiều ngôi mộ cổ xưa chứng tỏ rằng ngay thời Himiko, đã có ở vùng Kinki, tức là vùng quanh kinh đô Kyoto ngày nay, một triều vua với thế lực đáng kể. Xét những sự thật như vậy, không chừng ta có thể coi nền văn minh Nhật Bản đã có từ lâu trước thời đại Himiko.

    Cũng có thể là một thời gian trước hoặc sau đầu công nguyên, nền canh nông đã phát triển và do đó đã có một triều vua. Tuy nhiên, dù cho thời đó đã có một triều vua đi chăng nữa, thì tôi cũng chỉ định nghĩa đó là một quốc gia "thời sơ cổ," chứ chưa phải là "thời cổ" tức là thời kỳ người ta đã biết coi trọng sự gia tăng số lượng vật chất.

    Trong lịch sử Tây Âu, thì từ thời Kim tự tháp tới thời đế quốc La Mã tan rã, và trong lịch sử Trung Hoa, thì thời thái cổ kể từ nhà Ân, tức triều đại Hạ, cho tới đời Ðường, nghĩa là suốt khoảng thời gian trước thời "trung cổ" đều gọi là "thời cổ." Nhưng ngay trong khoảng thời gian dài này thì nửa trước và nửa sau đã có sự khác nhau lớn lao. Nên gọi thời đại mà con người chỉ biết gieo hạt rồi chờ thu hoạch trên những thửa đất có điều kiện thiên nhiên tốt, nghĩa là thời đại coi sự cầu đảo thần linh làm trọng hơn là trông cậy vào tri thức và sự cần cù, là "thời sơ cổ." Còn thời đại sau cách mạng nông nghiệp, tức là biết dùng thủy lợi và thâm canh để cải thiện đất đai, rồi do đó coi trọng kỹ thuật và sự cần mẫn, là "thời cổ." Theo tôi, thì chia ra như vậy mới đúng.

    Thời Himiko rõ ràng chỉ là "thời sơ cổ," vì chưa thấy có kỹ thuật dẫn thủy nhập điền hay kỹ thuật đê điều. Nói khác đi, diện tích có thể canh tác được ở mỗi nơi đều nhỏ hẹp, và như thế, ở mỗi địa vực đều không thể sinh ra một quyền lực quốc gia mạnh lớn được.

    Nhưng dần dần kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt ngày một tiến bộ, kỹ thuật dẫn thủy nhập điền được phổ cập, thì diện tích canh tác rộng lớn ra. Kết quả là sự hình thành của quốc gia địa vực bao gồm cả vùng xung quanh mà đất đai không canh tác được nếu để nguyên trạng như thiên nhiên. Tiến bộ kỹ thuật đã làm cho luân lý thay đổi, hình thái quốc gia cũng từ dạng quốc gia đô thị biến thành quốc gia địa vực. Ðây chính là thời chuyển tiếp từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ" vậy.

    Không những diện tích canh tác đã được mở rộng sang vùng phụ cận, mà sức sản xuất cũng tăng lên. Vì thế, dân số gia tăng và sinh ra sản phẩm thặng dư. Do đó mới phát sinh ra quyền lực bắt người khác làm việc để mình thu lợi. Rồi, tổ chức và chế độ mới thành hình.

    Những ngọn kim tự tháp hùng vĩ đã được dựng lên ở quốc gia đô thị thời thái cổ Ai Cập. Việc nặng nhọc khuân vác những tảng đá xây kim tự tháp đó, hẳn đã phải do bọn người nô lệ bị đánh đập, thôi thúc bằng roi vọt, khuân vác. Như vậy, có nhiều người tưởng rằng thời Kim tự tháp đó hẳn đã phải có nhiều nô lệ lắm. Nhưng thật ra, người ta đã biết rằng ở thời thái cổ Ai Cập, tức là lúc những kim tự tháp đó đã được xây dựng, thì hầu như không có người nô lệ. Ðây là vì, bắt một người khác làm việc cho mình, mà sức sản xuất của người đó không nuôi được hơn một miệng người, thì đó là việc làm vô nghĩa. Chế độ nô lệ chỉ trở thành đại quy mô kể từ "thời cổ" khi đã phát sinh ra hiện tượng sản phẩm thặng dư mà thôi.

    Kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt đã từ bình nguyên Kawachi lan sang thung lũng Yamato. Do đó, người ta cho rằng một vương quyền kiểu "thời cổ" đã phát sinh ra ở vùng Kinki vào thời bách niên kỷ 500 sau công nguyên (tức là thế kỷ thứ VI). Thế lực này sau đó đã lớn mạnh thành triều vua Yamato vậy.
    Thái tử Shotoku đã sinh ra vào thời kỳ mà quốc gia "thời cổ" này đã đứng vững, tức là hậu bán của thế kỷ thứ VI.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  4. The Following 5 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), Linh Linh Linh (25-07-2009), lynkloo (12-05-2012), snow_ice (22-08-2009)

  5. #3
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Sự đối lập xung quanh vấn đề công nhận Phật giáo

    Sức sản xuất đã cao vọt lên từ thời sơ cổ sang thời cổ, là nhờ kỹ thuật du nhập từ đại lục sang. Ðương nhiên, cùng với kỹ thuật đó, cả tư tưởng mới lẫn tôn giáo mới cũng lan vào.

    Sự việc trên, không những đã nhờ tiến bộ về thuật hàng hải khiến cho sự đi lại giữa bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản trở nên dễ dàng hơn, mà cũng nhờ có những diễn biến quân sự, chính trị ở bán đảo Triều Tiên nữa. Thời đó, Triều Tiên đang có loạn "tam quốc[5]". Những người có kỹ thuật và văn hóa ưu tú đã vượt biển sang Nhật Bản. Trong những người gọi là "dân vào làng (dân nhập tịch)" như vậy, có nhiều người đã kéo tất cả bà con thân thích vượt sang Nhật Bản. Những người này đã mang vào Nhật Bản văn hóa và kỹ thuật phát đạt ở Trung Hoa, trong đó có cả Ðạo Phật.

    Sử chép năm 538 lần đầu tiên Phật giáo đã được "công truyền" vào Nhật Bản. Ðây là nói sự "công nhận của triều đình," chứ thật ra, Ðạo Phật hẳn đã được truyền bá trong dân gian từ trước đó. Phật giáo đã lưu hành rộng rãi trong dân gian, đến nỗi triều đình không thể làm ngơ được, đã truyền cho họ Soga "phải thờ Phật đi." Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì đó chính là sự công nhận tự do tín ngưỡng đối với Ðạo Phật vậy.

    Là một tôn giáo đã hoàn chỉnh, Phật giáo vào Nhật Bản mang theo không những chỉ có yếu tố tôn giáo và triết học, mà còn cả một nền "văn hóa" có hệ thống nữa. Từ kỹ thuật kiến trúc và các công nghệ, kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt, nghề thuốc và dinh dưỡng học, v.v., đã cùng với Ðạo Phật được mang vào Nhật Bản.

    Vốn thèm khát "văn hóa," số người Nhật quy y theo Phật giáo đã tăng vọt lên. Một hiện tượng tương tự song với quy mô và sự ưu đãi gấp nhiều lần của hiện tượng lúc ban đầu thời Meiji[6] (Minh Trị), tức là khi nền văn minh Tây Âu hiện đại cùng với đạo Cơ Ðốc truyền vào Nhật Bản, đã thực sự diễn ra. Vì thế, hơn cả chính Ðạo Phật, số người mộ cái lợi ích đời nay, như sự học tập kỹ thuật, cái vẻ bảnh bao, v.v., hẳn đã quy y vô cùng đông đảo. Tôn giáo hoặc tư tưởng từ những nước tiên tiến lan truyền tới thì bao giờ cũng như vậy.

    Tuy nhiên, mười mấy năm sau khi Phật giáo được "công nhận," nghĩa là khoảng từ năm 552 trở đi, phe "sùng Phật" tức là dòng họ Soga đã gặp phải lúc vận xui. Hễ cứ xây chùa thì bệnh dịch lại lưu hành, khiến đã nẩy ra cuộc tranh luận về vấn đề công nhận Phật giáo. Ðại biểu của phái "bài Phật" là dòng họ Mononobe.

    Mononobe là một dòng họ được nâng đỡ bởi chế độ thị tộc của triều đình Yamato, và cùng với họ Otomo, đời đời được giữ quyền lực tối cao với chức Omuraji[7]. Nói cách khác, với địa vị quan chức thống lãnh ba quân của triều đình Yamato, với thói quen thờ "thần bảo hộ" của những nhà quân sự thời đó, dòng họ này đã cố chấp sự duy trì tôn giáo cổ truyền của Nhật Bản.

    Một mặt thì phái sùng Phật, với dòng họ Soga làm trung tâm, đã không chịu mãn nguyện với nền tự do tín ngưỡng cho dân gian, mà lại muốn cả bậc nguyên thủ, tức là "thiên hoàng" (vua Nhật Bản), cũng phải sùng bái Ðạo Phật nữa.

    Từ đời vua Bidatsu, rồi đến vua Yomei lên ngôi, cuộc tranh luận vẫn còn sôi nổi. Vị này là em trai vua Bidatsu và là cha Thái tử Shotoku.

    Theo sử chép, vua Yomei là ông vua đầu tiên ở Nhật Bản đã lễ Phật (năm 585). Tuy nhiên, hình như đó chỉ là một lễ không chính thức của cá nhân nhà vua mà thôi. Ở thời đó, đây là giới hạn tối đa mà nhà vua có thể làm được[8].

    Vua Yomei ở ngôi được một năm tám tháng, thì băng hà. Thế là cuộc tranh chấp liên quan đến việc chọn vị vua kế, đã bùng nổ ra giữa đại nguyên soái Mononobe Moriya và thượng thư Soga no Umako. Nghĩa là đã có một cuộc nội loạn giữa một bên gồm có họ Mononobe và họ Nakatomi, tức là phe tôn thờ thần thánh cổ truyền của Nhật Bản, và một bên muốn nâng Ðạo Phật lên thành quốc giáo, tức là phe gồm có dòng họ Soga làm nòng cốt, xung quanh có nhóm người mới "vào làng" cùng với đám hào trưởng muốn học hỏi văn hóa, kỹ thuật của nhóm người mới "vào làng" này.

    Thời ấy, đại đa số các hào trưởng đã ủng hộ phe sùng Phật của họ Soga là vì người Nhật lúc đó, với tinh thần "thời cổ," đã mong có một chế độ xã hội mới với tiến bộ văn minh có thể tạo ra nhiều của cải, hơn là cái nền chính trị Thần quyền. Nói cách khác, Nhật Bản rõ ràng đã bước từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ" vậy.

    Trong cuộc nội loạn này, Thái tử Shotoku đã đứng về phe họ Soga và đã đích thân ra chiến trường. Thái tử cho tạc tượng tứ thiên vương để cầu thắng và đã phát thệ rằng nếu thắng trận sẽ dựng chùa thờ phụng tứ thiên vương. Kết quả là thái tử thắng trận và đây là cơ hội cho chùa Tứ Thiên Vương được dựng lên thành quốc tự ở Naniwa.

    "Chính quyền liên hiệp" giữa hoàng gia và họ Soga

    Thắng trận, diệt xong họ Mononobe thì họ Soga đã tôn Thái tử Hatsusebe lên ngôi, tức là vua Sushun.

    Thế nhưng khi lên trị vì, nhà vua gặp phải một mâu thuẫn chính trị sâu sắc. Số là vua Nhật, hay "thiên hoàng", vốn được kể là dòng dõi Amaterasu Omikami[9], hậu duệ vua Jinmu, theo một truyền thuyết Thần đạo. Nay đã phủ nhận Thần đạo rồi, nên cái tính tất yếu của việc phải để cho con cháu dòng họ "thiên hoàng" lên làm vua, cũng đã mất đi rồi.

    Thời đó, văn hóa Trung Hoa lan vào Nhật Bản không phải chỉ có Ðạo Phật mà cả Nho giáo và Ðạo giáo cũng truyền vào. Phép tu luyện thần tiên, đại diện bởi pháp sư Enno Gyoja, cũng truyền bá vào. Ðương nhiên, cái tư tưởng "cách mạng đổi họ[10]," một tư tưởng chính trị quan trọng của Trung Hoa, cũng du nhập vào.

    "Dịch tính cách mạng (cách mạng đổi họ)" là nói trời chọn người có đức cho làm thiên tử. Do đó gọi là thiên mệnh. Con cháu nhờ đức của tổ tiên mà trị thiên hạ. Nhưng sau nhiều đời, đức ấy hết đi, trong hàng con cháu có kẻ thất đức xuất hiện, thì kể như thiên mệnh hết. Lúc đó, trời chọn người họ khác có đức, trao cho thiên mệnh và khiến lập ra triều đại mới. Chẳng qua, "đổi họ để thay mệnh" chính là "mệnh lệnh" của "trời" vậy. Tư tưởng này đã được Mạnh Tử lý thuyết hóa, cũng đã được nói đến trong sách Sử Ký Tư Mã Thiên, là tư tưởng khẳng định cách mạng quá khích độc đáo của Trung Hoa.

    Thời Thái tử Shotoku thì ở Trung Hoa nhà Tùy mới thành lập chưa được bao lâu. Ðó là thời đại toàn quốc mới thống nhất sau một thời tao loạn gọi là "thời đại lục triều" hay thời "nam bắc triều," thì đương nhiên phải có sự thay đời đổi vua. Vì vậy, cái tư tưởng "cách mạng đổi họ, đổi đời" hẳn phải được cổ súy hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh như vậy, Ðạo Phật đã phát đạt và được truyền bá vào Nhật Bản.

    Như vậy, tư tưởng "cách mạng đổi họ, đổi đời" không thể không du nhập vào Nhật Bản được. Nói cách khác, cái quan niệm lúc đó coi ai có đức thì đáng làm vua, chứ không câu nệ truyền thống "vạn thế nhất hệ (một họ vạn đời)," quả là cái nguy cơ chồng trứng đối với dòng họ "thiên hoàng."
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  6. The Following 4 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), lynkloo (12-05-2012), snow_ice (22-08-2009)

  7. #4
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Hơn thế nữa, lại có cả dòng họ Soga có thế lực đáng đứng ra thay thế nữa. Thế mà, cái tiền đề cho dòng họ "thiên hoàng" được làm "thiên hoàng," tức là Thần đạo, đã bị phủ nhận mất rồi, thì cái nguy cơ quả là "nước đã đến chân." Vua Sushun đã nhận thức được cái nguy cơ này. Vì thế, mặc dầu được dòng họ Soga, tức là phe "sùng Phật" tôn lên làm vua, song nhà vua đã ngả sang phe "bài Phật" vậy.

    Kết quả là năm năm sau, vua Sushun đã bị Soga no Umako ám sát. Trong lịch sử Nhật Bản, chỉ có hai vị vua được sử chép là "bị giết," đó là vua Anko ở thế kỷ thứ V và vua Sushun này. Nói cách khác, họ Soga đã có đủ uy thế đến nỗi có thể ám sát được cả vua.

    Sau đó, dòng họ vua đã khổ tâm không biết nên tôn ai lên làm vua. Kết cục, bà cô của Thái tử Shotoku đã lên ngôi năm 592, tức là nữ hoàng Suiko. Ðây là vị nữ đế vương đầu tiên ở Ðông Á.

    Vị nữ đế vương đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Trung Hoa, tức là bà Tắc Thiên Võ Hậu (Võ Tắc Thiên) đã xuất hiện vào nửa trước của đời nhà Ðường (bà lên ngôi năm 690), nghĩa là sau bà nữ đế vương Nhật Bản khoảng 100 năm. Ở bán đảo Triều Tiên thì cũng khoảng 40 năm sau Nhật Bản mới có nữ vương, tức nữ vương Thiện Ðức của nước Tân La lên ngôi năm 632.

    Lúc đó không phải là dòng họ vua không có người đàn ông nào xứng đáng. Chính Thái tử Shotoku lúc đó đã được 19 tuổi, và ở thời đại đó thì như vậy là trưởng thành rồi, vì so với ngày nay thì tuổi đó tương đương với tuổi trên 30. Ấy thế mà người ta đã để cho một người đàn bà thuộc ba thế hệ trước lên làm vua!

    Việc tôn lên ngôi vị nữ hoàng đầu tiên này ở Ðông Á đã để lại dấu tích của cái khổ tâm trong vấn đề nhân sự này. Lợi dụng sự sùng bái phụ nữ từ Amaterasu Omikami để chọn nữ hoàng Suiko, đã cho thấy sự thỏa hiệp phức tạp giữa dòng họ Soga và dòng họ thiên hoàng. Với dòng họ Soga thì việc chọn nữ hoàng tức là làm cho nhà vua khó cựa quậy, mặt khác việc lựa chọn nữ hoàng tỏ rõ cái ý của dòng họ thiên hoàng, hay đúng ra là của Thái tử Shotoku, không muốn đối lập ra mặt với dòng họ Soga.

    Với việc đưa thiên hoàng Suiko lên ngôi, vấn đề nhân sự như thế là xong. Nhưng "chính quyền liên hiệp" này giữa dòng họ thiên hoàng và dòng họ Soga liệu có tốt hay không. Trước hết là vấn đề tôn giáo, vấn đề trọng đại nhất, thì chưa giải quyết được. Giữa lúc đó, thì từ dòng họ thiên hoàng đã thấy xuất hiện một thiên tài. Ðó là Thái tử Shotoku, người đã nắm quyền nhiếp chính năm sau đó, tức là năm 593.

    Khởi xướng "tư tưởng gộp đạo" duy nhất trên thế giới

    Thái tử là một Phật tử rất ngoan đạo. Như đã nói ở trên, thái tử mộ đạo đến nỗi trong cuộc phân tranh Soga - Mononobe, ông đã cho tạc tượng tứ thiên vương để cầu thắng, và sau khi thắng trận, ông đã dựng chùa Tứ Thiên Vương làm quốc tự. Thêm nữa, thái tử đã theo một cao tăng tên là HuệTừ từ Cao Ly trên bán đảo Triều Tiên qua, học Phật giáo và viết chú giải kinh Pháp Hoa cùng nhiều kinh điển khác. Hơn thế nữa, thái tử còn tạc tượng và hiểu biết tinh tường về kiến trúc Phật giáo. Có thể coi thái tử là nhân vật uyên bác nhất về Ðạo Phật thời đó.

    Trên thực tế, thái tử cũng đã đích thân truyền bá Ðạo Phật, đã cho xây chùa Horyuji làm ngôi chùa của chính mình. Mặt khác, năm 15 đời nữ hoàng Suiko, chính thái tử đã viết "Kính Thần Chiếu," hay là tờ chiếu tôn kính Thần đạo.

    Sự nghiệp của thái tử đáng được ghi vào sử sách gồm có, thứ nhất, nghiên cứu và phổ cập Ðạo Phật. Sự nghiệp này gồm có việc dựng chùa, tạc tượng Phật, chế tạo Phật cụ và phát triển biết bao nhiêu kỹ thuật liên quan.

    Sự nghiệp thứ hai là chế định những chế độ quốc gia như "Hiến pháp 17 điều," "quan chế 12 bậc," v.v., làm nền tảng biến Nhật Bản từ một nước cai trị bởi hào trưởng, thành nước có chế độ quan lại, có tổ chức hành chính hẳn hoi. Ðiều thứ nhất của "Hiến pháp 17 điều" có câu nổi tiếng là "lấy hòa làm quý, không đối nghịch nhau làm gốc. Người ta ai nấy hãy nên có bè phái."

    Nước Nhật ngày nay là nước do quan lại cầm quyền. Thời Thái tử Shotoku chính là lúc chế độ quan lại bắt đầu. Cho đến bấy giờ, chế độ quan lại cũng như chế độ quốc gia đều không có gì rõ rệt cả. Vì thế, việc chế định "quan chế 12 bậc" là biểu hiện của nỗ lực xếp đặt chế độ quan lại vậy.

    Vì thế, một mặt thì nói "lấy hòa làm quý," song ngay sau đó lại dạy người ta rằng "ai nấy nên có bè phái!" tức là từng nhóm hãy lập ra tổ chức của mình đi, rồi cùng nhau làm việc trong sự hòa hợp.

    Sự nghiệp hiển hách thứ ba của Thái tử Shotoku là vấn đề ngoại giao mà tiêu biểu là việc gửi sứ sang nhà Tùy, Trung Hoa. Sứ giả đầu tiên được Nhật Bản chính thức phái tới Trung Hoa, đã mang quốc thư với câu mở đầu nổi tiếng là "thiên tử nước mặt trời mọc gửi thư này tới thiên tử nước mặt trời lặn." Thật là minh bạch, để tỏ rõ lập trường coi Nhật Bản cũng như Trung Hoa hay bán đảo Triều Tiên, đều là một nước riêng biệt, độc lập.

    Ngoài ra, hình như thái tử còn toan gửi quân sang chinh thảo nước Tân La (ở bán đảo Triều Tiên). Kế hoạch này bái hoàng tử Kume no Miko, bào đệ thái tử, làm đại tướng tổng tư lệnh, nói là sang yểm hộ nước Bách Tề (cũng ở bán đảo Triều Tiên). Trên thực tế, hoàng tử đã mắc bệnh, mất đi, nên kế hoạch có lẽ đã chỉ mới là "câu chuyện đầu lưỡi." Dù sao, dù chỉ là "câu chuyện đầu lưỡi," nó cũng đã chứng tỏ cái ý nghĩ cơ bản về một quốc gia Nhật Bản thực tại.

    Sự nghiệp thứ tư là kế hoạch phát triển khu vực Ikaruga để xây dựng kinh đô văn hóa thay cho kinh đô Asuka. Việc thiên đô tới Ikaruga là muốn tránh sự chi phối của bọn hào trưởng ở vùng Asuka, nhất là của dòng họ Soga. Từ vùng này, thái tử đã cho mở con đường qua bến Naniwa tới Ozaka[11] để trực tiếp thông thương với nhà Tùy, chứ không qua con đường xuyên bán đảo Triều Tiên mà dòng họ Soga có quan hệ mật thiết.

    Sự nghiệp này đã không nhất thiết thành công về mặt chính trị và kinh tế, vì nó đã làm cho dòng họ Soga phẫn nộ. Song ngược lại, chính vì vậy, nó càng làm cho thái tử thêm miệt mài vào sự nghiệp văn hóa học thuật, khiến đã để lại những di sản văn hóa tuyệt diệu.

    Xem như trên thì thấy Thái tử Shotoku đã để lại sự nghiệp hiển hách trên nhiều lãnh vực. Song, cái ảnh hưởng của thái tử đối với nước Nhật ngày nay đáng nhấn mạnh nhất là sự nghiệp truyền bá Ðạo Phật, bởi chính thái tử cũng vừa là một tín đồ vừa là một nhà nghiên cứu nhiệt tâm, đồng thời, đã thảo ra bài "chiếu kính Thần." Sự thật này đã được ghi chép trong sách Kojiki (Cổ Sự Ký) và sách Nihon Shoki (Nhật Bản Thư Kỷ). Nhưng, sự xuất hiện trong những sách này xem có vẻ đường đột. Có người nghi rằng sự việc này đã được ***g vào đó một cách vội vã khi người đời sau biên soạn sách đó. Sở dĩ nghi ngờ như vậy là vì nếu xét sự kiện thái tử là một Phật tử nhiệt thành, thì sự việc đó đáng lấy làm kỳ lạ.

    Nhưng thật ra, chính đây mới là chỗ bao gồm một quan điểm vô cùng trọng yếu. Ðó là, một mặt thì truyền bá và nghiên cứu Ðạo Phật, mặt khác lại không phủ nhận đạo thờ thần cổ lai của Nhật Bản. Chẳng những thái tử đã soạn ra bài "chiếu kính Thần," ông cũng không đón bà chị làm Itsuki no Miya tức là "bà từ", ở đền Ise về. Tập tục từ đời vua Suinin, theo đó mỗi đời vua đều để một công chúa còn trinh lên làm "bà từ" tối cao ở đền Ise, đã được kế tục cho tới đời vua Daigo. Từ vua Minh Trị trở về sau thì chức "chủ tế" đền Ise đều là người hoàng tộc cả.

    Nói cách khác, Thái tử Shotoku một mặt nhiệt tâm thờ phụng và phổ cập Ðạo Phật, mặt khác đã không hề có cử chỉ nào đàn áp Thần đạo cả. Trái lại, ông tỏ ra thông cảm Thần đạo, thậm chí lại giúp đỡ nữa. Ðiểm này là yếu tố quyết định quan niệm tôn giáo của người Nhật vậy.

    Về mặt cá nhân, Thái tử Shotoku là một Phật tử, song đứng ở địa vị một chính trị gia, và vốn là một người trong hoàng tộc, ông không thể không bênh vực truyền thuyết Thần đạo được. Ðể giải quyết mâu thuẫn này bằng lý luận và luân lý, ông đã nghĩ ra sự kết hợp ba giáo lý Thần, Phật và Nho vậy.

    Thái tử Shotoku cũng là một "đứa con của thời đại". Như đã nói, ông sinh vào thời đại mà Phật giáo du nhập vào, rồi đám "người vào làng" đã cùng với Ðạo Phật đem một nền văn hóa cao độ vào. Làm thế nào hòa hợp những yếu tố mới này với đạo thờ Thần cổ truyền của Nhật Bản? Ðây là vấn đề trọng đại mỗi người Nhật phải đối phó. Thái tử Shotoku đã đối xử và vượt qua được bằng cách khẳng định Thần đạo trong khi vẫn cư xử như một Phật tử trong cương vị cá nhân.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  8. The Following 4 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), lynkloo (12-05-2012), snow_ice (22-08-2009)

  9. #5
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Ðiều này không phải là dễ. Khi một tôn giáo mới, cùng với một nền văn minh tiên tiến, du nhập vào, thì vấn đề làm sao dung hòa được với tôn giáo cổ truyền và với chế độ xã hội sẵn có, là chuyện có thể xẩy ra ở bất cứ nước nào. Chẳng hạn, Hy Lạp thời cổ cũng đã có một kinh nghiệm tương tự khi đạo Thiên chúa du nhập vào. Họ đã phải đương đầu với vấn đề đối xử thế nào với các thánh của đền Olympos, hoặc tín ngưỡng tôn thờ thần Jupiter. Hay là dân German ở địa phương nay là nước Ðức, cũng đã phải giải quyết vấn đề tôn giáo cổ truyền như thế nào khi đạo Cơ đốc đã từ vùng Ðịa Trung Hải truyền bá tới. Ấn Ðộ cũng gặp phải vấn đề tương tự khi đạo Islam loan truyền tới.

    Tuy nhiên, ở những nước này, tư tưởng gộp đạo đã không xuất hiện. Do đó mà chiến tranh tôn giáo đã diễn ra không dứt, nhằm giải quyết vấn đề chọn một giữa hai. Nói cách khác, chính vì họ cố tình đi tìm cái thuần túy trong tôn giáo, nên mới phát sinh ra chiến tranh tôn giáo và sự thù ghét lẫn nhau.

    Ngoại lệ duy nhất trên thế giới là Nhật Bản. Ở đây cũng đã có cuộc chiến tranh tôn giáo giữa hai dòng họ Soga và Mononobe. Song, sau đó thì sự đối lập tôn giáo hết hẳn.

    Sứ quân Oda Nobunaga đã đốt chùa Hieizan, rồi dẹp loạn Ikko (cũng gọi là Jodo Shinshu). Song đây chỉ là một cuộc tranh chấp nhằm hủy duyệt cái võ lực và sự chiếm đoạt đất đai của nhà chùa, tức là những biểu hiệu của quyền lực trần tục mà môn phái này có trong tay. Không hề thấy dấu vết nào tỏ ra Nobunaga đã đàn áp môn phái Ikko bởi đó là một tôn giáo.

    Xung quanh Nobunaga, người ta thấy có nhiều tín đồ môn phái Tendai cũng như môn phái Ikko. Là quân nhân hay là quan lại trần tục, hoặc là tăng lữ mà tỏ ra trung thành với Nobunaga, thì ông không đòi họ phải từ bỏ tín ngưỡng hay đổi đạo bao giờ cả.

    Chúa Toyotomi Hideyoshi và dòng chúa Tokugawa sở dĩ cấm đạo thiên chúa là bởi vì họ sợ tôn giáo này thông đồng với nước ngoài làm nguy hại tới chính quyền Nhật Bản.

    Ở Nhật, chiến tranh tôn giáo đã mất hẳn, chính là nhờ có bậc thiên tài Shotoku xuất hiện, truyền bá tư tưởng gộp đạo bằng lý luận và tài thuyết phục khéo léo vậy.

    Thái tử Shotoku, với việc tiếp nhận Ðạo Phật và nền văn minh tiên tiến do đạo này mang tới, đồng thời khởi xướng tư tưởng gộp đạo làm cho lập trường tôn trọng Thần đạo và truyền thuyết về hoàng gia Nhật cũng đứng vững, hẳn đã làm cho người Nhật thời đó thấy thoải mái.

    Nhờ đó, tư tưởng này tức khắc được khẳng định và phổ cập, được gọt giũa thêm cả về mặt tôn giáo lẫn lý luận, để cho tới thời Nara, đã được xác lập thành một hệ tư tưởng hẳn hoi.

    Phong cách "hay đâu âu đấy "

    Thái tử Shotoku là nhà tư tưởng lớn duy nhất trên thế giới đã khởi xướng tư tưởng gộp đạo. Tư tưởng này đã ăn sâu vào xương tủy người Nhật cho tới ngày nay.

    Người Nhật thời đó muốn tiếp nhận Phật giáo như là một nền văn hóa mới mang từ những nước tiên tiến tới. Họ muốn học hỏi kỹ thuật mới, thời trang mới. Song, phải chối bỏ cái tôn giáo của tổ tiên truyền lại thì họ cảm thấy khó chấp nhận được. Tình trạng này đã có trong lịch sử thế giới biết bao nhiêu lần rồi.

    Chẳng hạn, trong lịch sử châu Âu, khi đạo Thiên chúa mới truyền tới, đã có mấy biến cố lớn xảy ra.

    Một linh mục nói: "Nếu không tin chúa Giêxu thì sẽ phải xuống địa ngục!" Một bậc vương hầu German tin lời thuyết giáo này nên có ý định theo đạo thiên chúa. Trước khi quyết định, ông hỏi: "Cha ta không hề biết đạo thiên chúa thì nay ra sao?" Linh mục trả lời: "Hẳn là ở dưới địa ngục!" Nhà vua bèn nói: "Cho dù địa ngục của đạo thiên chúa có đáng sợ đến mấy đi chăng nữa, ta cũng muốn tới nơi cha ta ở!" và bắt đầu đàn áp đạo thiên chúa. Ðã có không thiếu gì những thí dụ tương tự.

    Ðạo Phật tuy không nghiêm khắc đến như vậy, song người Nhật thời đó hẳn đã nghĩ tương tự. Do đó, thái tử mới nói rằng dẫu theo Phật giáo cũng không phải bỏ Thần đạo. Người Nhật thời đó một mặt thì thèm khát văn hóa mới, mặt khác lại không muốn phải chối bỏ tổ tiên ông bà, nên đã ồ ạt chấp nhận tư tưởng này. Thần đạo, tôn giáo cổ truyền của Nhật Bản, lại có thể đứng song lập với Phật giáo, một tôn giáo mới, mới từ nước ngoài truyền vào. Ðây là một ngụy biện ghê gớm. Ấy thế mà, Thái tử Shotoku đã cộng thêm cả Nho giáo, coi đây là quy phạm của phép xử thế, và bắt đầu triển khai lý luận giảng giải rằng cả ba đều có thể đứng song hàng với nhau được.

    Ở Trung Hoa, tôn giáo bản xứ đúng nghĩa thì không có, mà chỉ có Nho giáo coi như quy phạm xử thế và tư tưởng Lão Trang đối nghịch lại. Sau đó, nghi lễ Phật giáo thêm vào, rồi cả ba hợp lại thành một "tổng thể tôn giáo kiểu Trung Hoa."

    Vì vậy, người Trung Hoa, tuy nói là vừa theo Ðạo Phật vừa theo đạo Nho lại vừa theo cả đạo Lão nữa, song không phải là họ tôn thờ một lúc ba tôn giáo. Ðúng ra, họ tôn thờ một "tổng thể tôn giáo kiểu Trung Hoa", một hỗn hợp của ba yếu tố tôn giáo đó.

    Thói thường khi tin một tôn giáo nào rồi, người ta hay bài xích tôn giáo khác. Nói cách khác, không có cái gì đọa lạc bằng tôn thờ một lúc nhiều tôn giáo. Sự khởi xướng và thực hành của Thái tử Shotoku đúng ra là hành vi sa đọa về mặt tôn giáo. Song ngược lại, đó là bước nhảy vọt về mặt chính trị. Nghĩ ra điều ấy thì dù trong cả thế giới rộng rãi này cũng chỉ thấy có một mình Thái tử Shotoku mà thôi. Không thể có một nhà tôn giáo nào lại dạy người ta tin một lúc nhiều tôn giáo cả.

    Do đó, dù Ðạo Phật đã du nhập vào, mà đền Ise vẫn không bị mất tín đồ đi. Hơn thế nữa, nghi lễ "thiên cung[12]" vẫn diễn ra liên miên trong lịch sử, người đi lễ đền Ise vẫn không hề bớt đi.

    Khi Ðạo Phật tới, thì chọn lấy chỗ nào hay, còn chỗ nào không thích thì cứ việc bỏ đi. Sau này, đạo Thiên chúa truyền vào, thì những chỗ "vui nhộn", "bảnh bao" cũng đều được gạn lọc lấy. Chẳng hạn, chỉ có tiệc liên hoan Nôen, lễ cưới ở nhà thờ đã được chọn lấy. Chứ ma chay thì vẫn làm ở chùa, lễ Vu lan thì múa Bon Odori[13], tết nhất thì đi lễ đền. Vừa ngồi "tham thiền nhập định" lại cũng đi "rước kiệu". Tất cả những cái này người Nhật đều thực hành thoải mái không hề cảm thấy một mảy may mâu thuẫn nào hết.


    Ðến tôn giáo mà còn "hay đâu âu đấy," "chọn chỗ hay, chỗ tốt" thôi, thì bất cứ cái văn hóa nào khác cũng vậy, người Nhật cũng có thể chỉ gạn lấy chỗ hay, chổ tốt mà tiếp nhận. Do đó, thời Minh Trị, khi nền văn minh Tây Âu lan truyền vào, thì tức khắc kỹ thuật cơ khí ưu tú đã được gạn lọc lấy, hệ thống đường sắt, mạng lưới truyền thông đã được thiết trí. Tổ chức nghị viện cũng được áp dụng và chế độ trưng binh cũng được lập ra. Từ kỹ thuật tới chế độ học đường đều theo kiểu Tây Âu.

    Thế nhưng, cái tư tưởng tự do, cái chế độ gia đình của Tây Âu thì không được chấp nhận. Cái cách gạn lọc này gọi là "hồn Nhật Bản, tài Tây Âu" rất được ưa chuộng. Chính vì có cái truyền thống tư tưởng như thế, nên người Nhật đã không ngừng tiếp nhận được văn hóa, kỹ thuật mới mẻ của nước ngoài.

    Văn minh Tây Âu đã lan tràn ra khắp thế giới từ thế kỷ thứ XVIII tới thế kỷ thứ XIX. Ấn Ðộ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư đều đã tiếp xúc với văn minh Tây Âu trước Nhật Bản từ lâu.

    Tuy nhiên, những nước này vốn sẵn có những nền văn minh nguyên bản của họ. Do đó, họ không nghĩ tới "chọn lấy chỗ tốt, chỗ hay" mà lại nhìn vào văn minh Tây Âu bằng con mắt hệ thống hóa. Vì vậy, khi kỹ thuật Tây Âu lan truyền tới, họ đã bắt đầu thảo luận xem nếu tiếp nhận chế độ và kỹ thuật của Tây Âu, thì có làm thay đổi chế độ xã hội, chế độ gia đình, nền chính trị quốc gia của chính họ, hay không. Họ nghĩ rằng "khi chấp nhận đạo Thiên chúa thì phải phủ nhận thần Jupiter," thành ra họ cho rằng từ vẻ mặt của thành phố tới dạng thức sinh hoạt đều phải đổi hết.

    Ðiển hình là Trung Hoa. Trước cuộc Duy tân Minh Trị của Nhật Bản, Trung Hoa đã nếm mùi sức mạnh quân sự hiện đại ghê gớm của đế quốc Anh qua trận chiến tranh nha phiến. Ðương nhiên, nếu muốn trở thành một nước hùng cường thì phải tiếp nhận chế độ quân đội, kỹ thuật quân đội của Tây Âu. Ðã có phái tiến bộ chủ trương phải học hỏi kỹ thuật mới, và phổ cập chế độ mới của Tây Âu. Thế nhưng, lập tức một cuộc tranh luận nóng bỏng bùng lên. Họ đặt câu hỏi "nếu tiếp nhận những kỹ thuật mới đó, thì thôn xóm ta, gia đình ta, nền giáo dục của ta sẽ ra sao?" Kết quả là Trung Hoa đã không dễ dàng tiếp nhận kỹ thuật, chế độ hiện đại của Tây Âu vậy.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  10. The Following 4 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), lynkloo (12-05-2012), snow_ice (22-08-2009)

  11. #6
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Ngược lại, Nhật Bản thì coi việc tiếp nhận văn hóa mới không nhất thiết có nghĩa là phải vứt bỏ nền văn hóa cũ đi. Người Nhật không hề nghĩ rằng, bởi vì đã theo Ðạo Phật nên không được đi lễ đền Thần đạo. Ðó chẳng qua là tiếp nhận thêm một cái hay, thế thôi.

    Vi vậy, họ coi "cái đó lý thú," "cái kia cũng hay" và tiếp tục tiếp nhận thoải mái. Trong tất cả các nước châu Á và châu Phi, Nhật Bản trở thành nước duy nhất đã mau mắn tiếp nhận kỹ thuật hiện đại, chế độ hiện đại, chính là nhờ ở đặc tính này.

    Nhìn qua lịch sử Nhật Bản, người ta thấy rằng, nói chung, tuy Nhật Bản học nước ngoài, nhưng chỉ 40 năm sau thôi, người Nhật thường đã làm tốt hơn rồi. Bởi vì người Nhật có lối học rất có hiệu quả. Họ bắt đầu bằng cách mô phỏng nguyên xi, "thầy làm sao, trò làm y hệt như vậy." Thời Minh Trị, người Nhật học Tây Âu kỹ thuật quân sự, kỹ thuật công nghiệp, rồi trải đường sắt, mắc hệ thống điện tín, nhưng tuyệt nhiên không có ai bàn tán dông dài về vấn đề xã hội, gia đình Nhật Bản sẽ biến đổi ra làm sao. Chẳng có ai coi điều này là nghiêm trọng cả.

    Cội nguồn của "xã hội chức lộc"

    Cái sáng kiến "chọn lấy chỗ tốt" như vậy, đã có cội nguồn từ tư tưởng gộp đạo của Thái tử Shotoku. Thật ra, thời kỳ cải cách sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai cũng giống như vậy. Tư tưởng gốc của xã hội Nhật Bản thì không đổi đi, song việc dân chủ hóa cái bề ngoài thì xúc tiến, kỹ thuật và mánh lới kinh doanh của Mỹ thì thâu nhận. Do đó, mặc dầu có kỹ thuật, có phương pháp quảng cáo tiên tiến kiểu Mỹ hơn ai hết, song ở Nhật Bản đã sinh ra mộ t "xã hội chức lộc (chức tước và bổng lộc)" độc đáo theo chủ nghĩa tập thể do "quan liêu" (công chức) chỉ đạo.

    Ngày nay, xã hội Nhật Bản đã thành một "xã hội chức lộc" trong đó "sở" (nơi làm việc) làm thành một "kết hợp thể," tức là một vật kết tinh chắc nịch. Có nhiều lý do cho sự việc này. Thứ nhất, Nhật Bản hầu như không có những đoàn thể tôn giáo đóng vai "kết hợp thể" thay cho "sở" được. Với tư tưởng gộp đạo do Thái tử Shotoku khởi xướng, người ta có thể dễ dàng tránh được những luật lệ, nghi lễ tôn giáo phiền toái có phương hại cho hoạt động của "sở." Cũng chính cái sáng kiến "chọn lấy chỗ tốt" này đã đẻ ra cái bản năng "súc vật kinh tế[14]."

    Trong thế giới của những tôn giáo độc thần như Ðạo Do Thái, Ðạo Thiên Chúa, Ðạo Islam, thì mỗi cá nhân trực tiếp đối đầu với vị thần đó. Quan hệ với cá nhân khác, phải là qua trung gian của vị thần đó. Ðiều này thật là khó hiểu đối với người Nhật.

    Chẳng hạn, trong hôn lễ, khi linh mục hỏi "Ngươi có nhận người này làm vợ hay không? Ngươi có nhận người này làm chồng hay không? Có chịu thề sẽ vĩnh viễn yêu nhau cho tới chết, hay không?" và khi người bị hỏi trả lời "Xin thề!" thì nhiều người Nhật vẫn hiểu lầm rằng đây là thề giữa hai người trai gái với nhau. Thật ra, đây là thề với Chúa, chứ không phải là thề lấy Chúa làm nhân chứng. Ngược lại, đạo Thiên Chúa có lời răn "ngươi chớ thề thốt" tức là cấm không cho thề thốt lấy Chúa làm chứng cho mình.

    Bởi vậy, Công giáo mới không nhìn nhận ly hôn mặc dầu hai đương sự đã thỏa thuận ly dị với nhau rồi. Ðó là vì sự thỏa thuận của hai cá nhân thì không thể xóa bỏ được lời giao ước với Chúa. Ðây chính là cái suy nghĩ cơ bản của đạo Thiên Chúa vậy.

    Trong các tôn giáo độc thần thì mọi việc đều là do sự đối đầu giữa Chúa và người. Khi chết, thì chẳng có cha mẹ, vợ con bạn bè nào, cũng chẳng có "công ty," "cấp trên" nào cả, mà chỉ có một mình duy nhất đứng ra chịu sự phán xét của Chúa. Chính vì vậy mới sinh ra cái suy nghĩ rằng nếu mình không thấy hổ thẹn trước Chúa, thì cho dù có bị bạn bè ghét bỏ cũng chẳng sao. Hơn nữa, dù bạn bè có khuyên nên làm đến mấy đi nữa, song nếu là việc đáng sợ trước Chúa, thì cũng không làm. Bởi vậy mà cái quan hệ người với người bị nhạt nhẽo đi, và thay vào đó, cá tính cùng tính sáng tạo đơn độc mới nẩy nở ra.

    Song, người Nhật thì "hay đâu, lấy đó" cho nên hôm nay thề với Phật, mai thề với Chúa, mốt thề với Thần, mà không hề thấy hổ thẹn gì cả. Ngược lại, cái quan trọng là mối quan hệ người với người đang có lúc này. Ðây chính là cái cơ sở tinh thần mà từ đó hình thành cái gọi là "cộng đồng sở," nghĩa là cái tập thể vĩ đại gồm những "con người xí nghiệp."

    "Con người xí nghiệp" đã hoàn thành trong thời kỳ hậu chiến, nhất là trong khoảng năm 1955 (năm thứ 30 niên hiệu Chiêu Hòa). Trước đó, Nhật Bản là "xã hội máu mủ ruột thịt, dây mơ rễ má." Thời đó hãy còn có đại gia đình, đại gia tộc. Người ta coi trọng cộng đồng hương thôn, bà con lối xóm. Nếu có kẻ gây tội lỗi thì trước nhất người ta bảo đó là "làm bêu rếu họ hàng," "làm xấu mặt lối xóm." Không ai nghĩ rằng kẻ đó đã vi phạm giao ước với Chúa cả.

    Nhưng trong thời kỳ phục hưng và tăng trưởng cao độ hậu chiến, thì dân địa phương ồ ạt kéo nhau ra các đô thị lớn. Kết quả là cha mẹ và con cái ở xa nhau ra, người ra ở các đô thị lớn sống rải rác lẻ loi không còn "máu mủ ruột thịt, dây mơ rễ má" nữa. Cái xã hội "bà con họ hàng" của đại gia đình, đại gia tộc bị tan rã. Cái "xã hội địa phương, bà con lối xóm" cũng bị tiêu diệt. Kết quả là người Nhật chỉ còn một nơi duy nhất để có ý thức quy thuộc: Ðó là "sở," đó là "công ty."

    Ý thức quy thuộc vào tập thể của người Nhật, đã có từ trước thời Thái tử Shotoku. Ðó chính là truyền thống đã làm phát sinh ra Thần đạo từ "xã hội thị tộc" ("xã hội họ hàng") nguyên thủy. Thái tử Shotoku đã không hủy diệt cái xã hội đó mà lại duy trì nó, bảo tồn nó trong quá trình truyền bá Ðạo Phật. Do đó, người Nhật đã trở nên trung thành với tập thể, đã tạo ra cái gọi là cấu tạo "xã hội bề dọc."

    Ý thức quy thuộc hướng tới đại gia đình, đại gia tộc, cộng đồng thôn xóm trong thời tiền chiến, thì tới thời hậu chiến đã biến thành ý thức quy thuộc đối với cộng đồng "sở." Ðối tượng có thể đã khác đi hoàn toàn, nhưng tựu trung cái căn bản của sự suy nghĩ vẫn là "coi trọng con người ở ngay tại đó."

    Cái cộng đồng "xóm làng, dây mơ rễ má" của Nhật Bản thời cổ, là tập thể có tính cách sản xuất kinh tế. Cộng đồng xóm làng của Nhật Bản là một xã hội địa vực cùng nhau sản xuất thóc lúa. Ở những nước mà sự phân tranh giữa các sắc dân khác nhau đã xẩy ra kịch liệt, thì xã hội địa vực của họ mang tính cách cộng đồng phòng vệ hơn là cộng đồng "sở." Xã hội địa vực của Nhật Bản, cơ bản là tập thể của những người cùng cày cấy, cùng sản xuất thóc lúa dọc theo cùng một dòng nước với nhau. Ngày nay, cái xã hội đó trở thành tập thể ở một "xí nghiệp," một "doanh nghiệp," một "công sở." Thế thôi.

    Xét như trên, ta thấy trong suy nghĩ của người Nhật ngày nay, trong cấu tạo của xã hội Nhật ngày nay, cũng có mối quan hệ sâu sắc của phong cách "chọn lấy chỗ hay" vốn phát xuất từ "tư tưởng gộp đạo" của Thái tử Shotoku vậy.

    Thái tử Shotoku còn là một đối tượng thờ cúng của người Nhật đã từ lâu rồi. Sự thờ cúng thái tử chiếm một vị trí thoải mái trong tư tưởng gộp đạo mà chính thái tử đã sáng tạo ra. Thái tử một mặt cống hiến tố đa cho việc phổ cập Ðạo Phật từ ngoài truyền vào, mặt khác đã có sự nghiệp to lớn là tạo ra cội nguồn của nền văn hóa Nhật Bản. Ngày nay, cái phong cách "gạn lọc lấy chỗ hay," tức là phương pháp áp dụng văn hóa một cách chọn lọc, chính là ảnh hưởng lớn nhất mà người Nhật tiếp nhận được từ thái tử vậy.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  12. The Following 3 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), lynkloo (12-05-2012)

  13. #7
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Chú thích:

    [1] Kodan là một nghệ thuật kể truyện truyền thống của Nhật Bản.

    [2] Một nước trong Liên bang Nam Tư.

    [3] Gishi Wajinden. Chí là sách chép lịch sử, Ngụy là nước Ngụy, Oải nhân là người Nhật. Vậy Ngụy Chí Oải Nhân Truyện là Truyện Người Nhật trong sách Ngụy Chí.

    [4] Tức Tào Phi.

    [5] Không liên can gì tới thời Tam quốc bên Trung Hoa.

    [6] Thời Meiji, tức là thời Duy tân Minh Trị, hay thời Canh tân Minh Trị, là nói từ khi Nhật hoàng đổi niên hiệu từ Khánh ứng (Keio) thành Minh Trị (Meiji, từ 8/9/1968 tới 30/7/1912), sau khi được chúa Tokugawa trả lại quyền chính trị năm 1967, bắt đầu cho thời kỳ canh tân biến nước Nhật thành một quốc gia công nghiệp hiện đại.

    [7] Omuraji, tương đương với hàng đại nguyên soái.

    [8] Vua Nhật, tức Thiên Hoàng, vốn được coi là con cháu Thái Dương Thần Nữ (xem lời chú tiếp), không những chỉ là vị nguyên thủ của Nhật Bản về mặt chính trị, mà đồng thời còn là Giáo chủ của Thần đạo Nhật Bản nữa. Giáo chủ Thần đạo mà tới chùa làm lễ Phật giáo là chuyện khó vậy.

    [9] Amaterasu Omikami, quen gọi ở Việt Nam là Thái Dương Thần Nữ.

    [10] Dịch tính cách mạng (cách mạng đổi họ) hay Dịch thế cách mạng (cách mạng đổi đời).

    [11] Ozaka, nay là thành phố Osaka.

    [12] Ðền Ise là đền chính của Thần đạo, mỗi 21 năm lại đổi đền một lần gọi là "thiên cung," bằng cách khi đền mới xây xong thì các thần tượng, thánh thể được di sang đền mới này, và đền cũ bị phá đi để xây lại trong 20 năm rồi năm thứ 21 lại thành đền mới.

    [13] Bon Odori, đây là hình thức múa dân gian vào dịp lễ Vu Lan, rằm tháng bảy.

    [14] "economic animal", do một cố tổng thống Philippines gọi Nhật Bản, có ý chê người Nhật chỉ miệt mài làm kinh tế để làm giàu.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  14. The Following 4 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), lynkloo (12-05-2012), snow_ice (22-08-2009)

  15. #8
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Hikaru Genji
    Người mẫu chính khách thanh nhã


    Hikaru Genji có thật không?

    Không cần nói, ai cũng biết Hikaru Genji là nhân vật tưởng tượng, vai chính của Truyện Genji (Genji Monogatari)[1].

    Tại sao một nhân vật tưởng tượng lại có thể là một người đã lập ra nước Nhật được? Người như vậy có ảnh hưởng gì tới thời nay? Hẳn có nhiều độc giả cảm thấy lạ lùng, ngờ vực, cho nên chúng tôi xin trình bày điểm này trước hết.

    Thời Taisho[2] và Showa[3] có một sử gia tên tuổi, là tiến sĩ Tsuda Soukichi, nổi tiếng với lối nghiên cứu thực chứng. Triệt để gạt bỏ những tình cảm lãng mạn, ông đã thẳng thắn tuyên bố trong tác phẩm của ông rằng những gì viết trong Kojiki (Cổ Sự Ký) và Nihon Shoki (Nhật Bản Thư Kỷ) đều không là sự thật, mà chỉ là huyền thoại. Nói cách khác, trong tác phẩm của ông nhan đề "Nghiên cứu lịch sử đời thần thánh," ông đã chỉ trích thuyết "thiên tôn giáng lâm[4]" bằng cách nói rằng hai sách Ký Kỷ vừa kể, chẳng qua đã được soạn ra căn cứ vào những tư liệu cổ, "Ðế Kỷ" và "Cựu Từ," tức là những tư liệu ghi chép lại những truyện cổ lưu truyền trong cung đình nhằm chính đáng hóa chế độ "thiên hoàng," mà thôi.

    Ðến thập kỷ Showa thứ X (1926-1935), ông bị nhóm tôn thờ chủ nghĩa "Nhật Bản quốc túy" phê bình là ông đã "phạm thượng," đã xâm phạm tới sự "tôn nghiêm của hoàng tộc." Họ nói "Tsuda viết nhảm, dám nghi ngờ sự hình thành của hoàng tộc." Họ đã thưa kiện ông về tội vi phạm luật xuất bản.

    Rút cục, vì lý do "thời hiệu" nên ông đã được "miễn tố," song trước tòa án, ông đã có lời biện minh tuyệt diệu như sau: "Truyện thần thoại Nhật Bản không phải là đã kể lại những sự thật lịch sử, nhưng đáng được lưu ý về cấu trúc tư tưởng!"

    Nói cách khác, "Mọi người tin là như vậy cho nên về mặt tư tưởng, đó là một cấu trúc không phủ nhận được. Bản thân ông cũng không phủ nhận. Tuy nhiên, đó không phải là những sự thật đã diễn ra trong lịch sử. Chẳng hạn, trên trời làm gì có đất đai, vì thế làm gì có người từ trên trời rơi xuống! Do đó, đây chỉ là truyện thần thoại, và có là thần thoại thì những lời thuật của Cổ Sự Ký mới đứng vững được."

    Ở vào thời đó thì việc làm của ông như vậy là chuyện không thể tránh được, song đó là một cách nói chạy, nói lẩn tránh khá gò bó. Ðể lấy một thí dụ điển hình chứng tỏ rằng một cấu trúc trong tư tưởng tuy không phải là một sự thật lịch sử, vẫn có thể tồn tại được, tiến sĩ Tsuda đã viện dẫn vai Hikaru Genji.

    Nghĩa là, Hikaru Genji là nhân vật tưởng tượng được bịa ra trong Truyện Genji, cho nên Truyện Genji không phải là sự thực lịch sử. Thế nhưng, một chính khách quý tộc "hao hao" như vậy đã có tồn tại ở thời Heian, thì rõ ràng lại là một sự thực.

    Trên thực tế, ngày nay không còn thấy có "nhân vật" nào đủ truyền lại được cái mẫu người quý tộc hoặc chính trị gia quý tộc thời Heian như Hikaru Genji nữa.

    Với ý nghĩa trên, thì Hikaru Genji là một nhân vật tưởng tượng và sự tồn tại của một nhân vật như vậy không phải là một sự kiện lịch sử. Song có thể nói rằng cái cấu trúc lịch sử có ảnh hưởng tới người Nhật như vậy, thì đã thực sự tồn tại. Ðây là lời thuyết minh của tiến sĩ Tsuda.

    Ðúng như vậy, khi chúng ta hình dung con người quý tộc thời Heian, tưởng tượng lối sinh hoạt hay thế giới tinh thần của họ, thì Truyện Genji là đại biểu dễ hiểu nhất. Vì thế, nó đã có ảnh hưởng lớn tới lối suy tư hay tiêu chuẩn giá trị của người Nhật ngày nay.

    Bởi thế, nhân vật tưởng tượng do Murasaki Shikibu sáng tạo ra, đã được chọn làm một trong số "Mười hai người lập ra nước Nhật" vậy.

    Ðại biểu cho lớp người quý tộc thời đại Heian

    Vậy nhân vật chính Hikaru Genji mô tả trong Truyện Genji quá quen biết này, là con người có lai lịch ra sao? So với sự kiện tên Hikaru Genji đã trở nên rất quen thuộc, thì lai lịch, sự tích của người ấy lại ít được biết tới.

    Người ta cho rằng Hikaru Genji đã sống vào thời đại cũ hơn thời đại tác giả Murasaki Shikibu chừng vài chục năm. Nói kiểu ngày nay, sự kiện này tựa hồ như việc một tác giả thời hậu chiến viết lại cảnh tượng diễn ra ở thời kỳ đầu của đời vua Showa (niên hiệu Showa: 1925-1989) vậy. Có khác chăng là thời ấy không có sự tăng trưởng kinh tế cao độ, không có những biến đổi kỹ thuật, nên dạng thức sinh hoạt không thay đổi mấy. Nói về niên hiệu thì đó là lúc niên hiệu Engi (đọc là ên-ghi, 901-923) đổi sang niên hiệu Tenryaku (947-957), nghĩa là khoảng từ năm 901 tới năm 957. Truyện Genji lấy thời đại đó làm sân khấu, đã có vài nhân vật tưởng tượng chủ yếu như sau xuất hiện.

    Trước hết là vua Kiritsubo. Người con trai thứ hai được nưng như trứng hứng như hoa của nhà vua, chính là hoàng tử Hikaru. Thân mẫu của cậu tuy là cung nữ của vua Kiritsubo, song vốn xuất thân hèn hạ, nên cậu bị giáng xuống hàng thần hạ mang họ Genji. Rồi vì đẹp trai, cậu được gọi là Hikaru Genji[5]. Cậu yêu hết cô gái nọ tới cô gái kia, rồi sau cùng rơi vào mối tình đau khổ với một người đàn bà giống địa vị mẹ cậu là cung nữ Fujitsubo. Mà Fujitsubo lại là ái phi của vua cha. Cuộc tình ngang trái đã sinh ra một hoàng tử "hoang." Người con hoang này lại được nuôi làm con vua Kiritsubo rồi sau này lên ngôi thành vua Reizei.

    Về sau, người anh khác mẹ của Genji lên ngôi, tức là vua Suzaku, thì sau khi vua Kiritsubo mất đi, Genji bị ngược đãi và bị lưu đầy hai năm ở vùng Suma, Akashi. Ðây là "đoạn Suma - Akashi" mô tả hoàng tử trong cảnh bất hạnh.

    Thế rồi vua Suzaku và mẫu hậu, tức là bà thái hậu Hoằng Huy Ðiện[6] lâm bệnh, nên thế lực yếu đi và nhờ đó, Genji mới về kinh được và lại nắm được quyền hành ở trung ương.

    Sau đó, ở địa vị người săn sóc ấu chúa Reizei, Genji đã lần lượt thăng chức tới Naidaijin[7], rồi Dajodaijin[8]. Ngày một có thêm vây cánh, Genji mới xây dinh thự riêng cho mình đặt tên là Rokujo-in. Rồi Genji cho người mình sủng ái nhất tức là Murasaki no Ue, cùng những người đàn bà khác đã có quan hệ với mình, ở đó. Ðịa vị của Genji lên tới bậc tương tự như thái thượng hoàng. Ðến đây là hết phần Một của truyện.

    Trong phần Hai, Hikaru Genji ở tuổi sơ lão đã tái hôn với công chúa thứ ba, con gái cưng nhất của Suzakuin[9], rồi dần dần về già. Ở đoạn này, Genji trở thành một nhà chính trị có quyền lực lớn.

    Trong phần Ba thì con trai của Genji là công tử Kaoru xuất hiện, song ở đây chỉ có Hikaru Genji được chọn, coi đó là người mẫu của lớp nhà chính trị quý tộc thời đại Heian.

    Vậy thì, lớp người quý phái thời đại Heian kể từ niên hiệu Engi tới niên hiệu Tenryaku sinh hoạt trong trạng thái như thế nào.

    Trước thời này là thời Nara, thời đại mà các hào trưởng lấy hoàng tộc làm trọng tâm cho cuộc tranh giành quyền lực với nhau trong quá trình thành lập của chế độ tập quyền trung ương.

    Nhưng sang tới thời Heian, thì nhà vua được đôn lên trên "mây" và ở dưới thì dòng họ Fujiwara trở thành trung tâm quyền lực của cái gọi là thời đại quý tộc. Giới quý tộc này có trang ấp, đồn điền, nông trại ở khắp nước. Quyền quản lý các trang ấp như vậy được trao cho đám quản gia mà sau này trở thành võ sĩ[10]. Các địa chủ không sống ở trang ấp mà chỉ ngồi mát thâu hoa lợi hàng năm.

    Ðám quản gia này được các quý tộc ủy thác cho quyền hành, đã dùng bạo lực bóc lột chiếm đoạt quá nửa hoa lợi, coi đó là phí tổn quản lý.

    Quý tộc và quản gia như vậy là có quan hệ nương tựa lẫn nhau. Sự kiện này tương tự như quan hệ ngày nay giữa những bà quả phụ thừa hưởng tài sản chứng khoán lớn với đám người kinh doanh đắc lực vậy.

    Nói như vậy không phải là giới quý tộc thời Heian chỉ ngồi chơi xơi nước. Ngược lại, tuy ở kinh đô, họ có nhiệm vụ "chính trị" trọng yếu là đảm đương việc quốc chính, dẹp loạn. Vấn đề là nội dung công tác "chính trị" đó của họ.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  16. The Following 3 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), lynkloo (12-05-2012)

  17. #9
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Việc làm của một chính khách quý tộc

    Thời đó, Nhật Bản có tổ chức triều đình rập khuôn theo kiểu nhà Ðường bên Trung Hoa nên có thể chế luật lệnh đàng hoàng. Ở dưới chức Dajodaijin thì có Sadaijin[11], Udaijin[12], Dainagon[13], Shonagon[14], v.v.. Những quan chức lớn này thì chỉ có dòng dõi nhà vua, hoặc con cháu bốn họ Gen Pei Tô Kitsu[15], đảm đương mà thôi.

    Vậy thì, nền chính trị do những người này nắm giữ là như thế nào? Từ tướng quốc trở xuống, các nhà chính trị quý tộc này làm gì? Những điều này được thấy rất rõ ở nhân vật Hikaru Genji.

    Như đã kể ở trên, Hikaru là con vua, và nhờ đẹp trai nên chàng đã yêu hết người này tới người khác. Trong khi đó, địa vị của chàng cũng tăng dần lên. Song lúc vua cha mất đi thì chàng bị lôi cuốn vào cuộc tranh giành quyền lực giữa các nhà quý tộc, rồi bị lưu đày ra xứ Suma, xứ Akashi.

    Ở trong tình huống này, ai chẳng chán ngán cho cái không may của mình và oán hận những kẻ địch chính trị của mình? Hoặc, để trở lại chính trường, ai chẳng sẽ triển khai cuộc vận động chính trị, trình bầy đường lối chính trị của mình và kết nạp đồng chí? Nhưng Hikaru hầu như chẳng làm gì cả! Trong cả tập truyện dài như vậy, người ta không hề thấy gì viết về chính kiến của Hikaru, về chính sách mà Hikaru muốn thực hiện, mặc dầu Hikaru đã làm quan đại thần lâu năm và đã leo lên tới địa vị tướng quốc.

    Ngay cả sự kiện Hikaru được gọi từ vùng lưu đày Suma - Akashi về kinh rồi lại làm quan to nữa, cũng chẳng phải là kết quả của một cuộc vận động chính trị nào cả, mà chỉ do một sự thay đổi bè phái ở kinh đô mà thôi.

    Tuy nhiên, "đoạn Suma - Akashi" kể lại cuộc sống trong thời kỳ bị lưu đầy, thì lại có rất nhiều điểm đáng tham khảo. Một điểm là ngay trong trạng huống bất hạnh như vậy mà Hikaru vẫn không hề bị trụy lạc, không hề làm phản!

    Xa kinh đô, buồn về đời sống nhà quê tẻ nhạt, Hikaru đã than khóc nỗi niềm nhớ kinh đô và cảnh ngộ phải kéo dài cuộc sinh hoạt chán nản này, nhưng không hề có ý định làm phản, cũng không hề oán hận gì cả. Quý tộc thời đó sống biệt lập với những thành phần khác, và chỉ đắm chìm trong thế giới của ý thức thiện mỹ để khắc phục cái bất mãn của mình. Ðây mới chính là lối sống quý tộc thời đó, mới là nguyên gốc của cái "thanh nhã Nhật Bản" cho tới ngày nay.

    Hikaru sau hai năm lưu đày ở vùng Suma - Akashi trở về kinh thì lại càng nắm được địa vị trọng yếu hơn trước. Ðến nỗi, chàng đã leo lên tới bậc tướng quốc, tức là tương đương với chức thủ tướng ngày nay. Hơn thế nữa, là tướng quốc, chàng còn làm Chuẩn Thái thượng hoàng kia.

    Là một nhà chính trị ở địa vị cao sang như vậy mà đọc suốt "Truyện Genji" ta không thấy Hikaru làm gì "có vẻ chính trị" cả. Trong cả tập truyện dài của Murasaki Shikibu người ta không thấy nói gì tới vấn đề ngoại giao, quốc phòng hay trị an nào cả. Cũng chẳng thấy có cục diện nào thảo luận về vấn đề tài chính hay chế độ thuế khóa. Thế mà, người đọc vẫn không lấy thế làm lạ lùng, kỳ cục. Ngược lại, người ta gật đầu nhìn nhận rằng, với quý tộc thời Heian thì có khi như vậy là phải.

    Nhật Bản ở thời kỳ này về mặt "công," thì đường lối "bế môn tỏa cảng" được áp dụng, sau khi bỏ lệ gửi sứ sang nhà Ðường, do đề nghị của Sugawara Michizane.

    Kể từ khi Thái tử Shotoku bắt đầu gửi sứ sang nhà Tùy, rồi khi nhà Ðường thay thế nhà Tùy, thì thông lệ gửi sứ sang Trung Hoa đã kéo dài trong suốt thời đại Nara cho tới đầu thời đại Heian. Song từ năm 857, nhà Ðường có nội loạn và không thấy có tiến bộ nữa về mặt kỹ thuật cũng như văn hóa trước con mắt người Nhật thời đó, nên việc gửi sứ sang đó đã bị gián đoạn lâu năm. Cho tới năm 894, Sugawara Michizane mới đề nghị rằng "dẫu có sang nhà Ðường, thì cũng chẳng mang được gì về đáng cho ta học hỏi," nên lệ gửi sứ sang Trung Hoa đã bị bãi bỏ hẳn.

    Trên thực tế, từ loạn Vương Tiên Chi - Hoàng Sào năm 875 trở đi, thì Ðường triều bị suy thoái dần và rơi vào tình trạng nội loạn liên miên, khiến mất cả năng lực thống suất. Cho nên dẫu cho có tới kinh đô Trường An đi chăng nữa thì cũng chẳng mang về được văn vật nào đáng kể cả! Ít nhất đây cũng là cái nhìn của người Nhật thời đó. Thực ra, thời kỳ gọi là "Ðường mạt ngũ đại" này mới chính là lúc sắp thoát thai của đời Tống, thời kỳ "cận hiện đại" với những kỹ thuật mới như "than đá," "kim nam châm," "thuốc nổ," v.v.. Thế mà người Nhật quý tộc thời Heian đã hoàn toàn không quan tâm tới những kỹ thuật công nghiệp như vậy.

    Ở trong nội bộ nước Nhật thì thời đại đó chẳng phải là thời đại thong dong gì cả. Quyền thế và võ lực của giới quý tộc Heian đã yếu đi, khiến miền đông thì có loạn Taira no Masakado (935-940), miền tây có loạn Fujiwara Sumitomo (938-941). Hikaru Genji đã lên làm tướng quốc trước đó, song vẫn sống bình thản chứ không thấy lo lắng gì về vấn đề trị an hoặc tài chính cả.

    Ấy thế mà, cả người đọc cũng như người bình luận "Truyện Genji" đều hiếm có ai phê bình Hikaru là nhà chính trị vô vi vô tài. Ngược lại, sự kiện những vấn đề hiện thực như trị an hay tài chính thì không phải do giới quý tộc trực tiếp nắm giữ, mà đã được giao phó cho các quản gia ở trang ấp, tức là những người sau này trở thành giai cấp võ sĩ samurai, là điều coi là đương nhiên vậy.

    Ðiểm gốc của khái niệm "thanh nhã"

    Vậy thì, công việc của người quý tộc thời đó trong chính phủ trung ương do họ chi phối, là gì? Công việc lớn nhất của họ là tiêu dùng tiền thuế do những người quản lý nông trại đã trưng thu, vào những phí tổn ở kinh đô cho việc cử hành những nghi thức Phật giáo hay Thần đạo nhằm truyền bá cái phong thái, cái dạng thức của nhà nước ra toàn quốc, với mục đích giữ được cái phong cách Nhật Bản, duy trì được sự thống nhất nhân tâm và văn hóa trong toàn quốc. Vấn đề trị an hay duy trì sản vật và ngành nghề của địa phương nào thì ủy thác cho quyền tự trị của địa phương ấy.

    Thời Nara, họ cho mở nhiều đường quốc lộ, cho dựng chùa Quốc Phân Tự[16] ở mỗi địa phương để hoàn thành chế độ tập quyền trung ương. Ðến thời Heian thì quyền hành trung ương bị yếu dần đi, làm cho nền tự trị địa phương biến thành nền "phân lập" (độc lập) địa phương.

    Chẳng hạn, ngày nay khi người ta làm một đường cao tốc và nếu người ta quy hoạch một cách hợp lý thì hầu như con đường đó luôn luôn trùng với quốc lộ ngày xưa. Nói cách khác, thời xưa người ta đã lập ra một quốc gia cổ đại với những con đường đáng được gọi là "đường viên đạn" chạy từ kinh đô Nara ra khắp nơi trong nước.

    Nhưng đến thời Heian thì những con đường này mất khí thế, rất hiếm người đi lại nữa vì sự di chuyển trên những con đường này trở nên mất thời gian và nguy hiểm. Nói cách khác, Nhật Bản dần dần bước sang thời trung cổ.

    Do đó, quyền hạn và quyền lực của chính phủ trung ương bị giảm đi, "giá trị" của chính phủ cũng không lấy gì làm "đắt" cho lắm nữa. Mỗi địa phương đều được phân quyền và lập ra một chính phủ nhỏ bé của mình. Việc làm của các chính trị gia quý tộc chủ yếu là duy trì những nghi thức tôn giáo có tính cách quốc gia để làm mô phạm cho ý thức thiện mỹ của toàn quốc. Có thể nói một cách cực đoan rằng nước Nhật thời đó đã được bảo tồn nhờ một ý thức thiện mỹ chung vậy. Chính ở thời kỳ như vậy mà Hikaru Genji, ở địa vị một chính trị gia, đã làm một "cấu trúc trên mặt tư tưởng."

    Chính phủ trung ương thời đại Heian là một "chính phủ nhỏ," song việc thu thuế để duy trì một chính phủ nhỏ như vậy cũng không dễ dàng gì. Truyện Genji có những đoạn mô tả cảnh biệt thự hoang tàn của những bậc công khanh nghèo nàn hoặc những nhân vật quý tộc đã suy đồi. Hikaru Genji làm tướng quốc mà không thấy nghiêm chỉnh thảo luận vấn đề cứu tế những nhà quý tộc suy đồi đó. Ngược lại, thái độ của ông là xa lánh, hoặc dẫu có nhìn thấy cũng làm ngơ trước những nhân vật quý tộc đáng thương đó. Ðương nhiên là với thứ dân, ông cũng làm như vậy. Cá nhân ông thì có coi những cảnh tượng đó là tội nghiệp thật, song với tư cách chính trị gia, ông đã không hề nghĩ đến một chính sách phúc lợi nào cho họ.

    Tướng quốc Hikaru Genji đã chỉ miệt mài vào thế giới của ý thức đẹp, ý thức thẩm mỹ. Thơ ca hoặc trang phục, cử chỉ hoặc sự xếp đặt chỗ ngồi trên dưới trong nghi lễ, thì thấy thảo luận rất nhiều. Rồi yêu đương và tranh giành trong quan hệ với nữ giới cũng thế. Thật ra, nếu nghĩ rằng chính trị chẳng qua là vấn đề bè phái, vấn đề máu mủ ruột thịt, thì yêu đương nhau cũng là vấn đề chính trị trọng yếu chăng.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  18. The Following 3 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), lynkloo (12-05-2012)

  19. #10
    ~ Mều V.I.P ~
    Kasumi's Avatar


    Thành Viên Thứ: 61
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 12,056
    Thanks
    3,030
    Thanked 21,120 Times in 5,744 Posts
    Ngày nay, nếu các nhà chính trị không màng gì đến ngoại giao, tài chính, mà chỉ miệt mài với thẩm mỹ, thì sẽ ra sao? Không chừng, bọn quan liêu (công chức), tức là những người tương đương với đám quản gia thời Heian xưa, lại làm cho mọi việc chạy trơn chu hơn cũng nên. Trước đây đã có một thủ tướng Nhật Bản chỉ bận tâm tới cách quàng khăn cổ trong buổi hội kiến với tổng thống Mỹ. Biết đâu ông thủ tướng ấy chẳng là "hậu duệ" của các nhà quý tộc thời Heian? Và nếu nghĩ như vậy, người ta có thể sẽ gật đầu nghĩ thầm: "chí lý!"

    Có điều lạ lùng là riêng với nhân vật Hikaru Genji này, thì dù chẳng làm chính trị gì cả, mà không thấy có gì đáng ghét, không bị nghĩ là ngu. Gần đây, từ lập trường nhân quyền của phái nữ, hình như có nhiều người cảm thấy ghê tởm Truyện Hikaru Genji bởi vì có quá nhiều phụ nữ xuất hiện trong truyện. Song ngay với những người như vậy, thì vai chính trị gia Hikaru Genji cũng không đến nỗi bị người ta ghét bỏ. Ðây âu cũng là bởi chàng vốn có "đức" chăng?

    Truyện kể Hikaru Genji làm nhân vật điển hình của lớp người quý tộc Heian và được mọi người Nhật biết cho đến ngày nay. Nếu trong lịch sử không có Hikaru Genji, nghĩa là nếu bà Murasaki Shikibu không viết ra Truyện Genji, thì ngày nay chúng ta làm sao biết được chi tiết như vậy về địa vị, về lối sống của lớp người quý tộc Heian.

    Thế rồi cái đó đã trở thành hình ảnh của giới quý tộc, hay hơn thế nữa, thành điểm gốc của khái niệm "thanh nhã" của Nhật Bản. Người Nhật thì ngay ngày nay cũng vậy, vẫn chấp nhận những người như Hikaru Genji, dù chỉ là chấp nhận với điều kiện nào đó. Sự kiện Hikaru Genji vẫn có ảnh hưởng lớn tới cách sống hoặc cách đánh giá trong xã hội của người Nhật ngày nay, đủ chứng tỏ Hikaru Genji đáng được đếm là một trong số "Mười hai người lập ra nước Nhật" vậy.


    Sự xuất hiện của chính trị gia kiểu "Hikaru Genji"

    Ảnh hưởng của "chính trị gia chằng làm gì cả" kiểu Hikaru Genji, đã hiện ra ở đâu và như thế nào trong nước Nhật ngày nay?

    Trước nhất là sự phát sinh ra mô hình "chính khách quý tộc kiểu Nhật Bản," hay là loại "người thanh lịch."

    Ðúng vậy, ở nước Nhật này, thỉnh thoảng người ta lại thấy xuất hiện những chính trị gia kiểu Hikaru Genji. Nghĩa là loại chính trị gia trông tốt mã, tốt người, song chẳng làm gì đáng gọi là làm chính trị, thậm chí chẳng muốn làm gì, chẳng quan tâm gì, chẳng hiểu gì về thực chất của việc chính trị, tài chính phải làm cả.

    Ðiển hình là Konoe Fumimaro, người đã lập nội các năm 1937.

    Konoe Fumimaro cao 1m 80, ở thời đó như vậy là cao vượt bực, với vóc người hết sức bảnh bao. Ông để râu mép, mặt mũi thanh tú. Hơn tất cả nữa, ông lại là con dòng chính thống của họ Fujiwara, đồng thời lại là công tước. Thật quả là một chính khách quý tộc chính hiệu.

    Lúc đó Nhật Bản đang ở vào thời kỳ vô cùng khó khăn: Từ vụ Mãn Châu qua diễn biến 26 tháng 2[17], Nhật Bản đang bị cô lập hóa trên trường quốc tế và tình hình quốc nội thì rối beng. Ðúng lúc đó thì từ mọi giới nổi lên như cồn lời kỳ vọng: "Ngoài Konoe ra, chắc không còn ai có thể trị nổi nước Nhật hiện nay!" Ðúng là người ta đang muốn tìm ở Konoe hình bóng một Hikaru Genji vậy.

    Nhiều chính sách được đề ra, nào phong trào Thể chế mới, nào luật Tổng động viên toàn dân, v.v.. Tất cả đều chỉ là những khẩu hiệu, những phiêu ngữ rộng tuếch, không ra ngoài phạm vi ý thức về vẻ đẹp. Dưới quyền một thủ tướng vô vi vô tài như vậy, nền chính trị thực tế là do quân nhân và quan liêu (công chức) thực thi. Thật đúng là phó mặc cho quản gia. Ấy thế mà dân chúng chẳng ai phê phán, chẳng ai chê bai gì cả, đến nỗi Konoe được làm thủ tướng đến ba lần.

    Tiếng tăm của Konoe không hề bị suy giảm mặc dầu ông không hề thực sự làm chính trị, chỉ lạm phát khẩu hiệu và làm điệu bộ thôi. Nội các Konoe thứ nhất đã làm cho chiến tranh Nhật-Hoa sa vào bùn lầy, rồi ông buông bỏ chính quyền mà cũng chẳng bị ai chỉ trích gì cả. Ðến năm 1940, ông lại đứng ra lập nội các thứ hai. Với chiêu bài thúc đẩy phong trào Thể chế mới, ông đã lập ra Hội Ðại chính Dực tán, theo đó mọi chính đảng đều giải tán, và tất cả nghị viên đều vui lòng đặt mình dướI quyền chỉ huy của chính trị gia vô vi vô tài Konoe này!

    Vì Konoe không có tài chỉ huy, nên thực tế vấn đề chính trị đã phó mặc cho quân nhân Bộ Lục quân, quan chức Bộ Nội vụ và Bộ Kho bạc thao túng. Kết quả là Nhật Bản đã bị lôi cuốn vào trận chiến tranh Thái Bình Dương.

    Thực ra, tội của Konoe đối với việc đưa Nhật Bản mạo hiểm vào trận chiến tranh thế giới trước, là vô cùng nặng.

    Thứ nhất, trong đợt nội các thứ nhất (lập ra năm 1937), Nhật Bản đã khởi đầu cuộc chiến tranh Nhật-Hoa. Hơn thế nữa, năm 1938, nội các này đã tuyên bố: "Không thèm bắt tay với Tưởng Giới Thạch," khiến làm mất cơ hội đình chiến. Dĩ nhiên, đây là vì Bộ Nội vụ, tức là nhà đương cục công an lúc đó, chứ không phải quân đội, đã phản đối với lý do rằng "Nếu thỏa hiệp với Tưởng Giới Thạch thì không thể kiềm chế được bạo động của những nhóm hữu khuynh," song Konoe làm thủ tướng đã không thuyết phục nổi đám quan liêu Bộ Nội vụ, cũng không cất chức họ đi.

    Trong thời kỳ nội các Konoe thứ hai, thì Nhật Bản đã kết bè với Ðức, Italia thành phe trục Nhật - Ðức - Italia. Thế rồi năm 1941, tức là thời nội các Konoe thứ ba, thì một mặt Nhật Bản tuyên bố "Phản đối việc khai chiến Nhật-Mỹ," nhưng mặt khác mỗi ngày lại có những hành vi gây hấn như chiếm đóng Ðông Dương thuộc Pháp chẳng hạn. Thế rồi đến lúc không còn làm gì khác hơn được là phải nhảy vào vòng chiến, tức là tháng 10 năm 1941, thì nội các Konoe tổng từ chức, nhường bước cho nội các của Ðại tướng lục quân Tojo Hideki.

    Ai cũng biết rằng chính nội các Tojo đã bắt đầu cuộc chiến tranh. Lại nữa, ai ai cũng biết rằng Tojo Hideki, Bộ trưởng Lục quân trong nội các Konoe thứ ba, chính là phe chủ chiến. Thế nhưng, làm cho quan hệ với Mỹ bị hỏng một cách tuyệt vọng khiến không còn con đường nào khác hơn là chiến tranh, chính là trách nhiệm của nội các của Konoe Fumimaro vậy.

    Mặc dầu có trách nhiệm là đã gây nên sự kiện lớn lao như vậy, song sự ngưỡng mộ của dân chúng Nhật đối với Konoe vẫn không hề suy giảm. Năm 1945, Konoe tâu vua Nhật cho mình sang Liên-Xô cầu hòa, làm như chính mình không hề có trách nhiệm gì về cuộc chiến tranh cả. Ðây chính là thái độ thường có của các chính trị gia quý tộc Nhật Bản như được đại biểu bởi Hikaru Genji vậy.

    Thời nay cũng thế, ở Nhật Bản người ta vẫn quan niệm rằng, người đứng trên chóp bu thì không nên để tâm đến những tiểu tiết, nên có thái độ phó mặc cho bề dưới muốn làm sao cho tốt thì làm. Ðây chính là hiện tượng đã khởi nguồn từ từng lớp quý tộc thời Heian, được Hikaru Genji đại diện vậy.


    Tính cách vô lãnh đạo của "Chủ nghĩa tập thể"

    Cùng thời với Konoe, người ta thấy có các nhà lãnh đạo ngoại quốc như Hitler, Churchill, Stalin, người nào cũng quan niệm trách nhiệm và quyền hạn của mình một cách rất tỉ mỉ.

    Tổng thống Mỹ Roosevelt cũng vậy, khi bắt đầu vào cuộc chiến, ông đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia để biết cần bao nhiêu chiến hạm, cần chế tạo loại xe tăng nào, v.v., và chính ông tự mình quyết định. Churchill cũng vậy, Mao Trạch Ðông cũng vậy.

    Thời Ðại chiến thứ nhất, thủ tướng Anh Lloyd George, thủ tướng kiêm bộ trưởng Lục quân Pháp George Clémenceau nổi tiếng độc tài, đã chính mình đứng ra chỉ huy chiến trận. Hơn thế nữa, Lloyd George còn bất chấp sự phản đối của hải quân thời đó, đã cho thành lập đoàn tầu có hộ tống. Kết quả là phương án này đã thành công lớn lao, đã ém được sự tấn công bằng tàu ngầm của Ðức. Chịu nghe ý kiến của các chuyên gia, song chính mình hạ quyết định cuối cùng. Ðó là thái độ của các chính khách ngoại quốc.

    Dù là chủ nghĩa quân phiệt, hay là chủ nghĩa dân chủ, thì người đứng ở chóp bu cũng phải nhận trách nhiệm ra quyết định. Ðó là bổn phận của kẻ lĩnh lương cao nhất vậy.

    Nếu là một tập thể nhỏ của một xí nghiệp, thì điều này càng thấy quyết liệt hơn. Xí nghiệp ở Mỹ hay ở châu Âu thì nguyên tắc là kinh doanh độc tài bởi một cá nhân. Mọi việc đều phó mặc cho người có trách nhiệm kinh doanh tối cao. Kinh doanh có kết quả tốt, thì tổng giám đốc, mặc dầu cũng chỉ là người lĩnh lương, sẽ nhận được thù lao to lớn. Song, ngược lại, nếu kinh doanh không suôn sẻ, thì tức khắc bị giải nhiệm. Nói cách khác, chính mình nhận tất cả trách nhiệm mà hạ quyết định. Ðó là bổn phận của kẻ ngồi trên chóp bu vậy.
    Chữ ký của Kasumi
    JaPaNest _______

  20. The Following 6 Users Say Thank You to Kasumi For This Useful Post:

    capella211 (13-05-2012), darkness90 (19-09-2009), dinhlata93 (14-05-2012), lynkloo (12-05-2012), NulluN (02-03-2011), snow_ice (22-08-2009)

Trang 1/8 1 2 3 4 5 ... cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •